Thứ Tư, 1 tháng 5, 2019

Cầm thư quán

Cầm thư quán
Tổng quan nội dung:
“Cầm thư quán” là một cuốn tiểu thuyết cổ trang có màu sắc tượng trưng, man mác buồn, đặt ra nhiều vấn đề mang tính triết học như sự tự do và cái đẹp. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống ung dung nhàn hạ của hai chị em Ngọc Cầm và Ngọc Thư bên hồ Dâm Đàm (Tức hồ Tây, Hà Nội). Họ sống giữa thời đại của Lê Thánh Tôn, là thời đại được cho rằng thịnh trị bậc nhất trong lịch sử, thời đại đỉnh cao của các Nho sinh. Thế nhưng, họ lại có cái nhìn khinh bạc đối với các Nho sinh này, cười nhạo những vị đại thần vào luồn ra cúi, không chấp nhận trói mình trong các phận vị thông thường của người phụ nữ. Họ mong muốn tìm kiếm tự do đích thực và tìm được cái đẹp tuyệt đối, còn lại tất cả vinh hoa phú quý đều chỉ là phù phiếm. Vua Lê Thánh Tôn đeo đuổi cô em gái Ngọc Cầm. Ngọc Cầm chấp thuận sự đeo đuổi bởi nàng thương cảm với ông vua cô độc, nhưng Lê Thánh Tôn vẫn không sở hữu được nàng. Cuối cùng, Ngọc Cầm và Ngọc Thư vẫn cứ tiếp tục vươn đến sự tuyệt đích.
Cuốn tiểu thuyết đã bị tịch thu ngay sau khi phát hành 1 tháng. Sau đó, cuốn sách không còn trên thị trường mà được nhiều trang mạng chia sẻ. “Cầm thư quán” là một cuốn sách vừa dễ đọc lại vừa khó đọc. Người đọc có thể tiếp cận cuốn sách như một tiểu thuyết tình cảm, lại vừa có thể tiếp cận cuốn sách như một tiểu thuyết với các mã tượng trưng và ước lệ để hiểu hơn những ẩn ngữ đằng sau. Vượt trên hai khía cạnh ấy, cuốn sách có thể đưa bạn đọc đến với các chiêm nghiệm về những điều cao cả hơn đời sống bình thường.
Trích dẫn truyện:
“Ai đếm nổi bao cánh đào rơi buổi xuân tàn? Ai thấu hết thanh hương từ bầu rượu sen đang lênh láng trên mặt bàn… Gót hài kia đang đi về đâu thế? Đất trời rộng bao la làm vậy mà sao chẳng nơi nào có thể là nơi ta tung cánh tự do? Thế gian chua ngoa, độc ác đâu có chỗ cho những cánh hoa đào mỏng mảnh sống qua được mùa xuân…
– Tại sao ta còn cố đi tìm một bức tranh chân thiện, chân mỹ? Gót hài của nàng… gót hài của nàng… Không kẻ nào có thể chiếm đoạt, cưỡng bức…”
Chàng thư sinh gạt tay! Bầu rượu vỡ tan tành trên sàn gỗ. Những giọt rượu lăn dài qua kẽ hở giữa hai tấm ván, trườn nhẹ trong thinh không rồi chìm dần trong đáy nước xôn xao của Dâm Đàm. Mười đầu ngón tay như những bước chân của loài dã tràng trên cát chạy dài lên sợi tơ đàn bật ra dải âm thanh day dứt khôn nguôi. Cứ mỗi một phím tơ rung lên là một bông hoa đào rụng xuống trước hiên.
– Ta biết là ngươi sẽ xuất hiện! Ta biết… ta biết… 
Chàng giật mình nhìn về phía cánh cửa gỗ dẫn ra thuỷ đình. Thánh thượng đã lặng lẽ đứng đó từ khi nào.
– Ta biết vì ngươi mà nàng lánh xa ta… ta biết ngươi sẽ quay lại Cầm Thư quán để tìm nàng… Ta không biết ngươi là ai, nhưng mỗi lần nhìn thấy bức tranh kia, ruột ta như đứt đoạn… Ngươi còn về đây để làm gì?
Một phút im lặng kéo dài! Im lặng tới còn nghe thấy cả những bông hoa đào chạm vào nền gỗ ướt mưa. Bất chợt, chàng thư sinh ngửa cổ dốc ngược bầu rượu sen. Lần đầu tiên trong cuộc đời chàng thấy rượu đang thiêu đốt cổ họng tan thành tro bụi. Chàng cười lớn, cười thật lớn để thổi cao ngọn lửa đang bừng bừng.
– Ngươi đam mê nàng ư? Không! Ngươi chỉ muốn chiếm giữ cả thân xác, cả tâm hồn, cả khúc “Hải du” của nàng thôi… Kẻ làm vua… Kẻ làm vua bao giờ chẳng coi những điều chân thiện, chân mĩ như vàng bạc, châu báu trong kho… Ngươi hãy ra khỏi đây đi… Cầm Thư quán không phải chỗ cho kẻ dơ bẩn như ngươi. Hãy về với cung vàng điện ngọc của nhà ngươi, hãy ôm ánh hào quang của ngươi vào lăng mộ để muôn vàn bóng ma nhảy múa ngợi ca, đừng bắt nàng hay ta phải khuất phục trước ngươi…
Lại một khoảng im lặng. Có cơn gió luồn qua vai thánh thượng, khẽ lay bức tranh Ngọc Cầm, làm rung rung gót hài. Thánh thượng giật mình. Bước chân Ngọc Cầm mang theo cơ man nào là đào hoa đang đi xa dần ngài… ngài sẽ không bao giờ với tới. Bất giác, ngài thở dài… quay đi…”.
Những ngày trời lạnh lạnh này, thích nhất là được thảnh thơi nằm trong phòng, ung dung đọc sách. Mà sung sướng hơn nữa, thì chính là đọc được một cuốn sách khiến mình tâm đắc mãi không thôi. Với tôi, cuốn sách ấy chính là “Cầm Thư quán”.
“Cầm Thư quán” từng được Bách Việt xuất bản lần đầu vào năm 2008, nhưng sau đó bị thu hồi ngay mà chẳng thấy có một lý do rõ ràng nào cho vấn đề này. Đến nay, đã 10 năm kể từ ngày đầu tiên xuất hiện, tôi mới được cầm trên tay cuốn sách này.
Tôi không muốn nói quá chi tiết về nội dung của “Cầm Thư quán”, vì theo tôi, bất cứ ai đang trên con đường theo đuổi những điều tuyệt mỹ, hay đang băn khoăn tự hỏi thế nào là đạo, thế nào là đời, thế nào là ái tình, thế nào là đau khổ, thế nào là khát khao, thế nào là tuyệt vọng, thì đều nên đọc cuốn sách này, thay vì đọc những đoạn tóm tắt truyện hay đi hỏi ai đó về nội dung cuốn sách.
Bước chân vào thế giới của “Cầm Thư quán”, chính là người đọc bước chân vào thế giới “từ nhị nguyên tới nhất nguyên”: từ sự phân chia giữa cuộc sống nhàm chán, nhạt nhẽo của những con người đang bị trói buộc trong vòng luân lý với cuộc sống “thoát tục” tự do, phóng khoáng của số ít những người như Ngọc Cầm, Ngọc Thư; đến với “nhất nguyên” cuối cùng bùng cháy thành ngọn lửa - ngọn lửa của sự hủy diệt và tái sinh đẹp đẽ hơn.
Bước chân vào thế giới của “Cầm Thư quán”, người đọc cũng sẽ gặp những con người vừa lạ, vừa quen: Đó là một Lê Thánh Tông cao cao tại thượng mà vẫn si tâm nhất mực, đó là một nàng Ngọc Cầm khát khao vượt thoát lẽ thường, một nàng Ngọc Thư đau đáu về cuộc sống và giác ngộ. Những con người đó, lạ vì họ đang ở một không gian phân biệt hẳn với chúng ta, ở một thời đại thịnh thế đã xa xôi lắm rồi; nhưng lại rất quen, vì ham muốn của họ cũng hiện hữu trong mỗi chúng ta, lúc nhiều lúc ít.
Trong thời đại bùng nổ của Internet hiện giờ, một cuốn sách “Cầm Thư quán” nhỏ bé với đề tài không “chiều lòng” người đọc dường như bị lọt thỏm trong vô vàn cuốn sách khác, và bối cảnh lịch sử thời Lê cũng không còn mới mẻ để thu hút bạn đọc nữa. Hơn nữa, giờ đây, người ta thích sách “mì ăn liền” nhiều hơn là sách thúc đẩy con người đào sâu suy nghĩ.
Thế nhưng “Cầm Thư quán” vẫn tồn tại, vừa như một minh chứng, vừa như một khúc bi ca, lặng lẽ nhắc nhở con người nhìn lại chính mình, để từ đó vươn tới những điều đẹp đẽ, và để những người như Ngọc Cầm, Ngọc Thư tìm ra tri âm, tri kỷ.
Quốc Toản
Năm 2008, cuốn tiểu thuyết “Cầm Thư quán” của Hà Thủy Nguyên do NXB Phụ Nữ ấn hành đã bị thu hồi sau một tháng ra mắt bạn đọc, với lý do là viết về Lê Thánh Tông - vị vua sùng Nho giáo được cho là minh quân bậc nhất trong lịch sử Việt Nam, với một góc nhìn khác, mà theo như các nhà “kiểm dịch” là xuyên tạc sự thật lịch sử. Sau đó, gần như không thể tìm được cuốn sách này trên thị trường. 
Chương 1:
Bích hán vọng cùng vân diểu diểu
Hoàng lương mộng tỉnh hạ du du
Bồng lai sơn thượng âm dung đoạn
Băng ngọc u hồn nhập mộng vô
Dịch:
Tầng biếc xa trông mây thăm thẳm
Kê vàng tỉnh giấc bóng âm thầm
Âm dương cách biệt, đâu tiên cảnh
Thân ngọc hồn mê giấc mộng trần

(“Tự thuật thi”- Lê Thánh Tông)
– Thánh thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế
– Thánh thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế
– Thánh thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế
Phải đến trăm cái đầu áp sát mặt đất như bị cả trên lẫn dưới ép cho bẹp dí. Vị thánh đế khoác hoàng bào bước đi giữa thứ âm thanh trầm trầm, rền rĩ tựa sấm. Nắng chiếu thẳng xuống sân rồng, nổi lên nét khắc tinh tế, điêu luyện của người thợ cả. Thánh đế dẫm lên những nét khắc như cưỡi rồng bay giữa thanh thiên. Quan đại thần hé mắt nhìn thấy thánh thượng được những con rồng đá nâng dần, nâng dần tới bậc tam cấp, nơi ngai vàng được tôn vinh.
Ngài ngự giữa chiếc ghế vàng óng ánh hơn cả nắng mặt trời. Đức hoàng mỉm cười nhìn hàng hàng người cúi đầu dưới chân mình. Ngài khoát tay, vạt áo chạm vào gió, phát ra tiếng “soạt” rất nhỏ.
– Bình thân!
Hình như cả trăm người dưới kia chỉ đợi hai tiếng ngắn ngủi và nhạt nhẽo ấy. Họ mỏi lưng lắm rồi. Thánh thượng đảo mắt điểm mặt từng vị đại thần. Hôm nào cũng vậy, cũng vậy… vẫn những khuôn mặt thung dung, nhàn hạ tựa chốn dân gian chẳng có một chút bão tố, một chút sóng gió…
– Quan thượng thư, khanh có điều gì muốn tấu?
– Muôn tâu Thánh thượng, năm nay đất trời hòa hảo, người dân được mùa, nơi đâu cũng vang lên tiếng Ngu Cầm.
Tiếng nhã nhạc hôm ấy văng vẳng trong cấm thành. Người cung nữ chốn lãnh cung chợt ngẩng đầu nhìn bầu trời xanh nhỏ tí bằng ô cửa sổ. Nàng ngừng mũi kim, lặng người như pho tượng đã nhạt màu sơn.
Lấp ló trong lùm cây rậm rạp có màu đỏ đỏ, xanh xanh của bọn thái giám, thị tì. Người cung nữ giật mình, ném tấm lụa hồng xuống mặt đất. Cây kim nẩy lên nẩy xuống mấy lần toan lăn vào gầm tủ, may vẫn còn sợi chỉ giữ cho…
Chương 2:
Thư quán tịch mịch trong buổi trưa. Tiếng huyền trầm đục, chậm rãi ru lòng người vào giấc ngủ vô thường. Cơn gió nhỏ nhẹ thổi những trang điệp mỏng đung đưa mãi mà không lật lên nổi. Tự nhiên, dây đàn ngừng rung.
Cô gái gấp cuốn sách lại, ngó qua cửa sổ. Thấp thoáng sau bụi trúc nhỏ là đôi ba chiếc khăn xếp. Cô gái mỉm cười:
- Sao lại phải ngừng, họ tới kệ họ!
Một giọng nói thánh thót nhẹ như dải lụa vướng trên cành mai vang lên từ phía sau bức bình phong:
- Chẳng qua chỉ là phường giá áo túi cơm!
Cô gái lắc đầu cười, nàng từ tốn đặt cuốn sách xuống bàn, nhẹ gót bước ra ngoài. Trước mắt nàng, ba thư sinh trẻ đang chắp tay xem những bộ sách xếp ngay ngắn.
Bốn bức tường của thư quán tựa như được xây bằng sách. Trong phòng có bốn bức tranh thiếu nữ với các tư thế: đọc sách, chơi đàn và vịn một nhành mai.
- Ba vị tìm cuốn gì?
- Chúng tôi tìm mấy bản thơ của Thánh thượng, tiện thể xem qua vài cuốn sử!
Cô gái cười nhẹ, nàng mở chiếc rương ở góc phòng, nâng niu vài trang giấy đưa cho vị thư sinh vừa hỏi. Anh chàng thư sinh ngơ ngẩn hồi lâu, mắt không rời khoé hạnh của cô gái. Cô gái nhếch mép:
– Tiên sinh, những bản thơ này tiểu nữ phải vất vả lắm mới lấy được!
Cô gái lôi ra một cuốn sổ nhỏ, chấm bút viết tên mấy bài thơ vào. Ba vị hiểu ý, đặt mấy xu tiền lên mặt bàn.
– Thơ của Thánh thượng hình như là đứng đầu thiên hạ! - Cô gái thả tiền vào túi vải thêu loan phượng màu đỏ son.
Một chàng thư sinh khác chắp tay, tỏ vẻ đạo mạo:
– Quả vậy, từng câu từng chữ của thánh thượng hàng hàng châu ngọc. Loại tầm thường nhất cũng được đúc bằng vàng…
Cô gái che miệng cười khúc khích. Nàng nhìn xập giấy rời rạc trong tay mấy thư sinh:
– Vậy chẳng hoá ra một chữ của hoàng thượng có thể nuôi sống cả nhà tiểu nữ trong vòng dăm ba năm sao!
– Ta đỗ trạng nguyên, ta sẽ nuôi nhà nàng suốt mấy đời
Cô gái cười to hơn:
Thiếp chẳng dám mong, phận cỏ hoa hèn mọn có mơ cũng không thể mọc trong vườn thượng uyển được!
Ba vị thư sinh cất bước đi, trước đó còn liếc mắt nhìn trộm cô gái. Cô gái ghi số tiền vào sổ, gấp lại rồi đi vào trong.
Cô gái ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc, giở trang sách đã được đánh dấu. Nàng chép miệng, gập sách lại tỏ vẻ khó chịu:
– Đúng là phường giá áo túi cơm! Làm mất hết cả hứng thú!
Cô gái nhìn về phía bức bình phong vẽ người thiếu nữ ngả người trên đá ngủ say.
– Em đã bảo chị rồi mà!- Giọng nói ban nãy lại vang lên.
– Em ra đây đi! Cả ngày ngồi trong đó không biết chán hay sao!
Một thiếu nữ tầm đôi tám bước ra khỏi bức bình phong.
– Thiên hạ ai ai cũng tán dương thánh thượng, xem chừng chị lại chẳng coi ra sao cả!
Cô gái nhếch mép:
– Thì từ khi thánh thượng lên ngôi, nước ta liên tiếp được mùa, thóc gạo đầy bồ mà…
Thiếu nữ vuốt từng cánh hoa sen nhìn lên bầu trời qua ô cửa sổ:
– Lạ thật! Thánh thượng có gì ghê gớm mà đến Ngọc hoàng cũng bợ đỡ, nịnh nọt!
Cô gái đặt tay lên miệng, ra dấu im lặng:
– Suỵt, khẽ chứ! Nếu Ngọc hoàng bợ đỡ thánh thượng thì điều em nói sẽ tới tai ngài đấy!
Hai cô gái bật cười thích thú! Gió bắt đầu nổi to lên, lay bụi trúc lào xào. Mặt trời tắt dần nắng để chuẩn bị cho một cuộc mây mưa…
Chương 3:
Trống canh hai…
Vua Hồng Đức gập bản tấu đặt lên bàn. Ngài chắp tay nhìn mưa rơi qua ô cửa sổ tròn. Mưa từ trời tuôn xuống, mưa từ vạt lá này rơi vào vạt lá khác rồi rỏ lên thành cửa sổ.
– Tâu thánh thượng, đã khuya rồi…- Quan thái giám cúi người.
– Đêm nay ta nghỉ ở cung nào?
Quan thái giám giở sổ. Thánh thượng khoát tay:
– Mà thôi… không cần xem! Đêm nay ta sẽ ở lại Ngự thư phòng duyệt bản tấu!
Mưa vẫn còn những tiếng lách tách. Trăng vừa trắng vừa mờ như khuôn mặt của một cô gái chìm trong sương đêm.
Đêm mưa toát lên hàn khí ẩm thấp của sơn động. Những lùm cây xa xa kia sao giống nấm mồ tới vậy. Ngài rùng mình. Màu đen là hố sâu khôn cùng đang hút lấy ngài. Năm ngón tay rồng vịn chặt lan can. Ngài sợ… sợ bị lụt vào cái hố đen vô cùng lơ lửng trước mặt kia. Nó hun hút, hun hút thành một vòng xoáy trôn ốc… Lơ lửng giữa nó, nào thì mưa… nào thì trăng… nào thì sương… nào thì những vãng vong của đêm thanh tĩnh.
Bống nảy lên một tiếng tỳ bà. Đức ngài giật mình bước ra khỏi cơn hỗn loạn.
Tiếng tỳ bà không chau chuốt, cũng chẳng gợi tình. Tiếng đứt tiếng nối nghe chưa ra cung ra bậc, giống âm thanh giọt nước mưa gõ lộp độp trên mái hiên. Ngài chau mày. Giữa đêm khuya khoắt sao lại vang lên tiếng tỳ bà. Của thần tiên hay ma nữ? Tiếc rằng nó chẳng bay bổng, siêu thoát như thần tiên, cũng không quyến rũ, mê hoặc như ma quỷ.
Đẩy cửa bước ra trời mưa, tiếng đàn làm bật lên sự êm ả rì rầm của nước. Thánh thượng thở dài… Ngài thầm nghĩ thâm cung này sẽ chẳng bao giờ tạo ra được những ca kỹ giỏi. 
Người cung nữ rướn cao cổ hai ngấn nhìn về phía mặt trăng nhờn nhợt. Những ngón tay của nàng lúng túng vì ngượng với dây đàn. Cây nến nhỏ không đủ soi sáng cả thuỷ đình, chỉ đù để thấy rõ hoa văn thô kệch trên dải thắt lưng xanh. Dải hoa văn nhờ nhịp nhàng lúc lên lúc xuống, lúc ẩn lúc hiện mà trở nên dịu dàng hơn.
– Chiếc đàn ấy không hợp với nàng đâu… Chơi nhiều sẽ hỏng tay đấy!
– Thánh thượng…
Người cung phi tròn mắt ngạc nhiên. Thánh thượng đang nắm lấy cổ tay nàng. Từng mạch máu của nàng rung lên dữ dội trong năm ngón tay của ngài. Nàng từ từ đặt cây tỳ bà xuống, e lệ cúi đầu tránh ánh mắt rồng phượng.
Thánh thượng khẽ rút dải thắt lưng xanh. Hai vạt áo buông thõng lộ ra màu hồng hồng của chiếc yếm. Mưa lại ào ào đổ xuống. Ánh nến đã yếu đuối lắm rồi…
Tấm áo cung nhân được dệt bằng lụa thô, rơi phịch xuống chiếc nến. Nến vụt tắt. Lửa bắt đầu bén vào lụa, nhai dần, nhai dần từng sợi tơ. Ánh sáng chập chờn, chập chờn mơn man trên màu yếm hồng, uốn lượn tựa muốn thiêu đốt tới làn da trắng xanh của người cung nữ. Chiếc yếm cũng tuột dần, lửa chẳng còn chỗ bám để leo lên nữa. Nàng chìm vào vòng tay của Thánh thượng. Giờ thì đến long bào cũng trở nên vô nghĩa. 
Một cảm giác buồn buồn, tê tê, ướt ướt di chuyển trên da nàng. Nó lan từ môi xuống tới cổ, tới ngực, tới bụng… tới nơi thiêng liêng và cao quý nhất.
Lửa tắt ngóm. Thủy đình chìm trong bóng tối. Trăng bị sương, bị mưa che khuất.
Thánh thể của ngài trườn trên tấm thân nhỏ bé của nàng. Nàng thu mình lại, chỉ để bộ ngực phập phồng điều khiển từng hơi thở. Ngài đu đưa người nhẹ nhàng khiến nàng rùng mình. Trong mưa còn nghe rõ tiếng thở hổn hển và tiếng hai kẽ răng chạm vào nhau cam chịu.
Chợt, tiếng đàn! Tiếng đàn như chuỗi ngọc trai đứt rơi từng hạt nẩy trên nền đá hoa cương! Thánh thượng giật mình buông người cung nữ ra.
– Nàng có nghe thấy tiếng đàn không?
– Dạ thưa không ạ…
Thánh thượng bần thần. Tiếng đàn chỉ thoáng qua. Thực chất nó chỉ là dải váy trắng của một con ma nữ lướt qua đỉnh đầu ngài…
Chương 4:
Sau buổi chầu…
Thánh thượng uể oải dạo trong vườn thượng uyển. Những loài kỳ hoa dị thạch đứng xếp hàng biểu diễn, khoe vẻ hay vẻ lạ một cách nhạt nhẽo. Thánh thượng lại thở dài. Ngài vẫn còn tơ tưởng tới tiếng đàn đêm nọ. Tại sao đã mấy ngày nay tổng quản thái giám đi tìm người chơi đàn mà vô ích? Hay đó đích thực là oan hồn của một cung nhân bị giam cầm trong cung cấm. Không! Chắc chắn không! Sự phiêu bồng, sự khuyến rũ, mê say, trăm ngàn tiếng tơ lòng ẩn chứa trong chuỗi âm thanh kỳ diệu ấy làm sao có thể được vút lên từ mồ lạnh với biết bao hờn tủi được!
Ngài thay đồ thường dân, cưỡi ngựa ra khỏi cấm cung. Thuở nhỏ, khi còn là Tư Thành, Hồng Đức sống lẫn trong dân chúng, quen với sự phóng khoáng, tự do. Đôi khi ngài vẫn mơ thấy những tiếng guốc nện đều đều trong đêm, tiếng rao hàng thoắt ẩn thoắt hiện trong màn sương buổi tinh mơ… Và giờ đây, ngài lại mơ thấy một tiếng đàn.
Ngựa của ngài dạo gót ven hồ Dâm Đàm. Nắng chiếu xuống lòng hồ xanh mờ những dải vàng lấp lánh. Đám sen hồng cũng lung linh, huyền ảo tỏa ra một thứ ánh sáng của những chiếc đèn lồng thả trên mặt nước trong ngày lễ hội.
Bỗng văng vẳng cất lên tiếng ngâm thơ:
“Hà diệp lục như cái
Hà hoa hồng tự nhan
Tư quân vị đắc kiến
Trì thượng không bàn hoàn”
(Lá sen như lọng biếc
Hoa sen như má đào
Nhớ ai không gặp mặt
Thơ thẩn hoài bên ao)
Thánh thượng giật mình nhìn về phía khuất trong đám sen, chiếc thuyền nhỏ đủng đỉnh rẽ lá xanh biếc trôi đi. Ngài nhận ra đó là vợ chồng Giáo thụ Phù Thúc Hoành và Ngô Chi Lan. 
Thánh thượng vỗ tay, nói to:
– Quả là thơ hay!
Cặp tài tử giai nhân ngạc nhiên, vội chắp tay thi lễ. Ngài khoát tay miễn lễ:
– Ở đây ta không phải là Thánh thượng…
Thánh thượng xuống thuyền cùng thưởng ngoạn cảnh hồ. Ngô Chi Lan rót ly rượu sen thơm ngào ngạt, nâng mời ngài. Ngài đón lấy, lâng lâng nuốt từng mùi thơm vào sâu trong lá phổi. Vị rượu ngòn ngọt như được khẽ chạm môi lên làn da mỏng mảnh của một thiếu nữ đang say ngủ.
– Dân gian có câu: “Rượu sen càng nhắp càng say- Càng yêu vì nết, càng say vì tình…” Quả là ứng vào vị rượu này vậy…
Ngô Chi Lan đưa mắt về phía bờ xa xa, nhẹ nhàng tâu:
– Dạ thưa, rượu này quả do giai nhân chưng cất nên hương vị tất không phải tầm thường…
Phù Thúc Hoành cũng tiếp lời:
– Thần và phu nhân cũng đang có ý định tới đó… Nếu thánh thượng không chê…
– Sao khanh lại khách sao như vậy - Thánh thượng ngắt lời - Ta đã ở trên thuyền rồi, đành nghe theo loại liên tửu này vậy!
Con thuyền tách ra khỏi đám sen trôi nổi, lững lờ tới một đám sen khác. Lại tiếng ngọc rung! Thánh thượng đứng bật dậy, ngơ ngác giữa bốn bề sen thơm ngát. 
– Hai khanh có nghe thấy gì không?
Phù Thúc Hoành gõ nhịp những ngón tay đu đưa theo tiếng đàn:
– Đó là tiếng đàn của Ngọc Cầm, người chưng cất loại hảo tửu này, thưa Thánh thượng.
– Xem ra hôm nay cô em Ngọc Cầm có vẻ vui vẻ khác mọi ngày…- Ngô Chi Lan nhấp rượu, mỉm cười.
Thánh thượng dường như không để ý tới lời qua tiếng lại giữa hai vợ chồng họ Phù. Ngài còn đang mải mơ. Ngài mơ thấy tiếng đàn đêm ấy. Kỳ lạ thay! Làm sao tiếng đàn có thể vượt qua cửa cấm thành để tới được tai ngài? Nhờ gió chăng? Hay là diễm phúc của Ngọc Hoàng thượng đế ban cho ngài.
Chiếc thuyền ghé sát dần một thuỷ đình mái lợp cỏ đơn sơ mà thanh nhã. Càng tới gần, Thánh thượng mới phát hiện ra xen giữa âm thanh trong trẻo, phiêu lãng của dàn tỳ bà còn có tiếng mõ tụng kinh cầu Phật. 
Quả nhiên, một thiếu nữ khoác áo nâu sồng đang ngồi ở góc khuất của đình nhắm mắt toạ Thiền. Không hương khói, không bàn thờ, chỉ có trời, nước và những đám sen. Thánh thượng không khỏi ngỡ ngàng trước nhan sắc của nàng. Thiết nghĩ tứ đại mĩ nhân phương Bắc cũng chỉ tới thế mà thôi. Trong màu áo tu hành, vẻ chân thiện chân mĩ của nàng càng bội phần khiến nước hồ phải sóng sánh, chao đảo. Nàng chính là hoá thân của bông sen hồng giữa ánh nắng lấp lánh của buổi chiều hè… 
– Ngọc Thư…- Ngô Chi Lan cất tiếng gọi.
Thiếu nữ bừng tỉnh khỏi những dòng suy nghĩ miên man về Phật. Nàng mỉm cười vẫy tay chào vợ chồng họ Phù. 
Thánh thượng cùng hai vợ chồng bước lên thuỷ đình. Bốn người ngồi bên bàn trà sen thơm dịu. 
– Em đang nghĩ điều gì mà miên man thế? Chị gọi mấy lần mới tỉnh!
Ngọc Thư rót trà vào từng chén nhỏ màu đất nung nâu đỏ, lơ đãng chẳng để tâm tới Thánh thượng, miệng tươi cười:
– Em đang ngẫm ngợi đôi điều trong một bài phú của Trúc Lâm tổ sư!
“Cư trần lạc đạo khả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”
(Vui đạo dưới cõi trần nên tuỳ duyên
Đói thì ăn, mệt thì nghỉ
Trong nhà có của quý đâu cần phải đi tìm
Đứng trước cảnh mà vô tâm thì chẳng cần phải hỏi tới Thiền)
Phù Phúc Hoành cả cười:
– Trong cõi đời này, ít kẻ nghĩ thông suốt được vậy lắm… Nguyên lý ấy tưởng chừng đơn giản mà đâu phải ai cũng làm được! Kẻ truy cầu danh vọng, kẻ truy cầu tiền bạc, kẻ truy cầu cái đẹp… thậm chí truy cầu cả Thiền…
Thánh thượng vẫn không khỏi băn khoăn. Từ khi Ngô Chi Lan lên tiếng gọi Ngọc Thư, ngài không còn nghe thấy tiếng đàn nữa.
– Tiếng đàn vừa rồi…
Ngọc Thư rót trà vào từng chén của khách. Luồng hơi nóng toả ra mang dáng vẻ của nàng vũ nữ tung dải lụa tới trời xanh.
– Đó là em gái của tiện thiếp… Ngọc Cầm, em ra đây đi!
Không có tiếng bước chân, chỉ có tiếng cót két đẩy cửa. Thánh thượng ngơ ngẩn tới vuột tay đánh rơi cả chén trà xuống bàn lênh láng. Khuôn mặt nàng phất phơ mây phủ như tới từ một chốn cực lạc hư vô. Thánh thượng run rẩy thấy mắt mình mờ đi trong lớp sương mỏng. 
– Hôm nay em có chuyện gì vui mà tiếng đàn trong sáng, hồn nhiên thế?- Ngô Chi Lan lên tiếng hỏi.
Ngọc Cầm chỉ cười cười không nói. 
– Tiếng đàn của nàng làm mê đắm lòng người… Khéo thay cho người đặt tên!
Ngọc Cầm đưa mắt nhìn Thánh thượng. Đến ánh mắt của nàng cũng lãng đãng khói mây non nước của chốn Đào Nguyên. 
Phù Thúc Hoành hiểu ý Thánh thượng, khẽ bảo:
– Hôm nay khí trời thanh nhẹ, em cho chúng ta nghe lại khúc “Hải du” được chứ!

 Ngọc Cầm khẽ nhíu mày tỏ vẻ không vừa ý. Ngọc Thư vội đỡ lời:
- Không sao! Bạn của anh chị Nhậm Nhân tất chẳng phải kẻ tầm thường... Huống hồ gì khách quan lại có ý yêu quý tiếng đàn của em...
Ngọc Cầm lặng lẽ đứng dậy, một lúc sau, nàng ôm cây đàn tranh, khẽ tựa vào lan can và bắt đầu so dây.
Thánh thượng rùng mình! Ngài chợt nhận ra chuỗi âm thanh quen thuộc của những viên ngọc trai rơi trên nền đá...
Dồn dập tựa sóng biển rạt rào đêm ngày vẫn vỗ vào bờ và lôi tuột màu vàng của cát lẫn vào cái xanh thẳm vô cùng của đại dương! Gió lồng lộng chen qua muôn trùng mây trắng! Cánh chim âu nhịp nhàng lượn vòng như mũi kim khâu chặt bầu trời mặt biển! Chợt, điệu chậm dần, nhưng đọng!. Sự ngưng đọng khiến trái tim của Thánh thượng thắt lại... Trong chốc lát, tiếng đàn tung thoát khỏi biển trời!. Chỉ còn lại sự phiêu diêu! Chỉ còn lại bóng trăng dãi trên biển một vệt dài tới đường chân trời! Chỉ còn lại sự chuyển mình hóa thân của con cá Côn thành chim Bằng: "Nương theo gió lốc mà lên tới chín vạn dặm...
Đột ngột, nàng dừng đàn, khẽ nhăn đôi mày...
- Sao thế? - Ngô Chi Lan băn khoăn - Sao cứ tới chỗ này là em không đàn nữa!
Ngọc Cầm thở dài, mắt vẫn không rời sóng nước. Nàng cất giọng đều đều:
- Chúng ta đang ngồi ở Dâm Đàm... Hồ này quả thật mênh mông, rộng lớn, nhưng tiếc rằng...
Ngọc Thư cũng nhìn theo em gái một cách mơ hồ, nàng khe khẽ ngâm một đoạn trong chương "Thu Thủy":
"Nước trong thiên hạ không đâu lớn bằng biển. Muôn sóng dồn về không biết bao giờ thôi vậy mà không đầy. Rốn bể chảy đi không biết bao giờ ngừng, vậy mà không vơi. Xuân thu chẳng đổi, thủy, hạn không biết. Phần hơn các dòng sông, lạch không thể lường tính được...
Chú thích:
1- Tức Trần Nhân Tông
2-  Phù Thúc Hoành có tên tự là Nhậm Nhân. 
Chương 5:
Mưa lại rả rích trên mái nhà. Ngọc Cầm thay những bông sen mới vào chiếc bình gốm dáng hơi thô.
Ngọc Thư lúc này đã thay y phục khác, nàng vén rèm bước ra, lắc đầu không vừa ý:
- Sao em lại dùng cái bình ấy… Trông thật chẳng thanh nhã chút nào…
Ngọc Cầm chẳng nói gì, nàng chỉ vuốt từng cánh hoa sen và mỉm cười ý nhị.
Mưa hắt vào làm lấm tấm ướt mặt bàn gỗ mun. Ngọc Thư chìa bàn tay hứng từng giọt rơi rơi… Mưa mát lạnh thấm qua da, lan dần trong mạch máu khiến lòng nàng chững lại.
- Người khách ấy không tầm thường đâu… Hắn ta si mê tiếng đàn của em như thế thảo nào cũng tới làm loạn Cầm Thư Qúan của chị em mình mất…
Ngọc Cầm bật cười:
- Si mê thì cứ để họ si mê …
Sự dửng dưng và ngạo mạn của Ngọc Cầm khiến Ngọc Thư không khỏi buồn cười. Nàng kéo tấm mành mành để mưa đỡ hắt vào nhà rồi tiếp lời:
- Em có nghĩ rằng hai chúng ta không thuộc về cõi này không…
Ngọc Cầm lắc đầu:
- Câu nói của chị điên rồ quá… nhưng em tin điều ấy!
Bỗng có tiếng gõ cửa. Ngọc Thư đi ra ngoài. Khách là một người lính hầu, tay anh ta cầm một phong bao.
- Ông chủ tôi xin gửi hai vị quán chủ!
- Ai vậy?
- Chủ tôi có dặn hai vị xem xong ắt sẽ đoán được…
Ngọc Thư vừa đi vừa mở phong bao. Trong phong bao là một bài thơ được viết trên giấy hoa.
- Có người gửi thơ tặng chị à?
- Không! Tiếc là lại tặng hai chị em ta mới buồn…
Đoạn, nàng khe khẽ ngâm:
“Dìu dịu Lam Điền ngọc mới tương
Hồ thanh sắc ánh mặt dường gương
Ngọc in làm dáng tiền sơ đúc
Chàm nhuộm nên màu tán chửa giương
Lạt biếc mới khai mây Thái Mẫu
Thắm hồng còn kín má Vương Tường
Khách thơ hứng nghĩ hiềm chưa đủ
Mười trượng hoa thì mười trượng hương”
- Em đoán là của người khách vừa rồi…
Ngọc Thư gấp tờ giấy lại, nét mặt nàng trở nên không vui:
- Hắn ta không tầm thường đâu… Khẩu khí ấy… là khẩu khí của bậc đế vương!
Ngọc Thư linh cảm thấy một điều gì đó rất lạ, một ngày mai bão bùng mưa gió ư? Sự thanh thoát của Ngọc Cầm liệu có còn nguyên như thuở ban đầu hay dần dần nó sẽ bị những thứ nhục cảm, xấu xa, bẩn thỉu của kẻ luôn truy đuổi cái đẹp kia huỷ hoại. Nhiều khi nàng chỉ mong đứa em gái cao ngạo, phiêu lãng ấy có một chút sự khôn khéo của nàng… tiếc rằng, đôi khi, chính nàng cũng muốn vứt sự khôn khéo ấy xuống đáy hồ cho cá rỉa.
Chú thích:
1 -Trích “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử
Chương 6:
Ngọc Thư đã say ngủ trong khí man mát, ngọt ngọt của đầm sen sau cơn mưa. Ngọc Cầm thơ thẩn đi ra thủy đình. Trăng lên sáng tỏ đẩy lùi những mây mờ về phía sau.
Khí từ trời ngấm vào gỗ rồi lại thấm ngược lên gan bàn chân cái cảm giác tê tê, lạnh lạnh. Nàng khẽ mỉm cười. Dải thắt lưng hồng vuột xuống mặt gỗ tự khi nào…Ngọc Cầm tháo từng lớp khuy… Gìơ thì chỉ còn dải yếm đào. Nàng vòng tay ra phía sau để lộ làn da trắng đến rợn mình. Dải yếm cũng tuột xuống cùng với xiêm y. Nàng lắc lắc đầu, chiếc trâm tung ra rơi vào góc tối đánh cạch một tiếng. Mái tóc buông xoã xuống như một dải suối mơ che khuất mảng sáng bừng của da thịt. Gío nhè nhẹ luồn qua kẽ tóc để vuốt ve mân mê nàng.
Tùm! Nước bắn lên tung toé vỡ bóng trăng loang lổ… Những giọt nước đọng trên tóc, trên da thịt Ngọc Cầm ánh lên màu lấp lánh. Nàng ngụp xuống dưới đáy nước, đám sen rúng động. Đột ngột nàng ngoi lên, ánh mắt bừng sáng muốn đọ với trăng hạ… Nàng vốc một vốc nước, thả nhẹ xuống mặt hồ. Tiếng nước chạm nước sắc lạnh.
Đột ngột một vòng tay luồn qua sóng nước, xiết chặt lấy nàng. Ngọc Cầm thốt hãi tới bối rối. Một hơi ấm phả nhẹ vào cổ nàng:
– Tại sao người nàng lại lạnh vậy… Vì nước chăng hay là vì gió…
Ngọc Cầm khẽ quay mặt lại:
– Bài vịnh sen của ngài thiếp đã đọc rồi… quả là thanh nhã, quí phái… Mong ngài để thiếp vẫn giữ những cảm nhận ấy…
Thánh thượng vẫn không buông tay, ngài ghì chặt nàng, ép nàng vào chân thuỷ đình.
– Nàng là người phóng khoáng, tiêu diêu, nề hà gì những luận điệu giáo lý cứng nhắc đó…
Ngọc Cầm đột ngột cười một tràng dài. Thánh thượng càng áp chặt nàng. Hơi lạnh từ cơ thể nàng vẫn lan ra trong sóng nước.
– Điều ta nói đáng cười lắm ư?
Ngọc Cầm bấy giờ mới thôi cười. Nàng nhếch mép mỉa mai:
– Ta cười cho kẻ làm vua muốn quảng dương Nho học, gò ép muôn dân theo giáo lý, theo lễ nghĩa, thế mà chẳng thoát nổi dục vọng của chính mình…
Thánh thượng tỏ vẻ ngạc nhiên. Ngài nhìn thẳng vào đôi mắt trong vắt của nàng. Năm ngón tay rồng luồn qua mái tóc ướt hương nước, mân mê gáy nàng để rồi thấy hồn mình như siêu thoát.
Ngọc Cầm đẩy mạnh thánh thượng, thánh thượng chới với giữa dòng nước vì bất ngờ. Nàng chống hai cánh tay và nhảy lên thuỷ đình, khoác vội tấm áo lụa. Nàng hất tung mái tóc, nước văng lên mát lạnh trên da mặt của thánh thượng.
– Nếu thánh thượng yêu quý tiếng đàn của tiện thiếp, xin mời thánh thượng hạ cố tới nghe chơi… Còn nếu như ngài chỉ mơ tới chuyện mây mưa thì…- Ngọc Cầm nhếch mép-… tam cung lục viện của ngài là quá đủ rồi…
Thánh thượng mê mẩn nhìn theo dáng ngọc của nàng lướt đi trên thuỷ đình và biến mất sau cánh cửa.
Ngài phát hiện ra một băng lụa hồng còn nằm vương vất trên sàn gỗ. Ngài với tay nhặt lấy. Đó là một dải thắt lưng thêu sen vàng tinh tế. Thánh thượng giữ chặt trong tay, khỏa nước bơi về thuyền mà lòng vẫn còn luyến tiếc…
Chương 7:
Tiết trời đã vào thu. Heo may đùa bỡn ngọn nến. Thánh thượng vẫn miệt mài bên bản tấu. Trống điểm canh tư. Bóng mây đen nhạt dần ngoài ô cửa sổ. Ngài đặt bản tấu cuối cùng xuống, đi đi lại lại rồi lại nhìn ra ô cửa tò vò. Vài con chim dậy sớm kéo màn mây đen theo sau đuôi vũ. Đằng sau đám vũ là những vì tinh tú lác đác mờ dần… mờ dần…
Ngài thở dài, giọng đều đều ngâm mấy câu thơ Nôm:
“Kế lậu canh mấy khắc dư
Đêm dài dằng dặc mới sang tư
Gió lay chồi ải khua chim thức
Nước rẫy trăng tà giục sóng đưa
Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh
Trời lác đác vẻ sao thưa
Một bầu thế giới hây hây lạ
Mấy kẻ chung tình đã thức chưa?”
Đã hơn một tháng nay ngài không gần nữ sắc. Cứ ôm một người con gái trong vòng tay, ngài lại nghe vút lên tiếng tỳ bà khoáng đạt, bay bổng của Ngọc Cầm. Điều ấy làm cõi lòng ngài tan nát. Còn những lúc như thế này… hơi lạnh trong cơ thể nàng lại ám ảnh ngài. Chưa bao giờ ngài thấy trong mình ẩn chứa một sự si mê, cuồng dại tới vậy. Ngài có thể chăn dắt muôn dân, có thể đứng đầu trong đám Nho sinh, có thể cầm quân đánh bại Chiêm Thành… thế mà lại chẳng chinh phục nổi một giai nhân… Và một lần nữa, ngài thua thảm hại vì cũng chẳng thể… gạt hình ảnh ấy ra khỏi tâm khản.
Chương 8:
Đêm đã về khuya, khuya lắm rồi…
Ngọc Cầm tung chăn bật dậy. Nàng thở dài tiếc nuối… Trong ảo giác của nàng vẫn còn văng vẳng tiếng sóng biển xô đẩy, dữ dội của một cơn bão khơi.
Nàng cầm cây đàn ra ngoài thuỷ đình. Gió hiu hiu thổi. Trăng thu dìu dịu của tháng Bảy làm tan cơn sóng trong đầu nàng, nhưng nàng lại cảm thấy gờn gợn. Nàng vẩy tay trên dây đàn. Tiếng vỡ của thuỷ tinh trong!
Trăng vẫn chỉ còn chưa tròn đầy… Xác sen trong đầm sáng lên lộ từng đường gân khô không khốc… Có tiếng mái chèo khoả nước. Nàng dừng đàn ngẩng lên.
Một chiếc thuyền nan vạch đường trăng tiến về phía thuỷ đình. Ngọc Cầm vẫn ngồi im. Bóng đèn lồng mờ mờ không chen nổi với ánh trăng.
Bỗng, từ thuyền văng vẳng ra tiếng hát của một người đàn ông:
“Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này”
Ngọc Cầm nhếch mép, nàng không để ý tới chiếc thuyền nữa.
Rào rạt! Những dây đàn xô nhau như sóng nước. Tiếng nhạc lan trong nước, trở thành một loại thuỷ lực có thể đẩy bờ ra xa, xa mãi… xa tới vô cùng vô tận. Chậm rãi! Biến hoá! Chớp bể! Và … đột ngột dừng!
Không gian chìm trong tĩnh lặng tới lạnh người. Thuỷ lực rút dần, rút dần về phía thuỷ đình. Trong thuyền lại vang tiếng cười lớn và ngâm thơ:
“Nước biếc non xanh khéo hẹn hò
Thu màu đạm bạc bấy là thu
Rắp lòng đỏi lá thay hoa chốc
Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu
Khiến nguyệt lạnh lùng xâm trướng vóc
Xui trăng thất thểu lọt chăn cù
Vì ai cho phải tin nhàn lệ
Chẩng nhẽ đau lòng khách vọng phu”
Ngọc Cầm đứng dậy, nàng đặt cây tì bà xuống, đi về phía con thuyền, khẽ nghiêng đầu:
– Hay cho câu thơ “Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu”. Tiện thiếp xin được nghiêng mình kính phục Thánh thượng…
Tiếng cười trở nên sảng khoái! Con thuyền quay đầu, để lại câu nói:
– Hôm nay trẫm bận việc… Hẹn ngày Rằm sẽ cùng nàng thưởng nguyệt khoe tài…
Ngọc Cầm khẽ nhếch khóe hạnh. Nàng quay người hất mái tóc tung bay trong gió, xuyên qua màn trăng… Trong không gian chỉ còn tiếng khoả nước bì bõm…
Chương 9:
“Hàng đêm ta cứ nghe thấy tiếng sóng biển vỗ vào nhau vừa êm ái, vừa dữ dội… Long Thành chật hẹp ư? Hay cái thuỷ đình này quá chật hẹp? Bầu trời cao rộng kia liệu một ngày nào đó ta cũng sẽ thấy nó chật hẹp chăng? Ta cuồng dại, ta đầy tham vọng… ta chỉ nên vừa lòng với khoảng trời này… Mặt trăng tròn vành vạch kia đã thật sự hoàn hảo hay nó không tròn như ta tưởng?”
Tiếng Ngọc Thư đều đều tụng theo bài kệ:
“Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
Xoạ thủ đinh ninh vấn Tổ ông
Kỷ độ mại lai hoàn tự mãi
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong”
(Đất hoang một khoảnh trước núi xanh
Chắp tay hỏi Tổ vẫn đinh ninh
Bao lượt bán đi rồi mua lại
Vì thương tùng trúc gió trong lành)
Trời bắt đầu đổ mưa, trăng mờ dần trong ô cửa sổ. Ngọc Cầm nhìn ra ngoài, lòng trĩu nặng. Mưa ngày lễ Thất tịch thật rầu rĩ. Nó gợi cho con người hình dung tới cảnh một ma nữ áo trắng xoã tóc, ôm hài nhi khóc lóc bên chiếc giếng cổ trơ ra vài cây dương xỉ.
– Đêm nay là ngày mở cửa Âm tào… Em nghỉ sớm đi, đừng ra thuỷ đình chơi đàn nữa… Mấy năm trước có người bị ma đùa rơi xuống hồ đấy…
– Vâng ạ…
Mưa vẫn rả rích. Trăng thỉnh thoảng ló ra khỏi mây nhợt nhạt như khuôn mặt của một thiếu nữ chết đuối vừa được vớt từ hồ lên.
Ngọc Cầm nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ của Ngọc Thư. Nàng còn nghe xa gần bì bõm mái chèo khua nước. Nhổm người dậy, nàng khe khẽ bước xuống, mở cửa đi ra thủy đình.
Nàng rướn người treo chiếc đèn lồng đỏ viết câu thơ Nôm “Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu” lên xà nhà. Chiếc thuyền tiến lại gần trong màn sương mờ…Thánh thượng đã đứng ở đầu mũi thuyền… Mưa vương đầy trên trường bào của ngài!
– Trời mưa lạnh… nàng không nên ăn mặc giản đơn như vậy!
Thánh thượng cởi trường bào khoác lên vai Ngọc Cầm. Nàng cúi đầu e thẹn trước cử chỉ ân cần của Thánh thượng. Hai người cùng ngồi xuống bàn trà.
– Hôm nay nàng không gẫy đàn sao?
– Nhân lại không bằng địa lại, địa lại không bằng thiên lại. Sáo trời là tột đỉnh của âm thanh! Đã có tiếng mưa hay hơn tiếng đàn của tiện thiếp rồi…
Hai chớp mắt gặp nhau. Hôm nay thì trăng chịu thua hẳn bóng đèn. Mái tranh bị dột, nước rỏ qua mấy lớp lá khô lợp mái, long tong xuống sàn gỗ.
– Hàng ngày chúng thi lễ với ta, chẳng khác khấn vái nguyền ta chết sớm… Ta nào khác một cô hồn…
– Thiên mệnh của ngài là vậy, không thể khác được…
Thánh thượng đột ngột đứng dậy, đứng bên mép thuỷ đình nhìn ra phía mưa đi dạo trên mặt hồ. Ngọc Cầm cũng đứng dậy, đi đến bên cạnh thánh thượng.
– Ấy là tại ngài đã tự xây xung quanh ngài và con dân của ngài một bức tường đồng quá ư vững chắc…
Ngài ôm chầm lấy Ngọc Cầm. Nàng khẽ cựa mình đẩy thánh thượng nhưng sức nàng không đủ.
– Chẳng lẽ nàng không thấy tội nghiệp ta ư? Ta chỉ xin nàng thời khắc này thôi, lòng ta được sưởi ấm biết bao…
– Nếu thánh thượng còn những suy nghĩ ong bướm, tiện thiếp đành phải tự dấu mình dưới đáy hồ kia vậy…
Thánh thượng buông Ngọc Cầm. Nàng cởi tấm trường bào trả lại cho ngài:
– Xin thánh thượng hãy hồi cung…
Ngài ngồi phịch xuống nền gỗ, tấm trường bào tuột tay rơi tõm xuống nước.
– Dẹp yên Chiêm Thành có nghĩa gì với ta… Xây dựng một thời đại thái bình thịnh trị có nghĩa gì với ta… Hàng đêm ta vẫn mơ thấy điệu nhạc “Hải du” của nàng.
Ngọc Cầm quỳ xuống bên thánh thượng, khẽ nắm đôi bàn tay ấm nóng của ngài. Mưa hắt vào đọng ngọc li ti trên từng sợi tóc của hai người. Thánh thượng lại cởi tấm áo đỏ thêu rồng phượng khoác lên người nàng.
– Hôm nay âm khí nặng nề…
Thánh thượng vòng tay qua vai Ngọc Cầm. Đôi mắt nàng ánh lên màu sáng của chiếc đèn lồng đỏ. Đôi tay ngài vuốt nhẹ trên bộ y phục lụa trắng thướt tha. Ngực nàng phập phồng một sự sờ sợ khó diễn tả.
– Có một bài thơ ta muốn ngâm tặng nàng…
Tấm áo đỏ và vạt áo trắng của nàng buông lỏng dần lộ ra bờ vai như sương tuyết. Trăng lúc này đã tỏ hơn đôi chút, làm bừng lên màu bạch ngọc của da thịt. Nàng ngậm những ngón tay đầy cảm xúc của ngài. Thánh thượng bật cười:
“Linh linh dao thấu ngọc
Tải địa đức linh trường
Huân thạch vô đa điếu…
(Róc rách tiếng ngọc từ suối vang xa
Đất chứa nhiều chất quý, đức thiêng lâu dài
Đá nóng không thể buông câu ngồi chơi…)
Thánh thượng ngập ngừng. Ngọc Cầm nhíu mày tỏ vẻ giận dỗi. Thánh thượng khẽ đặt môi lên cặp môi hồng màu sen của nàng.
– Ta sẽ làm nốt câu thơ cuối khi mưa tạnh!
Thánh thượng từ từ đỡ Ngọc Cầm ngả lưng trên mặt gỗ lành lạnh. Những vạt áo dần dần trở nên vô nghĩa. Thánh thượng trườn trên tấm thân trắng trẻo và lạnh toát của nàng. Sự chạm nhau của vô thức! Đôi mắt nàng nhắm chặt, cố cắn răng không dám thốt lên một tiếng rên. Thánh thượng ôm chặt nàng trong lòng với hi vọng hơi ấm có thể làm tan băng giá và giảm nỗi đau tột cùng đang giằng xé nàng. Vẻ mặt ngài bừng lên sự say mê tựa thưởng thức một điệu nhạc độc nhất vô nhị.
Ngài vùi đầu trong mái tóc dày đen mượt thơm mùi sen. Những ngón tay mát rợn vẫn lướt trên da ngài. Ngài cảm giác từng mạch máu của mình đang rung lên một điệu nhạc mê hồn. Thánh thượng càng thích thú hơn khi nghe thấy tiếng những ván gỗ cót két theo nhịp điệu của khúc “Phượng Cầu Hoàng”.
– Trời tạnh mưa rồi… Thiếp muốn được nghe nốt câu thơ cuối…
Thánh thượng khẽ di bộ ria lên ngực nàng đầy khoái cảm. Ngài ôm trọn Ngọc Cầm trong tay, thẫn thờ ngâm:
“Mộng hàm tích ích chương”
(Chỉ thấy một vốc nước là say sưa, rồi khí tiết càng già dặn)
Ngọc Cầm cười khúc khích:
– Thánh thượng quả là đã uống phải nước suối Tham rồi…
Mưa lại tì tõm trên mặt nước. Những đám mây đen vội vàng che khuất ánh trăng.
– Tình cảm thật sự của nàng đối với ta là như thế nào… Nếu nàng không biết ta là Hồng Đức!
Ngọc Cầm nhếch mép, nàng quay đi, kéo vạt áo đắp lên cơ thể:
– Ngài tưởng thiếp coi trọng cái địa vị đế vương của ngài ư… Sự si mê tiếng đàn của thiếp trong trái tim ngài đã khiến thiếp rung động…
– Ta thiết nghĩ người si mê tiếng đàn của nàng không phải chỉ mình ta!
Ngọc Cầm đặt tay lên môi giữ chặt lời thánh thượng.
Tiếng trống canh tư vẳng lên. Thánh thượng khoác vội áo. Ngọc Cầm mệt mỏi quấn tấm lụa quanh mình.
Chiếc thuyền nan biến mất trong cái mờ mờ nửa sáng nửa tối. Ngọc Cầm đứng dậy, nâng nhẹ gót bước vào phòng.
Trên tấm ván còn một vệt máu đỏ tươi non. Mưa róc rách qua từng lớp lá khô tuôn xuống, rỏ trúng vệt máu. Máu và nước hòa tan, lăn qua kẽ hở của hai tấm ván, rơi dần… rơi dần chạm tới đáy hồ.
Chú thích:
5- Bài thơ Thiền của Ngũ Tổ Pháp Diễn của Trung Quốc
6- Lấy tứ trong chương “Tề vật luận”- “Nam Hoa Kinh”- Trang Tử
Chương 10:
Vẫn như mọi ngày Ngọc Cầm buông từng sợi tơ đàn theo tiếng gió… Lá dập dềnh dưới chân thủy đình, không thể thoát để lơ lửng ra khơi. Bóng nga chênh chếch sau mái cỏ dẫn lối cho một con thuyền nan nhỏ lướt giữa sóng để rồi khẽ chạm vào gác thủy đình.
Thánh thượng vui vẻ bước lên từng bậc tới sát gần nàng nhưng tuyệt nhiên không cất tiếng gọi. Ngũ cung vẫn cứ thay nhau thoát ra một âm điệu trầm, chậm tới run lòng.
– Xin thánh thượng hồi cung!
Ngọc Cầm đột ngột dừng đàn. Thánh thượng không khỏi ngỡ ngàng, ngài lúng túng chưa biết phải hiểu ra sao…
Nàng nhếch mép đứng dậy hất dải lụa vuốt qua bàn tay rồng:
– “Yên khí lăng cung khuyết”! Hay cho câu thơ của thánh thượng!
Thánh thượng vòng tay ngang lưng nàng, nàng bước chân nhanh, nép vào cột đình. Ngài chợt hiểu ra điều giận dỗi của Ngọc Cầm. Thực tình đó chỉ là câu thơ để vịnh cảnh Dương Quý Phi tự tử ở Mã Ngôi, vậy thì tại sao nàng lại phản ứng thái quá như vậy.
– Ta chỉ vô tình nghĩ rằng Dương Quý Phi là kẻ làm loạn cung Đường thôi… Có gì mà phải giận! Nàng thật dư ý nghĩ…
Ngọc Cầm lơ đãng lướt tay trên những sợi tơ ngân lên sóng vỗ mạn thuyền:
– Thiếp chẳng qua có khác gì thương nữ cần gì biết đến vận nước suy vong, chỉ biết tới khúc “Hậu đình hoa” mà thôi … Thánh thượng là Kiệt Trụ hay Đường Minh Hoàng hay Hồng Đức, thiếp cũng chỉ muốn say theo khúc “Hải du”…
Thánh thượng ôm nàng trong vòng tay, hơi lạnh từ người nàng vẫn toả ra khiến ngài càng xiết chặt hơn.
– Ta hiểu, nhưng chẳng lẽ nàng lại chỉ tầm thường như Bao Tự, Dương Quý Phi ư…
Ngọc Cầm lắc đầu cười. Nàng nghe thấy tiếng những chiếc lá khô vàng đang vươn mình cố bám riết lấy chân thuỷ đình. Nàng nghe thấy cả bóng trăng đang rướn người thoát khỏi mái cỏ, muốn bay vọt lên đỉnh trời cao. Cả kia nữa, tiếng giấc mộng bi thu của chị Ngọc Thư vẫn đang thổn thức trong căn phòng nhỏ trống vắng. Những thứ âm thanh ấy, Bao Tự không nghe được, Dương Qúi Phi không nghe được và… thánh thượng lại càng chẳng bao giờ nghe được.
Thánh thượng kéo tay Ngọc Cầm, nàng thu lại. Đôi mắt nàng vẫn chạy theo ánh vàng dập dềnh trên sóng.
– Thiếp đã từng nói với thánh thượng từ ngày đầu, nếu ngài coi thiếp là một số trong muôn vàn giai nhân được sủng ái thì thiếp…
– Nàng vẫn không hiểu ta sao…- Thánh thượng chợt lớn tiếng- Ta cảm giác mình lãng quên tất cả khi ở bên nàng, tin thắng trận ư, hay tin được mùa làm ta phấn khích! Không! Khi nghe tiếng tì bà của nàng mới là lúc ta có được cái khoái cảm cực độ. Cái kẻ có thể hô phong hoán vũ, có thể thốt nửa lời mà vạn người chết thực ra chẳng bao giờ có thể tiêu diêu, tự tại như mong muốn.
Bóng trăng đè lên ngực thánh thượng tới tức thở. Ngọc Cầm vẫn lạnh như băng. Nàng bắt đầu so dây.
– Nàng đã quên rằng còn có ta ở đây sao?
Điệu nhạc rung rung lung lay bóng nguyệt. Sương mờ kéo từ đâu lại phủ một lớp mỏng lên mặt nước. Bầu trời nén sương xuống mặt nước, mặt nước lại đẩy sương lên. Sương bị mắc giữa một khoảng không gian ngưng đọng. Sương lãng đãng chìm dần trong tiếng nhạc, và những chiếc lá cũng không muốn thoát khỏi chân thuỷ đình để phiêu du trên mặt sóng nữa.
Thánh thượng lặng thinh. Ngài chỉ biết thở dài theo bóng đen của Ngọc Cầm đổ trên sàn gỗ. Đột ngột ngài đứng dậy, bước thật nhanh, toan chạm vào dải yếm đỏ. Nhưng… đôi tay Ngọc Cầm vẫn lướt nhanh trên cung bậc. Ngài đành ngồi xuống bên cạnh và bị mê hoặc bởi năm ngón tay ngà trượt dần theo những sợi tơ…
Tấm yếm đỏ - cổ cao trắng ngần! Khúc thanh tâm - sóng lặng dưới màn sương! Nếu cứ ngồi trong thuỷ đình để nhìn lên trời thì chẳng bao giờ có thể thấy trăng.
Thánh thượng ngoảnh đi chẳng dám nhìn vào dung nhan mơ màng của Ngọc Cầm. Ngài chỉ dám xốn xang theo lớp sóng loang lổ ánh nga. Một bóng ma nào đang múa trước mắt ngài… Bóng ma ẩn hiện trong sương, đong đưa theo nhạc… Nhìn kỹ… nhìn kỹ… hóa ra là Ngọc Cầm.
Ngài choáng váng quay mặt lại. Ngọc Cầm vẫn ngồi đó trong khói sương đọng lại. Vẫn cổ cao trắng ngần, vẫn tấm yếm đỏ, vẫn dải tóc buông xoã như một bóng ma…
Chú thích:
7- Trích bài “Mã Ngôi” của Lê Thánh Tông vịnh Dương Qúy Phi.
8- Lấy ý từ câu thơ “Thương nữ bất tri vong quốc hận - Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa” của Đỗ Mục. Có nghĩa là: “Gái làng chơi không biết tới cái hận mất nước - Phía bên sông chỉ biết hát khúc Hậu Đình Hoa.
Chương 11:
Chiếc thuyền con bị buộc dây vào một chiếc cọc trên bãi cát trắng. Sóng đẩy thuyền ra xa rồi dây lại lôi tuột thuyền vào. Thủy triều dâng. Nước biển tháo nút buộc lỏng lẻo của sợi chão… Thuyền bị kéo ra xa dần… xa dần bờ cát trắng.
Biển cả mênh mông thay! Sương chẳng đè nổi sóng lặng! Sao dập dìu đuổi nhau trên cánh sóng mà chẳng bao giờ bắt được nhau… Sao va đập vào mạn thuyền một thứ âm thanh xa vời…
Ngọc Cầm mở bừng mắt dậy… Tiếng gió mùa đông rít từng hồi trên nóc thuyền. Nàng lách người khỏi tấm chăn bông đắp ngang ngực thánh thượng. Nàng nhìn qua khe hở. Ngoài kia có những gì? Một màu đen sâu thắm, không trăng, không sao, không phân biệt nổi đâu là trời là nước!
Nàng bất chợt thở dài… Một hơi trắng mờ toả ra tan vào sợi khói tuôn dài từ ngọn bạch lạp. Nàng rờ rẫm trong khoang thuyền, khẽ chạm vào dây đàn! Nẩy lên tiếng sao sa…
Thánh thượng cựa mình, ngài khẽ vuốt mái tóc của Ngọc Cầm:
– Sao thế… nàng tỉnh rồi ư?
Ngọc Cầm lại nép mình trong cánh tay ngài:
– Thánh thượng có thấy đêm nay lạnh không?
Ngài mỉm cười, giật mình vì cảm thấy mười đầu ngón chân nhỏ bé của Ngọc Cầm đang run lên:
– Ta chỉ có một tham vọng là có thể sưởi ấm nàng… Vậy mà sao hơi lạnh của nàng vẫn đáng sợ như vậy.
– Thiếp từ thuở sinh ra đã thế…
Năm ngón tay nàng vẫn mân mê trên sợi đàn căng.
– Có phải vì chiếc đàn kia đã hút hết sinh khí của nàng, để lại cho nàng thứ âm khí lạnh lẽo…
Ngọc Cầm lại gẫy một dây đàn. Ánh mắt nàng xa heo hút về phía chân trời vô định.
– Tại sao ngài không nghĩ rằng mây nước cũng lạnh!
– Nhưng nàng không phải mây nước…
Ngài lại di bộ ria mép lên gò má Ngọc Cầm. Màu điểm trang trên khuôn mặt nàng đã nhạt dần theo tiếng trống canh. Chiếc chăn bông bị dồn xuống cuối khoang thuyền… Ngọc Cầm bật cười thích thú phát hiện ra một vết son mờ mờ trên bụng thánh thượng. Nàng dùng ngón tay xoá vội vết son.
– Sao thế? Ta muốn giữ nó lại, như lúc nào cũng cảm thấy có nàng bên cạnh…
Vết son biến mất. Ngọc Cầm gối đầu lên ngực ngài:
– Còn thiếp chỉ muốn là một người bước đi trên cát mà không để lại dấu chân…
Sóng vỗ mạn thuyền! Đều đều, êm êm! Lạnh!
– Ta e sẽ ít tới thăm nàng được…
Ngọc Cầm vẫn lơ đãng nghịch những dây đàn một cách hỗn độn.
– Quan ngự sử Lương Như Hộc đã biết chuyện của chúng ta… Viên trung thần ấy hết lời can ngăn ta… Ta không thể không nghe…
Những âm thanh chợt im. Ngọc Cầm khẽ thở dài:
– Lương ngự sử là trung thần, ngài nên nghe lời can gián của ông ấy…
– Nàng giận ta đấy ư? Ta chỉ hận mình làm vua mà không được thoả lòng mình…
Ngọc Cầm ngồi dậy, nàng thắt lại dải yếm đào, khoác vội từng tấm xiêm y.
– Tiện thiếp tự lấy làm xấu hổ… Thánh thượng ở đây cùng tiện thiếp, tức là có biết bao cung nữ đang thầm khóc trong thâm cung và cũng có biết bao bản tấu nằm dở dang trên bàn đợi phê duyệt…
Thánh thượng suy tư miết chiếc lược ngà trên mái tóc đen mượt óng ánh bóng sáng của nàng. Hai ba sợi tóc mỏng như tơ quấn theo chân lược. Ngài gỡ chúng ra, thả trên đầu ngọn lửa. Lửa xèo xèo thiêu đốt rụi. Đám tro tàn lả tả bay xuống chăn…
Chương 12:
Ngọc Cầm cựa mình thức dậy… Qua tấm bình phong, nàng thấy Ngọc Thư và vợ chồng Phù Thúc Hoành đang nhàn đàm trong thư quán. Hoa đào bắt đầu rơi từng cánh xuống thành cửa sổ. Đôi bướm trắng vẫn lượn lờ quanh cành đào khô như xương của một hạc tiên.
Ngọc Thư khe khẽ ngâm:
“Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tri hoa điệp hướng tâm trì”
(Xuân sang, hoa bướm khéo quen thì
Bướm liệng, hoa cười vẫn đúng kỳ
Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo
Thây hoa mặc bướm để lòng chi)
Phù Thúc Hoành và Ngô Chi Lan cả cười. Phù Thúc Hoành lắc đầu:
– Ngọc Thư càng ngày càng luyến ái các vị thiền sư rồi đấy… Chẳng lẽ trong hàng trăm tao nhân mặc khách ghé qua Cầm Thư quán, em không thấy vừa ý một ai?
Ngọc Thư vuốt nhẹ mái tóc. Ngô Chi Lan nhấp một ngụm rượu rồi ngẫm nghĩ, suy tư:
– Cách đây hai năm, chị tình cờ nghe một buổi giảng đạo chùa An Quốc, khí độ cao sang. Khi ấy, vị trụ trì đang hỏi đồ đệ về lẽ sinh trong trời đất. Các sư đều trả lời rằng do khổ mà nên… Chỉ có một nhà sư trẻ tuổi, khí độ cao sang, khác người cho rằng: “Nguồn gốc của sinh là đi từ nhị nguyên tới nhất nguyên.”
– Ta thiết nghĩ vị sư đó mới thực là đắc đạo!- Phù Thúc Hoành tiếp lời- E rằng chùa An Quốc chẳng giữ nổi chân con người đó…
Ngọc Thư cười khúc khích:
– Đã tu thì phải thành Phật chứ tu thành người, e rằng vị sự đó chưa đắc đạo thật đâu…
– Ta nghe nói nhà sư ấy dã dong thuyền giữa biển khơi, giờ chẳng biết phiêu dạt phương nào…
Đã cuối giờ Tị, Ngọc Thư liếc nhìn qua tấm bình phong. Nàng thở dài, khuôn mặt trở nên buồn bã. Ngày nào Ngọc Cầm cũng ngủ tới gần trưa, ngày nào cũng lặng lẽ chơi đàn sau tấm bình phong. Nàng cảm nhận thấy sự bất ổn, bấn loạn trong cung đàn của người em gái.
Vợ chồng Phù Thúc Hoành vừa lên thuyền ra về thì Ngọc Cầm mới vươn mình thức dậy.
Ngọc Thư xếp lại những cuốn sách lên kệ, để mặc tiếng đàn đủng đỉnh, đu đưa. Nàng đột ngột cất tiếng hát:
“Lửng lơ vừng quê soi thềm
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này…”
Ngọc Cầm ngừng đàn. Nàng không giấu nổi sự ngạc nhiên nhìn Ngọc Thư.
– Em đừng tưởng trong tiếng đàn của em có điều gì bất ổn chị không nhận ra…
Ngọc Cầm lặng lẽ quay mặt đi.
– Em đã dám làm chuyện gì thì em phải dám nhận chuyện ấy chứ! Đừng quay mặt đi như thế… Chị không muốn ngăn em lại, nhưng em cũng đừng đẩy mình vào ngõ tối…
Ngọc Cầm đưa mắt nhìn những cuốn kinh Phật đặt trên kệ sách.
– Chị cứ mê đắm theo Phật Thích Ca… nhưng Thích Ca đâu có cho chị sự khoái lạc mà chị đang khát khao! Hoa đào ngoài kia nở cho ai xem? Loài ong bướm đều là hạng tiểu nhân hết ư? Với kẻ đã lạnh lòng, hoa nở cũng như hoa tàn, thì cuộc đời này đâu còn nghĩa lý gì nữa…
Ngọc Thư lắc đầu đánh rơi chồng sách trên tay. Nàng nhìn ra ngoài những bông hoa đọng sương.
– Vị khách ấy đã làm em đổi khác quá nhiều… Em… không còn là Ngọc Cầm ngày xưa của chị nữa!
Ngọc Cầm hất tay đẩy cây đàn xuống đất. Dây đàn run lên!
– Thánh thượng khiến em cảm thấy cõi đời này nhạt nhẽo và nhàm chán… Ở trong vòng tay ngài, em vẫn mơ tới tiếng sóng biển xa khơi… Mặt hồ này chật hẹp quá chăng?
Khói từ nhang trầm lượn vòng trong khí trời ẩm ướt. Ngọc Thư lặng lẽ nhặt từng cuốn sách lên. Những cuốn sách vẫn xô nhau ngã trên kệ…
Khúc “Hải du” hôm nay chậm và lạnh đến ghê người. Đôi mắt Ngọc Cầm trở nên vô cảm. Tầng khói phủ uốn cong cành tre trĩu nặng. Mấy cánh hoa đào không ai bẻ cũng rơi…
Chú thích:
9- Thơ Thiền của Giác Hải thiền sư.
Chương 13:
Cổng tam quan với tấm biển “Đông Long tự” nhoà trong màn mưa bụi phất phơ. Nắng nhàn nhạt chạy theo giọt nước lung linh rơi xuống sân gạch nâu bóng loáng. Mưa trơn tuột trên lá cỏ dài. Chuông chùa nện ba hồi nghe xa vắng đến nao lòng.
Ngọc Thư và Ngọc Cầm mặc mưa ẩm xiêm y, vẫn nhẹ gót hài bước qua cổng tam quan. Trong chùa tiếng tụng kinh ê a như gọi oan hồn từ một cõi mênh mang nào đó theo hương khói trở về.
Hai nàng chắp tay khấn trước lư hương trong sân chùa Hạ. Ngọc Cầm liếc mắt về phía mái hiên gần ao nước. Ngọc Thư trở gót đi, Ngọc Cầm vội vã đi theo.
Qua chùa Trung rồi tới chùa Thượng… Ngọc Thư dừng bước bên bàn trà của vị trụ trì. Nắng nhẹ chiếu qua mái chùa làm bừng lên màu trắng tinh khiết của những bông lan đang rung rinh.
– Thưa trụ trì… đây là Ngọc Cầm, em gái con…
Trụ trì khẽ lướt qua rồi lẩm bẩm: “Mô Phật!” Ngọc Thư mỉm cười tiếp lời:
– Ngày nguyên tiêu khách thập phương lại nhiều, con muốn dẫn em con lên chùa từ mười ba để được nghe trụ trì giảng về đạo…
Ngọc Cầm vẫn lơ đãng nghĩ tới ao nước trong chùa. Vị trụ trì mỉm cười nhân từ:
– Con thuyền lang thang giữa bể mơ… Khi cập bến ấy là lúc tỉnh mơ… Tiếc thay lẽ đời chẳng ai muốn tỉnh!
Ngọc Thư nhấp một ngụm trà:
– Nhưng thưa trụ trì… Liệu có phải rằng lúc cập bến ấy cận kề cùng lẽ diệt…
– Hãy quên sự diệt đi… Mưa đọng trên mái rêu phong và lại biến đi đâu mất. Mưa đã diệt ư?
Ngọc Cầm thở một hơi dài… Nàng đứng dậy chắp tay:
– Thưa trụ trì, thưa chị, em muốn được vãng cảnh chùa…
– Được, con hãy đi đi…- Trụ trì xua tay.
Dáng Ngọc Cầm khuất dần sau chùa Trung, trụ trì mới lên tiếng:
– Em gái con là người chìm đắm giữa biển mơ… e rằng sẽ không bao giờ chịu tỉnh.
Ngọc Thư ngước mắt nhìn bầu trời âm u:
– Con cũng chẳng biết làm sao! Chỉ có thể cầu trời Phật phù hộ cho Ngọc Cầm tiêu diêu, tự tại… Chẳng cách nào khác, kẻ tầm thường chỉ dám vui đạo dưới cõi trần thôi…
Chú thích: Tức chùa Kim Liên ngày nay.
Chương 14:
Ngọc Cầm bước vội tới ao nước. Ao nước lốm đốm màu tím của những bông súng thanh thoát. Những bông súng không một chút cuốn hút Ngọc Cầm, nàng đang mê mẩn ngắm những bức thuỷ mặc treo dưới mái hiên ven bờ.
Sự lung linh của giọt sương đọng trên ngọn măng non… Đôi bướm trắng lượn vòng đón xuân… Một con thuyền mơ chìm đắm giữa sông trăng… Hồn nhiên thay! Ma quái thay! Ba bức tranh treo cạnh nhau cuốn lấy ánh mắt của nàng. Ngọc Cầm xiết chặt vạt áo. Những ngón tay nàng lúng lúng…
Cánh hoa đào rụng đầy hiên, điểm cho màu đất đen một vẻ tươi hồng. Ngày mai, những cánh hoa ấy cũng chỉ biến thành cát bụi!
… Chiều mười bốn, Ngọc Cầm vẫn khoác mưa vào chùa Đông Long. Cánh hoa hồng nhạt bám đầy trên vạt áo trắng tinh của nàng. Trên tường đã treo ba bức tranh khác.
Mưa thấm vài giọt vào bức tranh. Ngọc Cầm căng vạt áo lau nước đọng. Ai ngờ mực chưa khô. Những cây trúc ngả nghiêng trong gió bị nhòa đi không rõ lá cành.
Ngọc Cầm ngẩn ngơ hồi lâu thật chẳng biết phải làm sao. Nàng đành đợi. Nàng ngồi tựa vào bao lơn quanh ao mắt đăm đăm nhìn về phía những bông súng tím. Biết bao con bướm đậu lên vai nàng rồi lại bay… Biết bao những con chim vụt qua cất lên tiếng hót cao vút và biến mất… Mặt trời lên cao xuống thấp… Chủ nhân của những bức tranh vẫn cứ bặt tăm hơi.
Mưa càng lúc càng dầy… Hoa rụng mỗi lúc một nhiều… Những bức tranh đã nhoè hết, nét đậm lẫn vào nét nhạt.
Chuông chùa nện mấy tiếng khơi vơi. Trăng mười bốn sáng đùng đục. Hơi lạnh thấm dần qua kẽ áo vào da thịt Ngọc Cầm.
Nàng lại thấy biển… Biển chìm trong màn mưa xuân … Mưa nén biển lặng. Nước mặn đang thở ư? Hay màn mưa kia đang thở? Mưa dìm những cánh hải âu mệt mỏi, ủ rũ.
Tiếng rít của một con mèo hoang kéo tuột Ngọc Cầm trở về cạnh chiếc ao nhỏ. Đêm đã khuya tự khi nào, trên người nàng phủ một tấm áo bào đậm mùi mằn mặn. Những chiếc tranh nhoè đã được cất đi lúc nào chẳng biết… Trong tay Ngọc Cầm là một nhành đào hoa nở rộ vẫn khoe hồng dưới ánh trăng phủ lớp mưa mù…
Ngọc Cầm bâng khuâng. Trăng rơi theo mưa xuống tấm áo bào bằng vải thô đã cũ, nhuốm bụi đường và sương gió giang hồ. Con mèo hoang vẫn tru tréo gọi bạn tình trên mái tam quan… Tiếng chuông chùa chẳng cứu được màn đêm cứ tan dần… tan dần… theo sương.
Gót sen nhẹ bước bỏ lại ao súng tím chìm trong đêm xuân. Trong từng bước đi, nàng còn đem theo cả cơ man nào là cánh hoa rơi chốn Thiền môn về tới Cầm Thư quán.
Chương 15:
Ngọc Cầm trở về thư quán mà lòng vẫn còn ngơ ngẩn. Nét vẽ mờ ảo, huyền diệu của cái kẻ chưa biết mặt ấy cứ ám ảnh nàng trên đường về… Lúc nó xuất hiện như một ảo ảnh dưới ánh trăng! Lúc nó thành một con bướm ma lượn lờ trước mắt nàng.
Ngọc Thư vẫn ngồi dưới ánh đèn đợi nàng. Ngọc Cầm đẩy cửa bước vào.
– Tại sao chị không đi tìm em?
Ngọc Thư đặt cuốn sách xuống:
– Việc em về muộn và việc chị không tìm em thì có khác gì nhau đâu… Nguyên cớ của chị khó giải thích thì chị cũng không bắt em giải thích nguyên cớ của em…
Ngọc Cầm vuốt tấm áo bào thô cho phẳng phiu cất vào dưới gối.
– Phật dạy rằng mọi sự bắt đầu hay kết thúc đều do duyên nợ, phải không chị?
Ngọc Thư bật cười, có chút gì đó thê lương trong chuỗi âm thanh trong trẻo đó:
– Nhưng duyên thì ít mà nợ thì nhiều… Cái duyên kỳ ngộ sẽ mang theo nó cái nợ ba sinh… Đừng lấy thế làm vui mà cũng đừng lấy làm điều băn khoăn lo lắng.
Ảo ảnh của những bức tranh nhoè mực lại hiện về giữa khói nhang trên bàn thờ. Ngọc Cầm lắc đầu. Nàng xé vạt lụa bị nhuốm mực đen. Trong mùi mực có một vị mằn mặn khó diễn tả.
– Thánh thượng tới tìm em đấy!
Câu nói lôi nàng ra khỏi sự ám ảnh của những bức tranh thuỷ mặc. Nàng vén bức rèm. Con thuyền quen thuộc vẫn lững lờ giữa màn mưa giăng giăng ánh trăng.
Ngọc Cầm đột ngột rùng mình nghĩ tới cái cảm giác rờn rợn dưới lưng khi nằm trên nền gỗ.
– Theo chị thì thánh thượng có biết vẽ tranh không?
– Thánh thượng chỉ nên làm thánh thượng thì hơn…
Ngọc Cầm treo cây tì bà lên tường. Nàng ngả lưng xuống giường.
– Những bài thơ của thánh thượng liệu có là sáo rỗng… Khúc “Hải du” của em liệu có vô nghĩa?
Ngọc Thư gấp cuốn sách lại. Nàng thổi tắt ba ngọn đèn thắp trong phòng.
– Còn chị đang nghĩ về một sự vô nghĩa khác…
Một con mèo hoang nào đó lại chạy ngang qua căn nhà nhỏ của hai chị em. Nó gào một hơi dài gọi xuân. Chẳng biết trong đêm tối nó có nhìn thấy trước mắt là mặt hồ rộng mênh mông không còn một nóc nhà nào khác.
– Nếu chị từ bỏ Cầm Thư quán, em từ bỏ khúc “Hải du”, sống làm vợ của một vị triều thần, thậm chí làm quý phi của thánh thượng, sẽ ra sao nhỉ?
– Hoặc thà rằng thành một kỹ nữ chốn lầu xanh chắc cũng đỡ mệt mỏi…
Ngọc Thư bật cười. Một con mèo hoang khác hình như cũng ghé qua nóc nhà. Nó rên lên mấy tiếng thê thiết. Hai con mèo thi nhau kêu gào trong màn mưa. Chẳng biết chúng có nhận ra rằng trăng đêm nay tuy không sáng nhưng đẹp tới mơ hồ hay không nữa!
Chương 16:
Ngọc Thư thức dậy bởi một mùi khét khét bay từ ngoài vườn vào. Nàng khẽ nhíu mày mở toang cửa sổ ngó ra vườn.
Dưới khóm tre, Ngọc Cầm đang đốt một đống lửa lớn, khói lẫn tro nghi ngút. Ngọc Thư bật dậy, chạy vội ra ngoài. Lửa đang huỷ hoại dần xiêm y của những thiếu nữ trong bức tranh hàng ngày nàng treo trên tường nhà.
– Em đang làm gì thế?- Ngọc Thư sẵng giọng.
Ngọc Cầm vẫn lẳng lặng, mắt nàng không rời ngọn lửa. Màu đen của tro lan nhanh trên nền giấy trắng.
– Hôm qua em đã nói với chị về sự vô nghĩa…
– Chị không biết ngày hôm qua em đã gặp việc gì, nhưng những bức tranh kia…
Ngọc Cầm nhếch mép:
– Chúng vốn dĩ đã chết từ lâu rồi…
Ngọc Thư nhìn lên trời, trời u ám lạ! Mưa chấm những chấm lạnh lên da mặt nàng.
– Em quá tàn nhẫn… Ngọc Cầm… Huỷ hoại một bức tranh có khác gì huỷ hoại một sinh linh!
– Tội lỗi với em cũng là một sự vô nghĩa! Chị là người đề cao Thiền tông mà sao không thể đối cảnh vô tâm được?
Ngọc Thư giận dỗi bỏ vào phòng. Nàng thẫn thờ nhìn khắp căn phòng. Nào là sách… nào là sách… và khoảng trống thiếu vắng những bức tranh. Nếu một ngày mai lửa tấn công vào những kệ sách thì nàng sẽ ra sao? Tứ Thư Ngũ Kinh, Bách gia chư tử hay Thiền Uyển tập anh rồi thì cũng sẽ vô nghĩa trước lửa. Nàng giật mình! Cũng may Ngọc Cầm chưa mang mấy kệ sách của nàng hoả thiêu!
Chẳng nói chẳng rằng, Ngọc Cầm lại rời nhà. Ngọc Thư chỉ biết nhìn theo dáng em mờ dần sau cơn mưa mù.
Nàng bước ra vườn. Đống tro tàn ẩm ướt như đất vì mưa xuân. Nàng khẽ đặt tay xuống đống tro xám. Vẫn âm ấm hơi lửa. Ngọc Thư bới đất. Đám cỏ xanh non bị đốt héo bật tung lên. Đất xuân mềm và ướt, chắc nịch và dịu dàng như một cô thôn nữ.
– Xin hỏi tiểu thư đây có phải là Cầm Thư quán không ạ?
Một giọng nói lạ bất ngờ từ đâu tới. Ngọc Thư ngẩng đầu nhìn về phía cửa. Đó là một nhà sư đã gần ba chục, từng nét mặt như được hoạ bằng thứ mực Tàu đẹp nhất dưới ngòi bút của một hoạ sĩ tài hoa. Ngọc Thư mất hồn hồi lâu.
– Dạ thưa vâng, mời thầy vào thư quán…
Nàng đứng dậy bối rối mở cửa, trên tay vẫn còn lấm lem đất.
– Tiểu thư đang bận gì vậy, tôi có thể giúp…
Ngọc Thư ngượng nghịu nhìn đống tro tàn lẫn với đất ẩm chẳng biết giải thích ra sao cho phải lẽ. Nàng càng thấy khó xử hơn khi nhà sư cứ nhìn vào đôi tay trắng muốt đang nhem nhuốc của mình. Hai má nàng đỏ bừng.
– Chỉ là một đồ vật trong nhà bén lửa cháy, tôi muốn táng cho nó thôi…
Nhà sư mỉm cười từ tốn như đức Phật thấy chúng sinh hành đạo, xắn tay áo ngồi bệt xuống đất, cùng đắp mộ cho đống tro tàn.
– Phiền thày quá…
– Không có gì, hoá sinh là việc nên làm…
Ngọc Thư càng bội phần khó xử. Nàng chỉ dám nhìn xuống mặt đất, nơi bàn tay thô ráp của nhà sư vẫn vốc từng nắm đen chồng lên nhau. Một tay nhà sư vẫn lần tràng hạt, miệng lẩm nhẩm kinh Kim Cương tụng dẫn hồn về cõi Niết Bàn. Càng lúc, tiếng tụng kinh càng khiến Ngọc Thư loạn trí. Nàng thấy xung quanh nhà sư có hào quang ngũ sắc, chẳng lẽ lại là Phật thật. Điều ấy không đáng tin!
– Thày đợi tôi vào nhà lấy nước rửa tay…
Nhà sư không trả lời. Ngọc Thư bước nhanh vào nhà. Nàng vẫn còn cảm giác tấm áo cà sa của nhà sư chạy theo nàng tới tận thuỷ đình. Bóng mưa lất phất ngoài mặt hồ ảm đạm. Những ngón tay dài, gày guộc thọc sâu xuống đất và lần tràng hạt, bám chặt lấy đôi mắt trong vắt như trân châu của nàng. Ngọc Thư dựa vào thành bàn, bàn rung nhẹ, những cánh hoa rơi như mưa xuống đất…
Nàng múc một chậu nước bưng ra vườn. Lạ thay! Nhà sư đã chẳng còn ở đó. Ngọc Thư chỉ còn thấy trên nấm mộ là một cuộn giấy chắc của nhà sư để lại.
Nàng mở cuộn giấy ra xem! Một bức tranh!
Một thiếu nữ bước đi dưới ánh trăng. Tấm lưng nàng thon nhỏ trong tà áo trắng. Chiếc thắt lưng hồng đong đưa, gợi tình… Tà váy buông lơ đãng tựa bị gió thiêng đưa về miền cực lạc. Dưới gót hài trắng của nàng vương những cánh hoa đào hồng phớt buồn man mác!
Có tiếng mõ cầu hồn vang lên trong tim Ngọc Thư… Bức tranh ấy dành tặng Ngọc Cầm.
Chương 17:
Ngọc Cầm uể oải bước vào nhà. Mưa vương đầy trên tóc và trên áo nàng. Theo từng gót hài của nàng là những cánh hoa đào rải đầy mặt đất.
– Chị đã chôn những bức tranh ấy rồi…
Ngọc Cầm vẫn có vẻ không để ý. Nàng bấm những dây đàn rất mạnh. Đôi vai nàng run lên.
Ngọc Thư bước lại thật nhanh, nàng giữ chặt cây đàn.
– Chuyện gì đã xảy ra với em thế?
Ngọc Cầm bật cười một tràng dài:
– Chị thì làm sao mà hiểu được… Hãy mặc em và chăm lo cho thư quán của chị thì hơn!
Cây đàn rơi xuống đất! Một sợi cước đứt tung.
– Những bức tranh không có tội… Em sẽ bị chúng quả báo đấy…
Ngọc Cầm nhắm mắt. Nàng lặng lẽ nhặt cây đàn, ôm vào lòng.
– Em xin chị… Hôm nay em đã đợi, đợi mãi mà chẳng thấy những bức tranh ấy đâu nữa… Anh ta đã đi đâu? Trời đất vô cùng mà sao lại khó kiếm được tri âm tri kỉ tới vậy… Thánh thượng ư? Những đêm hoan lạc trong thuỷ đình ư? Có nghĩa gì đâu trước một bức tranh chưa khô mực? Em không còn thấy nữa rồi chị ạ… Anh ta biết em hằng ngày vẫn chờ, vẫn đợi nên đã lạnh nhạt bỏ đi!
Ngọc Thư ôm em gái vào trong lòng:
– Tạo hoá trêu ngươi! Tại sao lại sinh ra số mệnh của chị em ta như vậy? Chúng ta không thuộc về nơi này ư? Vốn dĩ chúng ta là những kẻ cô đơn…
– Đôi khi em ước mình là một kẻ tầm thường, chỉ biết quay tơ dệt lụa, trong đầu thông thuộc tam tòng, tứ đức thì chắc em sẽ chẳng bao giờ biết đến nỗi cô đơn…
– Phải, giá mà chúng ta ngu xuẩn, giá mà chúng ta chịu giống như biết bao kẻ khác… giá mà…
– Chị đừng nói nữa!
Ngọc Cầm đột ngột lớn tiếng.
– Chị hãy để em yên tĩnh được không!
Ngọc Thư mím môi. Nàng đứng dậy ngồi xuống trường kỷ. Cạnh đó có một cái rương nhỏ. Ngọc Thư đặt tay lên khoá rương, nhưng rồi nàng dừng lại. Bóng Ngọc Cầm đổ trên mặt tường sự khắc khoải, sầu thương.
Tiếng đàn lại vút lên hỗn loạn. Ngọc Thư vẫn mân mê ổ khoá. Điều gì sẽ xảy ra khi Ngọc Cầm thấy vật trong rương? Điều gì sẽ xảy ra nếu người đào đất chôn tranh hôm nay là Ngọc Cầm chứ không phải là nàng?
Ngọc Thư thổi tắt từng ngọn nến. Trời đêm nay chỉ có một vầng trăng. Vắng sao trăng có cô đơn không? Ừ thì trăng đẹp! Nhưng đêm nay trăng chỉ có một mình. Những vì sao đã đi đâu hết rồi? Phải chăng vì chúng hiểu một điều rằng có ở lại, nỗi cô đơn của trăng cũng nào có giảm? Xin trăng hãy tắt để lòng người khỏi nghĩ tới nỗi cô đơn!
Ngọn nến cuối cùng vụt tắt. Ngọc Thư gác tay lên trán nằm nghe tiếng những con mèo gọi đêm. Nàng có thể nghe thấy tiếng của những con mèo, nhưng những con mèo liệu có nghe thấy tiếng mưa đang mơn man trên bộ lông êm mượt của chúng? Xa xa tiếng rẽ nước của một thuyền câu càng lúc càng gần. Ngọc Cầm có còn nghe thấy, còn để ý tới có một con thuyền vẫn đợi nàng giữa mặt hồ gờn gợn.
Một tiếng chuông chùa vẳng từ chùa Đông Long như khối nặng đè lên ngực Ngọc Thư. Bóng trăng đổ một vệt lên tấm yếm đỏ thắm của nàng. Nàng bị choáng ngợp bởi sự xô bồ, hỗn loạn, lẫn lộn của bóng tối và ánh sáng, của đen và trắng, của xấu và tốt, của sự sống và cái chết… Nếu có một điều ước, chỉ ước sao có thể nhắm mắt mà không nhìn thấy điều gì!
Chương 18:
“Sắc phong Ngọc Cầm làm Huyền Phi…”
Ngọc Cầm choáng váng tới nỗi quên thi lễ tạ ơn.
– Mời Huyền Phi chuẩn bị tiến cung…
– Không! - Ngọc Cầm lạnh lùng đứng dậy mặc chiếu sắc phong nằm hờ hững trên đôi bàn tay nhẵn nhụi của vị thái giám.
Nàng cất bước, chẳng nói chẳng rằng lui vào sau tấm bình phong.
– Đó là ân sủng của Thánh thượng dành cho nàng, không phải người con gái nào cũng có được đâu!
Tiếng nhạc ngựa phi nước đại ngoài sa trường! Cây đàn tì bà vang lên khúc “Hải du” nổi bão.
Ngọc Thư lúc này mới lựa lời:
– Xin công công bớt giận, chị em chúng tôi quen sống cảnh thanh nhàn, sợ chốn xa hoa… Mong công công thưa lại với Thánh thượng như vậy!
Cơn bão tố trong khúc “Hải du” dường như dịu lại và tan biến…
Chương 19:
Chiếc thuyền đêm nay vẫn đi về phía chiếc đèn lồng viết câu thơ “Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu”. Vẫn mưa, vẫn trăng, vẫn tiếng mèo đùa nhau sột soạt trên mái nhà.
“Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết người quân tử có dùng ta chăng
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này…”
Tiếng hát trong vắt và ma quái phất phơ khói hương của một thảo am nằm trên núi cao chon von thưa vắng người qua lại. Thánh thượng chợt rùng mình. Ngài bước ra phía trước mui thuyền.
Một cô gái tựa cột, quay lưng về phía hồ nước tựa hồ như nàng không quan tâm tới trăng, không quan tâm tới mưa, không quan tâm tới sương và cũng chẳng quan tâm tới ngài. Gió không thổi bay được sự đoan trang trong tà áo của nàng.
– Thiếp biết thánh thượng đêm nay sẽ lại tới…
– Nàng không có được sự thần tiên thoát tục của Ngọc Cầm, còn Ngọc Cầm không có được sự cao sang, quý phái của nàng.
Ngọc Thư không giấu nổi được nụ cười đầy chế giễu:
– Thánh thượng si mê Ngọc Cầm hoá ra cũng không bỏ quên tiện thiếp!
Thánh thượng cũng bật cười:
– Nàng biết không! Vẻ đẹp của nàng không thích hợp với một nơi sương khói mờ mịt thế này. Ta tưởng nàng là một nàng công chúa đài các ngồi thêu hồ điệp trong vườn thượng uyển…
Ngọc Thư nhìn về phía đèn lồng đỏ:
– Vậy chẳng hóa ra người xứng đáng làm Huyền Phi phải là Ngọc Thư chứ không phải Ngọc Cầm!
Thánh thượng bước lên những bậc thang gỗ. Ngài tới gần Ngọc Thư. Hương thơm của hoa lan từ đâu phả vào hơi thở của ngài. Bất chợt bâng khuâng.
Không ai mách bảo, ngài khẽ chạm tay lên mái tóc buông xoã của Ngọc Thư. Mát như được chạm vào một tấm lụa tơ tằm. Ngọc Thư đưa tay vuốt nhẹ mái tóc. Đôi mắt nàng xoáy sâu vào đôi mắt đang mê đắm của thánh thượng.
– Ngài thử nói xem, thiếp và Ngọc Cầm ai đẹp hơn…
Thánh thượng đột ngột ôm chặt vòng thắt lưng của Ngọc Thư, đôi mắt vẫn bị nàng hút mất hồn:
– Nhìn thấy Ngọc Cầm, hai kẻ không quen biết, không thù, không oán sẽ lao vào đánh nhau… Còn nàng, đôi mắt của nàng, sự quý phái của nàng, hương thơm của nàng có thể khiến một tên mọt sách quý sách hơn tính mạng vứt tất cả đống thư tịch ấy vào lửa.
Ngọc Thư đưa ngón trỏ chạy dài trên sống mũi của thánh thượng:
– Vậy còn ngài… ngài thích là một kẻ võ biền hay một thư sinh?
Thánh thượng vùi nụ hôn của mình trong mái tóc nàng.
– Nàng cũng biết rồi đấy, ta vừa là chiến tướng đánh một trận dẹp được Chiêm Thành, vừa là thống soái của hàng ngàn sĩ tử…
Ngọc Thư đẩy thánh thượng tỏ vẻ giận dỗi:
– Chẳng lẽ với thiếp, ngài cũng phải lo che trước chắn sau hay sao…
Thánh thượng cười lớn:
– Không phải! Ta không nói nửa lời dối trá… Ánh mắt của nàng khiến ta muốn nói dối cũng không được!
Ngài càng trói Ngọc Thư chặt hơn bằng cánh tay rắn chắc của mình. Ngọc Thư chỉ cười khúc khích mà vẫn chẳng nói gì hơn nữa. Thánh thượng lần này lại bị mê mẩn vì nụ cười khuyến rũ của nàng.
– Thánh thượng có còn muốn biết tại sao thiếp lại không nhận địa vị Huyền Phi của ngài chăng?
Thánh thượng giật mình buông Ngọc Thư ra. Ngọc Cầm xuất hiện từ bao giờ. Tiếng cười của Ngọc Thư chuyển sang chế giễu.
Hai nàng bước vào trong nhà một cách lãnh đạm khiến thánh thượng bối rối. Ngài nhìn lên chiếc đèn đung đưa trong gió. Hai người con gái ấy sẽ chẳng bao giờ thuộc về ai.
Chương 20:
Khúc “Hải du” hôm nay được tấu lên nhẹ thênh thênh như những cụm mây trôi thẫn thờ trên biển. Chiếc đàn tỳ bà lại đột ngột đứt dây. Sợi cước sắc vạch một vệt đỏ trên đầu ngón tay của Ngọc Cầm.
– Chị nói thử xem tại sao em không thể nào hoàn thiện được khúc “Hải du” của cha?
Ngọc Thư vẫn không rời mắt khỏi ổ khoá của rương. Câu hỏi của Ngọc Cầm khiến nàng nắm chặt chiếc khăn tay. Nàng rút từ túi gấm ra một chìa nhỏ. Cũng chẳng nói một lời, nàng mở khoá.
– Chị đã định không đưa vật này cho em…
Ngọc Thư đặt một cuộn giấy dài lên bàn Ngọc Cầm. Ngọc Cầm nhíu mày không hiểu. Nàng mở từ từ ra xem.
Nàng nhận ra nét vẽ thu hết hồn vía của vạn vật! Nàng đây ư? Nàng đã mang theo cả những cánh đào rụng về một chốn hư vô ư? Chốn hư vô không có mùa xuân, vậy thì những cánh đào còn bám theo gót hài của nàng để làm gì!
Bất chợt, một giọt trong vắt rơi xuống bức tranh.
– Chị ơi, em muốn ra biển!
Chương 21:
– Khanh hãy nói thử xem, ta có phải là vị hoàng đế vĩ đại nhất ở Đại Việt không?
Thánh thượng đập mạnh ấn ngọc xuống bản tấu rồi từ từ nhấc lên để lại một hình triện đỏ như son. Viên sử quan khẽ giật mình rồi bình tĩnh thu người, chắp tay:
– Tông miếu họ Lê nhờ có thánh thượng mà được vững bền…
– Ta so với Đức Nhân Tông của dòng họ Đông A thì thế nào?
– Nếu thánh thượng có thể dứt áo bỏ triều đình để lên núi tu Phật thì há lẽ lại thua Nhân Tông họ Trần!
Thánh thượng trợn mắt nhìn viên sử quan rồi ngửa mặt cười lớn:
– Phải phải… Ta thua ông ta sự cao khiết đó! Tiếc rằng ta không tin vào Phật. Thích Ca chắc hẳn ngày xưa cũng biết là vốn dĩ chẳng có cõi Niết Bàn nào cả, ông ta chỉ vẽ ra một cõi Niết Bàn để người ta tin theo. Cũng như vậy, Khổng Trọng Ni tưởng tượng tới một thời Nghiêu Thuấn nào đó… Làm gì có! Nực cười cho kẻ nào chạy theo!
– Dạ, muôn tâu thánh thượng…
Viên sử quan lúng túng chẳng biết xử trí ra sao. Tiếng cười của thánh thượng đáng sợ quá!
– Ta có cả thiên hạ trong tay, thế mà ta vẫn không có được thứ ta muốn… Khanh là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, thử lý giải xem!
Sử quan hắng giọng, ông chắp tay thưa:
– Muôn tâu… Năm nay dân ta được mùa, sĩ tử đua tài khắp chốn… nhưng ai dám chắc trong lòng họ đạt như sở nguyện. Vốn dĩ trong đời người có được cái này lại ham muốn thứ khác!
Thánh thượng gõ những ngón tay lên mặt bàn
– Ta nghe nói khanh đang có ý định viết một bộ sử vượt qua cả bộ “Đại Việt Sử ký” của triều Trần! Khanh sẽ viết gì về ta?… Mà thôi! Làm vua là việc của ta còn chép sử là việc của các khanh!
Viên sử quan im lặng. Ông lặng lẽ nhìn thánh thượng đang chìm vào một cơn mê đắm nào đó xa xôi…
Đã lâu lắm rồi thánh thượng không còn nghe thấy tiếng tỳ bà. Nếu có thoảng hoặc chỉ như một chiếc lá khẽ rụng xuống cuối vườn thượng uyển mà chẳng biết từ phương hướng nào…
Tiếng tỳ bà của cung nhân ngày nào lại nhịp nhịp đâu đây! Lần này tiếng đàn đã tròn trịa, đầy đặn hơn. Thánh thượng phất áo đứng dậy, tay áo lướt qua nghiên mực thấm những vết mực đen lốm đốm.
Quan tâm làm gì những trang sử, quan tâm gì tới những thủ đoạn! Thời Nghiêu Thuấn ư? Một tiếng đàn cõi thần tiên ư? Vô nghĩa và vô ích! Đêm thâm cung lạnh tựa mồ hoang!
“Côn Sơn hữu tuyền, kì thanh linh linh nhiên, ngô dữ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch, vũ tẩy đài phô bích, ngô dữ vi đạm tịch…”
(Côn Sơn có suối, tiếng nghe kỳ lạ, ta lấy làm đàn
Côn Sơn có đá, mưa làm lộ màu xanh, ta lấy làm chỗ nghỉ ngơi)
Hai câu trong khúc “Côn Sơn ca” của quan Nhập nội hành khiển Lê Trãi xưa kia khiến thánh thượng giật mình. Người cung nữ ít học trong thâm cung làm sao có thể hát được khúc ca ấy? Không phải! Quyết không phải của một cung nhân… Tiếng hát của Ngọc Cầm…
Thánh thượng chạy dọc hành lang phảng phất sương khói. Ngài chạy xuống xuyên qua những lùm cây và hốc đá trong vườn thượng uyển. Chẳng thấy Ngọc Cầm đâu! Chỉ có những khoảng đen tối sẫm.
– Thánh thượng…
Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên từ phía sau! Thánh thượng quay lưng lại. Người cung nữ cổ cao hai ngấn! Đêm nay xiêm y nàng mang màu trắng trinh nguyên…
– Là nàng ư?
– Thiếp biết thánh thượng đang tìm thiếp…
Thánh thượng mỉm cười, không đáp. Người cung nữ lại cất tiếng hát:
“Lâm trung hữu trúc, thiên mẫu ấn hàn lục, ngô ư thị hồ ngâm khiếu kỳ trắc…”
(Trong rừng có trúc, bao la xanh mát, ta ngâm thơ nhàn)
Thánh thượng chợt đưa tay đặt lên trước môi của nàng. Tiếng hát ngừng đưa… Một hơi lạnh thấm qua đầu ngón tay thánh thượng.
– Ta hiểu rồi… Sao nàng lại hát khúc “Côn Sơn ca”?Nàng mỉm cười huyền bí, nụ cười của nàng lẫn vào gió thổi tung mái tóc dài đen mượt:
– Rồi một ngày kia người chủ của giang sơn gấm vóc này sẽ cảm thấy tù túng và nô lệ… Kìa… áo của ngài bị thấm mực rồi!
Hai ngón tay của nàng miết trên long bào. Vết mực biến mất!
Thánh thượng bị hút vào đôi mắt nàng… Ngài run rẩy vì một cái hố sâu vô hình đang bồng bềnh trong đôi mắt ấy. Hơi lạnh áp sát ngài… Cái hơi lạnh quen thuộc của Ngọc Cầm trong những đêm ở Cầm Thư quán. Ngài nghe thấy cái sờn sợn, tê tê của mười đầu móng tay di nhẹ trên sống lưng ngài.
Ngài nhìn sang hai bên, mái tóc nàng đã che mất sương. Nhìn thẳng lên, khuôn mặt nàng vượt cao hơn cả vầng trăng. Hơi thở nàng lạnh cái lạnh của khí trời ngay sau cơn bão lớn.
Mưa chấm một giọt lên bụng thánh thượng. Ngài bừng tỉnh dậy!
Trống canh tư! Một cái giếng cổ xơ xác dương xỉ và rêu phong. Ánh trăng rọi vào một căn phòng dột nát, bụi bặm, mạng nhện chăng đầy. Thánh thượng bước vào căn phòng. Qua cách bài trí, ngài biết rằng đó là căn phòng của một cung nữ. Trăng luồn qua cửa sổ vào tới tận gầm bàn. Ngài cúi người nhặt một tấm vải trắng nhuốm bẩn. Những đường thêu còn dở dang hình đôi uyên ương. Một sợi chỉ đỏ vẫn lủng lẳng cây kim hoen gỉ buông thõng giữa đêm trường…
Chương 22:
– Đêm qua em lại mơ chị ạ…
Ngọc Thư ngừng tụng kinh.
– Lại là những con sóng ngoài khơi… Lại là những cánh chim…
– Không!
Ngọc Cầm búng dây đàn rơi một giọt thanh nhẹ.
– Vẫn là những con sóng… trời trong veo… và những cánh hoa đào phủ đầy mặt biển… Hoa đào rụng ở đâu ra mà nhiều tới vậy?
Nàng đưa mắt nhìn theo gót hài vương hoa đào trong bức tranh. Ngọc Thư xiết chặt chuỗi tràng hạt gỗ trong tay. Nàng lại tiếp tục nện chiếc dùi nhỏ xuống mõ.
– Chị hãy thôi đọc kinh được không! Thích Ca Mâu Ni dù có pháp lực cao cường thì cũng không thể khiến hoa đào rụng được…
Ngọc Thư dừng tiếng mõ. Nàng buông một hơi dài:
– Cha đã truyền cho em khúc “Hải du”… Phật của em nằm ngay trong khúc “Hải du” ấy… Còn chị… Phật vẫn chỉ nằm trong kinh Phật thôi!
Ngọc Cầm lặng người lúc lâu… Mắt nàng vẫn không rời những cánh hoa:
– Tại sao chị không đi lấy chồng… Chẳng lẽ văn nhân tài tử không ai xứng đáng với chị sao?
– Đừng hỏi chị điều tầm thường như thế… Chị chưa bao giờ hỏi em tại sao em lại không chịu nhập cung…
Ngọc Cầm đứng dậy, nàng mở toang cánh cửa sổ. Trời về chiều hoàng hôn rung nhàn nhạt những làn mây… Ba dải lụa màu lam, màu hồng, màu vàng cứ chồng lên nhau căng kín cả bầu trời…
– Những kẻ như em luôn là người đốt những bức tranh… còn chị lại luôn chôn những bức tranh…
Ngọc Thư chợt cười khúc khích:
– Chị cứ tưởng em đã lớn… Em chưa lớn đâu! Người lớn chẳng bao giờ suy nghĩ phức tạp mọi chuyện như em…
Lần này tới Ngọc Cầm cũng cười:
– Ừ thì em vẫn muốn là một cô bé gái chưa lớn mà… Nếu có điều gì khiến em mong muốn mình phải lớn thì có lẽ là khúc “Hải du”… Mãi mãi là một đứa bé thì sẽ chẳng bao giờ em tấu được khúc nhạc này…
Không gian chìm trong tịch mịch sau những tràng cười. Qua khung cửa sổ, Ngọc Cầm phát hiện ra một bông sen vừa nhú nụ.
– Đến mùa sen rồi…
Ngọc Thư không đáp. Nàng bước tới gần Ngọc Cầm. Nàng cũng đã nhìn thấy búp sen.
– Thực ra… Ngọc Cầm, điều gì là quan trọng với em? Khúc “Hải du” hay cuộc sống vô tư, hồn nhiên…
– Hồn nhiên như cây cỏ ư? - Ngọc Cầm ngửa mặt cười lớn như một nhà Nho bất đắc chí - Hồn nhiên… hồn nhiên… vô tư lự… Khó gì đâu! Nhưng em sẽ mãi mãi chỉ là cây cỏ!
Ngọc Thư vuốt nhẹ tấm áo nâu sồng:
– Nhiều khi chị tự hỏi chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta chỉ là những người con gái bình thường. Cần gì mang trong mình một bồ kinh sử, cần gì tới ngón đàn đắm đuối lòng người, và càng chẳng cần tới nhan sắc diễm tuyệt này… Họ hay chúng ta rồi cuối cùng cũng sẽ chết!
– Chị khiến em thấy sợ… Em vẫn luôn nằm mơ thấy biển… Phải chăng đó là nơi nghỉ chân của em? Hồi bé em sững người trước cảnh đại ngàn thế mà tại sao em lại luôn mơ thấy biển cả mênh mông?
Ngọc Thư quay nhanh người. Nàng không muốn nhìn thấy búp sen trơ trọi giữa chiều tàn:
– Chúng ta sẽ ra biển… Biết đâu khi em nhìn thấy những con sóng của biển em lại mơ về một đại ngàn hoang vu và dữ dội…
– Và cả tiếng nhạc ngựa văng vẳng trên đường xa! Ước gì là một khách chinh phu…
Chương 23:
Đêm trăng vằng vặc sáng màu vàng bóng mặt nước. Chiếc thuyền nan bì bõm khua nước. Một búp sen he hé nở vươn cao thành một bóng đen giữa màn trăng.
– Dừng thuyền…
– Thưa thánh thượng… Phải đi qua đám sen này mới tới Cầm Thư quán…
– Trẫm đã bảo dừng thuyền kia mà!
Người chèo thuyền không dám cãi vội cắm sào. Thánh thượng cởi phăng áo bào. Khí trời vẫn còn lành lạnh âm ẩm dư âm của những cơn mưa bụi.
– Muôn tâu…
– Ta muốn hái búp sen kia!
– Xin thánh thượng đừng để tổn hại tới ngọc thể. Cứ để thần…
Không lời đáp. Thánh thượng nhảy ùm xuống mặt nước. Ngài khua tay gạt những đám lá xanh tròn, len lỏi tới chỗ búp sen hồng. Bẻ gốc sen. Trăng óng lên sợi tơ mỏng hơn tơ nhện. Nước sóng sánh đập vào ngực thánh thượng.
Chiếc thuyền nan lại tiếp tục rẽ đám lá đi về phía thuỷ đình. Đêm nay không có tiếng huyền vọng gần vọng xa…
– Ngọc Cầm…
Thánh thượng khẽ gõ vào tấm cửa gỗ đã cũ. Trong nhà không có tiếng thưa và cũng không có ánh sáng.
– Ngọc Thư…
Vẫn im vắng như tờ… Thánh thượng bất giác thở dài:
– Những chuyện thế này sẽ chẳng bao giờ có trong sử xanh… Nàng nói thử xem, ngàn đời sau họ có còn muốn biết về một bông sen ta hái giữa Dâm Đàm trong đêm trăng thanh vắng…
Thánh thượng gục đầu bên cột đình. Ngài mơ thấy tiếng nhạc vũ huyên náo… mơ thấy nàng Dương Qúi Phi đang múa khúc Nghê Thường… mơ thấy một đình Mã Ngôi đầy yêu khí… Có lẽ nào Ngọc Cầm lại giận ngài vì một Đường Minh Hoàng ở phương Bắc xa xôi…
Thánh thượng đặt búp sen lên chỗ Ngọc Cầm vẫn thường ngồi gẩy đàn. Một cánh hoa mỏng mảnh lìa cuống rời ra…
Chiếc thuyền nan lững thững ra về. Chỉ còn trăng, còn gió, còn một bông hoa nằm đợi chết trên sàn gỗ nhuốm hơi đêm.

Chương 24:
“Ếch giếng sở dĩ không thể nói cho biết chuyện biển là bởi câu nệ về chỗ, sâu hè sở dĩ không thể nói cho biết chuyện băng là bởi khư khư về mùa. Kẻ hẹp hòi sở dĩ không thể nói cho biết chuyện đạo bởi bó buộc về lối dạy. Nay ngươi ra khỏi bờ bến, nhìn xem biển cả mới biết mình là xấu, vậy sẽ có thể nói chuyện cho ngươi về lẽ cả…”
– Đó chẳng phải là lời của Nhược ở biển Bắc nói với Hà Bá đấy ư?
– Chị không bao giờ mơ tới biển, em nói xem có phải chị là kẻ tầm thường…
Ngọc Cầm vọc tay xuống con sóng to. Nước biển xanh thế mà hoá ra trong lòng bàn tay lại trong suốt như gương. Nàng không để ý tới câu hỏi của Ngọc Thư. Nàng còn mải nghịch nước. Càng nghịch nàng càng lấy làm thú vị vì nước biển trông vậy mà cũng chẳng khác nước trong hồ.
– Chị à… Tại sao nước biển mặn mà nước hồ lại nhạt nhẽo thế?
Ngọc Thư tựa vào mạn thuyền, mắt bị hút về phía mặt trời chói chang:
– Em nói thử xem tại sao các nhà sư lại ăn nhạt… Dục vọng của con người lớn như biển ư?
Ngọc Cầm ngạc nhiên nhìn Ngọc Thư. Nàng cười như muốn tan vào gió:
– Chị vốn dĩ thường ngày vẫn tụng kinh niệm Phật, sao lại hằn học với giới qui của Phật môn thế?
Ngọc Thư bẽn lẽn đỏ mặt. Nàng vuốt vuốt giải tóc:
– Có lẽ vì chị chỉ là một con ếch giếng tình cờ một lần được ra biển.
Chợt, một con rùa biển lớn, vân hoa trên mai như được đục khắc bởi một ông thợ cả trồi lên giữa sóng. Nó vẫy vẫy chân tạt ngang qua thuyền của hai nàng. Ngọc Thư khẽ lướt tay trên mai rùa thấy ráp ráp, sần sần. Đoạn, nàng nhíu mày khẽ nói:
– Một con rùa chết đã ba nghìn năm, được người ta đưa đến miếu đường mà khấn vái. Nó có sung sướng không nhỉ?
– Thế gian vẫn còn nhiều kẻ trói chân trói tay để làm bộ xương rùa trong miếu đường để được thờ tự… Em thà mãi mãi làm một con rùa con… Nếu một ngày người ta nhận ra rằng bộ xương ấy không mang lại tài lộc cho họ, chẳng phải nó sẽ bị quẳng cho chó gặm ư?
Ngọc Thư nhíu mày, nàng sẵng giọng:
– Sao em lại nặng lời thế? Bộ xương ấy bị chó gặm hay không bị chó gặm thì rốt cuộc con rùa cũng đã chết được ba nghìn năm rồi…
Ngọc Thư và Ngọc Cầm lại cười thật sảng khoái.
– Thực ra chị rất tò mò… Cái thú của một kẻ quay tơ dệt lụa, quanh năm cày cấy cũng đáng để ngưỡng mộ lắm…
– Và tất nhiên…- Ngọc Cầm thả dòng nước trong xuống mặt biển xanh thẳm - Con cá trong ao thì chẳng bao giờ được biết tới sóng biển.
Ngọc Thư lấy trong khoang thuyền một cuốn “Nam Hoa kinh” từ tốn ngâm:
– “Giống nấm sớm không biết ba mươi, mồng một, ve sầu không biết mùa Xuân mùa Thu. Đó là hạng tuổi nhỏ. Miền Nam nước Sở có giống rùa minh linh, lấy năm trăm năm làm xuân, năm trăm năm làm thu…”
Ngọc Cầm khẽ ho mấy tiếng gián đoạn sự cao hứng của Ngọc Thư:
– Nhưng nếu lỡ ra… nếu lỡ ra em chết sớm… thì em không biết đến cái thú của tuổi già ư? Em cũng không có nhu cầu biết đến tuổi bảy mươi…
Ngọc Thư vội giơ tay bịt miệng Ngọc Cầm:
– Em nói linh tinh gì thế… Sao lại nói những điềm gỡ như vậy…
Ngọc Cầm chỉ lắc đầu, nàng mỉm cười đến thần tiên cũng phải xiêu lòng. Trời xanh kia liệu có phải vô cùng chăng?
– Mà có khi em lại nói đúng…- Ngọc Thư thở dài…- Sống mà làm gì đâu! “Cũng như người ta ai chẳng ăn uống, nhưng ăn uống mà biết mùi vị thật chẳng mấy người”.
Ngọc Cầm phá lên cười:
– Chị bắt đầu làm em khó hiểu rồi đấy… Cầm sách Trang Tử mà lại bàn đến Khổng Tử ư?
Ngọc Thư trầm ngâm:
– Ở đời ai cũng khuyên nhau diệt dục để đạt tới sự tự do… Ham muốn tự do cũng là dục vọng. Vậy chẳng phải họ đi từ cái chuồng này để vào một cái chuồng khác sao? Chuồng sắt càng rộng, chúng ta càng xa chấn song…
– Chị có thấy rằng càng giải thích thì càng đặt ra cho mình những câu hỏi khác không… Xin chị đừng lí giải điều gì và đừng đặt ra điều gì nữa… Trời đất vô biên, sao ta không quên ta còn có ở trên đời đi…
Ngọc Thư buông xoã tóc xuống lòng và bắt đầu chải. Cây lược gỗ màu đen xẻ dải tóc của nàng thành những khoảng sáng ma quái.
– Chị em ta là hai người con gái đẹp nhất thế gian… vì thế chúng ta không có cái phúc được hưởng tuổi già và cũng không có hứng thú với cái phúc ấy!
Ngọc Thư ngừng lược sững sờ nhìn em gái. Đôi mắt của Ngọc Cầm lại trôi dạt một phương xa bất tận nào. Đôi mắt ấy không làm người đời thấy sợ hãi mà chỉ thấy âu lo về một dự cảm bất thường.
Một sợi tóc của Ngọc Thư rụng xuống tà áo trắng tinh. Ngọc Thư giật mình. Hai má nàng đỏ bừng.
– Chị đang có gì lo nghĩ à?
Ngọc Thư bối rối. Nàng cúi đầu nhìn từng cơn sóng dập dềnh:
“Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì”
(Cô gái đẹp tuổi đôi tám chầm chậm thêu
Dưới bóng hoa tử kinh, chim hoàng ly nhảy nhót
Đáng yêu là cái ý thương xuân vô hạn
Đọng lại tất cả ở lúc dừng kim không nói năng)
– Thiền sư Huyền Quang còn biết thương xuân vô hạn, em có dám nói rằng thiền sư chưa đắc đạo chăng?
Ngọc Thư ngẩng đầu lên vẫn không thấy Ngọc Cầm bàn thêm câu nào nữa. Đôi mắt mơ màng của nàng sáng bừng lên. Ngọc Thư nhìn về phía Ngọc Cầm đang chăm chú theo dõi.
Một dải những trang giấy dập dềnh trên nước. Ngọc Cầm chèo thuyền vội vàng… Gió thổi mỗi lúc một lớn. Con thuyền gặp gió cản nhưng vẫn rẽ sóng lướt tới.
Ngọc Cầm tự dưng bất động. Nàng như một kẻ bị thu mất hồn. Nàng không để ý tới Ngọc Thư cũng đang thốt lên kinh ngạc:
– Quả là tuyệt tác… Em xem này…Con chim phượng uốn lượn trong trăng như mang theo cả dải ngân hà xuống nhân gian… Giọt sương sớm đọng trên mạn thuyền tựa muốn rơi xuống mà lại muốn níu lại… Cánh hoa đào phủ đầy bức tượng Quan Âm…
Ngọc Cầm bị thoát mất hồn thật rồi! Giờ đây nàng không nghe thấy tiếng sóng biển hay bất kỳ một âm thanh nào nữa. Nàng chỉ nghe thấy tiếng chuông chùa trầm đục chậm rãi trong một đêm mưa xuân… cả tiếng mèo gào thê thiết! Nàng mơ hồ cảm nhận thấy một ngòi bút lông đang mơn man sau gáy, sổ một nét dài lên tấm lưng rồi điểm mấy nét chấm thuỷ đè nặng trên ngực nàng.
Ngọc Thư tiếp tục chèo thuyền chạy dọc theo dấu tranh. Mỗi bức tranh như một bước chân đọng lại trên mặt sóng. Nét vẽ siêu thoát ấy giữa chốn trần gian này chỉ có được khi bám theo gót hài của Ngọc Cầm trong buổi xuân sang. Nàng mặc cho gió thổi tung bay làn tóc mỏng và nhẹ. Bất giác quanh nàng phảng phất mùi tro giấy lẫn vào mùi đất ẩm ướt trong vườn nhà. Vì quá mải mê chèo thuyền, tràng hạt nhỏ đeo ở tay nàng vuột đứt. Hạt gỗ nảy tung trên sàn thuyền, hỗn loạn theo nhịp sóng.
Xa xa giữa ngàn khơi đâu đó có tiếng tụng kinh đều đều, lặng lặng…
Chú thích:
12- Trích chương “Thu thủy”- “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử
13- Trích chương “Tiêu dao du”- “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử
14- Trích sách “Trung dung”
Chương 25:
Ngàn vạn sao đuổi nhau nhảy nhót trên sóng biển. Gío đưa hương rượu xa bay lẫn với vị nồng và mặn.
– Hương rượu sen…
– Phải rồi… hương sen thơm ngát của Tây hồ! Giữa biển trời mênh mông này cuối cùng cũng tìm ra… Em chèo hộ chị một quãng, để chị vấn tóc lên…
Ngọc Thư với chiếc lược chải tóc. Nàng vấn cao tóc lên lộ mảng gáy màu bạch của trăng thu. Nàng bắt đầu nhìn thấy nhấp nhô trên biển một mui thuyền và cũng bắt đầu nghe thấy tiếng cười hào sảng của bậc quân tử. Ngọc Thư vén lại tóc mai, nàng đột nhiên cất tiếng hát văng vẳng mà mơ hồ:
“Lửng lơ vầng quế soi thềm
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết người quân tử có dùng ta chăng…”
Nàng thả tiếng ngân theo ngọn hải phong. Từ con thuyền xa lạ cũng vang lên tiếng hát trầm trầm:
“Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này…”
Ngọc Cầm bắt đầu đặt tay lên phím dây. Đó là khúc hát dân gian mà thánh thượng vẫn thường hát khi tới chỗ nàng. Nhưng nàng biết đó không phải là thánh thượng.
Ngọc Thư ngẩng đầu thấy vòm trời đính sao như muôn ngàn ngọn nến:
– Liệu mấy kẻ trên đời hiểu được cái thú nương theo gió lốc lên tới chín vạn dặm của con chim bằng?
Sóng biển được yên lòng xô nhau trong phút chốc, từ bên thuyền kia lại sang sảng tiếng ngâm:
– “Thầy Trang nói: Kìa đàn cá lượn lờ bơi chơi, đàn cá mới sướng chứ! - Thầy Huệ hỏi: Bác không phải cá, sao biết cái sướng của cá?- Thày Trang đáp: Bác không phải tôi, sao biết tôi không biết cái sướng của cá - Thày Huệ nói: Tôi không phải bác, không biết bác đã đành. Nhưng bác không phải cá, bác hẳn là không biết cái sướng của cá.”
– Trên đời này chẳng có ai hiểu được ai ư? Muôn sự vật đều chỉ một mình giữa biển trời rộng lớn ư? Âm và Dương chẳng bao giờ giao hòa, sống và chết luôn luôn xa cách ư?
Ngọc Thư bất giác thở dài. Chiếc thuyền mỗi lúc tiến lại gần. Bên kia lại bật lên tiếng cười thỏa chí:
– Cho nên:
“Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh”
(Thoát kiếp rồi bàn câu tịch diệt
Không sinh hãy nói chuyện siêu sinh)
Hai con thuyền đang đi về phía nhau. Ngọc Cầm ngơ ngác nhìn Ngọc Thư vuốt lại xiêm y, đôi mắt sáng bừng màu lửa.
– “Nếu chia ra mà xét cho rõ thì râu và lông mày có tên khác nhau. Nhưng hợp lại mà xét thì đều là lông của thân thể cả. Kẻ hiếu dị không chịu xét về gốc gác, mà ai nấy chỉ nói đến mình mà thôi, chứ không xét đến cái lẽ phải nương cậy lẫn nhau, rồi hóa ra tàn hại lẫn nhau, thù địch lẫn nhau, thế thì khác nào cắt đứt chi thể ra mà không biết đau.”
Hai chiếc thuyền lúc này đã ghé sát nhau. Trên con thuyền xa lạ kia là một bàn rượu. Ngồi thưởng rượu sen giữa biển khơi có một nhà sư và một chàng thư sinh. Khuôn mặt chàng thư sinh thanh tú, trầm ngâm, sâu lắng như biển cả. Chàng dường như không quan tâm tới cuộc đàm đạo vừa rồi mà chỉ rót rượu liên tục. Ngọc Thư mỉm cười trìu mến. Nàng không lấy làm lạ mà cũng chẳng ngạc nhiên vì đã nhận ra nhà sư cùng nàng chôn tranh hôm Tết ngay từ tiếng hát ban đầu.
– Thật là hân hạnh cho bần tăng được gặp hai vị tiểu thư Ngọc Thư và Ngọc Cầm của Cầm Thư quán…
Ngọc Thư e lệ cúi người đáp lễ, cặp má của nàng phơn phớt hồng:
– Thày là bậc thiền sư thoát tục mà cũng biết tới chị em thiếp ư?
– Từ thuở nhỏ bần tăng đã nghe danh Cầm Thư quán. Đồn rằng ông chủ Cầm Thư quán có muôn vàn sách trong thiên hạ và có ngón đàn tuyệt duyệt làm lòng người bay bổng siêu thoát như được cưỡi trên cánh chim bằng.
Ngọc Thư cười gượng, nàng tránh ánh mắt của nhà sư:
– Cha của tiện thiếp đã truyền lại khúc “Hải du” cho Ngọc Cầm…
– Phải!- Chàng thư sinh đột nhiên lên tiếng cắt ngang câu nói của Ngọc Thư - Thuở nhỏ ta từng tới Cầm Thư quán nghe trộm tiên sinh chơi khúc “Hải du”. Ngẫm cho cùng khúc “Quảng Lăng tán” của Kê Khang cũng chỉ tới thế là cùng.
Dứt lời, chàng lại cạn sạch chén rượu. Ngọc Cầm bấy giờ mới so dây. Nàng nhìn thẳng vào những chén rượu cứ liên tục, liên tục được chàng thư sinh uống cạn.
– Kẻ tài tử không uống rượu thô tục. Huống hồ hương sen thanh nhã chẳng thể hít một hơi thật mạnh để mà ngấm say. Điệu đàn hay sao có thể gãy tai trâu và bắt nó mê đắm được!
Chàng thư sinh dừng chén nhếch mép:
– Chỉ e cô còn nhỏ tuổi, chẳng tấu được hết sự vi diệu trong khúc “Hải du”.
Ngọc Cầm xiết chặt mép áo:
– Dám mong được biết trong hai vị, chẳng hay ai là người vẽ những bức tranh vừa rồi!
Chàng thư sinh nâng chén trước tầm mắt, xoay xoay chiếc chén, không thèm nhìn Ngọc Cầm lấy một cái:
– Phải rồi! Phải rồi! Trang Chu hoá hồ điệp hay hồ điệp hoá Trang Chu, có trời mà biết! Chỉ biết có hồ điệp, có Trang Chu, có trời, có biển, có tranh… Ai vẽ mà chẳng thế…
Ngọc Cầm bấm chặt dây đàn cố kìm cơn giận.
– Xin lỗi hai vị tiểu thư…- Nhà sư khoát tay- Hiền đệ của bần tăng bản tính vốn kiêu bạc, lại đã quá chén, thật là thất lễ!
Ngọc Cầm không đáp. Nàng búng dây đàn nhẹ tênh. Chàng thư sinh đưa mắt nhìn nàng. Chập chờn mờ mờ nhân ảnh của những ảo giác!
Nhà sư nâng chén, tiếp lời:
– Những bức tranh ấy chỉ lộ được thần của sự vật mà không thoát ra được cái thần ấy để đạt tới cực lạc. Chỉ có bức tranh hoạ tiểu thư Ngọc Cầm là tuyệt mĩ.
– Không!- Chàng thư sinh ngắt lời - Bức tranh ấy lại thiếu sự lắng đọng của một giọt lệ thương xuân…
Ngọc Cầm càng bội phần bối rối không thể phân biệt được ai là người vẽ bao bức tranh kỳ mỹ kia… Ngọc Thư gượng cười. Nhà sư chắp tay cúi mình trước thuyền của hai nàng:
– Mọi sự gặp gỡ đều là duyên nghiệp… Biển cả mênh mông tới vậy mà thí chủ và bần tăng còn có duyên hội ngộ thì thật hoang đường nếu chúng ta không cùng thưởng rượu đàm luận về chữ đạo ở đời… Nếu hai tiểu thư không chê, mời tiểu thư sang thuyền chúng tôi…
Ngọc Thư quay lại nhìn Ngọc Cầm. Ngọc Cầm vẫn không rời mắt khỏi những dây đàn đang ánh lên bóng sáng của ngọn đèn.
– Chị vẫn muốn tìm người thông hiểu Phật pháp để cao đàm pháp luận… Chị hãy sang đó đi… Em muốn một mình…
Ngọc Thư thở khẽ, nàng đưa mắt về phía nhà sư. Nàng nhìn thấy những đường gân xanh nổi rõ trên thái dương của nhà sư. Những đường gân xanh ấy giật giật như nhịp đập của trái tim nàng. Nàng gật đầu rồi bước chân sang thuyền.
– Hết rượu rồi!- Chàng thư sinh thốt lên nuối tiếc- Có lẽ phải quay lại đảo lấy rượu.
– Không sao đâu…- Ngọc Thư mỉm cười- Cảnh trời biển đẹp vậy, không rượu cũng đã đủ say…
– Đệ không thích Phật, đệ chỉ thích rượu thôi… Không có rượu thì cảnh đẹp mấy cũng chỉ là một mặt hồ không sóng…
Ngọc Thư nhíu mày, đăm chiêu giây lát:
– Công tử có thể dùng thuyền của chúng tôi để về đảo lấy rượu cũng không muộn…
Chàng thư sinh nhún vai uể oải đứng dậy, chẳng nói chẳng rằng cứ thế xăm xăm bước qua thuyền. Ngọc Cầm vẫn không thèm để ý tới. Nàng mân mê những sợi đàn.
– Nếu nàng không sang thuyền bên, ta buộc phải đưa nàng về đảo đấy!
Ngọc Cầm vuốt lọn tóc rủ xuống:
– Có hề gì… Nếu công tử thật sự say, biết đâu ta lại chẳng biết được ai là người vẽ bức tranh kia?
Chàng đẩy mái chèo. Con thuyền này bắt đầu rời khỏi con thuyền kia. Nhà sư vẫn cứ nhìn theo con thuyền mất hút dần sau nhiều đợt sóng.
– Biển cả bao la phải chăng là cõi mơ còn bờ kia là cõi thực, chỉ có bãi cát chạy dài là ranh giới giữa thực và mơ…
Chú thích:
15- Trích “Thu thủy”- “Nam Hoa Kinh”- Trang Tử
16- Thơ của Quảng Nghiêm Thiền Sư
17- Lời của Nguyễn Tịch.
Chương 26:
Chỉ có tiếng sóng biển rì rầm vỗ vào mạn thuyền… Chỉ có tiếng gió vút qua mui thuyền… Chỉ có sự im lặng tới tuyệt đối.
– Ai là người vẽ bức tranh ấy! Quan trọng lắm ư?
Hương rượu sen toả ra từ hơi thở của chàng thư sinh. Ngọc Cầm không đáp. Nàng lướt tay trên dây đàn. Dây thứ nhất rung lên tiếng những tràng cát trượt dần theo đợt sóng… Dây thứ hai rung lên tiếng cánh chim lướt cánh trên mặt nước… Dây thứ vô tận là tiếng của nước muốn chạy tới chỗ mênh mông không bến bờ để chạm được vào mặt trời nóng bỏng…
Chàng thư sinh bất ngờ ngửa mặt lên trời cười ha hả, cười thê lương không dứt:
– Tại sao nàng lại không nghĩ rằng sự vô tận của biển không phải ở cái rộng lớn mênh mang mà là ở cái sâu thăm thẳm… Dưới nước có cát, còn dưới cát có cái gì… ai biết…
Ngọc Cầm vứt cây đàn xuống biển. Chàng thư sinh kinh ngạc nhìn theo cây đàn bập bềnh trên cánh sóng.
Nàng đứng dậy, đôi mắt nhìn sâu vào khuôn mặt nhuốm phong sương của chàng. Bước đi làm chòng chành con thuyền. Nàng khẽ đặt tay lên bàn tay đang nắm chắc mái chèo. Có hai vì sao lấp lánh trong mắt nàng:
– Thiếp biết là chàng… Tại sao chàng lại trốn thiếp? Tại sao chàng lại bỏ thiếp mà đi? Tại sao chàng lại lạnh lùng uống rượu khi đã nhận ra thiếp… Chàng đừng nói với thiếp rằng chàng vô cảm khi đối mặt với thiếp…
Chàng trai rút tay lại, lãnh đạm nhìn xuống cây đàn trôi xa dần.
– Lòng tự trọng của thiếp… thiếp đã để quên ở Cầm Thư quán mất rồi…
Chàng trai lại cầm lấy mái chèo. Thuyền lướt nhanh hơn giữa bầu trời và mặt biển chan chứa ánh sao.
Ngọc Cầm bước trở lại chỗ cũ. Nàng quay lưng lại. Nàng nghe thấy những giọt rưng rưng đang lăn quanh khoé mắt. Những vì sao kia làm sao mà hiểu được!
– Hóa ra những cánh đào vẫn bám theo gót hài thiếp mà thiếp có bao giờ biết được…
Chàng thư sinh nhìn đôi vai nàng rung rung không biết vì xúc động hay vì thuyền. Trên trán chàng rịn mồ hôi lấm tấm. Gió trở nên vô nghĩa hơn lúc nào hết!.
Chương 27:
Đảo vắng có một vách đá dựng đứng sần sùi đầy những cặp chim nép cánh say ngủ. Dựa vào vách đá là một căn lều tranh xiêu vẹo.
– Nàng đợi ta ngoài này…
Chàng thư sinh lẳng lặng xách đèn bước vào căn lều.
Ngọc Cầm rút chân ra khỏi hài và khẽ chạm năm đầu ngón chân xuống mặt cát ram ráp mát hơi đêm. Sóng xô tà váy và đập vào cổ chân nàng. Vô vàn hạt cát li ti trườn qua mu bàn chân chạy về phía khơi xa… Nàng rón rén bước đi… nhè nhẹ… nhè nhẹ… Gió thổi mạnh làm lệch mảnh khăn vấn tóc. Ngọc Cầm đưa tay tháo tung để mặc mái tóc tỏa ra như những sợi tơ trời.
Gió lặng trong khoảnh khắc, nàng ngồi sụp xuống, đôi mắt dõi ra xa tít phía sao rơi xuống biển sâu. Nàng nghe thấy tiếng một vì sao nảy lên từ đáy cát sâu ngút ngàn…
Phảng phất mùi rượu sen luồn qua gáy nàng… Ngọc Cầm giật mình, bừng tỉnh khỏi thứ âm thanh bí ẩn mơ hồ ấy.
Một bàn tay ấm áp nắm chặt lấy đôi tay nàng. Một cánh tay khác vòng quanh vai nàng. Một khuôn mặt của ai đó đang ghé sát khuôn mặt nàng.
– Nàng đã hỏi ta quá nhiều và cũng đã nói với ta quá nhiều, nàng có biết không? Đông Đô đâu phải chỗ cho chúng ta…
Ngọc Cầm áp má vào ngực của chàng. Chàng ngẩng đầu nhìn những vì sao.
– Nàng đang lạnh à…
Ngọc Cầm xiết chặt lấy chàng thư sinh:
– Từ khi sinh ra, lúc nào cơ thể thiếp cũng lạnh như vậy…
– Vì vậy nên ông trời mới sinh ra ta…
Cả hai bật cười. Phút im lặng kéo dài miên man bất tận…Vụt một con chim trên vách đá đập cánh trong cơn mơ. Chàng thư sinh vuốt nhẹ một sợi tóc của Ngọc Cầm:
– Chúng ta sẽ nói điều gì lúc này nhỉ? Về chúng ta chăng? Ta đã bỏ quên Khổng Tử ở Đông Đô mất rồi…
– Chàng không cần phải nói gì cả! Thiếp không muốn nghe giọng nói của chàng. Thiếp chỉ muốn nghe tiếng của một vì sao bị rơi xuống đáy biển kia…
Ngọc Cầm đặt tay lên tấm ngực nóng ran của chàng. Nàng nghe thấy tiếng đập liên hồi của những sợi thần kinh đang rúng động.
Từ khi nào nàng đã nghe thấy tiếng sóng biển, hít vào vòm ngực mùi mằn mặn của muối, những con dã tràng đội cát trồi lên bò qua lưng chàng thư sinh rồi bò lên sống mũi của nàng. Nó ngơ ngác và lại quay ngược trở lại kéo theo sự tê tê, buồn buồn tới thích thú. Mãi một lúc sau, nó mới đặt chân xuống cát và lại đùn đống cát ướt lên, trốn biệt!
Sóng biển mang theo cả mùi rong rêu lẫn vào mái tóc buông xoã trên mặt cát. Hơi thở của biển hoá ra cũng nhịp nhàng như tiếng thở của thiếu nữ trong đêm xuân. Mười đầu ngón tay của Ngọc Cầm đã trở thành những chiếc chân mảnh khảnh của loài dã tràng lạc đường trên cánh tay, trên tấm lưng dài rộng của chàng trai trẻ. Những ngón tay ấy chạm vào mái tóc sũng nước biển.
Chàng thư sinh khẽ đặt môi lên trái tim nàng. Có gì đó ngọt ngào đầu lưỡi, lẫn vào vị mặn của nước biển đọng lại… Sự mơn man trong đôi bàn tay Ngọc Cầm đang rung lên sự sâu lắng của biển. Tiếng nhạc ray rứt trái tim chàng… Chàng ngậm đôi ba sợi tóc dài đã thấm ướt. Vẫn vị mặn của sóng!
Lại một con chim đột ngột thức dậy trong đêm vỗ cánh xoàn xoạt!
Chàng thư sinh giật mình nhìn vách đá mỉm cười. Con chim lại ngủ yên trong đêm thanh vắng. Ánh sao không sáng nhưng cũng đủ soi rõ khuôn mặt thanh tú của Ngọc Cầm. Bao sợi tóc mai dính nước thành những đường vẽ màu mực tàu trên trán và gò má nàng. Chàng áp lòng bàn tay lên má nàng vuốt nước đọng. Nàng di đầu ngón tay trỏ trên cặp môi của chàng:
– Chàng biết không, thiếp vừa thấy bước chân của mình lẫn vào hoa rụng… Lại cả rừng trúc lao xao trong gió… Cả một cánh hạc bị mây mù đè nặng khi bay qua núi cao.
Chàng thư sinh không nói một lời, nắm chặt tay nàng, kéo nàng dậy. Đôi chân hai người chạy thật nhanh qua những con sóng bạc. Nước dâng dần, dâng dần qua mắt cá, qua đầu gối, rồi tới bụng, tới ngang lưng… Mái tóc Ngọc Cầm bồng bềnh trên mặt nước, xô dạt theo sóng.
Có những sợi rong rêu quấn quít lấy nhau trong nước ấm. Từng hạt cát vẫn lăn mình dưới lòng bàn chân…
Hai vò rượu sen đã vỡ từ lúc nào. Gió và nước biển làm loãng cả hương nồng trong loài mỹ tửu.
Chương 28:
– Ngọc Cầm, nàng mở cửa ra đi… Nàng đã về, tại sao lại còn tránh ta… Đã lâu lắm rồi ta không được nghe tiếng đàn của nàng, đã lâu lắm rồi ta không được ngắm dung nhan của nàng… Nàng mở cửa cho ta… Hãy ra đây! Ta hứa sẽ không để ý tới Ngọc Thư nữa… Ta chỉ cần có nàng thôi!
Ngọc Cầm ghé sát đầu vào Ngọc Thư:
– Chị đừng giả vờ ngủ thế chứ… Làm thế nào đây! Thánh thượng không muốn để ý tới chị nữa rồi…
Ngọc Thư cố nhịn cười làm vẻ nghiêm túc:
– Nghiệp chướng của em gây ra, em tự gánh vác lấy đi…
– Chị ăn nói ngày càng giống cái chàng hòa thượng chẳng ra hòa thượng ấy…
Ngọc Cầm giận dỗi, nhấp nhổm không yên. Ngoài cửa, thánh thượng vẫn tiếp tục nói:
– Đêm nay là Rằm tháng Bảy, nàng nhớ không… Đã một năm rồi kể từ khi ta có được nàng… Những bông sen trong đầm cũng rã cánh hết rồi!
Ngọc Cầm vùng đứng dậy, nàng bước nhanh tới gần cửa. Bóng thánh thượng in hình trên rèm:
– Thánh thượng… xin ngài hãy hồi cung… Đêm đã khuya rồi… Chỗ của chị em thiếp không phải ở hoàng cung! Nếu thánh thượng vẫn nhớ tới tiếng đàn của thiếp thì bao giờ ngài cũng có thể nghe thấy, nếu thánh thượng còn nhớ tới dung nhan của thiếp thì lúc nào ngài cũng như có thiếp bên cạnh… Thiếp đã nói với thánh thượng rằng thiếp là kẻ đi trên cát không muốn để lại dấu chân… Vì vậy, mong ngài hãy trở về với triều đình!
Tiếng thở dài từ bên kia cánh cửa làm lay động mảnh vải rèm:
– Ta hiểu rồi… Thực ra chưa bao giờ trong lòng nàng có ta… Ta hiểu… Nhưng một ngày nào đó, nhất định nàng sẽ nhớ tới ta, sẽ mơ tới ta!
Thánh thượng đặt một bông hoa sen xuống chân cửa. Ngài đi thẳng xuống thuyền. Trước mặt ngài là một đám sen đã tàn tạ của buổi đầu thu.
Chương 29:
Trăng chưa lên tới đỉnh mà đã sáng tới trong vắt. Gió khiến ly rượu sen cũng nổi sóng.
– Lâu rồi không được thưởng thức rượu sen và cũng không được nghe tiếng đàn của em Ngọc Cầm!
Nữ sĩ Ngô Chi Lan nâng chén rượu trước mũi đưa hương nồng lẫn vào trong gió.
– Phải rồi!- Phù Thúc Hoành tiếp lời- Ngày hôm nay đã là mười bốn, mai trung thu… Trăng đẹp quá, em chơi cho chúng ta nghe khúc “Hải du” như mọi năm được chứ?
Ngọc Cầm gượng cười:
– Em xin được dùng rượu thay cho đàn được không… Mai là trung thu, em sẽ tấu khúc “Hải du”, còn hôm nay, em đành phải thất lễ!
Đoạn, nàng cạn chén rượu. Ngọc Thư vội đỡ lời:
– Trăng hôm nay đẹp quá! Chưa bao giờ trăng mười bốn đẹp như vậy!
Ngọc Cầm nhìn lên vầng trăng. Nàng chợt bùi ngùi. Tiếng trò chuyện luận đàm về thế sự, về thi phú cứ lãng dần… lãng dần bên tai nàng. Bất giác nàng thở dài:
– Trăng mười bốn mà đã đẹp thế này, e rằng ngày mai không có trăng…
Ngọc Thư mặt biến sắc, nàng nhăn mày:
– Đừng có nói gở thế! Đã trung thu thì không thể không có trăng!
Ngọc Cầm chỉ buồn rầu nâng chén. Hai vợ chồng Phù Thúc Hoành và Ngô Lan Chi ngơ ngác cũng lặng lẽ nâng chén.
Vầng nguyệt lơ lửng mỗi lúc một cao giữa mênh mông trong vắt.
Cứ mỗi lúc Ngọc Cầm ngước mắt nhìn lên, nàng càng cảm thấy trăng đẹp để rồi trong lòng lại cộn lên ý nghĩ: Ngày mai sẽ chẳng còn trăng nữa…
Chương 30:
Trời mưa rào rào suốt từ sớm tinh mơ. Hai nàng bị đánh thức bởi tiếng mưa không ngớt trên mái tranh.
Ngọc Cầm vùng dậy, nàng điểm trang vội, khoác áo, bước nhanh chân… Bức tranh sẽ ướt hết mất… Chàng sẽ ướt hết mất…
Nước mưa luồn trên từng viên vạch nâu đỏ rêu phong rỏ từng giọt xuống khoảnh sân chùa ướt bóng. Chính ngọ mà trời như lúc sâm sẩm tối. Khí lạnh làm tan rã đám sen tàn trên mặt ao. Bức tường vẫn trống trơn không một bức tranh.
Ngọc Cầm nép dưới mái hiên. Những giọt nước đọng rỏ từ tốn xuống vũng bắn văng ra tứ phía. Nàng bắt đầu nghĩ về những bức tranh… nghĩ về những đợt sóng đập vào mạn thuyền… cả về đáy đại dương sâu thẳm… có gì ẩn chứa trong ấy?
“Dưới bầu trời là mặt nước… dưới mặt nước là lòng biển… dưới lòng biển là đáy cát… Hóa ra mặt đất mới là nơi rộng lớn mênh mông chứ không phải biển khơi! Ta đã sai ư? Ta đã ra đến tận biển để tìm được sự tự do nhưng rồi vẫn thấy băn khoăn… Biển dù rộng vẫn bị ngăn bởi đất, thậm chí chính đất lại chứa biển trong lòng…”
– A di đà Phật… Mời thí chủ vào xơi nước…
Ngọc Cầm giật mình, một sư thầy đang cúi người. Nàng cũng mỉm cười đáp lễ:
– Dạ vâng… xin được thất lễ…
Nhà sư lắc đầu quay đi… Mưa không ngớt. Gío mạnh đẩy mưa tạt vào ướt hết cả bức tường gạch nâu.
“ Chắc chắn chàng cũng đang đội mưa để đến đây… Bức tranh này sẽ không bị nhòe như những bức tranh khác của chàng được! Đâu đây lạ thế! Sao lại có mùi rong rêu quấn theo vị muối mặn… Hay là chàng đã đến!”
Ngọc Cầm cố căng mắt nhìn qua màn mưa trắng xoá… Chàng đang đến ư? Không!… Chỉ vắng lặng cổng tam quan…
Tiếng chuông chùa trầm đục rền rền trong mưa. Lòng Ngọc Cầm thấy trống trải như gió.
“ Mưa tạnh trăng lên chắc chàng sẽ tới! Đó là bức tranh tận thiện tận mĩ, vì thế không thể để nhòe dù chỉ một nét mầu…”
Trời sẩm tối mà trời vẫn mưa, thậm chí càng lúc càng mưa dữ dội.
“Trăng lên thì chàng sẽ tới… Hóa ra ta đợi trăng chứ đâu có đợi chàng! Nhưng nếu trăng không lên thì sao? Thiếp đã dự cảm rằng sẽ không có trăng mà…”
Chuông chùa điểm canh khuya. Ngọc Cầm rùng mình. Lúc này nàng mới cảm thấy lạnh. Nàng mơ hồ nhận ra rằng mình đang dần tuyệt vọng.
Mưa ngớt dần, ngớt dần… Trăng ló ra khỏi mây mù tỏa ánh sáng yếu ớt. Trong ánh sáng mỏng mảnh của trăng vẫn còn vẩn lên những đường đen sâu hoắm.
“Chàng có thấy trăng lên rồi không? Tất cả chỉ là một giấc mơ trong đêm xuân… Giống như cái ảo vọng về sự tiêu diêu tự tại khi được lênh đênh trên biển. Cả cuộc đời ta luôn đuổi theo những ảo ảnh. Nào là chàng… nào là đáy biển mênh mông vô tận… nào là khúc “Hải du”. Ta đang đi đâu, đang ở đâu giữa cõi tục thế này? Rừng trúc có thật nhưng hơn ai hết thiếp hiểu rằng rừng trúc trong tranh của chàng chẳng bao giờ có thật… Biển mênh mông trước mắt nhưng vẫn nhìn thấy bờ, còn khúc “Hải du” thì chẳng bao giờ có thể thấu tới tận cùng… Đáy của biển ấy phải chăng chính là không có đáy!”
Mưa ướt sũng khắp người Ngọc Cầm. Dáng chàng thư sinh lờn vờn như hồn ma bóng quế lững thững đi giữa ánh trăng…
Chương 31:
Lờ mờ nét bức tranh hoa đào bám vào gót hài… Lờ mờ cây độc huyền… Lờ mờ một người đàn ông đang bóp trán suy nghĩ.
Ngọc Cầm khẽ ho tiếng nhỏ. Người đàn ông bừng tỉnh, quay người lại.
– Ông là ai?
Người đàn ông ôn hòa, cúi chào Ngọc Cầm:
– Tôi là ngự y thánh thượng cử đến thăm bệnh cho tiểu thư…
Ngọc Cầm thở một hơi nặng nhọc. Chân tay nàng bủn rủn tới không thể nào gượng dậy nổi.
– Hãy tâu với thánh thượng rằng tôi không cần… Bệnh của tôi không chữa khỏi được…
– Đó là thánh chỉ!
Ngự y nhún vai và từ tốn ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường Ngọc Cầm:
– Thánh thượng đã ở đây suốt hai ngày qua… Tiểu thư thật có phúc lớn!
Ngọc Cầm thất thần:
– Chị Ngọc Thư của tôi đâu?
– Tiểu thư Ngọc Thư đã tới chùa Đông Long từ sớm cầu an cho tiểu thư!
Ngọc Cầm quay mặt vào trong tường. Nàng hiểu rõ rằng Ngọc Thư không đến chùa để cầu an.
– Hôm nay đã là mười tám rồi… Có còn trăng nữa không?
Viên ngự y chợt sững sờ, ông nhìn ra khung cửa sổ:
– Tiểu thư không thấy rằng trời vẫn mưa ư?
Mưa vẫn còn rả rích và trời sầm sì buồn não. Ngọc Cầm nằm yên không nói thêm lời nào nữa nhưng đôi mắt nàng không rời bức tranh.
Chàng đã không tới thật rồi… Phải! Biển có quá nhiều cơn gió đi qua… Tại sao những con chim biển lại luôn vỗ cánh trong giấc mơ… Tại sao những con dã tràng cứ rúc sâu xuống cát… Rõ ràng đó là điềm trời báo trước… Nếu người ta quên ngắm trăng vào mười bốn thì sẽ chẳng bao giờ được thấy trăng rằm…
Những hạt mưa ngoài kia sao hồng hồng như cánh đào rơi buổi đêm xuân. Nàng lại chìm vào cơn mộng mị mất rồi… Biết bao con dã tràng đang vây xung quanh nàng… Tiếng vỗ cánh của loài chim biển… Lửa bùng lên thiêu những bức tranh cháy rụi… Một bông sen gãy cuống gục xuống mặt hồ lăn tăn sóng…
– Ngọc Cầm… Ngọc Cầm… em sao thế…
Ngọc Cầm hất chăn vùng dậy. Nàng thở dốc… Ngọc Thư đỡ nàng nằm xuống, nàng vẫn không lấy lại được bình tĩnh.
– Em sốt cao quá…
– Chị à…- Giọng nói của nàng chỉ còn hổn hển- Sau trận ốm này, liệu em có chết không?
– Vớ vẩn!- Ngọc Thư quát to- Chị xin lỗi… Tại sao em lại chán nản đến thế! Từ lâu lắm rồi chị không thấy tiếng cười của em trong như ngọc nữa…
Ngọc Thư vuốt mái tóc của Ngọc Cầm, trìu mến dõi ánh mắt mơ màng.
– Chị à… Chị có thấy rằng càng trong thì càng dễ vẩn đục không? Nếu chị không muốn thấy em khóc, chị đành phải nghe tiếng cười của em vậy!
Ngọc Thư thật chẳng biết nói gì hơn là im lặng. Sự im lặng càng lôi kéo Ngọc Cầm vào bức hoạ treo trên tường.
– Mùa xuân sao lại ở sau lưng em… Hóa ra nó chẳng đuổi kịp nổi em rồi…
Ngọc Thư kéo ghế dịch lại, che tầm mắt của Ngọc Cầm đang hướng về phía bức tranh.
– Cả Đông Đô đang đồn đại về em, về mối tình của thánh thượng dành cho em… E rằng em không thể không nhận sắc phong được rồi…
Ngọc Cầm thở một hơi nặng nhọc:
– Cho dù chị có che bức tranh đi thì em vẫn nhìn thấy nó. Một bức tranh đầy mê cảm thì cho dù nó có bị đốt cháy thành tro bụi, người ta vẫn bị ám ảnh…
Chương 32:
Viên ngự y bê một bát thuốc nóng nghi ngút đặt lên trên bàn. Ngọc Cầm hé mắt, nàng gượng người dậy.
– Lần sau thánh thượng tới, ông nhớ đánh thức tôi… Tôi có chuyện muốn tâu với ngài…
Viên ngự y khẽ khuấy nhẹ thìa thuốc, giật mình gật đầu. Ngọc Cầm lại tiếp lời:
– Ta không phải con gái ông, cũng không phải chủ nhân của ông, sao ông lại chăm sóc ta tận tình đến vậy…
– Nghiệp y lấy đức làm trọng… Thánh thượng cũng thế mà một đứa trẻ lang thang cũng thế…
Ngọc Cầm lại thở dài:
– Giá như trên đời này còn được người có y đức như ông… Ngày mai ông không cần chăm sóc cho ta nữa… Đằng nào ta cũng sẽ chết, ông bị truy tội thì thật không công bằng… À, thuốc đã đỡ nóng chưa!
Ngự y bưng bát thuốc tới cho Ngọc Cầm. Nàng ghé sát môi, thấy vị đắng, nhăn mặt khó chịu. Nàng trầm ngâm trước bát thuốc sóng sánh màu đen:
– Ta nói trước với ông để ông biết rằng không phải là ta chê y thuật của ông kém… Chỉ vì ta cảm nhận được cái chết rất gần ta… Có thế thôi!
Nàng lại đưa bát thuốc tới chạm môi. Viên ngự y đột ngột quỳ xuống, mặt tái lại vì xúc động:
– Trong thuốc có độc…
– Ta đã đoán trước hết rồi… Hôm nay ông khuấy thuốc nhiều hơn bình thường và sắc mặt ông cũng không được thư thái như mọi ngày… Ta cảm nhận được!
Ông lắc đầu vì thất vọng:
– Tại sao… tại sao chứ… Ta sẽ tìm tiểu thư Ngọc Thư về và sẽ giúp hai nàng trốn khỏi đây…
Ngọc Cầm xua tay cười:
– Còn gia quyến của ông thì sao… Số mệnh đã vậy rồi, cũng chẳng thoát được… Cuộc sống của ta đến đây, ta còn cảm thấy nó đáng sống… Nếu mai này, khi ta trở nên khôn ngoan hơn, thành bậc mẫu nghi thiên hạ để rồi chết khô trong hoàng cung… thì thà ta chết trong Cầm Thư quán còn sung sướng hơn biết bao lần… Ông hãy về đi! Ta muốn chết một mình… tiêu diêu tự tại đi giữa biển xanh… ông về đi!
Mấy ngày chăm sóc Ngọc Cầm, chưa bao giờ ngự y thấy nàng nói nhiều như thế. Ông đành lặng lẽ đứng dậy, cúi người lui ra…
– Ai là người muốn hại ta…
Ngự y cúi đầu không đáp. Ngọc Cầm nhếch khóe hạnh, lắc đầu rồi ngửa mặt cười lớn…
Ngọc Cầm thấy ông khuất bóng, nàng uống cạn bát thuốc rồi gượng dậy đi ra cửa sổ. Ao sen chỉ còn một đám khô đen xơ xác giữa bầu trời ảm đạm.
Trời chiều đè nặng cánh chim bằng một thứ mây vô định.


Chương 33:
“Nhi nữ đa tình nguyên thị Phật
Anh hùng mạt lộ bán vi Tăng”
(Nhi nữ đa tình thì thỉnh Phật
Anh hùng cùng đường nửa là Tăng)
Tiếng ngâm thơ văng vẳng sau điện thờ khiến Ngọc Thư không khỏi kinh ngạc. Nàng ngừng khấn, vội đứng dậy, bước nhanh tới gần điện. Từ sau bức tượng Thích Ca, một nhà sư áo trắng bước ra giữa nghi ngút khói hương.
Ngọc Thư không giấu được sự vui mừng:
– Đó không phải lời Thích Ca muốn dạy chúng tăng…
– Có hề gì… Những lời dạy chỉ dành cho những kẻ còn mê muội… Còn tranh giành, còn muốn nói là còn ngu xuẩn…
– Tiếc rằng thầy nói không phải ít…
Nhà sư nghiêng người chắp tay:
– Khi Thích Ca muốn truyền đạo, ông cũng không phải người nói ít… Cái nói của kẻ ngu và kẻ tuệ khác nhau…
Lư hương đột ngột bốc lửa cháy nghi ngút. Lửa rừng rực thiêu đốt cả trăm nén hương đang đốt dở làm rụng xuống tro tàn.
– Đã qua Trung thu từ rất lâu rồi…
Nhà sư cúi đầu:
– Bần tăng sẽ cùng tiểu thư về Cầm Thư quán…
Ngọc Thư vuốt lọn tóc rũ xuống gò má, mỉm cười:
– Bức tranh của Cầm Thư quán đang đợi thày tới hoá duyên…
Lửa lại bùng lên lần nữa, đỏ hơn và khói toả mùi trầm lẫn khét ám cả vào tượng Phật.


Chương 34:
Nhà sư và Ngọc Thư vừa thấy rặng trúc trước cổng thì đã nghe thấy tiếng huyền run run… Nghe đâu đó đầu lưỡi vị mặn của bọt biển…
Một màu đen vô cùng của đáy sâu thăm thẳm. Dưới đáy biển thì có bao giờ có sóng nhưng lại luôn làm dậy sóng. Mặt trời, mặt trăng, trời xanh, mây trắng rơi xuống đáy cũng chỉ đành tan vào màu đen bất tận ấy. Đàn lặng nén ngực tới ngừng đập.
Ram ráp lòng bàn chân. Từng bước chân dưới đáy sâu hoá ra chỉ là những dấu chân hoảng loạn của con dã tràng trên bờ biền. Từng cung bậc cưa đứt lòng người thành trăm khúc… Từng ngón tay nổi lên đường gân tím chằng chịt quái trận.
Một giọt máu đọng bám theo bầu đàn chạy vệt đỏ dài xuống dây… Dây đàn nhuốm màu đỏ tươi…
Có gốc đào đâm chồi dưới đáy sâu… Nụ đào vừa he hé mượt nhung đã bung nở lung linh ánh hào quang ngũ sắc. Con rùa vô tình bơi qua uể oải làm rung thân cây… Cánh đào rời ra khỏi đài hoa… Vô vàn cánh đào không rụng xuống đáy mà dâng lên theo sóng… Sóng cứ dâng… Đào cứ lơ lửng, chơi vơi… Đâu đâu cũng thấy cánh đào… Mặt nước biển xanh lấm tấm những chấm phớt hồng kéo tới tận chân mây trắng…
“Hoá ra chỉ là một tràng mộng của kẻ khát thèm. Sự tuyệt mỹ, khoái lạc vốn dĩ không có thực trên cõi đời này. Thấu tới tận cùng trời đất là chạm một đầu ngón tay vào cái chết… Chàng đã bỏ ta rồi, đã quên ta rồi… Chàng chỉ cần ta cho bức tranh tận thiện tận mỹ của chàng… Bức tranh ấy đâu còn là ta nữa… Chàng sẽ chẳng tới đâu vì trăng cũng không tới… Trăng rằm cũng đành chết dưới đáy trời bởi chẳng bao giờ đạt tới tận thiện, tận mĩ… Trăng đêm qua tuyệt đích nhưng nào có phải trăng rằm… Hương rượu sen… Hương rượu sen trong hơi thở của chàng… Rồi ta lại ra giữa trùng khơi tìm hương rượu sen…”
Đàn vụt đứt. Máu ròng ròng trên sợi cước. Ngọc Cầm gục xuống thân đàn. Mái tóc nàng buông xoã phủ kín cây độc huyền. Đôi ba sợi tóc còn rung rung, phập phồng cũng lặng dần… lặng dần…
Gót hài của nàng trong bức tranh như được nhập thần… Những cánh hoa đào đang bám theo gót hài về tận nơi xa vút…


Chương 35:
Trời sầm xuống… Mây đen đẩy lùi mây trắng xuống tận đáy biển sâu vạn dặm. Trời loang lổ, biển cũng loang lổ… Một con thuyền lạc giữa mênh mang…
– Biển động!
Nhà sư bình thản toạ thiền. Ngọc Thư áp lòng bàn tay lên sóng.
– Ngọc Cầm vừa chạm tới đáy là biển động!
– Điều bần tăng cần nói với tiểu thư Ngọc Cầm trở thành vô nghĩa mất rồi…
Ngọc Thư rút tay lại vì nước biển đột ngột lạnh:
– Vậy còn với ta… chẳng lẽ thầy không có điều gì muốn nói với ta hay sao? Thầy có sợ rằng sẽ có một ngày điều ấy trở nên vô nghĩa…
– A di đà Phật…
Nhà sư nhắm mắt cố định thần rồi đưa tay mở tay nải.
Ngọc Thư chết lặng người. Nàng sững sờ. Trước mặt nàng là pho tượng Phật được điêu khắc tinh vi, màu sắc tươi tắn như đang sống động. Nhưng sự tinh tế trong từng đường khắc không khiến nàng kinh ngạc. Nàng bị choáng váng bởi hình thù quái dị của pho tượng. Một Phật Ông và một Phật Bà đang ôm nhau, nét mặt hoàn toàn thoát tục, mọi chiếc áo cà sa đều trở nên vô nghĩa… Ngọc Thư rón rén rờ tay khắp pho tượng, nàng vẫn im lặng, chưa hết sự hoảng loạn.
– A di đà Phật…
– Thày vẫn có thể đi theo Phật A di đà được ư? Bức tượng đẹp nhưng là vật dị giáo…
Nhà sư chợt bật cười lớn át cả sóng đang mỗi lúc một dữ dội. Tiếng cười của nhà sư như được cất lên từ cõi sâu hun hút.
– Đôi khi ta vẫn luôn tự hỏi mình rằng thày có phải là người theo Phật?
Nhà sư lại càng cười lớn hơn… cười như chưa bao giờ được cười… cười khiến những đám mây cọ vào nhau thành tiếng sấm…
– Tại sao nàng không cười đi! Đây là bức tượng Phật Đại Hoan Hỉ … Tại sao nhìn thấy Phật Hoan Hỉ, nàng lại hoảng sợ tới vậy? Nàng muốn nghe điều ta muốn nói với nàng kia mà…
Ngọc Thư đỏ mặt quay đi. Thuyền chòng chành khiến nàng bám chặt vào thành thuyền. Nhà sư đột ngột gỡ tay nàng và nắm thật chặt, gối chàng quỳ xuống đè lên tà váy Ngọc Thư.
– Nàng đã bao giờ nghĩ tới nếu Thích Ca, Lão Đam, Khổng Khâu cùng sống với nhau thì như thế nào chưa? Chỉ có những kẻ bám theo gấu áo của ba ngài mới nhốn nháo tranh cãi nhau và đưa ra trăm vàn giới luật… Những kẻ ấy chẳng bao giờ xót thương để biết đem chôn và hoá duyên cho những bức tranh trong một ngày xuân… Ta chẳng muốn đi theo ai… Ta chỉ muốn đi trên con đường của ta giữa bể khổ và chẳng cần biết đến quay đầu… Ai không phải chết, chết giữa bể khổ và chết trên bờ thì có gì khác nhau?
Bức tượng Phật Hoan Hỷ rơi tùm xuống biển. Phật Bà chìm trước, Phật Ông chìm sau giữa muôn trùng tăm tối. Hai vị Phật ở dưới đáy sâu vẫn sẽ ấp ủ sự hoan hỷ. Này thì “định”, này thì “tuệ”… đều chẳng là gì giữa màu đen của biển khơi.
Trên mặt nước, sóng vẫn chồm cao. Sét rạch ngang bầu trời mặt biển như muốn xé đôi tất cả để tìm thử xem pho tượng Hoan Hỷ đang nằm ở đâu dưới đáy sâu vạn dặm kia.
Chú thích:
19- Phật Hoan Hỷ là một trong số những bức tượng thờ Phật của phái Mật Tông. Phật Hoan Hỷ có hình thù của đôi trai gái lõa thể, tượng trưng cho sự thoát tục, người nam đại biểu cho “tuệ”, người nữ đại biểu cho “định”, như hai bánh xe của một cỗ xe, như một con chim có hai cánh. Hai thân thể nam nữ ôm nhau đã thể hiện sự thành công về cả trí tuệ lẫn phương pháp, gọi là “bi trí tương hợp”, nam nữ tương hợp là một con người hoàn chỉnh, là một sự viên mãn đầy đủ. Bức tượng cũng thể hiện cho việc song tu sẽ sớm thành Phật.
KẾT
“Ai đếm nổi bao cánh đào rơi buổi xuân tàn? Ai thấu hết thanh hương từ bầu rượu sen đang lênh láng trên mặt bàn… Gót hài kia đang đi về đâu thế? Đất trời rộng bao la làm vậy mà sao chẳng nơi nào có thể là nơi ta tung cánh tự do? Thế gian chua ngoa, độc ác đâu có chỗ cho những cánh hoa đào mỏng mảnh sống qua được mùa xuân…
Tại sao ta còn cố đi tìm một bức tranh chân thiện, chân mỹ? Gót hài của nàng… gót hài của nàng… Không kẻ nào có thể chiếm đoạt, cưỡng bức…”
Chàng thư sinh gạt tay! Bầu rượu vỡ tan tành trên sàn gỗ. Những giọt rượu lăn dài qua kẽ hở giữa hai tấm ván, trườn nhẹ trong thinh không rồi chìm dần trong đáy nước xôn xao của Dâm Đàm.
Mười đầu ngón tay như những bước chân của loài dã tràng trên cát chạy dài lên sợi tơ đàn bật ra dải âm thanh day dứt khôn nguôi. Cứ mỗi một phím tơ rung lên là một bông hoa đào rụng xuống trước hiên.
– Ta biết là ngươi sẽ xuất hiện! Ta biết… ta biết…
Chàng giật mình nhìn về phía cánh cửa gỗ dẫn ra thủy đình. Thánh thượng đã lặng lẽ đứng đó từ khi nào.
– Ta biết vì ngươi mà nàng lánh xa ta… ta biết ngươi sẽ quay lại Cầm Thư quán để tìm nàng… Ta không biết ngươi là ai, nhưng mỗi lần nhìn thấy bức tranh kia, ruột ta như đứt đoạn… Ngươi còn về đây để làm gì?
Một phút im lặng kéo dài! Im lặng tới còn nghe thấy cả những bông hoa đào chạm vào nền gỗ ướt mưa. Bất chợt, chàng thư sinh ngửa cổ dốc ngược bầu rượu sen. Lần đầu tiên trong cuộc đời chàng thấy rượu đang thiêu đốt cổ họng tan thành tro bụi. Chàng cười lớn, cười thật lớn để thổi cao ngọn lửa đang bừng bừng.
– Ngươi đam mê nàng ư? Không! Ngươi chỉ muốn chiếm giữ cả thân xác, cả tâm hồn, cả khúc “Hải du” của nàng thôi… Kẻ làm vua… Kẻ làm vua bao giờ chẳng coi những điều chân thiện, chân mĩ như vàng bạc, châu báu trong kho… Ngươi hãy ra khỏi đây đi… Cầm Thư quán không phải chỗ cho kẻ dơ bẩn như ngươi. Hãy về với cung vàng điện ngọc của nhà ngươi, hãy ôm ánh hào quang của ngươi vào lăng mộ để muôn vàn bóng ma nhảy múa ngợi ca, đừng bắt nàng hay ta phải khuất phục trước ngươi…
Lại một khoảng im lặng. Có cơn gió luồn qua vai thánh thượng, khẽ lay bức tranh Ngọc Cầm, làm rung rung gót hài. Thánh thượng giật mình. Bước chân Ngọc Cầm mang theo cơ man nào là đào hoa đang đi xa dần ngài… ngài sẽ không bao giờ với tới. Bất giác, ngài thở dài… quay đi…
Chàng nghe tiếng kẽo kẹt của mái chèo xa dần. Chàng lại tiếp tục say hương rượu.
Kìa lửa! Lửa! Lửa lan bốn phía tường. Lửa cao dần ngút trời khói. Tiếng cười của chàng như rạch lửa xao động cả mặt hồ. Hơi khói lẫn vào hơi rượu sen.
“Nàng đang đi đâu thế? Đợi ta cùng đi! Ta sẽ nhặt từng cánh hoa đào còn vương vất giữa quãng đường mòn… Ở chốn ấy, không có cánh đào rơi… không có những kẻ luôn muốn cưỡng đoạt nàng để biến nàng thành thứ ngọc ngà, vàng bạc… không có biển và chẳng có đất liền… Nơi ấy là nơi ta và nàng đã ra đi để bây giờ lại cùng nhau trở về… Chờ ta cùng về…”
Tia chớp rạch ngang trời! Bầu rượu sen trên tay chàng rực lửa đỏ. Lửa cũng rơi xuống đáy hồ… Tro tan thành bọt nước…
Giữa đống tro tàn nhú lên một búp hoa trắng muốt tựa trăng thu, he hé hàm tiếu - một loài hoa sương lẫn tuyết, thấm hồn trinh nữ nở trong đêm.
Hà Nội, 20/11/2005
Hà Thủy Nguyên
Theo http://bookhunterclub.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một tiểu thuyết chương hồi mà hiện đại

Một tiểu thuyết chương hồi mà hiện đại (Đọc tiểu thuyết “Chớp mắt luyến thương” – NXB Hội Nhà văn) Bạn đọc đã biết nhiều đến tên tuổi nhà ...