Nguyễn Du
về Hồng Lĩnh trong khoảng thời gian 1794-1796 cùng em Nguyễn Ức với nhiệm vụ được
anh Nguyễn Nể giao phó: xây dựng lại từ đường họ Nguyễn Tiên Điền, làng Tiên
Điền, đình, chùa Trường Ninh, cầu Tiên. Nguyễn Nể(1761-1805) bận công việc quan
về Phú Xuân giữ chức Đông Các đại học sĩ, gia tặng Thái sử, thự Tả Thị Lang, tước
Nghi Thành Hầu, chức vụ dâng sách cho vua Cảnh Thịnh mới lên mười hai tuổi, đọc
và giảng nghĩa cho vua nghe sách Tiểu Học Diễn Nghĩa do La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp và Sùng Chính Viện vừa mới soạn xong. Ngoài ra còn các công việc giúp vua
soạn các chiếu biểu, và kiêm các công việc Cơ Mật Viện, và chức vụ cuối cùng được
thăng tới chức Trung Thư lĩnh hữu đồng nghị, chức vụ ngang hàng với quân sư Trần
Văn Kỷ. Nguyễn Nể làm các công việc làm thầy dạy và quân sư cho vị vua trẻ.
Nguyễn Nể không thể giao công việc xây dựng lại làng Tiên Điền này cho ai ngoài
hai em cùng cha cùng mẹ.
Nguyễn Du được ông anh cả Tiến
Sĩ Nguyễn Khản hơn 31 tuổi nuôi dưỡng, khi cha, mẹ mất năm 10, 12 tuổi. Nguyễn
Du chịu ảnh hưởng ông anh cả cái tài hoa làm thơ Nôm, nhân gian thường truyền tụng
các bài hát mới quan Thượng Thư Bộ Lại. Nguyễn Ức chịu ảnh hưởng người anh cả
cái tài khéo tay vẽ kiểu xây dựng dinh thự, cung điện. Tất cả việc xây dựng
cung vua phủ chúa, cho đến việc thiết trí các hòn non bộ chúa Trịnh Sâm đều
giao phó cho Nguyễn Khản. Tiếc thay các công trình xây dựng của Nguyễn Khản
cùng sự nghiệp 243 năm các chúa Trịnh. đều bị vua Lê Chiêu Thống sai người đốt
cháy hàng tháng trời, sau khi chúa Trịnh Bồng trốn khỏi phủ. Việc xây dựng lại
làng Tiên Điền chủ yếu là Nguyễn Ức, người có tài xây dựng, thời Gia Long, Minh
Mạng giữ chức Thiêm Sự Bộ Công là người vẽ kiểu, điều khiển việc xây dựng kinh
thành Huế... Nguyễn Du ở cạnh bến sông Quế Giang, cạnh Giang Đình để tiếp nhận gỗ,
gạch, vật liệu chở về theo đường sông.
I - Cuộc sống Nguyễn Du bên
bờ sông Quế Giang:
Làng Tiên Điền sau cuộc khởi nghĩa
Nguyễn Quýnh bị giết năm 1791, cả làng bị làm cỏ, và đốt cháy rụi bởi Trấn Thủ
Tây Sơn Lê Văn Dụ. Dinh thự Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm bị dùng mở heo đốt
thành tro khói. Thư viện họ Nguyễn Tiên Điền chứa hàng vạn quyển sách không
thua gì thư viện Trường Lưu họ Nguyễn Huy, mười phần chỉ còn một hai. Nguyễn Du
về quê cha đất tổ, trên một bãi chiến trường còn sót lại, không vợ con, không
công danh sự nghiệp nên vẫn xem ba năm ở Tiên Điền là thời gian gió bụi. Các
bài thơ làm ở Hồng Lĩnh, cho thấy Nguyễn Du sống độc thân trong một gian nhà
tranh, bên bến sông, bốn vách là sách vở thư viện Nguyễn Tiên Điền còn sót lại.
Những chồng sách nằm chống đỡ thân bệnh, bên đèn nhấp rượu cho hồng hào dung
nhan. Suốt ngày trên bếp không đun lửa. Ngoài song no với khóm cúc vàng. Những
chi tiết này bác bỏ điều các sách vở chép Nguyễn Du có vợ họ Đoàn năm 17 tuổi,
nếu Nguyễn Du đã có vợ thì ít ra cũng có người làm bếp núc trong thời gian này.
Sở dĩ Nguyễn Du có vợ muộn năm 30 tuổi vì anh Nguyễn Khản, người nuôi nấng
Nguyễn Du từ năm 1780 hết bị tù tội vì vụ án Trịnh Tông, lại bị kiêu binh phá
dinh thự và mất năm 1786. Người anh thứ hai Nguyễn Điều cũng mất cùng năm. Từ
đó sau cuộc khởi nghĩa ở Tư Nông Thái Nguyên thất bại, bị bắt được tướng Vũ Văn
Nhậm tha không giết. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc cùng Nguyễn Đại
Lang. Ba năm trở về Thăng Long, câu cá ở Gác Tía của anh, cạnh đền Khán Xuân,
yêu cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi Mai.
Trở về Tiên Điền, Nguyễn Du bị bệnh mười
tuần (ba tháng mười ngày) vào cuối năm 1794 trên bến sông Quế Giang(Sông Lam) .
Ba bài Tạp ngâm cho ta thấy cảnh sống nhà
thơ tại bên bờ sông Quế Giang.
Bài I: Tiếng thu một tối vượt qua sông
Lam, không bóng không hình lọt vào nhà ta. Gió Tây muôn dậm làm cho mái tóc
thêm bạc (Quân Tây Sơn ra Bắc làm cho Nguyễn Du lo lắng mà bạc tóc). Sắc thu
đầy trên cửa sổ trên khóm hoa vàng. Cuộc vui buồn trăm năm bao giờ hết? Sách
vở đầy bốn vách, bao nhiêu cũng vừa. Trước sân trồng một cây tùng cao trăm
thước, không biết chúa Xuân sẽ làm gì được người (trồng cây). Bài này cho thấy
số sách vở họ Nguyễn Tiên Điền không cháy hết còn lại 1,2 phần mười mà vẫn còn
lại một số chất đầy bốn vách. Đáng tiếc nhất là bộ sưu tập thơ văn của Đoàn Thị
Điểm của cụ Nguyễn Nghiễm bị cháy.
TẠP NGÂM I
Tiếng thu một tối vượt
Lam Hà,
Vô ảnh vô hình đến với ta.
Muôn dậm Tây phong đầu bạc tóc,
Một song thu sắc cúc vàng hoa.
Trăm năm vui khổ bao giờ hết,
Bốc vách thi thư mấy cũng vừa.
Trước ngõ cội tùng trăm thước đứng,
Chúa Xuân ghen có được gì a?
Vô ảnh vô hình đến với ta.
Muôn dậm Tây phong đầu bạc tóc,
Một song thu sắc cúc vàng hoa.
Trăm năm vui khổ bao giờ hết,
Bốc vách thi thư mấy cũng vừa.
Trước ngõ cội tùng trăm thước đứng,
Chúa Xuân ghen có được gì a?
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẠP NGÂM I
Thu thanh nhất dạ độ Lam
hà,
Vô ảnh vô hình nhập ngã gia.
Vạn lý Tây phong lai bạch phát,
Nhất song thu sắc tại hoàng hoa.
Bách niên ai lạc hà thời liễu?
Tứ bích đồ thư bất yếm đa.
Đình thực cô tùng cao bách xích,
Bất tri thanh đế nại nhân hà?
Vô ảnh vô hình nhập ngã gia.
Vạn lý Tây phong lai bạch phát,
Nhất song thu sắc tại hoàng hoa.
Bách niên ai lạc hà thời liễu?
Tứ bích đồ thư bất yếm đa.
Đình thực cô tùng cao bách xích,
Bất tri thanh đế nại nhân hà?
Chú thích:
Lam hà : tức sông Lam
Thanh đế: thần mùa xuân, còn gọi Đông đế
hay Đông quân. Ý nói cây thường xanh tươi mùa xuân, tiêu điều rụng lá mùa thu,
nay trồng một cây tùng xanh tươi suốt năm, chẳng hay chúa Xuân có làm gì được
người trồng cây tùng không?
Xích: thước đo ngày xưa bằng ba gang tay.
Bài Tạp ngâm II: Đầu sông Long Vĩ có một
gian nhà, ở ẩn buồn đến cực độ, bỗng thấy vui. Cõi lòng người khoáng đạt sáng
tỏ như vầng trăng. Trước cửa nhà ẩn dật toàn là núi xanh. cạnh gối có chồng
sách đỡ tấm thân bệnh tật. Trước đèn uống chén rượu cho vẻ mặt tiều tụy vui
tươi lên. Suốt ngày bếp không đỏ lửa, ngoài cửa sổ hoa cúc vàng tươi tốt có thể
ăn được. Bài viết này thêm một bằng chứng Nguyễn Du còn độc thân.
TẠP NGÂM II
Long Vĩ đầu sông nhà một
gian,
Ẩn sầu chót vót bỗng vui tràn.
Đạt nhân lòng tỏ như trăng sáng,
Xử sĩ trước nhà vọng núi xanh.
Gối sách đỡ thân nằm bệnh tật,
Bên đèn rượu nhắp thắm dung nhan.
Suốt ngày bên bếp không đun lửa,
Ngoài song no với khóm hoa vàng.
Ẩn sầu chót vót bỗng vui tràn.
Đạt nhân lòng tỏ như trăng sáng,
Xử sĩ trước nhà vọng núi xanh.
Gối sách đỡ thân nằm bệnh tật,
Bên đèn rượu nhắp thắm dung nhan.
Suốt ngày bên bếp không đun lửa,
Ngoài song no với khóm hoa vàng.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
TẠP NGÂM III
Long Vĩ giang đầu ốc
nhất gian,
U cư sầu cực hốt tri hoan.
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,
Xử sĩ môn tiền thanh giả san.
Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt,
Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan.
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa,
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.
U cư sầu cực hốt tri hoan.
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,
Xử sĩ môn tiền thanh giả san.
Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt,
Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan.
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa,
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.
Bài Tạp ngâm III: Tháng tám cảnh thu già
lặng lẽ, khí trời mênh mang nửa rạm mây nửa nắng. Bụi trúc cao gió thổi, tiếng
sáo trời nổi lên, hoa cúc sau trận mưa, rơi xuống rắc hoa vàng trên mặt đất.
Khí lạnh rặng núi xa thấm vào giấc mộng người du tử. Nước đầm trong suốt giống
như lòng chủ nhân. Ra trước cửa thong thả ngắm sắc thu, thấy một nửa trên dải
rừng phong mé đầu sông.
TẠP NGÂM III
Tháng tám thu tàn vương
mác man,
Khí trời nửa nắng mây mênh mang.
Gió đùa cao trúc trời vang sáo,
Mưa ướt hoàng hoa đất rãi vàng.
Núi lạnh gió lùa du tử mộng,
Đầm sâu trong suốt chủ nhân lòng.
Cửa ngoài dạo gót nhìn thu sắc,
Thoáng nửa đầu sông, rừng lá phong.
Khí trời nửa nắng mây mênh mang.
Gió đùa cao trúc trời vang sáo,
Mưa ướt hoàng hoa đất rãi vàng.
Núi lạnh gió lùa du tử mộng,
Đầm sâu trong suốt chủ nhân lòng.
Cửa ngoài dạo gót nhìn thu sắc,
Thoáng nửa đầu sông, rừng lá phong.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẠP NGÂM III
Mạc mạc thu quang bát
nguyệt thâm,
Mang mang thiên khí bán tình âm.
Thu phong cao trúc minh thiên lại,
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim).
Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,
Trừng đàn thanh cộng chủ nhân tâm.
Xuất môn từ bộ khan thu sắc,
Bán tại giang đầu phong thụ lâm.
Mang mang thiên khí bán tình âm.
Thu phong cao trúc minh thiên lại,
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim).
Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,
Trừng đàn thanh cộng chủ nhân tâm.
Xuất môn từ bộ khan thu sắc,
Bán tại giang đầu phong thụ lâm.
Bài Tạp thi I Ghi lại tâm sự Nguyễn Du:
Tráng sĩ bạc đầu bùi ngùi ngẩng nhìn trời, hùng tâm sinh khí mờ mịt cả hai.
Chuyện tình với cô Xuân Hương làng Nghi Tàm, cô Cúc làng Trường Lưu thành
chuyện hão. Lần lửa đông rét hè nóng, cướp cả tuổi trẻ. Dắt chó vàng mãi vui
thú dưới Hồng Lĩnh. Trông mây trắng nằm bệnh bên bờ sông Quế. Ở thôn quê, thích
được mua rượu luôn. Trong túi hãy còn ba mươi đồng tiền.
TẠP THI I
Bạc đầu tráng sĩ ngẩng
trời than!
Đựng nghiệp, mưu sinh thảy lỡ làng.
Thu cúc, xuân lan thành mộng ảo,
Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh.
Chó vàng vui thú quanh Hồng Lĩnh,
Mây trắng, nằm đau cạnh Quế Giang.
Vẫn thích làng quê hằng có rượu,
Ba mươi tiền sẵn túi con mang.
Đựng nghiệp, mưu sinh thảy lỡ làng.
Thu cúc, xuân lan thành mộng ảo,
Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh.
Chó vàng vui thú quanh Hồng Lĩnh,
Mây trắng, nằm đau cạnh Quế Giang.
Vẫn thích làng quê hằng có rượu,
Ba mươi tiền sẵn túi con mang.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẠP THI I
Tráng sĩ bạch đầu bi
hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
Xuân lan, thu cúc thành hư sự,
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ,
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên.
Thôn cư bất yếm tần cô tửu,
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
Xuân lan, thu cúc thành hư sự,
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ,
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên.
Thôn cư bất yếm tần cô tửu,
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.
Bài Tạp Thi II. Non Hồng một màu soi bóng
xuống làn nước phẳng, nơi thanh tú tĩnh mịch này, kẻ hàn sĩ có thể ở được. Mây
trắng từ ngàn dậm đến bay in bóng trên giường chiếu, Trăng sáng soi qua cửa sổ
chiếu vào cặp sách túi đàn. Nguyễn Du luôn có bên mình thanh gươm và cây đàn
nguyệt. Lúc loạn lạc cười khóc cũng theo đời. Thân già yếu nên yên lặng để giữ
mình. Chuyện đời trước mắt thay đổi như hoa nở lá rụng. Quanh năm cõi lòng vẫn
thản nhiên như không. Tình hình Hồng Lĩnh từ sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh,
công an quận công Thận đang kiểm soát gắt gao, tai vách mạch rừng, nói gì cũng
phải cẩn thận, cười khóc phải theo thời, thiên hạ đang cười mà mình khóc, thiên
hạ đang khóc mà mình cười công an bắt ngay!. Từ khi vua Quang Trung mất, chúa
Nguyễn Ánh nổi dậy đang hùng cứ Nam Hà, chuyện đời sẽ đổi thay như hoa nở lá
rụng.
TẠP THI II
Núi Hồng soi bóng nước
xanh trong,
Hàn sĩ nơi đây ẩn cảnh nhàn.
Ngàn dậm mây về quanh chiếu chỏng,
Một song trăng sáng rọi thư đàn.
Khóc cười thời loạn theo trần thế,
Bệnh yếu lặng câm mà giữ thân,
Trước mắt nở hoa rồi rụng lá,
Bốn mùa thanh thản có như không.
Hàn sĩ nơi đây ẩn cảnh nhàn.
Ngàn dậm mây về quanh chiếu chỏng,
Một song trăng sáng rọi thư đàn.
Khóc cười thời loạn theo trần thế,
Bệnh yếu lặng câm mà giữ thân,
Trước mắt nở hoa rồi rụng lá,
Bốn mùa thanh thản có như không.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẠP THI II
Hồng Sơn nhất sắc lâm
bình cừ,
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch.
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư.
Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch.
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư.
Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.
Trong thời gian ở Hồng Lĩnh, Nguyễn Du
trao đổi thơ với Hồ Xuân Hương (Xem Phạm Trọng Chánh, Đi tìm Cổ Nguyệt
Đường và mối tình Hồ Xuân Hương Nguyễn Du trên các site Vanhoanghean,
chimvietcanhnam, khoahocnet...). Nguyễn Du chia tay với Xuân Hương Hồ Phi Mai
nơi Thạch Đình đình đá bến Vị Hoàng (Nam Định) Nguyễn Du đã ứng khẩu bài Thạch
Đình tặng và Hồ Xuân Hương đã đáp lại bằng bài Họa Thanh Liên (Chí Hiên) nguyên
vận. Hồ Xuân Hương viết cho Nguyễn Du 17 bài thơ và Nguyễn Du gửi Hồ Xuân Hương
11 bài. Câu xướng và thơ họa ý tứ và từ ngữ ăn khớp nhau: Bài Thu Dạ I Nguyễn
Du cho biết mình bị bệnh: Cùng niên ngọa bệnh Quế Giang tân (Cuối
năm nằm bệnh bến Quế giang). Hồ Xuân Hương trả lời bằng bài Thu vũ, khóc thương
chàng: Đoãn trường khô thụ chi đầu lệ (cây khô dài ngắn tuôn
hàng lệ) Thâm khuê tối khổ như hoa diện, Nhất phiến sầu dung họa bất
thành (Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc, Một phiến sầu vương vẽ
chẳng thành). Bài Cố kinh thu nhật, Xuân Hương viết: Đăng nguyệt thanh
chiên bi cổ vật (Đèn nguyệt chăn xanh thương vật cũ; Nguyễn Du trả lời
lại bằng bài Khai song: Thanh chiên cựu vật khổ trân tích (Chăn
xanh vật cũ khư khư giữ). Bài Thu nhật tức sự, Hồ Xuân Hương viết: Tây
phong tạc dạ áp hàn chi (Đêm qua lành lạnh gió Tây về), Nguyễn Du bài
Thu Nhật ký hứng trả lời: Tây phong tái đáo bất quy nhân (Gió
Tây mới đến khách chưa về), Gió Tây là quân Tây Sơn. Nguyễn Du viết bài Ký Mộng:
Mộng lai cô đăng thanh, Mộng khứ hàn phong xuy. Mỹ nhân bất tương kiến Nhu tình
loạn như ti (Mộng đến đèn côi sáng, Mộng tan gió lạnh lùng, Giai nhân
nào thấy nữa, Lòng ta rối tơ vương). Hồ Xuân Hương nhắc lại trong bài: Cảm cựu
kiêm trình.. Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Nguyễn Du viết bài Độc
Tiểu Thanh Ký: Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư. (Tây Hồ vườn
cảnh đã hoang vu, vì thiếu nàng chăm sóc) Hồ Xuân Hương dứt tình Tổng Cóc
trở về trả lời bằng bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn: Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác
xưa, Người đồng châu trước biết bao giờ..
Thuyền Nguyễn Du từ giả bến Thạch Đình
sông Vị Hoàng, Sơn Nam Hạ, (Nam Định) ra đi và về đến bến Giang Đình làng Tiên
Điền. Giang Đình là một trong 8 cảnh đẹp huyện Nghi Xuân.
Về bên bến Giang Đình, Nguyễn Du nhớ lại nơi này năm Tân Mão
(1771) triều Lê năm ấy Nguyễn Du lên sáu tuổi. Cụ Nguyễn Nghiễm (1708-1776) tể
tướng xin về hưu được thăng Đại Tư Đồ. Chúa Trịnh cho ba chiếc thuyền hải mã
đưa về làng, cụ làm quan to nên có xe tứ mã, bốn ngựa kéo, có lót cỏ bồ cho êm.
Quan trấn thủ, quan huyện địa phương cũng cho đoàn thuyền đón rước, thuyền xô
nước như rồng đấu nhau, tàn lộng phất phới như chim hạc bay báo điềm lành. Ngày
đón rước như hội vui chưa từng thấy ghi sâu trong ký ức ngày Nguyễn Du mới sáu
tuổi. Từ độ ấy áo xiêm không còn thấy nữa. Hai bên bờ cây cỏ ngậm ngùi nhớ thuở
xa xưa. Trăm năm cuộc đời có biết bao nhiêu việc thương tâm. Gần đây, nơi kinh
đô cũng đã khác lắm rồi. Sau đó năm 1774 cụ Xuân Quận Công lại được triệu ra
phong Tả Tướng Quân, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn. Trận chiến thắng
vẻ vang chiếm được Phú Xuân, nhưng năm 1775 cụ bị bệnh dịch, đưa về làng dưỡng
bệnh, cụ mất năm Nguyễn Du mới lên mười. Đây là kỷ niệm duy nhất Nguyễn Du viết
về cha mình, năm 28 tuổi.
CẢM XÚC THẤY CẢNH GIANG ĐìNH
Chạnh nhớ cha ta xưa cáo
lão,
Xe bồ ngựa tứ bến sông này.
Thuyền tiên lướt lướt như rồng đấu,
Tàn lộng dập dìu ngỡ hạc bay.
Từ độ áo xiêm không thấy nữa,
Hai bờ cây cỏ chạnh sầu bi,
Trăm năm buồn biết bao tâm sự,
Nay chốn Trường An khác những ngày.
Xe bồ ngựa tứ bến sông này.
Thuyền tiên lướt lướt như rồng đấu,
Tàn lộng dập dìu ngỡ hạc bay.
Từ độ áo xiêm không thấy nữa,
Hai bờ cây cỏ chạnh sầu bi,
Trăm năm buồn biết bao tâm sự,
Nay chốn Trường An khác những ngày.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
GIANG ĐÌNH HỮU CẢM
Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật Tràng An đại dĩ phi.
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật Tràng An đại dĩ phi.
Giang đình: Cái đình bên bến
sông Lam gần làng Tiên Điền. Ngày xưa trên đường cái quan cứ một đoạn đường
khoảng 5 dậm cất đoản đình, 10 dậm cất một cái đình gỗ, gạch gọi là trường
đình, trên bến sông cất giang đình, và miền biển vì gió biển, giông bão nên cất
đình bằng đá gọi là thạch đình. Đình là nơi nghĩ ngơi các phu chạy ngựa trạm
nghỉ ngơi đổi phiên, đổi ngựa, gửi chiếu lệnh triều đình về phủ huyện và các
biểu, tấu ngược lại tâu lên triều đình. Trên sông biển được đi bằng thuyền.
Bồ tứ: bồ luân, xe bọc cỏ bồ
cho êm. Ngày xưa vua dùng xe bồ luân để đi đón người hiền tài, tỏ ý tôn kính.
Xe tứ mã, bốn ngựa ngày xưa dùng cho người làm quan to, nhà cao sang.
II - Hồng Sơn Liệp Hộ
Hết bệnh Nguyễn Du đi săn, trở thành
Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn núi Hồng) đi săn với con chó đốm vàng, nhưng chỉ
để lòng thư thái không mong gì được, không hại điều nhân từ diệt các loài. Đến
nơi các hươu nai vừa chạy mất hương còn hương thơm trên cỏ ướt.. Nghe tiếng chó
sủa, Nguyễn Du không theo kiếm tìm mà bỏ ngoài tai. Nguyễn Du thích đi săn
nhưng chỉ mang về măng tre, củ mài củ sắn và rau rừng... Nguyễn Du thấy lòng
mình nhẹ nhàng, mặc ai ra làm quan hưởng phú quý vinh hoa, nhưng lòng đầy lo âu
vì những phe phái triều đình Tây Sơn đang tiêu diệt lẫn nhau. Anh Nguyễn Nể về
triều giữ chức Đông Các và lên chức Trung Thư, quân sư nhà vua trẻ trong hoàn
cảnh đó. Chức vụ không thực quyền vì quyền hành trong tay Thái Sư Bùi Đắc
Tuyên, vua Quang Trung mất năm 1792 bất ngờ, sự nghiệp còn dang dỡ, vua Cảnh
Thịnh làm vua từ năm 10 tuổi, trước các biến loạn triều đình vua chỉ đứng khóc,
thì Nguyễn Nể, ông quân sư của nhà vua chỉ có công việc dâng nhà vua "vài
cây kẹo" và dỗ vua cho nín khóc. Tài năng như Khổng Minh cũng thất bại
trước ông vua trẻ con Lưu Thiện, con Lưu Bị, ông quân sư Trần Văn Kỷ bị Thái sư
Bùi Đắc Tuyên đày làm lính thú, Ngô Thời Nhiệm sau khi đi sứ báo tang trở về
Bích Câu Hà Nội, xuất gia thành hòa thượng Hải Lượng viết Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên
Thanh quên sự đời, Phan Huy Ích thành Bảo Chân đạo sĩ mở Bảo Chân Quán hồ Kim
Âu cạnh bên, Đoàn Nguyễn Tuấn về ẩn trong Phong nguyệt sào (Tổ gió trăng),
quyền hành Nguyễn Nể cũng rung rinh. Lần thứ nhất Nguyễn Nể phải xin ra trấn
đóng Bình Định, mới vừa thu phục sau khi chiếm được từ tay vua Tây Sơn Trung
Ương Nguyễn Nhạc. Ra trấn đóng Bình Định chưa tròn một năm, cuối năm 1795
Nguyễn Nể được cử đi sứ làm Chánh Sứ sang dự lễ vua Càn Long nhường ngôi cho
con là Gia Khánh. Trở về năm 1796 lại được phong thưởng cho 40 mẫu ruộng,
Nguyễn Nể đem hết tiền bạc Tây Sơn thưởng cho mình để xây dựng lại làng Tiên
Điền bị Tây Sơn đốt phá, lần này Nguyễn Nể nhận lãnh trách nhiệm xây dựng
Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An để xa lánh những xung đột trong triều đình.
Thời gian Nguyễn Du ở Hồng Lĩnh là lúc Nguyễn Nể mới về Phú Xuân, cuối năm 1794
Nguyễn Du có vào Phú Xuân thăm anh. Khi anh đi trấn nhậm Bình Định đầu năm 1795
Nguyễn Du có viết bài thơ Ức Gia huynh. Bài thơ viết khoảng cuối năm 1794 lúc
Nguyễn Nể được thăng Tả Phụng Nghị Bộ Binh vào thành Quy Nhơn giữ chức Hiệp Tán
Nhung Vụ (Trấn Thủ). Một chức vụ buộc anh ở phía Nam toà thành sáu tháp. Nguyễn
Du không đồng ý với anh nên cho rằng chức quan chỉ là sự bó buộc. Ban đêm vượt
đèo Hải Vân đá lởm chởm, đi gấp để ra trấn đóng. Ba năm trấn đóng vùng núi sơn
lam chướng khí. Quy Nhơn, thành Đồ Bàn, kinh đô cũ Chiêm Thành, kinh đô của vua
Trung Ương Tây Sơn Nguyễn Nhạc mới thu hồi, ấp thang mộc Tây Sơn nơi hiểm yếu,
khác với thái độ Phan Huy Ích trong bài Tiễn Binh Bộ Tả phụng nghị Nghi Thành
Hầu phó Quy Nhơn thành lời lẽ phấn khởi ca tụng tiễn đưa Nguyễn Nể, Nguyễn Du
vẫn xem đó là vùng lam chướng hẻo lánh.(xem bài Nguyễn Nễ bậc kỳ tài site
ditichnguyendu...). Tiết tháng hai lạnh lẽo nhìn hoa khói quê nhà. Một phen từ
biệt rồi không biết mai ra sao? Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau.
Trời bể mênh mông, đường xa nghìn dậm. Hồn phách tìm nhau dù trong mộng cũng
khó. Một biệt phương nào ai biết nhỉ? Nguyễn Du trong lòng đã nghĩ đến chuyện
đi vào Nam theo Nguyễn Ánh, nên nghĩ rằng sẽ không còn gặp anh nữa.
NHỚ ANH
Lục Tháp thành Nam buộc
chức quan,
Gập ghềnh đá vượt Hải Vân đêm.
Chướng lam ba tết xa, đồn trú,
Hoa khói tháng hai, nhớ cố hương.
Một biệt phương nào ai biết nhỉ?
Kiếp sau hẹn đến cuộc tương phùng;
Biển trời mù mịt đường ngàn dậm,
Trong mộng tìm nhau cũng khó khăn.
Gập ghềnh đá vượt Hải Vân đêm.
Chướng lam ba tết xa, đồn trú,
Hoa khói tháng hai, nhớ cố hương.
Một biệt phương nào ai biết nhỉ?
Kiếp sau hẹn đến cuộc tương phùng;
Biển trời mù mịt đường ngàn dậm,
Trong mộng tìm nhau cũng khó khăn.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ỨC GIA HUYNH
Lục Tháp thành Nam hệ
nhất quan,
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng xu lam chướng tam niên thú.
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt cách tri hà xứ trú,
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.
Hải thiên mang điểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan.
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng xu lam chướng tam niên thú.
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt cách tri hà xứ trú,
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.
Hải thiên mang điểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan.
Chú thích:
Lục tháp thành: chỉ thành Bình Định, có 8
cụm tháp, nhưng chỉ có 6 cụm ở gần đường chỉ thấy có sáu nên người xưa gọi là
thành Lục Tháp.
Hải Vân đèo nằm giữa Thừa Thiên và Quảng
Nam rất hiểm yếu nên được gọi là Đệ Nhất Hùng Quan.
Nguyễn Hành viết về Phi Tử Nguyễn Du trong
bài Ca tụng việc đi săn (Trương Chính. Thơ chữ Hán Nguyễn Du Nxb Văn Học, Hàn
Nội 1965, tr 38):
Đó là ông nói việc đi săn của người tầm thường, chứ ông đâu có
biết việc đi săn của bậc đại nhân. Bậc đại nhân đi săn không ở chỗ đi săn. Họ
nhởn nhơ chỗ nọ chỗ kia, ngắm núi ngắm rừng. Họ trèo lên đỉnh cao để nhìn vực
thẳm, tắm gội nơi suối trong, thơ thẩn giữa cây tùng cây bách,nhìn tạo vật biến
hóa, đùa giỡn với hươu nai, do đó mà tinh thần được thư thái, ý chí được trau
giồi, lòng dạ thảnh thơi không bận bịu, mây nhẹ nhàng luồn trong tay áo, gió
phất phơ thổi đưa tà áo, trông thấy kinh kỳ trong gang tấc, hứa hẹn những cuộc
ngao du. Bậc đại nhân đi săn như thế, người tục đâu có biết!
Bài Liệp, Đi săn Nguyễn Du viết: Những người áo mũ hiển đạt để chí mình ở đường mây, còn ta, ta vui với bầy
hươu nai của ta, cốt là để khuây khỏa trong lúc nhàn chớ đâu phải ham được thịt
thú. Diệt trừ giống khác hại chăng đến đức nhân? Con xạ ngủ nơi đồng cỏ non
hương thơm còn ướt. Con chó vượt qua nhiều lớp núi, tiếng sủa không còn nghe
thấy. Tìm thú vui chơi trong cuộc phù sinh mỗi người một sở thích. Những người
lọng đón xe đưa là người nào thế nhỉ?
ĐI SĂN
Kẻ đạt quan trường chí đỉnh
mây,
Còn ta vui thú với hươu nai.
Cốt lòng thư thái không mong được,
Không hại điều nhân diệt các loài.
Xạ ngủ cỏ thơm hương ướt ẩm,
Núi xa, chó sủa tiếng ngoài tai.
Thú vui phù thế âu tùy thích,
Xe đón lộng che ấy những ai?
Còn ta vui thú với hươu nai.
Cốt lòng thư thái không mong được,
Không hại điều nhân diệt các loài.
Xạ ngủ cỏ thơm hương ướt ẩm,
Núi xa, chó sủa tiếng ngoài tai.
Thú vui phù thế âu tùy thích,
Xe đón lộng che ấy những ai?
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
LIỆP
Y quan đạt giả chí thanh
vân,
Ngô diệc lạc ngô mi lộc quân.
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,
Bỉnh trừ dị loại bất phương nhân.
Xạ miên thiển thảo hương do thấp,
Khuyển độ trùng sơn phệ bất văn.
Phù thế vi hoan các hữu đạo,
Khu xa ủng cái thị hà nhân.
Ngô diệc lạc ngô mi lộc quân.
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,
Bỉnh trừ dị loại bất phương nhân.
Xạ miên thiển thảo hương do thấp,
Khuyển độ trùng sơn phệ bất văn.
Phù thế vi hoan các hữu đạo,
Khu xa ủng cái thị hà nhân.
Chú thích:
Thanh vân, mây xanh, chỉ công
danh thành đạt.
Bài Hành lạc từ Nguyễn Du viết
Bài I:
Chó tốt lông vàng đóm trắng, cổ
đẹp đeo chuông vàng, chàng trai trẻ mặc áo cộc, dắt về núi phía nam. Núi phía
nam có lắm nai hương, huyết thơm thịt lại béo, dao vàng thái thành món ăn quý,
rượu ngon uống hàng trăm chén. Đời người ai sống trăm tuổi, vui chơi nên kịp
thì, tội gì giữ nếp nghèo nàn, suốt năm không mở mặt mở mày. Di Tề chẳng có
danh lớn. Đạo Chích, Trang Cược hai tay trộm cướp thời Xuân Thu cũng chẳng giàu
to. Sống lâu cũng chỉ tám mươi tuổi, cần gì tính chuyện nghìn năm. Có chó cứ
giết ăn thịt, có rượu cứ uống cho hết; chuyện trước mắt hay dỡ khó mà biết
được, cần gì phải lo cái danh xa xôi sau khi chết rồi.
Bài II: Trên núi có hoa đào
tươi đẹp như tấm lụa đỏ, sáng sớm còn đùa giỡn với màu xuân đẹp, chiều tối đã
nằm giữa bùn lầy. Hoa đẹp không được trăm ngày, người sống lâu mấy ai trăm
tuổi, chuyện đời lắm đổi thay, kiếp phù sinh nên cứ vui chơi. Trên tiệc có gái
đẹp như hoa, trong vò có rượu quý như nổi sóng vàng, tiếng thúy quản, tiếng
ngọc tiêu (tiếng kèn, tiếng sáo) khi mau khi chậm, được dịp hát to cứ hát to.
Người không thấy ông Vương Nhung cầm thẻ ngà, ngày nào cũng tính toán mà trong
bụng vẫn thấy chưa đủ. Đài Tam công cũng đổ, cây mận ngon cũng chết, bạc vàng
tiêu tan cho người khác hưởng. Lại không thấy ông Phùng Đạo lúc về già phú quý
xiếc bao, trải mấy triều vua không rời ngôi khanh tướng, thế mà miếng đỉnh chung
rốt cuộc vẫn không, nghìn năm chỉ lưu lại bài Trường Lạc Tự. Phú quý trước mắt
không khác gì phù vân, người nay chỉ biết cười người xưa, người chết mồ mả đã
ngổn ngang, người sau vẫn bôn tẩu rộn ràng? Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ
trơ lại một nấm đất, không ai vượt qua cửa ải sống chết, khuyên anh nên uống
rượu rồi vui chơi, kìa trong cửa sổ phía tây, bóng mặt trời đã xế.
Bài thơ phản phất không khí thơ
bài Lý Bạch mời rượu, Trương Tiến Tửu, hãy vui chơi hôm nay. Đừng lo danh tiếng
hảo xa vời khi đã chết, công danh, giàu sang trần thế như phù vân, có rồi lại
mất, đời người ai sống được trăm tuổi, làm chi cho mệt cuộc đời. Đọc bài này
rồi ta không thể nghĩ rằng Nguyễn Du có thể viết ngược lại đòi ba trăm năm lẻ
nữa có người khóc mình trong bài Độc Tiểu Thanh Ký.
BÀI TỪ HÀNH LẠC I
Chó săn vàng đốm trắng,
Cổ đẹp đeo chuông vàng.
Chàng trai mặc áo ngắn,
Dắt về phía núi Nam.
Núi Nam nhiều nai hương,
Huyết ngọt thịt thơm ngon.
Dao vàng thái món quý,
Rượu ngon uống trăm chung.
Đời ai sống trăm tuổi,
Gặp thời cứ vui chơi.
Tội chi sống bần tiện,
Lo âu suốt đời người.
Di Tề chẳng danh lớn,
Chích Cược không giàu to.
Sống lâu chỉ tám chục,
Tội gì ngàn năm lo.
Có chó cứ làm thịt,
Có rượu cứ nghiêng bầu.
Hay dỡ trên đời sao biết được,
Cần gì lo tiếng hão về sau.
Cổ đẹp đeo chuông vàng.
Chàng trai mặc áo ngắn,
Dắt về phía núi Nam.
Núi Nam nhiều nai hương,
Huyết ngọt thịt thơm ngon.
Dao vàng thái món quý,
Rượu ngon uống trăm chung.
Đời ai sống trăm tuổi,
Gặp thời cứ vui chơi.
Tội chi sống bần tiện,
Lo âu suốt đời người.
Di Tề chẳng danh lớn,
Chích Cược không giàu to.
Sống lâu chỉ tám chục,
Tội gì ngàn năm lo.
Có chó cứ làm thịt,
Có rượu cứ nghiêng bầu.
Hay dỡ trên đời sao biết được,
Cần gì lo tiếng hão về sau.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất
Uyên dịch thơ.
HÀNH LẠC TỪ I
Tuấn khuyển hoàng bạch mao,
Kim linh hệ tú cảnh,
Kinh sam thiếu niên lam,
Khiển hướng Nam sơn lĩnh.
Nam sơn hương đa mi,
Huyết nhục cam thả phì.
Kim đao thiết ngọc soạn,
Mỹ tửu lũy bách chi.
Nhân sinh vô bách tải,
Hành lạc dương cập kỳ.
Vô vi thủ bần tiện,
Cùng niên bất khai mi.
Di Tề vô đại danh,
Chích Cược vô đại lợi,
Trung thọ chỉ bát thập,
Hà sự thiên niên kế.
Hữu khuyển khả tu sát,
Hữu tửu thả tu khuynh.
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận,
Hà sự mang mang thân hậu danh.
Kim linh hệ tú cảnh,
Kinh sam thiếu niên lam,
Khiển hướng Nam sơn lĩnh.
Nam sơn hương đa mi,
Huyết nhục cam thả phì.
Kim đao thiết ngọc soạn,
Mỹ tửu lũy bách chi.
Nhân sinh vô bách tải,
Hành lạc dương cập kỳ.
Vô vi thủ bần tiện,
Cùng niên bất khai mi.
Di Tề vô đại danh,
Chích Cược vô đại lợi,
Trung thọ chỉ bát thập,
Hà sự thiên niên kế.
Hữu khuyển khả tu sát,
Hữu tửu thả tu khuynh.
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận,
Hà sự mang mang thân hậu danh.
Chú thích:
Di, Tề: Bá Di, Thúc Tề con vua
Cô Trúc, một nước thuộc nhà Ân nay thuộc tỉnh Trực Lệ, Khi nhà Ân bị nhà Chu
lấy, hai người không phục nhà Chu, lên núi Thú Dương ở ẩn rồi nhịn đói mà chết
chứ không thèm ăn thóc nhà Chu.
Chích, Cược: Đạo Chích và
Trang Cược hai tên trộm cướp nổi tiếng thời Xuân Thu. Đạo Chích em của Liễu Hạ
Huệ có khoảng chín ngàn lâu la, đi bắt bò trâu trộm, cướp vợ người. Trang Cược
em Sở Trang Vương cũng là tay cướp đại bợm.
Trung thọ: Người xưa chia tuổi
làm ba bậc: Hạ thọ (60 tuổi), Trung thọ (80 tuổi), Đại thọ (90 tuổi).
BÀI TỪ HÀNH LẠC II
Núi cao hoa đào nở,
Tươi như màu lụa đỏ.
Sáng mai đùa xuân xanh,
Chiều tối rơi bùn nhọ.
Hoa nào đẹp trăm ngày?
Người sống ai trăm tuổi?
Chuyện đời lắm đổi thay,
Kiếp phù sinh chơi mãi.
Trong tiệc mỹ nữ đẹp như hoa,
Trong hồ có rượu như vàng pha,
Tiếng kèn tiếng sáo như khoan nhặt,
Được dịp hát to cứ hát ca.
Anh có thấy ông Vương Nhung tự tay cầm bàn ngà,
Ngày ngày tính toán lòng chưa vui sướng,
Đài Tam công đổ, cây mận ngon tàn,
Bạc vàng tiêu tán người khác hưởng.
Lại thấy không, ông Phùng Đạo khi về già còn phú quý.
Trải mấy triều vua ngôi cao khanh sĩ,
Chuông minh đỉnh vạc lại hoàn không,
Nghìn năm lưu bài Trường Lạc Tự.
Giàu sang trước mắt như phù vân,
Người nay chỉ biết cười người trước,
Người trước chết chôn đầy tha ma,
Người nay sao vẫn còn xuôi ngược.
Hiền ngu xưa nay một nấm mồ,
Nào ai vượt qua được sống chết.
Anh ơi uống rượu rồi vui chơi,
Kìa trông phía Tây trời đã xế.
Tươi như màu lụa đỏ.
Sáng mai đùa xuân xanh,
Chiều tối rơi bùn nhọ.
Hoa nào đẹp trăm ngày?
Người sống ai trăm tuổi?
Chuyện đời lắm đổi thay,
Kiếp phù sinh chơi mãi.
Trong tiệc mỹ nữ đẹp như hoa,
Trong hồ có rượu như vàng pha,
Tiếng kèn tiếng sáo như khoan nhặt,
Được dịp hát to cứ hát ca.
Anh có thấy ông Vương Nhung tự tay cầm bàn ngà,
Ngày ngày tính toán lòng chưa vui sướng,
Đài Tam công đổ, cây mận ngon tàn,
Bạc vàng tiêu tán người khác hưởng.
Lại thấy không, ông Phùng Đạo khi về già còn phú quý.
Trải mấy triều vua ngôi cao khanh sĩ,
Chuông minh đỉnh vạc lại hoàn không,
Nghìn năm lưu bài Trường Lạc Tự.
Giàu sang trước mắt như phù vân,
Người nay chỉ biết cười người trước,
Người trước chết chôn đầy tha ma,
Người nay sao vẫn còn xuôi ngược.
Hiền ngu xưa nay một nấm mồ,
Nào ai vượt qua được sống chết.
Anh ơi uống rượu rồi vui chơi,
Kìa trông phía Tây trời đã xế.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HÀNH LẠC TỪ II
Sơn thượng hữu đào hoa,
Xước ước như hồng ỷ,
Thanh thần lộng xuân nghiên,
Nhật mộ trước nê trỉ.
Hảo hoa vô bách nhật,
Nhân thọ vô bách tuế,
Thế sự đã suy di,
Phù sinh hành lạc sự.
Tịch thượng hữu kỹ hiểu như hoa,
Hổ trung hữu tửu như kim ba,
Thúy quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp.
Đắc cao ca xứ thả cao ca.
Quân bất kiến:
Vương Nhung nha trù thủ tự tróc,
Nhật nhật cối kê thường bất túc,
Tam công đài khuynh hảo lý tử,
Kim tiền tán tán tha nhân phúc.
Hựu bất kiến:
Phùng Đạo vãn niên xung cực quý,
Lịch triều bất ly khanh tướng vị,
Chung minh đỉnh thực cánh hoàn không,
Thiên trải đồ lưu Trường Lạc Tự.
Nhãn tiền phú quý như phù vân,
Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân.
Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy,
Kim nhân bôn tẩu hà phân phân,
Cổ kim hiền ngu nhất khâu khổ,
Sinh tử quan đầu mạc năng độ.
Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan,
Tây song nhật lạc thiên tương mộ.
Xước ước như hồng ỷ,
Thanh thần lộng xuân nghiên,
Nhật mộ trước nê trỉ.
Hảo hoa vô bách nhật,
Nhân thọ vô bách tuế,
Thế sự đã suy di,
Phù sinh hành lạc sự.
Tịch thượng hữu kỹ hiểu như hoa,
Hổ trung hữu tửu như kim ba,
Thúy quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp.
Đắc cao ca xứ thả cao ca.
Quân bất kiến:
Vương Nhung nha trù thủ tự tróc,
Nhật nhật cối kê thường bất túc,
Tam công đài khuynh hảo lý tử,
Kim tiền tán tán tha nhân phúc.
Hựu bất kiến:
Phùng Đạo vãn niên xung cực quý,
Lịch triều bất ly khanh tướng vị,
Chung minh đỉnh thực cánh hoàn không,
Thiên trải đồ lưu Trường Lạc Tự.
Nhãn tiền phú quý như phù vân,
Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân.
Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy,
Kim nhân bôn tẩu hà phân phân,
Cổ kim hiền ngu nhất khâu khổ,
Sinh tử quan đầu mạc năng độ.
Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan,
Tây song nhật lạc thiên tương mộ.
Chú thích:
Vương Nhung: một trong Trúc Lâm
thất hiền đời Tấn, nhà giàu ruộng vườn khắp các châu, nhưng lại là tay biển
lận, ngày nào cũng cầm bàn tính, thẻ ngà trong tay để tính toán, trong nhà có
cây mận rất ngon, bán quả sợ người ta được giống, nền dùi nát hột đi rồi mới
bán.
Phùng Đạo, người đời Ngũ Đạo,
tính chất phát văn chương hay, làm khanh tướng dưới bốn triều Đường, Tấn... tự
đặt hiệu là Trường Lạc lão có làm bài Trường Lão lạc tứ tự kể chuyện mình thờ
bốn họ, sáu ông vua.
Đọc bài thơ Hành Lạc Từ của
Nguyễn Du chúng ta tìm lại được cái an vui thanh thản của nhà nho ngày xưa. Cái
triết lý Á Đông chấp nhận cuộc đời có sống có chết lẽ thường.
Bài Lam Giang Nguyễn Du tả cảnh
hùng tráng sông Lam. Theo GS Hoàng Xuân Hãn La Sơn Phu Tử sđd tr 44, 45. Sông
Lam Giang ở phương tây bắc chảy xuống, len vào giữa ba huyện Thanh Chương,
Lương Sơn và Nam Đàn, về phía nam có hai nguồn: Ngàn Phố ở huyện Hương Sơn tự
phía tây lại. Ngàn Sâu ở huyện Hương Khê từ phương nam ra. Hai nguồn này len
núi mà tới, hợp nhau ở ngã ba Tam Soa, dưới chân núi Tùng Lĩnh và đầu dãy núi
Thiên Nhận. Hai dòng hợp thành sông La Giang. Tam Soa còn cách bể 40 cây số. La
Giang quanh co hai khúc đông tiến rồi lại bắc tiến, gặp sông Lam Giang ở chân
núi Nghĩa Liệt (Lam Thành), gần bến đò Phù Thạch. Bến đò Phù Thạch là nơi hiểm
yếu của vùng Hồng Lam. Bên bắc có phủ Hưng Nguyên. Bên nam có phủ Đức Thọ (huyện La Sơn). Chỗ này còn cách cửa Hội 30 cây số. Từ đó Lam Giang chảy sang
phương đông, gặp núi Hồng Lĩnh ở chân núi Ngũ Mã, cho nên đổi hướng lên phương
bắc. Chảy qua gành Bến Thủy gần núi Mèo và ngăn chia núi Dũng Quyết ở Bắc và
núi Hồng Lĩnh phía Nam (Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng nơi này). Vượt qua
chổ hẹp liền chảy vào hai huyện Nghi Xuân và Nghi Lộc mà vào Đông Hải ở cửa Hội
Thống. Triền sông Lam là nơi có nhiều thắng cảnh. Đứng chỗ nào cũng trông thấy
núi. Mà núi nào cũng đầy dấu tích xưa: đền cũ, thành xưa, bãi chiến trường, nơi
ẩn dật...
Sáng mai trông sông Lam, tràn
đầy nước lụt mùa thu, cá giải bơi đùa nơi gò đẫy, trâu ngựa không nhận ra bờ
nước. Bờ sông lở sụp ầm ầm như sóng dữ. Sóng lớn thấy như có quỷ lạ. Hiểm nguy
thắng lòng người, nghiêng đổ cũng do ý trời. Ta nhìn đầu sông Lam, tất lòng
thường lo rầu. Thường lo lỡ sẩy chân, chìm nghỉm không đáy. Thế sao người trên
đời, dựa vào hiểm mà không biết sợ. Người xưa qua sao cuồn cuộn, người sắp đến
còn chưa thôi. Trời vốn có đức hiếu sinh, sao cứ để thế mãi. Muốn đẩy núi Thiên
Nhận, lấp bằng năm trăm dặm.
LAM GIANG
Sáng sớm nhìn sông Lam,
Mùa thu nước sông tràn,
Cá dải bơi gò bãi,
Trâu ngựa lạc đường sang.
Bờ lỡ ầm như sấm,
Sóng xô như quỷ hiện,
Nguy hiểm nản lòng người,
Sụt lở ý trời khiến.
Ta trông đầu sông Lam,
Lòng thường lo áy náy,
Nếu không may sẩy chân,
Hẳn chìm sâu tận đáy.
Thế sao người thế gian,
Hiểm nghèo không sợ hãi.
Người trước cuồn cuộn đi,
Người sau ào ào tới,
Lòng trời vốn thương người,
Sao cứ để vậy mãi.
Muốn đem Thiên Nhận Sơn,
Lấp năm trăm dậm lại.
Mùa thu nước sông tràn,
Cá dải bơi gò bãi,
Trâu ngựa lạc đường sang.
Bờ lỡ ầm như sấm,
Sóng xô như quỷ hiện,
Nguy hiểm nản lòng người,
Sụt lở ý trời khiến.
Ta trông đầu sông Lam,
Lòng thường lo áy náy,
Nếu không may sẩy chân,
Hẳn chìm sâu tận đáy.
Thế sao người thế gian,
Hiểm nghèo không sợ hãi.
Người trước cuồn cuộn đi,
Người sau ào ào tới,
Lòng trời vốn thương người,
Sao cứ để vậy mãi.
Muốn đem Thiên Nhận Sơn,
Lấp năm trăm dậm lại.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất
Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
LAM GIANG
Thanh thần vọng Lam Giang,
Lam Giang trướng thu thủy,
Ngư miết du khâu lăng,
Ngưu mã mê nhai sĩ.
Dỉ ngạn băng bạo lôi,
Hồng đào kiến kỳ quỷ.
Hiểm nguy thắng nhân tâm,
Khuynh phúc diệc thiên ý.
Ngã vọng Lam Giang đầu,
Thốn tâm thường chủy chủy.
Thường khủng nhất thất túc,
Cốt một vô để chỉ,
Như hà thế gian nhân,
Thừa hiểm bất tri úy.
Khứ giả hà thao thao.
Lai giả thượng vị dĩ,
Đế đức bản hiếu sinh,
Ná đắc trường như thị.
Nghĩ khu Thiên Nhận Sơn,
Điền bình ngũ bách lý.
Lam Giang trướng thu thủy,
Ngư miết du khâu lăng,
Ngưu mã mê nhai sĩ.
Dỉ ngạn băng bạo lôi,
Hồng đào kiến kỳ quỷ.
Hiểm nguy thắng nhân tâm,
Khuynh phúc diệc thiên ý.
Ngã vọng Lam Giang đầu,
Thốn tâm thường chủy chủy.
Thường khủng nhất thất túc,
Cốt một vô để chỉ,
Như hà thế gian nhân,
Thừa hiểm bất tri úy.
Khứ giả hà thao thao.
Lai giả thượng vị dĩ,
Đế đức bản hiếu sinh,
Ná đắc trường như thị.
Nghĩ khu Thiên Nhận Sơn,
Điền bình ngũ bách lý.
Chú thích:
Thiên Nhận Sơn: núi giáp giới
hai huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) và Thanh Chương (Nghệ An). Mạch núi này ngăn sông
Phố và sông Lam nơi chỗ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở ẩn bên cạnh thành Lục Niên
của vua Lê Thái Tổ.
Bài Ninh Công Thành. Thành ông
Ninh tức Trịnh Ninh hay Trịnh Toàn, làm trấn thủ Nghệ An, có xây thành để chống
nhau với quân chúa Nguyễn. Từ Nghệ An vào Quảng Bình, có nhiều thành không phải
của Trịnh Ninh làm ra, nhưng người địa phương vẫn quen gọi thành ông Ninh, vì
không hiểu rõ lai lịch. Ở đây là thành cũ trên núi Dũng Quyết sát bờ sông Lam ở
gần Bến Thủy tại đây đã diễn ra nhiều trận đánh quyết liệt giữa quân Nam Hà và
Bắc Hà. Bức thành cũ nay còn dấu vết, người địa phương gọi là Thành ông Ninh.
Một mình trèo lên núi cao tầm
mắt mới, chuyện cũ anh hùng như còn treo ở bến sông. Trên dưới bức thành đều là
cây cao, mười dậm thành còn như thấy oai phong người xưa. Nơi đây Nam Bắc đã
quy về một mối. Đây là nơi còn giếng bếp của thuở xưa đồn trú ba quân. Mười năm
chưa rửa được mối hận Nam nhi, gõ kiếm hát bài trường ca trước mây trắng. Hai
câu cuối thật tuyệt tác.
THÀNH NINH CÔNG
Một mình lên núi đứng cao
trông,
Chuyện cũ anh hùng đây bến sông.
Cây lẫn một thành cao lớp lớp,
Người xưa mười dậm ngợp oai phong.
Đất này nam bắc liền giềng mối,
Giếng bếp xưa kia ngày đóng quân.
Chưa rửa mười năm hờn tráng sĩ,
Vỗ gươm mà hát, ngóng mây bồng.
Chuyện cũ anh hùng đây bến sông.
Cây lẫn một thành cao lớp lớp,
Người xưa mười dậm ngợp oai phong.
Đất này nam bắc liền giềng mối,
Giếng bếp xưa kia ngày đóng quân.
Chưa rửa mười năm hờn tráng sĩ,
Vỗ gươm mà hát, ngóng mây bồng.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất
Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
NINH CÔNG THÀNH
Độc thướng cao sơn nhãn giới tân,
Anh hùng vãng sự quải giang tân.
Nhất thành thượng hạ tận kiều mộc,
Thập lý uy phong kiến cổ nhân.
Thử địa bắc nam quy nhất trục,
Đương thì tỉnh táo trú tam quân.
Thập niên vị tiếng nam nhi hận,
Đàn kiếm trường ca đối bạch vân.
Anh hùng vãng sự quải giang tân.
Nhất thành thượng hạ tận kiều mộc,
Thập lý uy phong kiến cổ nhân.
Thử địa bắc nam quy nhất trục,
Đương thì tỉnh táo trú tam quân.
Thập niên vị tiếng nam nhi hận,
Đàn kiếm trường ca đối bạch vân.
Chú thích:
Quy nhất trục: Trục xe lồng giữa hai bánh xe, ý nói thống nhất
quốc gia. Hai bánh cùng một cỡ.
Trong những ngày đi săn, đi tìm những di tích nơi khởi nghĩa
cuả anh Nguyễn Quýnh (1761-1791). Nguyễn Du khâm phục ông anh thứ tư này, nhưng
không muốn làm như ông, từ lúc chia tay tại Liễu Châu năm 1787: Nguyễn Quýnh tức
Nguyễn Sĩ Hữu muốn về làm chủ Hồng Lĩnh, Nguyễn Du từ biệt người anh vì lòng chỉ
muốn như chúa Trịnh Bồng thành nhà sư đi ngao du đó đây, như Lý Bạch ngao du
giang hồ thời tuổi trẻ, không bận danh lợi. Trong gia đình người hoài Lê nhất
là Nguyễn Quýnh. Nguyễn Hành có viết bài thơ Viếng Chú Nguyễn Quýnh trong Minh
Quyên thi tập. Đạo lớn thành người sinh ra chẳng đồng đều. Gặp hiểm nguy khẳng
khái chỉ có một mình ông. Một thân ông gánh vác cả cương thường, muôn thuở vang
danh phong cách tráng liệt. Nhìn sự việc ngày nay buồn biết bao nhiêu. Nhớ chú
ngày xưa thật ung dung không sợ gì cả. Đau lòng không nở đi qua miếu thờ nơi
chú bị hành hình, hát khúc hát một mình mà lệ ướt đầm.
VIẾNG CHÚ NGUYỄN QUÝNH
Đạo lớn thành người sinh chẳng đồng,
Gặp nguy khẳng khái một mình ông.
Một thân gánh vác cương thường trọng,
Muôn thuở danh vang tráng liệt phong.
Nhìn việc ngày nay buồn biết mấy,
Nhớ xưa người trước thật ung dung.
Đau lòng không nở đi qua miếu,
Hát khúc độc ca lệ thắm dòng.
Gặp nguy khẳng khái một mình ông.
Một thân gánh vác cương thường trọng,
Muôn thuở danh vang tráng liệt phong.
Nhìn việc ngày nay buồn biết mấy,
Nhớ xưa người trước thật ung dung.
Đau lòng không nở đi qua miếu,
Hát khúc độc ca lệ thắm dòng.
Thơ Nguyễn Hành, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
THƯỚNG THÚC PHỤ NGUYỄN QUÝNH
Đại đạo thành nhân nỗi bất đồng
Lâm nguy khẳng khái nghĩa duy không.
Nhất thân độc nhiệm cương thường trọng.
Vạn cổ do văn tráng liệt phong.
Cổ thi kim triều hà truật bức,
Hồi huy đương phạt thâm trung dung.
Thông tâm hồi ngại kinh từ miếu,
Độc lập ca thành lệ mãn không.
Lâm nguy khẳng khái nghĩa duy không.
Nhất thân độc nhiệm cương thường trọng.
Vạn cổ do văn tráng liệt phong.
Cổ thi kim triều hà truật bức,
Hồi huy đương phạt thâm trung dung.
Thông tâm hồi ngại kinh từ miếu,
Độc lập ca thành lệ mãn không.
III - Bạn hữu tại Hồng Lĩnh:
Những ngay ở Hồng Lĩnh, Nguyễn Du có viết thơ tặng Thực Đình,
người bạn đồng môn, thi đồng khoa. Thực Đình có nghĩa là ăn ở đình làng, anh bạn
này ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch, ăn cá gỗ, đói cả năm, chỉ chờ khi
có đám tiệc ở đình làng mới được no. Hạc trời cá đầm biết đâu mà tìm. Từ ngày
chia tay ở La Thành, chốc đã mười năm. Nguyễn Du viết bài này khoảng năm 1794,
chia tay với bạn ở thành Nghệ An. Nguyễn Du ra Sơn Nam thi 1783 Nguyễn Du có thời
gian thuở nhỏ ở Tiên Điền học với chú là Nguyễn Trọng. Bạn đồng niên giáp mặt
mà như trời đất xa cách, chuyện cũ nhìn lại thành xa xôi như cổ với kim. Gặp lại
bạn cũ, bạn vẫn ở lại Hà Tĩnh, dạy học, làm thầy đồ, làm kẻ hàn sĩ trong xóm làng
hẻo lánh. Nguyễn Du ở kinh đô, rồi đi trấn đóng Thái Nguyên, đi giang hồ ba năm
ở Trung Quốc có cái nhìn thoáng rộng: nói chuyện dạo Ngũ Hồ, chuyện Khuất
Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch..., còn bạn chỉ kể chuyện ngày xưa trong làng mạc, chuyện
hát phường nón, chuyện tế sống hai cô gái làng Trường Lưu đi lấy chồng, nên
giáp mặt nhau mà như trời với đất, chuyện mười năm trước đã thành chuyện cổ.
Tóc bạc làm tiêu ma chí khí kẽ sĩ nghèo. Chiếc áo sồi trân trọng tấm lòng người
cũ. Bạn sống đời nhọc nhằn, tóc đã bạc, lo với miếng ăn cuộc sống, không còn
chí khí trị nước, bình thiên hạ của kẻ sĩ, không còn mộng làm quan vì thời thế
vua Lê, cúa Trịnh đã sụp đổ, không muốn tôi trung thờ hai chúa. Gặp bạn, bạn tặng
cho manh áo sồi như Tu Giả tưởng Phạm Tuy nghèo đói mà tặng cho manh áo vải
thô, đủ tỏ lòng quyến luyến đến bạn cũ rồi. Từ nay ta lại có nhau là bạn. Chớ
lo ở nơi hẻo lánh không có bạn. Sông Lam, núi Hồng đủ để ngâm vịnh.
TẶNG ANH THỰC ĐÌNH
Hạc trời cá nước biết đâu tìm,
Một biệt La Thành đã chục năm.
Bạn cũ gặp nhau: trời với đất,
Việc xưa nhìn lại: cổ cùng kim.
Tiêu ma sĩ khí nghèo đầu bạc,
Trân trọng áo thô tặng cố nhân.
Chớ bảo quê xa không bạn hữu,
Hồng Sơn, Lam thủy đủ ca ngâm.
Một biệt La Thành đã chục năm.
Bạn cũ gặp nhau: trời với đất,
Việc xưa nhìn lại: cổ cùng kim.
Tiêu ma sĩ khí nghèo đầu bạc,
Trân trọng áo thô tặng cố nhân.
Chớ bảo quê xa không bạn hữu,
Hồng Sơn, Lam thủy đủ ca ngâm.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẶNG THỰC ĐÌNH
Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm,
La Thành nhất biệt thập niên thâm.
Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng,
Vãn sự hồi đầu thành cổ kim.
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí,
Đề bào trân trọng cố nhân tâm.
Mạc sầu tịch địa vô giai khách,
Lam thủy, Hồng sơn túc vịnh ngâm.
La Thành nhất biệt thập niên thâm.
Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng,
Vãn sự hồi đầu thành cổ kim.
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí,
Đề bào trân trọng cố nhân tâm.
Mạc sầu tịch địa vô giai khách,
Lam thủy, Hồng sơn túc vịnh ngâm.
Chú thích:
La Thành: Thành Nghệ An.
Đồng niên: bạn cùng tuổi hay cùng khoa.
Đề bào: Áo vải thô. Tích trong Xuân Thu Chiến Quốc. Phạm Tuy
người nước Ngụy, thuyết khách, nhà nghèo, giúp việc cho Tu Giả, Trung đại phu.
Tu Giả đi sứ Tề đem Phạm Tuy theo, thấy Tề biếu vàng cho Tuy nghi Tuy tiết lộ
bí mật của Ngụy. Giả về nói với công tử Ngụy Tề, Ngụy Tề giận sai lấy roi đánh
Tuy gãy cả xương sườn, rụng răng, lấy chiếu bó lại, vất trong nhà xí, khách khứa
uống rượu tiểu lên người. Thoát chết Tuy sang Tần đổi tên là Trương Lộc, thuyết
phục được vua Tần theo kế sách mình, được phong làm Thừa Tướng. Ngụy sai Tu Giả
sang xứ Tần. Phạm Tuy mặc áo rách đi bộ lẽn tới gặp Tu Giả. Tu Giả cả kinh vì
tưởng Tuy đã chết. Tuy nói mình đang làm thuê. Tu Giả trong lòng thương hại, giữ
lại cùng ăn uống, nói: Phạm Thúc nghèo đến thế sao? bèn lấy một cái áo vải thô
để tặng Phạm Tuy. Khi vào tướng phủ mới vỡ lẽ Phạm Tuy đang làm Thừa Tướng. Tu
Giả cả kinh tạ tội. Phạm Tuy kể ba tội đáng chết của Tu Giả, nhưng sỡ dĩ khỏi
chết, vì có tình quyến luyến tặng cho chiếc áo đề bào, có tình nghĩa với người
cũ nên tha cho. Vì vậy đề bào nói tình cố nhân quyến luyến.
Bài Phúc Thực Đình. Đông lạnh hạ nóng lần lửa trôi qua. Năm
tháng chồng chất trên mái đầu già cốc. Cảnh chim hoa, phồn hoa chốn kinh kỳ ở
ngoài nghìn dặm. Sống giang hồ áo tơi nón lá mười năm nay (1786-1796); Tụ họp
thường khó gặp những người bạn mắt xanh, gỡ tóc biết lòng mình chưa giải tỏ.
Sông Lam núi Hồng đẹp vô cùng, tha hồ anh thu thập làm đề tài ngâm vịnh. Về Hồng
Lĩnh, Nguyễn Du có tụ họp nhiều người bạn, nhưng chẳng có ai hiểu mình trừ Thực
Đình, tuy nhiên cũng chưa phải là bạn tri kỷ để giải toả hết tâm sự mình, lòng
Nguyễn Du như tóc rối vẫn chưa được gỡ ra. Tóm lại tại Hồng Lĩnh Nguyễn Du
không tìm ra bạn đồng chí hướng, nên không thể thực hiện một hoạt động gì. Cũng
nên nhắc lại ngày xưa các cụ ta búi tóc, cái răng cái tóc là gốc con người, các
cụ ta không hớt tóc, cũng không cắt móng tay
TRẢ LỜI BẠN THỰC ĐÌNH
Đông lạnh hạ nồng lần lửa qua.
Tháng năm chồng chất tuổi thêm già.
Chim hoa thành thị xa ngàn dậm,
Tơi nón sông hồ mười năm qua.
Họp bạn khó tìm người mắt biếc,
Gỡ đầu còn rối cõi lòng ta.
Hồng sơn, Lam thủy vô cùng đẹp,
Hứng sẵn tha hồ anh vịnh ca.
Tháng năm chồng chất tuổi thêm già.
Chim hoa thành thị xa ngàn dậm,
Tơi nón sông hồ mười năm qua.
Họp bạn khó tìm người mắt biếc,
Gỡ đầu còn rối cõi lòng ta.
Hồng sơn, Lam thủy vô cùng đẹp,
Hứng sẵn tha hồ anh vịnh ca.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
PHÚC THỰC ĐÌNH
Đông hàn hạ thử cố xâm tầm,
Lão đại đầu tô tuế nguyệt thâm.
Kinh quốc anh hoa thiên lý ngoại,
Giang hồ soa lạp thập niên câm (kim).
Tụ đầu nan đắc thường thanh mục,
Lý phát đương tri vị bạch tâm,
Lam thủy, Hồng sơn vô hạn thắng,
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.
Lão đại đầu tô tuế nguyệt thâm.
Kinh quốc anh hoa thiên lý ngoại,
Giang hồ soa lạp thập niên câm (kim).
Tụ đầu nan đắc thường thanh mục,
Lý phát đương tri vị bạch tâm,
Lam thủy, Hồng sơn vô hạn thắng,
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.
Chú thích:
Thanh mục: mắt xanh Nguyễn Tịch đời Tấn gặp bạn tri kỷ thì mắt
xanh, gặp tục khách thì mắt trắng.
IV - Đi tìm Minh Chúa. Nguyễn Du không có tâm sự hoài
Lê.
Các sách đều cho rằng Nguyễn Du có tâm sự hoài Lê. Theo tôi,
Nguyễn Du không hoài Lê gì cả. Nguyễn Du ở Thăng Long (1790-1793), thì vua
Quang Trung chết bất ngờ năm 1792, sự nghiệp Tây Sơn dang dở. Nguyễn Du không
thấy minh chúa nơi ông vua trẻ Cảnh Thịnh lên mười, không thấy lối thoát nơi Thái
Sư Bùi Đắc Tuyên cũng như tướng Vũ Văn Dũng. Các quân sư tài năng như Trần Văn
Kỷ, tài năng như anh Nguyễn Nể, không có một người biết dùng và biết lắng nghe
thì tài năng đó cũng đành bỏ không! Chúa Trịnh Bồng đi tu biệt tăm biệt tích,
Nguyễn Du ba năm (1787-1790) thành nhà sư Chí Hiên như chúa Trịnh Bồng, đi
giang hồ muôn dậm Trung Quốc, đọc kinh Kim Cương ngàn lượt, nhưng cuối cùng tại
Hàng Châu tìm thấy ý nghĩa đời mình trong việc diễn nôm truyện Kim Vân Kiều để
mua vui một vài trống canh. Nguyễn Du từng đến Bắc Kinh năm 1790 nhìn thấy vua
Lê Chiêu Thống bị nhà Thanh bạc đãi nơi xứ người, không tìm thấy lý tưởng hoài
Lê nơi ông vua sống lây lất xứ người.
Vào thời điểm năm 1796, bốn năm sau khi vua Quang Trung mất,
Nguyễn Du chỉ có sự chọn lựa giữa tướng Vũ Văn Dũng và chúa Nguyễn Ánh. Tình
hình triều Tây Sơn, Thái Sư Bùi Đắc Tuyên đày quân sư Trần Văn Kỷ làm lính thú,
trước các biến động triều đình Ngô Thời Nhiệm đi tu, Phan Huy Ích thành đạo sĩ,
Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn cũng về ở ẩn, anh Nguyễn Nể phải tìm cớ trốn khỏi
kinh đô Phú Xuân bằng cách ra trấn thủ Quy Nhơn. Bùi Đắc Tuyên đang chuẩn bị những
bước tiếm quyền nhà Tây Sơn thì bị giết. Việc giết Nguyễn Bảo năm 1798 con vua
Nguyễn Nhạc, lịch sử đổ tội cho vua Cảnh Thịnh, nhưng Cảnh Thịnh chỉ là một cậu
bé con không thể làm việc đó, cả việc vu cáo Nguyễn Bảo muốn trốn theo Nguyễn
Ánh cũng chưa chắc là sự thực. Trong mắt người đời thời bấy giờ Bùi Đắc Tuyên
chỉ là một gian thần, tướng Vũ Văn Dũng không đủ tài điều khiển triều đình Tây
Sơn. Thực sự nếu Thái Sư Bùi Đắc Tuyên muốn phụng sự nhà Tây Sơn, thì phải cộng
tác với quân sư Trần Văn Kỷ và các nhân vật đã được vua Quang Trung dùng, có lẽ
tình hình nhà Tây Sơn đổi khác. Thái Sư Bùi Đắc Tuyên cùng con là Bùi Đắc Trụ
và tướng Ngô Văn Sở lại bị tướng Vũ Văn Dũng bắt và trấn nước giết chết. Triều
đình cũng chẳng yên các phe phái ganh ghét hiềm kích lẫn nhau. Trần Quang Diệu
bị thu cả binh quyền chỉ giữ chức tại triều. Trấn thủ Lê Trung bị nói gièm là
giúp Tiểu triều Nguyễn Bảo làm phản bị giết, con rể là tướng Lê Chất sang đầu
hàng Nguyễn Vương. Ít lâu sau quan Thiếu Phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết, tướng
sĩ Tây Sơn nhiều người nản lòng bỏ theo Chúa Nguyễn. Tướng Vũ Văn Dũng điều khiển
quân đội đánh thành Quy Nhơn năm 1799, một đêm có một con nai chạy qua, có người
gọi: con nai, con nai, quân sĩ Tây Sơn nghe lầm tưởng quân Đồng Nai của
chúa Nguyễn đến, thế là quân sĩ bỏ chạy trốn hết. Quân dưới trướng Vũ Văn Dũng
không đánh mà bị tan rã, Trần Quang Diệu phải che dấu cho Vũ Quang Dũng chuyện
này để khỏi bị tội.(Trần Trọng Kim VNSL tr 159) Điều đó chứng tỏ tinh thần quân
sĩ Tây Sơn đã xuống thê thảm đến mức độ nào. Trần Quang Diệu là một tướng tài
cũng không điều khiển được triều đình,. Trong tình trang tê liệt của Triều đình
Tây Sơn, Nguyễn Ánh không nhọc công lắm để đánh bại Tây Sơn , bắt được hầu hết
cả triều đình.
Nguyễn Nhạc, không quân sư tài giỏi, chỉ là một tên cướp núi,
chiếm được thành Bình Định xưng là chúa Chiêm Thành, thỏa mãn với danh vua Tây
Sơn Trung Ương, có lúc lại xung đột với cả Nguyễn Huệ, bị em đem quân vây
thành, phải đứng trên thành mà khóc, Nguyễn Huệ mới lui binh. Quân sĩ Nguyễn Nhạc
hèn kém không đủ sức đương đầu với quân chúa Nguyễn phải cầu viện triều Cảnh Thịnh,
khi quân Cảnh Thịnh đuổi xong quân chúa Nguyễn lại chiếm Bình Định, Nguyễn Nhạc
uất ức mà chết.
Nguyễn Lữ, người em út trong ba anh em Tây Sơn làm Tiết Chế
Đông Định Vương, trông coi đất Nam Hà đa nghi nên hỏng việc, tướng Phạm Văn
Tham đem bức thư phản gián đến phân giải, tưởng Tham đã đầu hàng Nguyễn Ánh đem
quân đến đánh, bỏ Biên Hòa chạy về Bình Định và chết...
Nguyễn Ánh thế lực ngày càng mạnh biết dùng người không câu nệ:
dùng những tay anh chị hảo hớn nhóm Đông Sơn như Võ Thành Nhân, Võ Nhân, Võ
Tánh, dùng những hàng tướng của Tây Sơn như Nguyễn Văn Trương, Lê Chất, dùng những
người Thiên Địa Hội Trung Quốc, quân người Thái, người Miên; dùng cả những người
Pháp theo Bá Đa Lộc làm tướng, làm kỹ sư xây dựng kiểu thành Vauban, đúc súng,
gã vợ Việt Nam cho họ và về sau phong quan tước đặt tên Việt Nam làm quan triều
đình.
Ngược với nhà Tây Sơn, người tài bỏ đi, dưới trướng Nguyễn
Ánh, chiêu hiền đãi sĩ, người tài về ngày thêm đông, chúa Nguyễn sử dụng không
chừa một ai, thì việc chiến thắng thống nhất đất nước chỉ là thời gian.
Vị minh chúa bấy giờ không ai khác hơn là chúa Nguyễn Ánh.
Nguyễn Du về lại Hồng Lĩnh tìm lại dấu tích nơi khởi nghĩa của Nguyễn Quýnh,
Nguyễn Du hiểu rằng không thể lập lại việc như Nguyễn Quýnh. Việc hoài Lê, tái
lập vua Lê, chúa Trịnh chỉ là một ảo mộng. Tại Hồng Lĩnh Nguyễn Du không tìm ra
bạn mới chỉ có người bạn cũ Thực Đình tặng cho manh áo vải, lòng nhớ bạn xưa,
nhưng ở đây tai vách mạch rừng, người sống trong sợ hải sau cuộc tàn sát của tướng
Lê Văn Dụ, ăn nói phải giữ lời.
Thế kỷ qua, có những người viết sử vì yêu vua Quang Trung,
nên sinh ra ác cảm với vua Gia Long, ác cảm cả với các chúa Nguyễn. Họ quên cái
công lao mở nước của các chúa Nguyễn (1558-1775), từ chúa Nguyễn Hoàng đi trấn
nhậm Thuận Hóa năm 1558 với vài ngàn quân đem theo cả vợ con từ Thanh Hóa. Thuận
Hóa nguyên là hai châu Ô Lý quà sính lễ cưới Huyền Trân Công Chúa. Từ Phú Xuân,
Quảng Trị 217 năm đã mở nước đến tận Hà Tiên gấp đôi đất nước, biến nhiều vùng
đất hoang vu thành trù phú, biến những người dân Chiêm Thành, Miên, người Minh
Hương Trung Quốc lánh nạn nhà Thanh, các bộ tộc miền núi, dân giang hồ tứ chiến
thành người Việt Nam. Dưới thời các chúa Nguyễn, các chúa mời và trọng đãi các
nhà sư Trung Quốc như Thích Đại Sán, Liễu Quán, Nguyễn Thiều.. sang lập dòng
thiền, đạo Phật hưng thịnh, làm thuần hóa phong tục đạo lý, biến miền đất mới
thành nơi đất lành, giàu có và sung túc. Chiêm Thành vốn là nước Phật Giáo bị Hồi
Giáo du nhập từ thế kỷ 13 , cưỡng bức vào đạo bằng gươm dao tàn sát các vị sư,
hủy hoại các tượng Phật, đốt phá các thánh địa Phật Giáo Mỹ Sơn, Dông Dương...
Người Phật Tử đã tìm thấy nơi các Chúa Nguyễn một vị ân nhân che chở, các Chúa
Sãi, Chúa Hiền là những vị Chúa nhân từ, các chúa Nguyễn là chúa của chung hai
dân tộc Việt Chiêm ... Đó là lý do các sử gia quên lãng, không cắt nghĩa được
vì sao các Chúa Nguyễn mở mang về phương Nam rất nhẹ nhàng, không có chiến
tranh diệt chủng, không có chuyện người Việt ồ ạt vào Nam chiếm cứ đất đai. Người
dân nơi nào làm ăn dễ dàng giàu có thì tìm đến sống chung đụng với nhau không
phân biệt chủng tộc... Miền Trung Việt Nam không phải mới có Phật Giáo, mà
Phật Giáo có từ lâu đời từ thời Chiêm Thành, nó là nền tảng để thống nhất hai
dân tộc Việt Chiêm, chứ không phải là cuộc chiến tranh diệt chủng giữa hai chủng
tộc. Đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam như ngày nay, không phải sẵn có như
hiện tại rồi chia hai thành Trịnh Nguyễn phân tranh đánh nhau? Mà cả một công
cuộc tổ chức cai trị, khai thác dinh điền, đào hàng chục ngàn cây số kinh đào,
khẩn hoang rừng rậm, đầm lầy lập nên làng xóm, thành một nước thịnh trị, giàu
có, công trình của hơn hai trăm năm các chúa Nguyễn. Các sách sử nói về cuộc
Nam tiến của người Việt về phương Nam, nhưng suy nghĩ lại, vùng Thuận Hóa, Nguyễn
Hoàng cai trị chỉ có khoảng vài trăm ngàn dân người Việt, tráng đinh, ba người
lấy một chỉ bảy chục ngàn, lính tráng chỉ năm ngàn. Phía Bắc bị ngăn chận bởi
sông Gianh, từ năm 1627 Trịnh Tráng đem quân đánh Chúa Nguyễn lần thứ nhất? Bảy
lần đánh nhau bất phân thắng bại, đến năm, đến năm 1774 Trương Phúc Loan chuyên
quyền tham lam, tàn ác lòng dân oán hận, chế độ mục nát vì tham nhũng. Tây Sơn
dấy binh chiếm từ Quy Nhơn đến Bình Thuận năm 1777 Nguyễn Huệ bắt được Thái Thượng
Vương và Tân Chính Vương giết đi chấm dứt nhà Nguyễn... Tướng Hoàng Ngũ Phúc
nhà Trịnh nhân cơ hội đánh chiếm được Phú Xuân. Nhưng chỉ 10 năm sau năm 1786
nhà Tây Sơn đánh ra Bắc làm sụp đổ chế độ nhà Trịnh. Và năm 1802 chúa Nguyễn
Ánh thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc chấm dứt nhà Tây Sơn. Các triều đại Chúa
Nguyễn, Chúa Trịnh, Tây Sơn nối tiếp nhau sụp đổ là vì lý do nội tại: vì tham
nhũng, vì kiêu binh, vì tranh chấp quyền lực khiến cho chính trị bị tê liệt,
lòng dân không còn, các trận chiến chỉ là các cơn gió nhẹ, quân sĩ tan hàng bỏ
trốn, vua, chúa, tướng bị bắt, ván cờ kết thúc.
Gần 200 năm, người vượt vào Nam như Đào Duy Từ vì gia đình
làm nghề ca hát nên không được thi cử nên đi tìm minh chúa cũng không nhiều, lịch
sử không thấy chép chuyện người Việt di tản bỏ Bắc Hà vào Nam Hà thời Trịnh
Nguyễn nhiều như năm 1954 hay sau năm 1975. Vậy thì dân ở đâu ra mà thành người
Việt phía Nam cũng nhiều như phía Bắc? Câu ca dao: Thương anh em cũng muốn
vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang. Truông nhà Hồ có đám cướp tại Hồ Xá, phá
Tam Giang sóng to gió lớn làm đắm thuyền, chặn đường Nam Bắc, nhưng chính sự
Nhà Trịnh với những văn thần võ tướng tài giỏi, Chúa Trịnh Giang vô đạo, triều
đình đảo chính thay bằng chúa Trịnh Doanh, chính sự nhà Trịnh không đến nổi phiền
hà dân phải sợ hơn rắn độc, hay sợ hơn hải tặc. Người Việt di dân vào phương
Nam thật sự chỉ có vào Triều Nguyễn (1802-1945), nhưng cũng chỉ chiêu dụ dân
nghèo đi khai thác đất hoang, hoạt động bình thường qua các thời đại. Sự đồng
hóa nước Việt Nam trải qua trong nhiều thế kỷ nó là sự dung hợp nhiều chủng tộc
khác nhau có lâu đời trên bán đảo Đông Dương: Người Việt, Chàm, Miên, các sắc
dân thiểu số, người Minh Hương Trung Quốc sang tỵ nạn nhà Thanh... Tiếng Việt
qua các miền bị âm hưởng bởi thổ âm địa phương và văn hóa Việt Nam đã pha trộn
để thành hình một nền văn hóa mới: cái váy phụ nữ miền Bắc bị thay thế bởi cái
quần ca dao có câu: Lệnh vua mười tám tháng ba, cấm quần không đáy người
ta hãi hùng.. chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam, áo dài khăn đóng hiện đại ảnh hưởng
từ chiếc áo dài của Chiêm Thành và nền văn minh Ấn Độ. Âm Nhạc cũng chịu nhiều ảnh
hưởng Chiêm Thành. Vụ mùa lúa Chiêm là một kỷ thuật canh tác của Chiêm Thành...
Người Việt mới đến hơn ba trăm năm chỉ là một thành phần, chủ
yếu vẫn là dân địa phương, có mặt từ thời thượng cổ. các di chỉ khảo cổ đào được
có di vật từ thời đồ đá, đồ sắt, thậm chí tại Óc Eo Kiên Giang có cả một nền
văn minh Phù Nam từng giao lưu với La Mã, Ấn Độ, đi khắp các đảo Thái Bình
Dương đến tận Mễ Tây Cơ... Dân bản địa vẫn có mặt tại đó và được du nhập thêm
những nhân tố mới. Đất miền Nam, miền Trung không phải là đất hoang vu hoàn
toàn không có người ở, mà là nơi từng có nền văn minh Phù Nam, Angkor, Chiêm
Thành rực rỡ. Việt Nam tiến về phương Nam không bằng việc tiêu diệt tàn
sát các dân tộc bản địa rồi xua dân đến ở lập thành nước của mình mà bằng văn
hóa, bằng sự bao dung, nhân đạo của nền văn hóa Phật Giáo thời Lý Trần, bằng sự
tổ chức làng mạc, khai thác dinh điền, đào kênh.
Thời xưa, người Việt Nam dùng chữ Hán đọc âm Hán Việt làm
ngôn ngữ hành chánh, các chiếu, biểu, văn tế, kinh Phật Giáo, Khổng Giáo đều bằng
tiếng này, cả các vở tuồng hát bội, nghệ thuật ngày xưa mọi người đều yêu
thích, đều hiểu: 80 phần trăm đều dùng câu chữ Hán Việt. Ngày nay muốn đọc một
vỡ tuồng hát bội như tuồng Sơn Hậu của Đào Duy Từ ta phải dịch trở lại mới hiểu
được. Do nhu cầu làm sổ đinh, thuế bạ phải viết tên họ mọi người: các họ tên
Chiêm Thành có nguồn gốc từ Ấn Độ đa âm đều trở thành độc âm: thành họ Nguyễn,
Trần, Phạm, Phan, Bùi, Lê, Đinh, Võ, Huỳnh, Trà, Chế... Bà chúa cuối cùng Chiêm
Thành tên Nguyễn thị Tranh, các ông vua đầu tiên Chiêm Thành năm 192 tên Khu
Liên, Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Phật..
Thời Lý, Trần dân tộc Đại Việt và Chiêm Thành ngang ngữa nhau
khoảng 5 triệu. Cuối đời Trần, vua Trần Duệ Tông (1372-1377) đem quân đánh
Chiêm Thành bị đại bại, hai trăm ngàn quân Đại Việt bị tiêu diệt, vua bị tử trận.
Đoàn Thị Điểm qua chuyện Hải Khẩu Linh Từ, trong Truyền Kỳ Tân Phả dám viết lên
tấm gương bại trận vì vua không nghe lời điều trần của nàng Bích Châu, thật
đáng kính phục, xứng danh là một nhà văn phụ nữ lớn nhất nước ta. Chế Bồng Nga
(1360-1390) từng đem quân ba lần đánh phá Thăng Long, nếu không có tên đầy tớ họ
Chế bị đánh đòn mà sang hàng chỉ cho tướng Trần Khắc Chân thuyền Chế Bồng Nga
thì bán đảo Việt Nam sẽ thống nhất dưới tên Champa và toàn dân theo Hồi Giáo,
theo trào lưu đương thời đã chinh phục được Indonésia, Mã Lai, Chiêm Thành và một
phần Phi Luật Tân. Chiến tranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành lúc bấy giờ là một
cuộc chiến không khoan nhượng, nếu Đại Việt bị đại bại thì số phận có lẽ rất
tàn bạo: tất cả đàn ông bị giết, và đàn bà bị bán làm nô lê. Người sống sót phải
cải đạo thành Hồi Giáo.
Người Việt Nam vùng đồng bằng sông Hồng tâm tình quyến luyến
với làng mạc, với lũy tre làng, đi ra khỏi làng là sự bất đắc dĩ, chỉ khi nào
đê vỡ, nạn đói trầm trọng lắm mới bỏ xứ mà đi, họ chỉ sống quanh đồng bằng, ít
ai lên miền núi để khai phá. Đóng con thuyền để vượt đại dương, hay đi phiêu
lưu các nước lân cận càng không nghe nói đến. Nghề hàng hải và hải quân Việt
Nam rất kém. Trận Bạch Đằng nước ta đóng cọc dòng sông rồi dùng thuyền nhẹ ra
đánh. Đến đời các chúa Nguyễn mới học được của Chiêm Thành, đóng được chiếc ghe
bầu với trữ lượng lớn. Thời Tây Sơn ghe bầu chở cả voi, là một yếu tố quyết định
trong các trận đánh. Đời Nguyễn mới có ghe bầu từ trong Nam chở lúa gạo, nước mắm
Phan Thiết, Quy Nhơn ra Nghệ An, ra Hà Nội bán.
Người đi nhiều nhất nước ta có lẽ là các ông đồ, thầy thuốc
người Nghệ An, Hà Tĩnh.. làng mạc nào từ Bắc chí Nam cũng có các ông đồ xứ Nghệ,
ăn nói trọ trẹ đến dạy học, làm thuốc, có lẽ các ông thầy xứ Nghệ là nhân tố
quan trọng đã tạo nên sự phát triển văn hóa Việt, thống nhất đất nước.
Trừ những vùng mới khai thác, làng xóm tại miền Trung và miền
Nam đã có sẵn từ các làng mạc Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp. Người Việt đến dù
ít đông hơn nhưng đã làm thay đổi tiếng nói và đồng hóa bằng tiếng Việt, ngược
lại ngôn ngữ Việt cũng phong phú hơn với các thổ âm gốc Chàm và Miên. Sự đồng
hóa tiếng nói không phải một sớm một chiều mà trải qua một thời gian rất dài
hai trăm năm, ba trăm năm.
Đất Bình Thuận chúa Nguyễn đánh chiếm năm 1697 nước Chiêm
Thành mất hẳn, năm 1905 cụ Huỳnh Thúc Kháng vào thăm đã viết: "Bình Thuận
xứ này mới trải qua, Nửa Hời, nửa Mọi nửa dân ta". tức là hai trăm năm mới
có phân nửa dân nói tiếng Việt. Ngày nay người Chăm tại Bình Thuận còn vài ngàn
chục ngàn chủ yếu là người theo Hồi Giáo và Bà La Môn. Năm 2010 thăm Viện Bảo
Tàng Dân Tộc Học nhìn kiểu các ngôi nhà người Chăm, vách và cửa bằng các cây cột
vuông chấn song từ trần đến thềm nhà, thời thơ ấu cách đây 50 năm tôi thấy các
nhà tại Bình Thuận đều như thế này mà nay không còn ngôi nhà nào như thế. Kết
luận: người Chăm đã bị đồng hóa thành người Việt. Ngày nay chúng ta nên nhìn việc
hình thành nước Việt Nam là một sự thống nhất giữa hai vương Quốc Đại Việt và
Chiêm Thành, vì phân nửa dân tộc từ Quảng Trị vào Nam có dòng máu tổ tiên người
Chiêm Thành và lịch sử Chiêm Thành là một phần của lịch sử Việt Nam. Tương lai
trong cuộc hội nhập vào Đông Nam Á, chúng ta còn nhìn ra những bà con người Môn
ở Miến Điện có thể từ cuối đời Hùng Vương đã ra đi lập một vương quốc hùng mạnh
từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ 10 tại Miến Điện, chúng ta nhìn ra những ngôi
nhà sàn trên trống đồng Ngọc Lũ, những người mang lông chim tại các dân tộc tại
Mã Lai, Indonésia..., chuyện trăm trứng trăm con, Tấm Cám có quan hệ đến những
chuyện cổ tích Ấn Độ, chuyện Phù Đổng Thiên Vương đi từ kinh điển Phật Giáo, buổi
nhà sư Khuông Việt cùng Lê Đại Hành đánh Tống... Con cháu chúng ta sẽ học lịch
sử Đông Nam Á thay vì lịch sử Việt Nam.
Công lao đáng kể bị các sử gia quên lãng là công lao các nàng
công chúa xinh đẹp Việt Nam, từ Huyền Trân công chúa đến Ngọc Vạn công chúa bị
mang tiếng đời: Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng mán, thằng mường
nó leo. Cưới gã, kết hôn lẫn nhau giữa các vương quốc là một phương tiện để đi
đến thống nhất hòa bình không cần đến chiến tranh là chuyện bình thường trên thế
giới. Nước Pháp xưa chỉ có Ile de France chung quanh vùng Paris, nhờ sự kết hôn
với Anne de Bretagne mà có thêm vùng Bretagne...
Nhiều sử gia đã gán cho vua Gia Long cái tội: Cõng rắn cắn gà
nhà. Gán cho triều Nguyễn cái tội vì cấm đạo Thiên Chúa, mà người Pháp đem quân
chiếm nước ta. Thậm chí gán cho tội làm mất nước cuối đời Tự Đức, Thành Thái
năm 1762, 1885, sau khi vua Gia Long chết hơn 40 năm, 60 năm.
Việc gửi Hoàng Tử Cảnh năm 1783, bốn tuổi sang Pháp cùng Giám
Mục Bá Đa Lộc. Đến Pháp năm 1787, triều đình Pháp, thời vua Louis XVI trong cơn
hấp hối, sắp bị Cách Mạng Pháp 1789 lật đổ, nên tiếp đón miễn cưỡng gần từ chối
việc giúp đỡ vua Gia Long, giao việc cho De Conway tổng trấn nhượng địa Pondichéry
tại Ấn Độ, ông này lại từ chối. Bá Đa Lộc phải mời cá nhân vài người Pháp đánh
thuê từ Ấn Độ sang giúp, gần 20 người là: Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) chúa tàu
Long, Vannier (Nguyễn Văn Chấn) chúa tàu Phụng, De Forçant (Lê Văn Lăng) Victor
Olivier (Ông Tín), Dayot... người những người đó giúp cho việc luyện tập binh
sĩ, làm tàu đúc súng, chỉnh đốn mọi việc vũ bị.. họ về đến Việt Nam tháng 6 năm
1789 đã được vua Gia Long trọng thưởng và cho làm quan, phong tước cất cho dinh
thự, vợ thê thiếp người Việt, kẻ hầu hạ.. (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược sđd
tr 152.)
Giám Mục Bá Đa Lộc khi mất cũng được xây Lăng Cha Cả ở Tân
Sơn Nhất Sài Gòn tử tế, vua Gia Long ân oán sòng phẳng, Triều Nguyễn không có nợ
gì với nước Pháp. Sau Cách Mạng Pháp 1789, đạo Thiên Chúa tại Pháp bị đàn áp
tàn bạo, nhà thờ bị biến thành vựa chứa thóc, tượng Chúa, tượng thánh bị chặt đầu,
tu viện bị tịch thu làm trường học, nhà thương, tại Paris và một số nơi khác
hàng trăm linh mục bị bắn tại Viện Công Giáo Paris đem chôn vào hố tập thể.. Nếu
Giám Mục Bá Đa Lộc ở Pháp chắc chắn không có được ngôi lăng mộ và nghi lễ an
táng trang trọng như thế.
Việc cấm đạo thời Nguyễn là do các Giám Mục Pháp can thiệp
quá sâu vào nội bộ Việt Nam. Việc vua Gia Long chọn lựa thái tử Đảm tức Minh Mạng
sinh năm 1791 làm vua năm 1820 lúc đó đã 30 tuổi, đã trưởng thành, mà không chọn
lựa cháu nội là con Hoàng Tử Cảnh đã mất. Biết con không ai bằng cha, chọn lựa
Minh Mạng là một chọn lựa đúng đắn của triều đình và vua Gia Long, không để nước
Việt Nam cai trị bởi một vị vua còn nhỏ và quyền lực về tay các giám mục Pháp.
Thất bại trong kế hoạch biến Việt Nam thành Thiên Chúa Giáo qua con Hoàng Tử Cảnh,
các nhà truyền giáo xoay qua làm quân sư cho vụ khởi loạn Lê Văn Khôi ở thành
Gia Định lập một triều đình riêng, và dàn dựng Tạ Quang Phụng một người gác cổng
nhà truyền giáo thành con cháu nhà Lê để khởi nghĩa. Việc thành bại trong chính
trị nào cũng trả giá bằng xương máu, lôi kéo cả những giáo dân vô tội. Nếu vua
Gia Long cấm đạo, thì hẳn không cho Bá Đa Lộc làm Chánh Sứ của mình hoàn toàn tự
do trong các việc thương thuyết, và con cả Hoàng Tử Cảnh theo đạo Thiên Chúa,
vua Gia Long cũng không cấm cản. Ngày nay tên Nguyễn Hoàng, Gia Long, Minh Mạng
bị xóa các tên đường, chúng ta không công nhận những giai đoạn lịch sử đó của
nước ta hay sao?. Điều này nên xét lại.
Vua Gia Long, Minh Mạng là những vị vua anh minh, trong thời
đại này đất nước ta rộng lớn. Cả Cam Bốt cũng thành Trấn Tây Thành. Thời đại
này quân sự và chính trị nước ta rất vững vàng và hùng mạnh. Nguyễn Du có lý
khi chọn Nguyễn Ánh làm minh chúa để phụng sự mà không chọn Thái Sư Bùi Đắc
Tuyên hay tướng Vũ Văn Dũng, sau khi vua Tây Sơn Nguyễn Huệ mất. Đất nước Việt
Nam đâu phải là của riêng của nhà Tây Sơn?.
Nguyễn Du sau khi làm Hồng Sơn Liệp Hộ làm thợ săn đi tìm lại
các nơi khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du thấy không thể nào lập lại việc này,
và chẳng có ai theo. Nguyễn Du xoay ra làm Nam Hải Điếu Đồ, người câu cá biển
Nam Hải đi câu đảo Song Ngư cửa biển Nghệ An, tìm manh mối theo các thương thuyền.
Thuở ấy có những ghe bầu lớn trọng lượng đến năm, mười tấn, có nguồn gốc từ
Chiêm Thành đi từ Phan Thiết, Nha Trang chỡ nước mắm, gạo ra Nghệ An, ra Bắc
bán và trở về.
Có lẽ Nguyễn Du muốn đến Nha Trang tìm chúa Nguyễn Ánh năm
1796 vừa chiếm được thành Diên Khánh. Nhưng Nguyễn Du chưa kịp đi thì bị Trấn
Thủ Nguyễn Văn Thận bắt được và giam mười tuần. Tuần ngày xưa là 10 ngày, một
tháng có ba tuần, tức ba tháng 10 ngày. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền chép:
"Buổi ấy Nguyễn Du thường tỏ ý chí mình trong những câu thơ: Hán mạt
nhất thời vô nghĩa sĩ, Chu sơ tam kỷ hữu ngoan dân (Buổi nhà Hán sắp mất
không có người nghĩa sĩ. Lúc nhà Chu mới dấy, dân vẫn còn ngoan cố không chịu
theo Chu). Hán là triều đình nào, Chu là ai? Trong thời điểm năm 1796, vua Lê,
chúa Trịnh đã mất từ 10 năm. Hán sắp mất phải chăng Nguyễn Du muốn nói đến nhà
Tây Sơn trong tay Thái Sư Bùi Đắc Tuyên, Vũ Văn Dũng các nghĩa sĩ đang bỏ đi,
và nhà Chu đang dấy lên là Nguyễn Ánh đang chiến thắng từ trận này sang trận
khác, và lòng dân đang khát khao: Lạy trời cho có gió Nồm, cho thuyền chúa
Nguyễn dong buồm thẳng ra...
Bài My Trung Mạn Hứng, Nguyễn Du viết: Chung Tử ôm đàn gảy
theo điệu Nam. Trang Tích ốm nằm rên bằng tiếng Việt. Bốn bể gió bụi nghĩ tình
nhà việc nước mà rơi lệ, mười tuần trong lao tù coi thường sống chết. Mối hận
Bình Chương nhà Tống mất nước rơi vào tay Mông Cổ bao giờ hết. Khó tìm được
phong cách cao thượng của Bá Di, Thúc Tề con vua Cô Trúc không ăn thóc nhà Chu.
Ta có một chút tâm sự không biết tỏ cùng ai. Lòng như sông Quế Giang sâu thẳm
dưới núi Hồng?
CẢM HỨNG TRONG TÙ
Ôm đàn Chung Tử gảy bài Nam,
Trang Tích nằm đau tiếng Việt rên.
Bốn bể phong trần nhà nước khóc,
Mười tuần lao ngục tử sinh cam.
Bình Chương di hận bao giờ hết,
Cô Trúc cao phong khó kẻ tìm.
Tâm sự chút lòng ai biết tỏ,
Như sông Quế sâu dưới non Hồng.
Trang Tích nằm đau tiếng Việt rên.
Bốn bể phong trần nhà nước khóc,
Mười tuần lao ngục tử sinh cam.
Bình Chương di hận bao giờ hết,
Cô Trúc cao phong khó kẻ tìm.
Tâm sự chút lòng ai biết tỏ,
Như sông Quế sâu dưới non Hồng.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
MY TRUNG MẠN HỨNG
Chung Tử viên cầm tháo nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thời liễu?
Cô Trúc cao phong khả bất tầm,
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng Sơn giang hạ, Quế Giang thâm.
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thời liễu?
Cô Trúc cao phong khả bất tầm,
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng Sơn giang hạ, Quế Giang thâm.
Chú thích:
Chung Tử: tức Chung Nghi, người nước Sở, bị nước Tấn bắt, người
ta đưa đàn cho ông gảy, nhưng ông chỉ đàn bài hát phương Nam (nước Sở) Người Tấn
khen ông không vong bản.
Trang Tích: người nước Việt làm quan nước Sở. Khi ông ốm Sở
Vương hỏi mọi người: "Tích là kẻ tầm thường ở nước Việt, nay làm quan nước
Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?" Viên thị thư đáp:
"Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không thường tỏ ra lúc ốm đau. Nếu lúc
này ông ta nói tiếng Việt tức là còn nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng Sở.
Sở Vương sai người nghe lén thì thấy Trang Tích rên bằng tiếng Việt.
Bình Chương: Núi Bình Chương. Tống sử chép: Trương Thế Kiệt
tướng giỏi đời Tống, đồng thời với Văn Thiên Trường, Lục Tú Phu phò Đế Bính chống
quân Nguyên Mông Cổ, mong khôi phục nhà Tống. Sau thua lên thuyền chạy đến núi
Bình Chương, gặp bão thuyền đắm, Thế Kiệt chết, nhà Tống mất.
Cô Trúc: Một nước lập từ đời nhà Ân (nay tỉnh Trực Lê). Khi
Ân bị Chu lấy, Bá Di, Thúc Tề con vua Cô Trúc, không phục nhà Chu lên ẩn núi
Thú Dương rồi nhịn đói mà chết, chứ không thèm ăn thóc nhà Chu.
Trong anh em Nguyễn Du có 4 người cuối cùng không ra làm
quan, nhưng không hẳn có tâm sự hoài Lê, Nguyễn Nhưng, Nguyễn Nghi, Nguyễn Tốn
và Nguyễn Lang...
Nguyễn Nhưng (1758-1824) cha Nguyễn Y người viết gia phả họ
Nguyễn Tiên Điền, con cụ Nguyễn Nghiễm và bà Hồ Thị Ngạn, người xã Xuân Yên,
Nghi Xuân. Còn có tên là Toàn, tự Vân Nham, hiệu Tốn Trai, tập ấm Hoàng tín đại
phu, tước Trung Nhạc Bá. Đậu Tứ Trường thi Hương đời Lê Trịnh năm 1783 cùng
khoa với Nguyễn Du. Ông trung với nhà Lê nhưng năm 1801 cuối đời Tây Sơn ông ra
nhận chức Trấn Thủ Sơn Tây thay thế Nguyễn Công Tấn, thân phụ Nguyễn Công Trứ,
nhưng nhà Tây Sơn mất năm 1802 ông trở về quê nhà dạy học và làm thuốc từ đó
ông không ra làm quan với nhà Nguyễn.
Nguyễn Nghi (1773-1845) con bà Nguyễn Thị Xuân, ở Bắc Ninh,
ông thọ 72 tuổi người sống lâu nhất trong 12 anh em. Ông viết truyện thơ Quân
Trung Đối đặt ra chuyện nàng Đậu Tuyến Nương tức Dũng An Công Chúa chỉ lấy một
chồng, trung trinh với La Thành kết thề nơi trận tiền. Suốt đời ông làm nghề thầy
thuốc tại Xã An Lạc, Châu Kiều, Bắc Ninh nhưng con ông là Nguyễn Toản đỗ Tiến
Sĩ làm quan đến chức Viên ngoại Lang đời Minh Mạng.
Nguyễn Tốn (1767-1789) con bà Hoàng Thị Thược người xã Đoàn Hải,
Xuân Hải, huyện Nghi Xuân tập ấm Hoàng tín đại phu, tước Vĩnh Nhạc Bá, ông chết
trẻ năm 22 tuổi.
Nguyễn Lang (1768-1824), con bà Phan thị Diễn người xã Hải
Lê, huyện Nam Chân tỉnh Sơn Nam, tập ấm Hoàng tín đại phu tước Văn Chính Công.
Ông thi Hương trường thi Sơn Nam ở Nam Định đậu Tú Tài, ông mất năm 56 tuổi,
sau Nguyễn Du bốn năm.
Chúng ta có thể đi đến kết luận. Nguyễn Du không có tâm sự
hoài Lê gì cả, anh em Nguyễn Du có Nguyễn Quýnh thực sự là người hoài Lê muốn
khôi phục nhà Lê và bị thất bại. Nguyễn Du hoàn toàn theo chúa Nguyễn Ánh. Vì
Nguyễn Ánh là người sáng suốt nhất có khả năng lãnh đạo đất nước thành công
trong thời điểm, vua Quang Trung chết bất ngờ năm 1792. Vận nước không thể nằm
trong tay một cậu bé Cảnh Thịnh lên mười. Năm 1795 Nguyễn Du toan trốn theo
Nguyễn Ánh, năm 1802 dâng lương thực, bò ngựa tiếp tế cho vua Gia Long tại Phù
Dung được trọng dụng ngay. Ra làm quan được vua Gia Long xem trọng thăng tiến rất
nhanh, chỉ là người đỗ Tam Trường (Tú Tài) mà vua Gia Long thấy tài phong làm
tri huyện Thường Tín đặc trách tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương, rồi thăng
Đông Các học sĩ, chức vụ kế cận vua, năm 1809 thăng làm quan Cai Bạ Quảng Bình,
chức vụ trấn thủ một trong bốn doanh đất kinh kỳ, năm 1813 được phong làm Chánh
Sứ đi sứ sang nhà Thanh, Nguyễn Du là người hiếm có không phải là bậc Tiến Sĩ
trong chức vụ đi sứ... Khi thấy Nguyễn Du cứ ầm ừ không tâu gì vua Gia Long
trách móc, muốn có ý kiến của Nguyễn Du. Giữa Nguyễn Du và vua Gia Long có sự
tương đắc, giữa một vị vua sáng suốt và người hiền tài. Nguyễn Du hoàn toàn có
lý trong quyết định phò Nguyễn Ánh làm minh chúa. Tôi cho rằng hiểu như thế là
hiểu được tấm lòng Nguyễn Du sâu như nước sông Quế Giang.
Phạm Trọng Chánh - Tác giả: Hồ Xuân Hương nàng là ai?
Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Truyện thơ Odyssée, Sử
thi Iliade bằng thơ lục bát. Tự điển tình yêu bằng thơ tình Xuân Diệu (toàn bộ
di cảo đã xuất bản và chưa xuất bản do Xuân Diệu hiệu đính và ký thác). Thơ
Tình Nhất Uyên, (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa) - do nhà xuất bản Khuê Văn tại
Paris.
12-9-2013
Phạm Trọng Chánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét