Đã năm năm rồi, anh mới trở lên Đà Lạt. Thành phố giờ đây có
nhiều thay đổi. Đồi Cù đã bị san bằng, trở thành một sân golf nhạt nhẽo. Hồ
Xuân Hương ngập đầy rác rưởi. Du khách đến nhiều hơn, đến rồi đi, khuấy động sự
tĩnh lặng êm ả của nếp sống vùng cao, du nhập thêm những lề thói xấu xa cho người
dân bản địa. Và thành phố này cũng đã đánh mất rất nhiều nét buồn buồn thơ mộng
thầm lặng của ngày xưa.
Ngôi mộ nằm trên một ngọn đồi nhỏ ở hướng Đông thành phố. Một nghĩa trang Công giáo có nhiều cây hoa anh đào, và cũng thật nhiều những cụm dã quỳ vàng một màu luyến nhớ. Anh lên Đà Lạt đêm qua, lúc hơn mười hai giờ khuya. Và sáng nay, khi sương mù còn giăng khắp các đỉnh thông già, anh đã ngồi lặng lẽ trước nấm mộ của Ngọc Anh. Mùa xuân vẫn còn nán lại trên hoa cỏ, trong không khí man mác lạnh, nhưng giờ đây, lòng anh là một trời thu hoang vắng. Nắng đã phai, cỏ đã úa, và gió đã ngưng thổi trong lòng.
Anh ngồi bó gối, nhìn những lượn khói hương bay lẫn quất trên mấy cành hoa dại đặt trước tấm mộ bia mà lúc nãy anh vừa hái ở ven đường, đôi mắt rưng rưng. Bé ơi! Đã lâu rồi tôi mới lại đến thăm em. Đừng giận tôi nha. Lúc nào tôi cũng nhớ đến em, thật đó. Luôn luôn. Mãi mãi. Hương hồn em giờ đang ở nơi đâu? Hãy quay về đây hội ngộ.
Chuyện xưa qua đã lâu rồi, sao bây giờ chợt quay về, mồn một trong ký ức, như thể mới hôm qua...
Ngôi mộ nằm trên một ngọn đồi nhỏ ở hướng Đông thành phố. Một nghĩa trang Công giáo có nhiều cây hoa anh đào, và cũng thật nhiều những cụm dã quỳ vàng một màu luyến nhớ. Anh lên Đà Lạt đêm qua, lúc hơn mười hai giờ khuya. Và sáng nay, khi sương mù còn giăng khắp các đỉnh thông già, anh đã ngồi lặng lẽ trước nấm mộ của Ngọc Anh. Mùa xuân vẫn còn nán lại trên hoa cỏ, trong không khí man mác lạnh, nhưng giờ đây, lòng anh là một trời thu hoang vắng. Nắng đã phai, cỏ đã úa, và gió đã ngưng thổi trong lòng.
Anh ngồi bó gối, nhìn những lượn khói hương bay lẫn quất trên mấy cành hoa dại đặt trước tấm mộ bia mà lúc nãy anh vừa hái ở ven đường, đôi mắt rưng rưng. Bé ơi! Đã lâu rồi tôi mới lại đến thăm em. Đừng giận tôi nha. Lúc nào tôi cũng nhớ đến em, thật đó. Luôn luôn. Mãi mãi. Hương hồn em giờ đang ở nơi đâu? Hãy quay về đây hội ngộ.
Chuyện xưa qua đã lâu rồi, sao bây giờ chợt quay về, mồn một trong ký ức, như thể mới hôm qua...
Con dốc nằm bên hông khuôn viên Đại học Đà Lạt, đỗ dài đến tận
đầu đường Hai Bà Trưng. Hai bên đường là những căn nhà vườn xinh xắn mọc đầy
hoa cỏ trước sân. Và những thảm dã quỳ vàng rực trải dài trong nắng. Ngày nào
anh cũng đi qua con dốc ấy. Buổi sáng ra đi, lang thang khắp những ngọn đồi, những
khoảnh rừng thông vắng lặng. Rồi khi mặt trời sắp khuất sau ngọn đồi Cù, anh lại
quay trở về căn nhà trọ nằm ở gần cuối con dốc.
Anh lên xứ cao nguyên này đã hơn một tuần. Để vẽ tranh, để thư giãn sau những tháng ngày bon chen vật lộn ở Sài Gòn náo nhiệt, hay để đi tìm một cái gì đó mà chính anh cũng chưa thật hiểu. Phải chăng anh đang tìm kiếm tình yêu?... Mấy đứa bạn học cũ hay nửa đùa nửa thật trêu anh: "Lấy vợ cho rồi đi ông ơi! Già rồi mà cứ long nhong hoài nguy hiểm lắm nha... Hay để tụi này làm mai cho một mối ngon lành há." Những lúc đó, anh chỉ lặng lẽ mỉm cười đáp lễ tụi nó. "Ba mươi tuổi, có phải mình đã bước sang lứa già nua?", nhiều khi anh lẩn thẩn tự hỏi mình như vậy, rồi lại bật cười tự đáp, "Có lẽ mình già thật, 'Hỡi ơi, tôi chưa bao giờ được trẻ. Ngay từ lúc tóc còn xanh tôi đã già cả ngàn tuổi hơn một cụ già', hình như Kierkegaard đã từng nói vậy."
Cuộc sống của anh trầm lặng, hơi buồn và tẻ nhạt, ít những cuộc vui phù phiếm, ít những tiếp xúc xã giao hời hợt bâng quơ. Thế giới của anh là những bản vẽ thiết kế công trình, những con số vô hồn, những tháng ngày dằng dặc chán chường, lặp đi lặp lại, hoặc ở trong phòng, hoặc ngoài công trường đầy nắng gió. Đôi khi, anh tự nhủ cuộc đời sao đáng chán vô nghĩa quá đi. Có lẽ cuộc đời sẽ thật sự đáng chán, nếu anh không còn một niềm vui duy nhất: vẽ tranh. Vứt lại sau lưng mọi công việc làm ăn, mọi suy tư tính toán, mỗi năm một lần anh đeo chiếc ba lô đựng vài bộ quần áo, mớ cọ, màu và xách chiếc giá vẽ dã chiến đi ra bến xe, tới một thị trấn ở một tỉnh xa heo hút nào đó dăm tuần, một tháng, lang thang khắp các xó xỉnh, vẽ nguệch ngoạc những bức tranh lãng đãng mà sau đó anh tặng lại đám bạn bè hay chất thành đống dưới gầm giường. Vẽ với anh là một thú vui, không có gì ràng buộc, cũng không cần ai khen chê, đánh giá.
Lần đầu tiên anh gặp Ngọc Anh, là chính ở nhà cô. Ngôi nhà cổ kính, mái ngói rêu phong, nằm giữa lưng chừng con dốc, phía trước hàng hiên thật dài là một luống đất trồng nhiều loại hoa cỏ, và những gốc liễu già thật đẹp rải rác trong sân. Một dãy dâm bụt ken dày tạo thành bức tường rào tự nhiên phía trước, và một chiếc cổng gỗ nho nhỏ, cao ngang tầm ngực, hình như sơn màu xanh ngọc bích nhưng nắng gió phôi pha đã biến nó sang một màu xanh thẫm hơi vàng ố. Anh để ý thấy một điều là chiếc cổng đó luôn luôn hé mở, như để đón chờ ai vậy. Toàn bộ khung cảnh ngôi nhà toát lên một vẻ bình yên và thơ mộng lạ lùng. Mỗi lúc đi ngang, anh thường dừng lại một chút để ngắm nhìn nó. Anh đã tự nhủ một hôm nào đó sẽ xin phép chủ nhân để vẽ ngôi nhà, nhưng không biết sao cứ dần dà trì hoãn lại. Cho tới chiều hôm đó, anh đang trên đường trở về, sắp tới chỗ ngôi nhà thì trời chợt đổ mưa. Quãng đường này ít nhà, căn này cách căn kia cũng vài trăm mét. Khi anh kịp lách người qua chiếc cổng hé mở, chạy đến nép dưới hàng hiên, quần áo anh đã ướt sũng nước mưa. Anh đứng run lập cập, tự trách mình sao đãng trí, đi ra ngoài vào mùa mưa mà cứ quên mang áo mưa theo.
Anh đang loay hoay giũ những giọt nước mưa bám trên lớp sơn của bức vẽ chợt giật bắn mình khi nghe thấy một giọng nói con gái sau lưng, thật nhẹ:
"Trời, anh ướt hết trơn rồi!"
Anh quay lại. Ánh sáng cuối ngày trong cơn mưa mờ mờ nhòa nhạt làm anh không thể nhìn rõ gương mặt của cô gái đó. Nhưng những tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc và giọng nói trong veo cũng đủ cho anh nhận biết cô gái còn rất trẻ. Một mái tóc dài thoáng nét liêu trai, một thân hình thanh tú, và đôi mắt long lanh sáng nổi bật trong bóng chiều vàng vọt.
Cô bé nói tiếp, trên môi thoáng một nụ cười hiền:
"Anh hãy vào trong nhà sưởi ấm, em sẽ lấy quần áo của ba em cho anh thay tạm, không anh sẽ bị cảm lạnh mất thôi."
Anh ngạc nhiên. Và cảm động. Sau một lúc, anh mới có thể lúng túng đáp lời cô:
"Rất cám ơn em. Nhưng tôi sẽ không sao đâu mà."
Anh nói anh sẽ không sao đâu, nhưng giọng anh run rẩy, người anh run rẩy, không tài nào che giấu được.
Cô bé lại nói, giọng nằn nì:
"Vào đi anh, đừng ngại. Em biết anh là người tốt. Mấy hôm rồi, em thường gặp anh xách giá vẽ đi ngang nhà. Anh là họa sĩ phải không?"
Cơn mưa chiều hôm đó thật dài, đến gần mười giờ ddêm mới dứt. Và anh được cô bé đó cho mượn một bộ pijama thay tạm, được cô giúp hong khô bộ quần áo ướt, được mời ăn một bữa tối thật đạm bạc, nhưng sao ngon miệng lạ lùng. Cả ngôi nhà rộng chỉ có mình cô đêm ấy. Ba cô đã sang Di Linh thăm một người bạn thiết, có lẽ đến mai mới về nhà. Khi hai người trò chuyện, cô nhiều lần lặp lại với anh, rằng cô rất vui khi được gặp anh, giúp anh, vì cô đang cảm thấy cô đơn và buồn lắm. Trong suốt mấy giờ đồng hồ ngồi thoải mái bên ngọn lửa ấm nồng, bên một cô gái dịu hiền xinh đẹp, anh cứ ngỡ như mình đang lạc vào một câu chuyện liêu trai nào đó. Anh vừa trò chuyện với cô bé, vừa lắng nghe tiếng mưa đêm rào rào đổ trên mái ngói, tiếng sấm ì ầm vang động, tiếng củi nổ lách tách trong lò sưởi, thầm tự nhủ rằng cuộc đời không hề đáng chán. Cuộc đời thật huyền ảo kỳ diệu biết bao. Chỉ cần được một lần nếm trải niềm hạnh phúc an bình như thế này thôi, cuộc đời đã không còn vô nghĩa. Sau hôm ấy, anh đã trở thành một người bạn thiết của gia đình. Ba của Ngọc Anh là một ông giáo về hưu hiền lành trung thực. Ông lập gia đình hơi muộn. Vợ của ông, một hoa khôi của trường trung học Đà Lạt, học trò của ông khi trước, đã thầm yêu người thầy tài năng nhưng khiêm nhường lặng lẽ của mình từ năm cuối cấp, nhưng chỉ rất lâu về sau ước mơ của bà mới thành sự thật, vì những định kiến và dư luận cản ngăn. Hạnh phúc của ông bà cũng thật là ngắn ngủi. Bà mất sau một cơn đột quỵ tim khi Ngọc Anh vừa lên tám. Từ đó, người thầy giáo một mình gà trống nuôi con. Khỏi phải nói ông yêu Ngọc Anh đến mức nào, và cô đối với ông cũng vậy. Ngọc Anh đã kể cho anh nghe mấy chuyện đó trong những lúc anh cùng cô lang thang rong ruổi khắp các đồi thông, anh vẽ tranh, cô vừa tung tăng hái hoa, nhặt những quả thông khô rơi rụng, vừa hát véo von những bài hát lạ lùng, buồn buồn dịu nhẹ, chắc là do tự cô ứng tác. Có những buổi chiều, sau khi đi vẽ về, anh tạt vào nhà, ngồi với hai cha con một lát, bỗng thấy chốn cao nguyên này đã trở thành một cái gì thật là gần gũi, thấy hai người bạn vong niên của mình, một già, một trẻ, sao quá đỗi thân thương. Có một điều anh không hiểu lắm, là nhiều khi trong những lúc đàm đạo chuyện thơ văn nghệ thuật với ba của Ngọc Anh, anh chợt thấy trán ông hằn xuống những nếp nhăn sâu, đôi mắt ông chợt đăm chiêu tư lự khi nhìn Ngọc Anh đang ríu rít nói cười. Dù sao, đó chính là những ngày vui và hạnh phúc nhất mà anh từng biết, nên anh cũng không suy nghĩ gì nhiều về sự việc hơi kỳ lạ đó, dù đôi khi thắc mắc.
Rồi một chiều kia, mọi chuyện trở nên sáng tỏ. Lúc ấy, anh đang đứng ngắm nhìn cô, cố sửa lại một chi tiết nào đó trong bức tranh mà anh chưa vừa ý lắm. Ngọc Anh nghiêng người ngắt một đoá mimosa mọc gần bên, đưa lên môi hôn nhẹ, những sợi tóc loã xoã bay trong gió. Khuôn mặt thiên thần chợt xanh xao thật lạ, dù ddôi môi xinh xắn vẫn còn một chút ánh hồng.
"Ngày mai em không tới đây đâu. Ngày mốt cũng vậy. Ngày kia cũng vậy", cô bé nói, ánh mắt trôi về một chốn xa xôi, "em không biết em có còn tới đây được nữa hay không... Anh đã vẽ xong chưa?"
Bức tranh hãy còn dang dở. Còn thiếu một điều mà mấy hôm rồi anh chưa nắm bắt được. Đó chính là cái vẻ xa vời, lẻ loi nhưng thanh thoát của cô. Hình như cô là một thiên thần bé bỏng đi lạc xuống chốn trần gian. Hình như cô không thuộc về cõi người ta quá nhiều hệ lụy này. Điều đó toát lên từ thân hình thanh tú, từ mái tóc đen mềm như một loài mây lạ, từ đôi mắt nâu trong veo ngơ ngác, từ từng cử chỉ đi đứng cười nói dịu dàng thiên bẩm của cô. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, và trong những lúc đứng vẽ cô sau này, thỉnh thoảng anh lại bất chợt ngây người vì cái dáng vẻ lạ lùng thoát tục ấy. Những lúc như thế, hầu như anh không thể cưỡng lại một lời thở than thầm kín: "Tại sao tôi không trẻ đi mười tuổi, hoặc em lớn hơn mười tuổi, hở Ngọc Anh?" "Em phải vào bệnh viện, em sắp phải chia tay với cuộc đời rồi, anh có biết không", cô bé đột ngột nói thêm, đôi mắt thật buồn.
Anh giật mình chết lặng. Phải, từ lần đầu gặp cô, anh đã thấy cô có chút gì đó thật mong manh yếu ớt. Nhưng anh không thể ngờ cô lại ốm nặng thế này. Anh lắp bắp hỏi cô, dù khi vừa thốt ra đã thấy ngay sự vô lý của câu hỏi đó:
"Nhưng... nhưng tại sao như vậy?... Em chỉ mới mười bảy tuổi, em còn quá trẻ mà bé..."
Cổ họng anh bỗng dưng ứ nghẹn, anh ngưng một lúc, thật lâu, để có thể lại nói nên lời:
"Em không thể chết đâu mà!"
"Em bị bệnh tim đã mấy năm nay, không biết có phải di truyền từ mẹ hay không nữa... Vị bác sĩ là bạn học của ba thời trung học ở thành phố này đã làm hết sức mình để cứu em. Lẽ ra, em đã ra đi cách đây năm tháng. Em còn sống đến lúc này, được gặp anh, cũng đã may mắn lắm rồi, anh ạ".
Cô ngước lên nhìn anh, ánh mắt vẫn buồn buồn nhưng nét mặt giờ đây bỗng thanh thản lạ lùng. Những tia nắng chiều rơi xuống áo cô, như những sợi tơ vàng lóng lánh, chợt nhòa đi trong mắt của anh. Anh đã khóc từ lúc nào không biết.
Anh lên xứ cao nguyên này đã hơn một tuần. Để vẽ tranh, để thư giãn sau những tháng ngày bon chen vật lộn ở Sài Gòn náo nhiệt, hay để đi tìm một cái gì đó mà chính anh cũng chưa thật hiểu. Phải chăng anh đang tìm kiếm tình yêu?... Mấy đứa bạn học cũ hay nửa đùa nửa thật trêu anh: "Lấy vợ cho rồi đi ông ơi! Già rồi mà cứ long nhong hoài nguy hiểm lắm nha... Hay để tụi này làm mai cho một mối ngon lành há." Những lúc đó, anh chỉ lặng lẽ mỉm cười đáp lễ tụi nó. "Ba mươi tuổi, có phải mình đã bước sang lứa già nua?", nhiều khi anh lẩn thẩn tự hỏi mình như vậy, rồi lại bật cười tự đáp, "Có lẽ mình già thật, 'Hỡi ơi, tôi chưa bao giờ được trẻ. Ngay từ lúc tóc còn xanh tôi đã già cả ngàn tuổi hơn một cụ già', hình như Kierkegaard đã từng nói vậy."
Cuộc sống của anh trầm lặng, hơi buồn và tẻ nhạt, ít những cuộc vui phù phiếm, ít những tiếp xúc xã giao hời hợt bâng quơ. Thế giới của anh là những bản vẽ thiết kế công trình, những con số vô hồn, những tháng ngày dằng dặc chán chường, lặp đi lặp lại, hoặc ở trong phòng, hoặc ngoài công trường đầy nắng gió. Đôi khi, anh tự nhủ cuộc đời sao đáng chán vô nghĩa quá đi. Có lẽ cuộc đời sẽ thật sự đáng chán, nếu anh không còn một niềm vui duy nhất: vẽ tranh. Vứt lại sau lưng mọi công việc làm ăn, mọi suy tư tính toán, mỗi năm một lần anh đeo chiếc ba lô đựng vài bộ quần áo, mớ cọ, màu và xách chiếc giá vẽ dã chiến đi ra bến xe, tới một thị trấn ở một tỉnh xa heo hút nào đó dăm tuần, một tháng, lang thang khắp các xó xỉnh, vẽ nguệch ngoạc những bức tranh lãng đãng mà sau đó anh tặng lại đám bạn bè hay chất thành đống dưới gầm giường. Vẽ với anh là một thú vui, không có gì ràng buộc, cũng không cần ai khen chê, đánh giá.
Lần đầu tiên anh gặp Ngọc Anh, là chính ở nhà cô. Ngôi nhà cổ kính, mái ngói rêu phong, nằm giữa lưng chừng con dốc, phía trước hàng hiên thật dài là một luống đất trồng nhiều loại hoa cỏ, và những gốc liễu già thật đẹp rải rác trong sân. Một dãy dâm bụt ken dày tạo thành bức tường rào tự nhiên phía trước, và một chiếc cổng gỗ nho nhỏ, cao ngang tầm ngực, hình như sơn màu xanh ngọc bích nhưng nắng gió phôi pha đã biến nó sang một màu xanh thẫm hơi vàng ố. Anh để ý thấy một điều là chiếc cổng đó luôn luôn hé mở, như để đón chờ ai vậy. Toàn bộ khung cảnh ngôi nhà toát lên một vẻ bình yên và thơ mộng lạ lùng. Mỗi lúc đi ngang, anh thường dừng lại một chút để ngắm nhìn nó. Anh đã tự nhủ một hôm nào đó sẽ xin phép chủ nhân để vẽ ngôi nhà, nhưng không biết sao cứ dần dà trì hoãn lại. Cho tới chiều hôm đó, anh đang trên đường trở về, sắp tới chỗ ngôi nhà thì trời chợt đổ mưa. Quãng đường này ít nhà, căn này cách căn kia cũng vài trăm mét. Khi anh kịp lách người qua chiếc cổng hé mở, chạy đến nép dưới hàng hiên, quần áo anh đã ướt sũng nước mưa. Anh đứng run lập cập, tự trách mình sao đãng trí, đi ra ngoài vào mùa mưa mà cứ quên mang áo mưa theo.
Anh đang loay hoay giũ những giọt nước mưa bám trên lớp sơn của bức vẽ chợt giật bắn mình khi nghe thấy một giọng nói con gái sau lưng, thật nhẹ:
"Trời, anh ướt hết trơn rồi!"
Anh quay lại. Ánh sáng cuối ngày trong cơn mưa mờ mờ nhòa nhạt làm anh không thể nhìn rõ gương mặt của cô gái đó. Nhưng những tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc và giọng nói trong veo cũng đủ cho anh nhận biết cô gái còn rất trẻ. Một mái tóc dài thoáng nét liêu trai, một thân hình thanh tú, và đôi mắt long lanh sáng nổi bật trong bóng chiều vàng vọt.
Cô bé nói tiếp, trên môi thoáng một nụ cười hiền:
"Anh hãy vào trong nhà sưởi ấm, em sẽ lấy quần áo của ba em cho anh thay tạm, không anh sẽ bị cảm lạnh mất thôi."
Anh ngạc nhiên. Và cảm động. Sau một lúc, anh mới có thể lúng túng đáp lời cô:
"Rất cám ơn em. Nhưng tôi sẽ không sao đâu mà."
Anh nói anh sẽ không sao đâu, nhưng giọng anh run rẩy, người anh run rẩy, không tài nào che giấu được.
Cô bé lại nói, giọng nằn nì:
"Vào đi anh, đừng ngại. Em biết anh là người tốt. Mấy hôm rồi, em thường gặp anh xách giá vẽ đi ngang nhà. Anh là họa sĩ phải không?"
Cơn mưa chiều hôm đó thật dài, đến gần mười giờ ddêm mới dứt. Và anh được cô bé đó cho mượn một bộ pijama thay tạm, được cô giúp hong khô bộ quần áo ướt, được mời ăn một bữa tối thật đạm bạc, nhưng sao ngon miệng lạ lùng. Cả ngôi nhà rộng chỉ có mình cô đêm ấy. Ba cô đã sang Di Linh thăm một người bạn thiết, có lẽ đến mai mới về nhà. Khi hai người trò chuyện, cô nhiều lần lặp lại với anh, rằng cô rất vui khi được gặp anh, giúp anh, vì cô đang cảm thấy cô đơn và buồn lắm. Trong suốt mấy giờ đồng hồ ngồi thoải mái bên ngọn lửa ấm nồng, bên một cô gái dịu hiền xinh đẹp, anh cứ ngỡ như mình đang lạc vào một câu chuyện liêu trai nào đó. Anh vừa trò chuyện với cô bé, vừa lắng nghe tiếng mưa đêm rào rào đổ trên mái ngói, tiếng sấm ì ầm vang động, tiếng củi nổ lách tách trong lò sưởi, thầm tự nhủ rằng cuộc đời không hề đáng chán. Cuộc đời thật huyền ảo kỳ diệu biết bao. Chỉ cần được một lần nếm trải niềm hạnh phúc an bình như thế này thôi, cuộc đời đã không còn vô nghĩa. Sau hôm ấy, anh đã trở thành một người bạn thiết của gia đình. Ba của Ngọc Anh là một ông giáo về hưu hiền lành trung thực. Ông lập gia đình hơi muộn. Vợ của ông, một hoa khôi của trường trung học Đà Lạt, học trò của ông khi trước, đã thầm yêu người thầy tài năng nhưng khiêm nhường lặng lẽ của mình từ năm cuối cấp, nhưng chỉ rất lâu về sau ước mơ của bà mới thành sự thật, vì những định kiến và dư luận cản ngăn. Hạnh phúc của ông bà cũng thật là ngắn ngủi. Bà mất sau một cơn đột quỵ tim khi Ngọc Anh vừa lên tám. Từ đó, người thầy giáo một mình gà trống nuôi con. Khỏi phải nói ông yêu Ngọc Anh đến mức nào, và cô đối với ông cũng vậy. Ngọc Anh đã kể cho anh nghe mấy chuyện đó trong những lúc anh cùng cô lang thang rong ruổi khắp các đồi thông, anh vẽ tranh, cô vừa tung tăng hái hoa, nhặt những quả thông khô rơi rụng, vừa hát véo von những bài hát lạ lùng, buồn buồn dịu nhẹ, chắc là do tự cô ứng tác. Có những buổi chiều, sau khi đi vẽ về, anh tạt vào nhà, ngồi với hai cha con một lát, bỗng thấy chốn cao nguyên này đã trở thành một cái gì thật là gần gũi, thấy hai người bạn vong niên của mình, một già, một trẻ, sao quá đỗi thân thương. Có một điều anh không hiểu lắm, là nhiều khi trong những lúc đàm đạo chuyện thơ văn nghệ thuật với ba của Ngọc Anh, anh chợt thấy trán ông hằn xuống những nếp nhăn sâu, đôi mắt ông chợt đăm chiêu tư lự khi nhìn Ngọc Anh đang ríu rít nói cười. Dù sao, đó chính là những ngày vui và hạnh phúc nhất mà anh từng biết, nên anh cũng không suy nghĩ gì nhiều về sự việc hơi kỳ lạ đó, dù đôi khi thắc mắc.
Rồi một chiều kia, mọi chuyện trở nên sáng tỏ. Lúc ấy, anh đang đứng ngắm nhìn cô, cố sửa lại một chi tiết nào đó trong bức tranh mà anh chưa vừa ý lắm. Ngọc Anh nghiêng người ngắt một đoá mimosa mọc gần bên, đưa lên môi hôn nhẹ, những sợi tóc loã xoã bay trong gió. Khuôn mặt thiên thần chợt xanh xao thật lạ, dù ddôi môi xinh xắn vẫn còn một chút ánh hồng.
"Ngày mai em không tới đây đâu. Ngày mốt cũng vậy. Ngày kia cũng vậy", cô bé nói, ánh mắt trôi về một chốn xa xôi, "em không biết em có còn tới đây được nữa hay không... Anh đã vẽ xong chưa?"
Bức tranh hãy còn dang dở. Còn thiếu một điều mà mấy hôm rồi anh chưa nắm bắt được. Đó chính là cái vẻ xa vời, lẻ loi nhưng thanh thoát của cô. Hình như cô là một thiên thần bé bỏng đi lạc xuống chốn trần gian. Hình như cô không thuộc về cõi người ta quá nhiều hệ lụy này. Điều đó toát lên từ thân hình thanh tú, từ mái tóc đen mềm như một loài mây lạ, từ đôi mắt nâu trong veo ngơ ngác, từ từng cử chỉ đi đứng cười nói dịu dàng thiên bẩm của cô. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, và trong những lúc đứng vẽ cô sau này, thỉnh thoảng anh lại bất chợt ngây người vì cái dáng vẻ lạ lùng thoát tục ấy. Những lúc như thế, hầu như anh không thể cưỡng lại một lời thở than thầm kín: "Tại sao tôi không trẻ đi mười tuổi, hoặc em lớn hơn mười tuổi, hở Ngọc Anh?" "Em phải vào bệnh viện, em sắp phải chia tay với cuộc đời rồi, anh có biết không", cô bé đột ngột nói thêm, đôi mắt thật buồn.
Anh giật mình chết lặng. Phải, từ lần đầu gặp cô, anh đã thấy cô có chút gì đó thật mong manh yếu ớt. Nhưng anh không thể ngờ cô lại ốm nặng thế này. Anh lắp bắp hỏi cô, dù khi vừa thốt ra đã thấy ngay sự vô lý của câu hỏi đó:
"Nhưng... nhưng tại sao như vậy?... Em chỉ mới mười bảy tuổi, em còn quá trẻ mà bé..."
Cổ họng anh bỗng dưng ứ nghẹn, anh ngưng một lúc, thật lâu, để có thể lại nói nên lời:
"Em không thể chết đâu mà!"
"Em bị bệnh tim đã mấy năm nay, không biết có phải di truyền từ mẹ hay không nữa... Vị bác sĩ là bạn học của ba thời trung học ở thành phố này đã làm hết sức mình để cứu em. Lẽ ra, em đã ra đi cách đây năm tháng. Em còn sống đến lúc này, được gặp anh, cũng đã may mắn lắm rồi, anh ạ".
Cô ngước lên nhìn anh, ánh mắt vẫn buồn buồn nhưng nét mặt giờ đây bỗng thanh thản lạ lùng. Những tia nắng chiều rơi xuống áo cô, như những sợi tơ vàng lóng lánh, chợt nhòa đi trong mắt của anh. Anh đã khóc từ lúc nào không biết.
Anh rời ngọn đồi vào lúc chiều chạng vạng. Nắng cuối ngày
đang luyến tiếc buông rơi những sợi cuối cùng lên những vạt cỏ úa khô trên từng
nấm mộ. Trong tiếng thông reo xa xa vẳng lại, trong tiếng gió réo vi vu, anh
nghe như mơ hồ có tiếng ai đó hát, thật buồn: "Người hãy đến tìm một ngày
nào đó. Người hãy ngắt giùm một sợi cỏ úa. Cỏ úa khô, đang ngủ vùi, trên đồi
này. Rồi thả, cho cuốn bay, bay về quê hương mặt trời. Rồi thả, cho gió đưa,
đưa về ...mịt mùng xa". Anh thì thầm nói với một cơn gió thoảng qua:
"Bé ơi, tạm biệt. Rồi tôi sẽ đến thăm em, một ngày nào đó".
Trên đường trở về, anh ghé vào ngôi nhà cổ, thăm ba của Ngọc Anh. Mái tóc của người thầy giáo già năm năm về trước hãy còn đen nhánh giờ đã hầu như bạc trắng. Anh ngồi im lặng nhìn ông, rồi nhìn lên tường, nơi bức tranh dở dang ngày cũ đang nằm trơ trọi. Đôi mắt của Ngọc Anh trong bức tranh đăm đăm nhìn thẳng vào anh. Đôi mắt mà dạo đó anh cố công mấy vẫn chưa thể hiện được vẻ xa vời khó tả, bây giờ lại hoá hay.
... Đôi mắt này dịu hiền ấm áp, không quá xa cách lạnh lùng. Ba em quá cô đơn, Ngọc Anh ạ. Trái tim già khô héo của ông chỉ còn tìm được chút niềm an ủi khi nhìn thấy em mãi mãi bên ông, trẻ thơ, trong trắng. Còn tôi, tôi sẽ không sao đâu mà. Tôi chẳng cô đơn một chút nào đâu. Tin không em?... Tôi sẽ chẳng cô đơn một chút nào đâu.
Trên đường trở về, anh ghé vào ngôi nhà cổ, thăm ba của Ngọc Anh. Mái tóc của người thầy giáo già năm năm về trước hãy còn đen nhánh giờ đã hầu như bạc trắng. Anh ngồi im lặng nhìn ông, rồi nhìn lên tường, nơi bức tranh dở dang ngày cũ đang nằm trơ trọi. Đôi mắt của Ngọc Anh trong bức tranh đăm đăm nhìn thẳng vào anh. Đôi mắt mà dạo đó anh cố công mấy vẫn chưa thể hiện được vẻ xa vời khó tả, bây giờ lại hoá hay.
... Đôi mắt này dịu hiền ấm áp, không quá xa cách lạnh lùng. Ba em quá cô đơn, Ngọc Anh ạ. Trái tim già khô héo của ông chỉ còn tìm được chút niềm an ủi khi nhìn thấy em mãi mãi bên ông, trẻ thơ, trong trắng. Còn tôi, tôi sẽ không sao đâu mà. Tôi chẳng cô đơn một chút nào đâu. Tin không em?... Tôi sẽ chẳng cô đơn một chút nào đâu.
3/2002
Nguyễn Thành Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét