Vai trò của người soạn
ca khúc và ý nghĩa của ca từ
Trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề ca từ trong một số ca
khúc đương đại Việt Nam đã làm cho khán thính giả yêu âm nhạc quan tâm
khá nhiều.
Trong bài nầy, người viết
không có ý kiến gì về kỹ thuật hòa âm, giai điệu, tiết tấu, mà chỉ đơn thuần đề
cập đến ca từ trong một số ca khúc Việt Nam đang được thịnh hành.
Như chúng ta đã biết, ca khúc trong
âm nhạc là một bộ môn văn nghệ có sức lôi cuốn mãnh liệt đối với con người. Ca
khúc nói lên cái hay, cái đẹp của con người và thiên nhiên trong vũ trụ bao la
rộng lớn. Bằng hình thức cụ thể hay trừu tượng, ca khúc có thể miêu tả (musique descriptive) hay mô phỏng (musique imitative) một cách sinh động và
hùng hồn những sinh hoạt đời thường xảy ra hàng ngày trong cộng đồng xã hội.
Ngoài ra, ca khúc còn có thể nói lên những ý niệm, những tư tưởng sâu xa, uyên
bác - cho con người những mỹ cảm (emotion esthétique), là thứ khoái cảm
đặc biệt của con người ở trên muôn vật: một chiếc lá vàng rơi rụng cuối Thu, một
ánh sao băng trong bầu trời đêm u tịch, tia ráng chiều rọi xuống đàn mục
đồng đang nằm vắt vẻo trên lưng trâu suốt nẻo đường về; bước chân khập khiễng của
bà mẹ già đang lần tìm mộ con trong nghĩa trang để thắp nén nhang thương nhớ -
tiếng suối reo, tiếng chim hót, tiếng ve râm ran giữa buổi trưa hè… Tất cả những
âm thanh và hình ảnh ấy là những giao ngộ hữu hình hay vô hình của con người với
con người và của con người với thiên nhiên, sự vật - nó thật sự không thể thiếu
trong chúng ta. Chẳng phải một “Mùa Thu Không Trở Lại” của ns Phạm Trọng
Cầu được ra đời đó sao? Như thế, ta thấy ca khúc đóng một vai trò rất quan trọng
trong đời sống tinh thần của con người. Vậy người viết ca khúc nên nghĩ gì, làm
gì?
Trước khi nói đến vai trò và sứ mệnh của người viết ca khúc,
tưởng cũng nên định nghĩa và phân tích sơ qua về danh từ ca khúc. Định nghĩa một
cách nôm na, dựa trên hai chữ ca khúc (pièce chantée), ta thấy rõ danh từ nầy
được chia làm hai phần: lời ca và khúc nhạc. Cũng dựa theo định nghĩa và phân
tích trên, ta thấy giá trị một ca khúc cũng chia làm hai phần: một nửa cho
giai điệu tiết tấu và một nửa cho ca từ. Vậy để có một ca khúc có giá trị đích
thực thì người viết ca khúc phải hoàn thành tác phẩm của mình có đủ cả hai phẩm
chất nêu trên. Tuy thế, nếu nghĩ cho thật sâu, sát thì ảnh hưởng của ca từ đến
tinh thần và tư tưởng người nghe nhiều hơn giai điệu. Một ca khúc có phần hòa
âm nghèo nàn, giai điệu tiết tấu gập ghềnh trắc trở, khi được tấu lên, cùng lắm
làm cho người nghe nhàm chán, và tất nhiên, sau đó họ sẽ quên ngay. Trái lại,
phần ca từ dù không hay, nhưng lời ca có phần tượng hình, không trong sáng, thì
không nhiều cũng ít có ảnh hưởng đến người nghe, nhất là giới trẻ. Trong thực tế
cuộc sống, ta thấy cái xấu, cái dở bao giờ cũng ảnh hưởng đến tuổi trẻ mạnh hơn
cái tốt, cái hay. Vậy văn nghệ sĩ nói chung và người viết ca khúc nói riêng phải
làm gì để giúp họ vượt qua lằn ranh giữa xấu và tốt nầy, để họ chọn được hướng sống
đúng? Theo thiển ý của tôi, người văn nghệ sĩ phải có hướng đi đúng trước đã.
Trong lãnh vực văn hóa nghệ thuật, người viết
ca khúc đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng đất nước. Vì lẽ ấy,
ta không nên áp dụng triệt để quá khẩu hiệu “nghệ thuật vị nghệ thuật“ mà quên đi nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta. Đành rằng sáng tác ca khúc là một
việc làm cá nhân của người nhạc sĩ, nhưng người viết ca khúc chân chính cũng
không nên độc lập với đời, ngồi trong tháp ngà mà sáng tác; nên thực tiễn cuộc
sống để viết lên những ca khúc hay cho đời đơm hoa kết trái. Hãy gần gũi với khẩu
hiệu “nghệ thuật vị nhân sinh“ để chia sẻ với người, với đời. Âm nhạc cho con
người nghe để phát sinh hứng thú, để được nhìn xa hiểu rộng, để cảm thông tư tưởng
và kết liên. Người viết ca khúc đừng nên mải mê với rung cảm cá nhân mà quên bẵng
đi thực tại xã hội, cộng đồng. Chúng ta đừng quên rằng cá nhân là một thực tại
của xã hội, liên quan mật thiết đến xã hội, chẳng thể nào tách mình ra ngoài xã
hội được. Dù muốn hay không muốn cũng tương quan ảnh hưởng lẫn nhau. Ca khúc là
một tác phẩm văn nghệ và cũng là con đẻ của xã hội, văn nghệ lạc hướng thì xã hội
băng hoại. Văn nghệ sĩ nói chung và nhạc sĩ nói riêng nên lãnh một sứ mệnh
trong công tác giáo dục xã hội, vạch hướng đi trong sáng cho xã hội, xây dựng
xã hội, bởi văn nghệ ảnh hưởng rất sâu xa đến xã hội. Một nhạc sĩ sáng tác nên
cần có sự cọ xát thực tiễn, có thế mới xúc động tâm tình để sáng tác. Sáng tác
một ca khúc không chỉ giải bày tâm tư cho riêng mình mà còn có nhiệm vụ giải
bày tâm tư của người khác trong cộng đồng xã hội nữa. Ca khúc chính là gạch nối
gắn liền giữa nhạc sĩ với đời, vì nhạc sĩ chẳng những là kỹ sư âm thanh mà còn
là kỹ sư tâm hồn của mình và của cả đại chúng. Người nhạc sỹ dùng kỹ thuật âm
thanh cùng ý nghĩa lời ca để giúp đời nhìn rõ đường lối chân chính trong cuộc sống.
Một ca khúc hay là một ca khúc kết tinh được tình ý sâu sắc, chẳng những nói
lên được vẻ đẹp cá nhân mà còn cho người thưởng thức thấy được cái thật, cái đẹp
của xã hội nữa. Nghệ thuật thơ văn hay âm nhạc bao giờ cũng nói lên được cái thật,
cái đẹp (thật ngoài vũ trụ, thật trong khoa học khách quan, và nhất là trong
tâm lý) hợp với đạo lý, mong làm đẹp cho tâm tính con người. Cái thật, cái đẹp
vào đời nào, thời nào cũng được tôn vinh cả. Tiếc thay, ý thức được cái đẹp và
cái thật lại bị hạn chế trong con người. Từ sự hạn chế nầy đã đưa đến sự nhận định
sai lầm về giá trị cái đẹp, cái thật của một số người làm văn nghệ khiến họ lai
căng, lạc hướng. Thậm chí có ca sĩ đã thành danh vững vàng, tuổi cũng đã gần
lão bà mà còn ăn mặc hở rốn, hở đùi lên sân khấu nhún nhảy, lắc lư trông thật tội
nghiệp. Tiếc quá! Tiếc quá!!! Xin đừng lẫn lộn cái thật, cái đẹp của một bức
tranh khỏa thân với cái thật của một ca sĩ hở rốn, hở đùi trên sân khấu. Nhãn
quan tự nó đã có sự phân tích, lý luận, đam mê lẫn cám dỗ riêng của nó.
Trở lại vấn đề sáng tác ca khúc, những
năm gần đây một số nhạc sĩ trẻ vẫn đam mê “nghệ thuật vị nghệ thuật“, có
khuynh hướng cá nhân trong các đề tài sáng tác. Gặp thời buổi công nghệ điện tử
phát triển, họ ngồi trước màn hình internet để:
“chiều chiều lang thang internet, em thì đi vào một
trang web buồn…” hay “triệu thông tin vẫn nghe lạc loài, cố quên hết căn phòng
trống tin anh, chờ e-mail lãng du một mình…” Còn nhiều…nhiều những ca từ đại
loại như thế nầy nằm trong các ca khúc đang được phổ biến trên thị trường Âm Nhạc
ở nước ta.
Chẳng ai phản đối việc ca tụng tình
yêu đôi lứa. Tình yêu đôi lứa là một đề tài rất đẹp trong âm nhạc, nó có sức hút
mãnh liệt đến tâm tư tình cảm con người, bởi máu còn chảy thì trái tim vẫn còn
réo gọi. Đẹp và lãng mạn biết bao một “Mùa Thu không trở lại“ của ns Phạm Trọng
Cầu, một “Hương xưa“ của ns Cung Tiến, một “Thu hát cho người“ của ns Vũ Đức
Sao Biển, và còn biết bao ca khúc hay nói về tình yêu đôi lứa không thể kể hết
được.
Thật ra thì cũng có rất nhiều nhạc sĩ
trẻ tài năng, nhưng hình như cũng chưa thoát ra được vòng quay quá mạnh của nền
kinh tế thị trường nên chưa định được cho mình một hướng đi riêng, có ý nghĩa
làm đẹp đời. Tiếc quá!!! Biết bao là đề tài sinh động trong đời sống thực tiễn
và trong thiên nhiên muôn màu muôn vẻ để khai thác: nào là thiên tai bão lũ, giặc
đói, giặc nghèo, trẻ em mồ côi khuyết tật, tệ nạn xã hội…Nghệ thuật chính là địa
hạt của rung cảm trong cảm thông và chia sẻ, nhất là lãnh vực âm nhạc.
Tôi còn nhớ một nhà văn Tây
phương nào đó đã nói: ”Nếu con người không còn biết đau khổ thì nghệ thuật sẽ hết
thức ăn và sẽ chết. Nước mắt của nhân loại chính là thứ sương lộ mầu nhiệm tưới
cho cõi trần thế lầm than nầy mọc lên những bông hoa hương sắc diệu kỳ. Đó
chính là những tác phẩm nghệ thuật“. Vậy tại sao ta cứ ngồi một chỗ, chôn mình
trong các phòng trà ngập tràn bia rượu và khói thuốc, không ra ngoài nhìn trời
cao bể rộng, nhìn cánh đồng lúa chín ngập tràn nước lũ, nhìn những cánh rừng bị
chặt phá một cách thảm thương, nhìn tận mắt các em nhiễm chất độc da cam để cảm
thông, chia sẻ? Tình người, tình đời ở đó, tình yêu đôi lứa cũng phát sinh từ
đó. Chẳng phải nhạc phẩm ”Tiếng sông Hương“ của ns Phạm Đình Chương được ra đời
đó sao, và “Em đâu biết” của ns Thế Hiển, rồi “Về đâu? Hỡi em yêu” của ns
Thanh Hà-Xuân Qùy, và ”Đứa trẻ lang thang” của ns Chu Hoàng Thông v.v…
Người soạn ca khúc đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải tư tưởng và cảnh tình đến thính giả
mà ca từ là phần cốt lõi. Dù ca khúc được viết với tiết tấu đương đại cách mấy
đi nữa cũng không thể nằm ngoài quy luật nầy. Có thế giá trị đích thực của ca
khúc mới vượt qua không gian và thời gian để sống mãi trong lòng người nghe. Có
những nhạc phẩm ca từ không cao siêu, nhưng lời ca giản dị, mộc mạc dễ hiểu
cũng được người nghe đón nhận một cách hoan hỉ, chân tình. Là món ăn tinh thần
không thể thiếu đối với con người, nhưng không phải người nào cũng đòi hỏi phải
được ăn cao lương mỹ vị. Con người vốn thích nghi với hoàn cảnh, một dĩa rau muống
luộc chấm với mắm nêm cũng cho được một bữa cơm ngon miệng với gia đình nghèo
khó. Còn gì mộc mạc và lãng mạng bằng một “Nắng Chiều“ của ns Lê Trọng Nguyễn,
một “Tiếng Lòng“ của ns Hoàng Trọng, một “Bài Thơ Hoa Đào“ của ns Hoàng
Nguyên… Một ca khúc hay không bắt buộc phải có ca từ cao xa, siêu thực mà cần
có nội dung rõ ràng để người nghe cảm nhận được tình, ý của tác giả muốn nói
gì, gởi gắm gì trong tác phẩm của mình. Món ăn không cần cao lương mỹ vị, nhưng
phải lành, sạch, hợp với khẩu vị thì ăn vào hẳn là ngon miệng, dễ tiêu hóa. Ngược
lại, dù cao lương mỹ vị mà trộn lẫn nhiều thứ chua, cay, mặn, ngọt quá thì ăn
vào ắt phải khó tiêu, mà đã không tiêu hóa được thì sinh ra đầy hơi, thương thực.
Gần đây, không hiểu vô tình hay cố ý
mà một số nhạc sĩ trẻ sáng tác ca khúc có khuynh hướng nặng về phần tiết tấu
hơn ca từ. Chẳng hiểu sự việc đáng tiếc nầy xảy ra do chủ quan hay khách quan
(?). Dẫu vì lý do nào đi nữa, cũng mong những ai có tâm huyết hãy xem lại vấn đề
để các tài năng trẻ có hướng đi đúng hơn trong việc soạn ca khúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét