Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2021

"Cơn địa chấn" cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Bạch Dương

"Cơn địa chấn" cuối cùng 
của nhà thơ Nguyễn Bạch Dương

Vùng đất miền Tây Nam Bộ thế hệ những nhà thơ lão thành có vợ chồng thi sĩ Đông Hồ, Mộng Tuyết, Kiên Giang, Truy Phong, Trang Thế Hy… Trước năm 1975, Tạp chí Văn rất có uy tín, chuyên về văn chương lần lượt xuất hiện nhiều cây bút thành danh. Ngoài nhà thơ Tô Thùy Yên tên tuổi lừng lẫy ở Sài Gòn, ở Sa Đéc có Trần Tuấn Kiệt, Bến Tre có Tô Nhược Châu, An Giang có Lộc Vũ, Yên Uyên Sa, ở Châu Đốc có Trịnh Bửu Hoài, Ngô Nguyên Nguyễn, ở Cần Thơ có Phù Sa Lộc, Trần Phù Thế. Còn ở Vĩnh Long với Nguyễn Bạch Dương, Nguyễn Sinh Từ…  
Ai từng tiếp xúc với nhà thơ Nguyễn Bạch Dương hầu như dễ nhận ra đây là con người chân thực, chất phác, hồn hậu sống hết lòng vì mọi người xung quanh. Thi ca là một dòng chảy sáng tạo trong sáng, dào dạt bất biến trước và sau năm 1975 trong anh. Nguyễn Bạch Dương tên thật là Nguyễn Kim Dũng, sinh năm Quí Mùi - 1943 tại An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Anh sống ở tỉnh Vĩnh Long, vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003 và mất ngày 11.12.2006 tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 63 tuổi.
Nhà thơ Nguyễn Bạch Dương (1943 - 2006)
Tác phẩm của Nguyễn Bạch Dương gồm có “Sau cơn địa chấn” - tạp chí Biểu Tượng 1964, “Hoàng” - tạp chí Biểu Tượng 1965, tập thơ “Thơ anh và tình em” - Hội VHNT Cửu Long 1987, “Lặng lẽ vần thơ yêu em” - Hội VHNT Cửu Long 1991, “Bí mật của bé” - Thơ Thiếu nhi NXB Đồng Nai 1996, “Gió không mùa” - NXB Văn Nghệ 2001.
Nhiều kỷ niệm man mác về nhà thơ Nguyễn Bạch Dương trở lại trong lòng chúng tôi. Trước năm 1975 anh từng trốn lính quân dịch, cạo đầu đi tu, ôm bình bát khất thực giữa chợ đời, chịu bao lận đận gian nan. Thống nhất đất nước, anh lại nhập cuộc vào Hội VHNT tỉnh Cửu Long. Dòng thơ Nguyễn Bạch Dương hồn hậu, trong sáng yêu đời tha thiết, xuất hiện khá đều trên các trang văn nghệ các tạp chí, tuần báo ở miền Tây, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Lúc về hưu hàng ngày anh Nguyễn Bạch Dương vẫn chăm sóc bà mẹ già ở Vĩnh Long tận tình. Bệnh nặng anh lại gia nhập gia đình cư sĩ để tìm sự thảnh thơi, an lạc tâm hồn.
Nhà thơ Thu Nguyệt ở tỉnh Đồng Tháp hồi tưởng: “Tôi nhớ nhất ở anh không chỉ là những vần thơ, mà còn là một anh Thiện Định với chiếc áo lam tôi gặp ở chùa. Nhớ nhất là lần gặp anh ở chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn) khi thiền sư Nhất Hạnh về mở khóa tu ở đó. Anh từ Vĩnh Long lặn lội về thành phố, đến tập trung còn sớm hơn tôi. Những ngày tập tu, đầu óc tôi luôn vướng mắc, còn anh thì… bất cứ lúc nào trong hàng người đông đúc, bất chợt nhìn sang tôi cũng thấy anh cười. Có khi đứng gần bên anh trong hàng ngũ, tôi nghe anh hát thật say sưa: “Thở vào/ Thở ra/ Là hoa thơm mát/ Là núi vững vàng/ Nước tĩnh lặng chiếu/ Không gian thênh thang…” Lúc ấy, nhìn anh rạng rỡ, những vần thơ như hóa thành hoa cỏ, quẩn dưới chân anh”.
Ngày 29 Tết Bính Tuất anh Nguyễn Bạch Dương trở bệnh nặng, tràn dịch phổi, bệnh viện Vĩnh Long chở xe cứu cấp chuyển lên Trung tâm Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó hơn 10 tháng vật vã chống chọi với cơn bệnh ung thư tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ai chỉ bảo thầy thuốc nào giỏi, thứ thuốc gì hay, anh Nguyễn Bạch Dương đều tìm đến, dùng qua với chút ít hi vọng le lói kéo dài ngày tháng ở trần gian. Chứng bệnh di căn trầm trọng, anh cố gắng hết mực vẫn không “triển hạn thời gian” được đành trút hơi thở cuối cùng vào lúc 2 giờ 30 phút sáng ngày 11.12.2006 tại bệnh viện Nguyễn Trãi.
Con người Nguyễn Bạch Dương sống trong sáng, nhân hậu ở đời, sáng tác thơ đầy tình yêu bao dung nhân ái, quả thực là hiếm có trong cuộc sống ở thế giới phẳng hiện nay!
Cái chết của anh là “cơn địa chấn” cuối cùng mạnh mẽ nhất trong lòng bạn hữu, người thân.
Nhà văn Ngô Khắc Tài từng khắc khoải: “Nhớ về Nguyễn Bạch Dương, tôi không thể nhớ lại một thời biết tìm đâu. Vẫn nhớ mỗi lần gặp Nguyễn Bạch Dương hay hỏi “Có viết gì mới đưa coi”. Anh chứng tỏ được sự quan tâm đến bạn bè nên mấy tay làm thơ trẻ ở Vĩnh Long thường đưa bài cho anh đọc trước khi gởi đăng báo, để nghe những lời góp ý chân tình. Lần lượt anh em được kết nạp vô Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Bạch Dương rất xứng đáng nhưng lại không chịu vô. Mọi người theo vận động mãi cuối cùng Nguyễn Bạch Dương mới đồng ý, như là số mệnh đã định sẵn. Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp anh làm hội viên, thì khoảng hai năm sau anh qua đời…”
Ngoài bút danh Nguyễn Bạch Dương, anh còn thường ký Lê Trung Hiệp, Nguyễn Kim Dũng… trong đó có một bút hiệu mang tên phụ nữ là Lê Thị Tư làm xôn xao bạn đọc một thời trên tuần báo Khởi Hành, tạp chí Thời Tập khoảng cuối thập niên 1960 và đầu những năm 70. Lúc Lê Thị Tư mới xuất hiện với dòng lục bát đậm chất Nam Bộ, phóng khoáng, cuồn cuộn “Lên cầu đứng ngó vàm sông/ Nước trôi biệt dạng tình không ngó về” làm nhiều người yêu thích, dự đoán đây là cây bút đặc sắc ở đồng bằng miền Tây Nam bộ.
Nhà phê bình Uyên Thao trong cuốn Thơ Việt hiện đại 1900 - 1960, do NXB Hồng Lĩnh ấn hành năm 1969 từng viết: “… Những người đang nắm ưu thế trên thi đàn Việt Nam vào những năm sau 1960 là những người mới đang bước qua hoặc vừa mở đầu làm quen với thi ca. Trong lớp người nầy qua những thi bản đã xuất hiện trên các tạp chí chúng ta có thể ghi nhận được một số tên tuổi đầy hứa hẹn như Nguyễn Bắc Sơn, Lê Thị Tư, Thương Hoài Thương, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Thị Trường Hoa…”
Ở đây chúng tôi sưu tập những bài thơ lục bát dưới bút danh Lê Thị Tư giới thiệu cho bạn đọc, để tưởng nhớ nhà thơ Nguyễn Bạch Dương, một giọng thơ Nam Bộ nồng nàn, phóng khoáng vùng đất sông Cửu Long.
Nhà thơ Nguyễn Bạch Dương - Lê Thị Tư
Thơ LÊ THỊ TƯ
CỘI XƯA
Lụa ai phơi trắng trên đồi
Áo hoa ai trải xanh ngời rừng cây
Một lời chim vỗ cánh bay
Ngựa điên mê vọng bao ngày đổ xuôi
Đêm trùng bủa lưới nhện tôi
Mộng không về nữa lá rơi tình này…
BUỔI XA CHÀNG
Trưa nay mưa xuống tình cờ
Giấc tôi ru giấc bên bờ nam hoa
Nằm nghe lá rụng hiên nhà
Góc xanh con bướm trên đà cây tươi
Vãng xanh tôi ở cõi đời
Một mai đất trích tìm người yêu thương…
MƯA VEN SÔNG
Ngủ trưa ven bãi đá gầm
Nằm trên thu tượng, ngậm cần xanh bông
Nhớ trăng châu thổ một dòng
Ngùi trong bóng lạ, tay không vãn hồi
Thơ tình viết một trang thôi
Gởi người đã gặp trên đồi hôm kia…
CHIỀU QUA ĐÒ VÀM CỐNG
Khi về chân lạnh mưa reo
Cuối sông mây bạc, nắng theo xuống vàm
Quán trưa vắng phố bụi dàn
Chút ngây ngất lạnh dưới hàng mưa tro
Đi về đường cũ quanh co
Mé sông nước ngập bến đò đã đông…
ĐI QUA CẦU THAM TƯỚNG
Lên cầu gặp buổi nắng trưa
Cỏ hoa mê ngủ quên mưa bụi hồng
Lên cầu đứng ngó vàm sông
Nước trôi biệt dạng tình không ngó về
Mây tan rã gió ngã đề
Mắt ta chửa khóc đầm đìa lệ tuôn… 
GIỮA NGÀN XANH
Lệ sầu đỏ mặt tay trơn
Ngộ người lá thị nguồn cơn tỏ vừa
Ải xanh bóng gió bay mưa
Một trăm năm khóc lệ chưa buồn tàn
Mai xa sương gió áo vàng
Tình lưng chừng giữa mây ngàn gió bay
Bước chân đau đớn dặm dài
Tôi từ đâu suất té dài trần gian…
LỆ TRẦN
Hung tin như sét xuống đầu
Mẹ cha ngất lệ em sầu giọt xa
Hết rồi, kiếp mỏng người ta
Che thân da ngựa, mồ ma chiến trường
Tự ngàn xưa, cuộc nhiễu nhương
Những mồ hoang với những xương gởi rừng…
TRONG HẦM TRÚ
Những đêm trở mắt tính giờ
Những đêm nín thở ngồi chờ nắng vui
Đêm qua đêm trước đêm này
Lửa ai thắp với bóng dài khói xanh
Đêm tròn sáu khắc năm canh
Gọi tên ai giữa lời thanh thót buồn
Trở mình đụng bụi cát tuôn
Lệ ta rụng ướt trên vuông gạch tàu…
CHIỀU TRÊN BẾN ĐÒ MỸ THUẬN 
Tay dù che nắng chiều nghiêng
Bến đông người chật chàng riêng bước dài
Gió nâng vạt áo ta bay
Quán đường thưa khách một vài tiếng kêu
Tới đây ta tới lúc chiều
Thấy chàng đứng đó hồn siêu phách buồn
Ta thầm kêu gọi ta luôn
Lỡ thêm một chuyến trăm nguồn cơn đau…
GỞI CẨM LIM XA
Lộ dầm ướt tấm lá bay
Rớt mưa xuống lục quá ngày vọng sang
Với trăng vườn áo em vàng
Với mây nhớ tóc suối đàn tiếng gieo
Lòng đương hoa nở bên chiều
Chuốc vui rượu đắng đã liều cơn say
Duyên may rong ruổi gặp người
Đời mai sau dẫu xa rời cũng cam…
TRONG HẠT MƯA BAY
Mưa trên đồi, mưa ban ngày
Ta hai chật đất bước ngoài hư vô
Lệ tình rớt giọt phù hư
Trong đêm xanh đã mộng từ quá khuya
Mưa đêm rồi, mưa đêm kia
Đèn chia bóng quế lạnh chia sông ngoài
Với tình này đợi sớm mai
Với tình ta đó trải dài sông xa…
TÌNH BUỒN
Ven rừng suối một con xanh
Bên đường liễu hạ xuân thành một phai
Phất phơ cồn gió thu dài
Lắc lư cánh bướm chao ngoài vườn sương
Mây chưa nguôi, giấc vô thường
Chân non giọt liễu rủ buồn chiều hôm
Đèn khêu diễm phố bên cồn
Thuyền im gác mái hạ buồm chờ trăng…
BƯỚC TUYỀN ĐÀI 
Xin rừng ngủ một giấc mau
Tôi trong thiên hạ tôi chào trăm tay
Nhìn quanh quất dấu chân người
Lệ xưa nhỏ giọt chân trời quay tơ
Rượu vui một chốc tình cờ
Tiễn người cay mắt vườn xưa nắng đào
Ngàn năm đỉnh núi non cao
Chút lòng cố quận xin chào người quen
Bước tuyền đài gót bon chen
Chiều đưa con nhạn bay men mép rừng…
TRÊN NGUỒN
Sóng xanh lê giạt hai bờ
Khắp chung thiên hạ vui chờ cuộc vui
Đầy trời nắng bụi mưa tuôn
Quẩn quanh, quanh một buổi vuông ý hồng
Đầm đìa sương rụng đầy sông
Dấu chân quan tái chút lòng bỏ quên
Đi rồi chân vạt hai bên
Rừng cây lá gió buồn tênh góc trời
NỬA MẶT TRÔNG XA
Áo phơi lên một cành đào
Lưng trời cánh nhạn bay vào vườn chiêm
Rượu tàn cạn một cuộc vui
Áo khuya cổ đứng dáng người đi đêm
Chân xiêu bước lạc bên thềm
Vỗ ta ngủ giữa hồn chim ru chiều.
1/7/2021
Trần Hữu Dũng
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...