Có một Nhượng Tống
"Thiên tài dịch thuật"
Nhượng Tống sinh năm 1906 (Bính Ngọ), quê ở Đô Hoàng,
Nam Định, là một người có số phận hết sức đặc biệt.
Được ông nội dạy chữ Hán trong gần 10 năm, ông làm báo từ rất
sớm, quãng năm 16 tuổi. Là thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng, ông bị thực dân
Pháp bắt năm 1929 đày đi Côn Đảo, từ Côn Đảo về đất liền năm 1933. Làm thuốc chữa
bệnh ở quê nhà từ năm 1934 đến 1944. Trong thời gian ở quê nhà, ông dồn tâm sức
vào sáng tác, dịch thuật, để lại những trước tác cực kỳ có giá trị trong nền
văn học Việt Nam.
Tây Sương ký – “Tài tử thư” đầu tiên của Nhượng Tống
Nhà phê bình văn học cuối Minh đầu Thanh Kim Thánh Thán xếp Tây
Sương ký vào hàng thứ 6 trong Lục tài tử thư, còn bản dịch Tây Sương
ký của Nhượng Tống, mà Nhượng Tống đã Việt hóa thành Mái Tây, nếu xếp theo
thứ tự xuất bản, là bản “tài tử thư” đầu tiên! Khi dịch Tây Sương ký, Nhượng
Tống đã đổi tựa đề vở kịch hát này thành Mái Tây, lấy trong một câu Kiều của
Nguyễn Du, cảnh Thúy Kiều lần đầu đánh đàn cho Kim Trọng nghe:
Mái Tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Có một sự khác biệt: từ một câu chuyện tầm thường Đoạn
trường tân thanh, Nguyễn Du đã viết nên một thiên Truyện Kiều tuyệt
tác; còn Nhượng Tống thì chuyển ngữ từ một tuyệt tác văn học cổ Trung Hoa thành
một tuyệt tác tiếng Việt.
Nếu các dịch phẩm sử hay triết của Nhượng Tống bộc lộ sự uyên
bác, thâm trầm sâu kín thì trong Mái Tây lại là một Nhượng Tống khác
lạ, tuyệt đối duy mỹ. Câu chuyện chàng – nàng lén lút yêu nhau với sự giúp sức
của con hầu nhằm phản đối sự áp đặt của bà mẹ tai nghiệt là một mô-típ hết sức
quen thuộc trong văn hóa cổ kim Đông Tây, dù dưới những dạng thức khác nhau. Mẹ
càng cấm đoán con càng đắm say! Chàng Trương Quân Thụy mới thoáng nhìn thấy
nàng Thôi Oanh Oanh đã say như điếu đổ, hồn vía rụng rời. Hỏi han dò la con hầu,
bị nó mắng cho một trận, chàng mới quay ra trách nàng một cách vô lối của kẻ
đang tương tư:
Ví bằng mình (nàng) sợ mẹ giữ gìn
Thì quay đi còn ngảnh lại mà nhìn chi nhau?
Muốn dứt phăng, dễ dứt được đâu
Mầm tình đã trót ăn sâu trong người!
Bốn câu thơ dịch tài tình, không những cực kỳ phù hợp với tâm
trạng nhân vật mà còn ẩn giấu một nụ cười mỉm của dịch giả! Tập hợp những câu
thơ dịch đẫm màu cổ thi của Nhượng Tống trong Mái Tây có thể có được
một tập thơ cổ lưu truyền hậu thế.
Tác phẩm Ly Tao của Khuất Nguyên do
Nhương Tống dịch
Ly Tao – món quà bi thiết
Tài dịch thơ cổ Trung Hoa xuất chúng của Nhượng Tống hiển hiện
rõ trong Ly Tao của nhà thơ vĩ đại Khuất Nguyên. Đây là bản “tài tử thư” thứ
hai cùng theo thứ tự sắp xếp của Kim Thánh Thán và thứ tự xuất bản của Nhượng Tống.
Sự đồng điệu giữa tâm hồn Khuất Nguyên với Nhượng Tống đã làm
rung lên sợi dây tình cảm man mác buồn thương, khiến Nhượng Tống cảm thấy đó
như là chỗ bấu víu mỗi khi đọc, để – như lời Nhượng Tống – cho tâm hồn đỡ khô
héo! Từ chỗ cảm đến chỗ ngồi xuống dịch cho những dòng tình cảm tuôn ra từ đầu
ngọn bút, Nhượng Tống đã để lại một mẫu mực về sự đồng cảm giữa người dịch và
tác giả, dẫu cách nhau cả nghìn năm!
Thơ Đỗ Phủ – nơi gửi gắm nỗi niềm
Dịch thơ Đỗ Phủ, Nhượng Tống gửi gắm vào đó nhiều nỗi niềm.
Những nỗi niềm đó được ông thể hiện đầy đủ trong bài tựa đầu sách, một bài tựa
đặc biệt vì hoàn toàn là thơ của Nhượng Tống, bộc lộ những suy tư của Nhượng Tống
về thời cuộc, về những điều bất như ý đã xảy ra trong đời ông, đi làm cách mạng,
bị tù đày nơi đảo xa rồi về an trí nơi quê nhà, sự bế tắc trong việc tìm ra một
chủ thuyết cho cuộc đời vốn hăng say của ông trong những năm tháng tuổi 20 cùng
các đồng chí của mình.
Trải qua nhiều thăng trầm, Nhượng Tống, một lần nữa lại tìm
thấy sự đồng điệu với cuộc đời của con người đã sống trước ông cả nghìn năm: Đỗ
Phủ.
Thơ Đỗ Phủ, bản dịch Nhượng Tống lần thứ nhất do Tân Việt in
tại nhà in Đông Dương Hà Nội, xong ngày 2-7-1944. Sách dày 382 trang trên chất
liệu giấy dó. Đây là “tài tử thư” thứ năm theo xếp hạng của Kim Thánh Thán và
là “tài tử thư” thứ ba mà Nhượng Tống dịch và xuất bản, sau Mái Tây và Ly
Tao.
Với thế giới thơ mênh mông của Đỗ, Nhượng Tống mặc sức tung
hoành ở các thể thơ khác nhau, phản ánh sự đa diện trong thiên tài thơ Đỗ Phủ.
Thể thất ngôn bát cú trong bài Bạch Đế:
Cửa thành Bạch Đế lớp mây đùn
Chân thành Bạch Đế trận mưa tuôn
Cây xanh, dây xám, trăng, trời tối!
Thác dốc, đèo cao, sấm sét dồn…
Thể lục bát trong bài Chiêm bao thấy Lý Bạch:
Chết xa nhau, nín đã đành!
Sống xa nhau để đinh ninh bên lòng
Giang Nam hơi độc mịt mùng!
Khách đi đày biết vân mòng ra sao!
Trong số những dịch phẩm của Nhượng Tống, Thơ Đỗ Phủ là
tập thơ đa thanh đa diện nhất. Cách nhau cả nghìn năm nhưng ở Đỗ Phủ, người có
cuộc đời chung một nguyên tố là đau khổ giống mình, Nhượng Tống đã đồng cảm đến
tận cùng để rồi thỏa sức vẫy vùng ngòi bút, sáng tạo nên một trong những dịch
phẩm thơ Đường đồ sộ nhất trong văn học Việt Nam.
Sử ký Tư Mã Thiên – bí ẩn quanh một dịch phẩm lớn
Nhượng Tống là người đầu tiên ở Việt Nam dịch Sử ký Tư
Mã Thiên, bộ sử văn học đồ sộ không chỉ của lịch sử và văn chương Trung Hoa mà
còn của văn hóa nhân loại. Cũng lần đầu tiên trong lời mở đầu của bản dịch này,
Nhượng Tống dẫn lại những phân loại của Kim Thánh Thán.
Thi nhân Việt Nam hiện đại của tác giả Phạm Thanh nhận định rằng
“Chỉ riêng một dịch phẩm Sử ký Tư Mã Thiên, văn học Việt Nam thêm một dịch
phẩm vô cùng giá trị rồi”.
Sử ký vốn là một tác phẩm kỳ vĩ với 130 thiên, tổng cộng 52 vạn
chữ. Ở thời điểm những năm 1930-1940, việc dịch toàn bộ tác phẩm đồ sộ này
không phải là chuyện dễ dàng. Bản thân Nhượng Tống, ở bìa 4 cuốn sách cũng đề
tên tác phẩm là Sử ký trích diễm, có nghĩa là trích dịch tác phẩm Sử ký.
Ngay cả khi đã biết rằng đây là trích dịch từ Sử ký thì khi đọc
Sử ký do Nhượng Tống dịch, có thể dễ dàng nhận thấy các phần khá rời rạc, có
nhiều truyện khá hoàn chỉnh nhưng cũng có nhiều phân đoạn rất ngắn, chỉ 9-10
dòng. Cuối mỗi phân đoạn thường có thêm lời bình của Lâm Tây Trọng, thi thoảng
lại có thêm lời phụ bàn của kẻ dịch (tức Nhượng Tống).
Vậy Lâm Tây Trọng là ai?
Lâm Tây Trọng sinh năm 1628, mất năm 1697, sống đúng vào thời
gian chuyển giao cuối Minh đầu Thanh ở Trung Quốc. Năm 1658, ông đỗ tiến sĩ,
sau làm phán quan ở Huy Châu, tức An Huy ngày nay. Mặc dù làm phán quan nhưng
Lâm Tây Trọng không chỉ phân tích các vụ án mà còn để tâm sức vào nghiên cứu cổ
văn, chuyên phân tích, bình chú các tác giả, tác phẩm cổ điển Trung Hoa.
Trong số các tác phẩm của Lâm Tây Trọng, đặc biệt đáng chú ý
có bộ Cổ văn tích nghĩa. Quyển thứ 8 trong bộ sách này, Lâm Tây Trọng chọn
và bình các đoạn trong Sử ký Tư Mã Thiên! Đây cũng chính là quyển mà Nhượng
Tống đã dịch để có bản dịch Sử ký Tư Mã Thiên đầu tiên ở Việt Nam!
Nhưng Nhượng Tống không hoàn toàn dựa vào bản của Lâm Tây Trọng về thứ tự của
các phần mà tự Nhượng Tống chia thành các tiết trong bản dịch Sử ký tiếng Việt.
Có thể thấy là phần nào đó, Nhượng Tống đã vừa dịch, vừa tái
tạo lại một số phần nội dung trong Sử ký theo cách của ông để độc giả người Việt
dễ theo dõi, đọc Sử ký như đọc những câu chuyện rời hấp dẫn. Đó là sáng tạo của
Nhượng Tống ở bản dịch Sử ký đầu tiên này.
Một vũ trụ nhỏ về trí tuệ – Nam Hoa kinh
Mái Tây, bản dịch của Nhượng Tống, phần cuối cùng, hồi 4 có tựa
đề Tan mộng, kể chuyện chàng Trương Quân Thụy nằm mộng thấy Thôi Oanh Oanh, phải
lúc gặp giặc thì tỉnh mộng mới hết sợ. Kim Thánh Thán trong lời bình phần này
nói rằng: “Câu chuyện của ông Nam Hoa kể, thật là chí lý: Trang Chu mơ hóa ra
con bươm bướm xập xòe bay thật là con bướm, tự thấy thích chí, chẳng còn biết
có Chu là gì. Đến khi tỉnh dậy thì lại thù lù vậy. Chu vẫn là Chu! Thật không
biết Trang Chu mơ hóa ra bướm hay là bươm bướm mơ hóa ra Trang Chu nữa!”.
Trang Chu chính là Trang Tử, tác giả của Nam Hoa kinh.
Không phải ngẫu nhiên mà Kim Thánh Thán xếp Nam Hoa kinh của
Trang Tử vào hàng thứ nhất trong Lục tài tử thư! Bởi ở Nam Hoa kinh kết
tinh trí tuệ trác tuyệt của một trong những vĩ nhân cổ đại Trung Hoa, người có
khả năng đưa vào chỉ trong một tác phẩm những suy niệm triết học, những cảm hứng
thi ca, những cách ngôn có sức sống ngàn năm. Không chỉ là một tác phẩm triết học
thâm sâu, Nam Hoa kinh, với ngôn ngữ diễn đạt trùng trùng lớp lớp ý tứ, những
diễn giải đầy thơ mộng, còn là một tác phẩm văn học lớn theo đúng nghĩa của nó.
Cuốn Trang Tử Nam Hoa kinh, bản dịch của Nhượng Tống, in
lần thứ nhất tại nhà in Đông Dương Hà Nội do nhà Tân Việt xuất bản, kiểm duyệt
xong ngày 16-2-1945. Sách dày 516 trang, in trên chất liệu giấy dó. Đây là “tài
tử thư” thứ năm theo thứ tự xuất bản của Nhượng Tống.
Cái cảm xúc của Nhượng Tống khi đọc Nam Hoa kinh, như
ông kể trong lời cùng bạn đọc, giống như khi con người cất mình lên tiên giới,
người nhẹ đi và lòng thì đầy những ngậm ngùi, tha thứ!
Nam Hoa kinh không chỉ là một công trình triết học kỳ vĩ
mà còn là một tác phẩm văn học trác tuyệt lừng lẫy cổ kim. Ngòi bút dịch thuật
của Nhượng Tống khi phóng túng, ảo diệu, khi khiêm cung, từ tốn, từ lời toát ý,
hàm súc mà bay bổng, lãng mạn nhưng khúc chiết. Ngay mở đầu của thiên Tiêu
dao du đã là một đoạn văn đẹp lộng lẫy:
“Bể Bắc có loài cá, tên nó là côn. Bề lớn của côn, không biết
nó mấy nghìn dặm! Hóa mà làm loài chim, tên nó là bằng. Lưng của bằng, không biết
nó mấy nghìn dặm! Vùng dậy bay, cánh nó như đám mây rủ ngang trời… Loài chim ấy,
bể động thì dời sang bể Nam. Bể Nam là ao trời…
Tề hài là sách những chuyện quái lạ, nói rằng: “Khi bằng
dời sang bể Nam, nước sóng sánh ba nghìn dặm. Nó liệng theo gió lốc mà lên chín
muôn dặm. Đi cứ sáu tháng mới nghỉ”. Kìa bóng câu! Kìa vẩn bụi! Những vật có sống
lấy hơi mà thổi nhau. Cái xanh-xanh của trời là màu của chính nó chăng?”.
Những ví dụ như vậy có rất nhiều trong Nam Hoa kinh, bản
dịch Nhượng Tống. Và chỉ với riêng “Ngũ tài tử thư” mà Nhượng Tống đã dâng hiến
cho văn học nước nhà, ông xứng đáng được coi là một thiên tài dịch thuật.
1/2/2020
Nhan Ngọc
Nguồn: ANTGCT
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét