Thứ Ba, 23 tháng 5, 2023

Những truyện ngắn của Bảo Ninh 3

Những truyện ngắn của Bảo Ninh 3

LỐI MÒN DỌC PHỐ
Tôi sống ở một phố nhỏ ngay xế Bờ Hồ nhưng nơi làm việc thì tận trong Hà Đông. Đường xa, không có xe máy, đi làm vất vả thấy chết. Mỗi ngày mòn mỏi mười cây số đạp đi mười cây số đạp về, ngày nắng ngày mưa ngày nào cũng cực y như ngày nào. Nhưng đời cán bộ, thiết nghĩ, nghèo thì ráng chịu, phải đâu ông to bà lớn, phải đâu thánh thần gì, ăn trên ngồi trốc ai mà háo sự lên xe xuống ngựa hay là đi mây về gió? Bon chen tốc độ cùng người sẽ chỉ sớm bươu đầu sứt trán. Cứ với cái Phượng Hoàng màu rêu được mua giá trong từ thời bao cấp, cung cúc ngày lại ngày là tôi yên tâm hoàn toàn cái cuộc đời mình.
Đột xuất, một ngày nọ tôi có việc phải nán lại cơ quan tới mãi khuya. Khi ra về, rờ đến xe đạp thì thấy lốp sau đã bẹp dí. Chẳng hy vọng còn ai bơm vá gì nữa vào giờ ấy, tôi đành gửi xe ở phòng bảo vệ rồi hộc tốc nhao ra bến ô tô.
Đêm cuối năm cả mưa phùn cả gió bấc. Đường khuya thông thống, hun hút, ướt nhòe. Ô tô vẫn vụt qua vụt lại nhưng xe buýt thì đã nghỉ chạy từ tối. May còn tàu điện đỗ đó, chuyến cuối cùng.
Leo lên cái phương tiện giao thông của hành khất này như thể chui vào màn xô nhà trọ. Không khí cáu bẩn, tù đọng, nồng nồng những mùi. Hai cái bóng đèn thõng trên trần, sợi tóc đỏ lừ, phả xuống một thứ ánh sáng võ vàng, phù thũng. Hầu hết các cửa sổ đều không nhấc được tấm che lên, để ngỏ cho bụi mưa và gió lạnh.
Vì là chuyến chót nên tàu bỏ hết toa chỉ chạy độc cái đầu, vậy mà hành khách vẫn không tầy nhúm. Dọc hai hàng ghế gỗ tồi tàn, ướt nhơn nhớt lơ vơ mấy bóng ngồi lặng câm. Một anh lính. Một bà nhà quê. Hai cha con ông xẩm. Và tôi. Sau tôi, trước lúc tàu chuyển bánh, lên thêm một ả áo lông, tóc xù, mặt mày tô kẻ, ngồi dạt vào trong xó.
Bác tài xám xịt, lưng còng còng, áo bông, mũ bịt tai, chậm chạp bước lên toa, ợ to một tiếng, rồi dận chân thúc chuông. Anh xé vé mặc áo bạt, diện ủng, lười nhác lướt nhìn chúng tôi, mớ hành khách cà khổ, nhổ chắt qua kẽ răng rồi dài giọng:
- Nào… đoàn quân Việt Nam đi nào…!
Xô một cái, rầm một tiếng, ken két kèn kẹt dưới gầm, tàu rời chỗ. Động cơ điện rú lên à à.
- Còn người kìa, ông tài ơi! - Bà nhà quê la oái lên - Chờ cho người ta lên với, ông tài. Họ-ọ-ọ..!
Ả áo lông cười hí lên.
- Tàu xe nhà nước chứ trâu nhà bà đấy mà họ với hàng - Gã xé vé làu nhàu, phẩy tay - Chậm chân thì cho rơi thôi. Kệ thây!
Sàn gỗ xóc nảy. Tàu giần giật lên tốc độ, lao uỳnh uỳnh. Dưới màn mưa mờ mỏng, trong vũng đèn lù mù nơi bến đỗ đang lùi nhanh lại phía sau, nhòa nhòa một bóng người đứng giữa hai vệt ray đưa tay vẫy vẫy. Không thể thấy được nét mặt của người ấy, song lạ thay, vẻ tuyệt vọng trên gương mặt ấy thì tôi lại thấy rõ. Một vẻ tuyệt vọng mờ mịt nhói vào lòng tôi niềm cảm thương vô cớ. Đứng bật dậy, chạy nhào xuống cuối toa, và đột ngột với cả chính mình, tôi nhoai người ra ngoài mưa, túm lấy sợi chão néo giữ cần tiếp điện, giật mạnh.
Dây điện trên cao rèn rẹt tóe lửa. Đèn trong toa tắt ngóm. Động cơ bị ngắt thình lình, ré rè rè. Thân tàu va loảng xoảng. Các bánh sắt lăn cố một đoạn rồi chựng lại.
Gã “xơ vơ” xông tới, xô bật tôi ra, giằng lấy dây. Tôi bước tới cửa lên xuống, ngây ngất và hồi hộp một cách không tài nào hiểu hổi, chờ đón người bạn đường đang chạy đến với tôi từ trong đêm tối.
Tiếng chân. Tiếng mưa. Một bàn tay đưa lên, tôi nắm lấy. Bàn tay ấy giá ướt nhưng mềm mại, run lên trong lòng bàn tay tôi. Vừa vặn điện được nối lại. Đèn trong toa sáng lên.
- Cám ơn… cám ơn anh… - Người vừa lên nói trong hơi thở gấp, nghe nghèn nghẹn như tiếng thổn thức.
Tôi buông tay người phụ nữ ấy ra và nghiêng mình nhường lối. Hương son phấn ngọt ngào nồng ấm và hương nước hoa tinh khiết lướt qua khiến tôi tê dại. Thất thần, vô tri giác, tôi bước theo chị vào trong toa và thờ thẫn ngồi xuống ghế đối diện.
Tay xé vé đang cơn thịnh nộ, đang ầm ĩ quát lác tôi, tự dưng chùng xuống. Những người trong toa nửa như bừng tỉnh nửa như sững sờ. Và dường như cả con tàu cũng vậy, cũng thần ra, quên bẵng hành trình. Mãi rồi nó mới giật mình chuyển bánh.
Nhan sắc của người đàn bà không quen biết ngồi trước mặt tôi, một nhan sắc còn mờ hơi mưa, một nhan sắc còn chưa hồi lại, tê tái vì giá rét, song ấy là một dung nhan tự trong mơ, một giấc mơ lạc vào giữa thực cảnh tồi tàn, nhem nhuốc này. Nàng ngồi trong vầng sáng mờ mờ, áo măng tô viền lông thú ẩm ướt, cái xắc da nhỏ màu đen khoác trên vai, gương mặt mịn màng trắng xanh. Nàng nhìn tôi, môi mấp máy thầm nói một lần nữa lời cám ơn. Và lẳng lặng, nàng đưa mắt lướt nhìn thật nhanh những người khác trong toa. Nhưng với tôi, cả toa lúc này chỉ có mình nàng. Và tôi. Chúng tôi như đang trên nẻo đường nào đó rất xa. Toa tàu cũ kỹ rung lên, dập dềnh nhồi lắc. Tôi thầm đau đớn trong lòng.
Thường vẫn thế, chẳng hiểu sao, trước cái đẹp tôi chỉ thấy đau. Vẻ đẹp không lời của thiên nhiên và của con người luôn luôn biến thành lời than tiếc cuộc đời tôi, làm tôi mất đi niềm yên thân bền vững ngày qua ngày. Cái đẹp cho tôi thấy đời tôi vô nghĩa, nghèo nàn và ngột thở đến nhường nào. Không hồn, không màu sắc, không chút khuất khúc, phẳng lỳ, nhẵn thín, bình yên. Đời tôi, tôi những muốn nấc lên…
Trong đêm vắng, tàu trôi nhanh qua miền ngoại ô, lướt bỏ các bến đỗ. Ngã tư Sở không người. Tây Sơn, Nam Đồng ngâm mình trong mưa.
- Ông anh có thuốc lá đấy không, cho xin một điếu lót lòng? - Tay xé vé chợt hỏi.
- Không… - Tôi giật mình, đưa tay rờ túi áo - Hết mất rồi…
- Buồn thay!
- Tôi có đây. Mời anh - Người đàn bà nọ nói khẽ, giọng nữ trung dịu dàng, và mở xắc lấy ra một bao Salem xanh cùng chiếc bật lửa ga. Cả tôi cũng rút một điếu. Nàng bật máy lửa, tôi hơi chồm người lại gần nàng để châm. Qua ngọn lửa xanh biếc, mắt chúng tôi gặp nhau và chúng tôi nhận ra nhau. Không phải là đã có một lúc nào đó trước đây tôi đã gặp nàng, chúng tôi chưa từng bao giờ thoáng bóng nhau, nhưng với cái nhìn mắt vào mắt này, tôi không nghi ngờ là chúng tôi đã có trong nhau từ suốt bao năm trời nay. Tôi biết rằng chúng tôi hiểu rõ nhau, thấu suốt tâm hồn nhau. Mắt nàng dim lại dưới làn mi rợp, mắt tôi mở to bàng hoàng. Một nỗi xót thương và một niềm lo sợ vô cớ chợt nhói trong lòng tôi. Chính vào giây lát ấy tôi đã nhận ra ở đằng sau, ở bên trong dung nhan của nàng chỉ ẩn chứa duy nhất một nỗi khiếp sợ. Vẻ đôn hậu, dễ thương và rụt rè của nàng là gương mặt khác của một lòng dạ rối bời.
- Chị sao thế? Có chuyện gì phải không? - Tôi hỏi, vụng về - Tôi có thể giúp gì được không?
- Dạ không… Sao anh hỏi thế… - Nàng thầm thì yếu ớt, cụp mắt xuống, các ngón tay run run thả rơi điếu thuốc - Tôi… tôi có sao đâu… tôi sắp xuống…
- Chị xuống Giám à?
- Vâng.
- Yên chí, còn xa.
- Phải rồi còn xa… Ông xẩm đã nhích tới chỗ chúng tôi từ lúc nào, khàn khàn lên tiếng - Đường còn xa. Kính thưa các đồng chí, các ông các bà, các anh các chị, các cậu các cô, để góp vui làm giảm nỗi khắc khoải đường trường của quí vị hành khách, ông cháu tôi xin phục vụ biểu diễn miễn phí bài Suối Mơ, ca khúc tiền chiến lừng danh…
Ông lão vịn tay lên vai một thằng bé còm cõi, rách rưới, mặt mày nhem nhuốc, già câng, để nó đưa đi chầm chậm dọc toa. Lão khọt khẹt trong họng lấy giọng. Thằng bé chìa cái bát nhôm vào mặt từng quí khách. Tôi quẳng vội vào đó một tờ bạc lẻ vo viên. Thiếu phụ kéo phẹc mờ tuya, mở xắc.
- Suối-uối-uối… mơ… - Ông xẩm nấc lên.
Thình lình, sàn tàu nảy chồm như sa xuống ổ gà. Phía đầu toa ông lái tàu kêu lên hốt hoảng, cuống cuồng quay tay phanh. Các guốc hãm xiết vào bánh sắt, rú lên ghê tai. Tàu dừng giật lại.
- Trật bánh rồi…!
- Cán phải người rồi…!
- Không phải trật bánh… - Anh xé vé thảng thốt thều thào, khiếp đảm - Mà là xít đờ ca. Xe bắt người đấy!
Người thiếu phụ ngẩng lên, nhìn tôi. Một tiếng kêu câm lặng trong cái nhìn ấy. Mặt tái đi, nàng mím môi. Tôi cứng người lại.
Thong thả nàng đứng dậy, lẳng lặng rút từ trong xắc ra một tờ bạc đặt vào cái bát mà thằng bé rách rưới đang kiên nhẫn chìa ra. Và cùng trong khoảng khắc ấy, nàng thả vào lòng tôi đang ngồi ngây lặng một cái phong bì to và dày như một cuốn sổ. Mãn đời tôi không làm nhòa đi nổi khỏi tâm trí mình gương mặt, thần sắc và cái nhìn của con người ấy trong giây lát ấy. Còn hơn là một nỗi tuyệt vọng, còn hơn là một niềm thống khổ, nàng nhìn tôi, van lơn, nhưng đồng thời chứa chan tin cậy và thiết tha đằm thắm lòng mến yêu. Có thể là tôi đã tưởng tượng và suy diễn thêm ra chăng? Tôi không biết nữa, chỉ biết rằng trong chớp mắt ấy chúng tôi đã trao gửi cho nhau những tình cảm mà cả đời, trước đấy cũng như về sau này, tôi chưa từng có với ai và cũng chưa ai từng có với tôi.
Tôi cúi mặt, cụp mắt xuống. Nàng quay đi, bước về phía cửa toa. Một cách vô thức, hoàn toàn ngoài lý trí, tôi nhét nhanh cái phong bì vào túi trong áo vét. Không nhìn gì, không nghe thấy gì hết, tôi ngồi, mắt nhắm lại, và gần như bình thản, tôi lặng lẽ chờ một ngọn đèn pin rọi vào mặt, một bàn tay chụp lấy vai và một mệnh lệnh buộc tôi đứng lên.
Như là cả một thế kỷ đã diễu qua, chẳng có chuyện gì xảy ra với tôi hết. Tôi ngẩng lên, mở mắt khi tàu lại chuyển bánh. Trên toa vẫn chừng ấy mống, trừ nàng.
- Ôi trời, đẹp đẽ làm vậy mà bị còng tay, bị người ta xô sấp xô ngửa, khổ thân cô ấy thế! - Bà nhà quê to mồm than - Dính phải cái tội gì vậy chả biết. Khéo mà rũ tù.
Tim tôi dại đi. Trong túi áo ngực, vật ký thác của nàng như bén lửa vào da tôi.
Ông xẩm lại gân cổ lên ca hát. Ả áo lông và anh xé vé đùa cợt cấu chí nhau trong xó. Bà nhà quê gà gật ngủ. Tôi những muốn nhảy bổ ra khỏi tàu, song lại sợ có ai đó sinh nghi, nên đành cắn răng ngồi bất động tới tận bến đỗ cuối cùng ở Bờ Hồ.
Khi tôi vừa bước chân xuống đường thì anh lính đi xuống ngay sau chợt nói:
- Chẳng khám thấy gì, chẳng có bằng cớ nào cả thì người ta phải thả thôi…
Ấy là lời khuyến khích hay là lời cảnh cáo? Tôi cắm đầu đi như chạy. Nhà ngay gần đấy nhưng tôi dầm mưa đi vòng đi vèo mãi rồi mới lần về ngõ. Ngó trước ngó sau, tim nện thình thình, tôi hé cổng lách vào. Cả đêm, tôi trằn trọc. Sáng ra vẫn chưa quyết được bề nào, tôi nằm nhà.
Đợi người trong gia đình đi hết khỏi nhà rồi, tôi lấy cái phong bì ra, thận trọng xem xét. Phong bì bằng giấy dày, màu nâu. Chỉ dùng ngón tay sờ nắn bên ngoài tôi cũng biết bên trong không phải thuốc nổ, thuốc độc, không phải bột bạch phiến, cũng không phải tiền bạc châu báu gì. Chỉ là giấy, một xếp giấy đánh máy mỏng được gim lại. Địa chỉ chắc là được ghi trên xếp giấy.
Ba ngày trôi qua, tôi cáo ốm, bồn chồn lo sợ. Sang ngày thứ tư tôi quyết định mang cái tang vật nguy hiểm ấy đi nộp cho nơi cần nộp. Nhưng được một đoạn ra khỏi nhà, tôi quay về, chui vào bếp, bật diêm đốt. Rồi tôi ra bến xe buýt, lên ô tô, đi làm.
Áp mặt vào cửa kính ô tô tôi chăm chú nhìn xuống đường Hàng Bột, đường Nam Đồng nghìn nghịt người xe, thầm lấy làm lạ. Rõ ràng có một cái gì đấy thay đổi dọc trên chặng đường quen thuộc này, nhưng là gì thì tôi chưa nhận ra.
Tôi xuống xe buýt đúng điểm mà đêm nọ tôi đã lên tàu điện. Trời hửng nắng nhưng càng giá rét, từ mưa phùn chuyển sang tiết hanh khô. Đường mù mịt bụi. Tôi đưa mắt tìm lại chỗ mà tôi buộc chuyến tầu đêm dừng bánh. Và tôi chợt hiểu. Điều này đã nghe nói từ lâu, giờ mới xảy ra. Không còn tầu điện nữa. Đường ray đã bị bóc. Cái bộ xương han rỉ, cái di tích sống động và tàn tạ của Hà Thành cả một thế kỷ 20 đã thật sự chết rồi. Trong tình cảnh của mình lúc này, tôi không biết sự biến mất của tàu điện đáng cho tôi nặng lòng tiếc nuối và cảm thương hay là nên thở phào nhẹ nhõm.
Đến nay đã nhiều năm qua rồi. Ngày lại ngày, tôi vẫn đạp đi và đạp về một ngả đường ấy. Trên mặt nhựa, dấu vết đường xe điện vẫn còn có thể cảm thấy. Hàng ngày bám theo lối mòn giữa phố ấy, lòng tôi vẫn âm thầm ấp ủ một cuộc gặp gỡ không bao giờ còn có thể.
THỜI CỦA XE MÁY
Thằng cháu con ông anh tôi bị bọn quái xế chôm mất chiếc Dream. Cả một con xe đi tong, thế mà tôi thấy nó chỉ buồn chút xíu. Ngay cả con vợ, tuy rằng xót của, cũng chỉ này nọ cự nự chồng dăm câu ba điều rồi thôi. Thái độ cam chịu bình thản của hai vợ chồng khiến tôi phục lăn. Hai mươi năm trước, đang tuổi trẻ như chúng bây giờ, khi bị người ta bẻ khóa nhõn mất chiếc xe đạp độc nhất của cả nhà, tôi đã gần hóa dại. Nhất là cái cơn choáng lúc thoạt đầu khi chợt nhận ra “con Phượng Hoàng xích hộp” quí báu ngàn vàng vừa dựng ở đó đã bốc hơi, thì tôi nhớ đời. Đấy là một cảm giác mà phải ai đã trải qua rồi mới thấu. Một trạng thái rất gần sự chết. Đứng tim, ngừng thở, cóng buốt, run bắn, tối sầm, muốn khuỵu. Và cái sự “không tin vào mắt mình, không tin nổi đó là sự thật” hay đọc thấy trong văn chương có nghĩa là thế nào thì chính là như tôi khi ấy.
Vợ chồng thằng cháu vô tư với tổn thất chẳng phải vì chúng giàu có gì hơn ai mà bởi lối sống, lối nghĩ thời nay thông thoáng nhẹ nhõm gấp nhiều lần thời trước. Đối với những người lứa tuổi hai đứa, chiếc xe máy hay bất kỳ tài sản nào dù to tát tới đâu cũng chỉ là tiền, cũng chỉ là đồ vật, khác hẳn thời tôi, cha chú của nó, thứ vật dụng gì cũng có giá trị xương máu. Đến như chiếc xe đạp thì phải nói là nó có tính vận mệnh, có ý nghĩa đời người, nó nặng hơn sinh mạng, nó vô giá.
Những năm 50, sau giải phóng Thủ đô, khi tôi còn nhãi ranh, lượng xe đạp ở Hà Nội còn ít hơn số đầu xe hơi thời nay. Ngoại trừ vài tuyến xe điện, và thưa thớt, chậm rề những chiếc xích lô, dân tình thời ấy “tham gia giao thông” chủ yếu bằng cặp giò. Dọc một phố lớn như phố Hàng Đẫy chúng tôi mà nhà ai xe đạp mác gì mọi người đều tỏ. Giàu nhất phố là gia đình ông Ích Lợi, thành phần tư sản, chục người chung một chiếc Pơgiô với một chiếc Xtéclinh. Oai nhất phố là ông giáo Bình, công chức lưu dung, đương quyền hiệu phó trường Anbe Xarô (thời ấy còn chưa đóng cửa), có chiếc Xôlếch đen xì với cái bầu máy ngộ nghĩnh hình trụ rất hiếm khi được ăn xăng và cất tiếng. Thường xuyên để cỗ xe ở chế độ vận hành bằng mồ hôi, ông giáo già gò lưng ngoáy người è cổ đạp. Dân phố kêu thầy bằng thầy Bình xôlếch, hay đơn giản, thầy Bình bịch.
Dần dần Nhà nước cho nhập xe đạp của phe ta về: Tiệp Khắc, Đông Đức, Liên Xô, Trung Quốc và bản thân Việt Nam cũng đã lần hồi tự lực sản xuất được. Không nhiều lắm, chỉ đủ để phân phối cho cán bộ xếp hàng tà tà lần lượt theo chức vụ, theo thâm niên. Hồi bấy giờ, ở nông thôn thì nhà nhà đi bình dân học vụ, còn ở Hà Nội thì nhà nhà đi tập xe. Từ chập tối tới canh khuya, tại những khúc phố rộng rãi, sáng đèn bên Bờ Hồ, ở vườn hoa Canh Nông, ở quảng trường Ba Đình, dọc đường Cổ Ngư, trẻ con, người lớn, đàn ông, đàn bà ríu rít thay nhau lên yên xuống yên, người thì ghì cứng ghi đông và loạng choạng đạp, người thì rình rịch chạy sau đỡ, luýnh quýnh ngượng ngập, ngã bổ nhào, ngã chỏng gọng, rất vui mắt. Tới khoảng năm 1960 thì Hà Nội đã chính thức là một thành phố với nền văn minh xe đạp. Không phải chỉ vì nườm nượp xe đạp mà còn vì xe đạp đã thành sở hữu tối cao của mỗi nhà, một chiếc xe đạp nói lên vị thế xã hội của một gia đình.
Cùng với xe đạp, ô tô cũng không còn quá hiếm. Chốc chốc lại thấy chạy dọc phố một chiếc xe hòm của các quan chức cao cấp, rồi xe hơi cơ quan, xe buýt Skoda, và nhiều nhất là xe tải. Tuy nhiên, mô tô vẫn là của lạ. Bọn nhãi chúng tôi chỉ được thấy loại xe này trong các cuộc diễu binh. Bình bịch ba bánh của bộ đội biên phòng và bộ đội cơ giới. Họa hoằn mới thấy một chiếc bình bịch của công an lao vụt qua phố lúc nửa đêm, hẳn là với nhiệm vụ cực kỳ khẩn cấp thì mới dùng tới.
Xe máy hiếm tới nỗi cha tôi từ khi có xe đã luôn luôn phải dừng ở các ngã tư để trình giấy. Đỗ xe ở đâu cũng kín nghịt người vây xung quanh. Hiếm tới nỗi, phiếu xăng phải có chữ ký của ông chủ tịch thành phố, và phải sang tận kho Đức Giang bên tả ngạn sông Đuống để lĩnh tiêu chuẩn. Hiếm tới nỗi, sau khi cha phải bán xe đi rồi, hàng năm sau tôi vẫn nhận ra nó trên phố, nó quá nổi bật, quá sang trọng, quá lạ lùng gần như là một niềm kinh dị.
Tôi còn nhớ rất rõ cái ngày gia đình tôi vinh dự có xe máy. Bấy giờ là mùa đông năm 1963. Cha tôi mở cổng vào nhà dắt theo một chiếc bình bịch! Xe nhãn hiệu Riga, màu hồng nhạt, mới cứng. Xin nói là cả Hà Nội chỉ có hai chiếc Riga đó. Một chiếc của cha tôi, một chiếc nữa màu da trời của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Hai ông cùng mua của một cán bộ ngoại giao hạng nhất mới từ Liên Xô về được đặc quyền khuân theo. Cho nên tôi dám cả quyết rằng nền văn minh xe máy của Hà Nội hôm nay đã manh nha từ bốn chục năm về trước, do hai nhà ngôn ngữ học mở màn.
Xe hẳn là đắt cực. Hai ông giáo sư đều phải mua chịu trả dần. Và giấy tờ đăng ký thì vô cùng cam go. Tới nỗi, khi chiến tranh bùng nổ dữ dội năm 1965, không được phân phối xăng nữa, phải bán xe đi, cha tôi mới vừa trả xong tiền và vẫn chưa hoàn tất giấy tờ. Chiếc xe phải đi ở nhà người khiến tôi buồn hết sức. Cha tôi đã hứa sẽ cho chúng tôi tập xe, nhưng mới chỉ anh trai tôi kịp võ vẽ. Chiến tranh, sơ tán, gia đình mỗi người mỗi nơi. Chiếc xe cũng ra đi. Thỉnh thoảng tôi vẫn nom thấy nó, Riga, phành phành phi qua. Loại xe ga, nhiên liệu pha dầu, xả khói đen ngòm.
Xe máy của “nền văn minh Mỹ-ngụy”, tôi được thấy lần đầu tiên năm 1970 tại khu gia binh căn cứ biệt kích Đắc Xiêng. Một tay thiếu úy qua đêm ở nhà vợ, nghe pháo kích liền hộc tốc lên xe máy lao về đồn. Nhưng vừa phóng ra khỏi khoảnh sân trước nhà thì y dính đạn AK, văng khỏi yên. Chiếc xe quật mạnh xuống đường. Khi chúng tôi xộc tới tay thiếu úy đã hết giãy, nhưng động cơ chiếc xe vẫn chạy, bánh sau xoay tít. Tôi không nhớ chiếc xe ấy mác gì, chỉ nhớ máy của nó tiếng rất dòn lại rất khẽ. Tiểu đội trưởng Thoại của tôi vực chiếc xe dậy, nói đùa: “Máy thế này mới là máy chứ, nghe cứ như là mợ nó rên lên trong lòng cậu nó!”. Chiếc xe đột ngột rống to, vùng khỏi tay Thoại, chồm ngược, đâm bổ vào tôi.
Từ mùa khô năm 1972, Quân Giải phóng Tây Nguyên đánh chiếm được nhiều vùng dân cư dọc lộ 14 và lộ 19 kéo dài thì xe máy Nhật (được gọi chung là Honđa) không còn lạ mắt với chúng tôi nữa. Nông dân tại các vùng trồng cà phê có đời sống tương đối khá. Nhiều nhà có máy phát điện và máy cày. Và hầu như nhà nào cũng có Honđa. Nhưng vì không có xăng và phụ tùng thay thế nên xe máy ở các vùng giải phóng Đắc Tô, Tân Cảnh, Diên Bình, Đức Cơ… phần lớn bị xếp xó, hư hỏng và han rỉ dần. Hãn hữu mới thấy vài chiếc của anh em trạm giao liên và giao bưu lướt chạy trên lộ.
Mùa khô năm 1975, quân ta tấn công Buôn Ma Thuột. Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh di tản Quân đoàn 2 khỏi Tây Nguyên. Binh lính, sĩ quan, công chức và gia đình của họ chồng chất lèn nhau trên hàng ngàn xe GMC, xe zeep, xe be, xe đò, xe lam. Nhưng đông hơn thế bội lần, kín nghìn nghịt mặt tỉnh lộ 7 và quốc lộ 14, quốc lộ 21 là xe Honđa. Hầu hết là xe 50 phân khối. Chở hai, chở ba, thậm chí chở bốn người với ních thêm cả đống đồ đạc, những chiếc Honđa “ba gác” cuồng lên lao thục mạng, liều chết lạng lách giữa dòng cuồn cuộn và hung dữ những xe nhà binh để mong thoát được lên phía trên cùng của biển người. Nhưng chẳng ai thoát nổi, chẳng mấy xe chạy được xa. Bình xăng kiệt khô, các trạm xăng dọc lộ thì hoặc bị cướp nhẵn hoặc bốc cháy và phát nổ, người ta đành vứt xe lại, chạy bộ. Ngay những người biết lo xa, biết chở theo một hai can xăng cũng không thể chạy được xuống đồng bằng. Dưới chân đèo Ma Đơ Rắc ở Khánh Dương, tôi thấy một bãi xe máy vô chủ cả ngàn chiếc nằm ngổn ngang chồng chất. Người ta bảo là dọc đường số Một, đoạn từ Đà Nẵng vào Tam Kỳ có những bãi xe hoang còn bạt ngàn hơn. Và ở Cheo Reo nữa, rồi dọc tỉnh lộ 8, dọc đường 20…
Tôi biết đi xe máy vào chính thời gian đó. Tôi nhớ là ngày 31 tháng Ba, bộ đội sư đoàn 10 đánh tan lữ dù 3 chốt ở đèo Phượng Hoàng, thừa thắng tiến thẳng ra bờ biển Đông, gặp lộ Một tại ngã ba Ninh Hòa. Tiểu đội tôi dừng chân tạm nghỉ lấy lại hơi sức trước khi tiến về Nha Trang. Trong cái đồn cảnh sát gần chỗ chúng tôi ngồi ăn trưa, không hiểu sao vẫn thấy quăng lại đó một chiếc Honđa màu đen, chìa khóa còn, và kỳ lạ nhất là bình xăng của nó vẫn còn óc ách. Một tay trong tiểu đội lôi chiếc xe ra vệ đường, ngồi lên, vặn chìa và nghiến răng đạp, đạp thật lực. Máy nổ dòn tan, và anh chàng nọ xoáy tay ga, dận dận cái gì đó dưới bàn chân. Ngay lập tức, như một lần tôi đã bị, chiếc xe chồm lên, vật anh chàng xuống mặt đường. Hú hồn, đau điếng nhưng ngoan cố, chàng kỵ mã dựng chiếc xe lên, lại xiết ga và lại bị quật xuống. Lính tráng vừa sợ vừa thích chí xúm cả lại, nhưng không ai biết phải xoay xở với cỗ máy điên khùng ấy ra làm sao.
Rốt cuộc chúng tôi lựa ra một tay thanh niên rõ ràng là lính Sài Gòn đang len lẫn trong dòng người di tản đông đặc. “Biết sử dụng xe máy không, anh kia?”. “Dạ, trình quí ông, em rành ạ. Thứ 67 nầy em xài thường”. Tay lính chiến trung đoàn 44 ấy, đồ trận đã quăng ráo, mình mẩy còn độc cái quần xà lỏn, hăng hái tỏ nhiệt tình cách mạng. Anh chàng vanh vách chỉ dẫn cách nổ máy, cách lên ga, sang số, đạp phanh, nhả phanh, nháy xi nhan v.v… Chúng tôi chăm chú nghe lý thuyết và xem thao tác. Rồi lần lượt chúng tôi thay nhau lên yên. Mở khóa điện, vào số, chạy, chầm chậm rồi nhanh, thật nhanh. Mỗi người chạy thử một vòng nửa cây số con đường ngang vắng người dẫn xuống mép biển. Tay tù binh ngồi ôm eo từng người để tiếp tục hướng dẫn và xem chừng. Khi đại đội ra lệnh hành quân, trong tiểu đội tôi đã vài người có thể xem như là biết chạy xe máy, tay lái không chuyệnh choạng, sang số lẹ và êm. Tay tù binh được thưởng luôn chiếc Honđa 67 với bình xăng còn kha khá. Quân ta tiếp tục đường hành tiến vào Nam, còn anh ta thì quay ra mạn Bắc, về quê ở Tuy Hòa. Chúng tôi chúc nhau thượng lộ bình an.
* * *
Tôi biết đi xe máy như vậy là khá sớm, nhưng cái sự biết đó chẳng để làm gì. Trở về sau chiến tranh, trở về với Hà Nội, lại trở về với chiếc xe đạp cà khổ. Hà Nội thời sau chiến tranh, muời mấy năm trời dai dẳng thời bao cấp nghèo ơi là nghèo, mức sống còn thua kém cả trong chiến tranh.
Tất nhiên Honđa cũng đã lần đường ra Bắc cùng với tivi, tủ lạnh, đồng hồ senkô, búp bê, quần loe, đồ nhựa Thái, chưởng Kim Dung… Nhưng mười năm hậu chiến Hà Nội vẫn xe đạp là chính. Phần vì giá xe vượt xa túi tiền và mức sống hồi ấy, nhưng chủ yếu do phụ tùng thay thế không có, nhất là xăng quá khan. Có tiền cũng chưa chắc kiếm nổi một chai nửa lít nói gì đổ đầy bình để chạy ngày ngày. Đã vậy lại luôn luôn bị chặn hỏi giấy tờ. Dắt xe máy ra đường phải mang trong người cả núi hồ sơ về cái xe máy đó. Chưa kể là dạo ấy còn có cái vạ “kiểm tra hành chính”, biết tường trình với nhà chức trách thế nào đây về sự hiện diên của một gia tài to tát đến nhường ấy trong ngôi nhà xơ xác mình. Sở hữu một chiếc xe máy rõ ràng là sở hữu một tội nợ. Tuy nhiên người ta vẫn ham hố, vẫn ao ước. Được làm chủ nhân ông một chiếc Honđa vẫn thật sự là một niềm hãnh diện hơn người. Ở đoạn phố nhà tôi có hai anh Trung, hai anh Nam, tên các anh được gắn thêm mác chiếc xe mà các anh sở hữu: Trung “suzuki”, Trung “vẹt pa”, Nam “amaha”, Nam 67… Ngay trong những thời kỳ cấm xe gắt gao nhất, sự mua đi bán lại vẫn rộn ràng. Cái chợ xe Phùng Hưng đã ra đời từ tận những năm nghèo kiệt ấy. Ngoài Honđa tải từ Nam ra, ở Hà Nội còn có dòng bình bịch Liên Xô và Đông Âu do đám con em đông đảo đi “hợp tác lao động” bèo dạt mây trôi tuồn về. Mukích, Min, Babétnhè, Cá vàng, Cá ươn…. xấu xí và ô nhiễm nặng nề nồng nặc nhưng lại khá là nồi đồng cối đá.
Đổi Mới được vài năm, lượng xe máy ở Hà Nội đã nhiều gần bằng lượng xe đạp. Rồi vì phe XHCN không còn, Hà Nội trở về với bình bịch Nhật, tuy nhiên là loại đời mới. Nền văn minh xe máy đã thực sự bắt đầu và nhanh chóng tăng tốc, chiếm lĩnh dần dần mặt phố. Nhiều phương tiện giao thông thân thuộc của Hà Thành như tàu điện, xe buýt, xích lô và xe đạp lần lượt ra rìa để rộng chỗ cho thế lực của xe máy. Ngày qua tháng lại đời sống dần vượng lên, nhưng dù có không vượng được, dù vẫn đủ bề túng thiếu cũng không mấy ai còn có thể đủng đỉnh đạp xe dạo mé ngoài nền văn minh ấy nữa. Tậu được con xe đầu tiên, nhập cuộc thời đại rồi, thì lại phải gắng gỏi theo cho kịp dòng đời, phải liên tục đổi mới. Thành thử ngày nay xe máy ở Hà Nội toàn những xe sang, cho dù thực chất là đồ Tàu hoặc liên doanh Hàn liên doanh Đài Loan nhưng mã ngoài vẫn phải nhái y chang Dream II, Wave, Viva, Spacy, A còng… Cho dù là gọi xe ôm người ta cũng không đời nào gọi mấy anh 81 với cả cúp tôm chứ đừng nói gì Min hay Mukích.
Mãi tới năm 95, gia đình tôi mới có xe máy. Một chiếc 82 chạy chưa tới vạn cây, bạn tôi để lại với giá hữu nghị, chỉ sáu vé. Chỉ sáu vé, nói oai vậy, chứ kỳ tình hồi ấy hai vợ chồng tôi cộng lương lại chưa được triệu bạc một tháng. Thú thực là không bao giờ tôi tự biết được là vì sao mình lại có thể có gan tậu và có thể tậu nổi chiếc 82 đó. Nhưng dù gì thì từ ngày có xe, tôi thấy mình mạnh bạo hơn trong đời sống. Tự tin hơn, cứng vía hơn. Và quả thật là từ ngày đó, có thể nói là nhờ chiếc xe ấy, tôi sống khấm khá hơn, có đồng ra đồng vào hơn. Tôi nghĩ là không chỉ riêng tôi. Chiếc xe máy thực sự là một phương tiện hữu ích, một đồ vật có công đối với bước tiến trong đời sống của đa phần người bình dân Hà Nội những năm qua. Tất nhiên chiếc xe máy cũng là nguồn cơn của đủ thứ tai ách trên đường phố, nhưng dù vậy nó là vẫn một biểu tượng cho sức sống năng động của người dân từ khi nhịp bước vào đời sống kinh tế thị trường.
Có thể nói ngày nay hình ảnh chiếc xe máy đang lách chạy và lấn chen trên phố là hình ảnh của một đại nghịch lý, tuy nhiên là một nghịch lý thú vị, thậm chí dễ thương và đáng yêu nữa trong cái đời sống mưu sinh dày đặc nghịch lý và vô vàn sắc màu, vô cùng tươi vui chộn rộn của chúng ta hôm nay. Dù sao thì cảnh tượng Hà Nội, Sài Gòn cuồn cuộn xe máy vẫn là hết sức độc đáo đối với cả thế giới, vẫn là khung cảnh một đời sống tràn trề sinh lực và rất ưa nhìn. Dù sao thì chật ních xe máy vẫn hơn là sự trống huyếch trống hoác của thời buổi nghèo nàn bấn bách những năm xưa. Chỉ tiếc rằng thời của xe máy tiếng vậy nhưng mà cũng sắp kết thúc, sắp qua đi mất rồi.
NGƯỜI THĂNG LONG QUÊ ĐÀNG TRONG
Ở thời với tôi, bạn bè một lứa lớn lên bên dọc phố tôi bây giờ những người cùng nhau, chung nhau những năm tháng tuổi học trò thuở trước chiến tranh, chẳng còn lại bao nhiêu. Hầu hết đã vào sống ở Sài Gòn, ở Cần Thơ, hay là Bà Rịa-Vũng Tàu, Tây Nguyên, Đà Lạt. Các bạn lớp 10, bạn thời Đại học và cả bạn đồng ngũ nữa cũng vậy, người rời Hà Nội từ ngay mấy năm đầu đất nước thống nhất, người mới gần đây.
Thương binh nặng như anh Vũ, nhà ở đầu phố, bị mìn mo thổi mất gần hết phần thân bên phải: mắt phải, tay phải, chân phải, hòa bình rồi cũng chỉ chịu ra hưởng sự chăm sóc bao bọc của gia đình có đúng một năm, qua hai cái Tết là đã vội chống nạng lên tàu trở lại với đất cũ chiến trường. Giờ thì anh đã hoàn toàn là một ông già Nam Bộ vợ con đề huề vui thú điền viên tận trong sâu tít miệt vườn Cái Bè. Thành thử có câu “vào Nam ra Bắc” mà tôi chỉ thấy đa phần người ta từ đây vào đấy làm ăn gây dựng chứ chẳng mấy ai từ đấy ra đây lập nghiệp. Ngoài này là ký ức của những đời người, còn trong đó là chí hướng, nói vậy có phải chăng?
Ngày nay thì chắc là không phải rồi, nhưng xưa kia thì đúng là như thế. Xưa, người dân quê tận trong Đồng Nai lục tỉnh ngàn trùng cách trở khó lòng có dịp một lần về thắp hương nơi mộ phần tổ tiên gốc gác ông bà. Có chăng chỉ những vị quan và binh lính quê đàng trong được triều đình điều ra trấn thủ các tỉnh thành mạn Bắc.
Còn nhớ hồi nhỏ đang học trường Sinh Từ, tôi có hai đứa bạn cùng lớp, con nhà thợ rèn ở Kim Mã, họ Đài, giọng nói nghe là lạ. Thầy giáo bảo đấy là giọng Quảng Nam đã qua nhiều đời hòa trong giọng Bắc. Thầy bảo họ Đài phố Kim Mã là cháu chắt một tùy tùng của Tổng đốc Hoàng Diệu. Hà Thành thất thủ, Tổng đốc tự tận, người tùy tùng ấy dạt vào sống trong dân, không trở về quê nữa. Hơn hai chục năm sau đấy, mặc dù đã không còn là lính, ông vẫn dự vào cuộc binh biến “Hà Thành đầu độc” do Đội Nhân chỉ huy. Mưu sự không thành, ông bị Tây bắt và xử trảm ở vườn hoa Canh Nông. Không hiểu những người họ Đài ở Kim Mã có biết gốc gác nhà mình là như thế, mà cũng không rõ ngày nay họ có còn theo nghề rèn ở phố đó hay là đã trở vào với cố hương trong ấy. Còn về hai chị em họ Đài cùng một lớp với tôi ở trường Sinh Từ thì người em trai tên Thìn không biết hiện nay thế nào, nhưng người chị, khi vào viếng Nghĩa trang bộ đội Trường Sơn tôi đã gặp bia mộ khắc tên: Đài Thị Hường, sinh 1950, hy sinh 1968. Hường nằm lại ở khu liệt sĩ Thủ Đô.
Người Hà Nội gốc tích trong Trung đã hiếm, gốc Nam Bộ lại càng hiếm lắm. Vào ngay ngày Tiếp quản mồng 10 tháng Mười năm 1954, khi cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết chưa có mặt tại Hà Nội, trong khắp thành phố số lượng những nhà gốc quê trong ấy có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay: tiệm cầm đồ Khánh Hội ở ngã ba Sinh Từ-Văn Miếu; hiệu buôn nước mắm nơi góc ô Đông Mác của gia đình bà Trứ “phú quốc”; thầy tu xuất tên Tư quê Gia Định bán cá vàng cây cảnh trên dốc Yên Phụ; ông người Chàm coi giữ Chùa Tây đen…
Bây giờ ở Hàng Đẫy không biết có còn ai nhớ Chúa Chổm, người Sài Gòn xịn, tá túc trên áp mái nhà 47 hồi những năm trước 1960. Chúa Chổm phố Hàng Đẫy, thực tên là Hai, nhờ may mắn sao đó được làm rể một chú Chệt mà anh khoe là giàu nhất nhì Chợ Lớn. Hầu hết của nả đều trong Nam, nhưng bố vợ anh cũng sở hữu cả loạt cửa hàng cửa hiệu ở Hà Nội. Đình chiến, ông tống tháo bán đi tất cả, nhưng đã tiết tàn xuân năm 55 rồi mà một số tay nhà buôn ngoài “kẻ chợ” mua tài sản của ông vẫn ghìm tiền lại chưa chịu chuyển vào trả. Chàng rể bị phó cho trọng trách đi đòi. Chân ướt chân ráo ra Bắc, chưa thâu nổi một cắc đã hết hạn 300 ngày, chẳng kịp chạy xuống Cảng, vậy là bị kẹt, anh kể thế. Nhưng hàng phố thì lại kháo rằng bởi mấy trăm lượng vàng đòi được đã nướng sạch vào chiếu bạc, nên chàng rể không dám vác mặt vào Nam gặp nhạc phụ nữa. Tự dưng được làm người Thủ Đô, nhưng nhẵn nhụi tiền bạc, anh Hai phải tới xin bà Phầu đồng hương Phúc Kiến đằng vợ cho ăn nhờ ở đậu trên áp mái nhà số 47, và để đắp đổi qua ngày anh đành vay nợ cả phố, hẹn năm 1956 sẽ trả tất một lần. Hai năm chờ “Tổng tuyển cử” chẳng làm ăn gì, túi chẳng một xu thế mà Chúa Chổm vẫn nhậu, nhậu tối ngày, rồi cả o mèo nữa. Rất nhiều cô trong phố thích anh, có cô yêu anh ra mặt. Họ ưa giọng nói miền Nam của anh, thích cung cách anh chuyện trò phong độ, phục anh tính đàn ông, không tiền mà tiêu pha bạt mạng, nhất là họ say tiếng đờn câu ca của anh. Hàng tối, với ấm trà chai rượu cây ghi ta anh trải chiếu ngồi sân thượng ca vọng cổ, nghe sầu bi ướt át hết mức nỗi lòng. Có hồi bị ngờ là gián điệp hay phản động gì đó anh phải nằm khám mất mấy tháng. Cuối năm 56, không còn hòng gì vào nổi Chợ Lớn tải tiền ra trả người ta, anh xin khất, hứa là sẽ tự thân cày cuốc để hoàn nợ. Anh vay cố được một món chừng chục bạc sắm bộ đồ thợ cạo. Cắt tóc rong ở Bờ Hồ tới đầu năm 60, anh gác dao kéo, tình nguyện đi “khai phá miền tây”. Anh không một mình ra đi. Một cô ở Ấu Triệu, con chiên, nhà lành, mạnh bạo bỏ phố phường, trốn thầy mẹ tót theo anh lên núi cao xây dựng hạnh phúc.
Cũng là người Sài Gòn như Chúa Chổm còn có hai anh em ông Câm cua-rơ, nhà ở chân núi Bò đầu xóm nghèo Vạn Phúc. Hai anh em nhà này định cư tại Hà Nội từ trước thế chiến. Tuy chỉ có ông em phải nói năng bằng ra hiệu, thiên hạ vẫn kêu cả hai là “ông Câm” bởi họ giống nhau y chang, to lớn lực lưỡng, râu tóc lồm xồm, da dẻ đen cháy. Thời trẻ cả hai cùng là dân đua xe nhà nghề. Trong một cuộc đua vòng quanh Đông Dương, qua Hà Nội, họ cùng đi hát, rồi cùng ham, cùng si một nàng ở xóm cô đầu Trại Găng. Si tới độ bỏ nghiệp thể thao, bỏ cả Sài Thành, ở lại hẳn ngoài này làm lụng nuôi nàng. Là người ta kể thế. Người ta kể rằng ba người đó cứ bìu ríu sống với nhau mười mấy năm trời một góc khuất ngoại ô, không can dự thời cuộc, không đi kháng chiến, và cũng không nhập dòng di cư năm 54. Tuy nhiên sang thời ta, do không được phép tùy tiện như trong thời tây, họ phải rạch ròi phân ra thành hai hộ. Hộ độc thân là ông anh trai. Hộ gia đình là ông em bị câm với người đàn bà. Vợ chồng người em không có con, còn người anh thì mãi mãi độc thân, và họ cứ vậy mãi mãi bên nhau, cách nhau chỉ tấm phên nứa ngăn đôi túp nhà tuềnh toàng, tường gạch mộc, mái lợp tôn. Bên chái, họ mở một cái hiệu bơm vá và sửa chữa xe đạp. Năm 69, trước khi đi bộ đội, tôi vẫn còn thấy ba con người kỳ lạ, đã luống tuổi và yêu thương nhau vô hạn độ ấy sống ở đó, dưới núi Bò, nhưng năm 75, khi từ trong Nam ra, tôi không thấy họ nữa, túp nhà và hiệu sửa xe cũng không còn. Chỗ đất đó bây giờ lọt trong khuôn viên Đại Sứ quán Thụy Điển.
Đoàn cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết đầu tiên đã theo tàu Kilinxki của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan ra tới Sầm Sơn từ cuối mùa thu năm 1954. Và vào khoảng tháng 11 thì đã có những tiểu đoàn bộ đội tập kết về đóng quân ở Hà Nội. Tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn Nam Bộ chốt tại Liễu Giai, chỗ khách sạn La Thành bây giờ, tên là Ba Sơn, người Hà Nội, nhà ở phố Yên Thế. Ba Sơn đi Nam Tiến từ đầu năm 46. Sau đằng đẵng chín năm trời chiến tranh và ly biệt, anh trở về nhà thì nhà anh, toàn gia không sót một ai, đã di cư vào Nam. Đất nước bị chia cắt, hạnh phúc hòa bình bị cứa ngang có nghĩa là như vậy đấy, như tình cảnh anh Ba Sơn và bao đồng chí đồng đội của anh, một niềm hạnh phúc ngậm thương đau, thương đau làm nghẹn ngào niềm vui được chào đón hòa bình.
Tuy nhiên, do cảnh ngộ của đất nước bị chia cắt mà hai mươi năm ấy, từ sau ngày hòa bình lập lại năm 54 tới ngày Toàn thắng năm 75, là những năm có lẽ duy nhất trong lịch sử, Hà Nội có được đông đảo những người con của miền Nam quây quần về sinh sống dài lâu đến như thế. Những năm ấy, cán bộ và bộ đội tập kết chuyển ngành về công tác ngày một nhiều hơn ở mọi Bộ mọi ngành, mọi cấp chính quyền và đoàn thể, tham gia và hòa nhập vào mọi lĩnh vực, mọi sinh hoạt của đời sống thành phố. Nhiều người là cán bộ trung cao cấp, nắm trọng trách, song cũng rất nhiều người sống cuộc đời thường nhật đầy gian nan túng thiếu, trăm bề vất vả của phần đông cán bộ công nhân viên chức hạng loàng xoàng và hạng thấp thời bấy giờ. Họ ngày một thêm gần gũi và thân thuộc với bà con hàng phố. Như ở phố tôi chẳng hạn, hồi năm 59, 60, hộ tịch viên là anh Hải, quê Biên Hòa; bí thư Đoàn khối phố là chị Ngọc quê Quảng Ngãi. Hay như bác Thịnh, công nhân xe điện, trong suốt nhiều năm chuyên nghiệp giữ nhiệm vụ chuyển mối nối đường ray hai tuyến Hà Đông và Cầu Giấy tại điểm giao nhau nơi góc tường Văn Miếu, là một thương binh quê Quảng Trị. Ở trường Sinh Từ, thầy hiệu trưởng thời trước năm 64 là thầy Đắc thương binh quê Bà Rịa, cô Liễu dạy toán quê Bến Tre, thầy Toản thể dục quê Quảng Nam, và bác Năm lao công, giữ nhịp trống trường hàng ngày cũng là thương binh tập kết quê ở sâu xa tận trong Cà Mau.
Bản thân tôi cũng là một người Hà Nội gốc “đàng trong”, theo như cách nói của bà tôi. Tuy nhiên tôi không thuộc diện con em gia đình cán bộ miền Nam tập kết, bởi vì song thân tôi và hầu hết họ hàng nội ngoại đã phải rời xa quê hương từ trước năm 54 nhiều năm, từ ngay ngày đầu Toàn quốc Kháng chiến. Ngày đó, đàn ông trai tráng trong nhà gia nhập Vệ Quốc đoàn, chiến đấu trên khắp các mặt trận Trung Bộ, người già, phụ nữ và trẻ nhỏ thì rời Huế tản cư ra Khu Bốn. Hòa bình lập lại, họ mạc tản mát mọi miền tập kết cả về đoàn tụ ở Hà Nội. Mẹ tôi từ Vinh, cha từ Lào, một bác từ Việt Bắc, một bác từ chiến khu Ba Rền, một chú từ Khu học xá… Cho đến bây giờ cả nhà vẫn giọng Huế, riêng tôi bởi hồi đó đang nhãi ranh nên chỉ dăm bữa nửa tháng bi đáo khăng xèng ngoài vỉa hè là đã sang hết giọng Bắc. Cha mẹ chẳng phiền trách, nhưng bà nội thì không ưa chút nào cái cách tôi phai lạt quá nhanh giọng nói quê nhà.
Nông nỗi “ngày Bắc đêm Nam” trong tâm trạng của người miền Nam tập kết là như thế nào, tôi có thể cảm nhận qua cha mẹ, cô dì chú bác, qua bà tôi. Cho đến khi qua đời, suốt ba chục năm trời xa Huế, bà tôi vẫn chỉ thực sống ở Huế. Trong chuyện trò, trong tâm tưởng, bà tôi chưa hề đi đâu xa khỏi Hộ Thành, cửa Thượng Tứ, cầu Tràng Tiền, chợ Đông Ba, Đập Đá, Kim Long, Vĩ Dạ… Năm 46, ngày nổ súng, lên đường đi tản cư, bà tôi nghe thiên hạ kháo nhau rằng chỉ phải tản cư chừng dăm hôm thôi là Tây bị đánh tan, mình lại về nhà. Của nả thu vén mang theo chỉ một tay nải, cửa lớn cửa nhỏ trong nhà bà khóa kỹ càng, chùm chìa khóa bà nhét vào góc trong dưới mái che bể nước mưa ở sân sau để cha tôi với các bác các chú “đánh Tây xong, trở về sớm thì có chìa khóa mà vào nhà”! Chùm chìa khóa ấy thường trực trong ý nghĩ của bà, khiến bà không ngớt nghĩ ngợi lo lắng về nó, khiến cho ngày tản cư luôn luôn chỉ như là ngày hôm qua đối với bà. Mùa đông năm 69, hôm tôi rời Hà Nội lên đường đi Bê, đang ốm nặng, không dậy được, bà tôi gọi tôi với mấy đứa bạn tân binh của tôi tới bên giường, bà nói: Các con đi chân cứng đá mềm, mau vào chiếm lại thành Huế… Rồi bà dặn tôi về tìm chùm chìa khóa dưới mái che bể nước mưa phía sân sau ngôi nhà lớn của gia tộc, ở đường Mã Khái trong Hộ Thành kề bên Đại Nội. Chùm chìa khóa có mười hai chìa tất cả…
Định cư ở Hà Nội từ năm 54 nhưng mà cha mẹ tôi có lẽ chỉ thực sự sống nhập mình hoàn toàn vào đời sống Hà Nội từ sau năm 75. Suốt hai chục năm ròng trước 30 tháng Tư trong đời sống gia đình như luôn canh cánh nỗi buồn thương khôn xiết. Ngày Tết ngày lễ, mặc dù đã cố giấu, mặc dù không bộc lộ nhưng tâm trạng của cha tôi mẹ tôi, và nói chung của những người lớn trong dòng họ, của các chú bác đồng hương với gia đình tôi dường như lại còn buồn hơn tâm trạng những ngày thường. Nhất là từ sau Tết Bính Thân, 1956.
Từ năm 56, không chỉ niềm hy vọng mong manh về hiệp thương tổng tuyển cử đã hoàn toàn tiêu tan mà từ năm ấy tin dữ tại khắp các địa phương miền Nam dội ra Bắc ngày một thêm dồn dập, cào xé lòng người: chính sách tố cộng, luật 10’59, đàn áp, bắt bớ, giết chóc, thảm sát… Hôm hay tin vụ thảm sát Phú Lợi, cả nửa Hà Nội mà trước nhất là tất cả cán bộ và bộ đội tập kết chít khăn tang. Tôi thấy người ta khóc ròng trong đoàn biểu tình, khóc khi đang đi trên đường phố, trên tàu xe, trong lớp học, các bà các chị òa khóc giữa chợ. Cô giáo Liễu, người Bến Tre, khóc lặng, ngã ngất đi trên bục giảng khi nghe loa phóng thanh ở sân trường truyền đi tin dữ Mỹ - Diệm đã giết hại ông Hoàng Lệ Kha.
Tuy nhiên, đau thương vô bờ những năm 56, 57, 58, 59 ấy không nhận chìm ý chí con người vào tuyệt vọng, trái lại đã làm thành sức mạnh vô bờ. Từng theo cha dự đón giao thừa năm 59 ở Câu lạc bộ Thống Nhất, và mặc dù còn nhỏ tuổi, tôi vẫn cảm thấy được thế nào là đau thương biến thành sức mạnh. Không, không phải do ngày nay nghĩ lại mà mường tượng ra như thế. Mà thực sự là như vậy, đêm giao thừa ấy, mới tý tuổi đầu tôi đã cảm thấy trời long đất lở trong lòng mình. Có thể nói tôi linh cảm về con sóng lừng thời đại mới đang thẳng tới bến bờ Tổ Quốc. Một thời đại lớn lao và nghiệt ngã chưa từng có. Thời của chiến tranh và của cách mạng lay trời, thời của những đau thương vô hạn, những mất mát vô bờ, thời của chủ nghĩa anh hùng tuyệt đỉnh, của sức chịu đựng vô cùng vì nghĩa lớn, thời của tình yêu và của lòng quả cảm. Từ sau Tết Canh Tý, 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời và cao trào Đồng Khởi bùng cháy khắp làm bừng sáng niềm vui sống, niềm hy vọng trong lòng mỗi người, mỗi gia đình cán bộ tập kết. Tôi có thể nhận thấy rõ ràng điều đó ở gương mặt, ở ánh mắt, ở lời nói, nụ cười của những người thân trong gia đình, những người đồng hương, bạn bè thân hữu. Bắt đầu từ năm đó lần lượt lẳng lẳng hết người này tới người khác không còn thấy xuất hiện nữa trong các cuộc họp đồng hương. Trong những cuộc gặp mặt toàn gia, lễ tết, giỗ chạp họ cũng vắng bóng. Nhiều người vĩnh viễn khuất bóng, nhiều người mãi sau 75 mới có tin tức. Khác với lứa chúng tôi về sau này lên đường đi Bê công khai trong những năm cao đỉnh của chiến tranh, những cán bộ tập kết trở về Nam lượt đầu tiên những năm đầu 60 đã ra đi âm thầm, bí mật, chịu đựng vô vàn những hy sinh lớn lao mà lặng lẽ, và phần lớn đã phải hy sinh hạnh phúc riêng.
Ở chiến trường Bắc Công Tum ít ai không biết chị Nhụ, người Bình Định, bác sĩ dân y Huyện 67. Chị vốn là bác sĩ nhi bệnh viện Xanh Pôn, đi Bê năm 1961, khi mới 27 tuổi và mới lập gia đình với một cán bộ ngoại giao. Năm 69, chị bị địch bắt, giam giữ tại nhà lao Công Tum và không được trao trả năm 73. Năm 75, bộ đội ta tìm thấy chị trong ngục tối, tàn phế, toàn thân bị cắt xẻo, hai bàn tay bị chặt cụt. Được ra Hà Nội điều trị, nhưng chỉ một thời gian ngắn, chị trở về quê, mặc dù Tam Quan quê chị sau chiến tranh cực độ hoang tàn. Người chồng ngày xưa bởi nhận được tin chị mất tích nên đã lập gia đình mới.
Ở phố tôi có trường hợp anh Hải, công an hộ tịch, đi Bê năm 63, sau chị Nhụ, nhưng số phận nghiệt ngã không kém. Là công an, lại là người miền Nam tập kết, vậy mà Hải lại đem lòng yêu chị Loan con nhà thành phần tư sản ở Cửa Nam. Bất chấp can gián và ngăn trở của tổ chức và gia đình, anh chị yêu nhau tha thiết. Nhưng bởi chính mối tình ấy mà đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu của anh Hải không được chấp nhận, mặc dù đã có tin chính thức rằng ba má anh, cả hai là cán bộ tỉnh ủy, đều đã bị địch giết hại. Phải chọn giữa thù nhà nợ nước với tình yêu, anh Hải buộc phải công khai cắt đứt với cô gái Hà Nội thành phần tư sản. Nhưng để minh bạch lòng mình vì chẳng đặng đừng, chứ không phải muốn bội tình, anh thề là sẽ không bao giờ lấy ai ngoài chị. Chiến đấu trong lực lượng An ninh Giải phóng, bị thương và bị bắt trong Mậu Thân, anh bị giam giữ ở Phú Quốc. Năm 73 được trao trả, năm 74 anh ra Bắc. Và đã xảy ra một trùng hợp thảm thương: vừa khi anh Hải tìm tới nhà chị Loan thì gia đình chị nhận phải giấy báo tử con gái. Chị Loan, sau nhiều lần đâm đơn tình nguyện, cuối cùng đã được thỏa nguyện. Chị lên đường đi Bê đầu năm 68, hy sinh ngay trong Tổng tấn công đợt hai ở Bà Rịa, rất gần Biên Hòa quê anh.
Y lời thề ngày ra trận, anh Hải không lập gia đình. Anh ở lại làm việc tại Hà Nội, và sống cùng bố mẹ chị Loan, như một người con rể. Có thể nói anh Hải là một trong số rất hãn hữu cán bộ miền Nam tập kết còn ở lại Hà Nội sau năm75.
Tính riêng ở phường tôi thì hiện giờ chỉ còn có ba bác già, đã về hưu, cùng người Quảng Ngãi. Ba bác đều độc thân. Cả ba bác đều quê Sơn Tịnh, nhưng ở ba xã khác nhau. Chỉ có điều là toàn bộ gia đình của cả ba người, rộng ra là toàn bộ làng xóm của họ đều bị quân Pắc Chung Hy thảm sát.
Đúng là bây giờ rất hiếm người trong ấy sinh sống ở ngoài này. Tuy nhiên, ngày Tết thì lại khác. Như ở phường tôi, năm nào cũng thật nhiều các cô con dâu người miền Nam ra ăn Tết ngoài nhà chồng ở Hà Nội. Anh Vũ, nhà đầu phố, là thương binh nặng nhưng không Tết nào không đưa vợ con ra. Năm xưa anh là chiến sĩ trinh sát của tỉnh đội Mỹ Tho. Tiềm nhập điều nghiên căn cứ địch, anh vướng mìn, bị thương rất nặng. Chị chẳng phải bộ đội, chẳng phải du kích, đã lặn lội cõng anh về băng bó, cứu chữa và nuôi giấu suốt nửa năm trời trong nhà mình ở giữa ấp chiến lược ngay kề thị xã. Khi được bí mật chuyển thương về cứ, anh vẫn trong trạng thái mê lịm bất động gần như sống thực vật, chị thậm chí không biết tên anh, tên đơn vị. Vậy mà sau Tết năm 76, chị vẫn tìm được tới gia đình anh ở Hà Nội, đưa được anh vào Nam với mình… Năm nào anh chị Vũ ra ăn Tết cũng đưa được theo cả chục cành mai vàng cho gia đình và biếu láng giềng.
Cuộc đời của anh chị Vũ, của anh Hải, chị Nhụ, và của bao người khác nữa, những người “đàng trong xứ ngoài”, thôi thúc ký ức của tôi và quá khứ của tôi, thôi thúc tình yêu của tôi đối với Hà Nội, thành phố quê hương thứ hai.
KỲ NGỘ
Thế gian này sở dĩ đẹp là vì nó không khi nào chịu giống như là lẽ ra nó phải thế. Và cuộc sống này thì tiếng vậy chứ vẫn cứ vô cùng đáng sống bởi ngoài nông nỗi nhọc nhằn ngày qua ngày y chang nhau chán ngắt còn có biết bao nhiêu là những bất thường, từ những may mắn lớn lao dành cho tất cả tới những diệu kỳ lặng lẽ luôn âm thầm chợt đến với đời riêng mỗi người. Mùa xuân năm rồi ở tỉnh lỵ quê tôi có chuyện anh Tư Lâm, một trong những doanh nhân hàng đầu của cả xứ, do tình cờ run rủi mà tìm lại được mối tình đã mất đi trong rừng sâu chiến tranh ba chục năm về trước, một tình yêu mà sau chừng bấy năm trời anh cũng không còn thực tin là mình từng có.

Tư Lâm không phải người tỉnh tôi, cũng không phải ở một tỉnh nào gần cận, quê anh tận trong Mỹ Tho bên bờ Tiền Giang xa tắp. Công ty của anh đa ngành, làm ăn ở nhiều lĩnh vực, nhưng có cái lạ là địa bàn phát triển thiên về các tỉnh thành miền Bắc, và trụ sở chính thì đặt tại thị xã này, gần nhà tôi. Thực ra thì người quê Nam Bộ sống và làm việc ở quê tôi vốn không phải là sự hiếm. Hồi trước chiến tranh tỉnh tôi là vùng đóng quân của khá nhiều đơn vị bộ đội tập kết. Khi phục viên, cán bộ chiến sĩ những đơn vị ấy thường định cư luôn tại địa phương. Nhiều người sống độc thân, nhưng cũng có nhiều người lập gia đình. Trẻ con học trò trong thị xã đứa nói giọng Bắc, đứa giọng Nam, đứa giọng Trung, đứa pha giọng. Rồi chiến tranh, rồi đi sơ tán, ngày hòa bình không mấy đứa trẻ nói giọng Nam giọng Trung còn trở lại. Hầu hết cán bộ tập kết đã đưa gia đình về với quê nhà trong ấy. Đến bây giờ cả thị xã chỉ còn lại vài gia đình gốc gác tập kết. Gia đình bác Dĩ, chính quê Sơn Mỹ, người thân đã bị giết hết trong vụ thảm sát. Vợ chồng bác Thứ thương binh, quê Ba Làng An, cũng cảnh ngộ ấy, làng quê bị hủy diệt, thân thích chẳng còn ai. Anh Ba Liêm, quê Cần Thơ, lấy chị Lê hàng xóm nhà tôi được chừng dăm bữa nửa tháng gì đó rồi lên đường đi Bê, đi đầu năm 62, biệt âm vô tín; năm 75, ngay sau 30 tháng Tư anh về, nhưng chị Lê bị bom đã mất từ năm 72. Anh Liêm ở vậy với hai đứa con sinh đôi, gây dựng lại cửa nhà gia cảnh, mãi mãi sinh sống làm lụng trên mảnh đất thấm máu người vợ yêu của anh… Tư Lâm thì không hề có gì tương tự, anh không phải cán bộ, không phải bộ đội, anh chẳng tập kết. Trái lại, Lâm là ngụy, ngụy chính hiệu, theo như là cái cách mà anh nói với tôi lúc mới đầu làm quen. Tính tình kín đáo, nói năng e dè song anh phải “khai” ngay ra vậy là để tránh cho tôi một sự nhầm lẫn, bởi vừa thoạt gặp tôi đã vội hỏi rằng anh có phải thương binh không và bậc mấy. Tôi thấy rành rành vết đạn bắn thẳng cày một phát chí mạng dài và sâu hoắm bên cổ anh. “Dạ phải, tôi cũng bị thương, nhưng mà tôi là ngụy đó anh, ngụy chính hiệu, công binh, chuẩn úy, KBC…” Anh đọc cả số hòm thư, khiến tôi mặc dù sửng sốt cũng phải bật cười. Chúng tôi bạn với nhau từ bữa đấy, đến nay đã non mười năm.
Binh nghiệp của Lâm ngắn ngủi. Nếu không tính hơn một năm là khóa sinh sĩ quan thì anh chỉ thực sự làm lính và đụng trận có chừng nửa giờ đồng hồ. Mà đụng trận, là nói vậy, kỳ tình chỉ có chạy. Tất nhiên chẳng riêng Lâm, toàn thể cái Sư đoàn 3 Bạch Tượng vào những ngày tháng Tư năm 72 ấy đều thế. Căn cứ bị pháo kích. Pháo chưa dứt đã nghe nhao nhác lên là T54 đang đánh tràn vào, vậy là rùng rùng lao khỏi công sự, sĩ quan ông to ông nhỏ, hạ sĩ, lính tráng, cuống cuồng xô nhau chạy. Chạy, chạy, và chạy. Nhưng chẳng được bao lâu, bao xa, cuộc tháo chạy thục mạng đã bị chiến xa chặn đường. Cùng với hàng ngàn chiến hữu, Lâm thành thằng tù, bị lùa đi, thất thểu ngược hướng quê nhà, vượt sông Bến Hải, bắc tiến.
Trong chiến tranh, các trại tù binh đều nằm cách xa mặt trận, phân bố rải rác ở các vùng đồi gò bán sơn địa miền tây Nghệ An. Riêng đoàn tù binh trong đó có Lâm do bị bom Mỹ đánh phá dữ dội dọc đường tuyến nên không đi xa được ra ngoài Bắc, phải dừng lại ở Quảng Bình, ẩn sâu vào vùng núi rừng Minh Hóa. Lâm bảo là mãi về sau anh mới biết đấy thuộc huyện Minh Hóa chứ còn khi ấy chỉ thấy núi non trùng điệp, đại ngàn mênh mông mù mịt dưới một bầu trời nóng bỏng và khô khốc luôn bị cào xé bởi tiếng động cơ máy bay phản lực và tiếng bom rền. Tù binh tự làm lấy trại giam, tự xây dựng nhà cửa lán trại, đào lấy hầm hố trú ẩn, tổ chức lấy bếp núc. Ngoài làm lụng trên nương rẫy để cải thiện khẩu phần lương thực, thỉnh thoảng ban đêm tù binh cũng được huy động đi “tham gia chống Mỹ cứu nước” ở những khu vực không xung yếu của đường tuyến, lấp hố bom, chống lầy, khai thông những đoạn bị sập ta luy, làm ngầm qua suối và mở đường mang cá… Nghe Lâm kể, tôi nghĩ có lẽ là tôi đã từng gặp anh trên đường đi Bê. Tối hôm ấy ở chân đèo Đá Đẽo, dưới ánh pháo sáng, chúng tôi nhìn thấy rất đông tù binh hai bên đường. Lúc đầu cứ tưởng là Thanh niên Xung phong, chỉ hơi lạ vì thấy rặt nam giới, lại vận toàn bà ba đen, nhưng với cuốc xẻng trong tay họ cũng làm lụng hết mình, hối hả san lấp thật mau hố bom để xe chúng tôi qua và họ cũng chẳng có vẻ gì là sợ sệt ánh pháo sáng cùng tiếng gầm hú của máy bay quần thảo trên đầu. “Cám ơn các đồng chí Thanh niên Xung phong nhá!”, một tay trong đoàn chúng tôi từ trên xe gào xuống. Dưới đường một giọng khàn khàn hét ngược lên, cải chính: “Tụi tôi là ngụy chớ không phải đồng chí!”… “Ngụy à? Ngụy cũng đi chống lầy chống Mỹ là đã hết ngụy rồi đấy, người anh em!”… “Ê, có nhắn gì ba má không, bọn tớ chuyển lời cho!”…
Nói chung cuộc sống và tâm trạng của tù binh thời chiến rất khác với cánh sĩ quan đi tập trung học tập sau này. Mặc dù là trại giam nhưng chẳng có tường cao bịt bùng, chẳng rào gai hào chông, và tù binh thì đông cả ngàn mà quản giáo với cảnh vệ canh gác chỉ chừng một trung đội. Có thể dễ dàng trốn khỏi trại nhưng chẳng ai trốn. Bởi trốn rồi thì sau đó làm sao, đi đâu? Bom đạn mù trời, rừng rậm thẳm sâu khôn lường, núi non nghiệt ngã. Vả chăng bỏ trốn để làm gì. Đối với tù binh, cuộc chiến coi như đã xong, có hóa dại mới đâm đầu vào lại vòng chiến. Cái thân thằng tù dù có thế nào cũng còn hơn vạn lần thân thằng lính. Tù còn hơn tử, ấy là châm ngôn để gắng sống, để an phận chờ đợi ngày trở về của hầu hết những tù binh hồi đó.
Lâm lại không được như vậy. Không phải sức chịu đựng của anh kém người ta. Anh vào hạng to con vâm váp nhất trong trại. Đời sống kham khổ, công việc cực nhọc anh có thể thích nghi dễ dàng hơn nhiều so với những tù binh khác. Nhưng thầm lặng bên trong con người anh thì sự suy sụp lại trầm trọng hơn ai hết. Trạng thái tinh thần mỗi ngày như một thêm oằn xuống. Sáu tháng trời trong trại tù binh với anh thăm thẳm dằng dặc như đã vài chục năm trôi qua. Đêm nào nước mắt cũng ướt mặt. Thu qua, đông tới. Mưa phùn sa phủ xám ngắt núi rừng. Trong gió mưa rét mướt bom nổ rền vang không ngừng. Ngày tháng trôi qua, cuộc chiến tranh vẫn cứ hun hút mịt mùng, tuyệt vọng vô phương. Vào một ngày cuối tháng Mười, trong trại loan đi tin đồn về sự sụp đổ hoàn toàn của nghị hòa Paris. Mà cũng chẳng phải là tin đồn, chẳng còn gì phải hồ nghi, bởi cường độ của những cuộc oanh kích trở nên cuồng bạo chưa từng, và trên những tờ truyền đơn máy bay Mỹ trút xuống trắng rừng Lâm chỉ đọc thấy duy nhất một điều thôi: chiến tranh sẽ kéo dài bất tận, sẽ không bao giờ có hòa bình, đời anh sẽ phải mãi mãi kiếp tù xa xứ.
Một buổi chiều giá rét tháng Mười một khi cùng những tù binh khác phát cây mở một lối tắt cho ô tô vòng tránh trọng điểm, Lâm bắt gặp nền cũ đường hỏa xa Xuyên Việt. Nền đường mặc dù bọc trong lau lách vẫn còn khá rõ, trồi cao lên như một con đê dài hoang phế lượn giữa sóng rừng nhấp nhô. Bất chợt, hoàn toàn ngoài chủ định, cứ thế là lẳng lặng Lâm chuồn đi, không hề nghĩ ngợi đắn đo, không có một chút sự chuẩn bị nào, không tính toán gì hết. Và tuy là men theo dấu tích con đường sắt dẫn lối về phương Nam nhưng thực ra là anh hướng vào vô định, không vì một mục đích nào hết, không để đạt tới một điều gì. Chẳng mấy chốc rồi nền cũ đường sắt cũng không còn tăm dạng. Không bị ai truy đuổi, nhưng Lâm không ngừng bước, cứ vậy đi phứa lên, cứ dần lạc xa vào ngàn sâu không phương hướng.
Lúc gục ngã xuống mê thiếp đi, lúc lại loạng choạng đứng dậy lê bước, vấp dúi vấp dụi, lý trí dần mất, rét run lên nhưng không biết ướt biết lạnh, không cả biết đói nữa, anh cứ vậy đi suốt đêm, tới sáng, miên man mê mụ. Kẻ lạc rừng bị ma dẫn lối quỉ đưa đường chính là như thế, sẽ trôi dạt như vậy đến vô cùng vô tận, xỉu xuống lịm ngất mà vẫn như đang đi mãi đi hoài, cho đến chết. Song, hồng phúc cho Lâm là khi đã bên bờ của cái chết chắc chắn thì anh bị những thợ săn người Chứt phát hiện. Họ bắn trước hỏi sau. Phát đạn sượt cổ Lâm, nhưng may mắn không phải đạn AK. May hơn nữa cho Lâm là nơi anh bị bắn gục rất gần cái hang đá mà làng của những người Chứt ấy đang trú thân. Và may nhất là lúc ấy ở trong hang có mặt Liễu, một nữ y sĩ của Tổng đội Thanh niên Xung phong được cử vào núi khám bệnh và phát thuốc cho đồng bào.
Vết thương hiểm nhưng không nặng lại do có Liễu cầm máu và băng bó kịp thời nên chỉ hôm sau là Lâm đã có thể gượng dậy được. “Đừng có dại dột mà trốn đi nữa đấy, anh tù binh ạ”, lời đầu tiên cô y sĩ nói với Lâm. “Cùng đừng để đồng bào ngờ anh có ý đồ như vậy… Đồng bào họ lành hiền nhưng cũng căm bọn Mỹ-ngụy các anh lắm… Một cái làng Chứt cùng khổ trong khe núi mà cũng bị dội bom, nửa làng bị chết, một nửa phải vào hang này ẩn, sao mà bà con họ không thù…”
Ban đầu cảnh tượng cùng khổ thảm thương của dân làng trong hang đá lạnh lẽo rập rờn ánh lửa khiến Lâm ghê sợ. Nhưng sau vài hôm anh đã có thể trợ giúp Liễu chăm sóc những người bị thương và người đau ốm nằm la liệt trong hang. Tình cảm của cô với dân làng làm anh đi từ kinh ngạc tới cảm phục và mến yêu. Cô cũng nhanh chóng trở nên thân mật với anh. Tuy là giữa dân làng, nhưng bởi vì tất cả những người Chứt ấy đều không biết tiếng Kinh, tất cả còn đang ở một mức văn minh cực thấp, cho nên thực ra là chỉ có Lâm với Liễu đang ở bên nhau.
Lâm ở cái hang đá ấy cùng với Liễu đến gần hai tuần, tận cho đến khi cô đã điều trị được cho người sốt rét cuối cùng trong làng dứt cơn. Và hai người cũng chỉ chia tay với dân làng lúc mà Liễu đã có thể thuyết phục được họ vượt qua nỗi sợ hãi bom đạn rời bỏ hang đá xuống lũng lập làng mới.
Mười mấy ngày sống bên Liễu trong hang núi ấy Lâm không ngờ là đã ghi đậm dấu với đời anh đến như vậy. Rồi hai ngày đường sau đó nữa. Liễu đưa Lâm xuyên rừng trở về trại tù binh. Rừng rậm, núi cao, suối sâu chỉ hai người với nhau… Lâm ngoan ngoãn đi theo Liễu. Hẳn là họ đã mải mê với một điều nào đó rất quan trọng đối với riêng họ, đến nỗi cả hai đã hoàn toàn không hề để tâm nhận thấy rằng tịnh không hề có một tiếng máy bay gầm rú trên bâu trời. Mưa rơi triền miên, lạnh giá nhưng êm đềm. Núi rừng thanh vắng. Hai ngày đường cuối cùng bên nhau ấy của hai người là hai ngày cuối cùng của tháng 12 năm 72. Hai ngày dốc lực cuối cùng của không lực Mỹ tấn công Hà Nội, bỏ bẵng không phận Trường Sơn. Dĩ nhiên Lâm và Liễu không hay biết điều ấy. Vì vậy khi về đến ngay trước lối vào trại tù binh, Liễu động viên Lâm: “Anh bình tâm và gắng sức giữ gìn nhé. Đừng để phạm kỷ luật nữa. Như thế thì mới mong có ngày được trao đổi tù binh chứ, rồi còn về với quê nhà chứ. Còn em, ngày này tháng sau sẽ gắng tìm cách đến thăm anh ở đây…”
Vào cái ngày Liễu hẹn đến thăm ấy, Lâm cùng cả trại đã được đưa ra Quảng Trị, chuẩn bị cho đợt trao trả tù binh đầu tiên ở sông Thạch Hãn.
Phải mãi hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Lâm mới được một chuyến ra Bắc. Những hai năm trời, tuy nhiên vào cái thuở thủ tục giấy tờ cho một chuyến “hành phương Bắc” còn đầy rẫy khó khăn ấy, thì như vậy cũng đã là nhanh chóng và may mắn lắm đối với Lâm rồi.
Chuyến đi đầu tiên ấy của anh ra Bắc và tới thị xã quê tôi thật sự là rất buồn. Anh còn nhớ mãi cái lần ấy, khi anh xuống xe đò vào buổi tối. Hồi đó đã năm năm sau chiến tranh phá hoại, ở thị xã quê tôi, người ta đã san đi được gần hết các hố bom và dọn quang đi được gần hết những đống đổ nát, tuy nhiên cảnh tượng vẫn nặng một vẻ hoang tàn, buồn thương, thê thiết. Cả thị xã chỉ là một con phố dài hiu hắt, thẳng đuột, không lối rẽ, nhà cửa tồi tàn xập xệ mọc lên rời rạc. Buổi tối, dọc phố, đầu thị cuối thị vài ngọn đèn đường mờ đục, một hai cái quán nước tù mù, lỏng chỏng lạc luộc, khoai luộc, cái điếu cày, bịch thuốc lá. Lâm rẽ vào một quán, gọi bát nước, ngồi mãi, đắn đo mãi rồi mới ngập ngừng hỏi rằng phố này có ai là chị Liễu… Bà già chủ quán giật bắn mình, đứng đờ người ra nhìn Lâm. Bà lắp bắp: “Anh bộ đội miền Nam… anh bộ đội miền Nam… hỏi nhà Liễu à?” Bà quăng đi bao diêm đang cầm trên tay, lao mình ra cửa, chạy phóng sang dãy nhà mất điện tối đen bên kia đường, quang quác gào toáng lên: Liễu ơi! Liễu ơi! Nhà Liễu ơi! Có anh bộ đội miền Nam hỏi cô Liễu… Lâm bàng hoàng, vừa sợ vừa mừng. Nhà bên đường toang cửa, một người đàn bà chạy nhao sang quán nước. “Có tin nhà em à? Có tin nhà em à? Anh ở chỗ nhà em ra à? Anh ấy còn sống! Thế mà đã báo tử! Thế mà đã báo tử chồng người ta!” Rối rít, cuồng dại, người đàn bà đã luống tuổi cười cười khóc khóc, ào tới Lâm, nắm tay anh lay giật, hỏi. Lâm hoảng hốt, sợ hãi, ân hận. Người đàn bà tên Liễu không chừng sẽ mất trí mất do sự ngộ nhận mà anh đã gây nên…
Lúc trở vào, khi tạm dừng ở Đồng Hới, nhìn quang cảnh đổ nát kinh hoàng của thành phố bên bờ Nhật Lệ, anh thấy nản lòng, đành từ bỏ tìm lên thăm Minh Hóa.
Sau chuyến đó, bẵng đi một thời gian dài Lâm không ra Bắc lại. Phần vì trong những năm dài dằng dặc của hậu kỳ cái thời bao cấp dai dẳng ấy.
Như bao người khác anh phải chật vật xoay xở kiếm sống một cách nhọc nhằn và buồn bã, phần vì ấn tượng ảm đạm từ chuyến đi đầu tiên còn đè nặng mãi. Tuy nhiên, suốt những năm dài căng thẳng và nhọc mệt ấy, trong lòng anh luôn âm thầm một nỗi hoài nhớ xứ Bắc, một sự hoài nhớ có thể nói là rất lạ lùng đối với một người miền Nam hoàn cảnh như anh.
Năm đầu Đổi Mới, khi những hiệp thợ xây người trong Nam rất được tín nhiệm tại Hà Nội, Lâm dốc hết chút vốn liếng tạo dựng được trong mấy năm trước đó để tổ chức một Công ty nhỏ nhưng có sức cạnh tranh tập trung vào các công trình xây dựng ở ngoài Bắc. Anh nhanh chóng nhận thấy rằng khác với nói chung người ta, anh dễ dàng đón được nhiều cơ hội và vận may từ các tỉnh miền Bắc. Nhờ phát triển hướng ra Bắc mà doanh nghiệp của anh phát huy được mạnh nhất những năng lực của mình và do vậy mà đã sớm qua khỏi những năm dài lận đận trước đó, không ngừng vươn lên, ngày một thịnh vượng và bề thế.
Lâm đặc biệt chú tâm đầu tư vào tỉnh tôi, nhất là từ ngày tách tỉnh. Từ ngày ấy đến giờ, mười năm, tỉnh đã giàu mạnh lên bội phần, bộ mặt thị xã hoàn toàn đổi khác, trong đó có sự đóng góp đáng kể của Lâm. Một trong những trụ sở của Công ty anh được xây dựng ở trung tâm thị xã, và tháng nào anh cũng về qua một lần. Anh đã tính đến chuyện xây nhà riêng ở đây. Duyên do những tình cảm của Lâm đối với tỉnh tôi, không một ai biết được. Chỉ một điều mà ai cũng thấy rõ là đến giờ đã ngũ tuần rồi mà Lâm vẫn độc thân. Làm chủ một doanh nghiệp to tát như vậy nhưng anh chẳng xây cho mình một ngôi nhà riêng ở địa phương nào cả, bao nhiêu năm vẫn chỉ khách sạn làm chỗ trú chân. Anh cũng thưa về thăm quê. Thường chỉ vào trong ấy khi có công chuyện. Mỗi năm chỉ một lần chắc chắn anh về quê là vào ba ngày Tết. Hàng bao nhiêu năm qua mà chưa năm nào Lâm ăn Tết xứ Bắc. Mãi đến Tết năm rồi mới có một tình cờ run rủi cho anh ở lại ngoài này. Do đợt giá rét giáp Tết anh bị cảm lạnh phải vào viện, hưởng giao thừa ở Hà Nội. Lâm vẫn hay nói là mặc dù rất kém chịu rét nhưng anh lại rất ưa mưa phùn gió bấc miền Bắc, anh tin rằng cái Tết trong tiết trời giá lạnh hẳn phải thú vị hơn nhiều ngày Tết mà nóng nực. Có lẽ là cầu được ước thấy. Mồng Hai Tết, Lâm từ Hà Nội về tỉnh. Anh qua nhà tôi. Tết năm ngoái, ngoài cành đào chậu quất, phòng khách nhà tôi còn có cành mai vàng.
Trong cuộc sống này, đau khổ và chia lìa có biết bao nhiêu ngả đường và cách thức để đến với số phận con người ta. Hạnh phúc cũng vậy, có biết bao ngả để có thể gặp được. Lắm khi ngẫu nhiên, bất chợt và đơn giản đến lặng người, như là hạnh phúc đã đến với Lâm ngày hôm ấy, ở nhà tôi. Nếu như anh vẫn theo thông lệ vào ăn Tết trong Nam, đến Nguyên tiêu mới ra, và nếu như không có cành mai ấy thì cuộc đời Lâm sẽ chẳng phải là như hôm nay.
Cành mai tất nhiên khiến anh, một người miền Nam phải thấy thú vị và phải hỏi han. Tôi nói cành mai ấy do anh Ba Liêm hàng xóm cho, đúng hơn là cô Liễu, em vợ anh ấy, năm nay hai mẹ con cô Liễu sinh sống trong Nam ra ăn Tết ngoài này. Lâm biết khá rõ hoàn cảnh anh Ba Liêm liền hỏi: em vợ anh Ba tức là em gái chị Lê, như vậy là người gốc gác thị xã này. Tôi gật đầu. Nhà ấy ngược đời. Ông anh rể người trong Nam, sau chiến tranh ra định cư ngoài này. Cô em vợ người ngoài này lại vào sống trong ấy từ ngày đầu hòa bình.
Cho đến lúc ấy mặc dù quen biết nhau đã mười năm, tôi chưa hề hay biết gì về câu chuyện của Lâm với cô y sĩ tên Liễu người quê thị xã này. Anh chưa kể với tôi. Chừng bấy năm trời liên tục qua lại và làm việc ở trụ sở Công ty xế ngay trước cổng nhà Ba Liêm mà Lâm không hề hay biết gì về người em vợ của Liêm. Dường như sau cú sốc gây ra cho người đàn bà vợ liệt sĩ vào một buổi tối mù mịt nào đó năm xưa đã khiến Lâm kinh hãi, không bao giờ còn dò hỏi về những ai tên Liễu nữa gốc gác ở thị xã này.
Bởi vì trong chiến tranh, đau xé lòng người ta nhất là nỗi chia lìa, cho nên hạnh phúc lớn nhất trong ngày hòa bình đầu tiên là niềm vui sướng được đoàn tụ. Ngày hòa bình đầu tiên, ngày hòa bình thứ hai, thứ ba… nhưng có những người phải vài năm sau mới có được hạnh phúc ấy. Có người cả chục năm sau. Và có những người thậm chí tới tận bây giờ. Có thể là Tư Lâm đã không có ý thức rõ ràng, không thật định tâm chờ đợi một điều gì tương tự như vậy sẽ đến với đời mình, nhưng thực tế anh đã kiếm tìm, đã trông mong điều ấy trong suốt cả phần đời của anh sau chiến tranh.
QUAY LƯNG
Ngày tháng trôi qua, dần dần trong số những hộ đã về sống ở nhà Z1 từ thuở ban đầu khu Thành Công chỉ còn lại có gia đình Vinh. Xưa kia tuy chưa phải chốn nhất phẩm cao sang song Thành Công cũng là nơi đầy danh giá. Như là ở nhà Z1 thì để được cấp một căn “hăm tư mét vuông” bét ra cũng phải diện có tiêu chuẩn tem phiếu bìa C. Nay thì khác. Thời gian đã làm biến dạng sự đời. Tất cả các tòa chung cư năm tầng thuở nào nổi bật một cách kiêu hãnh đều ít nhiều đã lún, đã rạn, xương xóc hoen rỉ, mã ngoài lở lói. Bây giờ hộ khẩu ở khu này không còn là một trong những cái mác chứng tỏ sự thành công nữa mà ngược lại. Không phải đã gần đất xa trời thì cũng đã về hưu, đã hết đà thăng tiến, cạn tiền cạn chức cạn quyền. Một khu tập thể lão thành. Do vậy nếu vẫn còn đang tiềm năng vươn lên thì trước sau gì người ta cũng bỏ Thành Công để dọn về những tổ ấm xứng tầm hơn. Nhà riêng mặt phố trong nội thành. Biệt thự bên các bờ hồ. Trang trại miền ngoại vi. Nếu có là chung cư cũng phải chung cư cao cấp, mặt bằng mênh mông nhiều phòng, thang máy, người bảo vệ, nhà để xe, bóng lộn như khách sạn năm sao.
Ông nọ bà kia đi hết, bây giờ đến nhà Z1 chỉ gặp rặt những hạng người linh tinh xập xí xập ngầu. Viên chức cỡ mọn sau nhiều năm chắt bóp cạy cục mua sang tay được căn hộ hoặc nửa căn hộ cũ của những đồng liêu đã lên đời. Sinh viên con cháu những nhà có tiền ở các tỉnh miền trong. Các em vũ nữ, các em mát xa, bia ôm. Nhân tình hoặc gái bao của quan chức cỡ nhỏ… Nói chung bây giờ lên xuống cầu thang toàn chạm những bộ mặt lạ hoắc.
Ngay căn hộ 306 của Vinh cũng chẳng phải chính chủ. Ông anh cả của Vinh mới là chính chủ thuở ban đầu. Hồi đó, trở về sau chiến tranh, Vinh giải ngũ và rời quê ra Thủ đô học đại học, tốt nghiệp, được bổ về cơ quan Bộ, nhưng không nhà, chuyên ngủ bàn. Anh chị thương tình cho về sống ké. Căn hộ hăm tư mét gồm hai ngăn với bếp và toa lét. Anh chị ở ngăn ngoài, san sẻ cho Vinh ngăn trong. Không rộng rãi gì nhưng mấy năm đầu cũng dễ thở. Sau, anh chị có cháu, một đứa, hai đứa, ba đứa. Phải cơi nới. Đời sống của Vinh lui hẳn ra chuồng cọp lồng sắt mà vẫn càng ngày càng chật chội và bức bối. Tình nghĩa anh em âm thầm lụn bại dần đi trong cuộc chung đụng triền miên. May thay, đến thời điểm bà chị dâu đã hết sạch sức chịu đựng thì anh trai Vinh bất ngờ đoạt được ghế Tổng Giám đốc. Chức lớn, nhà mới, một biệt thự to vật ở Nghi Tàm, do vậy anh chị dễ dàng nhượng lại cho Vinh toàn bộ căn hộ Thành Công.
Mặc dù những đồ nội thất và các tiện nghi sang trọng chị dâu đã gỡ hết mang đi nhưng cái xác nhà vẫn còn là quá tươm đối với Vinh. Và nhất là quá rộng. Anh chẳng biết sống làm sao cho đầy hết những chừng ấy diện tích. Rốt cuộc, theo thói quen, anh vẫn chủ yếu ăn ngủ ở nửa căn hộ bên trong cộng cái chuồng cọp, ngăn ngoài bỏ không cho bụi. Phần vì đời độc thân chẳng thiết tha gì sự ấm cúng, phần vì công việc buộc anh hay phải xa Hà Nội. Vào những dịp tạm gọi là nhàn nhã, được trở về nhà tương đối thường xuyên hơn cả thì cũng cách nhật và luôn luôn về đến nhà, mở cửa phòng lúc đã lên đèn. Thành thử biết là các căn hộ cùng tầng ba và cả hai nhà láng giềng kề bên đã đổi chủ mà liền mấy năm trời Vinh chưa hề gặp, chưa hề chào hỏi được người ta một câu.
Và hết sức là ngược đời, cùng khối nhà Z1 thì chẳng biết ai với ai, chẳng hiểu người ta sống thế nào, nhưng Vinh lại thấy được khá rõ đời sống của không ít gia đình bên nhà Z2. Nhất là vào mùa hè khi cửa giả các nhà mở toang đón gió, dù nhà nào cũng vướng cái lồng sắt, mà nhiều lúc Vinh vẫn vô tình nhìn thoáng thấy gần như cận cảnh hậu trường của mấy gia đình đối diện. Anh thấy được như thế bởi vì khác với hầu hết các khối nhà ở Thành Công mặt trước nhà số chẵn trông vào mặt sau nhà số lẻ, Z1 và Z2 lại xoay lưng vào nhau.
Năm này qua năm khác, nhìn thấy đám cưới, nhìn thấy đám ma, nhìn thấy bọn trẻ con lớn lên, nhìn thấy người ta cãi cọ, người ta ly hôn, nhìn thấy người ta quây quần ấm cúng bữa tối gia đình, nhiều lúc Vinh vui vui nảy ý nghĩ là nên tìm cách làm quen với mấy nhà bên đó. Nhưng chỉ là ý nghĩ thoảng qua thế thôi. Chưa bao giờ anh đi vòng sang bên Z2 cả.
Con người Vinh như thế, kém bặt thiệp, ít giao tiếp, luôn luôn ngần ngại, do dự, im lìm, lặng lẽ, càng năm càng im lìm hơn, càng khó tiếp xúc với thiên hạ hơn.
Anh cũng không nhớ tính nết của mình hồi trẻ nó ra làm sao nữa. Dĩ nhiên là anh cũng có một thời trai trẻ, một đời quân ngũ, song hình như quá nhạt, không đáng kể gì cả so với thời thanh xuân của bao người.
Năm năm, tuổi quân của Vinh không ít. Và suốt những năm ấy anh chiến đấu ở tuyến lửa Khu Bốn. Có điều do là lính hậu cần, chỉ chuyên một nhiệm vụ coi kho, kho quân trang, nên chuyện súng đạn anh còn kém tỏ tường hơn bọn trẻ con Hà Tĩnh, Quảng Bình. Cũng có những kỷ niệm thời chiến, nhưng thầm trong lòng thôi không đáng để kể với ai.
Đời anh ngẫm ra cũng tẻ nhạt cũng già cỗi nhanh như cái nhà Z1, như cái phòng 306 của anh. Trở về sau chiến tranh anh đã mất rất nhiều năm mới có thể lắng đi, quên đi được Hạnh. Nhưng dù đã nguôi ngoai mà bản tính lại dai dẳng ngăn trở anh giao thiệp làm quen với những người phụ nữ khác. Rồi cuộc sống chung đụng năm này sang năm khác với gia đình ông anh càng làm Vinh do dự và ngại ngần hơn.
Đến lúc thực sự có được một cơ ngơi thì đã luống tuổi mất rồi. Và nhất là, không hiểu sao, từ ngày được sống trọn vẹn một mình một căn hộ, bỗng dưng hình bóng của cô gái ngày xưa tưởng đã hoàn toàn mai một lại trỗi dậy trong lòng. Kỷ niệm đã vụt tắt từ bao năm luôn chọn lúc anh từ cơ quan lầm lũi trở về nhà, mở khóa, đẩy cửa, bật đèn lên mà hiện dậy. Như để tự an ủi anh thường gượng nghĩ, có lẽ là cô ấy cũng đang nhớ tới mình, có lẽ là trong suốt bao nhiêu năm qua vẫn nhớ vẫn tìm. Nhưng chính ý nghĩ ấy lại khiến anh đã buồn càng buồn hơn.
Dần dần anh đã hiểu ra là mình không tài nào mà có thể quên được Hạnh. Không bao giờ tự dứt được ra khỏi ám ảnh những ngày hạnh phúc ấy.
Bấy giờ là mùa thu năm 72. Vinh bị thương. Không phải chiến thương mà là tai nạn. Tài xế của chiếc Zil Khơ mà Vinh đang ngồi trên thùng, ngủ gật làm xe lật nghiêng. Vinh bị hất bắn xuống ruộng ven đường. Ở trạm xá Cự Nẫm người ta bó bột cái cẳng trái của anh bị gãy rồi chuyển anh vào nằm điều trị tại nhà một bà cụ già trong xóm nhỏ bên bờ sông Son.
Các con của bà cụ đều là lính chiến trường Bê đi xa cả, nhưng nhà cửa hầm hào của bà rất vững chãi. Căn hầm mà bà cụ dành cho Vinh là loại hầm thùng, rộng và sâu, mái lát gỗ súc chắc chắn, vách dát phên tre. Lòng hầm rộng, được thông khí tốt, khô ráo, sạch sẽ. Chăn chiếu màn gối tinh tươm. Thoang thoảng hương thơm bồ kết. Ban đầu Vinh ngỡ đấy là hầm của con gái hoặc là con dâu bà cụ chủ nhà. Song hầm ấy là của Hạnh, cô giáo trường cấp 1 Cự Nẫm. Hạnh ở trọ nhà bà cụ.
Mùa thu năm ấy chiến sự tàn khốc, bom đạn ngút trời. Vậy mà chẳng hiểu sao cái xóm nhỏ đó trong suốt một tháng Vinh tá túc đã không hề bị bọn Mỹ đụng tới. Ban ngày võng của Vinh căng dưới tán cây ở cửa hầm. Hạnh rất ít khi phải dìu anh vào trong. Thời tiết cũng tuyệt diệu. Chỉ mưa về đêm. Sáng trưa chiều mặc cho máy bay gào hú quần đảo trút bom lúc xa lúc gần vẫn mây trắng trời xanh gió mát vô cùng êm ả. Hạnh thường xuyên bên võng của Vinh. Cô nhận đảm đương chăm sóc nâng giấc anh thay cho bà cụ chủ nhà.
Khi Hạnh đến trường ở địa đạo xóm bên, Vinh nằm trong hầm đọc sách dưới ánh sáng vào qua cửa thông gió. Hạnh có trong hầm hai rương gỗ đầy sách. Tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ. Chưa bao giờ Vinh đọc văn chương nhiều như vậy. Đi dạy trở về, Hanh đưa Vinh ra khỏi hầm và ngồi làm việc bên cạnh võng của anh. Vinh và Hạnh không trò chuyện nhiều. Hạnh lặng lẽ chấm bài, soạn bài hoặc may vá đan lát. Vinh lặng ngắm cô.
Hạnh năm ấy vừa tròn hai mươi. Cô người Hà Nội. Xong lớp Mười, cô được đào tạo cấp tốc một năm Sư phạm rồi vào tuyến lửa. Đã được gần hai năm. Vinh cũng kể cho Hạnh về quê hương anh, về gia đình, về đời sống ở binh trạm. Tất nhiên chẳng có gì nhiều nhặn. Yên lặng bên nhau tận hưởng hạnh phúc không lời.
Gang tấc thời gian ngắn ngủi, một tháng trời yên ả trôi qua chóng vánh. Buổi chiều y sĩ trạm xá tới xem lại lần cuối chân cẳng cho anh và thông báo rằng rạng sáng đơn vị sẽ ghé xe qua đón anh về binh trạm.
Bữa cơm chiều chia tay chẳng những có thịt thà và rau xanh, bà cụ chủ nhà còn kiếm được cho Vinh một cút nhỏ rượu trắng. Nhưng Vinh không biết uống rượu, anh không làm quá nổi một ly. Chỉ có bà cụ và Hạnh. Bom nổ lay chuyển bờ sông. Chớp lửa chạy nhằng nhằng. Nhưng vẫn một trời thu chiều tà và một vừng trăng non.
Tối ấy, Hạnh không về ngủ bên hầm bà cụ chủ nhà. Cô thổi tắt ngọn đèn chai trong góc hầm rồi mềm mại nằm xuống bên Vinh.
Kho quân trang Vinh coi giữ ẩn trong một hang núi Phong Nha không xa Cự Nẫm. Cuối mùa thu năm ấy khi bọn Mỹ liền mấy đêm mở những trận càn kinh khủng bằng B52 vào vùng cư dân ấy, ở trong núi anh nghe rõ mồn một từng dây bom. Nhưng đầu 73, hòa bình ở miền Bắc, đơn vị anh lại chuyển sâu vào tận Bù Gia Mập.
Cuối năm 75, ra Bắc, ngang qua Đồng Hới, Vinh xuống xe tìm đường lên Cự Nẫm. Xóm nhỏ năm nào không còn nữa. Một hố bom đìa ngập nước đã nuốt chửng túp nhà với hai căn hầm ngày ấy. Bà cụ đã mất trong trận bom cuối, nhưng cô giáo Hạnh thì mọi người đều cam chắc là còn sống bởi cô còn tiếp tục dạy ở Cự Nẫm tới hết niên học ấy. Anh muốn tìm cô nhưng tìm ở đâu được. Đất nước sau chiến tranh trời đất bao la tiêu điều.
Phố Khâm Thiên, ngày anh ra Hà Nội học, đã được san hết các hố bom và dọn quang những đống đổ nát. Nhưng số nhà của gia đình Hạnh đã cùng một loạt số nhà nữa trở thành một đoạn dài địa chỉ bị ngắt quãng của phố Khâm Thiên. Nạn nhân trong trận bom hủy diệt là hàng trăm, nhưng người sống sót được cứu ra từ đống đổ nát cũng còn nhiều. Song Vinh không biết họ của Hạnh, không biết tên những người thân của cô. Những cư dân cố cựu của đoạn phố Khâm Thiên ấy thì không biết không nhớ có cô gái nào tên Hạnh là giáo viên từng dạy học ở Quảng Bình những năm chiến tranh.
Không hề trải qua chiến trận, nhưng suốt nhiều năm sau ngày giải ngũ Vinh thường nằm mộng thấy những hố bom.
Và suốt nhiều năm dù phải vòng đường xa, ngày nào Vinh cũng phải ít nhất một lần đạp xe qua Khâm Thiên. Ngay sát bên nền cũ ngôi nhà gia đình Hạnh người ta dựng lên một bia căm thù và một đài tưởng niệm. Đài tượng niệm nay cũng đã cũ rồi và nhỏ bé chìm lút trong đời sống mới ngồn ngộn của phố xá thay da đổi thịt.
Liên tục đều đặn qua lại Khâm Thiên. Hàng năm ngày tưởng niệm những nạn nhân của cuộc thảm sát anh đều tới đặt vòng hoa tại bia và luôn dừng ở đấy thật lâu lặng nhìn đám đông những người dự lễ viếng. Tuy nhiên thời gian dằng dặc đã khiến Vinh không còn tự ý thức được ý nghĩa của sự kiên tâm bền bỉ của mình. Anh không còn hiểu được rằng sự kiên tâm của mình tức là niềm nhớ thương, và không chỉ nhớ thương, mà còn là nhớ mong, là nỗi trông chờ chưa bao giờ lụi tắt, chưa bao giờ hoàn toàn vô vọng. Anh không biết rằng mình vẫn chờ đợi giây phút gặp lại Hạnh…
Giây phút ấy rồi cũng đã tới với đời Vinh. Tuy nhiên chẳng phải tại địa điểm và trong khung cảnh mà đôi khi anh vẫn thoáng mường tượng. Nó đơn giản, sơ sài và tẻ nhạt hơn anh tưởng rất nhiều. Vậy mà không ngờ lại là một nhát khía đau buốt.
Anh gặp Hạnh ở cổng Ủy ban phường! Anh đi bộ ngang qua còn cô dắt xe máy từ trong sân đi ra. Hạnh nhìn thấy anh, nhận ra anh ngay và gọi anh trước. Vui vẻ, bình thường, thân mến: “Ơ kìa, anh Vinh! Anh Vinh phải không?”
Vinh nhìn. Đã bao nhiêu thời gian mất đi song Hạnh không đổi khác nhiều như Vinh. Anh nhận ra cô ngay. Và không hề như anh tưởng, tim anh vẫn bình thường, hơi thở bình thản. Và như thể đêm cuối của hai người mới là vừa trước buổi sáng nay, anh mừng rỡ và thân thiết: “Kìa, Hạnh, Hạnh hả, đúng Hạnh rồi, chào em?”. Và thậm chí, như tất cả mọi người chúng ta khi gặp gỡ nhau lớt phớt ngoài đường, anh hỏi: “Hạnh đi đâu thế? Cháu đây à?”. Anh xoa đầu đứa bé gái đang ngồi ở yên trước của chiếc xe máy.
- Em đi chuyển hộ tịch. Chuyển nhà đã mấy năm mà cứ lần chần chưa chuyển được. Vâng, con gái em đấy.
- Hạnh được mấy cháu?
- Con gái đầu mà anh. Cháu mới bốn tuổi. Còn anh, mấy cháu rồi?
- Trai chưa vợ, con với ai chứ? - Vinh mỉm cười.
- Sao lại thế anh, anh năm mươi rồi còn gì? Em cứ tưởng như em cao số thế là cùng. Mãi năm năm trước, ngoài bốn mươi mới rời được vòng tay của cha mẹ.
Bỗng dưng, vẻ tươi vui hồ hởi của Hạnh sững lại, nụ cười vụt tắt. Cô hỏi, giọng lạc đi: “Nhưng… anh ở đây à…
ở Thành Công à?”
- Ừ. Anh ở Z1. Phòng 306. Hơn hai chục năm rồi. Ban đầu mới bộ đội ra ở nhờ ông anh, sau thì…
Vinh cũng đột ngột cảm thấy như một roi vút vào tim. Anh ngừng bặt không nói tiếp nổi.
- Em ở nhà Z2 - Hạnh gần như thì thầm - Em đã đã tìm anh. Em đã vào làng Yên Vực quê anh. Làng bị bom tan nát hết. Em đã tìm anh. Em đã nhớ anh biết bao nhiêu. Em.. Em ở nhà Z2 đấy anh. Phòng 407. Cũng ở đấy đến hai chục năm hơn. Anh ơi. Hóa ra chúng mình…
TÌNH THƯ
Sau Mậu Thân, bọn Mỹ buộc phải tạm ngừng ném bom miền Bắc. Tuyến tàu Nam lại thông suốt vào tận Vinh. Tiểu đoàn chúng tôi tuy phải xuống ở ga Văn Trai chứ không được đi tới kịch đường tàu, nhưng bù lại được hưởng một chặng dài hành quân bằng xe lửa.
Có cái sướng của sự hành quân ngồi nhưng phải cái buồn là đi Bê mà không được xuất nghỉ phép 15 ngày. Buồn nữa là không được khởi hành từ ga Hàng Cỏ. Rời Bãi Nai chúng tôi trẩy bộ về ga Thường Tín. Tới ga, đã gần nửa đêm, lính tráng lên toa ngay, và tàu lập tức chuyển bánh. Toàn tân binh Hà Nội, 17, 18 tuổi, nhìn quầng sáng Hà Nội lùi xa, buồn lắm. Bấy giờ là mùa đông năm 69, đất nước vừa qua tiết cuối thu nhiều đau thương, mà những tháng ngày đón đợi phía chân trời thì đang hiện ra cùng với vô vàn gian nguy được báo trước, vì vậy chúng tôi ai cũng thầm hiểu rằng không phải tất cả anh em mình đây đều sẽ còn có dịp nhìn thấy lại vầng sáng đang khuất dần kia của thời thanh thiếu tuổi học trò.
Cả ngày cuốc bộ mệt nhừ nên vừa kịp nhá xong khẩu phẩn bữa tối hầu hết đã ngáy khò. Nhưng cũng có vài tay không ngủ nổi, chụm đầu đánh bài, hoặc như Vũ, tổ trưởng tam tam của tôi, cặm cụi viết thư. Vũ ngồi xổm trên băng ghế, giở sổ tay ra để trên hai đầu gối, viết hết trang này sang trang khác. Tàu quân sự song chạy chậm rề. Tàu hồi đó xóc dữ lắm, chòng chành như thuyền trên sóng, vậy mà Vũ vẫn cố sức viết, môi bậm lại. Tảng sáng, tôi thức giấc, ngó qua cửa thấy đang ngang qua đồng lúa mênh mông huyện Hoằng Hóa. Bấy giờ Vũ mới vừa viết xong. Tôi thấy nó rứt ra khỏi sổ tay đến gần hai chục tờ giấy đúp. Chữ nhỏ ly ti như đàn kiến đặc kín mặt giấy nhưng rất nắn nót. Vũ bảo là cần có lời tỷ mỉ với từng người trong gia đình, mà gia đình lại đông, tam đại đồng đường: ông nội bà nội, bố mẹ, ba thằng em trai, một đứa em gái, nên thư dài. Sẵn giấy sổ tay và cái bút Trường Sơn của Vũ đấy, tôi bèn viết, nhưng chỉ loáng mấy dòng báo rằng lên đường khẩn cấp không về phép được, cả nhà cứ yên tâm, vì viết trên tàu nên chỉ viết vắn, hứa vào tới Cự Nẫm, dừng chân lâu sẽ viết dài hơn. Thằng Hải, ngồi kề, thấy tôi viết, cũng viết và cũng chỉ loạc choạc dăm câu ba điều như vậy trên nửa trang sổ tay. Vũ cho tôi và Hải mỗi đứa một phong bì có dán sẵn tem bộ đội. Vũ moi trong túi cóc ra ba cái túi ni lông, bảo tôi và Hải cho phong bì của mỗi đứa vào mỗi túi, và mỗi đứa phải thả kèm theo thư một bao Tam Đảo. Riêng túi mình vì lá thư quá dày, Vũ chi vào đó hai bao.
Tàu hãm tốc độ bò từ từ, chuẩn bị qua cầu Hàm Rồng. Trời vừa sáng, sương mù sông Mã đang tan. Vũ nhoài người qua cửa sổ, thả ba túi thư xuống rệ đường Một. Không chỉ mình Vũ, từ cửa sổ của tất cả các toa đều thấy có những túi thư ném xuống. Tàu chạy rất chậm, song gió bấc lùa mạnh khiến các bì thư bị cuốn bay tả tơi như lá khô.
Hồi đó lính đi Bê có cái lệ như vậy, tựa một thứ dị đoan: liệng thư xuống mé bắc cầu Hàm Rồng. Phải đúng là bắc cầu Hàm Rồng chứ không được thả ở địa điểm khác. Người qua đường nhặt được và có lòng tốt mang tới bỏ vào hòm thư. Nếu thư trót lọt tới tay gia đình người lính nào là người lính đó có khước, sẽ được may mắn cực kỳ…
Tổ tam tam chúng tôi còn nguyên tới tận trạm 75 ở bắc Xê Ca Mán. Tôi bị sốt ác tính vật suýt chết phải nằm lại trạm. Vũ và Hải cùng tiểu đoàn hành quân vào B2. Khỏi sốt, tôi sang thu dung, rồi nhập đoàn tân binh khác, rẽ vào B3. Sau 75, tôi giải ngũ.
Thư từ sáu năm đời lính tôi gửi về, mẹ tôi quí báu giữ gìn nên còn cả, cũng chẳng nhiều nhặn gì, chỉ ba lá, trong đó có cả lá thư thả ở Hàm Rồng.
Trở về sau chiến tranh, bạn bè cựu binh tuy đông, nhưng chủ yếu là chúng tôi tụ hội anh em B3 với nhau, chứ cánh tân binh ba tháng Bãi Nai thì thú thực là chẳng còn nhớ. Mãi tới năm 1986, tôi mới gặp lại Vũ. Tình cờ thôi, buổi tối, ở cửa rạp Tháng Tám. Tôi đi bộ qua, còn Vũ cùng đám đông từ rạp đổ ra. Giữa bao người vẫn nhận ra nhau tức khắc. Tuổi đã luống cả, vừa vặn gấp đôi tuổi 17 xưa kia, mà ôm chầm lấy nhau như hai thằng nhãi. Một hồi sau, trấn tĩnh lại, tôi mới thấy rằng Vũ chỉ còn một cánh tay. Nhưng bù lại, anh có…
- Hiền, vợ tao! - Vũ nói và vội chữa lại - Vợ mình, Minh Hiền.
Anh giới thiệu tôi với một phụ nữ cũng khoảng tuổi chúng tôi vừa dắt xe đạp từ bãi gửi xe ra. Tôi gặp may, bởi vợ chồng Vũ đã thành dân Qui Nhơn từ hơn mười năm rồi, họ ra thăm Hà Nội và sáng sớm mai đã lên tàu trở vào. Chúng tôi cùng đi bộ ra Bờ Hồ, vào một quán cà phê.
Vũ kể: vào B2, sư 7, bị thương năm 72 ở chốt Tàu Ô đường 13. Ra Bắc đầu năm 73, học Sư phạm toán, 77 tốt nghiệp, đưa vợ con vào Bình Định, quê vợ. Hiền cười bẽn lẽn: “Ra Bắc được nửa năm, ông ấy đã đòi cưới. May là ba má hai đứa đều thuận. Khi ấy bọn em cả hai mới hăm mốt nhưng mà chờ đợi nhau cũng đã bốn năm trời”. Tôi ngạc nhiên: “Nghĩa là từ 69, khi bọn này đi Bê? Ghê nhỉ, sao mà hồi ấy ông kín miệng với anh em thế hả Vũ?”. Vũ ngó tôi một lát, rồi nói: “Chuyện vợ chồng mình khởi đầu thế nào, ông biết không, chính ông đã chứng kiến. Ông còn nhớ lúc đoàn tàu bọn mình qua Hàm Rồng không…”
Minh Hiền là con gái một gia đình cán bộ miền Nam tập kết làm việc ở nông trường Sao Vàng trong Thanh Hóa. Năm 1969, cô ra Hà Nội học Tổng hợp toán. Cuối tháng 11 năm ấy, cô về thăm má bị ốm. Khi trở ra, xe khách vừa qua cầu Hàm Rồng thì có trục trặc. Hành khách xuống xe chờ tài xế thay lốp. Đang lúc ấy thì có đoàn tàu chở bộ đội ngang qua. Chính là chúng tôi trên đó, và chính đấy là tơ duyên của Vũ với Hiền. Chuyến xe khách ra Hà Nội thành một chuyến xe thư. Hành khách ai cũng xúc động, ai cũng trên tay dăm lá thư do anh em bộ đội gửi gắm. Riêng Hiền chỉ nhặt được mỗi một lá, của Vũ. Cô không gửi bưu điện mà đưa tới tận nhà anh. Những hành khách khác chắc cũng làm vậy.
Tình nghĩa con người trong chiến tranh rất gần với tình yêu. Vũ với Hiền lại bằng tuổi nhau, trẻ măng, chân thành và anh dũng. Họ viết thư cho nhau. Chờ đợi nhau.
Lúc tạm biệt vợ chồng Vũ, tôi sực nhớ:
- Còn thằng Hải “tồ “?
- Hy sinh rồi! Nó bị từ giữa 70, ở Crachê, bên Miên, lúc bọn Mỹ càn sang. Tao với nó khi ấy vẫn đang cùng tiểu đội.
- Không biết bố mẹ nó có nhận được lá thư ấy không nhỉ?
- Mày quên à? Nó mồ côi. Chỉ có bà chị gái. Năm 73, tao về, tới tìm, không gặp. Nhà ở Ngõ Chợ. Bị bom hồi 72.
Thở dài, ngẫm nghĩ một lát, Vũ bảo:
- Nhưng lá thư ấy, chắc là chị ấy đã nhận được, đã đọc nó.
BA LẺ MỘT
Mặc dù là sự ngẫu nhiên nhưng mà có lẽ chẳng phải chuyện tình cờ. Bởi nếu không thì chúng tôi đã lướt về đến Nha Trang mới dừng chứ chẳng nghỉ vặt lại làm gì ở dọc đường. Và xe sẽ không đỗ đúng ngay trước cửa tiệm cà phê đầu thị trấn.
“Lêkima”, tên tiệm như vậy, trên tấm biển gỗ sơ sài. Một nhà gác nhỏ, mái ngói sạm màu rêu. Quầy cà phê ở tầng trệt, gian giữa, nhưng chỗ của khách ở ngoài vườn. Một ai đó lúi húi sau quầy, tôi lên tiếng chào, gọi một tách đen, và qua cửa sau đi xuống vườn. Vườn rộng, xanh ngát, vú sữa và lêkima. Bàn ghế mây kê rải rác dưới vòm cây xum xuê, bên những lối đi rải sỏi. Giờ này các bàn đều bỏ trống. Cả khu vườn chỉ một mình tôi với tiếng chim ríu rít trên cành. Đợi anh tài xế sửa xong xe chắc là còn lâu. Tôi ngả người vào lưng ghế, nhắm mắt lại.
- Dạ thưa, cà phê của ông.
Tôi không nghe thấy bước chân đàn bà ấy. Rất khẽ chị ta đi tới, thật nhẹ để khay cà phê lên mặt bàn và se sẽ cất tiếng. Trên chiếc khay gỗ bày một bộ đồ uống cà phê kiểu đã xưa, rất đẹp, đĩa và tách bằng gốm, men màu lam vân trắng, phin và thìa mạ bạc.
- Gia đình ta có khu vườn tuyệt quá, - Tôi nói, bày tỏ sự hài lòng và nỗi khoan khoái.
- Dạ, cám ơn ông - Người đàn bà nói nho nhỏ, giọng Nam êm như nhung, lễ phép, dịu dàng - Xin mời ông bữa sau lại ghé tiệm chúng tôi, dùng cà phê, ngoạn cảnh chiều.
- Ồ vâng, dĩ nhiên. Nếu như còn có một dịp thứ nhì.
- Thưa, thị trấn nầy, ông mới một lần đầu ngang qua?
- Vâng. Cũng gần như là lần đầu. Lần trước đã lâu lắm rồi. Đã hai mươi năm. Vả lại, ngày đó, thời cuộc gấp gáp, chúng tôi tiến ào qua.
Tôi có cảm giác là người đàn bà như chợt sững đi vì điều tôi vừa nói. Tôi nhìn chị. Có thể đoán rằng tuổi chị đã chừng bốn mươi, mặc dù chắc là chưa đến như vậy.
Gương mặt gầy yếu, xanh xao, song vẫn còn giữ được nét đẹp phảng phất.
Gặp ánh mắt của tôi, chị ngại ngùng nhìn tránh đi, và không nấn ná thêm nữa, lặng lẽ quay vào nhà. Tôi nhìn theo. Bỗng đâu một cảm giác phi lý nhen lên. Chẳng cần lục lại trí nhớ, tôi biết chắc chắn là trước đây chưa từng bao giờ gặp chị ta, và chắc chắn là không hề quen ai có thoảng nét giống, thế nhưng lại cũng hoàn toàn chắc chắn như vậy tôi cảm nhận được ở chị một sự quen biết, thậm chí một tình thân mến, từ xưa. Tình thân ấy mang máng đâu đây trong buổi chiều nay giữa khu vườn này. Tôi lắng nghe và tôi nhìn xung quanh, nhìn lên cao. Bên ngoài các vòm lá, bầu trời đã ngả hồng. Ngày đã tàn, thời tiết vẫn đẹp, càng đẹp hơn trước. Những đám mây cao và thưa nhẹ nhàng lướt trôi, mỏng dần và tan ra. Trong vườn, những ngọn gió khi thì lặng đi lúc lại dậy lên như cao trào của một bản nhạc. Một chiếc lá vú sữa nửa màu xanh nửa màu nâu nhạt bứt khỏi cành rớt xuống bên tách cà phê đang nhè nhẹ tỏa hơi. Chiếc thìa bạc kêu lanh canh. Lòng tôi xao xuyến lạ thường. Bỏ dở tách cà phê, tôi đứng vội dậy, rời bàn. Nóng lòng tôi muốn ngắm lại một lần nữa kỹ hơn dung nhan thân thuộc của người đàn bà không quen.
Không có ai trong nhà khi tôi từ ngoài vườn đi vào. Tôi tới bên quầy. Trên mặt quầy để một máy quay băng, mấy trái xoài tượng, một cái bình xay sinh tố, các thẩu đường, những lọ cà phê và một hộp kính xếp đầy những gói thuốc lá. Ở trong góc tối phía sau quầy, trên tường treo một bức tranh. Tuy nhiên, nhìn kỹ lại tôi thấy không phải tranh mà là một bức ảnh, được phóng to, lồng trong khung kính. Trong ảnh là hình một chiếc xe tăng. Và không phải M48. Vì khuất tối không nhìn được rõ nhưng tôi vẫn nhận biết rõ ràng dáng vóc một chiếc T54 um tùm cành lá ngụy trang. Vòng ra sau quầy, tôi lần tìm công tắc, bật đèn lên. Ánh điện bừng sáng và tim tôi như ngừng đập. Toàn, Trung và Chí, ba khuôn mặt ấy, ngay trước mắt tôi. Ảnh đen trắng, khi chụp hơi bị ngược sáng lại đã úa vàng vì năm tháng nên nom không được nét, song chẳng còn hồ nghi gì nữa, đúng là họ, và đúng là nó, xe 301. Đầu quấn băng, AK buông thõng trước ngực, Toàn ngồi trên nóc xe, ôm lấy nòng khẩu 12 ly 7, hai người kia bá vai nhau ngồi tựa vào sườn tháp pháo. Số xe khuất sau lưng họ, chỉ ngôi sao lộ ra. Cả ba anh em đều còn rất trẻ, còn rất non nét mặt và dường như do vậy mà có vẻ kém ăn ảnh, nhân dạng phần nào mờ nhòa, tuy nhiên bởi đều đã vào ảnh với nụ cười nên cả ba gương mặt đều như tự bừng sáng. Xúc động, cổ nghẹn lại, tôi run khắp thân mình, hồi lâu không sao trấn tĩnh được.
Nghe thấy tiếng guốc đi xuống cầu thang song tôi không rời mắt khỏi bức ảnh. Người đàn bà tới bên quầy. Ngoài cửa ánh chiều đã tắt hẳn. Căn phòng im ắng. Từ cõi nào xa xăm vọng đến tiếng còi tàu hỏa. Lát sau đoàn tàu rùng rùng băng qua cung đường gần thị trấn. Những hàng bánh sắt rền rền lăn trên ray. Mặt đất nhè nhẹ rung lên. Chiếc đồng hồ treo tường thong thả đổ chuông.
Lòng khắc khoải bao nhiêu là ý nghĩ và điều phỏng đoán, tôi chậm rãi xoay mình lại, đối diện với người đàn bà. Chị chống khuỷu tay lên quầy, áp mặt vào hai bàn tay. Một gương mặt thanh tú và khiêm nhường, một dung nhan dẫu đã lụi đi mà không hề tàn héo, đôi mắt hiền dịu, rất to, lặng nhìn tôi.
- Chị biết không, thật kỳ lạ - Tôi nói, ngập ngừng - Chiếc xe tăng trong bức ảnh kia chính là chiếc xe tăng của tôi, ngày xưa.
- Ơn trời, - Chị thầm thì - Thế là cuối cùng các anh đã trở lại. Bởi vì anh đã đổi khác quá nhiều so với anh trong hình nên em không nhận liền ra anh. Nhưng anh à, bao năm qua, từ ngày đó đến giờ, em vẫn một lòng tin rằng nhất định các anh còn trở lại.
Ngày đó, năm 75, buổi sáng cuối cùng của tháng Ba. Thị trấn bên bờ biển cho tới chiều tối hôm trước còn nghẹn ứ một biển người vậy mà sáng ra đã hoàn toàn trống rỗng.
Không ai ngờ thời cuộc lật nhanh đến thế. Vừa mới phong phanh tin thất thủ Buôn Ma Thuột, còn bán tín bán nghi, đã nghe mạn Khánh Dương tiếng đại bác rền vang. Người từ cao nguyên chạy xuống ban đầu thưa thớt, về sau kìn kìn. Người ta bảo rằng quân dù đã được điều về giữ đèo Ma Đơ Rắc, họ sẽ chặn đứng Việt Cộng và rồi sẽ tái chiếm Đắc Lắc chỉ trong ngày một ngày hai. Nhưng chỉ trong ngày một ngày hai vụ di tản chiến thuật đã trở thành cơn giãy chết vĩ đại. Thị trấn ngã ba nghẹn cứng hai luồng chạy loạn khổng lồ đổ ập về theo hai ngả, quốc lộ 1 và quốc lộ 21. Phố biển muôn thuở bình yên ngập chìm trong khói bụi và hoảng loạn. Mặt đường đen đặc người và xe. Xe đò và xe nhà binh, đồ đạc và chiến cụ, dân thường bỏ quê hương và lính tráng vỡ mặt trận, như lũ lụt tràn bờ, như trời long đất lở. Gần cả tháng trời thị trấn triền miên trong quang cảnh tán loạn đầy thú vật của cuộc đại bại. Chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo, đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc. Đến cuối tháng thì đã thật sự những ngày tận thế. Phòng tuyến trên đèo tan vỡ. Các Thiên thần mũ đỏ còn sống sót ôm đầu máu tháo chạy. Có những toán đông nghìn nghịt súng ống còn trong tay mà không còn giày, không còn áo, trần thùi lụi ồ ồ tràn qua trấn. Tất cả đều đã điên lên vì khiếp sợ. Chạy, chạy, và chạy. Muốn sống thì chạy đi. Mạnh ai nấy chạy. Giành đường mà chạy, dẫm lên nhau mà chạy. Tiền pháo hậu xung, đại bác quân Bắc Việt sẽ san bằng thị trấn. Chiến xa quân Bắc Việt sẽ cán nát tất cả. Và bộ binh Bắc Việt khi xung phong vào sẽ giết nốt, sẽ giết hết, giết tuốt mo, giết không còn một mống.
Buổi trưa, phi cơ từ biển ào vào bổ nhào ngay trên đầu thị trấn trút bom xuống Dục Mỹ để cản bước địch quân. Nhưng trận chiến vẫn từng giờ một xích gần lại. Cửa kính rạn vỡ, vôi vữa rơi lả tả. Chập tối, đạn pháo hú vang, từng loạt, từng loạt nã vòng qua thị trấn rót xuống dọc mép biển. Nửa đêm tiếng nổ thưa dần và tinh mơ thì bặt hẳn. Hừng đông mong manh chuyển dần sang buổi ban mai và ở xa thẳm ngoài khơi vừng dương đã nhô lên trên mặt biển. Trên bờ, ở ngôi nhà đầu thị trấn, ông chủ hiệu ảnh Lêkima và cô con gái của ông ngồi lặng im trong bóng tối. Bên ngoài, ánh mai hồng ngời rạng, trong nhà tối như hũ nút. Cửa đóng then cài.
Cả đêm hai cha con không chợp mắt, thao thức nghe sấm sét của quân đội cách mạng và nghe những hậu đội cuối cùng của quân Sài Gòn huỳnh huỵch tháo thân chạy qua trước cửa. Nỗi lo âu cồn cào, nhức nhối ruột gan. Hồi giữa tháng khi còn có thể ra đi người cha lại chùng chình nghe ngóng, tiếc nhà tiếc vườn, tiếc kế sinh nhai. Tới lúc không thể do dự thêm được nữa thì cũng là lúc cảnh tượng của cuộc tùy nghi di tản đã trở nên quá độ kinh hoàng. Cô con gái xin cha để cô được ở lại. Thà chết còn hơn là phải dấn thân vào một lộ trình dã man đến như vậy. Hai cha con náu mình trong nhà. Bọn lính cướp phá tan hoang hai bên hàng xóm nhưng may phúc làm sao chúng chưa xông vào hiệu ảnh. Chúng bắn tan tấm biển Foto Lêkima nhưng chưa bắn vỡ tường và chưa làm sập nhà. Tuy nhiên nếu tình trạng hỗn mang kéo dài thêm nữa bọn kẻ cướp sẽ không bỏ qua ngôi nhà này. Nhưng mà nếu chúng biến đi thì tức là họ sẽ vào. Họ vào thì trời ơi, sẽ ra sao?
Trời đã sáng hẳn. Hình như có tiếng vạn vật thức giấc, ì ầm như sóng biển xô bờ. Nhưng mà chẳng phải tiếng sóng. Tiếng động mới mẻ xa xôi mơ hồ ấy không tắt mà cứ lớn dần lên và loang rộng ra. Rồi bỗng nhiên tất cả rung lên. Đất trời như rạn nứt.
- Trời đất ơi, chiến xa! Tránh xa cửa, con ơi!
Tiếng kêu khiếp đảm bị tiếng gầm của động cơ xe tăng nuốt đi. Chiếc thứ nhất rồi chiếc thứ hai, thứ ba… mũi đột phá xe tăng gần chục chiếc, T54 và K63, như một cơn lốc bằng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn, là phẳng mọi chướng ngại trên đường, nhằm hướng nam truy kích. Nhà cửa rung giần giật. Cả thị trấn điếng hồn, choáng đi trong tiếng rít của xích thép hòa lẫn với hơi dầu xả phùn phụt, tiếng tháp pháo nghiến ken két. Mặt đường tóe lửa, nứt ra, rền vang như gang vỡ.
Thị trấn được giải phóng trong vòng không đầy năm phút đồng hồ. Đoàn xe tăng lao tới, tràn qua và mau chóng mất hút phía trời nam. Sấm vang chớp giật rồi tất cả lại trở về trong buổi sáng mai êm ả dưới bầu trời trong xanh, cao vòi vọi miền duyên hải.
- Nhưng mà hình như họ ngừng. Họ ngừng rồi! Hình như ngay trước nhà mình đấy, con ơi!
Mà họ dừng lại thiệt, trời ạ! Chỉ một chiếc nhưng mà tắt máy dừng ngay trước thềm. Nghe huỵch huỵch tiếng chân từ trên xe nhảy xuống đất. Những giọng xứ Bắc, nói oang oang. Họ to tiếng quát nhau. Rồi lại nghe rộ lên tiếng cười. Rồi choang choang tiếng gõ tiếng đập. Tò mò, quên cả sợ, cô gái tới bên cửa sổ vén màn nhìn ra. Thình lình, chiếc tăng rú lên, phụt khói đen ngòm, rồi như bị sặc nó nấc lên và tắt ngóm. Lại ồn lên tiếng quát tháo, tiếng la lối bực bõ. Nắp xe mở ra đóng vào sầm sầm. Mấy phút sau xe khởi động lại. Cô gái bưng lấy tai. Nền nhà rung nảy. Không khí khét nồng mùi khói ma dút. Khi cô bỏ tay ra thì tiếng gầm gào hung dữ đã ngừng bặt, thế nhưng cô lại nghe thấy tiếng những bước chân đi lên thềm. Cha cô mặt tái mét, vội vội vàng vàng bỏ trốn lên gác. Khiếp hãi cô đứng nép vào góc. Tiếng gõ cửa dẫu dè dặt vẫn chẳng khác nào súng bắn. Những giọng nói từ bên ngoài ngưỡng cửa vọng vào rõ mồn một.
- Có ai đâu nào. Bác phó nháy nhà này hẳn là đã cao chạy xa bay.
- Nhưng tớ bảo đảm là vừa nãy tớ thấy thoáng có người từ cửa sổ nhìn ra mà lỵ. Để tông cửa vào xem nào. Hay đấy là một thằng dù?
Sợ hết hồn nhưng không còn cách nào khác, cô gái đành khe khẽ thưa lên và đi nhanh tới bên cửa, mở khóa rồi nhấc then ra. “Xin kính chào quí ông”, cô lí nhí. Hai ông ngoáo ộp đứng choán trước cửa tươi tỉnh cất tiếng chào đáp. Lần đầu trong đời cô gái tận mắt thấy Việt cộng. Một người vóc dạng cao lớn, đầu húi cua, súng đeo trễ bên vai, tay xách một cái can nhựa, người kia gầy gò, nhỏ thó, đầu quấn băng, súng lăm lăm trong tay. Cửa mở, thấy cô, anh ta vội chúc họng súng xuống. Bàn tay, gò má và bộ đồ trận của cả hai đều ám khói.
Họ nói xe họ bị sự cố phải dừng sửa, giờ sửa xong rồi, nhưng vì đã cạn hết nước uống nên trước khi xuất kích còn phải vào làm phiền gia đình một chút, mong thông cảm. Họ gọi chị xưng chúng tôi, lễ phép, nhã nhặn, gần như khách sáo khiến cô gái trẻ vừa bối rối vừa phần nào cảm thấy an lòng. Cô mời họ vào. Cô bảo sau nhà có bể chứa nước mưa xin để tùy quí ông dùng, lấy bao nhiêu cũng được. Nhưng họ nói chỉ xin nạp một can đủ dùng thôi. Những người lính nầy mặc dù súng ống lịch kịch, mặc dù bụi bặm và nhầu nhĩ, thế nhưng chẳng hề có cái vẻ lính tráng như cô vẫn thường thấy. Cô thấy họ rất lành. Không sục sạo, không ngó nghiêng, và không một mảy may lỗ mãng. Lấy đầy can nước rồi, tuy rất vội, họ không xồng xộc bỏ đi ngay mà tế nhị ngồi nán lại vài phút bên bàn, từ tốn nhấp tách trà cô mời, ân cần hỏi han, trò chuyện. Chỉ là theo phép lịch sự nhưng rất mực thân tình. Họ khen vườn của cô đẹp tuyệt, khen cơ ngơi của cô trang nhã, khen trà cô pha ngon, khen những bức ảnh mẫu bày trong tủ kính. Họ nói không lâu nữa đại quân sẽ trẩy qua, bộ binh, xe pháo nườm nượp, nhưng đừng có sợ hãi, cứ thoải mái, cứ mở cửa tiệm, giữ lấy nếp sinh hoạt bình thường như mọi ngày. Đà tiến của quân ta sẽ mau chóng giãn tầm phi pháo của địch ra xa thị trấn này. Vả chăng, rất có thể chiến tranh sắp kết thúc. Không chừng ngay trong năm nay, thậm chí ngay trong mùa khô này cũng nên, biết đâu đấy, chúng tôi sẽ tiến thấu được đến tận mũi Cà Mau.
- Hết được chiến tranh rồi sẽ sung sướng biết bao - Anh lính nhỏ người, đầu quấn băng, ngả người ra lưng ghế, khẽ thở dài - Không còn bọn Mỹ, không còn bọn ngụy, không bom không pháo, đất nước thống nhất, hòa bình, dẫu chỉ được sống trọn một ngày như vậy thôi rồi chết, cũng đáng.
- Nói gì thế cái cậu này! Cậu chỉ được độc cái tài nói gở thôi à? - Người kia nhăn mặt, khẽ gắt.
- À, là nói thế. Chứ chết sao được. Đã đến ngày khổ tận cam lai mà lại chết thì thật hoài. Phải gắng sống để hưởng hồng phúc của thái bình chứ. Mai này, khi đã tàn trận mạc, tôi sẽ rời tay lái xe tăng chuyển ngành sang làm xế quốc doanh, vi vu dọc ngang cho đến già trên các ngả đường, ngắm Chủ nghĩa xã hội, ngắm đồng ruộng núi sông trời bể nước Nam cho đã bao năm ròng tút hút rừng sâu. Và nhất định năm nào tôi cũng sẽ qua đây, dừng thăm ngôi nhà này, thăm người quen hôm nay.
Không hoàn toàn hiểu những điều họ nói, cô gái ngồi im, khép nép, thỉnh thoảng khe khẽ dạ thưa, mắt nhìn xuống. Tuy nhiên, cung cách hiền hòa dễ mến của hai người khách đã giúp làm vợi đi nỗi lo sợ. Tâm trạng căng thẳng chùng xuống, hầu như chẳng còn chút nào mối dè chừng và sự thủ thế. Thậm chí không còn lấy một mảy may ác cảm. Tự cô cũng thầm lấy làm lạ về sự nhẹ dạ của mình. Bao nhiêu những định kiến đã thấm sâu vào tâm trí, tưởng chừng bất biến, vậy mà cô đã rứt bỏ nhẹ nhàng như thể trút một tiếng thở phào. Chẳng những không hề là những tên cuồng sát, thấy người là giết thấy nhà là đốt, hai người lính này cũng không giống những nhân vật rắn như đanh, lòng dạ gỗ đá, đầu óc cứng nhắc, mặt mày thì khắc nghiệt, cử chỉ thì thô bạo, miệng lưỡi thì cục cằn, phách lối được gọi là Việt Cộng mà cô vẫn hàng ngày nghe thấy trên đài phát thanh và đọc thấy trên sách báo. Tuyệt nhiên chẳng có vẻ gì là một cuộc tẩy não, họ nói năng nhẹ nhàng mà thân ái, vui vẻ nhưng đúng mực, giữ lễ xã giao chủ khách.
Nhìn những vật dụng trong phòng, nhìn gói thuốc với hộp quẹt cha cô để trên bàn, cái gạt tàn đầy mẩu, cái áo khoác đàn ông trên mắc áo, hẳn rằng hai người lính Việt Cộng thừa biết hiện trong nhà này không chỉ có mình cô, song họ chẳng hề căn vặn. Họ hỏi thăm song thân cô nhưng thấy cô ngập ngừng họ không gặng. Thật tình cô không sao hiểu nổi duyên do của nỗi ghê khiếp cộng sản đã ám ảnh và chế ngự cuộc sống của cha cô cũng như của bao người khác nữa ở thị trấn này. Có cái gì thật vô lý và tức cười trong thái độ tột cùng hoảng hốt của cha cô khi nãy. Khiếp sợ đến nỗi bỏ cả con gái đấy để trốn chạy. Cô hình dung lúc này đây cha cô mặt mày xanh xám, náu mình trong một góc tối om trên gác, run cầm cập chờ tiếng chân cộng sản sầm sầm bước lên cầu thang.
Nhưng những người cộng sản còn bận công chuyện của họ. Họ nhìn đồng hồ, thốt kêu lên, rồi vội vã đứng dậy, đeo súng lên vai, vội vội xin cáo từ và một lần nữa xin cám ơn sự giúp đỡ của gia đình. Họ bắt tay cô. Một người chỉ nắm nhẹ rồi buông ngay. Nhưng người kia giữ lại lâu hơn bàn tay nhỏ nhắn mềm dịu của cô trong bàn tay thô ráp của mình:
- Bọn anh là bộ đội chứ nào phải là quí ông. Mai này gặp lại nhau nhớ đừng gọi bọn anh như vậy nữa. Nhớ nhé. Bọn anh nhất định sẽ trở lại. Anh sẽ chẳng bao giờ quên nơi này, chẳng bao giờ quên buổi sáng hôm nay. Buổi sáng hôm nay, quê hương em giải phóng, em hãy nhìn xem, đất trời tươi đẹp biết bao. Còn anh thì anh coi hôm nay là ngày đầu tiên sau bao năm trời xa cách được trở về gặp lại quê hương. Quê anh ở bờ biển Quảng Ninh cho nên hễ cứ nơi nào bờ biển cũng đều là quê nhà. Vậy nên anh và em chúng mình là đồng hương duyên hải đấy.
Hai người buông tay nhau. Người lính chạy ra xe, cô gái đi vội vào nhà rồi lật đật chạy ngay ra, trên tay cầm chiếc máy ảnh. Xe tăng đã nổ máy, gầm lên, nhưng chưa lăn xích. Cô gái chạy xô tới trước đầu xe, huơ máy ảnh lên.
Chiếc tăng dường như ngần ngừ do dự, động cơ vẫn rền rền song có vẻ dịu xuống. Nắp tháp pháo bật mở, lần lượt hai người từ lòng thép chui ra. Người thứ ba từ cửa buồng lái. Anh ta không tắt động cơ. Chiếc tăng rầm rầm nổ máy tại chỗ như hối thúc.
Cô gái không ham nghề ảnh nên rất ít khi rờ đến máy và chưa bao giờ cô thay cha chụp hình cho một người khách nào. Cô nhỏ bé, yếu ớt và run rẩy trước khối thép đồ sộ đang hừng hực phả hơi nóng và rung lên giần giật. Phải bậm môi lại, gần như vận hết can đảm và lấy hết sức bình sinh cô mới bấm máy nổi. Không may, sáng hôm đó, cuộn phim trong chiếc Canon chỉ còn một kiểu. Bấm xong cái tách, hết phim. Sững sờ ngó chiếc máy, dường như mãi mới chợt hiểu, cô sực tỉnh, hớt hải kêu lên muốn át tiếng máy bảo ba ông khách gắng chờ để cô vào nhà lấy máy khác chụp tiếp.
Nhưng khi cô ôm chiếc Kodak chạy lao ra, xe tăng đã gầm lên, tốc bụi mù mịt, chồm mạnh tới và lập tức lao xộc đi như thể chạy trốn cô. Cô đứng khựng lại giữa lòng đường. Chiếc T54 nhỏ dần, mặt đường vẫn rung chuyển nhưng tiếng gầm của động cơ nghe không còn hung dữ nữa, và càng lùi xa chiếc tăng nom giống một lùm cây xanh, rung reo trong gió và lấp lánh trong nắng.
Những ngày giông tố qua mau, cuộc đời lật nhanh sang trang khác. Chủ hiệu ảnh đó vượt biển, bỏ xứ ra đi. Cô con gái của ông một mình ở lại với ngôi nhà và vườn cây lêkima. Hiệu ảnh tuy còn đó, song không nhận chụp, chỉ mở thế để chờ trả ảnh. Thế nhưng nhiều năm trôi qua, khi mà ngay cả những người lính được giải ngũ sau chót cũng đã về đến quê nhà của họ, bức ảnh chụp cỗ chiến xa vẫn mãi mãi là một tấm hình vô chủ.

Thời gian thấm thoắt như thoi đưa. Cô gái trẻ măng ngày ấy đã thành thiếu phụ, lập gia đình, có con. Đời sống gian nan khắc khổ kéo dài suốt mười mấy năm trời sau chiến tranh khiến chị mau già. Chồng chị đã sớm từ giã phố nghèo để tìm vào Nha Trang kiếm kế sinh nhai dễ dàng hơn. Các con chị lớn lên cũng lần hồi đi hết. Rất muốn theo chồng con nhưng chị lại không muốn rời bỏ thị trấn. Đành lại thui thủi một mình với ngôi nhà, chật vật sống tựa vào mảnh vườn và tiệm cà phê. Trong nhà chẳng còn dấu tích nào nữa của hiệu ảnh, ngoại trừ tấm hình chụp chiếc chiến xa, được phóng rộng ra thật lớn và lồng khung nhưng chưa người tới nhận, ngày một úa vàng.
Ngày lại ngày, năm này qua năm khác, ngôi nhà xưa cũ vẫn đấy, mòn mỏi bên rìa lộ, như âm thầm ngóng trông một điều gì đó, không biết là điều gì, rồi sẽ đến trong dòng thời gian đang đều đều trôi chảy ngược xuôi không cùng tận trên đường. Cuối cùng thì cái sự kiện mơ hồ được bền bỉ ngóng trông ấy dường như đã thực sự bước chân qua ngưỡng cửa. Một trong những chủ nhân của chiếc xe tăng đã nhận ra chiếc xe tăng của mình.
Chỉ có điều, người đàn bà chủ tiệm cà phê đã lầm: tôi không phải là một trong những người mà chị ngóng trông. Mặc dù là xạ thủ 12 ly 7 trên chính chiếc xe tăng trong ảnh, tôi không hề có mặt trong ảnh.
Đã trót lọt qua những trận ác chiến trên đèo Ma Đơ Rắc, đã an lành vượt qua Dục Mỹ, tôi lại để bị thương ở cây số cuối cùng của đường 21. Và ngu ngốc làm sao, lính xe tăng mà lại bị đốn bởi đạn súng trường. Chỉ độc một phát, bắn tù mù trong đêm tối, nhưng đúng lúc tôi đang nhoài nửa người khỏi cửa xe.
Vết thương không nặng nhưng đủ để loại nhau ra khỏi vòng chiến trong hơn chục ngày trời. Nằm được mười ngày, tôi ôm vết thương tếch khỏi bệnh viện, nhặt một chiếc zép lùn nằm quăng bên vệ đường, lái hết tốc độ rượt theo vết xích xe tăng. Nhưng vào giai đoạn hành quân thần tốc ấy chậm một giờ là lỡ cả đời, huống hồ tụt hậu mất mười ngày như tôi. Đuổi theo vết xích của 301, tôi phóng ô tô qua Ninh Hòa, Nha Trang, Cam Ranh, rẽ đường 11 lên đèo Ngoạn Mục, rồi qua Di Linh, Đức Trọng về Bảo Lộc, về Lộc Ninh, và ngoặt gấp sang đông nhằm hướng Sài Gòn. 30 tháng Tư vẫn theo vết xích xe tăng, tôi qua Lăng Cha Cả vào phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng 301 của tôi hình bóng đã mịt mù nơi đâu trong mưa rơi buổi chiều ngày đại thắng.
Tôi đã trở lại Lăng Cha Cả, trở lại Cầu Bông, trở về tận Phan Rang, địa danh của những trận tử chiến bằng xe tăng trên đường tiến đánh Sài Gòn. Nhưng trời đất bao la, mặc cho tôi bền bỉ theo đuổi, 301 vẫn mãi mãi xa khuất khỏi tầm mắt của tôi.
Và như thế là đã hai chục năm trời rồi theo đuổi vô vọng cho tới buổi chiều hôm ấy. Chẳng phải sự tình cờ, mà là một sự run rủi tuyệt vời của định mệnh đã khiến tôi bước vào vườn cây lêkima bên bờ biển Khánh Hòa. Cuộc đời có hậu đã cho tôi, một số phận lẻ một, khi đã luống tuổi, lúc đã xế tà vẫn còn ruổi kịp đà tiến công vũ bão của thời thanh xuân để gặp lại được số phận chung bốn anh em.
Chiều hôm ấy, trước bức ảnh xe tăng 301, người thiếu nữ năm xưa, vụt sống lại với buổi bình minh của đời mình, đã không cầm được nước mắt. Và tôi cũng vậy, sau hai chục năm trời, lệ chiến tranh lại tràn mi.
GỌI CON
Cái rương ấy, Tân chịu khó tha từ Hà Nội vào để rồi bỏ xó đấy. Một năm sau, dọn dẹp buồng chứa đồ đưới tầng hầm, chị người làm khuân nó lên, cho ra ngoài sân, toan thải. Nom như cỗ áo quan. Đứa con gái lớn của Tân nói đùa. Còn vợ anh thì bảo là cái thứ này lạc vào biệt thự nhà mình chẳng khác gì một cái bát cóc gặm được tìm thấy trong dinh ông Thạch Sùng.
Thực tình là Tân cũng nào có thiết, nhưng chẳng lẽ không giữ lấy một tị ti gì kỷ vật của mẹ. Vả lại, mẹ mất rồi, nhà của cha của mẹ mình đã bán đi, mà mọi thứ trong nhà mình cứ để vất vưởng hết cả đó, chẳng buồn bê đi một thứ gì, không chừng mình sẽ mang tiếng là hợm. Chị gái của Tân bảo thế. Ông anh của Tân lựa chiếc tivi. Bà chị chở đi cái tủ lạnh. Còn Tân thì mãi khi sắp lên taxi ra sân bay mới đành miễn cưỡng chọn lấy cái rương kê kề giường mẹ. Xoàng xĩnh, nhưng nó là vật đã từng theo Tân đi trọ học sơ tán suốt mấy năm cấp Ba. Hơn nữa, chẳng cồng kềnh nặng nhọc gì, rương loại nhỏ, nhẹ không.
Tân bảo chị người làm lau sạch bụi bặm rồi tìm cách cậy cái khóa tí xíu đã mất chìa. Nắp rương mở ra, nhẹ hắt lên mùi băng phiến. Chẳng có gì ngoài thư từ với giấy má, tất cả đã úa vàng. Sổ học bạ, sổ liên lạc, những bằng khen và chứng chỉ học sinh giỏi của anh chị em nhà Tân. Một cuốn an bom khổ nhỏ kẹp rời rạc những tấm hình cỡ bằng con tem. Dăm lá thư của anh trai Tân gửi từ Liên Xô, của chị gái Tân từ Đông Đức và của Tân từ Tiệp Khắc. Đáy rương còn một bọc gì đấy nữa nằng nặng, khá dày, có lẽ cũng là một xấp thư, được gói kỹ trong giấy báo. Rồi một cuốn sổ gạo. Một tệp những phiếu vải, phiếu thực phẩm đã cắt gần trụi các ô. “Mẹ nhà mình lắm cái lỗi thời không tả được”, Tân thường nghe bà chị gái than vậy. Bao nhiêu những sự khổ sở một thời, người ta đã loại hết, mẹ mình cứ giữ rịt. Nhìn căn hộ thì thấy thôi, đồ đạc toàn những thứ già ngang một đời người, bài trí cũng đã mấy chục năm rồi không xê xích. Con trai con gái ai nấy nhà lầu biệt thự và đều thiết tha được rước mẹ về ở cùng, nhưng bà cụ cứ dứt khoát là không đi đâu khỏi cái tầng tư khu tập thể. Già cả như thế, lụi cụi một mình, mà nhất định không muốn nghe tới chuyện thuê “ô sin”.
“Nhưng mà sợ nhất vẫn là cái tính mẹ nhà mình lúc nào cũng đăm chiêu ít lời”. Bà chị phàn nàn. “Con cháu khó nghĩ hết sức. Lựa lời hỏi xem có điều gì khiến mẹ không hài lòng thì mẹ lắc đầu rằng không. Mà sự thực là thế. Nhà mình trông lên thì chẳng bằng ai. Trông xuống chẳng ai bằng mình. Anh cậu, rồi cậu, rồi chị, đều thành đạt, dâu rể cũng vậy, và lứa cháu nữa, đều khá, đều ngoan ngoãn, giỏi giang, đều tương lai rất sáng. Thành thử hỏi rằng vì sao mà mẹ nhà mình cứ rầu rầu lặng lặng và cứ thích thui thủi thế, thì chịu thôi, không tài nào ai hiểu nổi. Hay là tính nết mẹ nhà mình đã cố hữu như vậy rồi từ xưa?”.
Chị không nhớ thì tất nhiên là Tân càng không thể nhớ hồi xưa mẹ thế nào, vui nhiều hay buồn nhiều. Nhưng Tân công nhận là trong tuổi già thì mẹ mình đúng là có sự gì không ổn thật. Về sức khỏe của mẹ thì Tân luôn an tâm. Mẹ chưa mắt mờ chân chậm, cũng chưa lẫn đâu, đừng lo, chính mẹ vẫn bảo với anh thế mỗi lần anh từ Sài Gòn ra đến vấn an. Về mặt tình cảm thì phải nói là ông anh bà chị của Tân ở Hà Nội, và cả Tân, dù cách xa trong này, đều thực sự một lòng hiếu thảo. Còn về mặt vật chất, đừng nói bây giờ, ngay từ thời bao cấp, ba anh chị em Tân đều có mức sống cao hơn người ta, cả ba đều dư khả năng lo cho mẹ không phải thiếu thốn một thứ gì. Và càng về sau này lại càng có điều kiện chăm lo cho mẹ đầy đủ hơn. Vậy thì vì sao mẹ không vui cơ chứ. Mà ngại nhất là trông cụ cứ càng năm càng buồn bã hơn. Cũng như ông anh, cũng như bà chị, Tân chịu, không hiểu.
Tất cả những lá thư gói chung trong tờ báo cũ để dưới đáy rương đều là của mẹ gửi cho em trai của Tân. Trên tất cả các phong bì, tên người nhận đều là Nghĩa, tất cả đều được kiên nhẫn gửi tới một số hiệu hòm thư duy nhất, và tất cả đều là những lá thư do bưu điện huyện Lương Sơn kiên nhẫn gửi trả lại. Tất cả còn để nguyên chưa được bóc ra.
Tân không vội mở xem lá thư đầu tiên. Anh ngồi im ngẫm nghĩ cố hiểu cho ra sự lạ lùng này. Đúng là Tân từng có một cậu em trai, nhưng đã từ lâu lắm rồi. Đến nỗi, có lần làm lý lịch tự khai, Tân đã quên không ghi Nghĩa vào. Có lẽ cả ông anh bà chị của Tân cũng vậy. Quen nói ba chị em mình, dần dần trong tâm thức họ hình bóng người em út cứ lẳng lặng phai mờ, rồi tắt hẳn đi lúc nào không hay. Tất nhiên là thoảng hoặc Tân cũng chợt nhớ. Và anh gắng mường tượng lại gương mặt Nghĩa, mà không được. Chẳng hiểu sao trong thời thơ ấu anh chị em nhà Tân đều có ảnh cả mà lên đến tuổi thanh thiếu thì hầu như không bức nào. Chỉ mỗi Tân còn lưu được một bức chụp vào ngày Tết năm 17 tuổi. Có thể là Nghĩa đến tuổi ấy cũng có gương mặt như vậy. Trong bức ảnh đã úa vàng, Tân đứng một mình bên cây bàng trụi lá trước mặt tiền tiều tụy của chung cư. Trên thềm vương đầy xác pháo. Tân diện áo bông, cổ quấn khăn phu la, gương mặt sầu tẻ, gượng gạo đang rụt rè mỉm cười với ống kính. Nụ cười trong ảnh có thể ví như một cái bọt khí còn sót lại của quãng đời thanh thiếu, từ dưới đáy sâu của thời gian đã quên lãng lạc lõng nổi lên. Bây giờ Tân chẳng thể nhớ được gì về chặng đời trước cái năm 17 tuổi anh lên đường du học ấy.
Có gì trong những năm ấy nhỉ? Chiến tranh, sơ tán, nỗi sợ hãi. Không chỉ là sợ bom đạn, mà còn nỗi khiếp hãi cảnh sống nghèo nàn kham khổ. So với các gia đình khác trong khu tập thể, gia đình Tân thuộc diện khá nhất. Nhưng xét cho cùng thì vẫn là thế cả thôi, mức sống gia đình cán bộ trong một đời sống tập thể chung đụng cau có, ảm đạm, sờn nát và buồn ê ẩm, chẳng có gì đáng cho người ta phải nuối tiếc mà nhớ nhung hồi tưởng. Tân chỉ nhớ là hồi đó anh không có nghĩ ngợi nào khác ngoài học và học, học thật giỏi, hạnh kiểm thật đẹp để xong lớp 10 được đi học nước ngoài như anh trai như chị gái.
Sang Tiệp tròn một năm, Tân được thư của mẹ báo tin Nghĩa vào bộ đội. Nhận giấy gọi vào Bách khoa trước giấy gọi nhập ngũ vậy mà Nghĩa nhất định không nghe theo lời bàn của cha mẹ. Cái thằng ấy tính nó như thế từ bé. Tân không nhớ cụ thể chỉ nhớ là từ bé Nghĩa đã sinh nhiều rắc rối cho gia đình. Khác với các anh chị, Nghĩa thường xuyên trái ý cha. Ông rất hiền, rất trầm tính, nên có lúc nào ông bực dọc, ông nổi cáu có thể biết ngay là vì thằng Nghĩa. Như trong lá thư của mẹ gửi Tân, thì việc Nghĩa khăng khăng khước từ giấy gọi đại học đã khiến hai cha con xung khắc đến mãi tận hôm Nghĩa lên đường. Mẹ thì tất nhiên là thương xót hết mực thằng con út không có được đường đời dễ dàng êm thấm như các anh chị của nó. Bà cho Tân số hòm thư của Nghĩa và hối thúc anh viết ngay gửi sớm để em nó mừng. Bà kể là đã lên thăm Nghĩa ở trại luyện tân binh trên Bãi Nai-Hòa Bình, thấy nó vất vả, gian khổ, thương lắm. Hồi đó, đọc biết thế, nhưng bây giờ mở xem lá thư mẹ viết cho Nghĩa mới thấy thấu cái tình thương xót của mẹ đối với nó.
“Người ta bảo là ở rừng thì dù nhọc mệt thế nào cũng chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy con ạ. Hại sức lắm, mà mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con… Mẹ lại thường hay nghĩ đến cái tính liều của con. Con ơi, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải tăng xê xuống ngay. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thương mẹ thương cha con phải tự thương xót lấy mình con nhé…” “Chỗ quà này mẹ gói ra hai màu để con phân biệt. Gói bọc giấy xanh là kẹo, bánh, thuốc lá thì con mời anh em bè bạn với cấp chỉ huy. Riêng thuốc lá mẹ mong con hút ít. Nghe nói nơi các con đóng binh người dân tộc nấu rượu sắn nhiều lắm, mẹ lo. Uống rượu, hút thuốc hỏng đời con ạ. Còn trong gói đỏ là kim chỉ, đá lửa, pin, cặp ba lá, con phải cất kỹ. Các thức ấy không vặt vãnh đâu, ở Hà Nội đã khó kiếm, trong Khu Bốn với bên Lào lại càng quí báu. Nặng thêm một chút nhưng con gắng mang. Phòng khi ốm đau cảm cúng, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại. Mấy bà trong khối phố có con đi bộ đội trước con họ bày kinh nghiệm cho mẹ như thế…”
Tân không hiểu gói quà ấy có đến tay Nghĩa không, bởi rõ ràng tất cả những phong thư anh đang thấy đây mẹ anh đều đã gửi lên Lương Sơn khi mà đơn vị của Nghĩa đã rời đi. Tất cả đều bị gửi ngược về hoàn trả, nhưng mẹ vẫn nhẫn nại viết và nhẫn nại gửi cầu may tới cái hòm thư đã hoang phế đó. Mấy bức đầu mẹ anh viết ngắn như là viết vội để gửi đi gấp. Không viết gì nhiều, những thư ấy chỉ hối Nghĩa mau biên thư về cho cha mẹ hay số hòm thư mới với lại hiện đang ở đâu, sức khỏe thế nào. Nhưng theo dần năm tháng chiến tranh, thư của mẹ ngày một nhiều trang hơn và ngày một buồn bã hơn. Gửi đi bao nhiêu nhận lại bấy nhiêu, những lá thư của mẹ càng về sau càng như nhật ký, như là để gửi tới chính mình. Chữ mẹ nắn nót, dễ đọc dẫu màu mực đã phai, dòng nối dòng đều đều, miên man che giấu niềm vô vọng. Mẹ kể rằng đêm qua mẹ nhìn thấy Nghĩa nhưng chưa kịp gọi thì đã tỉnh, tỉnh dậy thì đã chẳng còn lại gì, chẳng níu giữ được gì nữa cả, trong phòng tối đen, ngoài trời còi báo động hú vang.
Khác với mẹ, cha chưa bao giờ thấy Nghĩa trong giấc ngủ, nhưng lại hay thoáng thấy con trai út của mình ngoài phố. Mẹ Tân viết thế. Một lần, buổi tối, cha đưa về nhà một anh bộ đội trạc tuổi Nghĩa mà ông vừa gặp ở ga Hàng Cỏ. Nhác thấy anh ta giữa đám đông trước cửa ga, đang ngồi trên tàu điện ông vội kêu người lái phanh gấp rồi lật đật xuống toa, lật đật chen tới chỗ anh ta, vừa chen vừa hớt hải gọi Nghĩa. Ông luôn nhầm như vậy. Nhìn xa thì anh bộ đội nào cũng giống Nghĩa, nhìn gần thì chẳng nét hao hao nào nữa. Lần ấy, mẹ dồn hết phiếu thực phẩm cả tháng soạn bữa cơm thật tươm đãi anh bộ đội. Cha giữ anh ngủ lại, sáng hôm sau tiễn anh ra bến Kim Mã, xếp hàng mua vé cho anh rồi dắt anh lên tận chỗ ngồi trên xe. Anh lính trẻ ấy bị đạn tiện mất một bàn tay và anh bị mù cả hai con mắt. Lại có lần cha thấy Nghĩa ở một bức ảnh in trên báo Quân Đội chụp các chiến sĩ thông tin đang trong phiên trực tổng đài điện thoại, mẹ cũng muốn tin như thế. Nghe nói được ở trong binh chủng thông tin thì dù sao cũng đỡ hơn là ở bộ binh. Nhưng sáng hôm sau ngắm lại tấm hình cha lại lắc đầu bảo rằng không phải. Và rồi cứ buồn thỉu đi suốt mấy tháng trời vì điều đó.
Từ ngày Nghĩa lên đường đi Bê, cha mỗi năm mỗi yếu, sức lực lặng lẽ hao mòn. Rồi vốn chỉ là một cái u nhỏ mà phát thành ung độc sưng lớn sau lưng. Bệnh viện thiếu thuốc thiếu giường, mẹ đưa cha về chữa tại gia. Mà với cảnh ngộ đau ốm cơ cực thế thì chẳng cần sơ tán về vùng quê làm gì, đành liều, hai vợ chồng già bên nhau bất chấp máy bay Mỹ. Bom nổ, nhà cửa rung chuyển, vôi trần rụng lả tả. Đường điện thành phố bị phá hỏng liên miên nhiều ngày, ban đêm tối đen, nóng nực, ngột thở. Mẹ thức quạt cho cha. Bị sự đau đớn hành hạ, cha rộc rạc tiều tụy, thuốc uống vào nôn ra hết. Nhưng đến tuần cuối cùng thì chừng như đỡ đau, gượng lên ăn được chút cơm và có thể ngồi dậy. Song suốt mấy ngày liền ông không ngủ. Ông nói muốn được thức trắng cho cho tới giờ nhắm mắt. Đêm xuống, mẹ pha cho cha một ấm trà rồi đỡ ông ra ngồi ở bên bàn kề cửa sổ. Trong bóng đêm của thành phố chiến tranh, cha chờ đón cái chết theo cái cách như vậỵ. Cha mất lúc rạng mai. Ông ngả người vào lưng ghế, nhè nhẹ nắm lấy tay mẹ và thì thầm gọi con, Nghĩa.
Tất cả những điều ấy chưa từng bao giờ mẹ viết trong thư gửi ra nước ngoài cho Tân và anh chị của anh. Sau này cũng không bao giờ kể ra lời. Vậy mà bây giờ nhận lấy chiếc rương này thì câu chuyện dài triền miên đêm này qua đêm khác, năm này qua năm khác mẹ đã kể với người con út, Tân lại phải đón lấy. “Khổ thân các con sinh ra gặp thời loạn lạc…”, lá thư ấy mẹ viết vào ngày cuối tháng Chạp năm 72. Đất trời bùng cháy, thành phố đổ vỡ, nhưng mẹ không rời Hà Nội. Hơi bom phá toang cửa kính, mẹ vẫn đêm đêm yên lặng ngồi ở chỗ ngày trước cha vẫn thường ngồi, và vẫn như hồi cha còn sống, mẹ pha một ấm trà để lên khay trên bàn giữa hai cái tách hạt mít. “Đêm qua bom rơi quá gần, thế mà cô bé Loan tầng dưới lại chạy lên đây ngồi cùng với mẹ bên cửa sổ. Loan cùng lớp với con, còn nhớ không, Nghĩa? Loan sắp tốt nghiệp Đại học Quân y và cũng sẽ vào trong ấy. Nó nói vào đấy với con. Mẹ nhớ ngày con lên đường, cả con cả Loan đều còn nhỏ dại lắm, vậy mà nay Loan nó đã lớn phổng lên, một chiến sĩ xinh đẹp và can đảm biết nhường nào… Trước kia, đối với mẹ, sinh con trai con gái đều quí. Nhưng bây giờ nhìn cảnh bom đạn mù trời, mẹ nghĩ giá hồi đó con sinh ra được mang phận con gái thì hơn. Thời loạn thân gái cũng chẳng sướng gì, nhưng dù sau nếu phận gái thì chắc không đến nỗi bây giờ con biệt âm vô tín. Mẹ biết chắc con còn sống, nhưng giờ đây con ở phương nào vậy con? Sao con lại có thể im lặng lâu như thế hở con? Không một bức thư, không một tin tức nhắn nhe nào cho mẹ, sao thế hở con, Nghĩa ơi?”.
* * *
Nghĩa ơi. Tiếng gọi ấy là lời cuối của lá thư cuối cùng mẹ của Tân viết gửi người con trai út. Không còn lá thư nào viết vào những ngày tháng sau đó nữa. Có lẽ vì sau đó là năm 73, hòa bình. Anh chị em Tân lần lượt đỗ đạt trở về.
Có những người con sáng giá như anh chị em Tân, mẹ là một bà mẹ hạnh phúc hơn bao bà mẹ khác. Nào ngờ mẹ không hề biết thế là hạnh phúc. Gương mặt mẹ suốt bao năm trời đến tận khi nhắm mắt xuôi tay luôn lẳng lặng một vẻ chờ đợi âm thầm, rụt rè và vô vọng. May thay, cũng giống như những bức thư mãi mãi ở yên dưới đáy rương bên đầu giường mẹ, nỗi đau lòng của mẹ không bao giờ thốt nên lời, người ta không biết tới. Nông nỗi thương tâm bất động của một người già có cái đáng quí là không làm ai phải để ý, bởi để ý tới thì không khỏi đau thắt trong lòng và không sao mà có thể bình tâm để yên ổn sống một cách dễ chịu cho nổi.
TÒA DINH THỰ
Vì là chuyện thật cả nên đây không phải tôi viết truyện ngắn, và “Tòa dinh thự”, đặt tên như vậy nhưng là tôi kể về dượng Nguyễn chồng của dì Út tôi, mà dượng tôi thì cố nhiên là chẳng tư dinh với biệt thự gì. Quê dượng tôi Cà Mau, ông sống trong đó, biền biệt xa tắp, một căn nhà lá giữa miệt vườn, và ông chỉ có một thân một mình. Dì tôi mất lâu rồi.
Dì tôi thực tên là Diễm và dĩ nhiên dì người Bắc nói giọng Bắc, mà không biết rằng hồi nào, chắc là từ khi dì có dượng, ở nhà mọi người chuyển qua kêu dì Út, theo thứ bậc anh chị em. Dì dượng tôi thành hôn năm 61, tôi nhớ như thế và cả còn nhớ là lễ cưới làm ở nhà Trăm Hoa dốc Bà Triệu. Nhưng nhớ là nhớ vậy thôi. Người dì, và nói chung cái thuở xa vời trước chiến tranh ấy đã rất mờ trong ký ức tôi.
Tuổi trẻ của dì tôi chỉ để lại mấy bức ảnh trong cuốn an bom gia đình. Dì tôi áo dài, vành nón nghiêng nghiêng, một cô gái Hà Thành là lượt, điều điệu, dạo xe đạp trên khúc đường vắng bên Bờ Hồ. Và dì tôi ngày tốt nghiệp lẫn trong đám đông bạn học đứng dàn hàng chụp ảnh trước cổng trường Y. Ảnh cưới của dì thì chỉ còn duy nhất một bức. Cô dâu bận áo cánh, tóc tết đuôi sam, bồng bó lay-ơn, mủm mỉm cười bẽn lẽn. Chú rể áo đại cán, hàm đại úy, vóc dáng cứng cỏi, gầy và cao, tóc húi thật ngắn thật gọn, quân dung tươi tỉnh nhưng mà nghiêm trang, không cười. Dì dượng tôi song song bên nhau trước tấm phông có dán hình những bông hoa và những ngôi sao cùng câu khẩu hiệu của hôn lễ thời đó: Vui duyên mới không quên… Một bức ảnh cưới giản đơn, lành hiền, hơi tức cười, mà không hiểu sao, có lẽ do bụi thời gian, cứ khi nhìn thấy lại thấy se lòng.
Hồi đó, sau ngày cưới, dì tôi vẫn sống với ông bà ngoại tôi ở Hàng Khay, dượng vẫn đơn vị đóng tận chân Ba Vì. Mãi dì mới xin ngược được biên chế lên Sơn Tây lại vừa khi dượng phải chuyển binh vào Khu Bốn. Là mẹ kể thế chứ tôi thì chẳng biết chẳng nhớ. Lúc bấy còn nhỏ không mấy để tâm họ hàng, với lại mỗi nhà mỗi phố ít gặp được dì dượng. Nhất là dượng. Chỉ những dịp cúng tất niên hay giỗ chạp, toàn gia họp mặt mới thấy có dượng, mà cũng lần có lần không.
Bây giờ nhắc lại chuyện xưa, mẹ tôi và các cậu các bác đều những điều tốt đẹp nhất kể về dượng Nguyễn. Thế nhưng, bằng vào những gì bản thân biết về dượng, tôi đồ rằng hồi đó giữa ông với gia đình bên vợ tình cảm chắc chẳng phải là mật thiết lắm lắm. Rất quí hóa rất nể vì, song hẳn là mọi người cũng ngài ngại dượng, không chừng cả sờ sợ nữa, tôi nghĩ thế. Bởi vì cho đến trước khi có dượng về làm rể, gia đình họ mạc bên mẹ tôi dì tôi không ai nhà binh, tất thảy đều thâm căn cố hữu dân trí thức, thành phần và lập trường tiểu tư sản. Dượng Nguyễn trái lại. Luôn luôn ông tề chỉnh quân phục, bốn sao một vạch ve áo, và mỗi bước đi là lộp cộp giày đinh. Cương nghị, ít nói, mà đã nói thì từng lời một đều làm rắn thêm lên vẻ cương nghị tính lập trường.
Lần chót tôi gặp dượng ở Hà Nội là vào dịp liên hoan mừng anh Vị con trai bác cả được sang Liên Xô. Hồi bấy giờ xuất ngoại du học vừa là vinh dự lớn lao vừa sự may mắn cực kỳ. Cả nhà sướng vui họp mặt tiễn anh. Dượng Nguyễn trên đường công tác cũng tranh thủ ghé qua. Nhưng, hôm đó, đã xong xuôi mấy lời chúc mừng, ông dượng tôi trái với lệ thường ít nói lại đã tiếp tục nói nữa và dường như là ông đi lạc đề. Tự dưng ông chuyển qua chuyện thời cuộc. Giữa cuộc vui như vậy mà ông đưa ra tin dữ, dẫu là dự báo nhưng đầy quả quyết, rằng sắp tới đây Đế quốc Mỹ sẽ tổng lực đổ quân vào nước mình, chiến tranh ác liệt qui mô lớn sẽ bùng nổ trên toàn khắp hai miền đất nước. Ông lại còn nói thế này, Tổ Quốc lâm nguy mà bản thân vẫn ở tuyến sau tự thấy hổ thẹn vô cùng. Rõ là ông chẳng khéo gì cả. Đành rằng đi Liên Xô học cũng là đi chiến đấu vệ quốc, nhưng ông phát biểu vậy thì toàn gia, nhất là anh Vị tôi và bác cả tôi vẫn tránh sao khỏi mếch lòng.
Bữa đó dượng Nguyễn chỉ chung vui được một lát. Tạm biệt, bắt tay suốt lượt người lớn, trước khi trở ra chiếc xe quân sự đang đợi dưới đường, dượng có lời chào chung tất cả cánh trẻ trong họ tộc: “Hẹn gặp mấy cháu trên tuyến đầu chống Mỹ!”. Nghe sững cả người.
Dượng Nguyễn đi, xa biệt từ đấy. Năm đấy những người được chọn đi Bê vẫn đang ra đi trong bí mật. Khác với khi dì Út tôi đi, càng khác với lượt tôi đi. Dì tôi lên đường năm 68, theo ngạch dân chính. Em tôi, thằng Thới Bình mới sáu tuổi đầu, dì để nó lại cậy nhờ ông bà ngoại. Từ biệt gia đình, dì khóc, và không nói là ra đi theo tiếng gọi non sông mà bảo là vào Nam với chồng. Dì đi rồi, hai năm sau tới tôi. Ban đầu là tân binh một đơn vị đi Bê ngắn lẽ ra tôi vào Đường 9, nhưng tới Cự Nẫm lại được điều sang đoàn khác, vượt Trường Sơn đi Bê dài, vào miền Đông. Dường như là ông trời đã cố ý sắp đặt một sự kỳ ngộ.
Bữa đó đang xó rừng hậu cứ nằm bẹp chịu trận một cơn sốt, tôi được tiểu đoàn trưởng Bân đội mưa rẽ vào thăm tận võng. “Cậu là cháu ông Tư Minh mà sao không báo cáo hả!”, chưa gì, anh nạt luôn. Tôi đớ ra. Trung đoàn trưởng Tư Minh dù chưa thấy mặt nhưng lính nào mà chẳng biết danh, song thằng tôi cháu chắt gì ông? Mà anh Bân thì vội. Anh dúi tôi một cái bịch bọc lá chuối. “Thư bên trong! Thủ trưởng gửi, cậu viết trả lời rồi chuyển tớ, mai kia lên E bộ họp tớ trao tận tay ông ấy cho!”, anh nói có vậy, rồi đi. Trong bịch, kèm lạng thuốc lào là một tờ giấy sổ tay gấp tư. “Dượng Ba đây, chào mừng cháu…”. Lử khử sốt rét nên một lúc tôi mới hiểu dượng Ba đây tức là dượng Nguyễn đây, bởi tên của dượng theo cách Nam Bộ là Ba Nguyễn, và cán bộ trung cao cấp khi vào Bê dùng bí danh, Ba Nguyễn thành Tư Minh. Có nghĩa rằng, thằng mình đây là cháu yêu ông trung đoàn trưởng!
Lá thư cực ngắn. Dòng đầu, dượng chào mừng tôi đã có mặt trên tuyến đầu chống Mỹ. Tiếp theo, ông chúc tôi nỗ lực phấn đấu, noi gương đồng chí đồng đội chiến đấu kiên cường dũng cảm xứng đáng với truyền thống của trung đoàn. Rồi ông chào quyết thắng, không hề một chữ hứa hẹn sự dượng cháu gặp gỡ. Nhưng dù gì thì tôi vẫn rất mừng. Lập tức viết trả lời. Vắn tắt hỏi thăm sức khỏe dượng và kể sơ tin tức gia đình, rồi, như thể đôi dòng tái bút, tôi rón rén kêu khổ với dượng. Đại khái tôi than rằng bị dập thương, tai với mũi cứ máu chảy ri rỉ, và sốt cách nhật mãi chẳng dứt, chóng mặt mắt mờ, vân vân này nọ. Viết xong, dán kín, tôi nhờ liên lạc chuyển gấp lên anh Bân lá thư ấy. Và lẳng lặng tôi chờ. Nhưng, mùa mưa qua đi, mùa khô tới, rồi lại đằng đẵng mùa mưa. Ấy là thời sau Mậu Thân. Trung đoàn phải tản thưa ra từng phân đội nhỏ chiến đấu trên địa bàn trải rộng, giãn cách giữa các đơn vị rất xa. Anh Bân thì sau lần đó gặp ở hậu cứ không bao giờ tôi còn gặp lại, anh hy sinh đầu mùa khô năm 71. Lá thư tôi nhờ liên lạc chuyển lên anh liệu anh đã kịp trao cho dượng Nguyễn chưa, tôi không biết. Mà tôi cũng đã dứt điểm quên đi lá thư ấy.
Mãi cận ngày mở màn chiến dịch 72 tôi mới lại được thư của dượng. Không phải thư tay mà thư theo đường quân bưu gửi tới hòm thư đại đội. Bấy giờ đồng chí Tư Minh đã là Sư đoàn phó. Thư của ông vẫn vậy, kiệm chữ tối đa, kín bưng tình riêng. Cũng một mảnh giấy gấp tư kèm trong gói bưu kiện. Trong đó ngoài lạng thuốc lào còn có hai cuốn sách: Sống Như Anh và Đất Rừng Phương Nam. Tôi viết trả lời. Vì thư dượng khô khan, như trên huấn thị lính, nên thư tôi cũng thế, như lính báo cáo trên, song thực tình là tôi hồ hởi phấn khởi. Vì rằng dượng còn nhớ đến tôi, chí ít vẫn biết tôi đang là lính ở đại đội nào trong Sư đoàn.
Kết thúc chiến dịch, tôi lại nhận tiếp được bức thư nữa từ Sư bộ. Không hẳn là thư, chỉ là một lời dặn ghi trên vỏ cây thuốc lá Quân tiếp vụ: cháu xẻ đều chia anh em cùng hút mừng thắng lợi. Kể như là từ đó giữa tôi và dượng Nguyễn đã thực sự có mối liên hệ. Nhưng chỉ thế thôi, những bức thư ngắn ngủi đôi dòng. Trong suốt chừng bấy năm trời lửa đạn sống nay chết mai, cùng một Sư đoàn, mà hai dượng cháu chỉ thế.
Là tư lệnh phó, rồi sau nữa là tư lệnh, không một đơn vị nào trong Sư mà dượng tôi chưa trực tiếp xuống, kiểm tra đôn đốc và thăm hỏi lính tráng. Ngoại trừ đại đội tôi. Hoặc nói cho đúng thì cũng đã vài lần ông xuống thăm chúng tôi nhưng mà lần nào cũng nhằm khi thằng cháu ông đang nhiệm vụ đột xuất không có mặt ở đơn vị. Buồn, song tôi không oán. Tôi nhất trí với thái độ xa cách ấy của dượng. Là chỉ huy Sư đoàn mà dượng lại tình riêng để lộ ra, thiên vị, nâng đỡ, bao bọc tôi, đứa cháu của ông, thì ông còn chỉ huy ai, và hơn nữa, còn là người cán bộ cách mạng, còn là người cộng sản cái nỗi gì? Thời nay ngẫm lại tự thấy kỳ khôi, nhưng thời đó, ấy là đạo lý chiến trường đương nhiên trong nhận thức của mọi người, đâu riêng gì tôi.
Phải tới khi thái bình đã được hơn ba tháng, dượng Nguyễn mới để tôi được gặp. Thời gian đó tôi đang ở trại an dưỡng của Quân đoàn đợi ngày xuất ngũ ra Bắc.
Dượng cho xe đến rước. Một chiếc Zeep với tài xế là hẳn một ông thiếu úy. Tôi xin phép bác sĩ rồi rủ Tân và Nghị hai tay cùng buồng lên xe đi thăm thủ trưởng Tư Minh, dượng tao. Dượng tôi khi đấy đương chức Tư lệnh Ủy ban Quân quản một thành phố lớn, cách trại an dưỡng chừng ba chục cây số.
Gió lộng, nắng vàng, trời trong, quốc lộ rộng thênh. Tay thiếu úy cầm lái rất cẩn thận và nói năng rất lễ độ, hết lời ca ngợi ông dượng của tôi. Trong trận mạc thao lược thế nào thì thủ trưởng thế nấy đảm lược trong sự an dân. Dưới sự chỉ đạo sáng suốt nghiêm minh, quân lệnh như sơn của thủ trưởng, thành phố mới qua một quí đã mọi mặt khuôn phép. Nhưng quyền uy lớn mà chí công vô tư, thủ trưởng mãi mới chịu để cấp dưới bố trí chỗ ở thích hợp với chức vụ và thuận lợi cho hợp lý hóa gia đình. Vợ thủ trưởng bao năm gian khổ rừng sâu hậu cứ mà tận hôm qua thủ trưởng mới cho xe đón về. Hôm nay vợ thủ trưởng làm cơm mừng đoàn tụ, anh ta bảo vậy. “Và mừng nhà mới”, anh ta nói thêm.
Xe qua cầu, vào thành phố, nhưng lướt khỏi vùng trung tâm đông đúc, chạy xa ra mạn ngoài tới một ngả đường râm mát, êm ru, vắng lặng. Dọc hai bên phố đều đều những ngôi nhà không lớn nhưng rất đẹp, cách quãng nhau qua những khu vườn rộng và rợp bóng cây. Xe dừng lại trước cổng của một trong những ngôi nhà ấy. Một tòa biệt thự đặc sệt kiểu dáng thời Tây thuộc. “Ái chà!” - Nghị, ngồi ghế sau nhọn môi huýt gió. “Cứ y như là đường Hoàng Diệu!”.
Lính gác đẩy rộng cánh cổng sắt. Chiếc xe lăn bánh rào rạo qua một mặt sân rộng trải dày lớp sỏi màu trắng ngà, vòng qua bồn hoa, đỗ lại trước những bậc tam cấp đá hoa cương dẫn lên thềm cao của tiền sảnh tòa nhà. Ba thằng tôi ra khỏi xe, dì tôi từ thềm cao bước xuống. Biết là dì mà tôi vẫn sững đi một thoáng. Dì tôi chưa già, thế nhưng đã là người già rồi, một bà má chiến khu, gầy tong teo, xanh mét, tóc hoa râm thưa rụng, khăn rằn, bộ đồ bà ba, dép lốp. Bàn tay dì khô khỏng, sần chai. Dì nắm tay tôi, đưa tôi và các bạn tôi lên nhà. Bàn trà ở ngoài hiên, dưới dàn ti gôn, trông ra xa xa qua vạt rừng dừa thấy mặt sông lấp lánh nắng.
Từ dạo đó Mậu Thân dì đi Bê, tới 75 này, đã tám năm rồi nhỉ, hay là đã hai chục năm, ba chục năm, cả đời người? Dì cháu rưng rưng hàn huyên. Tôi thương dì tôi quá đi. Dì tôi tình nguyện vào Nam với chồng, song chiến trường muôn ngả đâu có chiều ai tình riêng. Dượng tôi Mặt trận B2 mà dì tôi dọc Trường Sơn lại phải rẽ ngang vào Bình Thuận. Trời ơi, núi rừng Khu Sáu! Nông nỗi thế nào mà dì nom ốm thế già thế, tôi lại còn phải ngạc nhiên tự hỏi nữa ư? Nếu có đáng ngạc nhiên thì chỉ cái sự rằng tây Bình Thuận với Đông Nam bộ xa xôi mấy nỗi tại sao dượng Nguyễn binh quyền như thế lại không kéo được vợ về công tác ở gần mình?
Bởi vì rằng ông dượng của tôi cả trong thư từ gửi vợ cũng nhất mực kiên định đặt tổ ấm gia đình và hạnh phúc riêng tư vào trong miền tương lai, bao giờ kháng chiến thành công, bao giờ hòa bình thống nhất. Mà với dì Út tôi, một cán bộ dân y quanh năm suốt tháng chìm sâu tút hút trong gian lao cơ cực không lời tả xiết của vùng hậu cứ Khu 6 thì cái bao giờ dượng Nguyễn hẹn ước ấy nó mờ mịt mút mùa chẳng biết đến bao giờ.
“Thì chính là bây giờ đấy ạ”, Nghị xen ngang vào dòng tâm tình của dì cháu tôi. “Hôm qua góc rừng khe suối phát rẫy đi gùi, hôm nay đình huỳnh dinh thự địa ốc thế này, thật bõ!”, hắn nói và cười. “Vậy nên mới có câu rằng khổ tận cam lai”.
Đến bây giờ lâu quá rồi không còn nhớ rõ ràng chi tiết nhưng đại khái tòa dinh thự đó của dì dượng tôi ngày ấy nó thế nào tôi vẫn hình dung được. Sang trọng, tất nhiên, khỏi bàn, thế nhưng thật ra, so với nơi ăn chốn ở của các đại gia thời nay thì, nói theo ngôn từ hiện đại, nó chưa là cái đinh gì. Ngay quan chức hạng xoàng xoàng như ông bạn Nghị cùng trại an dưỡng với tôi ngày đấy mà bây giờ cơ ngơi cũng bằng mấy. Lấy Nghị ra so là vì vừa mới bữa trước đi dự tiệc tân gia ngôi nhà của hắn bên hồ Trúc Bạch tôi đã được hai vợ chồng mời dạo thăm chiêm ngưỡng suốt lượt các tầng lầu. Khi đấy, nghe vợ Nghị kỹ lưỡng giới thiệu từng căn phòng một, tôi, và hẳn là cả Nghị nữa, không khỏi nhớ tới cái buổi trưa đó hồi xưa năm nảo năm nao ở nhà dì Út. Trưa đó dì cũng đã đưa chúng tôi dạo thăm ngôi nhà, và cũng như thế, dì lần lượt mở từng cánh cửa để ba ông bộ đội mới ở rừng ra ngắm nghía nội thất. Nhớ tới, ngẫm lại hôm ấy mà thấy thương dì, thấy ngậm ngùi, thấy đắng, thấy chát…
Hôm ấy, quá ngọ, đã đói mềm, mới nghe điện thoại reo. Tay cần vụ lên báo cáo là thủ trưởng sắp về tới. Ba đứa tôi theo dì đi vội ra đón. Đoàn xe của dượng đang chầm chậm chạy đến trước cổng. Hai zeep lùn gắn đại liên hộ tống đằng trước đằng sau một chiếc u - oát. Vượt lên trước mọi người, tôi bước nhanh tới, hồi hộp xúc động. Dượng Nguyễn chắc cũng đã thấy tôi. Chiếc u-oát dừng bánh và cửa sau mở ra.
Đúng lúc ấy thì xảy sự.
Từ một chiếc xích lô đang đậu nép nơi lề đường xế trước cổng biệt thự đột ngột một người nào đó bước lao ra, đi nhào tới, thẳng xấn đến chỗ chiếc xe của dượng Nguyễn. Hết hồn. Nhưng, tôi định thần ngay. Đấy chỉ là một bà, bà già, áo dài thâm, nón Huế, và không hề hung khí gì trên tay mà chỉ là mỗi một bên tay bà dắt lôi theo một đứa bé. Chẳng có gì đáng sợ, thế nhưng khác tôi, cánh vệ binh trên hai chiếc zeep với anh lính gác cổng và ông cần vụ vẫn đã phản ứng rất mau lẹ, hành động rất mạnh mẽ, chặn đứng ba bà cháu kia lại, bảo vệ thủ trưởng. Chỉ không giương súng lên thôi còn thì họ làm như thể đang xung trận. Hai đứa bé khóc váng. Một đứa ngã bệt xuống. Bà già la lên kêu trời.
Dượng Nguyễn xô mạnh cửa xe, bước xuống. Vẻ mặt giận dữ biến sắc, nhìn chạm vào tôi mà không thấy tôi, ánh mắt như nảy lửa của ông đẩy tôi lùi ra. Bước tới một bước, ông lên tiếng, chỉ như là hỏi thôi chứ không nạt, nhưng mà tột cùng thịnh nộ: “Mấy đồng chí! Làm cái chuyện gì vậy?”. Đám cận vệ của ông vồi vội nem nép tan dạt ra.
Dượng Nguyễn đi đến đỡ đứa bé ngã ngồi dưới đất lên. Ông chào bà già, ông nói lời tạ lỗi thay cho đám thuộc cấp và ông hỏi han sự tình. Bà già nói giọng Quảng, lại nói rất nhanh, chao chát, nên không ai hiểu. Dượng Nguyễn phải an ủi trấn tĩnh một hồi bà mới kể lể được ngọn ngành hơn. Bà nói con trai bà tả hữu cho ông Thiệu nên phải theo ông Thiệu bỏ của nả mà chạy, nhưng ngôi nhà đây “của cả tui chớ phải đâu của riêng hắn mà mấy ông đoạt”, bà nói. Loạn lạc cấp kỳ, phải tấp về Sài Gòn di tản chiến thuật, ba tháng yên yên rồi thì về lại nhà, nào dè nhà mình mà lính lệ ngáng cửa biểu đây nhà quan. (Lính lệ, tôi nhớ đích xác như thế, bà già đó gọi đám thuộc cấp của dượng tôi như vậy). Bà nói cả tuần bữa mô cũng chực cửa xin gặp ngài đặng tấu trình sự thể, ngặt mấy thầy quyền (bà trỏ đám lính) nhất nhất rằng ngài mắc công chuyện không có trong dinh, rồi xua, rồi lại còn nói đi tìm thằng Mỹ thằng Thiệu mà đòi. Đất đai điền thổ thừa kế từ đời ông đời cha cộng với bao nhiêu mồ hôi nước mắt đời mình, bà nói, nên tui cháy gan đứt ruột. Bữa nay dắt hai đứa cháu tới đây quyết lòng rình phục đợi ngài riết cùng, đặng hỏi cho được một lời rằng: nước đâu đã mất mà sao nhà tui tan?
Bà già gan thấu trời và lý sự mới liều mạng làm sao, người ta có thể nghĩ vậy, song không phải vậy. Bởi dứt câu chất vấn đó, bà òa khóc. Và, thật là không thể nào tin nổi vào mắt mình, tôi thấy bà chắp tay lạy. Ai nấy sững sờ, dượng Nguyễn chắc cũng thế, song ông vẫn kịp đỡ lấy bà già vừa trước lúc bà sụp hẳn xuống quì. Lại phải một hồi dượng Nguyễn dân vận, bà già mới hồi tâm. Bà chầm chậm theo dượng đi qua cổng, qua sân, vào nhà. Dì Út dắt hai đứa bé vào theo. Tôi chẳng thấy đói nữa, Tân và Nghị cũng vậy. Ba đứa lại ngồi trà lá ngoài hiên dưới dàn ti gôn, chờ đợi.
Chừng nửa giờ sau, dượng tôi dì tôi từ trong nhà ra, cõng theo quân tư trang. Dượng tôi ba lô cóc, dì tôi bồng vải dù. Lẳng lặng, chúng tôi đi theo hai người xuống sân, vào chiếc u-oát đang đợi dưới thềm. Tay thiếu úy kính cẩn mở cửa xe rước chúng tôi lên.
“Tôi nhắc lại, nội hôm nay, ngày mai là cùng, các đồng chí phải bàn giao lại nhà cho gia chủ, - dượng Nguyễn bảo - phải bảo đảm đầy đủ, nguyên vẹn, tuyệt đối nghiêm túc, không có được sơ xuất gì thêm nữa để làm ảnh hưởng thêm nữa tới uy tín của chính quyền, rõ chưa”.
Ra lệnh, nhưng mà ông không dằn giọng, chỉ là một giọng nói không vui, một giọng buồn bực. Ngài cần vụ của ông lập tức ưỡn ngực, dập gót, dõng dạc: “Báo cáo, rõ!”.
Chiếc u-oát chạy dọc qua thành phố, đưa chúng tôi tới cư xá sĩ quan nằm bên trong tiểu khu quân sự cũ của tỉnh. Dượng Nguyễn khi về nhậm chức Quân quản đã ở trong cư xá đó. Ông vừa chuyển sang tiêu chuẩn biệt thự được có một tuần. Dì tôi thì chỉ mới hôm trước hôm sau. Bây giờ dượng lại đưa dì trở về chỗ ở ban đầu của ông. Một khoang ba phòng, thông nhau(thời nay gọi là căn hộ khép kín). “Tươm ra phết!”, Tân bình luận. “Ăn hết nhiều ở hết mấy”.
Mặc dù đã dự tính sẽ ở lại qua đêm dạo chơi phố xá mà rồi sau bữa cơm chiều do dì dượng chiêu đãi ở nhà ăn tập thể của cơ quan quân quản, ba thằng chúng tôi xin phép trở về trại. Tôi hứa là sẽ còn đến thăm dì dượng ít nhất một lần nữa trước khi ra Bắc.
Không như lúc đi, lúc về tôi chẳng buồn nhìn cảnh vật bên đường, chẳng thiết trò chuyện. Tân và Nghị thì cả hai thằng suốt dọc đường ngủ gật trên xe. Nhưng đến khuya, đã lên giường, tự dưng Nghị khới chuyện khiến ba thằng thiếu chút nữa thì to tiếng. “Này, theo hai thằng chúng mày thì bà già ấy liệu có nhận lại được ngôi nhà không?”, hắn hỏi thế.
“Nếu đúng là của bà ấy”.
“Tất nhiên là của bà ấy, điên hay sao mà nhận xằng với cách mạng, nhưng dù gì thì con bà ấy cũng đồng đảng cỡ bự của Thiệu Kỳ, cho nên tao chẳng tin là người ta sẽ trả nhà cho bà ấy”.
Tôi ngồi nhỏm dậy nói quát sang giường Nghị: “Mày nói vậy là ý gì, mày không rõ ràng tận mắt thấy dượng tao dì tao đã trả lại ngôi nhà đó rồi à?” “Nghị nó có bảo thủ trưởng Minh không trả đâu mà mày cáu,- Tân lên tiếng - nó chỉ cho rằng tuy ông ấy từ chối tiêu chuẩn, nhưng nhà đã bị tịch thu sung công rồi, khó lòng bà già ấy được nhận lại, mà phần chắc là sẽ một vị nào đó nhà ta thừa cơ chớp lấy… mà cả tao cũng nghĩ vậy đấy”.
“Chúng mày chỉ nghĩ bố láo! - Tôi nổi xung - Không nghe dượng tao ra lệnh à, bàn giao nhà cho bà cụ, quân lệnh như sơn, đứa nào dám nhu nhơ” “Hòa bình rồi, chuyển thời rồi, như sơn cái gì nữa, thuộc hạ nó dạ vâng trước mặt ông ấy thế thôi, anh ngố ạ! Theo tao thì dượng mày cứng cỏi như vậy chỉ khổ dì mày và không khéo mà mang tiếng hữu khuynh, chứ dân tình chả chắc được nhờ - Nghị bảo - Mà thôi, nói nữa thì mày lại cáu.
Tốt nhất hôm nào trở lại đó, mày ghé qua cái biệt thự ấy tự mình mục sở thị xem mệnh lệnh của dượng mày được chấp hành kiểu gì. Tao cược một ăn mười là tao đoán đúng, mày dám cược không?” “Cược gì!”, tôi hét. Nghị không đáp, chỉ cười.
Nhưng tôi đã lên đường ra Bắc mà không trở lại thăm dì dượng. Cư xử như thế thật chẳng ra sao, không khác nào là tôi giận dỗi trách móc gì đó dì dượng. Mà tôi cũng tự lấy làm lạ. Đành rằng nóng lòng xuất ngũ hồi hương, nhưng sao phải vồi vội như là đánh bài chuồn thế nhỉ? Hay là đúng vậy, mình đã lẳng lặng né ra khỏi lời cá cược với thằng Tân thằng Nghị?
Song cũng chỉ là lăn tăn một chút thế thôi, bởi còn đâu thì giờ với tâm trạng nữa mà nghĩ ngợi. Tàu ra tới Hà Nội, chưa kịp bước xuống sân ga là tôi, cũng như tất tật mọi người, đã ngay lập tức chìm lút đời mình vào trong thời hậu chiến bao cấp. Và rồi triền miên từ đó, trầy trật vật vã trong cuộc sinh nhai thân ai nấy lo tình cảm xếp xó của suốt cái thời buổi khốn khó ấy, tôi hầu như chẳng thư từ với dì dượng. Đất nước thống nhất nhưng bị miếng cơm manh áo ghì níu nên cả mười mấy năm trời đã chẳng thể làm nổi lấy một chuyến Nam tiến vào thăm trong đó. Gia đình dì dượng thế nào tôi chỉ biết sơ qua láng máng gọi là…
Dượng Nguyễn tôi sau thời Quân quản lại trở về với trận mạc. Dự hết chiến dịch này tới chiến dịch khác của cuộc binh đao kéo dài hơn một thập kỷ ở miền Tây Nam, dượng chỉ năm chừng mười họa mới một dịp về qua tổ ấm gia đình. Vẫn là cái căn hộ khép kín hồi nào ấy trong cư xá sĩ quan. Thới Bình, đứa con trai dì dượng gửi lại Hà Nội hồi đi Bê, sau giải phóng vào ở với mẹ. Nhưng chỉ được vài năm. Học xong phổ thông, Bình thi vào trường sĩ quan. Vậy là dì tôi lại quanh năm suốt tháng vò võ đợi chồng ngóng con. Sức khỏe thì ngày một xuống. Là bác sĩ, công tác ở bệnh viện tỉnh, nhưng dì tôi đau yếu từng ngày.
Việc thằng Bình đi học trường sĩ quan, họ hàng nhà tôi ai nấy đều hoan nghênh. Con theo nghiệp bố, mà ông bố thì làm lớn, được sự che chở và nâng đỡ của bố, ông con tất nhiên là sẽ tương lai rộng mở, sẽ tiến bộ vùn vụt. Nhưng mà tôi, nghiệm từ bản thân mình, tôi biết thừa là sẽ chẳng có chuyện đó đâu. Và thực tình tôi không hiểu nổi tại sao dì tôi không cố mà cản chí thằng Bình. Dì có mỗi một mình nó thôi mà, và chắc chắn là dì cũng như tôi, không hão huyền hy vọng gì cái chuyện dượng Nguyễn sẽ điều động con trai về trực tiếp dưới quyền. Tôi thấy thương và lo cho dì, tôi thấy sờ sợ.
Quả nhiên. Dượng Nguyễn tôi, đại tá, cầm quân tiễu trừ bọn Khơ me Đỏ ở tận đẩu đâu tít tắp đất trời phía Tây, còn Thới Bình em tôi, tốt nghiệp trường sĩ quan, quân hàm chuẩn úy, về thăm mẹ, ở được với mẹ một tuần, rồi xuống tàu ra chốt ngoài Biển Đông.
Năm 88, Bình hy sinh ở Gạc Ma. Dì tôi mất cùng trong năm ấy.
Hình như hồi đấy do bận một cái chuyện gì đó rất thiết thân cấp bách nên tôi đã không vào đưa tang dì. Giỗ đầu cũng không vào. Phải khá lâu sau ngày đoạn tang dì, tôi mới có dịp cất công vượt đường xa vào Nam viếng mộ. Nhưng chuyến đi không dẫn tôi trở lại cái thành phố tỉnh lỵ năm xưa tôi đã cùng Tân và Nghị tới thăm dì dượng, mà đưa tôi về xa tắp dưới Cà Mau. Từ thị xã, xuồng máy chở tôi qua bao nhiêu là kênh rạch nhằng nhịt, nửa ngày mới áp được tới bên hông nhà dượng Nguyễn.
Phần mộ dì tôi sau cải táng được đưa về quê chồng. Dì yên nghỉ trong khu vườn sau nhà, nơi chôn nhau cắt rốn của dượng. Dượng tôi thì đã rời quân ngũ. Đưa vợ về quê rồi ông cũng về vườn luôn, ẩn dật tại quê nhà, một mình ngôi nhà nhỏ cất bên bờ rạch. Sau nhà một lối đi rải xỉ ngang qua vườn cây ăn trái dẫn tới mộ dì tôi.
Ông đại tá về hưu sống cuộc đời cực độ đơn sơ của một người lính già. Cửa nhà trống trải, hầu như không đồ đạc gì. Đồ điện chỉ cái quạt trần và mấy cái bóng đèn. Không tủ lạnh, không ti vi. Thời nay mà ông vẫn nghe tin bằng chiếc National bán dẫn chạy pin trung của thuở ngày xửa ngày xưa chiến trường. Giường có đó, nhưng ông mắc võng ngủ, và dùng bọc võng ngăn muỗi mòng chứ không nằm mùng. Ngủ giường ông đau lưng không chợp mắt được. Chăn đệm màn gối khiến ông mất ngủ. Bàn thờ ở gian giữa cũng rất đơn sơ, bằng tre. Trên bàn thờ có hình vẽ truyền thần thân phụ thân mẫu và người anh trai, người chị gái của ông hy sinh trong kháng Pháp kháng Mỹ. Chân dung của Thới Bình thì ảnh màu, quân phục sĩ quan hải quân. Và một bức hình đen trắng của dì Út tôi. Tuy nhiên, ảnh để bàn thờ mà lại không phải ảnh chân dung chụp riêng dì. Trong tấm hình ấy dì tôi cùng dượng tôi sóng đôi đứng chụp ảnh phía trước một ngôi nhà ba tầng. Và, tôi nhận ra ngay nó, cái tòa biệt thự ấy…
Chắc hẳn, ngày đó, khi dì vừa từ hậu cứ Bình Thuận ra thành phố gặp dượng, một bức ảnh đã được chụp để kỷ niệm phút giây vợ chồng đoàn tụ. Rồi thì kể từ đó dì tôi không có thêm một dịp nào vui nữa để mà chụp ảnh. Rốt cuộc, đấy là bức hình duy nhất của dì mà dượng Nguyễn có, để đưa lên bàn thờ.
Hai ngày dượng cháu bên nhau, phần nhiều là tôi nói, tôi kể. Dượng Nguyễn bình thản, lặng lẽ. Cố nhiên giờ đây dượng là một ông già, đã rất già, nhưng tôi thấy ông chẳng mấy khác so với viên đại úy bộ đội miền Nam tập kết hồi nào, càng không khác ông tư lệnh Quân quản ngày đầu giải phóng. Thành ra chuyện trò thật khó, tôi phải rất gắng tìm ý tìm lời để nói, để bầu không khí hai ngày dượng cháu bên nhau không bị hoàn toàn lặng như tờ. Quá khứ chiến trường thì đã lùi quá xa, vả lại moi ra nhắc hoài rồi cũng cạn. Chuyện thời nay thì dượng cháu lạc xa hẳn nhau, mỗi người mỗi phách…
Hôm rồi tôi tới dự tân gia nhà Nghị, sau tiệc, Nghị giữ tôi lại, hai thằng nhâm nhi với nhau thêm chầu nữa. Bàn rượu kê ngoài ban công tầng ba, trông xuống hồ Trúc Bạch. Chuyện này chuyện kia một hồi, rồi Nghị chuyển qua hỏi thăm về dì tôi và dượng tôi, thủ trưởng Tư Minh. Tôi kể. Sơ qua thôi. Em họ tôi hy sinh ngoài Trường Sa, dì tôi qua đời, dượng tôi về hưu sống một mình ở Cà Mau v.v…
Nghị bảo: “Ông không trở lại đấy, nhưng tôi thì đã nhiều lần trở lại, do công việc thôi chứ không phải vì nhớ vụ cá cược muốn thắng thua với ông đâu nhé, và tôi cũng đã vài dịp vào lại ngôi biệt thự ấy, nom nó khác nhiều, đã tân trang nhiều, màu mè, lố lăng, kệch cỡm, kinh khủng lắm, nhưng vẫn chính là nó.” “Cơ mà dù đã biến thái, xấu xí, dị mọ, nhưng cái biệt thự ấy bây giờ mà ông muốn mua, nếu dùng tiền ta thì ông phải đánh hẳn một GMC để chở mới đặng, nếu tiền địch thì phải một va ly xách trĩu tay”.
“Nhưng, vụ cá cược thì sao?”, tôi hỏi. “Ông đúng hay tôi đúng?”
Nghị không trả lời. Im lặng hồi lâu, hắn nói: “Ông than phiền thủ trưởng Tư Minh là người thủ cựu thái quá, nhưng chúng mình mà không thái quá à? Chúng mình thái quá kiểu ngược lại với dượng của ông. Lắm khi tự ngẫm về bản thân mình, tôi có cảm giác thằng tôi bây giờ với thằng tôi hồi trước 75 có thể đấu tố nhau, đấu tranh giai cấp với nhau, nã súng vào đầu nhau được. Ông mà không thế sao?”
Tôi không nói gì, tôi cười, nhưng tôi ớn lạnh với những lời của Nghị. Hắn khoát tay ra ý thâu tóm tổng quát cơ ngơi nhà cửa mới xây dựng xong của vợ chồng hắn, rồi nói:
“Nhìn lối sống của tôi, của ông, của nói chung thiên hạ bây giờ, khó tin nổi rằng đất nước này từng có một thời mà những người như thủ trưởng Tư Minh là cả ngàn vạn con người”…
ĐÊM CUỐI CÙNG NGÀY ĐẦU TIÊN
Vào ra Sài Gòn đã bao lần. Người thân, bạn bè, đồng nghiệp non nửa sống trong đây. Nhưng, thú thực là chưa khi nào tôi có thể hòa mình, có thể nhập thân được vào với không gian, với nhịp sống đương thời hàng ngày của Thành phố vĩ đại này. Không phải chỉ vì đã không sinh ra lớn lên ở đây, mà còn vì chưa bao giờ tầm nhìn của tôi vượt ra được khỏi những ký ức, những ấn tượng về Sài Gòn trong hai ngày 29 và 30 tháng Tư của năm 1975.
Hầu như lần nào vào Nam tôi cũng tìm về quận lỵ Củ Chi, điểm khởi đầu cuộc tấn công vào nội đô của Trung đoàn. Tất nhiên là ngày đó bây giờ khác nào kiếp này kiếp trước. Thật khó mà nhìn thấy lại một dấu mờ nào của dĩ vãng. Đâu rồi Cầu Bông? Đâu thành Quan Năm, trại Quang Trung, cầu Tham Lương, dệt Vinatexco, Bà Quẹo, đường Lê Văn Duyệt, ngã tư Bảy Hiền, nhà thương Vì Dân? Từ quận lỵ Củ Chi về tới Bảy Hiền, chặng đường chẳng bao xa, nhưng cái ngày 29 ba mươi lăm năm trước ấy thì thật là dài, có thể nói là ngày dài nhất trong cuộc đời của mỗi chiến sĩ Trung đoàn 24 Bộ binh, Trung đoàn 273 Thiết giáp và Trung đoàn 234 cao xạ thê đội quân binh chủng hợp thành đột kích thọc sâu hướng tây bắc Sài Gòn. Mức độ ác liệt của những trận chiến ngày 29 chẳng thua kém gì so với các trận trong Chiến dịch Buôn Ma Thuột, thậm chí cả so với những ngày cao đỉnh của Mùa khô 1972…
Ngày 30, bốn giờ sáng, pháo lớn Quân đoàn 3 bắt đầu lên tiếng, càng lúc càng dữ dội, cấp tập bắn phá phi trường. Bảy giờ, tiểu đoàn 5 mà mũi nhọn là đại đội 7 cùng gần chục xe tăng T54 tấn công ngã tư Bảy Hiền.
Sau non một tiếng đồng hồ cận chiến qua từng ngôi nhà, C7 mở thông được ngã tư. Trước mắt đã là những thời khắc cuối cùng, những thước đất cuối cùng của cuộc chiến tranh đằng đẵng cả đời người. Và cũng là thử thách cuối cùng, thương vong cuối cùng.
Từ ngã tư Bảy Hiền, K5 của 24 đánh cắt ngang qua Tân Sơn Hòa tấn công cửa số 5, K4 và K6 tấn công cửa số 4 phi trường. Trung đoàn 28 theo đường Võ Tánh qua Lăng Cha Cả tấn công Bộ Tổng tham mưu. Trung đoàn 66 xuôi đường Lê Văn Duyệt tiến vào trung tâm thành phố. Đến đúng 10 giờ 30 quân dù trấn giữ Cửa số Năm vỡ trận, lối vào phi trường mở toang. Các đại đội của trung đoàn 24 cùng các phân đội xe tăng Trung đoàn 273 đánh địch liên tục qua các khu vực phòng thủ của Sư bộ sư đoàn 5 không quân, Bộ tư lệnh dù, khu ra đa, khu cố vấn. Trung đoàn trưởng Vũ Tài trực tiếp chỉ huy K6 phát triển nhanh đến trại Đavít để hội quân với Phái đoàn quân sự của tướng Hoàng Anh Tuấn. Đến đúng 11 giờ 30 thì anh em tiểu đoàn 6 đã kéo được lá cờ Quyết Thắng của Sư đoàn lên đỉnh lầu chỉ huy không lưu. Song, qua trưa đến chiều tiếng súng chống trả của quân dù vẫn lúc thưa lúc rộ lên. Mãi tới 14 giờ 30 quân ta mới dứt điểm được ổ đề kháng cuối cùng ở góc tây phi trường.
Chiều Sài Gòn vội vã rào xuống một cơn mưa để làm nguội đi không gian nóng bỏng của trận quyết chiến vừa kết thúc.
Cơn mưa chiều 30 đã giúp dập tắt hầu hết các đám cháy đang loang rộng khắp phi trường. Nắng lên, gió mạnh, những cồn khói đen ngòm lụi dần chỉ còn tro than bay tung tỏa.
Những toán lính dù cuối cùng lóp ngóp bò ra khỏi các công sự, hai tay đưa cao hoặc chắp sau gáy. Nhưng chẳng ai chĩa súng vào họ, chẳng ai thiết gì bắt họ làm tù binh. Các “thiên thần mũ đỏ” trút bỏ mọi thứ vũ khí có trên người, rũ bỏ binh phục, người ngợm trần trụi còn độc cái quần cụt, rồng rắn lũ lượt nối nhau tà tà đi ra phố. Tiểu liên, súng ngắn, lựu đạn, dao găm, mũ sắt, áo trận, giày đinh lăn lóc la liệt trên dọc các đường băng.
Khắp sân bay ngổn ngang chồng đống đen xì những hậu quả của trận đánh trong ngày, của những đợt pháo kích và oanh kích liên tục suốt từ đầu chiến dịch. Bộ đội trung đoàn 24 lại phải lo thu dọn tử thi. Không nhiều, nhưng rải rác, dụi dọ trong khắp các xó xỉnh hầm hố công sự, trong bụng máy bay, trong xác xe hơi, xe thiết giáp. Đa phần là lính nhưng cũng vài xác dân thường. Có những người đã chết từ mấy ngày trước rồi.
Riêng trung đội chúng tôi thì phải nhận một trọng trách rất lạ đời là đi săn cẩu. Từ góc phía đông đường băng quân sự cả trăm con bẹc-giê vỡ chuồng chạy tỏa ra khắp sân bay. Không phải loại cẩu giữ nhà vẫn thường thấy mà là những con thú hình thù ghê sợ, to như con bò, gầm hú như cọp, lao nhanh như tên bắn, dữ tợn, điên dại lồng lộn. Mãi gần tối chúng tôi mới quăng thòng lòng chụp được con “Ních” cuối cùng kịp trước khi nó lao xổng ra khỏi cổng Phi Long.
Chiều buông. Tất cả các đám cháy đã tàn hết. Ánh tà nhuộm đỏ phi trường. Tay chiến binh chót cùng của Quân lực Cộng hòa từ trong một chiếc C130 đột nhiên chui ra đầu hàng! Cái gã nực cười ấy chẳng phải phi công chẳng phải quân dù, chỉ là một tay trung sĩ trong pháo đội phòng không mà lính tráng với úy tá đã tan chạy từ tám hoánh. Chiếc máy bay mà gã chúi vào ẩn từ sáng sớm bị đạn cối phá toang buồng lái, bị đạn tiểu liên bắn rỗ nát hai bên sườn, vậy mà may phúc cho gã là máy bay không bốc cháy. Chiếc C130 ấy cũng là chiếc phi cơ rất nực cười. Đấy là chiếc máy bay cuối cùng đáp xuống ngay trước khi tất cả các phi đạo bị hỏa lực quân ta khóa cứng lại. Nhưng chuyến bay liều mạng ấy lại chỉ thả xuống cho thành phố đang bị bao vây toàn những thứ tầm phào: những hòm gỗ chất đầy ly tách thủy tinh, hòm thì chứa toàn giày da, hòm thì mỹ phẩm đàn bà… Và báo! Hàng trăm tờ Nation số ra ngày 28 ở Bangkok, tờ Kinh tế Viễn Đông ra cùng ngày ở Hồng Công, tờ Người hướng đạo Thiên Chúa giáo, tờ Playboy, tờ Sao và Vạch. Chặt chẽ, răm rắp, hiệu quả xiết bao cơ chế vận hành của bộ máy quân sự Mỹ, nhưng mà cũng là kỳ quái và nực cười quá sức tưởng tượng…
Chiến quả đầu tiên của quân ta trong buổi chiều tối ngày 30 tháng Tư là giấc ngủ! Khắp nơi trong phi trường la liệt những cánh võng. Có tay chẳng buồn võng, cứ vậy lăn ra làm một giấc trên thềm đá hoa nhà ga, trên ghế phòng chờ, trên mặt bàn buồng vé…
Nhưng tổ ba người chúng tôi thì không được hưởng cái sung sướng đó. Chúng tôi đang đi vào trong nhà ga sân bay để tìm chỗ ngả lưng thì “đụng” phải chính ủy Bùi Hòe. Anh dắt theo hai đứa nhỏ, thằng bé chừng mười tuổi, con bé mới khoảng lên sáu lên bảy. Lính ta tìm thấy hai đứa trong một chiếc xe hòm đậu vạ vật trong bãi xe hàng trăm chiếc vô chủ ngoài cổng Phi Long. Cha mẹ hai đứa chở chúng tới phi trường. Để chúng ngồi lại trong xe, họ vào nhà ga, rồi không thấy quay ra nữa. Như vậy là hai đứa bé bị nhốt trong cái cũi bí thở, nóng như thiêu, không giọt nước hột cơm, giữa cảnh hỗn loạn, pháo dập, đạn lia. Khi bộ đội phá cửa xe đưa chúng ra hai đứa chỉ còn thoi thóp. Tuy nhiên được uống được ăn và tắm táp chúng hồi lại rất nhanh. Gia đình chúng vừa từ Huế chạy vào, ngụ ở nhà ông cậu trước khi ra sân bay. Nhà ông cậu ở đường Đồng Khánh, thàng bé nhớ vậy nhưng không nhớ số nhà.
Đưa hai cháu về cho gia đình. Chính ủy ra lệnh. Đã mệt lử, đã buồn ngủ đến muốn gục ngã ngay, nhưng biết làm sao được. Chúng tôi kiếm trong bãi xe một chiếc Zeep lùn và moi được từ trong đám dù vừa buông súng một tay tài xế.
Chúng tôi đưa hai đứa nhỏ rời sân bay hướng về thành phố mới giải phóng. Thành phố vĩ đại, mênh mông, sâu thẳm, chằng chéo muôn ngả. Tay tài xế tiếng là lính dù nhưng đại lớ ngớ, lại là dân miệt vườn Mỹ Tho chẳng rành gì đường xá Sài Gòn nên cứ chạy loanh quanh phập phù. Vòng vo, chậm rề mà cứ lạc mãi. Quân ta tuy đông, những năm quân đoàn, nhưng vì Sài Gòn quá rộng lớn nên tới khuya ngày 30 còn rất nhiều đường phố chưa xuất hiện bóng dáng bộ đội. Mà tiếng súng, không rõ ràng là chỉ thiên hay bắn thẳng thì càng lúc càng rộ lên loạn trời. Ba đứa tôi ngồi trên xe súng vẫn lăm lăm trong tay, đạn vẫn lên nòng, dò dẫm qua từng ngã tư, ngã năm, ngã bảy, chỗ đông nghịt người xe ùn tắc, chỗ vắng tanh vắng ngắt. Gần 9 giờ đêm mới thấy biển đề tên đường Đồng Khánh. Chiếc Jeep gắn đại liên bò rù rù dọc con phố với hy vọng thằng bé nhận ra được nét quen nào đấy. Chạy suốt một lượt, vòng lại chạy lượt nữa. May làm sao, chính là con bé em nhận ra mặt tiền nhà ngoại.
Chúng tôi bấm chuông, đập cửa. Hồi lâu mới có người rón rén ra mở. Không ai khác chính là mẹ của hai đứa bé. Thật không sao tin được. Hai vợ chồng họ đã chở con ra phi trường vào buổi tối ngày 28, hy vọng là có thể kiếm được chỗ trên tàu bay Mỹ. Nhưng vừa đỗ xe lại ở cửa phi trường thì gặp pháo kích, lập tức tất cả rồ loạn lên, bố đằng bố, mẹ đằng mẹ, quăng hai đứa con lại trong xe. Suốt đêm 28, cả ngày cả đêm 29, gần trọn ngày 30 cũng không một mống nào dám lai vãng tới phi trường để tìm hai đứa nhỏ. Mệt, chán, buồn ngủ, chúng tôi “bàn giao” hai đứa con cho người mẹ rồi bỏ đi luôn.
Chiếc xe đã hết xăng nên chúng tôi trả tự do cho tay tài xế, rồi đi bộ tìm lối trở về Tân Sơn Nhất. Ba đứa, một hàng dọc, dãn cách thưa, lặng lẽ bước, y như là mấy chàng Vệ Quốc “một lần vào thành phố” của Trần Đăng.
Đã quá mệt, quá buồn ngủ, lại chắc chắn là đã hòa bình rồi, không cần phải quá khẩn cấp nữa, chúng tôi chọn một chỗ để qua đêm. Chỗ ấy có vẻ như là một công viên. Không nhà cửa, nhiều cây cối (có lẽ là khu nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi?). Tôi gác phiên đầu, tới nửa đêm. Quang rồi Nghi phiên nửa đêm về sáng. Nghi gác phiên cuối, khi trời rạng sáng đã không lay mọi người dậy mà lại ngả người ra võng chủ quan đánh tiếp một giấc ngủ nướng…
Những tiếng động lạ khiến tôi choàng tỉnh. Theo bản năng tôi chực vồ lấy AK, nhưng rồi lại nằm im.
Trời đã sáng bạch. Một đám khá đông dân tình hiếu kỳ quây thành một vòng rộng bao quanh “bãi khách” của ba anh bộ đội Giải phóng. Qua khe bọc võng, tôi nhìn lên tán cây, lên cao nữa, lên bầu trời tháng Năm cao xanh vời vợi. Hòa bình, phải, đã hòa bình rồi, tôi chợt nhớ ra, và đến lúc ấy tôi mới thực sự cảm thấu vẫn tận tim mình rằng mình đang giữa lòng Sài Gòn, trung tâm của giấc mơ lớn lao, đoạn trường của bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu con người còn sống hay đã chết trong cuộc trường chinh này. Nước mắt ngày thắng lợi nóng rực đau nhói. Sắp sửa 35 năm trời rồi, nhưng tôi nghĩ rằng đến nay đêm đêm trong lòng Thành phố vẫn còn biết bao nhiêu con người mất ngủ vì ký ức chiến tranh. Nỗi buồn thương vẫn khiến cặp mắt của bao người phải âm thầm nhòa lệ. Hàng bao nhiêu người cha người mẹ mất một, mất hai, mất ba, thậm chí mất tất cả những người con của mình trong chiến tranh. Những người vợ mất chồng. Những cặp tình nhân bị chiến tranh chia lìa, mãi mãi không bao giờ còn gặp lại nhau.
Ngày 30 tháng Tư. Niềm vui chiến thắng, hạnh phúc hòa bình và nỗi đau mất mát. Hương hoa và khói hương. Những nỗi niềm ấy trong lòng người dân luôn luôn là một chứ không tách bạch ra như là nhiều người vẫn tưởng.
BI KỊCH CON KHỈ
Từ xa xưa mấy mẫu hoang phế cửa ga đã mang danh là công viên thị xã mặc dù cho đến trước nhiệm kỳ của ông Thân đất đó vẫn trụi thùi lụi, chẳng cây, chẳng cỏ. Thuở ấy, ngồi tàu bay dòm xuống, du khách ắt phải thấy dáng hình thủ phủ quê tôi giống y cái sọ hói.
Nhờ ơn mưa móc của ông Thân đầu tỉnh yêu văn hóa mà cái sọ vốn khô khốc thế một ngày nọ đã mọc tóc xanh. Ông cho lệnh trồng cây, trồng hoa, ông cho tạo thảm cỏ, cho xây đài phun, cho kê ghế đá, cho vạch lối đi rải sỏi và ông cho đặt tượng. Rồi ông sai ứng công quỹ sắm chim, sắm thú về nhốt trong các chuồng song sắt.
Được chừng dăm năm, khi nhiều cây cao đã tỏa bóng cả, công viên vừa đủ độ râm cho bà con tỉnh nhà dạo mát thì ông Thân bị phốt phải xuống. Không còn ông, cỏ cây buồn thảm héo tàn. Bách thảo chẳng đến nỗi trọc lốc trở lại nhưng xơ xác và ô uế. Bách thú thì rỗng dần, các chuống trống trơn, cảnh tượng y hệt một trại giam sau ngày đại xá. Chỉ còn sót lại mỗi một anh khỉ làm trò độc diễn ở cái chuồng gần cổng chính công viên.
Cạn kẻ cạnh tranh khỉ ta độc quyền hấp dẫn nhân dân. Nhân dân thường xuyên vòng trong vòng ngòai bâu quanh chuồng của nó. Trong cuộc đời tù đày của thằng cha đít đỏ này, những ngày ấy hẳn phải được coi là thời vang bóng. Thiên hạ vui thích ném quà cho nó, khoái chí xem nó phô diễn những trò con khỉ của nó. Khỉ ta dẫu dư thừa thức ăn, trở nên trơn lông đỏ da hơn bao giờ hết, nhưng không vì thế mà chây ì, vẫn nhiệt tâm phục vụ, vẫn tận tâm múa may nhảy nhót. Nó là một con khỉ có mẽ. Mặt nó rộng và ngắn, mũi hếch, cánh mũi giành ra, môi khó nhận thấy, đôi mắt rất gần nhau, hết sức linh hoạt. Và đặc điểm nổi nhất của nó là vành lông trắng chạy từ tai này sang tai kia như râu quai nón của một tay hải tặc.
Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi, ngày vui chóng tàn, thiên hạ dần dần chán ngấy con khỉ. Loài khỉ có bao nhiêu trò nhố nhăng thì nó đã diễn cho người ta xem tất cả rồi. Bây giờ đến lượt con người dở trò với nó. Thoạt đầu chỉ là do hờ hững mà người ta quên cho nó ăn, nhưng về sau thì là một sự bỏ đói cố tình để hành hạ và để chơi khăm nó.
Bây giờ chỉ có vỏ chuối, lõi ngô với những giấy kẹo, lá bánh, những lời chửi rủa và nước bọt xả vào qua song sắt. Không ai thực sự là người chủ xướng trò đểu cáng mới mẻ này, bởi vì đây chính cống là một cuộc hành lạc tập thể. Mọi người đều cực kỳ háo hức chờ xem con vật bị bạc đãi một cách bất ngờ như vậy sẽ rũ xuống ra sao. Song khỉ thay, khỉ ta không xìu đi như bà con mong mà vẫn hăng hái nhảy nhót làm trò. Thì ra là những thứ ta quẳng vào cho nó là những thứ mà với con người không còn gì để có thể mút mát, song với con khỉ thì vẫn là đồ ăn được. Hiểu ra điều ấy, dân tình lập tức mạnh tay hơn với khỉ.
Từ rày con khỉ mới thực sự là đói. Nó chỉ nhận được những món quà phi hữu cơ, tuyệt đối không tài nào xực nổi: mẩu xà phòng, cục nhựa đường, đầu mẩu thuốc lá… Cố nhiên, khỉ rũ rượi ra ngay, trở nên xấu xí, trở nên chậm chạp lờ đờ, kiệt quệ. Nhưng, mẹ kiếp, nó vẫn sống, vẫn chưa hoàn toàn quị liệt và có vẻ như vẫn muốn giữ phẩm giá. Nó gắng gượng bày trò, gắng gượng khua tay huơ chân, nhăn mặt nhe răng để chứng tỏ cốt cách còn vững chắc. Chẳng lẽ con quái này là khỉ thành tinh?
Bọn nhãi ranh bắn súng cao su, thổi xì đồng, và chĩa “bòi” tia vào chuồng. Theo gương bọn trẻ, bọn người lớn biến chuồng khỉ thành toa lét công cộng. Chẳng ai có ác ý, người ta chỉ giải trí, chỉ tò mò xem xét, đánh giá sức chịu đựng của một giống động vật bà con gần với giống người.
Mùi xú uế nồng nặc, không thể xáp gần chuồng khỉ như trước, người ta đứng xa xa liệng những vỏ bia, những cục gạch vào tặng nó. Tai ác hơn, tôi thấy một chị mang chuối ra dứ, từ từ bóc vỏ, từ từ nhá, cho con vật đang đói liệt chết thèm. Nó không còn kêu choe chóe mà hừ hừ rên xiết khi người ta tung những khúc sắn luộc tới kề cửa chuồng nhưng ở ngoài tầm với của nó.
- Người khác loài vật ở chỗ đó, người mà lâm cảnh ngộ như thế này ắt phải tự vẫn chết rồi.
Một ông thi sĩ ở Hội nhà văn đã cho tôi một nhận định khúc chiết có tính phân loại khoa học như vậy. Quả thực thế, người cao hơn vạn vật chính ở chỗ chỉ con người mới biết tự kết liễu cuộc đời khi cảm thấy đời quá chừng chó má. Khỉ ta thì không, vẫn lay lắt sống trong sự khủng bố của dạ dày, trong không khí hôi thối kinh tởm. Lở loét, trụi lông, nó nằm bẹp trên nền chuồng nhớp nhúa, chẳng còn đủ sức né tránh những hòn gạch, chẳng còn giật mình nổi khi người ta liệng pháo đùng vào chuồng, nhưng vẫn gắng gượng sống, phập phồng hơi thở tàn héo. Tuy nhiên, có là hầu vương cũng không thể thắng nổi con người. Nhất định nó sẽ chết, ai cũng biết vậy và lại đâm ra chán ngán. Chuồng khỉ lại vãn dần khách viếng thăm.
Bẵng đi một tuần không để mắt tới, người ta kinh hãi nhìn thấy con khỉ mà ai cũng tưởng là đã chết thối trong chuồng lại đã loay hoay đứng dậy, đi đi lại lại, trèo lên trèo xuống. Rác rưởi quanh chuồng và cả trong chuồng nữa, được dọn hết. Tất nhiên là người ta mau chóng tìm ra thủ phạm đã gây ra sự phi lý này. Ấy là con bé ăn mày ở cửa ga.
Con bé theo tàu ra tỉnh từ chớm kỳ giáp hạt. Rách rưới, âm thầm, nó ngồi câm dưới cột đồng hồ, cái nón mê trước mặt. Xấu xí và dơ dáy, lại nửa ngây độn, nó chẳng phải hạng để thiên hạ rủ lòng thương. Song dù sao thì lúc này lúc khác của bố thí vẫn thỉnh thoảng rơi vào nón của nó, giúp nó sống qua từng ngày. Dạo trước, nó có chỗ ngủ trên ghế băng phòng đợi của nhà ga, nhưng từ khi có lệnh thu phí nơi nằm nó phải dạt vào công viên dãi sương trên ghế đá.
Chính nó đã phá đám việc của mọi người. Nó quét dọn khoảnh đất quanh chuồng. Nó kiếm cây gậy dài buộc chổi tre để quét cả bên trong chuồng. Nó chia cho con khỉ một nửa những thứ nó xin được. Thì ra con nhãi này không chỉ là ngây độn mà là một con điên thực thụ, người ta bảo nhau thế…
Hôm ấy, mùa hè, chủ nhật, buổi sáng, bao nhiêu là người dày xéo công viên.
Tôi nhận thấy một vẻ náo nức đồng loạt trên các bộ mặt. Mẹ kiếp, gì vậy? - Người ta hỏi nhau. Dĩ nhiên vẫn chuyện cái chuồng khỉ, song còn cái trò quái gì ở đấy nữa để mà bu lại?
Người đến sau lách vào kiễng chân nhỏng cổ dòm qua vai kẻ đến trước. Ai cũng bật cười. Nhiều tay hô hố cười phá lên.
Trong chuồng khỉ, ngoài khỉ còn có thêm con bé ăn mày nọ. Nó bị lột truồng, ngồi thu lu, hai đầu gối nhọn hoắt che ngực. Người ta huýt sáo. Lại đá, lại gạch phang vào để thúc nó đứng dậy. Song nó cứ ngồi ỳ. Anh bạn khỉ quay cuồng lay cửa chuồng nhưng làm sao mà lay nổi. Cửa chuồng mọi ngày chỉ buộc bằng dây giờ là một cái khóa đồng Tiệp Khắc chắc như cùm.
- Đồ khỉ, đứng dậy vươn vai đi em! - Một ông vui tính gào. Bà con cười như nã sung. Đối tượng vẫn một mực thu mình. Con bé này bảo thủ thật, tôi nghĩ. Đàn bà ở truồng thì có sao, ngày nào ta chả thấy họ phô phang trên màn ảnh, trên bìa tạp chí, trong hiệu tắm hơi, trên bìa lịch treo phòng khách mà còn phải hãi.
Cuối cùng ý chí tập thể đã thắng sự xấu hổ ngu dốt. Mấy gã trai dùng cây gậy dài có đầu nhọn chọc trúng lưng con bé khiến nó nhảy dựng. Hình như cũng có người muốn can ngăn, song thời nay người với người chớ dại sinh sự với nhau. Việc ai nấy làm nếu muốn yên thân.
Khi cảnh sát phá được khóa, cô gái đẩy cửa bước ra, trần truồng đi thẳng tới đám đông. Mọi người kinh tởm rẽ ra. Con khỉ toan chạy theo cô nhưng bị đá lộn vào trong. Người ta khóa kỹ cánh cửa.
Với mọi người thế là hết chuyện. Nhưng với con khỉ và cô gái tấn bi kịch còn nốt một đoạn nữa.
Đêm ấy, cô gái treo cổ tự tử dưới cái dóng ngang của cột đồng hồ trước ga. Sáng ra, con khỉ lặp lại trò chết treo ấy. Chẳng biết kẻ nào đã quẳng cho nó sợi dây thừng. Những người chứng kiến bảo rằng con khỉ cũng trợn mắt, cũng đưa hai chi trên chụp lấy vòng thòng lọng đang thít cổ, cũng giãy đùng đùng y hệt những tội nhân bị xử giảo.
Có thể cho rằng chẳng qua đấy là trò bắt chước cuối cùng của con khỉ. Chỉ một điều khó hiểu là từ chuồng của nó không thể nào trông thấy cột đồng hồ nơi cô gái tự thắt cổ. Có lẽ đây là một hiện tượng bí ẩn của sinh học, một thứ đại loại như chuyện thần giao cách cảm.
HÀ NỘI LÚC KHÔNG GIỜ
Năm rồi trong cơ quan nhiều người xây nhà riêng và đều dốc lực hoàn thành để kịp nhập trạch trước tết nguyên đán. Chuyển vào nhà mới tầng cao phòng rộng lại có tường bao cách biệt với đời y như thể chuyển sang một thời đại khác. Thế nhưng, như tôi, tuổi đã chừng này còn thời nào nữa ngoài thời đã qua.
Mà run rủi làm sao nhà mới lại về cùng phố với ngôi nhà thơ ấu. Xưa nhà số bốn, giờ trăm lẻ hai, hai đầu phố. Có lẽ vì xích gần quá khứ nên nhà thì mới mà người như cũ hẳn. Mất ngủ, uống nhiều. Giờ giấc rời rạc. Tâm trí thường lảng đi những đâu đâu. Ban ngày đã ít có mặt ở nhà, canh khuya còn đẩy cửa ra phố.
Phố dài, nhiều cây, nhưng ngày trước từ cuối phố vẫn có thể nghe thấy tiếng leng keng và thấy được thoáng bóng tầu điện chạy ngang qua ngã tư đầu phố. Bây giờ, đứng trên tum nhà ba tầng mà chịu không thể nhìn với qua được tường nhà bên cạnh. Ngày trước, đoạn cuối phố này chẳng nhà cửa gì, đất rộng phó mặc cho cỏ dại và ma trơi. Nay đất chẳng còn, chỉ những nhà lầu là nhà lầu, bề bề bê tông, tôn, thép, nhôm, kính. Cũng là tất nhiên thôi, đã ba mươi tư năm rồi còn gì, ngày ấy với bây giờ. Mà nói gì tới chừng bấy thời gian. Mới đây, để dựng một phim nhiều tập về Hà Nội buổi đầu Đổi Mới, nhà đạo diễn đã phải kéo bầu đoàn sang thị xã Bắc Ninh mượn cảnh, nhưng mà rồi Hà Nội trong phim tuy đã được hóa trang khéo vẫn chẳng na ná nổi Hà Nội, dù là Hà Nội của những năm chỉ vừa mới đó. Huống hồ Hà Nội tết Giáp Thìn. Cái mùa xuân năm nao xa lắc xa lơ thời trước chiến tranh ấy đã ra ngoài mọi trí nhớ, và không một giấc chiêm bao nào còn có thể với tay về.
Nhưng mà dù vậy, Hà Nội mùa xuân đó vẫn đâu đây trong trời đất và vẫn thường nhập hồn về với mùa xuân của thành phố hôm nay vào những nửa đêm. Người bộ hành đang dạo bước dọc canh khuya, lẳng lặng rẽ khỏi đời thực, âm thầm đi lẫn vào sự vật của những ngày xưa kia. Chỉ là từ bên này đường sang bên kia đường thôi mà đã đi lùi về tận những năm nảo năm nào.
Năm ấy, bao nhiêu sương giá và rét mướt mùa đông như thu cả vào hạ tuần tháng Chạp ta. Năm cùng tháng tận trời rét căm căm. Ở các phố xa trung tâm mới chừng sau tám giờ tối đã chẳng còn mấy ai ra khỏi nhà. Dưới ánh đèn đường chỉ những gió lùa và lá rụng. Loáng thoáng những chiếc xe đạp ruổi thật mau. Lác đác những người đi bộ đang rảo bước. Xe điện các chuyến khuya hầu như chạy suông, toa trên toa dưới hành khách chẳng tày một nhúm.
Nhưng giữa lạnh lẽo của đêm đông vắng lặng đã lặng nghe mùa xuân đang về trong thành phố. Cành đào trên tay một người qua đường. Chậu quất chở sau một chiếc xe đạp. Lộc nõn nhú trên tán bàng trụi lá. Ở ngoài đêm, phố xá thưa thớt bóng người mà bên trong những ngôi nhà dọc phố suốt đêm rậm rịch tiếng chân bước, tiếng người nói, trên gác dưới tầng gia đình nào cũng đang rộn rịch bếp núc và chộn rộn kê dọn lại phòng, soạn sửa câu đối, lọ hoa, chăm chút bàn thờ. Tháng Chạp thiếu đi một ngày, Tết đến kíp hơn, rộn ràng và cập rập. Mới khuya ngày 28 thôi mà đêm mai đã giao thừa rồi.
Họa sĩ Năm Tín, người Cà Mau, từ cuộc họp đồng hương ở câu lạc bộ Thống Nhất đáp chuyến xe điện cuối cùng trở về nhà. Ông xuống ở ngã tư đầu phố. Đèn đường vẫn những ngọn vàng ủng và mờ lụi như mọi đêm, nhưng đêm nay nhà nhà không ngủ, ánh sáng các ô cửa sổ soi rộng xuống vỉa hè và chiếu tỏa ra lòng đường. Tại chỗ máy nước công cộng trước cổng nhà số ba vẫn còn một nhóm các bà các cô tất bật vo gạo, rửa lá. Vòi nước xối xả, xô chậu xủng xoảng.
Ở vỉa hè bên kia, giữa khoảng sân đất rộng trước mặt tiền hai tầng nhà số bốn, nồi bánh chưng, nguyên cả một cái thùng phuy, đang sôi sình sịch, ngun ngút bốc hơi trên bếp lửa chụm bằng những cây củi to gộc. Lửa không cao ngọn nhưng than trong bếp đỏ rừng rực, trải một vòng sáng rộng dập dờn màu hồng thẫm lên mặt sân. Hơi nóng và khói khiến lũ trẻ thức canh nồi bánh phải dịch manh chiếu ra bên rìa quầng sáng, chụm đầu lại đánh tú lơ khơ. Chỉ vài đứa vẫn ngồi cạnh bếp lửa. Chúng vẽ thành những bóng đen chập chờn trên tường nhà. Một cây củi được đun sâu vào thêm, lửa trong bếp phừng phừng bốc cao, gương mặt của những mái đầu tóc xoăn và tóc húi cua được ánh lửa soi rạng lên.
Ngà ngà hơi men, tay xách một cái cặp da căng phồng, ông Năm chuyệnh choạng sang đường, bước vào sân nhà số bốn. Nhác thấy bóng ông, hai chú cẩu đang nằm gác mõm lên đùi một gã trai lực lưỡng ngồi khoanh chân canh bếp lửa, bật chồm dậy sủa vang.
- Câm miệng, Giôn! Ken! - Gã trai quát - Không nhận ra chú Năm à!
- Bữa nay hai ngài tổng cẩu nhà này sao mà hiếu chiến quá vậy tụi bay?
Họa sĩ ngồi xuống bên gã trai và đưa hai bàn tay gầy guộc lạnh cóng hơ sát vào bếp lửa.
Tiếng bọn trẻ con lanh lảnh nhao nhao lên chào chú Năm. Chúng bỏ bộ bài đấy, xúm cả lại ngồi túm bên ông. Mở chiếc cặp da, ông Năm lấy ra trước tiên một chai Lúa Mới.
- Thứ dữ nầy của qua. - Ông nói - Còn tụi bây…
Ông đưa ra một phong pháo mậu dịch giấy gói màu hồng vẽ hình cô tiên cưỡi mây, rồi một bọc to đùng giấy trang kim có hình ông già Noel đội mũ chóp đỏ.

- Năm nay Tết cần kiệm, hội đồng hương xứ Mũi quê qua chẳng được bộn quà như mấy năm, - Ông Năm nói, như phân trần với lũ trẻ. - Nhưng mà có thứ này quý lắm đó nghe. Kẹo Liên Xô, ngon nhứt đó, sắp nhỏ.
- Chú chiều chúng nó quá! - Gã trai kêu lên. - Năm nào cũng vậy. Rồi chú lấy gì ăn Tết? - Và gã đập đùi quát - Này, bọn chúng mày không có được thế đâu nhá!
- Thôi mầy, Trung! - Ông Năm vỗ vai gã. - Bữa nay sao cả mầy cũng hiếu chiến quá vậy. Coi kia, kịch chiến với võ sĩ nào mà mặt mày bầm dập vậy con?
- Với Pét “xồm” chú ạ! - Một thằng nhóc mách.
- Chiến nhau vì chị Giang đấy! Một đứa khác.
- Im đi, thằng lỏi! - Gã trai nạt, mắt trợn lên. Nhưng chỉ trợn được con mắt trái. Mắt phải của gã tím quầng sưng húp. Gò má sây sát. Môi vều lên.
- Vậy chớ nhỏ Giang đâu? - Ông Năm hỏi, đưa mắt nhìn quanh.
- Đang ngồi khóc trên kia ạ! - Một lỏi con tóc húi cua nói to, trỏ lên ban công tầng hai.
- Sao vậy?
- Tại anh Trung!
- Thiệt tình! Thằng Bình, mầy lên biểu chị mầy xuống qua biểu. Vui năm mới mà mất đoàn kết vậy, coi sao đặng, mấy đứa.
Mặc dù bản tính gàn gàn, đời sống độc thân bê trễ, lại cực độ âm thầm, chỉ có thể nói năng khi đã ngà ngà, và nhà thì ở mãi chung cư gần cuối phố, tít trên tầng thượng, song họa sĩ Năm Tín lại là bạn vong niên của sắp nhỏ ngôi nhà số bốn nơi đầu phố này. Mấy năm trước, một sớm tinh mơ mùa đông sương mù rất lạnh, bọn trẻ nhà này vấp phải ông Năm, người nồng mùi rượu, nằm lịm cóng từ bao giờ trước sân. Chúng hè nhau khiêng ông vào nhà, đổ nước gừng cho ông, đánh gió, xoa dầu, ủ ấm cho ông. Khi xe cấp cứu tới thì ông đã hồi. Từ bấy thành chỗ thân tình, bọn trẻ thường kéo nhau tới thăm họa sĩ. Chúng giúp ông nhiều việc, gánh nước từ máy công cộng lên tầng cho ông, dọn dẹp căn phòng luộm thuộm của ông và mua hộ ông các thứ tiêu chuẩn tem phiếu. Họa sĩ cũng hết sức cưng chiều lũ nhóc, bầy trẻ thơ của cái phố nghèo mà mười năm qua, kể từ sau ngày tập kết, đối với ông đã ngày một thêm nặng tình. Ông để chúng tha hồ lục tranh của ông, những bức bột màu, những bức thuốc nước và những ký họa. Rất kiệm lời, hầu như chẳng bao giờ kể chuyện quê nhà, nhưng lần lượt qua từng bức họa, ông cho bọn trẻ Hà Nội thấy được phong cảnh của cõi xa vời vợi đời ông miền đất Mũi, thấy được chân dung những bà má, những chị phụ nữ và trẻ em của Nam Bộ kháng chiến, và thấy được gương mặt các chiến sĩ cùng trung đội với ông hồi Chín Năm.
Và tết năm nào cũng như thế này, giữa canh khuya, sau cuộc họp đồng hương cuối năm, ông Năm không về nhà mà rẽ vào chỗ đám trẻ nhà số bốn đang quây quần canh nồi bánh chưng. Ông chia quà cho lũ nhỏ và nếu không quá say thì ông sẽ thức cùng với những đứa lớn tới tận khi đã có thể vớt bánh ra khỏi nồi.
Năm nào, năm hộ nhà số bốn cũng cùng nhau lo liệu cái Tết. Nếp chung tốt lành này có từ thời còn mồ ma ông Tá tài xế. Đông con, kinh tế chật vật nhất nhà số bốn vậy mà hàng năm chính ông Tá là người đã giúp cho cả ngôi nhà này ăn Tết tươm nhất phố. Là tài xế của đoàn vận tải Bộ Lâm nghiệp, chuyên trị chạy tuyến Tây Bắc, ông Tá quanh năm vắng nhà, nhưng cứ đến giáp Tết dân phố lại thấy chiếc mô -lô - tô - va của ông, bê bết bùn đất đường trường rù rù lăn bánh vào sân trước nhà số bốn, inh ỏi đấm còi. Bọn nhóc trong nhà đang mỏi mắt trông chờ hoan hỉ ùa ra, náo nức dỡ củi, dỡ lồng gà, dỡ những bao tải chất nặng hàng tươi, hàng khô từ thùng xe xuống. Chẳng phải vất vả lo toan gì mấy mà vợ con ông và các hộ láng giềng cũng có đủ mọi thức cho ba ngày Tết. Nhiều năm như vậy cho đến mùa lũ năm 61, xe ông Tá gặp nạn trên đèo Pha Đin.
Tết năm ấy, cả nhà số bốn góp sức đỡ đần vợ con ông Tá và cũng là hợp lại đỡ cho nhau. Từ đó, thành nếp, tết nhất lo chung năm gia đình. Ba gia đình dưới nhà, hai gia đình trên gác, hoàn cảnh nhà nào cũng gieo neo. Như vợ con ông Tá, hay như gia đình bà Thái ở phòng mặt tiền tầng một, trước cũng khá, sau vì ông Thái trở chứng, ruồng rẫy vợ con, đang đêm vơ sạch món tiền hai vợ chồng đã nhiều năm dành dụm, theo chân một chị hàng xén lặn tút vào tận trong Vinh, nên cảnh nhà sa sút hẳn. Anh con trai đầu đang học trung cấp hàng hải mà phải bỏ. Còn ông Cư, cũng phòng ở tầng một, vốn chân thủ quỹ, sở điện, lương tùng tiệm đủ nuôi vợ con thế mà tẩm ngẩm tầm ngầm phạm tội thụt két, liền mấy niên rồi đón xuân trong tù. Còn như hai chị em Giang và Bình sống với ông nội ở căn phòng bên trên nhà bà Thái thì lại phải nông nỗi mồ côi bố mẹ từ nhỏ, buồn vui mỗi ngày chứ chẳng riêng ngày Tết tùy thuộc tình trạng sức khỏe của ông cụ, tuổi đã thất thập, già cả đau yếu. Ngay như gia đình giáo sư Xứng mà tết nhất cũng lấn bấn. Ông lương cao, tiêu chuẩn chuyên viên, gia đình ít người mà được phân hai phòng rộng thênh trên tầng hai, mức sống trội hơn các gia đình khác, nhưng bà tạng người yếu lại bận con mọn. Thằng con đầu của ông bà đã học lớp bảy mà đứa kế sau vẫn đang ẵm ngửa, chị người làm thì cứ còn cách Tết cả tháng là đã khăn gói về quê.
Người lớn không cáng được nên đám trẻ phải gánh. Có điều là phần đông đám trẻ trong nhà là bọn con giai, lại hầu hết đang nhãi ranh, từ lau nhau đến choai choai mười ba mười bốn, thực sự bậc anh bậc chị chỉ có chị Giang trên gác và anh Trung, con trai bà Thái, dưới nhà. Tết nhất của năm gia đình cậy cả vào hai người, mà chủ yếu là ở Giang. Từ cuối tháng Mười Một âm Giang đã phải bắt tay vào công cuộc mua sắm đầy gian nan. Chỉ thỉnh thoảng mới có được vài đứa tuổi đã nhỡ nhỡ sau giờ tan trường chịu khó phụ giúp thêm. Giang xoay xở khắp các chợ gần chợ xa, chầu chực xếp hàng từ tinh mơ đến tối mịt ở suốt lượt các quầy hợp tác, quầy mậu dịch. Nhưng dù cố hết sức thì cũng phải tuần giáp Tết mới mua đủ các tiêu chuẩn đồ khô như gạo nếp, gạo dự, bột mì, đậu xanh, măng miến, bóng, chè thuốc, mứt kẹo cả năm gia đình, rồi sau đó dồn toàn lực bình sinh mà xếp hàng nước mắm, xếp hàng giò chả và nhất là hàng thịt, hàng lá dong để chuẩn bị cho cái phần tối quan trọng của Tết là nồi bánh chưng. Chiều ngày 27 phải chạy xong mọi thứ. Lại là Giang quán xuyến việc ngâm nếp, đãi đậu, rửa lá, ướp thịt. Đến chiều 28, bởi trong nhà chẳng bà nào biết gói nên vẫn một tay Giang lo đủ ba chục cặp bánh. Trung thì phụ trách củi lửa. Mượn cái thùng phuy đựng mùn cưa của nhà bà Cư để làm nồi. Còn củi, Trung ra tận bãi gỗ Phà Đen, chọn mua những súc lớn gần nguyên cây, rồi dùng xe ba gác đẩy về. Một đống củi tướng, một mình Trung huỳnh huỵch bổ suốt buổi chiều.
Mọi việc diễn ra ngoài sân. Bên này sân, trời lạnh thế mà Trung trùng trục cởi trần, mồ hôi nhễ nhại vung chiếc rìu tổ bố chỉ một nhát bổ làm đôi những súc củi to như cột nhà. Bên kia sân, chỗ gần vòi nước chung của cả nhà số bốn, Giang kê một cái chõng tre, trên giải ni lông, cặm cụi ngồi gói bánh, bọn nhãi trong nhà xăng xái tranh nhau những việc mà anh Trung, chị Giang sai. Vừa làm vừa sung sướng nô nghịch. Với chúng thì sang hẳn năm mới, ba ngày Tết được ăn ngon, được vui chơi, được diện áo đẹp chẳng thể vui bằng khi còn đang nao nức đợi chờ Tết đến, nhất là niềm vui buổi chiều nay. Lũ trẻ vây quanh chiếc chõng xem chị Giang gói bánh. Chồng bánh chưng cao dần. Lá bánh xanh mướt, lạt bánh trắng ngà. Giang xắn tay áo len lên quá khuỷu, cánh tay, bàn tay lấm tấm hạt nếp và vụn đậu xanh. Giang gói không mau nhưng khéo. Bánh như được gói bằng khuôn, song đẹp hơn nhiều, và không lỏng cũng không quá chặt. Lũ trẻ háo hức đếm từng chiếc, từng chiếc đã gói xong. Khi nào gói đủ ba chục cặp bánh to, chị Giang sẽ vun số gạo nếp, đậu và thịt mỡ còn lại gói cho mỗi nhóc một chiếc bánh chưng nhỏ thật xinh.
Sập chiều, công việc đang thật là nhộn nhịp, suôn sẻ, và đã sắp hoàn tất, anh Trung đã chẻ gần hết đống củi, thì anh Vinh, ở bên nhà số bảy ngang nhiên bước vào sân, dõng dạc một lời chào. Anh Vinh mang một biệt danh rất dài là “Péc-sô-rin - người anh hùng thời đại”, gọi tắt là Pét, hay Pét “xồm”, bởi đang trẻ măng thế mà đã rì rịt râu quai nón còn hai bắp tay thì lông lá như tây.
Cả sân chỉ mình Giang tươi tỉnh ngước nhìn lên, vui vẻ chào lại Pét. Trung lầm lì làm thinh, nghiến răng quai rìu, vụn gỗ văng như mảnh đạn. Bọn nhãi, coi nét mặt ông anh cũng nhất loạt một vẻ sẵn sàng gây hấn. Chúng trừng trợn nhìn Pét. Từ trên thềm, Giôn và Ken lao phốc xuống, và mặc cho Giang la mắng, chúng cất tiếng sủa dữ tợn, hung hăng xồ tới đón ông khách đã dám táo gan vào đây trêu ngươi. Nhưng chỉ một cái giậm chân, Pét đã khiến hai con chó cúp đuôi chạy dạt. Lũ trẻ cũng né ra. Pét khoan thai đi tới bên Giang. Anh diện một áo da Tiệp, da thật hẳn hoi, quần nhung kẻ, giầy mõm ngóe, tóc hớt đẹp, chải rất mượt. Pét đẹp giai nhất phố. Vai rộng, đô con lại cao người, một dáng vóc rất chuẩn, lại mũi thanh, miệng rộng, lại râu quai nón. Mặc dù song thân vốn là chủ một tiệm kim hoàn, của ngầm chắc hẳn còn vô khối, nhưng Pét chẳng cậy của. Hiện anh đang học việc ở rạp xiếc của ông Tạ Duy Hiển.
- Giang khéo tay thế, gói đẹp quá! Thế này thì cả đến Galilê cũng phải tin là đất vuông trời tròn! - Nhấc một cặp bánh lên, anh ngắm nghía, tấm tắc. - Bên nhà anh dùng khuôn, cứ như thỏi gang. Tết sau giá mà đã được Giang sang gói cho nhỉ?
Tính tình cởi mở, nói năng dễ mến, Pét được cả phố ưa, trừ bọn trai nhà này. Tuy nhiên anh vào thăm Giang chiều nay hoàn toàn không phải cố tình gây một sự đường đột để khiêu khích trêu ngươi Trung, mà thực tình là anh được phép. Ai cũng biết mới đây bố mẹ Pét đã sang nói chuyện với ông nội của Giang. Chưa phải một sự ướm hỏi mà chỉ để bước đầu có sự qua lại giữa hai bên gia đình nhằm cho phép hai trẻ được tìm hiểu nhau. Ý ông cụ thế nào không rõ, nhưng Giang thì chắc chắn là phải đầy thiện cảm với Pét. Hoàn cảnh ba ông cháu Giang khó khăn thế mà gia đình Pét khá giả thế. Bản thân Pét lại là một chàng trai hạng ưu như thế, tốt tính đẹp mã như thế.
Pét đã thảo kỹ một chương trình vui xuân cùng Giang. Nhiều mục rất tuyệt. Bắt đầu ngay từ tối 28. Đoàn ca múa Tân Cương công diễn buổi đầu. Không bán vé, chỉ giấy mời, nhưng Pét vẫn xoay được. Anh rút từ ngực áo ra hai tờ bìa gấp khổ to, in màu rất đẹp đưa cho Giang.
- Lô hạng nhất đấy! - Anh nói - Đúng mười chín giờ mở màn. Em làm thoáng lên cho xong để còn thì giờ mà chuẩn bị. Cũng cần phục sức một chút em ạ. Nhà hát Tây mà. Sáu giờ mười anh sang đón.
Vẫn cây rìu trên tay, mặt quàu quạu, Trung lừ lừ bước tới, không thèm nhìn Pét, lớn giọng nạt Giang:
- Hát tây hát tầu cái gì! Có nhúm gạo đùm mãi không xong, bao giờ mới được bánh vào nồi?
- Thì xong cả rồi, chẵn sáu chục chiếc rồi đây, - Giang nói. - Chỉ còn xếp vào nồi nữa thôi. Với lại lo gì, cũng còn sớm mà. Trung.
- Hừ, sớm! Việc còn bề bề ra, đấu hót mãi thì tới khuya. Hay là cứ tán láo tới sáng mai đi!
- Có làm lụng thì phải có nghỉ ngơi chứ, tết nhất cơ mà - Pét nói xen vào. - Gì mà ra oai ghê thế?
Chẳng nói chẳng rằng, Trung chém mạnh, lưỡi rìu cắm phập xuống sát sạt mũi giầy Pét. Hết hồn, anh này nhẩy giật lùi lại, suýt ngã ngửa. Giang tái mặt, ngồi sững. Cả sân lặng ngắt như tờ.
- Mày xéo ngay, thằng con nhà tư sản béo bụng, - Trung nói. - Còn quẩn chân người ta làm việc, tao cho mày nằm viện ăn tết!
Tức giận, giọng run lên, nhưng Pét vẫn rán sức giữ hòa bình:
- Cậu vô lý quá. Ai làm gì cậu… Tự dưng cà khịa chửi càn!
- Này thì cà khịa! - Trung gầm lên và đấm liền.
Cú đấm thình lình nhưng Pét né mặt tránh kịp. Anh dịch chân sang một bên và giáng trả một cú nhẹ vào ngực đối thủ, đồng thời cảnh cáo:
- Khôn hồn thôi đi! Mày biết tao mà, Trung!
Pét chơi nhiều môn thể thao. Ham nhất là quyền Anh. Ngày nào cũng luyện. Anh bật cười khi Trung một lần nữa quại bừa một cú đấm điển hình cho lối đánh của bọn cậy khỏe mà kém khôn. Tuy vậy anh cũng thấy cần phải tung ra liên tiếp hai đòn thật là chuyên nghiệp, một giữa mặt, một móc hàm, quật Trung xuống sân. Bọn trẻ nhà số bốn, và cả gần chục đứa nhà bên số lẻ vừa tràn sang làm ủng hộ viên cho Pét, đứng khép thành một vòng tròn vây quanh bãi đấu, nhưng đều im thin thít và bất động không dám ùa vào hỗn chiến. Đây là cuộc tay bo của bậc đàn anh. Người lớn trong nhà và những người qua đường không hề hay biết là đang có ẩu đả trên sân.
Mình mẩy trần trụi, lấm lem, mồ hôi ròng ròng, mặt lõa máu. Trung loạng choạng đứng dậy. Quân tử, Pét không xấn vào đấm ngay, nhưng mà cũng đã hăng máu lên, anh kéo phẹc mơ tuya, cởi áo da ra, và một cách đàng hoàng thong thả xắn tay áo sơ mi. Chính cái động tác đẹp mắt này đã khiến cho người chỉ quen giao phong theo luật lệ bị kẻ đã từng trải đập lộn trên hè phố nện cho nhừ tử. Dốc toàn lực bình sinh, như một đầu máy xe lửa, nghiến răng, Trung lao xộc tới, húc cái sọ dừa rắn câng vào bụng “Người anh hùng thời đại”. Pét ngã ngửa người lên cái chõng tre. Chân chõng gãy rụp, chồng bánh chưng lật nhào. Trung nhảy bổ đến, chặn đầu gối lên ngực Pét, và mắm môi mắm lợi đấm tới tấp xuống mặt anh này. Cuộc chiến đấu từ khởi đầu đến kết cục có lẽ chưa đầy một hiệp ba phút. Trong suốt những giây đồng hồ đổ máu mồm máu mũi ấy, cả hai đối thủ lẫn đám khán giả bâu kín võ đài không hề ai kêu lên một tiếng.
Vin cánh tay một thằng bé, Giang run rẩy đứng dậy. Mặt nhợt nhạt, thất thần, môi lẩy bẩy, cô van vỉ, những lời không thể nào ai nghe thấy. Vẫn chỉ nghe uỳnh uỵch hự hự. Trận ẩu đả đã quá độ vũ phu, trở thành trò man dại. “Thôi đi mà, trời ơi, thôi đi!”, dồn hết sức, Giang la lên và vùng khỏi tay bọn trẻ, cô lăn vào giữa cuộc đấu, túm tóc Trung kéo giật, buộc Trung phải nhả Pét ra.
Thở hồng hộc, Trung đứng vụt lên, mặt mày máu mê, một mắt đã sưng, một mắt ngầu đỏ trợn trừng, hai nắm đấm vẫn xiết lại, răng nhe ra như chực đớp Giang một cái.
- Đồ ác ôn! - Nghẹn ngào, Giang thốt kêu lên, tiếng kêu thảm thương và tức cười - Đồ Mỹ Diệm!
- Diệm ngoẻo rồi còn gì! - Một thằng ranh nói chọc vào.
Bật òa lên khóc, Giang quay mình chạy lao vào trong nhà.
Mọi sự như thế là tung hê. Ngày vui tưởng đã tan tành. Bọn trẻ nhớn nhác, không biết phải làm sao bây giờ. Đứa nào đứa nấy mặt mày tiu nghỉu, buồn xo. Có đứa mếu máo. Nhưng cuối cùng thì anh Trung của chúng cũng không vì giận chị Giang mà bỏ rơi chúng. Rồi bánh cũng được xếp vào phuy, nước đổ đầy, lửa được nhóm lên, củi cháy đượm. Ngọn lửa reo vui, hơi lửa lan tỏa. Dọc phố gió bấc lùa hun hút mà trong sân ấm ran, và đã nghe đậm dần lên mùi thơm của lá và gạo nếp. Bọn trẻ trải chiếu ra sân đánh bài và nói phét. Dễ chịu, êm đềm, ấm cúng, như mọi năm. Nhưng khác là không có chị Giang. Chị Giang không xuống vui cùng. Không có chị thì không có táo, thứ quả chị ưa nhất khiến bọn chúng cũng ưa nhất, không có ngô nướng, và không có giọng kể chuyện du dương, không tiếng cười trong trẻo của chị. Không có chị, anh Trung mất hết tính hồ hởi thường ngày. Nặng chình chịch cái mặt bị ăn đấm sưng vù, anh ngồi thì lỳ một cục. Anh chỉ hé răng nói đôi lời với anh công an tuần đêm tạt qua hút điếu thuốc lào và với chị công nhân quét rác ghé vào sưởi ấm chốc lát. Không được anh chung vui, niềm vui của lũ trẻ nguôi dần. Mọi năm cả lũ sẽ thức chơi đến tận sáng, nhưng đêm ấy, khi họa sĩ Năm Tín rẽ vào thì bọn lau nhau đã đi ngủ hết, chỉ những đứa lớn còn ngồi canh bếp lửa với Trung.
Thằng Bình, em Giang, theo lệnh chú Năm chạy lên gác gọi chị, nhưng vì đã nhất quyết từ mặt Trung nên Giang nhất định không chịu xuống. Cô sai thằng Bình bưng bộ ly cùng đĩa mực nướng xuống để chú Năm uống rượu. Cô còn bắt nó quay lên lần nữa để mang chăn bông, kèm theo một rổ táo ta với chục bắp ngô xuống cho “bầy lũ anh em nhà chúng mày”.
Bọn nhãi xuýt xoa vui sướng chào đón quà của chị. Chúng lập tức chiến đấu với rổ táo và lập tức bắt tay vào nướng ngô. Trung lầm lầm gạt phắt mấy quả táo, gạt phắt cả bắp ngô nóng hổi, thơm lừng bọn nhãi vừa nướng xong.
Ông Năm rót rượu ra hai ly.
- Một ly với qua, Trung! - Ông nói - Chiến sĩ rồi, uống được.
Trung lắc đầu. Ông Năm thở dài, tợp nhanh, cạn ly.
- Nam nhi như cọp, vấp cái quên liền. Không để bụng giận lẫy. Mấy lại sắp xa nhà rồi, mau mà làm lành với nó đi.
Ông làm nhanh ly thứ hai, rồi lại rót tiếp. Uống suông, không nhắm, ông đưa đĩa khô mực cho bọn trẻ…
Đã ăn hết táo, hết ngô, đã xơi hết đĩa mực, bọn trẻ buồn ngủ. Chú Năm chẳng nói gì, chỉ uống. Một mình chú mà đã gần cạn chai Lúa Mới. Anh Trung thì một mực lặng thinh. Rầu rĩ, bọn trẻ díp mắt lại, lần lượt, đứa này tiếp đứa khác kềnh ra chiếu. Hai con chó chen vào nằm với chúng.
Nước trong phuy sôi đều đều. Tiếng củi nổ lách tách. Từ trong sáng khó mà nhìn thấy gì trong bóng tối bao quanh, vì vậy đường phố, nhà cửa như bọc trong tấm màn đen. Tuy nhiên, có thể thấy bầu trời đã chuyển màu xám nhợt, đã sáng hơn và càng lạnh hơn. Gió bấc đã ngừng thổi từ lâu, không khí mau chóng thẫm đẫm sương giá. Sắp rạng mai đến nơi rồi.
- Thôi. Qua về! - Ông Năm chợt lên tiếng sau suốt mấy canh giờ lặng ngắt, một mình rót, một mình uống.
Cầm lấy chiếc cặp đã xẹp lép, ông loạng quạng đứng dậy. Trung nhổm lên, muốn đỡ ông.
- Khỏi! Ông gạt đi - Qua đâu có say. Say sao nổi, con ơi!
Nồng nặc mùi rượu, ông ôm lấy Trung:
- Mồng năm con lên đường hả? Lên đường mạnh giỏi nghe con… Chú Năm về nghe con… Chú Năm về. Chú Năm về lập bàn thờ cho ba má chú Năm, cho vợ chú Năm và sắp nhỏ, Trung à….
Bất đồ, ông bật khóc, nấc lên, ằng ặc, nghẹt thở, toàn thân run bần bật.
- Tụi nó tàn sát hết cả gia đình chú rồi Trung à. Giết hết… giết hết cả, không từ ai… Con gái út chú. Thằng Ba. Thằng Hai. Ba đứa con chú bị giết một khi. Rồi tụi nó sát tới bà già chú, ông già chú, Trung à. Rồi vợ chú, má sắp nhỏ… Mà đã hai năm rồi. Tối nay họp đồng hương, có đồng chí ở trỏng ra, chú mới hay, Trung à.
Ông khàn khàn kể, ông khóc rưng rức. Và gạt Trung ra, ông loạng choạng bước đi men theo bờ tường, đi về cuối phố. Vừa đi vừa khóc.
Tảng sáng, Giang xuống, mang thêm chăn đắp cho bọn trẻ. Cô bảo Trung về phòng mà ngủ để bếp lửa đó cô trông. Trung ngồi im, không buồn trả lời. Giang bực mình dợm trở vào nhà, nhưng rồi nghĩ ngợi sao đó cô lại ngồi xuống bên bếp, nhưng ngồi né xa, thật xa Trung…
Một thằng bé bị lũ bạn kéo tuột mất chăn, loàng quàng mở mắt ra. Nó nghe tiếng anh Trung rì rầm kể gì đó về chú Năm. Nó nghe tiếng chị Giang khóc thút thít. Rồi lại trở lại yên lặng. Yên lặng rất lâu, rồi se sẽ những tiếng động là lạ. Thằng bé rướn cổ lên nhìn. Còn tối lắm. Trong ánh lửa, nó thấy anh Trung chị Giang ngồi sát vào nhau, và hơn thế nữa, còn ôm chặt nhau. Nó cảm thấy cùng lúc cả hơi lửa nóng hừng hực, cả hơi thở của ban mai lạnh lẽo.
Vậy mà, thật là không thể làm sao hiểu nổi, ngày hôm sau, đêm giao thừa và suốt mấy ngày tết, nó thấy chị Giang vẫn lại chỉ chơi với Pét xồm. Mặt mày thâm tím. Pét vẫn cứ đẹp trai, và rất diện, anh ngây ngất mê mẩn, sung sướng cưỡi chiếc xe đạp Pơgiô màu mận chín chở chị Giang bay đến tất tật những tụ điểm có ca nhạc và vui chơi trong thành phố ngày xuân.
Lễ tiễn tân binh được tổ chức vào sau buổi trưa ngày Mồng Năm Tết, dưới chân gò Đống Đa. Người ta bảo rằng trong suốt mười năm, từ ngày hòa bình lập lại đến giờ, ở Hà Nội chưa từng có một đợt nghĩa vụ quân sự nào quy mô lớn như đợt này. Hàng trăm người lên đường, hàng nghìn người theo tiễn. Và khi biển người đứng nghiêm hát Tiến Quân Ca thì trước cửa đền Trung Liệt, cờ đào Tây Sơn được chầm chậm kéo lên sóng đôi cùng cờ đỏ sao vàng. Bầu không khí tưng bừng náo nức của lễ hội tòng quân hòa vào hùng khí thiêng liêng ngày Giỗ Trận nâng bổng tâm trạng từng người, giúp gạt đi những niềm bịn rịn. Ông thượng úy khu đội trưởng dõng dạc điểm danh tân binh. Đọc đến tên ai thì người ấy Có lên một tiếng thật to. Mỗi người hình như chưa bao giờ đạt được một giọng nổi trội như vậy. Anh chàng được gọi tên sau Trung lại dài giọng. “Dạ, có tôi đây!”, khiến mọi người cười rộ. Thượng úy đọc đã khản tiếng mà bản danh sách còn rất dài. Càng đông càng vui. Nghe đọc đến tên ai quen, Trung lại nhón chân lên, rướn cổ tìm kiếm. Mọi người ầm ĩ gọi nhau, hồ hởi vỗ vai nhau “A! Mày đấy à, cũng đợt này à, hay quá!”.
Mày này, tao này, thằng Cung, thằng Bình “mắt lươn”, thằng Mão “nhọ nồi”, thằng Toàn “min tu”, thằng Bào, thằng Vũ… thằng con đầu nhà bà giáo Son, thằng con thứ nhà ông Tâm y tá, thằng cháu đích tôn nhà cụ Doãn vẽ truyền thần, nhà Phúc béo gia công mỳ sợi, nhà Vạn toét chữa xe đạp, nhà Minh điếc bán nước sôi… Đông đảo người đi thế này làm sao mà biết hết nhau được. Không khéo sau đợt nghĩa vụ này, phố tụi mình chỉ còn lại bọn lỏi con và bọn con gái.
Trung nhìn quanh. Hình như hôm nay tất cả các cô nàng trong khu phố đều hội lại ở đây, và tất thảy bọn họ nom đều xinh tươi hơn bao giờ hết. Nào Liên, nào Yến, nào Oanh, nào Phượng… các cô khoác tay nhau túm tụm thành từng nhóm, líu ríu vui vẻ xúm quanh các chàng.
Người đi tiễn Trung cũng rất đông, mẹ và ba đứa em, cùng tất cả bọn nhóc nhà số bốn. Về chiều, càng lúc càng lạnh mà lễ tiễn có vẻ còn kéo dài, Trung bảo các em đưa mẹ về, mà bà Thái nhất định không chịu. Yếu lả, nhợt nhạt, run rẩy, bà bám chặt lấy tay Trung đứng sát vào anh, nghẹn ngào, gượng cầm nước mắt để dặn đi dặn lại mãi những điều không đâu vào đâu. Trung ngượng:
- Mẹ kìa, mẹ! Đừng thế, mẹ! Người ta trông vào đấy, mẹ…
Anh bảo lũ đàn em trong nhà:
- Chúng mày động viên mẹ tao, đừng để mẹ tao khóc ở đây đấy nhá. Cả về nhà nữa. Chúng mày giúp mẹ tao các việc nhá. Tao đi ba năm rồi về. Mà cũng có nghỉ phép nữa… Chúng mày thay tao lo mọi thứ cho nhà số bốn mình nhá. Nhớ chăm cây táo tao trồng. Ba năm nữa tao về, ngọn phải chấm ban công tầng hai đấy…
Trung nói, cười, nhưng vẫn buồn ra mặt, vẫn nhìn quanh nhìn quất. Bọn trẻ hiểu lòng anh, thương anh lắm, nhưng chẳng biết làm sao. Ông nội chị Giang vừa vào viện đêm qua, chị phải túc trực chăm nom. Vả lại lúc nào bên chị cũng có Pét xồm kè kè hộ tống.
Tiết trời xuân lạnh lẽo, nhưng sắc trời xuân trong xanh. Sau phần diễn văn của các quan khách, lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể thành phố và khu phố, tới mục đại diện tân binh đọc quyết tâm thư, rồi đến mục làm giao ước thi đua giữa thanh niên đi nghĩa vụ quân sự với thanh niên ở nhà sản xuất, rồi nữa là vui văn nghệ, ca hát và ngâm thơ. Có cả một ông nhà thơ nghe nói là từ tận trên Hội Nhà Văn đích thân đưa thơ mình xuống biểu diễn úy lạo bộ đội. Đầu đội mũ sắt, cổ quấn khăn rằn kiểu du kích Nam Bộ, mình vận bành tô Liên Xô có viền lông, ông sừng sững trên diễn đàn, ngâm vào loa những vần thơ như sấm. Ngay khi trường ca hùng tráng còn một đoạn dài nữa mới hết, vì quá xúc cảm, gần hai chục thiếu nữ có nhiệm vụ tặng hoa bộ đội khi nào bế mạc buổi lễ, đã vội ào cả lên diễn đàn dâng vào lòng tay thi nhân những bó lay ơn tươi thắm khiến ông này phải rất vất vả gỡ mình ra khỏi hoa để ngâm nốt phần còn lại. Sau trường ca này, mặc dù còn lâu trời mới tối và mặc dù còn nhiều nhà thơ nữa muốn lên trình bày sáng tác của họ, song các sĩ quan tuyển quân đã vội ngăn họ lại để cho buổi lễ được kết thúc.
Tân binh được lệnh lên xe. Gần hai chục chiếc xe ca được trưng dụng để chở quân, đậu ở góc sân, đồng loạt nổ máy và nhấn còi. Tiếng còi ô tô đưa sự ồn ào lên đến tột độ.
Trung ôm lấy mẹ, ôm lấy ba đứa em, và lần lượt ôm lấy từng thằng nhãi em út của anh trong nhà số bốn, xiết tất cả vào vòng tay mình lần cuối.
- Thôi nín đi, đừng khóc! - Đừng có khóc, để cho anh đi! Chúng mày đưa mẹ về đi. Mẹ ơi, mẹ về, con đi!
Anh liệng ba lô lên trước, rồi trèo vào ô tô qua lối cửa sổ. Quanh xe người ken dày vậy mà bà Thái vẫn len vào được, với với tay lên cửa sổ.
- Mẹ! - Trung luýnh quýnh nắm vội lấy tay mẹ, rồi phải buông ngay vì bị kéo lùi vào trong nhường cho người khác chen ra choán lấy khoang cửa.
- Toàn đấy hả cháu, Toàn ơi! - Trung nghe tiếng mẹ nức nở kêu lên với Toàn “min tu”, thằng bạn nhà số băm sáu cùng phố, đang đứng lấp trước mắt anh - Cháu trông nom nó cho bác với Toàn nhé, Toàn ơi!
Xe chuyển bánh, chầm chậm bò, chật vật xuyên qua những tiếng gào gọi, tiếng kêu, tiếng cười và cả những tiếng khóc. Đúng giây lát đó, qua vai Toàn, Trung nhìn thấy Giang giữa đám đông. Bằng một phép màu nào đó, chỉ một cú huých tay, anh đã vọt được ra khỏi xe.
- Giang! - Trung gào rống lên - Anh ở đây, anh ở đây!
- Anh ở đâu? - Cô gái lách qua đám đông, vừa len lách vừa kêu lên thất thanh. - Anh ở đâu, anh ơi?
Chen bừa đi, vấp dúi dụi, không thấy ai cả, không thấy gì hết, mắt dại đi, tóc xõa tung, thở hổn hển, cô nhào tới chỗ Trung. Anh chàng chen bật mấy người đang đứng chắn mất lối, rồi gần như hùng hổ, lao xộc tới chộp lấy Giang, ôm choàng lấy, ghì chặt.
Khác với các đợt trước, đợt lính nghĩa vụ này phần đa đều như Trung, tuổi còn rất trẻ, vì vậy ít thấy cảnh vợ tiễn chồng, thế nhưng bù lại người ta thấy xuất đầu lộ diện khá nhiều cặp chàng nàng như Trung và Giang. Và có lẽ cũng như Giang và Trung, tất cả những vụ yêu đương đó đều là những mối tình non dại, đầy rụt rè và sợ sệt, bấy lâu chẳng dám lộ mình mãi đến giây lát phải chia lìa mới không còn đừng nổi.
Ngay trước mắt bao người mà Giang liều lĩnh xoắn mình vào Trung. Xoay lưng lại với thiên hạ, tóc đổ xõa xuống vai. Giang đứng úp người vào người Trung, hai cánh tay vòng với lên ôm lấy cổ người yêu. Còn Trung, hai bàn tay to tướng táo tợn lùa sâu vào trong áo len của Giang, ghì riết lấy Giang từ bên trong. Bao nhiêu người thở dài, ngậm ngùi, nhìn tránh đi.
Đoàn xe nâng dần tốc độ. Trên chiếc xe chạy đầu, tiếng hát cất lên, lan dọc đoàn xe, truyền dọc phố: “Ai đã từng đi qua sông Cửu Long Giang. Cửu Long Giang sóng trào nước xoáy…”
Dưới đường, Trung đang cố sức chạy rượt theo chiếc xe chót và cuối cùng đã đuổi kịp. Từ cửa hậu chiếc xe, những bàn tay chìa xuống kéo anh lên. Phía sau, Giang chạy với theo toàn thân ngả về phía trước như cố cưỡng luồng gió mạnh và rồi lảo đảo cô ngã xoài xuống nền đất ướt át.
“Người con gái Hà Nội, những nàng tiên nghèo đẹp nhất trần gian, da trắng, môi hồng, mắt huyền, mi rợp”, trên đời này từng có một bài hát với lời ca như vậy, tôi đã từng được nghe ở đâu đó, vào một lúc nào đó không nhớ nữa. Tôi là một thằng nhãi nhà số bốn đã theo tiễn anh Trung ở chân gò Đống Đa, buổi chiều ngày Giỗ Trận. Và tôi là đứa đầu tiên chạy lao đến đỡ chị Giang dậy. Chị khóc nức nở, toàn thân run lật bật trong tay tôi. Dọc đường về tôi vẫn phải nhẹ nhàng thận trọng ôm giữ lấy chị. Chị cứ vừa đi vừa ôm mặt khóc mãi, mặc cho xung quanh người ta kinh ngạc nhìn ngó. Vào những năm ấy chẳng ai lại yếu đuối và bi thương một cách lạ lùng như thế.
Những tháng sau đấy, những năm sau đấy tôi còn dự nhiều lễ giao quân khác nữa. Và rồi bản thân tôi năm năm sau cũng đến lượt lên đường chiến đấu. Vậy mà tôi không bao giờ có thể quên lần cùng bạn bè nhà số bốn tiễn biệt anh Trung. Đây là cuộc đưa rước thanh niên đi làm nghĩa vụ quân sự trong thời bình, và vào những ngày đầu năm 1964 ấy, thì trong tầng lớp bình dân ngay những người đứng tuổi và trải đời cũng khó mà biết chắc sẽ là như thế nào những năm tháng đang đón rình phía trước, nói gì một thằng bé mới mười ba tuổi đầu như tôi, vậy mà… Không, không phải do ngày nay nghĩ lại mà mường tượng ra như thế. Mà thực sự là như vậy, vào buổi chiều hôm ấy, một chiều mùa xuân cực độ thanh bình, dưới chân gò Đống Đa, tôi đã cảm thấy trời long đất lở trong lòng mình. Mà thật ra nào phải là tôi, mà là nhân dân, nhân dân muôn thuở dịu hiền, muôn thuở cầu ước sống bình yên, đã âm thầm cảm thấu con sóng lừng thời đại mới đang ập thẳng tới bến bờ Tổ Quốc tôi. Một thời đại lớn lao và nghiệt ngã chưa từng có. Thời của chiến tranh và của cách mạng lay trời, thời của nhưng đau thương vô hạn, những mất mát vô bờ, thời của chủ nghĩa anh hùng tuyệt đỉnh, của sức chịu đựng vô cùng, thời của tình yêu và của lòng quả cảm. Và từ họa sĩ Năm Tín, từ anh Trung, nhất là từ bà mẹ anh, từ chị Giang, những người đàn bà mềm yếu và nhân từ, thân thương hiền dịu của ngôi nhà số bốn, linh cảm về số phận sắp tới của dân tộc đã truyền vào trái tim tôi, làm xoay chuyển cuộc đời tôi ngay từ khi tôi chưa kịp bước hẳn vào đời. Đối với tôi, thời thơ ấu êm ả và tươi đẹp thế là đã vĩnh viễn và dữ dội ra đi vào chính cái buổi chiều mùa xuân êm ả và tươi đẹp đầu năm Giáp Thìn ấy.
Một tuần sau Tết, do cha tôi được lên lương, tiêu chuẩn nhà cao cấp hơn nên gia đình tôi chuyển vào ở trong trung tâm thành phố. Tháng Tám, bọn Mỹ ném bom miền Bắc, tôi theo trường sơ tán về miền quê rất xa. Năm thì mười họa mới được một dịp về loáng qua Hà Nội. Rồi nhập ngũ. Đi Bê dài. Cứ xa mãi, xa mãi như thế khỏi điểm ban đầu. Nhưng đường đời của ai mà không như vậy?
Trở về sau chiến tranh, nhìn lại sau lưng chỉ thấy sừng sững trường thành của ký ức chiến trường. Những năm xa vời của trước thời lửa đạn đã tan bay theo gió thời gian.
Thoảng hoặc mới có việc dọc qua phố cũ, ngang qua nhà xưa, thế mà cũng thường là cứ dửng dưng ngang qua vậy thôi, chẳng mấy khi để mắt ngó vào. Ngôi nhà nhiều chục năm rồi vẫn thế, tất nhiên cũ kỹ hơn, mặt tiền cau có, nứt nẻ, tường vôi tróc lở. Mỗi khi ghé vào thăm chỉ cảm thấy chán ngắt. Nhem nhuốc, ồn ào, chật chội và quá nhiều người lạ mặt. Niềm vui duy nhất là thấy được còn đó cây táo anh Trung trồng trước ngày nhập ngũ. Ngọn cao quá ban công tầng hai, cây sai quả, trùm bóng mát lên sân. Song le cái giống táo ta ấy là thứ cây ăn quả dường như đã quá lỗi thời, và bản thân nó, cây táo của anh Trung, cũng đã già rồi.
Tết này, khi từ nhà mới cuối phố đi bộ lên đầu phố vào thăm nhà cũ số bốn, tôi không còn thấy cây táo già đó nữa. Tấn, cậu em út của anh Trung, một thương binh trong chiến tranh biên giới, được phường ưu tiên cho phép cơi nới diện tích ở ra khoảng sân trước mặt nhà. Mặc dù chẳng muốn nhưng đành phải chặt cây táo ấy đi mới xây ra được.
- Hồi chiến tranh phá hoại, sân phải đào tung lên xây hầm công cộng mà bọn em vẫn giữ được nó. Thế mà giờ chặt nó đi, khổ tâm lắm anh ạ. Nhưng biết làm thế nào được, hả anh. - Tấn buồn rầu bảo thế.
Tôi hỏi thăm chị Giang, cậu ta cho biết vợ chồng chị vào ăn Tết trong Sài Gòn. Và có lẽ rồi đây chị sẽ chuyển hẳn vào sống trong đó.
Ra Giêng, tôi tới thăm chị. May mắn sau, Chị có nhà. Bởi tất cả những lần trước đây đến chơi nhà số bốn, tôi đều gặp phải khi chị đi công tác, thành ra như vậy là chẵn ba mươi tư năm trời xa biệt, cho tới hôm nay. Vẫn căn phòng xưa, ban công trông ra phố. Tường vôi ve. Cửa sổ buông rèm xanh. Bàn thờ luôn luôn ba cây hương thầm lặng cháy. Khi chị mở cửa ra, trong phòng chưa bật đèn. Trong ánh hoàng hôn hồng rực tràn ngập căn phòng, tôi thấy chị vẫn hoàn toàn là chị Giang ngày xưa của tôi. Và có lẽ bởi ánh nhá nhem chiều tà mà chị cũng thấy tôi như vậy chăng. Chị nhận ra tôi ngay, thảng thốt chị gọi tên tôi, kèm cả biệt hiệu. Lòng tôi đau nhói.
Rất lâu, chị ngồi bên tôi, lặng khóc. Tôi cũng vậy nước mắt nóng rực như kim châm trong tròng mắt. Bên ngoài, thành phố đã lên đèn, tôi và chị tay trong tay, thu mình trong bóng tối, cố hết sức để tĩnh tâm, để hồi lại.
Giọng run run, chị khe khẽ bắt đầu trò chuyện. Tôi cũng vậy, bắt đầu nói, bắt đầu kể. Cuộc đời tôi. Cuộc đời chị. Thì cũng như cuộc đời của bao người thôi trên đất nước này những chục năm qua, mà sao nhắc lại trái tim cứ đau thắt lại thế này. Nhưng rồi cả hai chúng tôi đều đã vượt được lên khỏi nỗi lòng mình để mà dần dần điềm tĩnh lại.
- Cậu còn nhớ chú Năm họa sĩ không?
- Có chứ chị. Nhưng chẳng được gặp lại trong suốt chừng bấy năm. Giờ chú ấy ra sao?
- Chú mất rồi. Mất năm Chín mươi. Tại quê nhà Năm Căn. Chú ấy đi Bê năm Bảy Mốt. Chị cũng không được thấy lại chú ấy từ năm đó. Trước khi mất không lâu, chú có ra thăm Hà Nội và có lại đây tìm chị, mà không gặp. Chỉ gặp anh Vinh, chồng chị. Chú Năm có gửi lại chị món quà…
Vinh? Tôi rùng mình. Thế nào mà chồng của chị cũng tên là Vinh cơ chứ, trời ơi! Anh Vinh ngày xưa, anh Pét xồm đẹp trai, từng mê mẩn chị đã hy sinh trong mùa khô khốc liệt năm Bảy Hai. Hy sinh ngay trước mắt tôi. Chính tiểu đội tôi bám chiếc xe T54 của anh xung phong vào căn cứ Plây Cần. Đã đột phá được qua cửa mở, bộ binh chúng tôi vừa ào xuống khỏi xe. Từ hầm ngầm, liền hai trái M72 bắn chéo cánh sẻ phụt tới. Toàn tổ lái cùng với chiếc xe bùng cháy…
- Chị hỏi thăm nhiều họa sĩ mà chẳng ai nhớ chú ấy. Tên tuổi chú ấy không được như họ. Nhưng mà cậu xem này.
Chị Giang với tay bật đèn. Chỉ một ngọn thôi, ánh sáng dịu như là ánh nến. “Lại đây!”, chị nói khẽ và nhẹ nhàng rời ghế, dịu dàng chị nắm tay tôi, đưa tôi lại gần khuông cửa sổ buông rèm. Trên tường, kề cửa sổ, treo một bức sơn dầu, viền trong khung gỗ màu nâu.
Đang bước tới gần, tôi như bị vấp một cái. Vấp phải một cảm giác. Một cảm giác dội ra từ bức tranh. Tôi nhìn, chết lặng trong người. Họa sĩ vẽ chúng tôi. Bảy người. Và đúng là cái đêm xưa, 28 Tết năm Thìn ấy. Cảnh tượng thật huyền diệu: xung quanh đống lửa, một vầng hồng lung linh, rập rờn và dường như đang muốn vùng quẫy với vòng vây của đêm tối để tỏa rộng ra mãi. Bầu trời trước đêm trừ tịch không tăm tối đen đặc mà quang đãng, tối thẫm trải rộng trên đầu chúng tôi với tất cả vẻ hùng tráng và trang nghiêm, bầu trời đêm trước của một thời đại phi thường, một bầu trời đêm không bao giờ con người thời nay còn được thấy. Và tôi cũng nhận thấy trong đêm tối của bức tranh, những khối hình và đường nét thân thuộc thuở xưa mà ngày nay đã mai một rồi của dãy phố này.
Nhưng cái chính làm nên bức tranh là chúng tôi, những gương mặt được ánh lửa soi hồng, được tả thực một cách chân xác và đầy biểu cảm. Tuy nhiên, tất cả cái đẹp, cái chân thực và thần thái mê hồn của bức tranh lại tạo cảm giác đau buốt. Xuyên ngọt qua thời gian và cả qua da thịt. Bức tranh cho tôi thấy một điều hiển nhiên mà bấy lâu nay với cái ý thức đã ngày một trở nên phẳng lỳ, tôi đã không thể có khả năng một lúc nào đó tự nhận ra: trong số chúng tôi, sáu thằng con trai còn trẻ con và non dại đến thế đang ngồi kia quanh nồi bánh chưng trong bức tranh này, đến ngày hôm nay chỉ còn sống có một, chỉ độc nhất một mình tôi. Một mình tôi mà thôi!
Tiết thanh minh năm ngoái, ngang qua Gio Linh, vào viếng Nghĩa trang bộ đội Trường Sơn, tôi đọc thấy tên tuổi Bình trên một trong hàng ngàn mộ chí của khu các liệt sĩ quê Hà Nội. Chị Giang bảo là vợ chồng chị đã tính đưa Bình ra ngoài này, nhưng một đêm nọ, Bình báo mộng, cho biết là muốn mãi mãi nằm bên đồng đội, mãi mãi với rừng le đồi lau đất đỏ chiến trường xưa, thành thử… Trong tranh, Bình là một thằng bé mới mười tuổi, gương mặt phảng phất nét chị Giang, mịn màng và thanh tú. Nó ngồi bó gối, vóc mảnh khảnh, tóc xoăn, cái miệng phụng phịu.
Ngồi cạnh nhóc Bình là thằng Phái, năm ấy mười hai tuổi. Tóc húi cua lộ rõ cái đầu méo và đầy sẹo, gò má nhọn, mồm rộng chành bành, mặt nhợt nhạt, rỗ tổ ong, đôi lông mày chau chau, cau có. Nó là thằng con đầu của ông Tá tài xế, Xấu xí, thô kệch, ăn bận tồi tàn, lôi thôi lếch thếch nhất hội song là một đứa con trai tốt bụng và chân thành biết bao. Phái đi bộ đội cùng năm Sáu Chín với tôi, nhưng không sung vào bộ binh như tôi mà được điều sang cao xạ. Đóng chốt ở Hà Nội và hy sinh ở Hà Nội, trong chiến dịch Mười hai ngày đêm đánh B52.
Thằng Sơn, con trai ông Cư sở điện, tuy rằng bố bị tù, song là đứa duy nhất trong nhà học lên đến đại học. Nhưng trong tranh nó vẫn còn là một thằng nhãi chỉ hơn tôi một tuổi, đầu tóc bù xù, thân hình gày gò và trông rõ là lùn tịt mặc dù nó đang ngồi xếp bằng. Gương mặt thô nhưng bởi đôi mắt thật là to và sáng mà nom thông minh cực kỳ. Nó ngồi cạnh nồi bánh chưng mà vẻ mặt như thể đang ngẫm nghĩ cách giải những bài đại số đang tích ở trong đầu. Sơn thi đỗ vào tổng hợp Toán, học đến năm thứ hai thì nhập ngũ. Trinh sát pháo binh. Hy sinh ở Cánh Đồng Chum.
Bị khuất mất một phần vào vùng tối của bức tranh là gương mặt Đính, em trai anh Trung, Đính quấn chăn chiên, nằm cách hơi xa đống lửa, hai tay chống cằm. Khuôn mặt nó chẳng giống anh Trung chút nào. Má bầu, tai to, nhưng cằm nhọn hoắt và cái cổ thì gầy ngẩng. Tính nết Đính cũng khác hẳn anh, nó rất lành và quá sức là rụt rè. Mười một năm sau, Đính là một trong những người lính của đại đội đặc công đã tập kích vào sân bay Hòa Bình ngoại vi Buôn Ma Thuột, nổ súng mở màn cho chiến dịch mùa khô Bảy Lăm. Anh cùng hầu hết đồng đội đã hy sinh trước khi bộ binh và xe tăng ta kịp đánh tràn vào ứng cứu.
Anh Trung, người anh cả của Đính và của cả lũ chúng tôi, là nhân vật có vóc dáng và dung mạo được ánh lửa trong bức tranh đặc tả nhiều nhất. Anh ngồi xếp bằng, hai chân khoanh lại, lưng thẳng, ngực ưỡn ra, hai con chó vàng nằm hai bên, gác đầu lên đùi anh. Xưa nay tôi hiếm thấy ai cường tráng như Trung. Anh không cao, thậm chí hơi lùn, nhưng vai rộng lạ lùng, ngực nở căng, bụng thon chắc. Những bắp thịt cuồn cuộn nổi hằn lên dưới chiếc áo dệt kim sọc xanh của học sinh trường hàng hải.
Cái cổ anh ngắn và to bạnh đỡ lấy cái đầu to quá cỡ, xưa vẫn bị chị Giang trêu là như cái thùng nấu phở, trán dô, mũi tày và tẹt, gò má rộng, cằm vuông chằn chặn, tóc rễ tre, húi rất ngắn. Trên khuôn mặt màu đồng hun lấp loáng ánh lửa hồng này, họa sĩ đã lược hết mọi dấu tích trận ẩu đả, nên không những không hề thoáng nét hung tợn mà cũng không cả vẻ ngang tàng ngỗ ngược. Đấy là dung mạo của một chàng trai đầy sức mạnh và lòng can đảm, tuy nhiên đang trầm tư và đang rất buồn, cặp mắt to, mơ mộng, long lanh như nước và vô cùng buồn bã của anh như đang muốn thốt lên một điều gì đó mà tiếng nói thông thường không đủ sức diễn đạt… Anh là liệt sĩ Kháng chiến chống Mỹ đầu tiên của cả ngôi nhà số bốn, và có lẽ của cả phố, không chừng của cả thành phố. Gia nhập hải quân, anh hy sinh ngay trong năm Sáu Tư, ngoài khơi Hòn Mê, một ngày biến động, đầu Tháng Tám. Tin anh tử trận đồn về rất sớm song không hiểu sao báo tử chính thức lại rất muộn. Năm bảy mươi, khi anh Vinh “Pét” nhập ngũ, chị Giang vẫn còn đang một lòng đăm đắm chờ đợi ngày anh Trung của chị trở về. Anh Vinh kể với tôi thế trong cái đêm đơn vị tôi và đơn vị anh cùng ém trong cánh rừng già ven đường 18 đợi lệnh hiệp đồng tấn công Plây Cần.
Trên bức tranh, chị Giang hiện ra trong khoảng dập dờn nhất của quầng sáng, nên hình ảnh chị vừa sinh động vừa hư hảo, mà có lẽ đấy là dụng ý của họa sĩ, bởi vì thực ra đêm ấy chị đâu có ngồi đó bên bếp lửa với đám trẻ nhà số bốn. Họa sĩ không vẽ chị ngồi kề bên anh Trung. Chỉ có một thằng bé đang nép sát vào chị, và cả hai chị em đều ngồi hơi tách khỏi những nhân vật khác của bức tranh.
Chị Giang trong tranh mới mười bảy tuổi. Dưới ánh phản chiếu lung linh của ngọn đèn, gương mặt trái xoan trẻ măng, trắng hồng của chị mới xinh làm sao. Cặp môi mòng mọng hơi bậm lại, cái cổ cao trắng ngần. Chị ngồi, cúi đầu, hai tay khoanh trên đầu gối. Không nhìn thấy mắt, chị không ngước mắt lên, nhưng có thể thấy rõ đôi lông mày thanh tú, hai hàng mi rợp và như hơi ươn ướt. Vẻ mặt đượm buồn. Thằng bé ngồi bên chị, vóc người cao, chân dài diện giày da, bận áo ấm kiểu ngoại có viền lông, nom rõ là con nhà khá giả hơn hẳn những đứa khác trong tranh, nhưng tôi không thấy được khuôn mặt nó. Thằng bé ngồi nép sát vào chị, vòng tay ôm lấy eo chị và đầu thì ngả hẳn lên bờ vai. Vì thế khuôn mặt nó chìm vào trong mái tóc dài buông xõa trên vai chị. Tôi chăm chú nhìn, và bất chợt giật mình. Người gai lên. Phải chăng thằng bé ấy là tôi? Thận trọng, cố không để bị cảm giác đó chi phối, tôi lại thật sát bức tranh, nhưng khi nhìn quá gần thì các chi tiết trên tranh lập tức rời ra thành những vệt riêng biệt, chỉ còn là những mảng màu nổi gờ lên cùng những vệt bút vẽ.
Tôi lùi lại, và khi đấy, từ một khoảng cách vừa phải, trước mắt tôi những mảng sơn dầu lại hợp vào thành đêm hôm ấy, thành những người anh em đã khuất của tôi, thành chị Giang và tôi. Đúng là tôi. Đúng là tôi, cái thằng bé đang vùi mặt vào tóc chị. Tôi chưa từng ngồi như vậy bao giờ, chưa từng có cử chỉ ấy, nhưng mà tôi đã từng nhiều lần mơ thấy như thế. Làm sao, sức mạnh huyền bí và linh diệu nào đã khiến những giấc mơ cực độ thầm kín năm xưa hiện về trên mặt vải?
Gần trọn quãng đời trai trẻ của tôi không hề được hưởng tình yêu. Qua hết những năm vị thành niên cho đến ngày nhập ngũ, trải sáu năm chiến trường chẳng từng được thật sự gần gũi một người con gái nào. Hết chiến dịch này tiếp chiến dịch khác, mùa khô qua mùa mưa tới, sức lực, sinh khí đổ dốc xuống dọc những chặng đường hành quân và xuống những chiến hào, tình cảm dành trọn cho đồng đội. Nhưng thảng hoặc, vào buổi sớm mai nào đó, đất trời tự dưng ắng tiếng bom, thức dậy giữa rừng sâu không tiếng súng, nằm đung đưa trên võng, tôi thường thẫn thờ nhập thân vào một kỷ niệm chẳng phải của mình. Tôi trông thấy chính tôi, chứ không phải Trung, đang ghì xiết lấy chị Giang, khi thì giữa đông nghịt người dưới chân gò Đống Đa, khi thì trong ánh sáng lúc canh khuya của lửa bếp trước sân nhà. Sững sờ, tôi cảm được cặp vú của chị áp lún vào lồng ngực tôi và căng trĩu trong lòng bàn tay tôi. Một mình tôi góc rừng hoang mà tôi chạm được vào đôi môi của chị, hít thở được hương thơm của làn da và mái tóc chị. Lúc bấy giờ, tôi biết những cơn mê lú như vậy là tội lỗi và sẽ chỉ gây nên cho tôi những thương tổn tinh thần trầm trọng. Không muốn phải chịu đựng những đau đớn vô ích, do đó tôi đã cố cưỡng, song con người ta ai mà có thể đưa tay ra cản lại mộng mị?
Nhưng sau chiến tranh, khi mà cái sức tưởng tượng tội lỗi ấy không còn trong tôi nữa thì tôi lại hiểu ra rằng những tội lỗi trong mơ ngày đó chính là hình bóng của mối tình đầu không có thật của tôi. Và mặc dù rằng dù sao đi nữa thì cũng vẫn là tội lỗi, và mặc dù khốn khổ, mặc dù nực cười và mặc dù mong manh lúc mờ lúc tỏ nhưng mối tình đầu phải tuyệt đối vùi sâu chôn kỹ ấy cũng đã góp phần ánh sáng soi rọi tâm hồn tôi, giúp tôi vững tinh thần, và có lẽ một phần nhờ thế mà rốt cuộc tôi đã sống sót trở về.
- Tuần sau chị sẽ vào lại Sài Gòn. - Giang nói, thở dài. - Và chắc phải ở hẳn lại. Anh Vinh thì đã vào từ mấy năm rồi. Anh ấy thích Sài Gòn. Chị thì cứ dùng dằng. Lần này, anh ra tối hậu thư, hoặc vào với chồng con, hoặc…
Chúng tôi đứng ngoài ban công. Buổi tối mùa xuân lạnh lẽo, lất phất mưa phùn. Ban công khá rộng, song chỉ để vài chậu cây.
- Bữa nào cậu qua mang cái gốc táo này sang bên nhà, - Giang chỉ một chậu cây to khuất trong góc tối. - Trước khi chặt cây táo dưới sân, Tấn nó cũng có lòng chiết cho chị một cành. Chẳng hy vọng gì, thế mà rồi sống nổi đấy.
Giang nói miên man. Giọng nhỏ nhẹ, buồn rầu. Ngoài ban công rất lạnh, nhưng chúng tôi không trở vào phòng. Càng về khuya càng lạnh, song tôi không nhận thấy thế. Lòng tôi ấm áp. Tôi đang ở bên Giang. Tôi có thể đứng mãi, đứng mãi thế này.
- Chị sẽ để lại căn phòng này cho Tấn, - Giang nói. - Nhà được ba anh em, cả ba anh em đều ra trận. Mà được mỗi cậu ấy trở về. Bức tranh chị cũng để lại. Gia đình chẳng giữ được bức ảnh nào của anh Trung. Hình như anh ấy chỉ còn lưu lại duy nhất ở trong bức tranh thôi.
Thấy tôi châm thuốc, Giang hỏi:
- Cậu hút thuốc lá rồi đấy à?
Tôi bật cười. Cách đây ba lăm năm Giang cũng đã nhẹ nhàng trách cứ như thế khi phát hiện tôi núp dưới gậm cầu thang hút trộm thuốc của bố.
Trong bóng tối, gương mặt Giang lại trẻ như hồi nào… Và tôi cũng thế. Bởi vì thời gian càng nhích sâu vào trời khuya để đến với ngày mai thì chúng tôi càng về gần hơn với Hà Nội những đêm xưa, với Hà Nội trong vắt lúc không giờ. Về gần hơn với bạn bè một lứa bên trời, về gần hơn với tình yêu ban đầu, về gần hơn với tuổi thơ non dại. Sinh ra, lớn lên, rồi làm lụng, rồi chiến đấu và hy sinh cho thành phố này, thế hệ chúng tôi được hưởng phép màu của nó, trở thành một thế hệ mãi mãi tuổi thanh xuân của một thành phố trẻ trung vĩnh hằng.
BẢO NINH
Tiểu sử
Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh (nay thuộc thành phố Đồng Hới), tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Ông là con trai của Giáo sư Hoàng Tuệ (1922 - 1999), nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học. Ông vào bộ đội năm 1969. Thời chiến tranh, ông chiến đấu ở mặt trận B-3 Tây Nguyên, tại tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 10. Năm 1975, ông giải ngũ. Từ 1976-1981 học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Từ 1984-1986 học khoá 2 Trường viết văn Nguyễn Du. Làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1997.
Tác phẩm
Năm 1987 xuất bản truyện ngắn Trại bảy chú lùn.
Năm 1991, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (in lần đầu năm 1987 tên là Thân phận của tình yêu [1], được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và đã được đón chào nồng nhiệt. Đó là câu chuyện một người lính tên Kiên, đan xen giữa hiện tại hậu chiến với hai luồng hồi ức về chiến tranh và về mối tình đầu với cô bạn học Phương. Khác với những tác phẩm trước đó mang tính sử thi, miêu tả chiến tranh từ góc độ cộng đồng, hùng tâm tráng chí của người lính chiến đấu vì vận mệnh đất nước, Bảo Ninh đã miêu tả chiến tranh từ một góc độ khác, góc độ cá nhân, thân phận con người, đi sâu vào những nỗi niềm cá nhân. Nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: "Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới". Tuy nhiên, trong hơn 10 năm sau đó tác phẩm đã bị cấm, không được in lại, có lẽ do quá nhạy cảm; mặc dù vậy, với làn sóng đổi mới ở Việt Nam, cuốn sách vẫn rất được ưa thích.
Cuốn sách được dịch sang tiếng Anh bởi Frank Palmos và Phan Thanh Hảo, xuất bản năm 1994 với nhan đề "The Sorrow of War", được ca tụng rộng rãi, và một số nhà phê bình đánh giá là một trong những tiểu thuyết cảm động nhất về chiến tranh. Bản dịch này được photo bán rộng rãi cho du khách nước ngoài. Đây là một cuốn sách được đọc rộng rãi ở phương Tây, và là một trong số ít sách nói về chiến tranh từ quan điểm phía Việt Nam được xuất bản ở đây. Một điều đáng khâm phục là Bảo Ninh đã trình bày quan điểm này mà không hề lên án phía bên kia.
Năm 2005, tác phẩm này được tái bản với nhan đề ban đầu là Thân phận của tình yêu; năm 2006 tái bản với nhan đề đã trở thành nổi tiếng: Nỗi buồn chiến tranh.[2]
Bảo Ninh còn viết một số truyện ngắn về đề tài chiến tranh, trong đó truyện Khắc dấu mạn thuyền đã được dựng thành phim. Truyện ngắn "Bội phản" trong tập truyện "Văn Mới" do Nhà xuất bản Văn học xuất bản, cũng đã được ông gửi gắm nhiều tình cảm và suy nghĩ vào trong các nhân vật.
BẢO NINH VÀ NHỮNG ÁM ẢNH CHIẾN TRANH
Năm 1991 có một sự kiện văn học mà cho đến giờ vẫn được đánh giá là khó lòng lặp lại, là cùng một năm ấy có đến 3 tiểu thuyết được giải thưởng Hội Nhà văn.
Sở dĩ nói nó không lặp lại là bởi cả 3 tiểu thuyết này đều lừng danh, và cho đến giờ vẫn là những tượng đài văn xuôi Việt Nam. 3 tiểu thuyết ấy là Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. 3 cuốn, mỗi cuốn một vẻ, đều hay, đều độc đáo, đều hấp dẫn. Nhưng nếu cần chọn một cuốn nhỉnh hơn, một cuốn khiến cho cái dư ba sau đọc tạo dư chấn lâu hơn, sâu hơn, lớn hơn… thì tôi chọn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Thực ra cuốn này ra đời trước khi nó được giải thưởng vài năm, và vì tình hình thực tế lúc ấy nên ban đầu nó phải “đội” một cái tên rất… thị trường là Thân phận tình yêu, để rồi 3 năm sau nó trở lại tên ban đầu và lừng danh đến giờ.
Bảo Ninh sinh năm 1952 tại Nghệ An nhưng quê gốc lại ở Bảo Ninh, Quảng Bình, có thể vì thế mà ông lấy bút danh là Bảo Ninh chăng, bởi tên thật của ông là Hoàng Ấu Phương kia? Ông là con trai nhà ngôn ngữ nổi tiếng Hoàng Tuệ. Và như mọi thanh niên thời chiến khác, ông đã từng là lính, và chiến trường ông chiến đấu thời ấy là Tây nguyên, cụ thể là ở Sa Thầy, và cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của ông cũng có không gian là vùng đất ấy.
Nhặt chuyện văn nhân: Bảo Ninh và những ám ảnh chiến tranh. 
Nhớ năm nào đó, ông đi cùng đoàn du khảo từ Hà Nội xuyên Việt vào Sài Gòn bằng đường Hồ Chí Minh có ghé lại Pleiku. Tối ấy có một cuộc “ngồi” tại nhà tôi, có các “đại danh” Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Xuân Nguyên, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Việt Hà, Dương Trung Quốc… và Bảo Ninh. Ông bó gối ngồi gù gù như con gấu trong một góc nhà với cái đầu xoăn tít cứ lắc lư với những tiếng nói rất nhỏ như gầm gừ trong cổ, trong khi xung quanh mọi người nói to như hét. Cứ thế một lúc thì ông bật lên: mai bỏ cuộc du khảo ở Pleiku, mà sẽ quay lại Kon Tum, Sa Thầy, ai đi với ông thì đi, không thì ông đi một mình. Chuyến ấy tôi đã không đi cùng ông, nhưng có được xem một số ảnh chụp ông vào nghĩa trang thắp hương cho đồng đội, rất xúc động.
Gặp Bảo Ninh ngoài đời ít ai tưởng tượng được đấy lại là… nhà văn. Dáng vẻ rất ngầu, ít nói, gù gù như con gấu với mái tóc lúc nào cũng xoăn trùm trán và cái nhìn lờ đờ như lơ ngơ với đời, như chả biết chuyện gì. Nhưng đọc ông xong thì… hãi. Té ra phía sau cái vẻ như là bất cần ấy là một sự thông minh tài hoa, là một trái tim nhân hậu và khối óc sắc sảo, để ông mổ xẻ, phân tích, chọn tứ chọn chữ, chọn vấn đề phơi lên trang giấy, bắt người đọc thổn thức, bắt người đọc mất ngủ…
Chiến tranh dưới mắt Bảo Ninh chính là thân phận của những con người, cả người lính trực tiếp cầm lê xung trận và cả những người ở hậu phương, những mối tình, những cái hôn trộm, những thao thức trăn trở, những thèm khát vừa bung mở vừa cố nén, những giấc mơ, ước mơ và những bóng đen, hoa hồng và họng súng, lưỡi lê và vòng ôm… nó làm nên một thực thể chiến tranh vừa chân thực lại vừa xa ngái, bởi nó muốn cảnh báo con người, rằng chiến tranh là hy sinh, là mất mát, là đau khổ chia ly… chứ không phải chỉ là bài ca ra trận…
Và cũng phải nhắc tới cách viết của Bảo Ninh nữa, nó cuốn hút và mê hoặc, nó khiến người ta không thể rời cuốn sách khi chưa có cái chấm cuối cùng, dù đọc nó, nhiều chỗ phải rùng mình vì sự khốc liệt, vì sự trần trụi của chiến tranh.
Sau này Bảo Ninh vẫn viết, nhưng ít hẳn đi. Hỏi ông chỉ gầm gừ nửa như nói nửa như không. Có thể ông viết ít vì thấy mình khó mà vượt qua được Nỗi buồn chiến tranh, cũng có thể sau cuốn ấy ông đã kiệt quệ. Tôi thì, được quen ông, và vẫn luôn coi ông như một tượng đài, để ngắm, để chiêm ngưỡng và để ước ao.
Nhớ lần nào đó ở Hà Nội, khuya rồi, tôi cũng vừa có cuộc tụ bạ với bạn bè, có điện thoại gọi, nói đến đấy đến đấy, hỏi xa không, bảo chừng chục cây số taxi, suýt từ chối thì đầu kia nói tiếp: Có Bảo Ninh đang ngồi đây. Thế là vùng dậy ngay, taxi lao đến, có phải mấy khi đâu.
Cuộc ấy, chúng tôi ngồi đến gần sáng. Lại cũng như mọi khi, chúng tôi uống và nói, còn ông uống và… ngồi im. Tôi có nhắc ông cái truyện ngắn Mây trắng còn bay của ông mà tôi mới đọc. Có vẻ như chiến tranh không thể thoát ra khỏi cái đầu luôn bù tóc và cả trái tim có vẻ yếu ớt của ông nữa.
Tên truyện ngắn rất ngắn này lãng mạn như một bài thơ nhưng cái kết lại vỡ òa bi tráng.
Tôi kể với ông là tôi đã khóc khi đọc truyện ngắn này. Ông có vẻ như cố giấu một cái gì đấy chực tràn lên mắt bằng cách bưng ly rượu lên nhấp nhẹ rồi lại bỏ xuống, tôi vẫn nhận ra như có trong mắt ông một làn mây mỏng. Một bà mẹ lần đầu đi máy bay, lơ ngơ khiến khách và cả tiếp viên có vẻ khó chịu và cả thương hại. Bà luôn miệng hỏi đến đấy đến đấy chưa, dù đang bay trên trời. Bà cứ hỏi thế, đúng một bà mẹ quê thứ thiệt, như máy bay là góc buồng của bà, như những đám mây đang bay ngoài cửa sổ kia là đám rau xanh vườn bà...
Một người bạn rất thân với Bảo Ninh và cả tôi bảo: Yên tâm, Bảo Ninh đang im lặng để dồn sức cho một tiểu thuyết mới, “khủng” hơn cả Nỗi buồn chiến tranh, và tôi cũng tin thế… 
(Trích từ sách Nhặt chuyện văn nhân do Liên Việt và NXB Văn học vừa ấn hành) - Văn Công Hùng.
26/3/2023
Bảo Ninh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đội Mũ Lệch Thả vỏ quýt ăn mắm ngấu Hai năm nay, Cả Lĩnh làm ăn phát đạt. Chẳng thế mà hắn ta lại dựng ngay ở phố chính một tòa nhà ...