Thứ Tư, 24 tháng 5, 2023
Tập truyện Aziz Nesin 2
TÌM ĐƯỢC CHỖ CỦA MÌNH
– Tôi lại nghĩ khác! Không nên than phiền! Dân chúng bắt đầu
có nhiều tiền hơn. Việc làm cũng dễ tìm. Nếu đòi hỏi hơn nữa thì đúng là vô
ơn!…
Thỉnh thoảng từ phòng bên cạnh vẳng lại giọng nói trẻ con
lanh lảnh. Hai vợ chồng chủ nhà than phiền về cậu con trai của họ. Hóa ra đứa
con trai của họ, – cầu thánh Ala ban phước cho cậu, – là một đứa trẻ rất ngỗ
nghịch. Trong một thời gian ngắn trong nhà đã phải thay tới bốn cô nhũ mẫu; cô
kiên nhẫn nhất cũng chịu được có sáu tháng, và lúc này trong buồng bên cạnh cậu
bé đang hành hạ cô bảo mẫu đáng thương. Bố mẹ cậu bé đã quá mệt mỏi trước tính
hiếu động quá mức của cậu con quý tử. Khi đề tài này đã cạn, chúng tôi lại im lặng.
– Cái này ấy à?… Cái này… là một bộ phận của ấm samôva…
– Thôi nào, cháu chơi với cái thuyền một lúc đi.
– Mũi, ta đã nói rồi mà! Chà, cái thằng… – Nhưng ông kìm lại
được: – Với trẻ con không được tỏ ra thô bạo. Các vị hiểu chứ? Không bao giờ!
Và đến đây xảy ra một điều kỳ lạ nhất, ông Fikri bắt đầu chạy
khắp phòng, vừa chạy vừa la to:
– Xin mời các vị đi lối này, lối này. Chúng tôi rất kính
trong các nhà báo danh tiếng của chúng ta. V-â-â-n-g…
– Không, không, cái vị đang để tay sau lưng kia?
– Phải thắng, phải chiến thắng, các vị ạ! Phải làm việc và
chiến thắng?
– Kính thưa quý vị! Tôi chân thành chào mừng tất cả các quý vị
có mặt hôm nay (có tiếng dao, dĩa kêu lanh canh) để dự lễ lắp đặt chiếc chảo thứ
tư tại nhà máy điện của chúng ta. Chúng ta đã tự mình lắp đặt cái chảo này mà
không cần sự giúp đỡ của người Mĩ. Tinh thần quyết tâm, nghị lực, nhiệt tình của
chúng ta, mà nhờ đó chúng ta đã thắng đội tuyển Hungari với tỉ số ba – một, đã
được thể hiện cả ở đây. Khi lắp đặt chiếc chảo này trên miệng lò chúng ta đã
không cần sự giúp đỡ nào của nước ngoài, nếu không kể đến bà chuyên gia Mĩ, hai
kỹ sư Mĩ và bốn thợ cả Mĩ. Như các vị đã thấy, cái chảo đã được đặt trên miệng
lò bằng những phương tiện kĩ thuật trong nước. Tôi cần phải nói rằng, khi cái
chảo đã được lắp xong, và chúng ta đang cố tìm ra nguyên nhân vì sao nước không
sôi, thì phát hiện ra rằng cái chảo nằm cách miệng lò khoảng sáu mét. Bởi cái
chảo rất nặng, nên các chuyên gia cho rằng cách tiết kiệm hơn là cho xây một
cái lò mới để khớp với đít chảo. Cái chảo của chúng ta là cái lớn nhất không chỉ
ở Cận Đông, mà ở cả vùng Ban Căng. Thêm vào tất cả những cái đó là nó được làm
bằng đồng mạ thiếc. Người ta chỉ phát hiện được có hai lỗ thủng ở hai chỗ.
Chúng ta đã tự mình khắc phục được hai lỗ thủng đó bằng các phương tiện tự có
như xơ gai, bông và nhựa đường. Lần này chúng ta không cần đến sự hỗ trợ của
các chuyên gia Mĩ. Những tia nước rò rỉ từ các chỗ vá không đủ sức làm tắt lò.
Như các vị đã biết, hiện nay toàn thành phố đang thiếu nước vì hồ Teckôt đã bị
cạn, nếu không chúng tôi có thể cho thử nghiệm ngay trước mặt quý vị. Cái chảo
này thoạt tiên người ta đào lên trong cuộc khởi nghĩa của Muxtapha. Sau đó nó
rơi vào biệt thự của ngài Khalin và một thời gian dài được dùng để nấu kẹo mạch
nha. Sau đó trong nhiều năm nó thực hiện sứ mệnh là chảo hơi nước trên một cái
tàu thủy. Cái chảo có chín tay cầm, chúng ta đã sáng chế ra cái thứ mười và lắp
đặt nó tại nhà máy điện này. Cái chảo này vốn…
– Tuyệt lắm. Tạm biệt.
Các vị có biết không, tôi từng đọc những bài diễn văn mà sau
khi nghe xong mọi người phải đổ xô đến gặp tôi ôm hôn, chúc mừng. Tôi tự hỏi
mình: “Này, mi vừa nói gì thế?” Lạ một cái là chính tôi cũng không biết mình vừa
nói gì. Vả lại, cũng chẳng ai đoán ra được – cả tôi lẫn các thính giả của tôi.
Cái hay của bài diễn văn được xác định bằng cách như thế này. Người ta hỏi diễn
giả “Ngài vừa nói gì vậy?”, còn hỏi thính giả “Các vị vừa nghe gì vậy?”: nếu
người đầu tiên trả lời anh ta không biết vùa nói gì, còn người thứ hai bảo họ
không biết vừa nghe gì, song khẳng định bài phát biểu khiến họ xúc động, – thì
hãy coi như đó là bài diễn văn xuất sắc.
Nhưng ăn được điểm “ba” của thầy cũng rất khó khăn. Một buổi
vào dịp cuối năm tôi đọc tại lớp một bài diễn văn lâm li đến nỗi thầy Nizam
suýt nữa bị ngất vì cơn đau tim. Các học sinh phải xốc nách thầy đưa ra khỏi lớp
dìu đến phòng giáo viên.
Những con cừu với sừng mạ vàng được tắm rửa sạch sẽ và nhuộm
phẩm hoàng điều đứng thành một dãy. Những con trâu, con bò, con lạc đà cũng
đang chờ đến giờ hành hình. Người ta phải giết những con súc vật này đúng vào
phút cho nhà máy khởi đông ngay trước mắt chúng tôi. Người ta căng ra sợi băng
lụa và chuẩn bị những cái kéo… Người ta bày sẵn các bàn tiệc. Tóm lại… mọi việc
đều trôi chảy. Từ sáng sớm từng đám dân các vùng lân cận đã ùn ùn kéo đến nhà
máy. Cả một vùng bình nguyên rộng lớn biến thành cái biển người. Đến tầm trưa
thì một dòng xe con, xe buýt nối đuôi nhau tiến vào. Giờ phút mong đợi đã đến.
Khami bước lên bục diễn đàn. Anh ta là một người hoàn toàn không có chút tài ăn
nói nào, nói một hai câu cũng không xong. Sau khi ấp úng nói cái gì không rõ,
Khami tuyên bố:
Tôi cứ bắt đầu, mặc dù hoàn toàn chưa biết cái nhà máy này là
nhà máy gì. Tối qua Khami có giải thích cho tôi về nhà máy, nhưng vì đi đường mệt
quá, chỉ muốn ngủ, nên tôi bỏ ngoài tai những lời anh ta kể. Tôi vừa nói vừa
đưa mắt quan sát nhà máy xem nó là nhà máy gì? Tôi cố hết sức quan sát nhưng
không hiểu gì cả, cứ như lạc vào khu rừng tối. Giá như tôi biết đây là nhà máy
sản xuất ô tô, hay nhà máy sản xuất đồ gỗ thì tôi có thể nói cả ngày. Tôi đưa mắt
tìm Khami – anh ta lặn mất tăm. Thật muốn điên lên được! Các vị cứ thử tưởng tượng
xem, tôi đã trót bắt đầu mất rồi!…
Tôi liếc nhìn đồng hồ. Trời ơi, chả lẽ tôi mới nói được có
năm phút? Tôi lại với tay lấy bình nước và quay sang nói nhỏ với người đứng sau
lưng:
Hội nghị các nhà phẫu thuật lần này họp ở thành phố
Liubơlitxơ. Nghe đâu đấy là một hội nghị có tầm quan trọng đặc biệt. Hội nghị lần
thứ mười này đã thu hút sự chú ý của các nhà phẫu thuật lừng danh nhất thế giới,
và có số người tham dự đông chưa từng có. Phóng viên từ khắp các nước đua nhau
kéo về dự hội nghị, mặc dù đây chưa phải là một sự kiện có sức hấp dẫn đặc biệt
như mặt trận đá bóng hay một cuộc họp báo có các cô đào điện ảnh tóc đen, tóc
vàng lên khoe các kiểu quần áo lót. Các nhà phẫu thuật nổi tiếng nhất từ hai
mươi ba nước đã đến báo cáo tại hội nghị, trong số đó có cả những bậc danh y có
thể tháo lắp các bộ phận của cơ thể người dễ như ta tháo lắp một cái đồng hồ
hay một khẩu súng trường tự động vậy! Vì thế các báo chí, sau khi đưa tin về những
mẫu quần áo tắm mới nhất và về những vụ giết người rùng rợn, thấy cũng cần phải
nói vài dòng về hội nghị các nhà phẫu thuật.
– Kính thưa các đồng nghiệp? Tôi xin kể cho các bạn nghe một
phẫu thuật vốn được coi là phức tạp nhất và đáng chú ý nhất trong lịch sử y học
thế giới. Người mà các bạn thấy đang đứng cạnh tôi đây là hạ sĩ Mêchiu. Trong
thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, một mình ông đã hạ sát được 26 kẻ thù.
Nhưng chẳng may một mảnh lựu đạn của quân địch đã cứa đứt đầu ông. Tôi đã chế
thành công một thứ keo dán đặc biệt và đã gắn được chiếc đầu vỡ ấy lại cho ông,
trông còn đẹp hơn cũ. Bây giờ thì có bom nguyên tử cũng không thể làm chiếc đầu
này rời ra được nữa. Và đây, tôi xin trình bày với các bạn bí quyết pha chế thứ
keo này…
– Là ai thì có liên quan gì đến phẫu thuật nhỉ? Có là ông Tổng
thư ký Liên hiệp quốc thì cũng thế thôi!
Tôi được biết rằng chú lái đưa tôi đến đây là người tử tế,
không hiềm khích, vì vậy chú ấy chẳng hơi đâu mà vu oan giá họa cho một người
xa lạ. Còn nếu như chú ấy thóa mạ cái ông kỹ sư lâm nghiệp này thì có nghĩa là
ông ta xứng đáng như vậy, ở chốn bồng lai thế này mà gặp phải một tên đê tiện
thế kia thì thật khó chịu! Tôi thấy mất hết hứng thú vào chơi trong khu nhà đó.
Những vẻ đẹp của nó cứ đeo lấy tôi, cuốn hút tôi, thế rồi tôi không chống đỡ nổi,
tôi rảo bước đến nhà người trưởng hạt lâm nghiệp.
Tôi tự giới thiệu với ông kỹ sư rằng tôi đến vùng này theo lời
khuyên của bác sĩ, và trong lúc dạo chơi tôi đã để ý đến ngôi nhà của ông và
quyết định vào thăm.
Suốt hơn một tiếng đồng hồ tôi quan sát thấy vợ chồng ông kỹ
sư luôn tiếp đón bệnh nhân chữa bệnh thay băng, khuyên bảo họ. Có bệnh nhân ông
kỹ sư còn viết thư chuyển cho bác sĩ yêu cầu khẩn cho mà không lấy tiền.
– Là vì cái lão kỹ sư ấy suốt ngày đêm không chui ra khỏi rừng,
không rời khỏi các chòi canh, lúc nào cũng làm việc, hình như lão ấy không nằm
ngủ bao giờ… Không phải là người, mà là một thứ lật đật gì đó. Trước kia rừng
chúng tôi có bốn cái chòi canh, không chòi nào có điện thoại cả. Còn cái lão
này vừa mới về đã cho xây không biết bao nhiêu chòi, dễ có đến bảy chục cái, đa
số chòi có điện thoại. Tất cả điện thoại đều nối với điện thoại nhà lão. Sau đó
lão ấy lại cho làm đường nhỏ để dễ chạy vào chữa cháy, nếu chẳng may xảy ra.
– Phải, nhà giầu… vợ ông ấy giầu… Phần lớn tiền lương ông ấy
đem cho dân nghèo… Năm ngoái ông ấy còn cho tôi tiền chúng tôi sửa sang trường
sở.
– Những người nghèo khổ ấy biết làm gì được. Ruộng đất không
có, nếu có thì cũng chỉ tí tẹo, không đủ nuôi thân. Công việc không, xí nghiệp
không. Việc mà chúng tôi giao cho họ trong rừng không đủ nuôi gia đình. Đất
nương rẫy tôi không cho phép. Vậy thì họ làm gì – chịu ngồi chết đói hay sao?
Thế là họ đi chặt cây, bán ra thành phố làm củi… Chúng tôi tóm cổ họ. Tôi ra lệnh
cho anh em gác rừng là nếu không có lệnh của tôi thì không được nộp bất kỳ ai
cho cảnh sát. Nhà giam thành phố đã chật ních loại ”tội phạm” này. Không phạt họ
thì mình không hoàn thành nhiệm vụ, mà phạt họ thì lương tâm mình không yên… Thật
là cực!…
Tôi bắt đầu đọc. Đấy là những đơn từ của cá nhân, thậm chí của
các tổ chức, các văn phòng, cá cơ quan. Nội dung các đơn đều có yêu cầu chuyển
ông trưởng hạt lâm nghiệp đi chỗ khác. Các đơn đều gửi về Bộ lâm nghiệp, thậm
chí gửi thẳng lên Thủ tướng… có cả bản sao các bức điện gửi đi nữa.
– Có chứ. Chính tôi đây là đảng viên của Đảng cầm quyền.
Nhưng trong những chuyện này chúng tôi nhất trí lắm: Chúng tôi muốn có những
quan chức tốt, vì thế mọi người đồng lòng nguyền rủa ông ấy thậm tệ.
Cái trật tự mới do ngài giám thị đặt ra khiến những tên đại
bàng trong tù vốn sống không thua gì vua chúa, lấy làm tức giận, nhưng chúng
không dám nói công khai ra miệng. Chỉ những tên mà trong người còn chút lòng tự
ái, mới rụt rè nói ra sự bất bình của mình:
Ngài giám thị là một người có trái tim nhân hậu. Đứng sau cửa
sổ ngắm nhìn đoàn người diễu hành ầm ĩ ấy ngài không cầm được nước mắt.
– Câm mồm – Thầy giám thị cáu tiết quát lên. – Còn lần chần
gì nữa. Đi mau!
Sao lại không muốn? Tôi đã kể hết cho ngài bộ trưởng rồi:
Thú thật, chính những cuốn sách ấy đã gợi ý cho tôi viết mẩu
chuyện này. Tôi cũng muốn hướng dẫn mọi người cách làm thế nào để viết một bài
báo. Tôi biết cái đề tài này không thích hợp với khuôn khổ một bài châm biếm
ngày chủ nhật. Vì cứ thả sức mà viết thì cũng phải được vài tập sách là ít!
Nhưng dù sao tôi cũng cố hết sức trình bày thật ngắn gọn những hiểu biết của
tôi về vấn đề này.
Chưa hết. Bên cạnh phòng chúng tôi có một ông luật sư già mà
tôi quen đã lâu. Chắc vợ tôi hay lũ con có đứa nào sang ton hót với ông ấy về
bài báo của tôi và nhờ ông ấy khuyên can, nên chưa viết xong tôi đã thấy ông
này mò sang.
Chắc các bạn tưởng thế là xong phải không? Xin thưa là còn
lâu. Dễ xong thế thì ai mà chả làm được anh viết châm biếm. Còn đến lượt ông
biên tập nữa chứ!
– Lẽ ta tôi không nên hỏi, nhưng vì anh là bạn thân của tôi,
một người bạn học cũ, nên tôi cứ hỏi thẳng. Anh đang làm việc gì và anh kiếm tiền
bằng cách nào?
– Tôi thề đấy, tôi đã đứng ra đính hôn thật mà! Tôi dẫn tất cả
khách khứa đến dự lễ. Họ ăn uống no say xong tôi đeo nhẫn cưới cho đôi vợ chồng
trẻ. Hoa thì đã có sẵn rồi. Rồi tôi còn nhờ anh thợ ảnh chụp cho đôi trai gái đứng
giữa các lẵng hoa nữa. Và mọi chuyện rất tốt đẹp. Anh nghĩ xem, tôi đã đem niềm
vui cho bao nhiêu chàng trai cô gái! Họ cứ thử đứng ra tự tổ chức lấy xem, tốn
hai nghìn lia cũng chưa chắc tổ chức nổi. Sự việc là như thế đấy, anh bạn ạ. Đã
ba năm nay tôi hoàn toàn không đi nhà hàng nữa. Anh cứ thử tính xem, mỗi ngày lại
có lễ khai trương ít nhất hai, ba chi nhánh ngân hàng mới. Và tại các buổi lễ
này tôi tha hồ ăn uống no say. Thậm chí đôi khi tôi còn đưa cả vợ con đến đây
cho ăn. Chúng tôi được ăn thỏa thích đến nỗi tối về không buồn ăn cơm nữa. Có lần
tôi còn dẫn bạn bè đến ăn nữa.
– Sẽ không xảy ra chuyện gì cả. Hơn nữa tôi đâu có rút toàn bộ
số tiền. Làm như vậy sợ không tiện, nên tôi để lại một lia trang tài khoản. Nói
ví dụ, ngân hàng này có ba mươi chi nhánh ở Stambul, và ở mỗi chi nhánh tôi để
lại một lia. Thế là các ngân hàng khi cho quay vòng những đồng lia ấy họ sẽ thu
lợi rất nhiều. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ biết quay vòng đồng tiền. Bây giờ tôi phải
đem những thứ này ra chợ Capalư bán. Phải giải phóng bớt đống hàng này.
– Bây giờ mới vỡ nhẽ tại sao ở Thổ Nhĩ Kì không có các nhà
văn vĩ đại. – Tôi thở dài tiếc rẻ. – Không có môi trường thích hợp cho nghệ thuật:
không cha cố, không vàng, không lợn! Chúng ta đã sinh ra trong đất nước khô cằn!
Thử hỏi như thế làm sao trở thành những nhà văn vĩ đại được?
Cuối cùng chúng tôi quyết định trở thành chuyên gia thuộc các
lĩnh vực khác nhau để có dịp gần gũi hơn với cuộc sống và con người.
Tôi chấp nhận lời đề nghị và trở thành vệ sĩ của quán bar “ Chinchin”. Ngay tối hôm đó ông chủ dẫn tôi đến quán rượu của ông và đặt tôi ngồi ở chỗ giữa dàn nhạc và quầy rượu. Cảm thấy máu bốc lên mặt, tôi hỏi ông ta:
– Cầu trời giúp đỡ con, – tội vừa đứng lên vừa khấn thầm. – Lạy Đấng Ala toàn năng, tất cả đều trong tay Người! Xin Ngài hãy ban cho kẻ nô lệ gảy còm này sức mạnh của tráng sĩ huyền thoại Kodgi – Yuxuf.
Tóm lại, bây giờ cứ mỗi tối tôi lại bợp tai những gã say rượu
và được tiền vì chuyện đó.
– Xin đại ca nương tay, – một trong hai tên kêu lên. – Chúng
tôi không có lỗi gì. Bản thân tôi chưa bao giờ đến những quán như thế này. Cái
thằng cha bê tha ấy ngày nào cũng tán tỉnh tôi: “Tối hôm nay chúng mình đi giải
trí đi…” Tôi không hiểu tại sao hôm nay tôi lại đồng ý. Ở bất cứ quán nào chúng
tôi đến hắn đều tìm cách gây chuyện lộn xộn. Chúng tôi phải vất vả lắm mới kìm
được hắn. Nhưng hôm nay đến quán của đại ca chúng tôi không sao giữ nổi hắn.
Các viên chức cảnh sát của nước Panacôrigia đang thực tập tại
khóa huấn luyện của Cục điều tra liên bang Mỹ. Tháng cuối cùng của đợt huấn luyện
ở 6 tháng này, dành để thực tập sử dụng một thành tựu mới nhất của khoa hình phạm
học, gọi là “Máy phát hiện nói dối”. Ngài Hari Oenxơ, giảng viên của lớp học,
nói với sáu viên cảnh sát Panacôrigia đang lắng nghe ông một cách hết sức chăm
chú:
Thưa các ông! Bây giờ ta bắt đầu tiến hành thí nghiệm. Tội
nhân mà chúng ta sẽ dùng để thử chiếc “máy phát hiện nói dối” này là Fara
Puasinô, một công dân Mỹ gốc Ý. Bố đẻ ra cụ cố ông ta, bị kết án về tội ăn cướp
tàu biển, tội đồng lõa với các âm mưu của bọn cướp và tội cưỡng bức ba đồng bọn
của mình ngồi lên một cái cọc nhọn, sau đó đã bỏ chạy sang Mỹ và được công lý
và pháp luật ở đây che chở. Con người hăng hái ấy, sau khi đã giết tám người bạn
cùng đi tìm vàng với mình thì bị hạ sát bởi tay người thứ mười, có để lại một
người con trai, tức ông nội ngài Fara Puasinô của chúng ta đây, khiến cảnh sát
Mỹ vẫn còn có việc làm. Fara Puasinô phạm tội ác đầu tiên năm 13 tuổi trong một
vụ ăn cướp nhà dây thép. Sau khi bị giam hai năm ở trại cải huấn, bị cáo tham
gia hoạt động trong các đảng cướp Ancapôn và Đilinbghe, mở một sòng bạc, rồi
chuyển sang hoạt động một mình, trở thành thủ lĩnh của một đảng cướp có mạng lưới
tay chân rải khắp bang Chicagô. Tính đến nay Fara Puasinô đã bắt cóc 4 trẻ em
và 20 phụ nữ, ăn cướp gần 100 nhà băng, buôn hàng lâu, gây ra hai vụ án mạng,
chuyên buôn bán phụ nữ da trắng. Trở về già, lúc đã mệt mỏi vì các hoạt động
làm ăn bất chính và sau khi đã nghỉ ngơi bốn năm ở trại giam Xing Xing, Fara
Puasinô bước vào con đường làm ăn lương thiện và trở thành một trong những nhà
kinh doanh nổi tiếng của Mỹ. Ông có hẳn văn phòng riêng ở phố Uôn, làm chủ một
tờ báo và ba tạp chí, làm giám đốc hãng chế tạo thép từ sắt tây và là hội viên
của bốn ông ty khác. Ngoài ra ông còn có cổ phần trong nhà băng mà trước đây
ông đã từng ăn cướp.
– Vì giá sinh hoạt đắt đỏ, dân nước tôi phải thắt bụng chặt
quá, nên rốn của họ không thể toát mồ hôi được nữa. Còn tại sao tim không thể đập
mạnh hơn được, thì cũng dễ hiểu thôi: dân chúng đã quá quen với ý nghĩ là bất cứ
lúc nào cũng có thể được ăn bánh ô tô, tàu điện, hay thậm chí đang ngồi trên
tàu, trên xe cũng có thể được về chầu giời, vì đường xá vừa hẹp lại vừa xấu,
nên chả còn gì có thể khiến họ sợ. Các câu hỏi của ông đối với họ thì có mùi
gì! Họ đâu có thèm hồi hộp! Bây giờ tôi sẽ giải thích để ông hiểu tại sao cái
máy đo não lại không hoạt động được! Vì người ta nói dối nhau nhiều quá, nói dối
nhau suốt ngày, vợ dối chồng, chồng dối vợ, người bán nói dối người mua, người
mua đánh lừa người bán, người thuê nhà nói dối chủ nhà, rồi chủ nhà lại dối người
thuê nhà, nghĩa là nói dối nhau tuốt tuồn tuột, người nọ nói dối người kia,
thành thử có nói dối thêm một lần nữa trước cái máy của ông thì họ cũng trơ ra…
Còn cái xương cụt của họ thì khỏi cần nói! Cứ xô đẩy chen lấn nhau để vào sân vận
động, cứ ngồi ê đít xem đá bóng, cứ đấm đá nhau túi bụi để chen vào rạp hát, cứ
nhấp nha nhấp nhổm trên ghế băng các công sở để chờ xin việc hết ngày này sang
ngày khác, nên xương cụt của họ đã mất hết cảm giác, không còn có phản ứng gì nữa.
Nhất là lại đối với các kích thích nhẹ như thế!
– Có gì đâu! – Các cảnh sát trả lời. – Người ta báo cho chúng
tôi biết ở một ngôi nhà nọ, trước đó một tuần, có năm người bị giết. Nửa tháng
sau khi nhận được tin, chúng tôi lập tức cho người đến điều tra ngay. Lục soát
qua loa một hồi, chúng tôi tìm được ngay những cái xác đã thối rữa trên nền
nhà. Nhưng hung thủ đã không còn ở đấy. Bởi vì có năm người bị giết, nên chắc
chắn phải có người giết họ. Chúng tôi ra thông cáo: “Yêu cầu kẻ nào giết người
đến ngay Sở cảnh sát”. Nhưng vẫn không thấy hắn đến. Cho đăng báo: “Truy nã
hung thủ” nhưng vẫn không tìm ra. Chúng tôi lại cho dán yết thị khắp nơi: “Ai
tìm được hung thủ sẽ được trọng thưởng”, nhưng cũng chẳng ăn thua gì. “Chúng
tôi đã thi hành mọi biện pháp có thể thi hành rồi! Bây giờ thì đừng có ai oán
trách chúng tôi nữa nhé!” – Chúng tôi bảo như vậy, rồi ra lệnh tóm cổ tất cả những
tên nào hơi có vẻ giống thủ phạm. Trong số đó cố nhiên là phải có kẻ giết người.
Vì hắn có bay đi đằng trời! Sau đó chúng tôi tiến hành hỏi cung theo phương
pháp riêng của chúng tôi. Cuộc hỏi cung chưa kết thúc, nhưng đến hôm nay đã có
mười tên thú nhận là đã can tội giết người. Tên này là một trong số đó.
Được sự đài thọ của Quỹ từ thiện Mỹ “Đzatơ”, một nhóm chuyên
gia kinh tế nổi tiếng của Mỹ chia nhau đi các nước chậm phát triển để điều tra
xem nguyên nhân tại sao các nước này lại chậm phát triển. Lúc đầu người ta định
gọi chuyến đi của họ là “Cuộc đi khảo sát các nước lạc hậu”. Nhưng sau, xét thấy
hai chữ “lạc hậu” có thể mang ý xúc phạm, nên để phù hợp với đường lối đạo đức
quốc tế mới, và tranh thủ cảm tình của dân chúng các nước này, người ta thay nó
bằng mấy chữ “chậm phát triển”.
Trong bức thư trước tôi không có nói rằng hội hè ở đây kéo
dài suốt 4 tháng. Tôi chỉ muốn nói rằng suốt 4 tháng trời tôi không tài nào gặp
được ngài Xưtcư vì vướng những ngày hội. Xin các ngài lưu ý cho sự khác nhau giữa
hai cách nói. Tôi vẫn chưa mất hi vọng và cho rằng có thể gặp được ngài Xưtcư
và các bạn của ông ta vào ngày 6 tháng Năm này.
Chúng tôi đã nhận được tin mừng của ông báo cho biết rằng chắc
chắn ông sẽ gặp được ngài Xứtcư nội trong tháng Sáu này. Nhưng vì tháng Sáu đã
sắp hết mà vẫn không nhận được tin gì mới của ông, nên tất cả chúng tôi, những
đồng nghiệp của ông, lại lấy làm thất vọng. Chúng tôi đề nghị ông nếu thấy
không thể gặp được ông Xưtcư thì hãy tiếp xúc với những người khác để lấy các
tin tức cần thiết. Chờ thư ông.
Cả tháng Bảy và tháng Tám đều đã qua mà chúng tôi vẫn không
nhận được tin gì của ông. Chờ thư ông.
Qua bức thư cuối cùng của các ngài tôi hiểu rằng Quỹ Đzatơ
quyết định ngừng việc đài thọ cho cuộc nghiên cứu ở nước này. Nhưng vì không muốn
để công sức mà tôi đã bỏ ra suốt gần 1 năm nay phải uổng phí, nên tôi quyết định
sẽ sử dụng tài chính của riêng cá nhân tôi để tiếp tục công việc và sẽ nỗ lực đến
giọt máu cuối cùng để gặp cho được ngài Xưtcư và các đồng nghiệp của ông. Vấn đề
là ở chỗ: chính bản thân tôi giờ đây cũng rất muốn giải đáp được câu hỏi tại
sao nước này chậm phát triển, và bằng bất cứ giá nào tôi cũng phải giải đáp cho
được câu hỏi đó.
Từ lâu Quỹ Đzatơ đã thôi đài thọ cho nhiệm vụ nghiên cứu các
nước chậm phát triển. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn muốn biết tại sao đất nước mà
ông đang ở lại là nước chậm phát triển, và chúng tôi sẽ rất biết ơn ông nếu ông
tiếp tục cho chúng tôi biết kết quả những cuộc điều tra của ông.
Nhưng thật không may, đúng ngày đó ngài Xưtcư lại được mời đi dự tiệc tại trường học mà trước đây ngài đã từng học. Ngày 22 tháng Hai là ngày Thiên khải của thánh Muhamét. Tôi định ngày mai sẽ lại chơi ngài Xưtcư, nhưng chợt nhớ ra mai là bắt đầu Tháng ăn chay. Nếu có tin tức gì mới tôi sẽ báo cho các ngài biết ngay.
Trânđơ Uity
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
XXXXVăn học miền Nam: Tổng quan 3
Văn học miền Nam: Tổng quan 3 Phần 15 Văn học Từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau 1963 người ta có thể ghi nhận nhiều chuyển biến quan...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét