Tơ hồng vương vấn 1
PHẦN I - CHƯƠNG 1 - XUẤT BẢN NĂM 1955
Thế cuộc vần xây, hết suy tới thạnh, nhơn quần tấn hoá, đổi cựu
ra tân.
Đó là định luật dĩ nhiên, dầu muốn dầu không, ai ai cũng phải
chịu, không làm sao sửa được.
Nhớ lại mà coi, sau khi đánh phá đại đồn Chí Hòa rồi, binh đội
Pháp lần lần xâm chiếm tất cả sáu tỉnh của đất Gia Định. Từ hạng nông phu cho tới
nhà học thức thảy đều tức tủi mà quay đầu trông về Phú Xuân, thì triều đình im
lìm dường như bỏ xụi, còn chóng mắt ngó vào đám anh hùng nghĩa sĩ thì các cụ
Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên hộ Dương, Thủ Khoa Huân lần lượt thất
bại tiêu tan.
Đứng trước ngã ba đường như vậy đó, phải đi ngã nào ? Nếu
cương quyết giữ nền nếp cũ thì lấy chi mà nương níu, còn nếu đổi thái độ cho
xuôi dòng thì lỗi với tổ tiên, mà cũng thẹn với cây cỏ.
Trong lúc dân trí đương phân vân như vậy, nhà cầm quyền Pháp
khôn ngoan, nên chăm lo gây thiện cảm với nhân dân. Người ta biết thâu phục đất
đai thì dễ, nhứt là gặp xứ không có binh đội tổ chức hoàn bị; còn thâu phục
nhơn tâm là điều rất khó khăn, phải đổi thay văn hoá, phải ung đúc tâm hồn, mấy
việc đó phải dày công phu, phải nhiều thế kỷ, thì mới làm được.
Mới chiếm trị đất Nam Việt, nước Pháp phải bận lo nhiều nỗi:
- Lo chia 6 tỉnh cũ ra làm 20 hạt mới, rồi đặt quan Tham biện
ở mỗi hạt đặng sắp đặt cơ quan hành chánh cho phù hạp với cách cai trị mới mà
không đụng chạm đến phong hoá cổ truyền;
- Lo xây dựng an ninh cho nhơn dân được lạc nghiệp an cư, từ
thành thị vô tới đồng bái;
- Lo tổ chức đường giao thông cho tiện bề mậu dịch.
Tuy phải gấp rút xây nền hành chánh, người Pháp cũng không bỏ
dẹp vấn đề thâu phục nhơn tâm. Những người sống trong nấy năm cuối cùng của thế
kỷ 19, là khoảng từ năm 1895 tới năm 1900, ai cũng nhận Pháp mới chiếm trị Nam
Việt có 30 năm mà đã khởi công xây dựng một nền văn hoá mới để hướng dẫn tâm hồn
Việt Nam quay về phía Âu Tây.
Mới lúc ấy mà đã:
a) Có mấy người việt thông minh được chọn lựa đem qua Pháp mà
giáo hoá. Ấy là các cụ Diệp văn Cường, Trương Minh Ký, Bùi quang Nhơn, Bùi
quang Chiêu, Nguyễn trọng Quảng.
b) Cho xuất bản Gia Định Báo với Thông Loại khóa trình, lại
còn cho in nhiều loại sách để phổ thông chữ quốc ngữ, do các cụ Trương Vĩnh Ký,
Trương Minh.Ký và Huỳnh Tịnh Của chăm nom.
c) Mở trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) để cho những
cụ đi học bên Pháp trở về hiệp với mấy cụ nho học uyên thâm dạy các quan Tham
Biện, các nhân viên hành chánh và các sĩ quan trong Hải Quân và Lục Quân học tiếng
Việt, mà cũng dạy luôn sử ký cùng phong hoá của người Việt nữa.
Mà điều cần yếu của người Pháp trong lúc ấy là phải có nhiều
người bổn thổ phụ sự trong chức vụ thông ngôn, ký lục, để giúp các ngành hành
chánh cùng công thương. Muốn cho được thỏa mãn nhu cầu khẩn cấp này, người ta
phải lo lập liền:
a) Một trường sư phạm trung đẳng tại Sài gòn để đào tạo giáo
viên đay các trường sơ đẳng ở mấy hạt.
b) Một trường trung học phổ thông, phân làm hai chặng, bắt đầu
học tại Mỹ Tho hai năm rồi lên Sài gòn học tiếp hai năm nữa mới được bổ dụng
làm thông ngôn, ký lục. Học sinh hai trường này đều được hưởng học bổng, nghĩa
là được nhà trường nuôi ăn, ngủ và phát quần áo, giày nón, khỏi trả tiền chi hết.
c) Lần lượt mở trường sơ đẳng Pháp Việt tại châu thành các hạt
để cung cấp cho trrường Trung học Mỹ Tho.
Nhà trường Pháp thì sốt sắn xây nền giáo dục mới, nhưng nhơn
dân Nam Việt coi bộ hẫng hờ[1], chưa quyết yểm cựu nghinh tân. Vì dân trí còn
lơ lửng như vậy, nên những trường tân học mở ra không được dân chúng hoan
nghinh cho lắm, thành thử nhà nước tốn công tốn của rất nhiều, mà mỗi năm trường
sư phạm chỉ đào tạo chừng 30 giáo viên, còn trường Trung học Chasseloup-Laubat
đào tạo lối 50 thông ngôn, ký lục.
Không phải người Việt Nam không ham học nên trường tân học lập
ra không được thạnh phát. Không phải vậy. Người Việt ham học lắm chớ. Họ hẫng hờ
với tân học nhưng họ vẫn hăng hái với nho học luôn luôn. Ấy là họ thỏa thích
món ăn tinh thần cũ của họ xưa nay, họ say mến, họ quí trọng, họ không đành bỏ
mà dùng món ăn tinh thần khác, chưa chắc cái khác đó mà ngon ngọt béo bùi hơn
cái của họ đã có sẵn.
Để nói riêng tình hình giáo dục trong hạt Gò công hồi cuối thế
kỷ 19, thì đủ biết lúc ấy trong mấy hạt khác cũng vậy.
Trong khoảng đó, người ta nhận thấy tại châu thành Gò công
nhà nước có một trường sơ đẳng học, gồm năm lớp, có một quan Đốc học, người
Pháp với năm giáo viên người Việt. Từ lớp nhứt đến lớp tư thì dạy Pháp văn nhiều
hơn Việt văn, còn lớp năm là lớp chót thì giao cho một thầy nho biết chữ quốc
ngữ dạy trẻ đồng ấu học vần xuôi, vần ngược; rồi tập đọc, tập viết quốc văn.
Học trò cả thảy chừng một trăm rưỡi, lớp chót được lối 50
trò, còn mấy lớp trên chừng vài ba chục, tới lớp nhứt chỉ còn từ 10 đến 15 là
nhiều. Lại học trò toàn là con trai chớ không có con gái, cha mẹ ở tại chợ, hoặc
trong mấy xóm làng xung quanh, cách chợ lối vài ba ngàn thước.
Muốn lấy lớp trên có thêm học trò đông, lại cũng muốn Pháp ngữ
được thông dụng trong mấy làng xa, Tham Biện mới mở tại bốn chợ trong bốn tổng
mỗi chợ một trường dạy Pháp văn gọi là trường tổng gồm hai lớp: lớp nhỏ chuyên
dạy cho biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, rồi lên lớp lớn bắt đầu dạy Pháp văn.
Trong lúc nói đây trong hạt có bốn trường tổng đặt tại bốn chợ: Rạch Giả (Đồng
Sơn), Giồng Ông Huê (Vĩnh Lợi), Cửa Khâu ( Tăng Hòa) và chợ Tổng Châu (Tân niên
Tây).
Mặc dầu có huấn lịnh dạy Hương giáo mấy làng chung quanh chợ
ép buộc mấy người có con phải cho đến mấy trường tổng đó mà học, lại mặc dầu mỗi
năm, trước khi khai trường, có gom học trò lớp lớn của mấy trường tổng về châu
thành mà thi chung; mấy chục trò giỏi được hưởng học bổng mỗi tháng năm đồng bạc
để ở ăn cơm quán tại châu thành tiếp học thêm mấy lớp trên của trường sơ đẳng học.
Thế mà trong bốn trường tổng số học trò cũng không được đông;
ở chợ lớn như chợ Giồng Ông Huê thì được 40 đến 50, còn ở mấy chợ nhỏ thì vài
ba chục mà thôi,
Có một điều đáng để ý là lúc ấy ở châu thành cũng như ở mấy
chợ, đã có trường tổng mà lại có trường tư dạy chữ nho; ở chợ người ta thấy có
tới hai ba trường trai gái học chung kể đến bốn năm chục
Còn trong các làng chưa kiếm được giáo viên dạy chữ quốc ngữ,
thì hương chức rước một thầy nho để dạy trẻ em tại đình học chữ nho. Ở mấy xóm
đông, có trẻ em nhiều, thì người có cơm tiền, có nhà rộng, cũng nuôi một thầy
nho để dạy con cháu. Người trong xóm thường cho con tựu lại đó mà học chữ nho,
mỗi tháng đền ơn cho thầy hoặc một hai quan tiền, hoặc một quảu gạo, hoặc bánh
trái hay tôm cá.
Hạng già cả nghe nhắc tới khoảng nầy sẽ cảm xúc mà nhớ bộ tịch
tèm lem dơ dáy của đám trẻ em mỗi ngày băng đồng lội rạch, trải nắng đầm mưa đi
đến mấy trường làng và trường xóm mà học chữ nho hồi đời đó. Sớm mơi ăn cơm rồi
mới đi học đến gần nửa buổi chiều mới trở về nhà. Mỗi trò đem theo một cái ống
tre, có dây buộc hai đầu để mang vào vai, đặng đựng sách vở, viết mực dầu mắc
nưa hay lội sông cũng khỏi ướt.
Mấy trò nhỏ mới tập viết, không có tiền mà mua giấy mực xối xả
như bây giờ, thì có sắm sẵn để tại trường, một tấm ván, một cái ghè đựng nước,
vài cây cọ đẽo bằng tre với ít cục đất sét nhồi nắn rồi phơi khô. Hễ tập viết
thì chấm đầu cục đất sét vào ghè nước mà thoa trên tấm ván rồi cầm cây cọ mà viết.
Hễ viết rồi chữ đó thì lấy cục đất mà chà lên đặng bôi bỏ mà viết chữ khác. Với
cách tập viết tiện tặn như vậy nên trẻ em mới học thì tay chưn, quần áo bị bùn
lấm lem, dơ dáy hết sức.
Phải con nhà giàu, lại phải biết viết rồi, được lên hạng tư hạng
năm và hạng sáu, nghĩa là mỗi trương giấy bạch viết được bốn, năm hoặc sáu hàng
rồi, thì mới bỏ cọ, bỏ ván mà cầm viết đặng viết trên giấy.
Mà thầy giáo chấm vở và chấm sách cho học trò, cũng không có
mực đỏ như bây giờ. Người ta kiếm đá ong trải trên lộ, lựa cục nào màu đỏ nhiều
thì lượm đem về, rồi lấy dĩa đổ chút nước mà mài thành son để thầy giáo chấm vở
và khuyên mấy chữ viết tốt.
Hiện giờ đòm thấy trẻ em đi học quần áo đẹp đẽ, giày nón vẻn
vang, tay ôm cặp da, túi vắt viết máy, người ta nhớ lại tình cảnh của lọc trò hồi
60 năm về trước, người ta chẳng khỏi thương tâm, tội nghiệp cho trẻ xưa cực khổ
cam go, nhưng cũng rán là học, học đặng biết nghĩa, biết nhân, biết thảo, biết
thuận, biết quấy, biết phải, biết cao, biết thấp.
Xây nền tân học, người ta khuyên dụ, vừa ép buộc, mà người Việt
cứ dụ dự và đeo đuổi theo nho học nó sẽ đưa mình đến chỗ nào, còn tân học thì mịt
mù không hiểu nó sẽ dắt mình đi đâu, sợ e nó sẽ phân rẽ mình với tổ tiên nó sẽ
làm cho mình quên cả ơn nhà nợ nước.
Sự dụ dự đó không phải vô lý.
Ai hiểu biết tâm hồn của người hồi đời đó thì không dám chê
lù mù.
Mà dầu tiền nhơn lù mù đi nữa, người ta cũng có tâm, có chí,
có nghĩa, có tình, lại tâm chí, nghĩa tình của người ta bền vững khư khư chớ
không phải thứ tâm chí xây chiều theo luồng gió, hay là thứ nghĩa tình phát
sanh vì mối lợi.
Vì vậy nên lúc tân cựu giao thời đó cũng gây trong dân gian lắm
chuyện thắc mắc, có chuyện thật thà nghĩ lại bắt tức cười, mà cũng có chuyện éo
le nhớ tới ứa nước mắt. Hồi đó cũng có nhiều cuộc bèo mây tan hiệp, hiệp tan
làm cho con người khi đau đớn, khi vui cười, nhưng có cuộc tình duyên nầy nó trắc
trở dị kỳ, nếu nhắc lại nghe chơi dầu không đến nỗi tức cười hay là muốn khóc,
thì có lẽ cũng giúp cho người đời nay biết được tâm hồn của người thuộc thế hệ
trước, thế hệ vừa mới qua trong năm sáu mươi năm nay.
Chú thích:
[1] hững hờ
PHẦN I - CHƯƠNG 2 -
L
úc ấy trong hạt Gò Công, tại chợ Giồng Ông Huê, mà bây giờ
người ta gọi tắt là chợ Giồng, mặc dầu nhà nước Pháp đã có mở một trường tổng
trong một tòa nhà cất bằng gạch ngói đẹp đẽ, đàng hoàng, và có bổ hai giáo viên
dạy một lớp chữ quốc ngữ và một lớp xen nhiều giờ chữ Pháp, mà trường tư của
ông Giáo Huân cũng vẫn có học trò học đông hoài.
Ông giáo Huân là một nhà nho học hoạt bác, thông sử kinh rành
nghĩa lý, giảng sách dễ hiểu, viết chữ có gân, tuổi đã quá năm mươi mà sức khoẻ
còn đầy đủ. Cách mười năm trước vợ ông chết để lại cho ông một thướt vườn trong
làng Vĩnh Hựu và môt đứa con trai 20 tuổi. Ông phải cưới vợ sớm cho con đặng có
dâu lo việc cơm nước trong nhà, rồi ông chấp nối tóc tơ với thím Hằng là một
góa phụ ở ngoài chợ Giồng.
Thím Hằng nầy hồi trước vốn là vợ của một người khách trú,
thuộc bang Triều Châu tên Hứa Thêm có một tiệm bán trà và bánh in, thèo lèo ở
chợ Giồng. Vợ chồng sanh được đứa con trai đặt tên là Hứa Mỹ. Khi Hứa Mỹ được 7
tuổi, Hứa Thêm buôn bán khá, có tiền dư nhiều mới giao tiệm cho vợ rồi đem con
về Tàu đặng để nó ở với bà nội mà học chữ. Rủi thay, Hứa.Thêm dắt con đi vừa được
một tháng thì thím Hằng được thơ của bà mẹ chồng cho hay Hứa Thêm đau nên chết,
bà giữ Hứa Mỹ lại đặng trông nom cho nó ăn học, chừng khôn lớn rồi bà sẽ cho nó
trở qua.
Thím Hằng buồn rầu về sự mất chồng, lại xa con, thím hết muốn
buôn bán nữa. Thím sang tiệm bánh cho người khác, tom góp vốn liếng được gần ba
ngàn. Thím mua một nhà ngói ba căn, vách ván, phía trước có sân, phía sau có một
miếng vườn nhỏ nhỏ. Sân thì thím để chất đống củi đòn trữ mà bán lẻ, còn phía
sau thím cất thêm một thà lá ba căn cao ráo, khoảng khoát, để trữ cá khô và nước
mắm mà bán cho bạn hàng. Buôn bán thế nầy thím đã thảnh thơi mà lại có lợi nhiều.
Chẳng bao lâu thím chấp nối tóc tơ với ông Giáo Huân, vợ chồng toan tính với
nhau, mới đóng vách mà ngăn một căn trong nhà lá phía sau để trữ nước mắm với
cá khô, còn hai căn thì đóng bàn ghế dọn thành một trường học cho ông giáo dạy
chữ nho.
Trường học của ông Giáo Huân ở gần chùa Ông Quan Đế, dựa bên
lộ từ phía cây Me lớn đi lên, trước chùa Ông, sau nhà việc Vĩnh Lợi, rồi đi thẳng
vô Vĩnh Hựu.
Trường mở dạy đã bảy năm rồi, trai gái học chung, số học trò
luôn luôn không dưới 40. Học trò ở chợ quần áo sạch sẽ chớ không phải tèm lem
như trẻ em ở đồng, ở rẫy. Mới tập viết thì dùng giấy dùng viết chớ không phải
dùng đất mà viết trên ván rồi bôi.
Học trò phân nhiều lớp. Lớp mới học vỡ lòng, la rùm: Thiên trời,
địa đất, nhơn người, rồi tập viết chữ lớn bằng khu tô, thì đóng tiền trường mỗi
tháng hai cắc bạc.
Lớp đã viết được rồi, dầu còn viết hàng ba thì phải đóng tiền
trường năm cắc.
Còn lớp nghe giảng sách, bất luận học Minh Tâm Bửu Giám hay Ấu
Học Tầm Nguyên, hay Tứ Thơ Thể Chú, thì phải đóng chẵn một đồng.
Nhờ vậy nên mỗi tháng ông Giáo Huân kiếm vài chục đồng bạc, uống
trà hút thuốc không hết, huê lợi trong vườn trong Vĩnh Hựu ông giao hết cho con
với dâu ăn xài thong thả.
Thời dụng biểu trong trường ông giáo Huân không giống với trường
nhà nước. Sớm mơi ăn cơm rồi ngoài 9 giờ thì bắt đầu dạy. Gần 12 giờ thầy nghỉ
trưa. Luc ấy học trò tự do, nhưng không được cười giỡn làm rầy; muốn về nhà thì
về muốn đi chơi cũng được, hay là muốn ở đó mà học ôn hoặc tập viết tuỳ ý. Thường
thường mấy trò trộng tuổi, nghe sách, thì ở luôn mà học, duy có mấy trò nhỏ hay
đi chơi hoặc ra chợ mua bánh mà ăn.
Hôm nay, quá 9 giờ rồi, học trò rải rác đi học, vô sân rồi
thì đi dọc theo đường bên hè mà vô trường ở phía sau.
Ông Giáo Huân ăn cơm uống nước rồi, ông đứng tại cửa giữa vấn
thuốc mà hút. Ông ngó ra lộ thấy có một cậu trai chừng 15, 16 tuổi, đương đi
thơ thẩn, thì ông kêu:
- Xuân, vô đây cho thầy hỏi thăm một chút coi.
Cậu trai ấy nghe kêu thì xâm xâm đi vô, tới thềm thì chấp tay
cung kỉnh xá thầy. Ông Giáo Huân hỏi dồn dập: "Cháu còn đi học chữ Tây hay
không ? Học đến bực nào rồi ? Nói tiếng Tây được hay chưa ? Thôi học hay sao
nên thả đi chơi vậy hứ?".
Không đợi người ta trả lời, ông liền tiếp xây lưng đi vô nhà,
và đi và nói tiếp: "Vô đây, vô nói chnyện cho thầy nghe thử coi".
Ông Giáo kéo ghế ngồi dựa cái bàn. Cậu Xuân thấy thím Hằng
đương ngồi trên bộ ván ngang đó têm trầu mà ăn, cậu xá thím rời đứng xớ rớ, tay
vịn cây cột.
Ông Giáo Huân hỏi lại:
- Cháu còn học dưới Gò hay không ?
- Thưa còn.
- Còn học sao lại được về mà đi chơi ?
- Thưa, bãi trường từ hôm qua con về.
- À! Bãi trường. Nghỉ tới chừng nào mới học lại ?
- Thưa nghỉ lới 25 tháng giêng.
- Dử hôn ! Nghỉ hơn hai tháng, học trò quên chữ hết còn gì!
- Thưa, bãi trường lớn nên nghỉ lâu.
- Cháu xuống Gò học đã được hai năm rồi. Bây giờ lên tới cấp
nào ? Còn học bao lâu nữa mới rồi ?.
- Thưa hồi mới xuống con ngồi học lớp ba học một năm. Năm nay
con học lớp nhì mãn rồi. Ra giêng khai trường, con sẽ lên lớp nhứt, học thêm một
năm nữa thì cuối năm đi thi.
- Thi thì chắc cháu đậu, vì thầy biết cháu ham học lại siêng
năng, nên chữ gì cũng vậy, hễ cháu học thì chắc cháu giỏi hơn chúng bạn. Mà qua
năm nay cháu thi đậu rồi cháu được làm ông gì hay thầy gì nè ?
- Thưa thầy, con nghe người ta nói, hễ học lớp nhứt mà thi đậu,
như mình thôi học thì nhà nước cho làm thầy giáo và bổ đi dạy mấy trường công
hoặc trường làng. Còn nếu mình chịu đi học thêm cho học lực được cao, thì nhà
nước nuôi cơm nước áo quần cho mình học hai năm tại trường lớn Mỹ tho rồi lên
Sài gòn học tiếp thêm hai năm nữa. Mãn bốn năm thì ra trường sẽ được bổ làm
thông ngôn, ký lục trong các sở, hoặc làm giáo viên dạy mấy trường sơ học.
- Nếu qua sang năm thi rồi cháu thôi học để đi làm giáo làng
hoặc giáo tổng, mỗi tháng lãnh lương 9, 10 đồng có nghĩa gì, sợ không đủ cơm áo
cho cháu, đâu có dư mà nuôi chị Hương Văn được. Phải rán học thêm bốn năm nữa đặng
làm thông ngôn, ký lục mới khá. Cha chả, mà chị Hương Văn nghèo chỉ đủ sức cho
cháu học đến bốn năm hay không ?
- Thưa, con chưa nói chuyện đó cho má con biết. Bụng con thì
muốn học nữa, ngặt con thấy má con cực khổ quá, nên nên con không nỡ lo tương
lai cho phận con, mà để cho má con cực khổ thêm tới bốn năm nửa. Có lẽ con học
thêm một năm lớp nhứt nữa rồi con xin đi làm giáo làng đặng con giúp đỡ má con.
- Cháu biết thương mẹ như vậy thì cháu là con có hiếu. Ngặt hồi
trước cháu học với thầy, cháu thông minh mẫm cán, học được Đại Học, Trung dung,
Luận Ngữ rồi kế cháu bỏ để qua học chữ Tây. Học thêm đã mấy năm rồi nếu ra làm
giáo làng thì uổng công phu của cháu quá. Chớ chi hồi đó cháu học luôn chữ nho,
thì bây giờ cháu đủ sức mở trường tư mà dạy học như thầy, lương hướng hơn giáo
làng mà được thong thả, khoẻ khoắn. Hồi cháu từ biệt thầy đặng qua trường tổng
mà học chữ tây, thiệt thầy buồn quá. Người Nam thì học chữ Nam, đặng ăn ở theo
định nghĩa của mình. Học theo người ta làm chi. Thứ học để làm tôi mọi, thà dốt
rồi làm ruộng hoặc lập vườn mà nuôi thân cũng còn vinh quang hơn nhiều. Thầy
thương cháu lắm. Hồi trước cháu là ngôi sao xán lạng trong trường của thầy. Thầy
chắc thầy sẽ truyền đạo học của thầy cho cháu được, bởi vậy cháu bỏ mà đi ngả
khác, thầy tiếc hết sức.
- Thưa thầy, tại cha con mất, má con nghe lời cậu Ba con, ép
con phải qua trường tổng mà học cho khỏi tốn tiền thầy, rồi sau được làm giáo
viên. Vì vậy nên con mới đi học chữ Tây, chớ thôi học chữ nho thiệt con cũng buồn
lắm.
- Nếu anh Hương Văn còn sống, chắc thầy cản ảnh, thầy không để
ảnh cho cháu bỏ nho mà học chữ Tây. Mà bây giờ bãi trường nghỉ tới hai tháng
cháu ở nhà làm cái gì ? Không lẽ mỗi ngày ăn no rồi thả đi chơi hoài.
- Thưa, con coi bài vở cũ lại, chớ không có làm chi hết.
Ông Giáo Huân lơ lửng mà suy nghĩ. Ông mở cái hộp thuốc ra và
lấy thuốc vấn mà hút nữa.
Thím Hằng nói: "Thiếu gì con nhà giàu có, bạc tiền dư dã
mà họ lại không chịu đi học. Còn cháu Xuân đây ham học, lại có khiếu thông
minh, mà nhà thì nghèo, mẹ góa con côi, đi học không được. Ông trời trớ trêu
quá. Chớ chi ông cho cháu Xuân sanh trong một nhà giàu có lớn, thì cháu sẽ học
giỏi biết chừng nào".
Ông Giáo nói:
- Ở đời phải có trặc trẹo như vậy mới có chuyện mà nói chớ.
Có lẽ tạo hoá gây cuộc khó khăn để trui gan, thử chí con người, bởi vậy gặp khó
khăn mà lướt qua mới thiệt là giỏi.
Thím Hằng hỏi Xuân:
- Chị Hương Văn lúc nầy còn bán ngoài chợ hay không cháu? Hết
mùa bắp, khoai rồi, chị bán thứ gì ?
- Thưa, má con bán xôi với bánh bèo.
- Bán xôi, bánh mà lời lóm bao nhiêu ?
- Thưa, mỗi bữa lời năm ba cắc cũng đủ ăn.
- Sự sống bắt buộc phải tốn hao nhiều thứ, như nhà cửa, áo quần,
thuốc men, chớ có phải tốn cơm, cá mà thôi đâu cháu.
Ông giáo nói:
- Nhà nghèo phải chịu nhiều nỗi khổ, nói sao cho xiết. Mà khó
khăn cho mấy người ta cũng sống được, có sao đâu mà lo. Nếu có lo là lo đừng vì
chữ bần hàn mà làm trái đạo nghĩa, làm nhục tổ tiên mà thôi.
Ông Giáo xây câu chuyện qua địa hạt phong hoá, thím Hằng
không muốn theo, nên thím làm lơ. Ông giáo mới nói với cậu Xuân:
- Xuân, thầy giảng Tứ Thơ cho cháu vừa hết bộ Luận Ngữ thì
cháu thôi học. Cháu còn thiếu bộ Mạnh Tử, chưa nghe. Bữa nay thầy bắt đầu giảng
Mạnh Tử cho con Cúc Hương học.
- Chà! Cô Cúc Hương đã học xong Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ,
bây giờ cô nghe tới Mạnh Tử lận ? Giỏi quá !
- Nó thông minh lắm, lại siêng năng cũng như cháu hồi trước vậy.
Nó cũng lớn rồi, cha mẹ nó muốn bắt nó ở nhà đặng tập buôn bán. Nghe giảng sách
tay đôi, một thầy một trò thiệt buồn quá. Ngặt Cúc Hương cứ năn nỉ xin thầy dạy
dùm Mạnh Tử nữa cho nó học đủ bộ Tứ Thơ rồi nó sẽ ở nhà mà buôn bán. Vì vậy nên
thầy phải rán dạy dùm cho nó đặng nó khỏi thiếu sót. Thầy nghĩ đất Gia Định
mình bây giờ không còn thi cử gì nữa. Người mình cần học nho để tu tâm, dưỡng
tánh mà ở đời vậy thôi. Mà xuất thân làm ăn, nếu không học Mạnh Tử thì như đi
chiếc thuyền không có bánh lái. Cúc Hương tính buôn bán, nó muốn học Mạnh Tử là
phải lắm. Đó là thêm một lý thầy phải dạy nó nữa. May gặp dịp bãi trường, cháu ở
không tới hai tháng, thầy muốn cháu thừa cơ hội mà học luôn Mạnh Tử với Cúc
Hương. Có thêm một trò nữa thì thầy mới sốt sắng. Cháu chịu hay không ?
Xuân dụ dự rồi đáp:
- Thưa, để thủng thẳng con suy nghĩ coi.
- Suy nghĩ làm chi ? Có điều chi trắc trở đâu mà suy nghĩ.
- Con phải thưa cho má con hay coi má con có bằng lòng lay
không.
- Á! Cháu sợ phải đóng tiền chớ gì. Không. Thầy dạy giùm cho
cháu, cháu khỏi đóng tiền học. Bãi trường, cháu học thêm Mạnh Tử cho có đủ nhân
nghĩa mà xử sự, có ích quá. Ở không mà thả rều có ích gì đâu. Cháu bắt đầu học
liền bữa nay đi. Chiều về sẽ nói lại cho chị Hương Văn hay, nói thầy dạy giùm,
thầy không đòi tiền. Mà cháu ăn cơm sớm mơi rồi hay chưa ?
- Thưa, rồi.
- Vậy thì đi xuống trường với thầy. Bây giờ chắc học trò đã tới
đủ rồi.
Ông giáo dắt Xuân vô trong rồi đi cửa sau mà xuống nhà dạy học.
Đi dọc đường ông hỏi:
- Bộ sách Tứ Thơ của cháu hồi trước cháu còn đủ hay không ?
- Thưa, còn đủ hết. Đi học thì con gói cất trong tủ. Bãi trường
con mới đem ra mà đọc lại. Con mới lấy ra hồi hôm nầy.
- Được lắm. Vậy mai cháu đem Mạnh Tử theo mà học. Bữa nay
cháu dò chung sách của Cúc Hương. Chừng thầy giảng giải rồi, thầy sẽ cho cháu
mượn sách của thầy đặng cháu học đỡ.
Ông giáo bước vô nhà học, sau lưng có Xuân đi thẹo. Học trò
ngồi chật ba cái bàn thấp mà dài, cả thảy đồng đứng dậy chấp tay xá thầy. Ông
giáo khoác tay biểu ngồi xuống và ông đi ngay lại chỗ Cúc Hương ngồi mà nói:
Cúc Hương, thầy lại kiếm thêm một trò xin nghe giảng sách Mạnh Tử nữa đây, đặng
cháu học cho có bạn. Cháu biết Xuân mà".
Cô Cúc Hương ngó Xuân, miệng chúm chím cười mà đáp: "Thưa
biết, anh Xuân là học trò cũ của trường nầy. Anh Bỏ đi học chữ Tây mấy năm nay
. Xuân biết ý Cúc Hương muốn mở hơi bao biếm, nhưng nghĩ không phải chỗ biện bạch
quấy phải, nên cậu cũng chúm chím cười chớ không nói chi hết.
Ông giáo biểu mấy trò dồn xuống một chút đặng trống ở đầu bàn
giữa một chỗ cho Xuân ngồi ngang mặt với Cúc Hương ngồi phía bên kia. Ông Giáo
đi qua hai bàn hai bên mà chỉ đạo cho học trò học.
Xuân ngồi ngó tứ phía thì thấy ván, bàn, ghế, võng, đều còn y
như mấy năm trước, không dời đổi chút nào hết. Phía trong lót bộ ván gõ nhỏ để
cho thầy nằm ngồi. Trước bộ ván thì để một cái ghế nghi, trên ghế có một bình
trà, hai chén nhỏ, một hộp thuốc, một lư lửa với một cặp kiếng, để cho thầy
mang mà xem sách. Một bên lại có để ba chồng sách thấp thấp, sách cũ mà bìa cứng
quành. Trên ván có gối dựa, có gối đầu, có quạt lông, lại có một ngọn roi mây để
khi nào học trò nhỏ làm rầy lúc thầy giảng sách, thì thầy nhịp trên ván mà biểu
im lặng.
Thầy đã có chỗ nằm ngồi thong thả, mà ngang với bộ ván lại có
giăng một cái võng bố để lúc thầy dạy mệt thì nằm đưa nhúc nhích cho mát.
Còn ba dãy bàn của học trò ngồi học, thì hai dãy hai bên toàn
là học trò nhỏ cộng chung với lối 30 trò, một bên học Tam Tự Kinh, một bên học
Tam Thiên Tự, bàn nào học theo bàn nấy nên la rùm. Bên nây học: "Phụ cha,
mẫu mẹ, sư thầy, quân vua", thì bên kia lại la: "Thiên Trời, Địa Đất,
thất mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước,…".
Xuân ngồi mắt ngó trước sau, tai nghe inh ỏi, quang cảnh cách
lấy năm trước diễn lại trước mắt, xưa nay cũng vậy, cậu xúc động nên liếc Cúc
Hương mà cười. Tại bàn giữa chỗ cậu ngồi, chỉ có mười trò, 3 gái 7 trai, toàn
là học trò nghe sách duy có Cúc Hương, 15 tuổi, học Tứ Thơ, còn 9 trò kia, gái
cũng như trai, còn học sách Minh Tâm, tuổi tác xấp xỉ với nhau, lối 13 hoặc 14.
Ông Giáo Huân lần lượt dạy giáp hai bàn hai bên rồi ông nhịp
roi biểu nín hết đặng ông giảng sách cho học trò lớn. Nhờ tập quen kỷ luật nhiều
năm, bởi vậy vừa nghe nhịp roi thì học trò nín êm, chỉ có ít học trò lầm thầm
trong miệng.
Ông Giáo lại ghế nghi lấy cuốn sách Minh Tâm với cặp mắt kiếng
rồi đi ra mà ngồi cái ghế để tại đầu bàn giữa phía ngoài cửa, dỡ sách ra đọc chữ
rồi cắt nghĩa từng chữ, từng câu cho học trò nghe. Cậu Xuân cũng như Cúc Hương
day lại phía trò ngồi gần liếc mắt dòm vào quyển sách mà dò chung với bạn.
Ông Giáo cắt nghĩa được hai tờ sách rồi ông xếp lại mà nói:
"Thôi bữa nay giảng bao nhiêu đó đã nhiều rồi. Bây học đi, có câu nào chưa
hiểu rõ thì sẽ hỏi lại. Bây giờ để thầy giảng Mạnh Tử cho cúc Hương. Mấy trò
cũng nên lóng nghe lần đặng hiểu chút đỉnh nghĩa lý sau học cho dễ".
Ông đi lại ghế nghi đổi sách mà lấy "Mạnh Tử thượng quyển
rồi kéo ghế ngồi đầu bàn phía trong. Ông thấy cậu Xuân ngồi khoanh tay không có
sách trước mặt, ông mới biểu trò gái ngồi gần Cúc Hương đổi chỗ với Xuân đặng
Xuân qua ngồi dựa bên Cúc Hương mà dò chung sách của Cúc Hương.
Xuân vâng lời thầy mà đổi chỗ, không ái ngại chi hết. Cúc
Hương đẩy cuốn sách qua phía Xuân. Thầy bắt đầu đọc từng câu mà cắt nghĩa xuôi
rồi nói tới lý. Hai trẻ cúi mà dòm chung vào quyển sách, hai đầu gần đụng nhau,
nhưng mắc lo dò cho nhớ chữ và hiểu nghĩa nên không ái ngại chi hết.
Dạy được ba tờ sách rồi ông Giáo nói bữa đầu giảng ít một
chút đặng khỏi ngán, quen rồi sẽ giảng nhiều hơn. Ông trao quyển sách của ông
cho Xuân mượn. Ông lại bộ ván ngồi rót nước trà mà uống và lấy cây quạt mà quạt.
Học trò đứa cầm vở lên hỏi chữ, đứa cầm sách lại hỏi nghĩa,
tiếp tục lên xuống không ngớt. Xuân gầm đầu vào quyển sách không để ý đến việc
chi khác, cũng không tính đổi chỗ ngồi trở lại đặng xa Cúc Hương.
Mặt trời gần đứng bóng, ông Giáo thấy học trò các cấp đều lo
học, không còn hỏi chữ nghĩa gì nữa, ông lại võng nằm, một hồi rồi bỏ đi lên
nhà trên.
Học trò biết thầy đi nghỉ trưa, tới giờ mình được thong thả
nên rủ nhau tốp đi chơi, tốp đi chợ mua bánh về ăn. Phần đông thì ra chợ, nhưng
đi riêng thì tốp đôi ba trò, chớ không đi chung. Trò nào không muốn đi thì gởi
tiền cho chúng bạn mua giùm kẹo, cốm hoặc chuối nấu.
Bây giờ trong trường chỉ còn có mười mấy trò, nhưng dụm nhau
từ khóm năm ba trò, con trai thì ra sau hè đánh đáo, con gái thì ngồi dưới đất
đánh đũa.
Trên bàn giữa chỉ còn có Xuân với Cúc Hương ngồi êm, chăm chú
ngó vào sách mà học, ngồi một bên nhau, nhưng không ai nói tới ai.
Thình lình Cúc Hương kêu mà hỏi: "Anh Xuân, bài đầu ý
nói cái gì vậy anh ? Nãy giờ em suy nghĩ hết sức mà em hiểu không thấu. Học mà
tập luôn luôn thì vui. Vui cái gì ? Bạn ở xa lại thì mừng. Sao mà mừng ? Người
ta không biết mà nình không hờn, vậy mới là quân tử. Không biết giống gì ? Anh
hiểu sao đâu, anh làm ơn cắt nghĩa lại cho em nghe thử coi".
Xuân ngó ngay Cúc Hương và nghiêm chỉnh đáp: "Theo lời
thầy dạy hồi nãy thì bài nầy khó hiểu là tại chữ "học". Cô phải định
nghĩa chữ "học" cho đúng thì tự nhiên cô hiểu hết".
Cúc Hương cười mà nói:
- Anh kêu em bằng cô nghe kỳ quá. Anh em học với nhau một trường
từ hồi nhỏ, mà anh kêu cô thì dường như thuở nay chưa quen biết nhau.
- Chớ kêu thế nào ?
- Kêu bằng em.
- Cô đã lớn rồi. Kêu em sao phải.
- Anh mấy tuổi mà anh nói em lớn ?
- Tôi 16 tuổi.
- Em mới 15, nhỏ hơn anh một tuổi thì làm em là phải lắm chớ.
Em muốn từ rày sắp lên anh kêu em bằng em cho có tình thân thích một chút, đừng
kêu bằng cô nữa nghe hôn.
- Muốn vây cũng được. Tự ý em.
- Bây giờ anh cắt nghĩa bài sách lại cho em nghe đi.
- Chữ "học" đây là học đạo nho, chớ không phải học
đặng biết chữ Tàu, như mình học đây vậy. Sách nói: "Học nhi thời tập chi,
bất duyệt hồ ?". Tôi hiểu nghĩa như vầy: mình được nghe giảng về đạo nhân
nghĩa của nho giáo; rồi mỗi giờ mổi khắc mình gia công rèn tập, làm y như lờI dạy;
mình học đã đắc đạo há mình không vui lòng đẹp dạ hay sao ? Chữ "duyệt"
là vui đẹp, nhưng vui đẹp ở trong chớ không lộ ra ngoài.
- Anh giải nghĩa như vậy thì đễ hiểu quá. Em hiểu rồi. Hồi
nãy em bối rối là tại em không biết định nghĩa chữ "học". Để em giải
câu thứ nhì cho anh nghe coi trúng hay không. "Hữu bằng tự viễn phương lai
bất diệc lạc hồ ?" Ý sách nói: có người bạn ở phương xa họ nghe mình học
đã đắc đạo, họ đến mà bàn luận hoặc học hỏi với mình, được như vậy mình không
vui hay sao ?"
- Em nói như vậy thì trúng lắm. Nhưng em nên nhớ chữ "lạc"
nghĩa là vui như chữ "duyệt", song vui lộ ra ngoài chớ không phải vui
ở trong như "duyệt".
- Cám ơn anh. Em sẽ nhớ. Còn câu chót, phải như vầy hay
không? "Nhơn bất tri nhi bất uẩn bất diệc quấn tử hồ ?" nghĩa là: ví
dầu người ta không hay, không biết mình tu tập đã đắc đạo, nếu không ai tìm tới
đặng học hỏi với mình, mà mình cũng không hờn trách, mình ăn ở được như vậy
không phải là quân tử sao? Cắt nghĩa như vậy trúng hay không anh Xuân?
- Trúng lắm. Em giỏi quá.
- May có anh học với em; nên em học dễ mà lại vui nữa. Nếu để
em học một mình, chắc em bối rối lắm. Anh thôi học chữ Tây hay sao nên trở lại
học chữ nho đây anh Xuân.?
- Lúc nầy bãi trường, tôi được nghỉ tới hai tháng. Hồi nãy
tôi ghé thăm thầy. Thầy nói bữa nay thầy bắt đầu dạy em học bộ Mạnh Tử. Thầy biểu
tôi nhơn bãi trường được ở nhà, tôi nên học luôn Mạnh Tử với em đặng thông trọn
bộ Tứ Thơ. Tại vậy nên tôi mới học đây, chớ không phải tôi bỏ chữ Tây. Chừng
khai trường tôi phải đi học thêm một năm nữa cho mãn lớp nhứt rồi mới thôi.
- Nếu vậy thì anh học ở đây tới hai tháng. Em học Mạnh Tử có
anh dìu dắt. Em mừng lắm. Em học xong bộ Tứ Thơ rồi em cũng thôi, đặng ở nhà tập
buôn bán. Anh nhắm coi trong hai tháng mình học hết bộ Mạnh Tử hay không ?
- Thầy nói thầy rán dạy cho hết.
- Em mừng quá. Mình được học với nhau tới hai tháng. Chừng
thôi mình sẽ thôi với nhau một lượt. Anh không có sách Mạnh Tử hay sao ?
- Có ở nhà. Bữa nay tình cờ thầy biểu học, tôi có dè đâu mà
đem theo. Ngày mai tôi sẽ có sách.
- Dầu không có, anh học chung sách của em cũng được. Anh học
nho giỏi, năm đó anh bỏ nho mà học chữ Tây, thầy tiếc quá. Em cũng buồn. Tại
sao anh bỏ nho học đặng theo tân học vậy anh Xuân?
- Tại ý cậu tôi muốn như vậy. Cậu nói con người trước hết phải
lo cho no cơm ấm áo. Đi học phải chú trọng về cơm áo ngày sau. Đời nầy mà còn học
nho để dùng vào chỗ nào. Cha tôi mất, má tôi nghèo, nên tôi phải nghe lời cậu
tôi mà bỏ cũ theo mới.
- Vì cơm áo nên đi học. Học như vậy em sợ không được cao thượng
phải hôn anh ?
- Phải lắm. Nhưng nhà nghèo, ăn bữa trước phải lo bữa sau làm
sao mà nghĩ đến cao thấp cho được em. Tôi đi Gò Công mà học hai năm nay, may có
hoc bổng tôi học mới được. Nếu không có thì tôi cũng phải bỏ rồi mặc dầu cậu mợ
tôi cho tôi ăn cơm.
- Anh có chí háo học, lại có khiếu thông minh, mà bị nhà
nghèo, thiệt uổng quá.
- Mỗi người đều có mạng riêng. Tôi không phiền mà cũng không
tiếc chi hết.
- Anh đói bụng hôn anh Xuân ? Em có tiền đây. Để em mượn học
trò đi mua cốm chùi cho anh ăn.
Mặc dầu Xuân cản, nói không đói bụng, Cúc Hương cũng đứng dậy
đi lại chỗ mấy trò gái đương đánh đủa mà đưa tiền mượn một trò đi mua đồ ăn. Một
lát trò ấy đem vô hai miếng cốm gạo với hai vắt cốm chùi. Cúc Hương bẻ ra thưởng
cho trò đi mua nửa vắt cốm chùi, rồi mời Xuân ăn chơi. Xuân từ chối không chịu
ăn, cử nói không đói.
Cúc Hương làm mặt buồn mà hỏi: "Cốm của em mua nên anh
chê phải hôn ? Em cũng không đói. Sở dĩ em mượn đi mua là vì bữa nay gặp nhau lại,
còn được học chung với nhau nữa, em mừng, em muốn anh em ăn chung thứ gì một
chút cho vui vậy thôi. Anh ăn cốm của em mua, có gì đâu mà mắc cỡ. Anh từ chối
em buồn lắm. Anh ăn một thẻ cốm gạo đây".
Cúc Hương lấy một miếng cốm gạo đưa cho Xuân. Với những lời
thiết tha vừa nghe đó thì khó cho Xuân từ nữa được, nên cậu phải lấy miếng cốm
gạo của Cúc Hương đưa mời. Nhưng cậu lấy rồi cậu bẻ ra làm hai, để phân nửa
trên miếng cốm thứ nhì, còn phân.nửa cầm mà ăn. Cúc Hương vói lấy nửa miếng để
lai đó mà ăn và nói: "Anh chia hai như vậy em chịu lắm. Anh ăn phân nửa,
em phân nửa".
Hai trẻ ngó nhau, đồng cười với nhau.
Tuy Xuân thôi học trường nầy đã hơn ba năm, nhưng ở chung một
chợ, hai trẻ lâu lâu thì gặp nhau ngoài đường hoài. Mà gặp thì thấy thoáng qua
vậy thôi, chớ không ngó cho kỹ. Tình cờ hôm nay được ngồi dựa bên nhau, được
nói chuyện với nhau nhiều, lại nãy giờ lật sách, chỉ chữ, nhiều khi đụng chạm
tay nhau, cả hài trẻ đồng nhận hình dạng bây giờ biến đổi khác hẳn với hình dạng
ngây thơ hồi trước, rồi trong lòng xúc động, dường như có cái gì nó lay chuyển
trong đầu óc, mà nó còn làm phơi phới trong ruột gan nữa vậy.
Cúc Hương thấy Xuân bây giờ là một cậu trai mạnh mẽ, gương mặt
hiền từ, cặp mắt sáng trưng, tướng mạo nghiêm trang, nói chuyện hòa hưởn. Xuân
khác hẳn mấy cậu trai tía lia, vúc vắc, mà cũng không giống lấy cậu nhút nhát sụt
sè. Tuy Xuân là con nhà nghèo mặc quần áo vải bô, song từ văn nói cho tới thái
độ, con nhà giàu khó mà bì kịp.
Còn cậu Xuân thấy Cúc Hương năm nay đã ra mã con gái, tóc bới
vén khéo, mặc áo lụa quần hàng, nét mặt vừa đẹp đẽ, vừa thuần hòa, tiếng nói vừa
trong ngần, vừa lễ nghĩa. Đã vậy mà còn thêm tướng đi yểu điệu miệng cười có
duyên, ngón tay no tròn, nước da trắng đỏ. Cả nhan sắc và tánh tình đều hiệp
nhau, khêu gợi ham thèm của trai mới lớn lên. Cậu Xuân tuy nết na đầm thấm, cử
chỉ đàng hoàng song cậu cũng có máu có thịt, biết muốn, biết yêu, nên thân cận
với Cúc Hương, cậu chẳng khỏi rúng động can trường như muôn ngàn thanh niên
khác.
Cúc Hương thấy xuân ăn hết miếng cốm gạo rồi, cô liền lấy vắt
cốm chùi bẻ làm hai mà đưa phân nửa cho Xuân và nói: "Anh ăn thêm nửa vắt
cốm chùi với em, rồi em đi múc nước cho anh uống. Có anh học chung với em, học
tới chừng nào, em cũng không lo".
Xuân không có lý mà từ được những lời mời hữu tình, hữu nghĩa
của Cúc Hương, nên phải lãnh ăn thêm nửa vắt cốm chùi nữa. Cúc Hương vui vẻ nói
chuyện không ngớt, chừng thấy Xuân ăn rồi cô mới vô trong lấy tô múc một tô nước
mưa bưng ra cho Xuân uống và rửa tay. Cô đứng ngó Xuân, cô rất vui lòng mà được
cho Xuân ăn uống, bởi vậy cô chúm chím cười hoài.
Đợi Xuân rửa tay rồi cô lấy tô với cốm ăn không hết đem lại
chỗ ba trò gái đánh đũa mà mời ăn cốm rồi nhờ đem giùm cái tô vô trong mà cất
luôn. Chừng cô trở lại cái bàn giữa thì thấy Xuân đã đem sách vở qua ngồi phía
bên kia, đối diện với cô nên cô hỏi:
- Sao anh không ngồi bên nầy nũa ?
- Tôi có sách nên không phép ngồi chung hoài, nhứt là không
có thầy.
- Em hiểu rồi. Thôi bây giờ để em đọc và cắt nghĩa nghe luôn.
Anh dò coi nếu có chỗ nào sái, anh sửa giùm cho em.
Bây giờ Cúc Hương mới đọc và giải nghĩa. Xuân dò theo, chỗ
nào Cúc Hương giải không rành thì Xuân nói thêm, có khi Cúc Hương cầm sách đi
qua đứng một bên Xuân mà nói chuyện.
Xế rồi, Học trò đi chợ hoặc đi chơi lần lượt trở về đủ hết.
Bàn nào cũng lo học lại đặng một lát nữa thầy sẽ xuống mà dọn bài. Mấy trò nhỏ
nếu quên chữ nào hay là không hiểu câu nào thì hỏi mấy trò lớn mà học. Đó là tục
lệ của trường ông Giáo Huân thuở nay, hễ lớn thì phải giùm giúp nhỏ, giỏi phải
nâng đỡ dở, cho không phải như thói đời lớn thì hiếp nhỏ, giỏi thì khi dở.
Ông Giáo Huân nghỉ trưa, ông thức dậy tắm và uống trà rồi ông
mới xuống trường. Ông dọn bài lớp nhỏ ngồi hai bàn hai bên rồi ông cho về trước.
Còn bàn giữa, học Minh Tâm với Tứ Thơ, thì ông để ở lại đặng ông dọn kỹ. Ông biểu
một trò trong đám học Minh Tâm đọc rồi giải nghĩa từ câu trong mấy tờ sách ông
đã dạy hồi sớm mơi.
Mấy trò khác ngồi dò mà nghe. Trò nầy giải vài ba câu thì ông
biểu trò khác giải tiếp. Có câu nào giải trật, hoặc không rành, thì ông chận mà
giải lại.
Qua tới Mạnh.Tử, ông Giáo buộc Cúc Hương phải giải. Cúc Hương
nhờ có Xuân cắt nghĩa giùm rành rẽ trước rồi, nên cô giải có mạch lạc, nói đủ ý
nghĩa, không sai không sót chi hết, làm cho ông Giáo rất hài lòng, nên ông khen
Cúc Hương nửc nở, mặc dầu ông biết có Xuân phụ giúp nên Cúc Hương mới thông được
như vậy.
Gần nửa chiều, dọn bài xong rồi, ông Giáo cho về hết. Xuân bước
lại để quyển Mạnh Tử trên ghế nghi và xá thầy mà ra trước một mình. Cậu sợ mẹ
không biết cậu đi đâu nên mẹ trông, bởi vậy cậu riết về nhà ở xóm Cây Me lớn.
Cúc Hương ôm sách thủng thẳng ra sau, rồi tẽ xuống phía chợ đặng
về nhà ở dựa mé kinh.
PHẦN I - CHƯƠNG 2 -
L
úc ấy trong hạt Gò Công, tại chợ Giồng Ông Huê, mà bây giờ
người ta gọi tắt là chợ Giồng, mặc dầu nhà nước Pháp đã có mở một trường tổng
trong một tòa nhà cất bằng gạch ngói đẹp đẽ, đàng hoàng, và có bổ hai giáo viên
dạy một lớp chữ quốc ngữ và một lớp xen nhiều giờ chữ Pháp, mà trường tư của
ông Giáo Huân cũng vẫn có học trò học đông hoài.
Ông giáo Huân là một nhà nho học hoạt bác, thông sử kinh rành
nghĩa lý, giảng sách dễ hiểu, viết chữ có gân, tuổi đã quá năm mươi mà sức khoẻ
còn đầy đủ. Cách mười năm trước vợ ông chết để lại cho ông một thướt vườn trong
làng Vĩnh Hựu và môt đứa con trai 20 tuổi. Ông phải cưới vợ sớm cho con đặng có
dâu lo việc cơm nước trong nhà, rồi ông chấp nối tóc tơ với thím Hằng là một
góa phụ ở ngoài chợ Giồng.
Thím Hằng nầy hồi trước vốn là vợ của một người khách trú,
thuộc bang Triều Châu tên Hứa Thêm có một tiệm bán trà và bánh in, thèo lèo ở
chợ Giồng. Vợ chồng sanh được đứa con trai đặt tên là Hứa Mỹ. Khi Hứa Mỹ được 7
tuổi, Hứa Thêm buôn bán khá, có tiền dư nhiều mới giao tiệm cho vợ rồi đem con
về Tàu đặng để nó ở với bà nội mà học chữ. Rủi thay, Hứa.Thêm dắt con đi vừa được
một tháng thì thím Hằng được thơ của bà mẹ chồng cho hay Hứa Thêm đau nên chết,
bà giữ Hứa Mỹ lại đặng trông nom cho nó ăn học, chừng khôn lớn rồi bà sẽ cho nó
trở qua.
Thím Hằng buồn rầu về sự mất chồng, lại xa con, thím hết muốn
buôn bán nữa. Thím sang tiệm bánh cho người khác, tom góp vốn liếng được gần ba
ngàn. Thím mua một nhà ngói ba căn, vách ván, phía trước có sân, phía sau có một
miếng vườn nhỏ nhỏ. Sân thì thím để chất đống củi đòn trữ mà bán lẻ, còn phía
sau thím cất thêm một thà lá ba căn cao ráo, khoảng khoát, để trữ cá khô và nước
mắm mà bán cho bạn hàng. Buôn bán thế nầy thím đã thảnh thơi mà lại có lợi nhiều.
Chẳng bao lâu thím chấp nối tóc tơ với ông Giáo Huân, vợ chồng toan tính với
nhau, mới đóng vách mà ngăn một căn trong nhà lá phía sau để trữ nước mắm với
cá khô, còn hai căn thì đóng bàn ghế dọn thành một trường học cho ông giáo dạy
chữ nho.
Trường học của ông Giáo Huân ở gần chùa Ông Quan Đế, dựa bên
lộ từ phía cây Me lớn đi lên, trước chùa Ông, sau nhà việc Vĩnh Lợi, rồi đi thẳng
vô Vĩnh Hựu.
Trường mở dạy đã bảy năm rồi, trai gái học chung, số học trò
luôn luôn không dưới 40. Học trò ở chợ quần áo sạch sẽ chớ không phải tèm lem
như trẻ em ở đồng, ở rẫy. Mới tập viết thì dùng giấy dùng viết chớ không phải
dùng đất mà viết trên ván rồi bôi.
Học trò phân nhiều lớp. Lớp mới học vỡ lòng, la rùm: Thiên trời,
địa đất, nhơn người, rồi tập viết chữ lớn bằng khu tô, thì đóng tiền trường mỗi
tháng hai cắc bạc.
Lớp đã viết được rồi, dầu còn viết hàng ba thì phải đóng tiền
trường năm cắc.
Còn lớp nghe giảng sách, bất luận học Minh Tâm Bửu Giám hay Ấu
Học Tầm Nguyên, hay Tứ Thơ Thể Chú, thì phải đóng chẵn một đồng.
Nhờ vậy nên mỗi tháng ông Giáo Huân kiếm vài chục đồng bạc, uống
trà hút thuốc không hết, huê lợi trong vườn trong Vĩnh Hựu ông giao hết cho con
với dâu ăn xài thong thả.
Thời dụng biểu trong trường ông giáo Huân không giống với trường
nhà nước. Sớm mơi ăn cơm rồi ngoài 9 giờ thì bắt đầu dạy. Gần 12 giờ thầy nghỉ
trưa. Luc ấy học trò tự do, nhưng không được cười giỡn làm rầy; muốn về nhà thì
về muốn đi chơi cũng được, hay là muốn ở đó mà học ôn hoặc tập viết tuỳ ý. Thường
thường mấy trò trộng tuổi, nghe sách, thì ở luôn mà học, duy có mấy trò nhỏ hay
đi chơi hoặc ra chợ mua bánh mà ăn.
Hôm nay, quá 9 giờ rồi, học trò rải rác đi học, vô sân rồi
thì đi dọc theo đường bên hè mà vô trường ở phía sau.
Ông Giáo Huân ăn cơm uống nước rồi, ông đứng tại cửa giữa vấn
thuốc mà hút. Ông ngó ra lộ thấy có một cậu trai chừng 15, 16 tuổi, đương đi
thơ thẩn, thì ông kêu:
- Xuân, vô đây cho thầy hỏi thăm một chút coi.
Cậu trai ấy nghe kêu thì xâm xâm đi vô, tới thềm thì chấp tay
cung kỉnh xá thầy. Ông Giáo Huân hỏi dồn dập: "Cháu còn đi học chữ Tây hay
không ? Học đến bực nào rồi ? Nói tiếng Tây được hay chưa ? Thôi học hay sao
nên thả đi chơi vậy hứ?".
Không đợi người ta trả lời, ông liền tiếp xây lưng đi vô nhà,
và đi và nói tiếp: "Vô đây, vô nói chnyện cho thầy nghe thử coi".
Ông Giáo kéo ghế ngồi dựa cái bàn. Cậu Xuân thấy thím Hằng
đương ngồi trên bộ ván ngang đó têm trầu mà ăn, cậu xá thím rời đứng xớ rớ, tay
vịn cây cột.
Ông Giáo Huân hỏi lại:
- Cháu còn học dưới Gò hay không ?
- Thưa còn.
- Còn học sao lại được về mà đi chơi ?
- Thưa, bãi trường từ hôm qua con về.
- À! Bãi trường. Nghỉ tới chừng nào mới học lại ?
- Thưa nghỉ lới 25 tháng giêng.
- Dử hôn ! Nghỉ hơn hai tháng, học trò quên chữ hết còn gì!
- Thưa, bãi trường lớn nên nghỉ lâu.
- Cháu xuống Gò học đã được hai năm rồi. Bây giờ lên tới cấp
nào ? Còn học bao lâu nữa mới rồi ?.
- Thưa hồi mới xuống con ngồi học lớp ba học một năm. Năm nay
con học lớp nhì mãn rồi. Ra giêng khai trường, con sẽ lên lớp nhứt, học thêm một
năm nữa thì cuối năm đi thi.
- Thi thì chắc cháu đậu, vì thầy biết cháu ham học lại siêng
năng, nên chữ gì cũng vậy, hễ cháu học thì chắc cháu giỏi hơn chúng bạn. Mà qua
năm nay cháu thi đậu rồi cháu được làm ông gì hay thầy gì nè ?
- Thưa thầy, con nghe người ta nói, hễ học lớp nhứt mà thi đậu,
như mình thôi học thì nhà nước cho làm thầy giáo và bổ đi dạy mấy trường công
hoặc trường làng. Còn nếu mình chịu đi học thêm cho học lực được cao, thì nhà
nước nuôi cơm nước áo quần cho mình học hai năm tại trường lớn Mỹ tho rồi lên
Sài gòn học tiếp thêm hai năm nữa. Mãn bốn năm thì ra trường sẽ được bổ làm
thông ngôn, ký lục trong các sở, hoặc làm giáo viên dạy mấy trường sơ học.
- Nếu qua sang năm thi rồi cháu thôi học để đi làm giáo làng
hoặc giáo tổng, mỗi tháng lãnh lương 9, 10 đồng có nghĩa gì, sợ không đủ cơm áo
cho cháu, đâu có dư mà nuôi chị Hương Văn được. Phải rán học thêm bốn năm nữa đặng
làm thông ngôn, ký lục mới khá. Cha chả, mà chị Hương Văn nghèo chỉ đủ sức cho
cháu học đến bốn năm hay không ?
- Thưa, con chưa nói chuyện đó cho má con biết. Bụng con thì
muốn học nữa, ngặt con thấy má con cực khổ quá, nên nên con không nỡ lo tương
lai cho phận con, mà để cho má con cực khổ thêm tới bốn năm nửa. Có lẽ con học
thêm một năm lớp nhứt nữa rồi con xin đi làm giáo làng đặng con giúp đỡ má con.
- Cháu biết thương mẹ như vậy thì cháu là con có hiếu. Ngặt hồi
trước cháu học với thầy, cháu thông minh mẫm cán, học được Đại Học, Trung dung,
Luận Ngữ rồi kế cháu bỏ để qua học chữ Tây. Học thêm đã mấy năm rồi nếu ra làm
giáo làng thì uổng công phu của cháu quá. Chớ chi hồi đó cháu học luôn chữ nho,
thì bây giờ cháu đủ sức mở trường tư mà dạy học như thầy, lương hướng hơn giáo
làng mà được thong thả, khoẻ khoắn. Hồi cháu từ biệt thầy đặng qua trường tổng
mà học chữ tây, thiệt thầy buồn quá. Người Nam thì học chữ Nam, đặng ăn ở theo
định nghĩa của mình. Học theo người ta làm chi. Thứ học để làm tôi mọi, thà dốt
rồi làm ruộng hoặc lập vườn mà nuôi thân cũng còn vinh quang hơn nhiều. Thầy
thương cháu lắm. Hồi trước cháu là ngôi sao xán lạng trong trường của thầy. Thầy
chắc thầy sẽ truyền đạo học của thầy cho cháu được, bởi vậy cháu bỏ mà đi ngả
khác, thầy tiếc hết sức.
- Thưa thầy, tại cha con mất, má con nghe lời cậu Ba con, ép
con phải qua trường tổng mà học cho khỏi tốn tiền thầy, rồi sau được làm giáo
viên. Vì vậy nên con mới đi học chữ Tây, chớ thôi học chữ nho thiệt con cũng buồn
lắm.
- Nếu anh Hương Văn còn sống, chắc thầy cản ảnh, thầy không để
ảnh cho cháu bỏ nho mà học chữ Tây. Mà bây giờ bãi trường nghỉ tới hai tháng
cháu ở nhà làm cái gì ? Không lẽ mỗi ngày ăn no rồi thả đi chơi hoài.
- Thưa, con coi bài vở cũ lại, chớ không có làm chi hết.
Ông Giáo Huân lơ lửng mà suy nghĩ. Ông mở cái hộp thuốc ra và
lấy thuốc vấn mà hút nữa.
Thím Hằng nói: "Thiếu gì con nhà giàu có, bạc tiền dư dã
mà họ lại không chịu đi học. Còn cháu Xuân đây ham học, lại có khiếu thông
minh, mà nhà thì nghèo, mẹ góa con côi, đi học không được. Ông trời trớ trêu
quá. Chớ chi ông cho cháu Xuân sanh trong một nhà giàu có lớn, thì cháu sẽ học
giỏi biết chừng nào".
Ông Giáo nói:
- Ở đời phải có trặc trẹo như vậy mới có chuyện mà nói chớ.
Có lẽ tạo hoá gây cuộc khó khăn để trui gan, thử chí con người, bởi vậy gặp khó
khăn mà lướt qua mới thiệt là giỏi.
Thím Hằng hỏi Xuân:
- Chị Hương Văn lúc nầy còn bán ngoài chợ hay không cháu? Hết
mùa bắp, khoai rồi, chị bán thứ gì ?
- Thưa, má con bán xôi với bánh bèo.
- Bán xôi, bánh mà lời lóm bao nhiêu ?
- Thưa, mỗi bữa lời năm ba cắc cũng đủ ăn.
- Sự sống bắt buộc phải tốn hao nhiều thứ, như nhà cửa, áo quần,
thuốc men, chớ có phải tốn cơm, cá mà thôi đâu cháu.
Ông giáo nói:
- Nhà nghèo phải chịu nhiều nỗi khổ, nói sao cho xiết. Mà khó
khăn cho mấy người ta cũng sống được, có sao đâu mà lo. Nếu có lo là lo đừng vì
chữ bần hàn mà làm trái đạo nghĩa, làm nhục tổ tiên mà thôi.
Ông Giáo xây câu chuyện qua địa hạt phong hoá, thím Hằng
không muốn theo, nên thím làm lơ. Ông giáo mới nói với cậu Xuân:
- Xuân, thầy giảng Tứ Thơ cho cháu vừa hết bộ Luận Ngữ thì
cháu thôi học. Cháu còn thiếu bộ Mạnh Tử, chưa nghe. Bữa nay thầy bắt đầu giảng
Mạnh Tử cho con Cúc Hương học.
- Chà! Cô Cúc Hương đã học xong Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ,
bây giờ cô nghe tới Mạnh Tử lận ? Giỏi quá !
- Nó thông minh lắm, lại siêng năng cũng như cháu hồi trước vậy.
Nó cũng lớn rồi, cha mẹ nó muốn bắt nó ở nhà đặng tập buôn bán. Nghe giảng sách
tay đôi, một thầy một trò thiệt buồn quá. Ngặt Cúc Hương cứ năn nỉ xin thầy dạy
dùm Mạnh Tử nữa cho nó học đủ bộ Tứ Thơ rồi nó sẽ ở nhà mà buôn bán. Vì vậy nên
thầy phải rán dạy dùm cho nó đặng nó khỏi thiếu sót. Thầy nghĩ đất Gia Định
mình bây giờ không còn thi cử gì nữa. Người mình cần học nho để tu tâm, dưỡng
tánh mà ở đời vậy thôi. Mà xuất thân làm ăn, nếu không học Mạnh Tử thì như đi
chiếc thuyền không có bánh lái. Cúc Hương tính buôn bán, nó muốn học Mạnh Tử là
phải lắm. Đó là thêm một lý thầy phải dạy nó nữa. May gặp dịp bãi trường, cháu ở
không tới hai tháng, thầy muốn cháu thừa cơ hội mà học luôn Mạnh Tử với Cúc
Hương. Có thêm một trò nữa thì thầy mới sốt sắng. Cháu chịu hay không ?
Xuân dụ dự rồi đáp:
- Thưa, để thủng thẳng con suy nghĩ coi.
- Suy nghĩ làm chi ? Có điều chi trắc trở đâu mà suy nghĩ.
- Con phải thưa cho má con hay coi má con có bằng lòng lay
không.
- Á! Cháu sợ phải đóng tiền chớ gì. Không. Thầy dạy giùm cho
cháu, cháu khỏi đóng tiền học. Bãi trường, cháu học thêm Mạnh Tử cho có đủ nhân
nghĩa mà xử sự, có ích quá. Ở không mà thả rều có ích gì đâu. Cháu bắt đầu học
liền bữa nay đi. Chiều về sẽ nói lại cho chị Hương Văn hay, nói thầy dạy giùm,
thầy không đòi tiền. Mà cháu ăn cơm sớm mơi rồi hay chưa ?
- Thưa, rồi.
- Vậy thì đi xuống trường với thầy. Bây giờ chắc học trò đã tới
đủ rồi.
Ông giáo dắt Xuân vô trong rồi đi cửa sau mà xuống nhà dạy học.
Đi dọc đường ông hỏi:
- Bộ sách Tứ Thơ của cháu hồi trước cháu còn đủ hay không ?
- Thưa, còn đủ hết. Đi học thì con gói cất trong tủ. Bãi trường
con mới đem ra mà đọc lại. Con mới lấy ra hồi hôm nầy.
- Được lắm. Vậy mai cháu đem Mạnh Tử theo mà học. Bữa nay
cháu dò chung sách của Cúc Hương. Chừng thầy giảng giải rồi, thầy sẽ cho cháu
mượn sách của thầy đặng cháu học đỡ.
Ông giáo bước vô nhà học, sau lưng có Xuân đi thẹo. Học trò
ngồi chật ba cái bàn thấp mà dài, cả thảy đồng đứng dậy chấp tay xá thầy. Ông
giáo khoác tay biểu ngồi xuống và ông đi ngay lại chỗ Cúc Hương ngồi mà nói:
Cúc Hương, thầy lại kiếm thêm một trò xin nghe giảng sách Mạnh Tử nữa đây, đặng
cháu học cho có bạn. Cháu biết Xuân mà".
Cô Cúc Hương ngó Xuân, miệng chúm chím cười mà đáp:
"Thưa biết, anh Xuân là học trò cũ của trường nầy. Anh Bỏ đi học chữ Tây mấy
năm nay . Xuân biết ý Cúc Hương muốn mở hơi bao biếm, nhưng nghĩ không phải chỗ
biện bạch quấy phải, nên cậu cũng chúm chím cười chớ không nói chi hết.
Ông giáo biểu mấy trò dồn xuống một chút đặng trống ở đầu bàn
giữa một chỗ cho Xuân ngồi ngang mặt với Cúc Hương ngồi phía bên kia. Ông Giáo
đi qua hai bàn hai bên mà chỉ đạo cho học trò học.
Xuân ngồi ngó tứ phía thì thấy ván, bàn, ghế, võng, đều còn y
như mấy năm trước, không dời đổi chút nào hết. Phía trong lót bộ ván gõ nhỏ để
cho thầy nằm ngồi. Trước bộ ván thì để một cái ghế nghi, trên ghế có một bình
trà, hai chén nhỏ, một hộp thuốc, một lư lửa với một cặp kiếng, để cho thầy
mang mà xem sách. Một bên lại có để ba chồng sách thấp thấp, sách cũ mà bìa cứng
quành. Trên ván có gối dựa, có gối đầu, có quạt lông, lại có một ngọn roi mây để
khi nào học trò nhỏ làm rầy lúc thầy giảng sách, thì thầy nhịp trên ván mà biểu
im lặng.
Thầy đã có chỗ nằm ngồi thong thả, mà ngang với bộ ván lại có
giăng một cái võng bố để lúc thầy dạy mệt thì nằm đưa nhúc nhích cho mát.
Còn ba dãy bàn của học trò ngồi học, thì hai dãy hai bên toàn
là học trò nhỏ cộng chung với lối 30 trò, một bên học Tam Tự Kinh, một bên học
Tam Thiên Tự, bàn nào học theo bàn nấy nên la rùm. Bên nây học: "Phụ cha,
mẫu mẹ, sư thầy, quân vua", thì bên kia lại la: "Thiên Trời, Địa Đất,
thất mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước,…".
Xuân ngồi mắt ngó trước sau, tai nghe inh ỏi, quang cảnh cách
lấy năm trước diễn lại trước mắt, xưa nay cũng vậy, cậu xúc động nên liếc Cúc
Hương mà cười. Tại bàn giữa chỗ cậu ngồi, chỉ có mười trò, 3 gái 7 trai, toàn
là học trò nghe sách duy có Cúc Hương, 15 tuổi, học Tứ Thơ, còn 9 trò kia, gái
cũng như trai, còn học sách Minh Tâm, tuổi tác xấp xỉ với nhau, lối 13 hoặc 14.
Ông Giáo Huân lần lượt dạy giáp hai bàn hai bên rồi ông nhịp
roi biểu nín hết đặng ông giảng sách cho học trò lớn. Nhờ tập quen kỷ luật nhiều
năm, bởi vậy vừa nghe nhịp roi thì học trò nín êm, chỉ có ít học trò lầm thầm
trong miệng.
Ông Giáo lại ghế nghi lấy cuốn sách Minh Tâm với cặp mắt kiếng
rồi đi ra mà ngồi cái ghế để tại đầu bàn giữa phía ngoài cửa, dỡ sách ra đọc chữ
rồi cắt nghĩa từng chữ, từng câu cho học trò nghe. Cậu Xuân cũng như Cúc Hương
day lại phía trò ngồi gần liếc mắt dòm vào quyển sách mà dò chung với bạn.
Ông Giáo cắt nghĩa được hai tờ sách rồi ông xếp lại mà nói:
"Thôi bữa nay giảng bao nhiêu đó đã nhiều rồi. Bây học đi, có câu nào chưa
hiểu rõ thì sẽ hỏi lại. Bây giờ để thầy giảng Mạnh Tử cho cúc Hương. Mấy trò
cũng nên lóng nghe lần đặng hiểu chút đỉnh nghĩa lý sau học cho dễ".
Ông đi lại ghế nghi đổi sách mà lấy "Mạnh Tử thượng quyển
rồi kéo ghế ngồi đầu bàn phía trong. Ông thấy cậu Xuân ngồi khoanh tay không có
sách trước mặt, ông mới biểu trò gái ngồi gần Cúc Hương đổi chỗ với Xuân đặng
Xuân qua ngồi dựa bên Cúc Hương mà dò chung sách của Cúc Hương.
Xuân vâng lời thầy mà đổi chỗ, không ái ngại chi hết. Cúc
Hương đẩy cuốn sách qua phía Xuân. Thầy bắt đầu đọc từng câu mà cắt nghĩa xuôi
rồi nói tới lý. Hai trẻ cúi mà dòm chung vào quyển sách, hai đầu gần đụng nhau,
nhưng mắc lo dò cho nhớ chữ và hiểu nghĩa nên không ái ngại chi hết.
Dạy được ba tờ sách rồi ông Giáo nói bữa đầu giảng ít một
chút đặng khỏi ngán, quen rồi sẽ giảng nhiều hơn. Ông trao quyển sách của ông cho
Xuân mượn. Ông lại bộ ván ngồi rót nước trà mà uống và lấy cây quạt mà quạt.
Học trò đứa cầm vở lên hỏi chữ, đứa cầm sách lại hỏi nghĩa,
tiếp tục lên xuống không ngớt. Xuân gầm đầu vào quyển sách không để ý đến việc
chi khác, cũng không tính đổi chỗ ngồi trở lại đặng xa Cúc Hương.
Mặt trời gần đứng bóng, ông Giáo thấy học trò các cấp đều lo
học, không còn hỏi chữ nghĩa gì nữa, ông lại võng nằm, một hồi rồi bỏ đi lên
nhà trên.
Học trò biết thầy đi nghỉ trưa, tới giờ mình được thong thả
nên rủ nhau tốp đi chơi, tốp đi chợ mua bánh về ăn. Phần đông thì ra chợ, nhưng
đi riêng thì tốp đôi ba trò, chớ không đi chung. Trò nào không muốn đi thì gởi
tiền cho chúng bạn mua giùm kẹo, cốm hoặc chuối nấu.
Bây giờ trong trường chỉ còn có mười mấy trò, nhưng dụm nhau
từ khóm năm ba trò, con trai thì ra sau hè đánh đáo, con gái thì ngồi dưới đất
đánh đũa.
Trên bàn giữa chỉ còn có Xuân với Cúc Hương ngồi êm, chăm chú
ngó vào sách mà học, ngồi một bên nhau, nhưng không ai nói tới ai.
Thình lình Cúc Hương kêu mà hỏi: "Anh Xuân, bài đầu ý
nói cái gì vậy anh ? Nãy giờ em suy nghĩ hết sức mà em hiểu không thấu. Học mà
tập luôn luôn thì vui. Vui cái gì ? Bạn ở xa lại thì mừng. Sao mà mừng ? Người
ta không biết mà nình không hờn, vậy mới là quân tử. Không biết giống gì ? Anh
hiểu sao đâu, anh làm ơn cắt nghĩa lại cho em nghe thử coi".
Xuân ngó ngay Cúc Hương và nghiêm chỉnh đáp: "Theo lời
thầy dạy hồi nãy thì bài nầy khó hiểu là tại chữ "học". Cô phải định
nghĩa chữ "học" cho đúng thì tự nhiên cô hiểu hết".
Cúc Hương cười mà nói:
- Anh kêu em bằng cô nghe kỳ quá. Anh em học với nhau một trường
từ hồi nhỏ, mà anh kêu cô thì dường như thuở nay chưa quen biết nhau.
- Chớ kêu thế nào ?
- Kêu bằng em.
- Cô đã lớn rồi. Kêu em sao phải.
- Anh mấy tuổi mà anh nói em lớn ?
- Tôi 16 tuổi.
- Em mới 15, nhỏ hơn anh một tuổi thì làm em là phải lắm chớ.
Em muốn từ rày sắp lên anh kêu em bằng em cho có tình thân thích một chút, đừng
kêu bằng cô nữa nghe hôn.
- Muốn vây cũng được. Tự ý em.
- Bây giờ anh cắt nghĩa bài sách lại cho em nghe đi.
- Chữ "học" đây là học đạo nho, chớ không phải học
đặng biết chữ Tàu, như mình học đây vậy. Sách nói: "Học nhi thời tập chi,
bất duyệt hồ ?". Tôi hiểu nghĩa như vầy: mình được nghe giảng về đạo nhân
nghĩa của nho giáo; rồi mỗi giờ mổi khắc mình gia công rèn tập, làm y như lờI dạy;
mình học đã đắc đạo há mình không vui lòng đẹp dạ hay sao ? Chữ "duyệt"
là vui đẹp, nhưng vui đẹp ở trong chớ không lộ ra ngoài.
- Anh giải nghĩa như vậy thì đễ hiểu quá. Em hiểu rồi. Hồi
nãy em bối rối là tại em không biết định nghĩa chữ "học". Để em giải
câu thứ nhì cho anh nghe coi trúng hay không. "Hữu bằng tự viễn phương lai
bất diệc lạc hồ ?" Ý sách nói: có người bạn ở phương xa họ nghe mình học
đã đắc đạo, họ đến mà bàn luận hoặc học hỏi với mình, được như vậy mình không
vui hay sao ?"
- Em nói như vậy thì trúng lắm. Nhưng em nên nhớ chữ "lạc"
nghĩa là vui như chữ "duyệt", song vui lộ ra ngoài chớ không phải vui
ở trong như "duyệt".
- Cám ơn anh. Em sẽ nhớ. Còn câu chót, phải như vầy hay
không? "Nhơn bất tri nhi bất uẩn bất diệc quấn tử hồ ?" nghĩa là: ví
dầu người ta không hay, không biết mình tu tập đã đắc đạo, nếu không ai tìm tới
đặng học hỏi với mình, mà mình cũng không hờn trách, mình ăn ở được như vậy
không phải là quân tử sao? Cắt nghĩa như vậy trúng hay không anh Xuân?
- Trúng lắm. Em giỏi quá.
- May có anh học với em; nên em học dễ mà lại vui nữa. Nếu để
em học một mình, chắc em bối rối lắm. Anh thôi học chữ Tây hay sao nên trở lại
học chữ nho đây anh Xuân.?
- Lúc nầy bãi trường, tôi được nghỉ tới hai tháng. Hồi nãy
tôi ghé thăm thầy. Thầy nói bữa nay thầy bắt đầu dạy em học bộ Mạnh Tử. Thầy biểu
tôi nhơn bãi trường được ở nhà, tôi nên học luôn Mạnh Tử với em đặng thông trọn
bộ Tứ Thơ. Tại vậy nên tôi mới học đây, chớ không phải tôi bỏ chữ Tây. Chừng
khai trường tôi phải đi học thêm một năm nữa cho mãn lớp nhứt rồi mới thôi.
- Nếu vậy thì anh học ở đây tới hai tháng. Em học Mạnh Tử có
anh dìu dắt. Em mừng lắm. Em học xong bộ Tứ Thơ rồi em cũng thôi, đặng ở nhà tập
buôn bán. Anh nhắm coi trong hai tháng mình học hết bộ Mạnh Tử hay không ?
- Thầy nói thầy rán dạy cho hết.
- Em mừng quá. Mình được học với nhau tới hai tháng. Chừng
thôi mình sẽ thôi với nhau một lượt. Anh không có sách Mạnh Tử hay sao ?
- Có ở nhà. Bữa nay tình cờ thầy biểu học, tôi có dè đâu mà
đem theo. Ngày mai tôi sẽ có sách.
- Dầu không có, anh học chung sách của em cũng được. Anh học
nho giỏi, năm đó anh bỏ nho mà học chữ Tây, thầy tiếc quá. Em cũng buồn. Tại
sao anh bỏ nho học đặng theo tân học vậy anh Xuân?
- Tại ý cậu tôi muốn như vậy. Cậu nói con người trước hết phải
lo cho no cơm ấm áo. Đi học phải chú trọng về cơm áo ngày sau. Đời nầy mà còn học
nho để dùng vào chỗ nào. Cha tôi mất, má tôi nghèo, nên tôi phải nghe lời cậu
tôi mà bỏ cũ theo mới.
- Vì cơm áo nên đi học. Học như vậy em sợ không được cao thượng
phải hôn anh ?
- Phải lắm. Nhưng nhà nghèo, ăn bữa trước phải lo bữa sau làm
sao mà nghĩ đến cao thấp cho được em. Tôi đi Gò Công mà học hai năm nay, may có
hoc bổng tôi học mới được. Nếu không có thì tôi cũng phải bỏ rồi mặc dầu cậu mợ
tôi cho tôi ăn cơm.
- Anh có chí háo học, lại có khiếu thông minh, mà bị nhà
nghèo, thiệt uổng quá.
- Mỗi người đều có mạng riêng. Tôi không phiền mà cũng không
tiếc chi hết.
- Anh đói bụng hôn anh Xuân ? Em có tiền đây. Để em mượn học
trò đi mua cốm chùi cho anh ăn.
Mặc dầu Xuân cản, nói không đói bụng, Cúc Hương cũng đứng dậy
đi lại chỗ mấy trò gái đương đánh đủa mà đưa tiền mượn một trò đi mua đồ ăn. Một
lát trò ấy đem vô hai miếng cốm gạo với hai vắt cốm chùi. Cúc Hương bẻ ra thưởng
cho trò đi mua nửa vắt cốm chùi, rồi mời Xuân ăn chơi. Xuân từ chối không chịu
ăn, cử nói không đói.
Cúc Hương làm mặt buồn mà hỏi: "Cốm của em mua nên anh
chê phải hôn ? Em cũng không đói. Sở dĩ em mượn đi mua là vì bữa nay gặp nhau lại,
còn được học chung với nhau nữa, em mừng, em muốn anh em ăn chung thứ gì một
chút cho vui vậy thôi. Anh ăn cốm của em mua, có gì đâu mà mắc cỡ. Anh từ chối
em buồn lắm. Anh ăn một thẻ cốm gạo đây".
Cúc Hương lấy một miếng cốm gạo đưa cho Xuân. Với những lời
thiết tha vừa nghe đó thì khó cho Xuân từ nữa được, nên cậu phải lấy miếng cốm
gạo của Cúc Hương đưa mời. Nhưng cậu lấy rồi cậu bẻ ra làm hai, để phân nửa
trên miếng cốm thứ nhì, còn phân.nửa cầm mà ăn. Cúc Hương vói lấy nửa miếng để
lai đó mà ăn và nói: "Anh chia hai như vậy em chịu lắm. Anh ăn phân nửa,
em phân nửa".
Hai trẻ ngó nhau, đồng cười với nhau.
Tuy Xuân thôi học trường nầy đã hơn ba năm, nhưng ở chung một
chợ, hai trẻ lâu lâu thì gặp nhau ngoài đường hoài. Mà gặp thì thấy thoáng qua
vậy thôi, chớ không ngó cho kỹ. Tình cờ hôm nay được ngồi dựa bên nhau, được
nói chuyện với nhau nhiều, lại nãy giờ lật sách, chỉ chữ, nhiều khi đụng chạm
tay nhau, cả hài trẻ đồng nhận hình dạng bây giờ biến đổi khác hẳn với hình dạng
ngây thơ hồi trước, rồi trong lòng xúc động, dường như có cái gì nó lay chuyển
trong đầu óc, mà nó còn làm phơi phới trong ruột gan nữa vậy.
Cúc Hương thấy Xuân bây giờ là một cậu trai mạnh mẽ, gương mặt
hiền từ, cặp mắt sáng trưng, tướng mạo nghiêm trang, nói chuyện hòa hưởn. Xuân
khác hẳn mấy cậu trai tía lia, vúc vắc, mà cũng không giống lấy cậu nhút nhát sụt
sè. Tuy Xuân là con nhà nghèo mặc quần áo vải bô, song từ văn nói cho tới thái
độ, con nhà giàu khó mà bì kịp.
Còn cậu Xuân thấy Cúc Hương năm nay đã ra mã con gái, tóc bới
vén khéo, mặc áo lụa quần hàng, nét mặt vừa đẹp đẽ, vừa thuần hòa, tiếng nói vừa
trong ngần, vừa lễ nghĩa. Đã vậy mà còn thêm tướng đi yểu điệu miệng cười có
duyên, ngón tay no tròn, nước da trắng đỏ. Cả nhan sắc và tánh tình đều hiệp
nhau, khêu gợi ham thèm của trai mới lớn lên. Cậu Xuân tuy nết na đầm thấm, cử
chỉ đàng hoàng song cậu cũng có máu có thịt, biết muốn, biết yêu, nên thân cận
với Cúc Hương, cậu chẳng khỏi rúng động can trường như muôn ngàn thanh niên
khác.
Cúc Hương thấy xuân ăn hết miếng cốm gạo rồi, cô liền lấy vắt
cốm chùi bẻ làm hai mà đưa phân nửa cho Xuân và nói: "Anh ăn thêm nửa vắt
cốm chùi với em, rồi em đi múc nước cho anh uống. Có anh học chung với em, học
tới chừng nào, em cũng không lo".
Xuân không có lý mà từ được những lời mời hữu tình, hữu nghĩa
của Cúc Hương, nên phải lãnh ăn thêm nửa vắt cốm chùi nữa. Cúc Hương vui vẻ nói
chuyện không ngớt, chừng thấy Xuân ăn rồi cô mới vô trong lấy tô múc một tô nước
mưa bưng ra cho Xuân uống và rửa tay. Cô đứng ngó Xuân, cô rất vui lòng mà được
cho Xuân ăn uống, bởi vậy cô chúm chím cười hoài.
Đợi Xuân rửa tay rồi cô lấy tô với cốm ăn không hết đem lại
chỗ ba trò gái đánh đũa mà mời ăn cốm rồi nhờ đem giùm cái tô vô trong mà cất
luôn. Chừng cô trở lại cái bàn giữa thì thấy Xuân đã đem sách vở qua ngồi phía
bên kia, đối diện với cô nên cô hỏi:
- Sao anh không ngồi bên nầy nũa ?
- Tôi có sách nên không phép ngồi chung hoài, nhứt là không
có thầy.
- Em hiểu rồi. Thôi bây giờ để em đọc và cắt nghĩa nghe luôn.
Anh dò coi nếu có chỗ nào sái, anh sửa giùm cho em.
Bây giờ Cúc Hương mới đọc và giải nghĩa. Xuân dò theo, chỗ
nào Cúc Hương giải không rành thì Xuân nói thêm, có khi Cúc Hương cầm sách đi
qua đứng một bên Xuân mà nói chuyện.
Xế rồi, Học trò đi chợ hoặc đi chơi lần lượt trở về đủ hết.
Bàn nào cũng lo học lại đặng một lát nữa thầy sẽ xuống mà dọn bài. Mấy trò nhỏ
nếu quên chữ nào hay là không hiểu câu nào thì hỏi mấy trò lớn mà học. Đó là tục
lệ của trường ông Giáo Huân thuở nay, hễ lớn thì phải giùm giúp nhỏ, giỏi phải
nâng đỡ dở, cho không phải như thói đời lớn thì hiếp nhỏ, giỏi thì khi dở.
Ông Giáo Huân nghỉ trưa, ông thức dậy tắm và uống trà rồi ông
mới xuống trường. Ông dọn bài lớp nhỏ ngồi hai bàn hai bên rồi ông cho về trước.
Còn bàn giữa, học Minh Tâm với Tứ Thơ, thì ông để ở lại đặng ông dọn kỹ. Ông biểu
một trò trong đám học Minh Tâm đọc rồi giải nghĩa từ câu trong mấy tờ sách ông
đã dạy hồi sớm mơi.
Mấy trò khác ngồi dò mà nghe. Trò nầy giải vài ba câu thì ông
biểu trò khác giải tiếp. Có câu nào giải trật, hoặc không rành, thì ông chận mà
giải lại.
Qua tới Mạnh.Tử, ông Giáo buộc Cúc Hương phải giải. Cúc Hương
nhờ có Xuân cắt nghĩa giùm rành rẽ trước rồi, nên cô giải có mạch lạc, nói đủ ý
nghĩa, không sai không sót chi hết, làm cho ông Giáo rất hài lòng, nên ông khen
Cúc Hương nửc nở, mặc dầu ông biết có Xuân phụ giúp nên Cúc Hương mới thông được
như vậy.
Gần nửa chiều, dọn bài xong rồi, ông Giáo cho về hết. Xuân bước
lại để quyển Mạnh Tử trên ghế nghi và xá thầy mà ra trước một mình. Cậu sợ mẹ
không biết cậu đi đâu nên mẹ trông, bởi vậy cậu riết về nhà ở xóm Cây Me lớn.
Cúc Hương ôm sách thủng thẳng ra sau, rồi tẽ xuống phía chợ đặng
về nhà ở dựa mé kinh.
PHẦN I - CHƯƠNG 3 -
C
ặp thiếu niên nam nữ, xứng đôi vừa lứa, cả hai đều ham học, đều
dễ thương gặp nhau liền khắn khít, liền thân yêu, là con nhà ai ở đâu ?
Xuân với Cúc Hương là hai nhơn vật chánh của truyện nầy, một
nghèo một giàu, nhà nghèo thì khổ với nghèo, còn giàu cũng khổ với giàu, vì nặng
tình nặng nghĩa nên cả hai đều chịu khổ như nhau, cưu mang nỗi khổ của dương trần,
khổ đến kẻ mất người còn, mà tình nghĩa vẫn khư khư, tình không phai, nghĩa
không lợt.
Vậy nên dẫn phứt tông tích của cặp thiếu niên nầy ra đây cho
rồi, không cần phải giấu giếm nữa.
Xuân thiệt tên họ là Phan Vĩnh Xuân, con trai của Phan Vĩnh
Thanh, sanh trưởng tại chợ Giồng Ông Huê, trong một xóm cách chợ ít trăm thước,
gọi là xóm Cây Me lớn, vì chỗ đó có một cậy me cố cựu, gốc lớn đến hai người nối
tay nhau ôm mới giáp.
Phan Vĩnh Thanh có vợ là Thị Hài, vợ chồng sanh có một đứa
con trai, là Vĩnh Xuân đó mà thôi.
Vĩnh Thanh nghèo, nhưng có nghề đương thúng, đương rổ khéo, bởi
vậy người trong chợ và mấy làng xung quanh đến đặt đương thúng rổ, phải ngồi
làm tối ngày mà cũng không kịp cho người ta lấy. Còn vợ là Thị Hài lại giỏi về
nghề mua bán, khi làm bánh bò, bánh ếch, khi nấu bắp, nấu khoai, khi mua ớt,
mua rau, khi mua xoài, mua mít, đem ra giữa chợ ngồi bán.
Vợ chồng đều có nghề riêng, bởi vậy nhà tuy nghèo, song cơm gạo
đủ, quần áo lành, khỏi nợ nần, không vất vả.
Vĩnh Thanh hồi nhỏ có học chữ nho vừa đủ dùng; lại có hoa tay
nên viết chữ coi sắc sảo và tươi tốt. Nhờ hoa tay đó mà được Hương chức trong
làng chọn cử lên chức Hương văn, để khi cúng mễu, cúng đình thì Vĩnh Thanh viết
văn tế.
Vợ chồng sanh có một đứa con, mà may Vĩnh Xuân có khiếu thông
minh, lại có tánh háo học. Mới năm sáu tuổỉ, Vĩnh Xuân thấy con nít trong xóm
ôm vở đi học, nó đòi đi theo. Cha nó thấy vậy mới mua sách Tam Tự Kinh rồi lúc
nào rảnh rang thì dạy nó học tiếng một và tập nó viết chữ. Chừng nó được bảy tuổi,
cha nó đem đến trường ông Giáo Huân xin cho nó học.
Ông Giáo Huân thấy Vĩnh xuân còn nhỏ mà đã thuộc sách và viết
được, thì ông đem lòng yêu. Ông ân cần dạy Vĩnh Xuân trong năm năm thì đã dạy tới
Tứ Thơ.
Ai thấy Vĩnh Xuân mới 12 tuổi mà học Tứ Thơ cũng cho là kỳ
quái, nên gọi là Thần đồng, làm cho ông Giáo Huân càng thêm tự hào nên ông
chuyên chú dạy Vĩnh Xuân sốt sắng đặc biệt.
Rủi thay Vĩnh Xuân học Luận Ngữ vừa rồi thì Hương văn Vĩnh
Thanh bịnh trong mấy ngày rồi mất.
Thị Hài có ngươi em trai tên là Ba Cao, ở tại chợ Gò Công,
hay anh rể mất, vợ chồng liền lên giúp với chị lo việc tống táng.
Ba Cao hồi trước cũng nghèo, may gặp người vợ, gốc ở Vàm Láng
có vốn được bảy tám trăm. Vợ chồng lên Gò Công cất nhà ở gần chợ rồi mua một
chiếc xe kiếng với ba con ngựa để chạy mối đưa rước hành khách. Lúc ấy đã có lộ
đá bắt từ Gò Công thông ra các chợ, mà xe thì ít có, bởi vậy Ba Cao đưa hành
khách thâu lời dồi dào. Khi Hương văn Vĩnh Thanh chết đây thì vợ chồng Ba Cao
đã có một bầy ngựa sáu con để kéo chiếc xe tờ chạy đương Cửa Khâu mỗi ngày hai
chuyến, một chiếc xe kiếng chạy đường chợ Tổng Châu với một chiếc xe hai bánh
dùng chạy mối riêng.
Trong nhà có tới ba người bạn giữ ngựa và đánh xe. Trong tủ
thường có bạc ngàn luôn luôn. Ngặt vợ chồng không có con, nên còn buồn về chỗ
dư bạc tiền mà thiếu con cháu.
Chôn cất Hương văn Vĩnh Thanh xong rồi vợ chồng Ba Cao hỏi
thăm gia đạo của chị, khuyên chị bán nhà cửa, đồ đạc về Gò Công mà ở, trước chị
em.gần nhau, sau Vĩnh Xuân học chữ Tây, đặng lập thân cho vinh hiển với người
ta. Thị Hài nói ở đâu quen đó, đã có nghề mua bán thì ở đây mẹ con cũng có thể
thong thả sống với nhau. Chị không đành bỏ xứ mà đi, nhứt là Hương văn mới nhắm
mắt, nấm mả chưa khô, nên không nỡ lìa xa mồ chồng nới quá vãng.
Ba Cao muốn đem chị về nuôi mà chị không chịu, chàng mới xin
cho Vĩnh Xuân làm con nuôi đặng chàng cho học chữ Tây, sau làm thầy ký, thầy
thông, rồi lần lần làm ông Huyện, ông Phủ. Chàng nói đời đã đổi mới, phải học
quốc ngữ với Pháp văn mới có chỗ dùng, chớ chữ nho thông dụng hồi cựu trào, bây
giờ không ai dùng nữa, dầu học giỏi, học nhiều, cũng không ích gì.
Thị Hài nghe lời em nói có lý, nhưng thương con không nỡ lìa
xa, nên nói thôi để chị đem Vĩnh Xuân qua trường Tổng chợ Giồng cho học chữ Tây
thử một vài năm, như nó học được rồi sẽ gởi nó ở với cậu mợ nó dưới Gò Công đặng
học tiếp.
Vì vậy nên cách vài sau, Thị Hài dắt con lên thưa cho ông
Giáo Huân hay mà đem Vĩnh Xuân qua trường Tổng cho học chư Tây. Ông Giáo Huân mất
một trò giỏi ông tiếc vô cùng. Nhưng vợ Hương văn Thanh đã muốn con học cho hợp
thời, mà ông cũng dư biết chữ nho bây giờ không được thông dụng nữa, bởi vậy
Vĩnh Xuân đi thì ông tiếc, mà nghĩ tới đời tương lai của Vĩnh Xuân thì ông
không nỡ níu lại đặng học hoài với ông. Vì thương Vĩnh Xuân nhà nghèo mà lại mẹ
góa con côi, ông không dám viện nghĩa vụ, hoặc nợ nước, mà khuyên phải an bần
cho trọn đạo.
Ông Giáo Huân phải ép bụng để cho Vĩnh Xuân bỏ nho học theo
Pháp học, mà chừng Vĩnh Xuân từ biệt đặng theo mẹ đi về, ông đứng trong cửa ngó
theo, ông ứa nước mắt.
Từ đây vĩnh Xuân đặt chưn vào một con đường mới, lấy vần
"A. B." mà ráp thành chữ, thành câu, và cũng lấy câu "uỷ môn xừ"
để làm nấc thang leo lên đài danh lợi. Với chí ham lọc sở hữu, Vĩnh Xuân học thứ
gì cậu cũng cố gắng đêm ngày, bởi vậy học trường Tổng một năm thì chữ quốc ngữ
cậu đọc mau lẹ, viết dễ dàng, còn chữ Pháp cậu đã hiểu mấy câu dễ dễ.
Vừa được 15 tuổi thì Vĩnh Xuân được chọn đi thi học bổng. Cậu
đậu cao, được nhà nước cấp cho mỗi tháng năm đồng bạc, đặng xuống trường sơ học
Gò Công mà học lớp ba. Thị Hài dắt Vĩnh Xuân xuống gởi nhà Ba Cao mà đi học. Vợ
chồng Ba Cao hay cháu học chữ Tây tấn phát thì mừng rỡ vô cùng, chiu lãnh nuôi
Vĩnh Xuân, còn số tiền học bổng mỗi tháng sẽ giao lại cho Thị Hài may áo quần
nhà bận.
Tại như vậy đó nên hai năm nay Vĩnh Xuân mới học trường Gò
Công ngồi lớp ba một năm, lên lớp nhì một năm nữa, bây giờ bãi trường và nghỉ đợi
ra giêng khai trường sẽ trở xuống học một năm lớp nhứt nữa rồi đi thi.
Còn Cúc Hương là danh tự của ông Giáo Huân đặt riêng cho môn
đệ của ông học giỏi. Tên thiệt của Cúc Hương là Lý Thi Tư, con gái thứ tư cửa
Lý Văn Mỹ, một người buôn bán lúa gạo, giàu lớn, nhà và vựa ở dựa nhé kinh, gần
đầu Cầu Sắt chợ Giồng.
Thuở ấy chưa có nhà máy nhỏ lập trong các chợ, các làng, để
xay lúa ra gạo trắng,mà bán như bây giờ. Duy tại Chợ Lớn mới có nhà máy xay lúa
mà thôi. Mà thương gia ngoại quốc mua nông sản của ta thì mua gạo trắng với gạo
lức, vì xứ họ không có nhà máy xay, nếu mua lúa thì tốn tiền chở chuyên nhiều,
mà đem về rồi khó làm ra gạo bán liền cho được. Vì lẽ ấy nên mấy nhà máy ở Chợ
Lớn đã mua lúa để xay ra gạo, mà họ xay không đủ để cung cấp cho thị trường,
nên ai có gạo trắng hoặc gạo lức chở đến bán họ cũng mua luôn nữa.
Đường sông Gò Công lên Chợ Lớn rất thuận tiện. Ghe chở lúa gạo
đi mất có hai con nước thì tới. Vì vậy nên trong hạt Gò Công những người có vốn
được đôi ba ngàn, họ xướng ra làm nghề lái lúa đặng góp mua lúa mua gạo chở đi
bán.
Rạch Vàm Giồng, bên Cửa Tiểu, nhờ có kinh đào đi ngang qua chợ
Giồng rồi thông với rạch Gò Công bên sông Bao Ngược là sông Vàm Cỏ, bới vậy địa
thế giúp cho chợ Giồng biến thành một thị trường lúa gạo trong hạt Gò Công. Ở
đây có nhiều người cất vựa để trữ lúa, trữ gạo từ ngoài đồng đem vô bán. Họ mua
để bán lại cho những lái lúa gạo chở lên Chợ Lớn mà bán ngay cho mấy nhà máy hoặc
bán cho mấy tàu khậu làm trung gian mua cho nhà máy.
Hồi đó, hễ đến mùa gặt lúa, thì chơ Giồng phồn thạnh lắm. Dưới
kinh ghe mua lúa đậu chật. Còn trên bờ, từ nửa buổi chiều cho tới hết canh một,
ở ngoài đồng họ gánh gạo vô bán kể đến mấy trăm người, mỗi xóm đi chung một tốp,
lại có năm ba xe bò chở lúa đem vô nữa. Chợ lúa gạo nầy buổi chiều nhóm tại dốc
cầu sắt. Đàn bà, con gái, dọn ngồi bên đường mà bán dầu lửa, nước mắm, hộp quẹt,
trà tàu, cá khô, bánh trái, thúng, rổ, nón, guốc, nia đệm, nghĩa là bán đủ thứ
thường cần dùng ở chốn thôn quê.
Mấy người vựa lúa gạo lại đó trả giá mà mua. Hễ định giá xong
rồi thì người ta gánh lại vựa mà đong. Lấy tiền rồi thì người ta trở lại dốc cầu
sắt mua đồ mà về.
Lý văn Mỹ ở gần đầu cầu sắt, nên mua bán lúa gạo thuận tiện
vô cùng. Ông ta nhờ nghề nầy mà làm giàu to. Mà thêm bà vợ, là Thị Phú, được bà
mẹ chia gia tài cho một sở vườn gần một mẫu ở ngoài Chợ Mới, thuộc làng Vĩnh Hựu,
với mười mẫu ruộng tốt ở phía U Giữa, thuộc trong địa phận làng Vĩnh Trị nữa,
nên vợ chồng ông Lý văn Mỹ thấy gia tài càng thêm vững vàng.
Ông Mỹ gốc con cháu khách, cha ông hồi trước là một khách Triều
Châu, có tiệm bán vải tại chợ Giồng, vì vậy nên làng gọi ông là Minh Hương, mặc
dầu ông giàu, làng cũng không khứng cử ông làm Hương chức. Ông Mỹ không thèm lấy
sự đó mà phiền lòng, ông nói làm ông gì cũng không bằng ông có tiền, mình làm
ông ấy mình khỏi bẩm dạ ai, mà cũng khỏi lo sợ ai cách chức mình được.
Vợ chồng ông Mỹ có được bốn đứa con, đứa lớn thứ hai nên đặt
tên Hai, đã có vợ mà mở tiệm bán vải với hàng lụa tại đầu chợ. Đứa kế thứ ba,
con gái, nên đặt tên Thị Ba, vợ chồng ông đã gả nó cho con ông Cả Quí trên chợ
Cầu Ngang. Đứa kế nữa thử tư, nên đặt tên Thị Tư. Ấy là cô Cúc Hương đương học
với ông Giáo Huân đó. Hiện giờ cô mới 15 tuổi. Cha mẹ cô nhứt định năm tới cô
16 tuổi, cô phải thôi học để tập bán buôn, may vá, rồi gả lấy chồng. Còn đứa
con út, cũng con gái, năm nay đã được mười tuổi, từ nhỏ tới giờ khí bẩm yếu ớt,
nên èo uột hoài, cha mẹ không chịu cho đi học.
Cúc Hương đến 11 tuổi, cha mẹ mới cho đi học chữ nho với ông
Giáo Huân. Khi cô vô trường bắt đầu học vỡ lòng, thì Vĩnh Xuân đã học rồi,
đương nghe giảng Minh Tâm, bởi vậy cho nên hai trẻ không gần nhau. Mà cô học mới
được hơn một năm thì Vĩnh Xuân lại xin thôi, đặng đi học bên thường tổng.
Đó gốc tích của Vĩnh Xuân với Cúc Hương là vậy đó; cậu nghèo,
cô giàu, nên gia đạo khác nhau, nhưng cậu cô đều ham học như nhau, học nho cũng
đồng sức với nhau, bởi vậy gây tình bằng hữu dễ dàng. Trước kia, hai trẻ gặp
nhau hằng ngày, ngó nhau với cặp mắt ngây thơ không thấy vẻ gì đáng thương yêu,
hoặc khêu tình cảm. Hôm nay không phải vậy nữa. Hai.trẻ gặp nhau lại rồi, nhìn
nhau mà không dám ngó chán chường, Cúc Hương tỏ ý sụt.sè, còn Vĩnh Xuân ra bộ
ái ngại. Cả hai đều lập nghiêm làm tỉnh, nhưng trong lòng dường như có cái gì
làm phơi động, không dám tìm hiểu, mà cũng không muốn nói ra. Phải đợi ông Giáo
đi nghỉ rồi, lại cũng phải nhờ Cúc Hương kiếm thế gợi khêu câu chuyện trước, bắt
đầu cậy giải thích bài sách, rồi lần lần nói tới việc học hành, nói cho quen đặng
phá tan ái ngại, sụt sè, rồi mới dám mời ăn cốm, mới dám ngó ngay nhau mà nói
mà cười, mới dám biểu lộ thân yêu, mới dám vui mừng tái hiệp.
Chiều bữa đó Vĩnh Xuân về nhà, bà Hương văn hỏi con đi chơi
nhà nào mà ở lâu dữ vậy, Vĩnh Xuân cười ngỏn ngoẻn, thuật chuyện ông Giáo Huân
biểu thừa dịp bãi trường lại nghe ông dạy bộ Mạnh Tử. Ông nói ông dạy giùm, ông
không ăn tiền. Ông buộc phải học luôn Mạnh Tử cho trọn bộ Tứ Thơ. Bà Hương văn
nghe như vậy bà rất vui lòng, thầm nghĩ lúc bãi trường dầu học chữ nho cũng có
ích hơn đi chơi, bởi vậy bà không ngăn cản, lại hứa mỗi bữa bà nấu cơm sẵn rồi
sẽ đi chợ mà bán, đặng con có cơm ăn sớm mà đi học.
Còn Cúc Hương về nhà, cô không nói tới sự gặp gỡ Vĩnh Xuân
cho ai biết, nhưng thấy đứa em gái thì cô vui vẻ phi thường, mà hễ ngồi đứng một
mình thì cô buồn hiu, coi bộ lửng lơ, tư lự.
Sáng bữa sau, ăn cơn rồi, Cúc Hương lật đật ôm sách đi học sớm.
Vô tới trường cô thấy mới có vài trò nhỏ tới trước mà thôi. Cô thở đài, đi lại
bàn mà ngồi, dở sách ra coi, nhưng cặp mắt cứ ngó chừng ra góc nhà trên, là ngả
học trò vô ra, có ý trông Vĩnh Xuân đến.
Học trò, tốp đôi ba đứa, lần lượt đi vô trường. Bây giờ Cúc
Hương mới thấy Vĩnh Xuân thủng thẳng đi vô với mấy trò nhỏ. Cô mừng, ngực nhảy
thịch thịch trong trí bối rối, không biết nên ngồi đây mà tiếp Vĩnh Xuân, hay
phải làm sao. Cô lính quýnh, vói lấy nghiên mực cầm đi vô trong đổ một chút nước
đặng mài mực mà viết. Chừng cô bưng nghiên mực đi trở ra, thấy Vĩnh Xuân đã ngồi
trên bàn rồi, ngồi đối diện với cô, trước mặt có để một cây viết với một quyển
sách, bìa có đề bốn chữ "Mạnh Tử thượng quyển", thì cô đi thẳng lại đứng
tại đầu bàn cho gần cậu, rồi lấy thẻ mực mà mài, miệng cười, mắt ngó cậu mà
nói:
- Em tưởng anh đi học sớm, nên em đi sớm dữ quá. Nãy giờ em
chờ anh lâu dữ.
- Thầy ăn cơm rồi thầy dạy mấy trò nhỏ trước, gần trưa mới giảng
sách cho mình, đi sớm làm chi.
- Vô sớm mình tập viết, rồi xem thử bài học trước, đặng chừng
thầy cắt nghĩa mình hiểu cho nhau. Anh mới mua cây viết đó phải hôn ?
- Không. Viết cũ hồi trước tôi cất để dành, thấy còn dùng được,
nên tôi đem theo đặng có mà chấm sách, hoặc âm nghĩa.
- Em có đem theo một cây viết mới đặng em cho anh đây. Hiệu
viết của em tốt lắm. Tía em mượn tài phú tiệm Xương Thạnh mua giùm trên Chợ Lớn,
mua mỗi lần một chục để dành viết.
- Cây viết của tôi còn dùng được.
Cúc Hương mài mực rồi, để nghiên mực trước mặt Vĩnh Xuân, và
lấy cây viết mới với một tờ lấy đưa mà nói:
- Đâu anh viết thử một hàng coi chữ còn tốt hay không.
- Tôi bỏ mấy năm nay, bỏ bút lông mà cầm bút thép, thì còn
hay gì nữa được.
- Ấy, anh viết thử coi mà.
Vĩnh Xuân để dẹp cây viết mới một bên, cậu lấy cây viết cũ của
cậu, rồi coi theo sách mà viết ra một hàng. Cúc Hương đứng một bên, chống tay
trên bàn mà coi viết, chừng thấy viết đủ hàng rồi cô nói: "Anh bỏ lâu mà
anh viết còn hay quá, chữ tốt lại cứng hơn chữ của em nhiều. Anh lấy cây viết mới
anh viết thử một hàng nữa coi".
Vĩnh Xuân tầm cây viết mới chấm mực viết thêm một hàng nữa,
viết chữ nhỏ hơn. Cúc Hương càng khen hơn nữa. Cô lấy tờ giấy Xuân mới viết đó
đem về chỗ mà ngồi, rồi lấy cây viết của cô, cậm cụi viết hai hàng cũng như
Xuân vậy. Viết rồi cô đưa tờ giấy qua cho Xuân mà nói: "Thiệt chữ của em yếu
hơn chữ của anh".
Vĩnh Xuân coi rồi nói; "Con gái viết chữ được như vậy
thì đã hay lắm rồi, còn muốn sao nữa. Nếu muốn viết chữ cho tốt thì cần phải
luôn tập nhiều năm. Mà hay chữ quí hơn chữ hay. Viết chữ hay không có ích lắm.
Nghe thầy nói hồi xưa ai viết chữ hay, hễ thi đậu thì được bổ vào Hàn Lâm Viện
để chép sách đặng khắc bản mà in. Đời nay có thi cử gì nữa đâu. Viết chữ hay chỉ
đợi chợ Tết ra ngồi viết liễn mướn ăn tiền vậy thôi".
Học trò tựu đủ nãy giờ rồi. Ông Giáo ở trên nhà thủng thẳng
đi xuống trường.
Cúc Hương vói lấy tờ giấy viết nãy giờ đó mà cất và nói nho
nhỏ: "Em cất để dành làm vật kỷ niệm. Anh lấy luôn cây viết mới để mà
dùng".
Ông Giáo bước vô. Học trò các bàn đều đứng dậy chào thầy. Ông
Giáo hỏi Xuân có đem sách theo hay không. Xuân thưa có và luôn dịp chuyển lời
bà Hương văn cảm ơn thầy chiếu cố đến Xuân. Ông Giáo gặc đầu rồi đi dạy học trò
từ nhỏ lên lớn như ngày hôm qua và các bữa thuở nay.
Đến trưa ông Giáo cũng lên nhà trên nghỉ. Học trò cũng nghỉ học
ra đi chơi.
Bữa nay Cúc Hương không cần hỏi Vĩnh Xuân no đói gì nữa, cứ
đưa tiền cho mấy trò đi chợ mà mượn mua chuối nấu với chuối chiên. Cô cầm sách
qua ngồi khít một bên Xuân, rồi hai trẻ đọc và tập giải nghĩa lại với nhau. Chừng
học trò đem chuối về, Cúc Hương mời Xuân ăn thì Xuân vui mà ăn với bạn liền,
không ái ngại từ chối như bữa trước nữa.
Cách thân thiết của hai trẻ mỗi ngày càng đậm thêm một chút.
Trong vài bữa Cúc Hương đem biếu cho Xuân một cái khăn vải trắng góc có thêu mỏ
neo xanh. Cô nói: "Em cho anh khăn nầy để anh lau mìệng, hễ lấy khăn ra
thì nhớ đến em. Em lựa khăn có thêu mỏ neo, anh hiểu tại sao hay không ? Ý em
muốn nhắc cho anh nhớ thân em như chiếc thuyền bỏ neo đậu mà chờ anh".
Vĩnh Xuân châu này và ngó lơ mà hỏi: "Chờ chi vậy"?
Cúc Hương chúm chím cười, miệng hữu duyên, mắt hữu tình, cô dụ
dự rồi mới đáp: "Chờ coi anh học chữ Tây rồi anh làm ông gì".
Vĩnh Xuân lặng thinh, gầm đầu ngó vào cuốn sách.
Cúc Hương hỏi:
- Trong ít năm nữa anh học xong rồi, thế nào anh cũng phải cưới
vợ.Vậy chớ có khi nào anh suy nghĩ anh muốn có người vợ thuộc vào hạng nào hay
không ? Anh muốn có vợ mập hay ốm, vui hay buồn, tốt hay xấu, giàu hay nghèo,
hay chữ hay là dốt nát, giỏi mua bán hay là giỏi làm ruộng.
- Tôi chưa có tính tới việc vợ chồng.
- Sao vậy ?
- Má tôi nghèo, phải mua bán cực khổ đặng có cơm mà nuôi sống
hằng ngày. Tôi còn đi học, chưa làm ra tiền để giúp đỡ má tôi. Tôi phải lo lập
thân mà trả thảo trước đã, chừng nào có cơm tiền dư dã rồi sẽ tính cưới vợ chớ.
- Đâu anh nói thử ý anh cho em biết chơi vậy mà.
- Tôi tưởng trai với gái kết làm vợ chồng đều do ông Tơ, bà
Nguyệt định đạt, chớ không phải tại mình muốn mà được đâu. Phải có duyên nợ mới
làm vợ chồng.
- Làm sao mà biết mình có duyên nợ với người nầy, còn không
có với người kia ?
- Cái đó tôi khống hiểu. Em hỏi mấy người lớn họ có chồng có
vợ rồi có lẽ họ biết, họ sẽ cắt nghĩa cho em nghe.
- Con gái mà đi hỏi như vậy họ cười chết. Mắc cỡ quá ai hỏi
cho được. Em muốn anh cắt nghĩa cho em biết mà thôi, chớ em không đám hỏi người
khác. Ví như một cặp trai với gái được gần nhau, rồi yêu mến nhau, như vậy
không phải là duyên nợ hay sao ?
- Qua sợ không phải đâu em. Qua có nghe má qua nói ở xóm qua
hồi năm ngoái có anh Tồn ảnh thương chị Lợi, mà chị Lợi cũng thương ảnh nữa, té
ra tía chị Lợi gả chị cho anh nào ở Bình Phú Tây. Anh Tồn buồn, ảnh bán nhà vô
chợ Sáu Thoàn mà ở, rồi ảnh có vợ trong đó. Ấy vậy thương yêu nhau đó không phải
là duyên nợ đâu.
- Em muốn làm sao mà biết ai là duyên nợ, ai không phải.
- Chỉ có ông Tơ, bà Nguyệt, mới biết được, chớ người phàm làm
sao mà biết.
- Ai biết ông Tơ, bà Nguyệt, ở đâu mà hỏi.
- Em muốn hỏi để qua chỉ cách cho mà hỏi. Ban đêm canh vắng,
em cứ vái ông Tơ, bà Nguyệt, làm ơn mách bảo lương duyên của em là ai. Em thành
tâm khấn vái như vậy hoài, mỗi đêm mỗi vái, có lẽ Nguyệt Lão động lòng sẽ chỉ
giùm em.
- Cám ơn anh. Bắt đầu tối nay em se vái.
Y Vĩnh Xuân muốn giễu chơi, mà thấy Cúc Hương hăng hái tin chắc
như vậy thì cậu tức cười nên nói: "Em vái mà có ông Tơ, bà Nguyệt về nói với
em làm sao, em nhớ thuật lại cho qua nghe với. Đừng có quên nghe hôn.
Mấy bữa sau, lúc nghỉ trưa, Cúc Hương không nói tới việc vợ
chồng nữa; nhưng đối với Vĩnh Xuân càng bữa cô càng thêm dan díu, càng thêm khẳn
khít, tỏ ý mến yêu, nói chuyện thân mật, khi cô ngồi đụng vai Xuân, khi cô nắm
tay Xuân, mà cô không ái ngại chút nào hết.
Còn cậu Vĩnh Xuân, cậu quen biết Cúc Hương nhiều rồi, cậu thấy
Cúc Hương vui vẻ lại thành thiệt, cậu cũng bắt đầu có cảm tình, bởi vậy cậu hài
lòng mà để cho Cúc Hương chiều chuộng, ân cần, cậu không thèm dè đặt, mà cũng
không tính ngăn cản.
Nhưng có đêm cậu nằm nhớ tới Cúc Hương, nhớ cách cô dan díu
thân yêu, nhớ bộ cô khắn khít vô ngại, thì cậu giựt mình. Nam nữ gần nhau cũng
như lửa gần rơm. Mình có đủ nghị lực và kiên nhẫn mà giữ gìn, cấm cản cho lửa khỏi
táp rơn mà phát hỏa hay không? Vậy phải dè đặt, phải đề phòng cho nàng khỏi
mang tiếng gái hư, mà mình cũng khỏi ôm lòng hối hận.
PHẦN I - CHƯƠNG 4 -
H
ọc dứt Mạnh Tử thượng quyển rồi thì mới mùng 10 tháng chạp,
ông Giáo Huân nói phải học rút hết trung quyển cho mau, đặng nghỉ ăn tết. Mùng
8 tháng giêng học hạ quyển cho rồi trước khi Vĩnh Xuân xuống Gò Công tựu trường.
Kể từ đây ông dạy mỗi bữa tới sáu bảy tờ sách.Vĩnh Xuân với Cúc Hương mắc học
nhiều quá, nên buổi trưa phải lo học, không thể nói minh mông nữa được.
Một buổi sớm mơi, Vĩnh Xuân ôm sách vô trường, cậu vừa ngồi
thì Cúc Hương hớn hở ngó cậu, vừa cười, vừa nói: "Hồi hôm ông Tơ về mách bảo
cho em rồi anh Xuân à".
Vĩnh Xuân nghe như vậy thì chưng hửng, nên nghiêm nét mặt mà
hỏi:
- Ông mách bảo sao đó?.
- Ông nói ngộ lắm. Để trưa nghỉ học rồi em sẽ nói cho anh
nghe.
Đến trưa ông Giáo đi nghỉ, học trò đi chơi, Cúc Hương liền lại
đứng tại đầu bàn cho gần Vĩnh Xuân mà nói:
- Hồi hôm ông Tơ hiện về nói anh chánh là duyên nợ của em. Em
nghi trúng quá. Tại anh em mình có duyên nợ với Nhau, nên gặp nhau mới thương
yêu nhau liền đó chớ.
- Ông Tơ nào ở đâu mà nói kỳ vậy ?
- Em nói thiệt chớ không phải nói chơi đâu. Em nghe lời anh dạy
hôm nọ, hổm nay hễ tối đi ngủ thì em khấn vái, xin ông Tơ, bà Nguyệt, làm phước
chỉ giùm căn duyên của em cho em biết trước đặng em khỏi lầm. Hồi hôm nầy, lúc
nửa đêm, tư bề im lìm, em nằm mơ màng, bỗng.thấy một ông già tóc râu đều bạc trắng,
đầu bịt khăn đỏ, mình mặc áo xanh, tay cầm quạt lông trắng, ông đứng trên đầu
giường em, ông kêu em mà nói như vầy: "Cúc Hương, lão đây là ông Tơ, vâng
lịnh Thiên Đình, cầm sổ xuống trần gian coi trai nào có duyên nợ với gái nào,
thì lấy chỉ điều buộc chưn để thành vợ chồng với nhau. Lão thấy nàng thành tâm
khấn vái lão với Nguyệt Bà, nên lão làm ơn mách bảo cho nàng biết: Phan Vĩnh
Xuân là lương duyên của nàng. Sổ Nam Tào có biên rõ ràng. Vậy chẳng nên thấy
Vĩnh Xuân nghèo mà chê, để ưng người khác giàu có mà trái mạng trời. Em mừng
quá, em chờn vờn ngồi dậy, tính cám ơn ông, rồi hỏi thăm đời của vợ chồng mình
sau; té ra em vừa mở mắt thì ông Tơ đã biến mất. Em đổ mồ hôi ướt áo. Em mò lấy
hộp quẹt mà đốt đèn, rồi ngồi tiếc không kịp hỏi coi anh em mình thành vợ chồng
mà ngày sau được hiển đạt hay không, có được mấy đứa con và sống được bao nhiêu
tuổi mới chết.
Vĩnh Xuân để cho Cúc Hương nói, cậu cứ ngó cô mà cười. Chừng
cô nói dứt rồi, cậu mới trề môi mà nói:
- Tục truyền về chuyện ông Tơ, bà Nguyệt, nhưng thuở nay có
ai được thấy ông Tơ, bà Nguyệt hồi nào đâu. Hôm trước qua nói chơi với em, qua
biểu em nếu muốn biết duyên nợ thì phải vái ông Tơ, bà Nguyệt mà hỏi, chớ người
phàm làm sao mà biết được. Qua giễu chơi mà em tưởng thiệt. Em lại tin tưởng
thái quá, nên em ngủ rồi trí em thấy ông Tơ về nói như vậy chớ đâu có ông Tơ
thiệt mà em tin. Tại em mơ tưởng quá nên em ngủ rồi chiêm bao. Người ta nói: mộng
là mị. Đó là chuyện dị đoan. Môn đệ của Khổng Mạnh làm nhân nghĩa, chớ không được
phép tin mộng mị.
- Em thấy hình dạng, em nghe tiếng nói rõ ràng; thiệt ông Tơ
về mách bảo cho em, chớ không phải mộng mị đâu anh. Em tin chắc anh em mình có
duyên nợ với nhau. Anh kiếm chuyện mà cãi thế nào anh cũng không phá tan đức
tin của em được. Ông Tơ đã cho em biết rồi, ông nói có ghi trong sổ Nam Tào rõ
ràng, em là vợ của anh, anh là chồng của em. Em không được ham giàu, ham sang,
chê Phan Vĩnh Xuân nghèo mà ưng người khác. Em không dám trái mạng Trời. Em chí
quyết em là vợ Phan Vĩnh Xuân, thà em chết, chớ em không xứng làm vợ người nào
khác.
Vĩnh Xuân châu mày, day qua ngó mấy trò gái đương đánh đũa
chơi ngoài thềm.
Cúc Hương lấy làm lạ mà thấy Vĩnh Xuân hay ông Tơ mách bảo
duyên nợ trăm năm, cậu không mừng như cô, mà cậu lại lộ sắc buồn lo. Cô ngó cậu
với cặp mắt thương yêu, quyến luyến, thấy cậu ngó sắp nhỏ đánh đũa, rồi dở quyển
sách ra xem, không chịu nói gì hết. Cô bước lại ngồi một bên cậu, để một bàn
tay lên vai cậu mà hỏi: "Tại sao biết được duyên nợ rồi anh lại buồn ? Anh
nghĩ em không đáng làm người bạn trăm năm của anh hay sao? Xin anh nói cho em
biết, đừng ngại chi hết".
Vĩnh Xuân lắc đầu, day lại ngó Cúc Hương mà đáp:
- Qua có phước lớn lắm mới, có được một người bạn trăm năm
như em. Lẽ thì qua mừng lắm, chớ sao lại chê em không xứng đáng. Được nghe ông
Tơ mách bảo, rồi lại được thấy tình em nồng nàn mà qua không mừng, ấy là vì qua
nhận thấy duyên nợ của đôi ta có nhiều chông gai, ân tình của đôi ta có nhiều
trắc trở, dầu thiệt có dây tơ hồng buộc chưn nhau đi nữa, qua sợ không phải dễ
phối hiệp cùng nhau được đâu em. Qua thấy khó lắm.
- Có gì đâu nhà khó: Mình đã biết có duyên nợ với nhau rồi.
Mình còn nhỏ, nên yêu nhau thì để bụng. Anh lo học thêm ít năm nữa, trong lúc ấy
em tập buôn bán. Hễ anh học xong rồi thì anh cưới em. Miễn anh với em quyết chí
phối hiệp cùng nhau, vững lòng chờ đợi nhau, đường mình đi nếu gặp gai gốc thì
mình nhổ bỏ, gặp trắc trở thì mình lướt xông. Mình cứ tin tưởng lời dặn của ông
Tơ, mình quyết làm vợ chồng cho khỏi trái thiên mạng, thì không có khó gì hết.
- Qua thấy khó chỗ nầy: Phận qua côi cúc lại nhà nghèo. Má
qua bán bánh trái mỗi bữa kiếm lời mua gạo mà ăn. Hai năm nay qua xuống Gò Công
mà học được là nhờ có học bổng của nhà nước cấp cho qua, lại cũng nhờ cậu Ba, mợ
Ba qua nuôi cơm không lấy tiền tháng. Qua nghèo ai cũng biết, đến thầy dạy qua
đây cũng miễn tiền học cho qua. Còn phận em là con nhà giàu, có ruộng vườn, có
tiền bạc. Nếu qua cậy mai nói mà xin cưới em, thì có thế nào tía má em chịu gả
em cho qua đâu. Ai cũng vậy, nhà giàu có con tự nhiên lựa nhà giàu mà làm sui
cho con sung sướng tấm thân. Phận qua nghèo nàn, sống trong hai căn nhà lá lúm
túm, dột nát, má qua phải cực khổ mới có cơm mà ăn, có lý nào tía má em đành gả
em vào nhà bần hàn, vất vả như vậy.
- Anh nghèo mà anh học giỏi.
- Học giỏi có giá trị về phương diện tinh thần, còn đối với đời
sống thực tế có quí gì đâu em. Huống chi học lực của qua có cao bao nhiêu mà em
gọi là học giỏi. Về nho học thì chỉ biết nghĩa lý bộ Tứ Thơ mà thôi, ví như qua
vừa mới để chưn lên mé rừng nho, chớ chưa thấy trong rừng có những cây gì quí
giá. Đã vậy mà nho học bây giờ đã vô dụng rồi, dầu học giỏi lại ích gì ?
- Sao lại vô dụng ? Thế cuộc biến chuyển, chớ đạo nhân nghĩa
của Khổng Mạnh làm sao bỏ được mà anh gọi là vô dụng ?
- Đời xưa người ta nói: Chứa tiền đầy nhà, sắm ruộng muôn sở,
không bằng học thuộc một kinh của đạo Thánh. Đời nay người ta nói: có tiền đựng
đầy rương quí hơn là có sách chứa đầy tủ. Người ta kể bạc tiền, chớ có kể nhân
nghĩa gì nữa đâu em.
- Anh đã có nho học, mà bây giờ anh còn có thêm tây học nữa,
thế thì anh quí lắm, ai mà dám chê anh.
- Quí nỗi gì thứ học đặng làm tay sai cho người ta! Qua theo
tây học, người ta chê qua là vong bổn, là phản quốc chớ.
- Nếu học thứ gì cũng bị người ta chê hết, thôi thì dắt nhau
trốn lên rừng, lên núi mà ở, rồi trồng khoai, trồng bắp mà ăn, sống chung với
thiên hạ làm gì nữa. Tại anh có tánh bi quan, anh dòm chỗ nào cũng tối đen, anh
xem thứ gì cũng mục nát, rồi anh chán nản, nên anh mới nói như vậy. Chớ nếu anh
học chữ Tây cho giỏi, anh thi đậu làm thầy thông, thầy ký, làm thầy giáo, ông
phán, anh sẽ vinh hiển cao sang, rồi bực Bá Hộ hoặc Thiên Hộ cũng giành nhau mà
gả con cho anh, anh lo gì tía má em chê anh nghèo khổ nữa.
- Biết qua có học cho tới bực đó hay không ?.
- Tới. Em chắc tới. Em muốn anh phải học cho tới đó.
- Còn lâu lắm. Em chờ qua được hay sao?
- Sao lại không được. Chờ đến bao lâu em cũng chờ. Anh cứ bền
chí mà học đi, đừng thèm buồn lo chi hết. Em hứa chắc với anh: Vì có lời ông Tơ
mách bảo, nên em là Lý thị Tư, biệt hiệu Cúc Hương, em thề quyết kiếp nầy em
làm vợ Phan Vĩnh Xuân mà thôi, thà chết chớ không thế nào em ưng làm vợ người
khác.
Vĩnh Xuân vội vã nắm tay Cúc Hương, cặp mắt ngó ngay vào mặt
cô, rưng rưng nước mắt mà nói: "Qua cám ơn em. Được em thương tưởng, qua sẽ
phấn chí mà đi học đến mức. Qua cũng yêu em lắm. Vì thấy có chỗ bần phú bất đồng,
nên hổm nay qua ái ngại, qua không dám thố lộ nỗi lòng của qua cho em biết, mà
qua còn muốn tránh xa em nữa, thà trước chịu buồn xa nhau, đặng sau khỏi tiếng
nhơ, lại còn bị đau khổ với nhau nữa. Nay đôi ta đây biết bụng nhau rồi. Em đã
hứa chờ qua, thì qua cũng hứa không phụ tình em. Nhưng qua khuyên em điều nầy:
tuy đôi ta kết tình và hứa hẹn cùng nhau, song chúng ta phải dè đặt, đừng biểu
lộ ý tứ cho người ta biết mà bị chê cười, cũng đừng dan díu, lả lơi, rủi sa tội
lỗi mà mang nhơ nhuốc".
Cúc Hương gặt đầu nói: "Em sẽ vâng theo ý anh. Em sẽ làm
theo lời anh dạy. Đôi ta yêu nhau theo cái yêu thanh bạch, chớ không phải yêu
nhảm nhí. Đôi ta phải sùng bái ái tình của chúng ta, chớ không được làm cho nó
trở nên thấp hèn. Chúng ta giữ nó cho cao thượng, khác hơn ái tình của đám tục
tử phàm phu hết thảy.
Vĩnh Xuân cười rồi biểu Cúc Hương trở về chỗ cô đặng ngồi cắt
nghĩa sách cho cô dò.
Bộ cách Mạnh Tử tình cờ gây cuộc tình duyên nầy, thầy Mạnh Tử
không dè thì đã đành, mà ông Giáo Huân cũng không để ý chút nào hết.
Đến 22 tháng chạp, ông Giáo dạy hết quyển thứ nhì của bộ Mạnh
Tử. Ông nói ngày mai sẽ đưa ông Táo về chầu Ngọc Hoàng, vậy ông cho học trò lớn
nhỏ đều nghỉ ăn Tết, rồi mùng 8 tháng giêng, hạ nêu rồi sẽ ráp học lại. Ông hứa
với Vĩnh Xuân ra giêng ông sẽ ráng dạy quyển chót của bộ Mạnh Tử cho dứt trước
khi Vĩnh Xuân đi học chữ Tây lại.
Tuy bà Hương Văn Thanh nghèo, song ngày Tết bà cũng mua vài
phong bánh in với một gói trà cho Vĩnh Xuân đi tết ông Giáo Huân.
Mùng 8 tháng giêng khai trường dạy lại. Số học trò cũ thiếu hết
ba trò, nhưng có thêm năm trò mới, bởi vậy so học trò không sụt.
Phân cách nhau trót nửa tháng, trong khoảng ấy tuy có thấy
nhau nhiều lần song thấy xa chớ không được nói chuyện với nhau, bởi vậy hôm nay
Cúc Hương gặp Vĩnh Xuân mà lại được ngồi đối diện cùng nhau nói nói, cười cười,
thì cả hai đều thơi thới vui mừng, nhứt là Cúc Hương lăng xăng thuật việc nầy,
hỏi chuyện nọ, nói không ngớt.
Chừng ông Giáo Huân giảng Mạnh Tử hạ quyển cho Cúc Hương và
Vĩnh Xuân rồi ông nói: "Vì gần tới ngày Vĩnh Xuân đi học, nên thầy phải dạy
rút đặng lối 20 cho rồi hết. Mỗi bữa thầy giảng nhiều. Cúc Hương phải rán mà học
nghe hôn con. Có chỗ nào con không hiểu rõ thì hỏi lại thầy hoặc hỏi Xuân cũng
được".
Ông Giáo vô ý nhắc chuyện Vĩnh Xuân gần đi học, ông làm cho
Cúc Hương buồn hiu. Thiệt quả trong ít ngày nữa thì hai trẻ không còn cơ hội mà
gần gũi với nhau như vầy được.
Chừng ông Giáo đi nghỉ trưa, Cúc Hương mới nói với Vĩnh Xuân:
- Còn lối mười lăm bữa nữa thì anh em mình sẽ xa nhau: anh xuống
Gò Công mà học tiếp, còn em về nhà tập buôn bán. Em nhớ tới việc đó em hết vui.
- Tại sao vậy ? Em đã khuyên qua rán học đặng lập thân danh rồi
cưới em. Gần đến ngày qua đi học sao em lại hết vui ?
- Em không hiểu tại sao mà em buồn. Chắc là tại em nghĩ đôi
ta phải xa nhau.
- Qua đi học, đôi ba tuần qua về thăm má qua một lần. Hễ qua
về thì có lẽ sẽ thấy mặt nhau, chớ phải qua đi biệt hay sao mà buồn.
- Thấy mặt chớ nói chuyện gì được.
- Đã hứa hẹn với nhau rồi thôi, còn chuyện gì nữa mà nói.
- Vì yêu nhau, nên xa nhau tự nhiên phải buồn, phải nhớ chớ.
- Phải. Thường tình hễ yêu nhau mà phân rẽ thì nhớ nhau rồi
buồn. Nhưng em phải biết ở đời có cực trước rồi sau mới sướng, có buồn thì chừng
được vui mới biết giá trị của cái vui. Vậy đôi ta phải rán chịu cái buồn phân
ly bây giờ, đặng ngày sau được thưởng thức cái vui sum hiệp.
Cúc Hương suy nghĩ rồi nói cứng cỏi: "Em có đủ nghị lực
chịu buồn, đặng để cho anh học mà lập thân. Em xin anh cố gắng, xin anh nhớ sự
học tập của anh đó là con đường đưa anh đến cảnh sum hiệp trăm năm".
Vĩnh Xuân nói: "Qua khuyên em rán ẩn nhẫn mà chừ qua, đừng
buồn về sự phân rẽ tạm thời, mà cũng đừng lo cho phận qua ăn học. Bấy lâu nay
qua xem sự ăn học là cái phương pháp để giải thoát nghèo khổ. Bây giờ nó lại là
phương pháp để thỏa mãn ái tình nữa. Vậy qua sẽ cố gắng bội phần, qua sẽ rán học
cho thành công, đặng tạo ra một cảnh đời êm ấm, thanh cao, trước qua trả thảo
cho má qua, sau qua đáp tình với em, là người sanh sống giữa đống lúa, bên tủ
tiền, mà lại biết quí trọng văn học hơn vàng bạc".
Được nghe mấy lời ấy, Cúc Hương vui sướng thỏa thích vô cùng,
bởi vậy cô đổi buồn làm vui, dở sách ra mà học. Vĩnh Xuân với Cúc Hương tánh nết
không giống nhau. Vĩnh Xuân thì ôn hòa, trầm tĩnh, kiên nhẫn, cương quyết, bởi
vậy được may mắn, nhưng vui có chừng, còn gặp rủi ro thì cũng buồn, song không
buồn quá độ. Còn Cúc Hương thì cô khác hẳn. Cô lẹ làng, nóng nảy, lại đa cảm đa
sầu, hễ gặp buồn hay được vui cô liền biểu lộ ra ngoài, không dằn được, không
giấu được, hễ đắc chí thì cô cười, hễ trái ý thì cô khóc. Tánh nết thì khác
nhau như vậy, nhưng lòng dạ thì hai người giống nhau như một: trọng nhân nghĩa,
khinh tiền tài, ưa trong sạch, thẳng ngay, ghét a dua, hống hách.
Vì lòng dạ giống nhau, nên yêu nhau thì phải rồi. Mà dầu tánh
nết khác nhau, nếu yêu nhau thì cũng được, bởi vì cô yêu cậu thì cô chiều chuộng,
cậu lấy ôn hòa mà chế bớt nóng nảy cho cô, cậu lấy kiên nhẫn mà phá tan chán nản
của cô; vợ chồng yêu nhau mà lại biết phân biệt quấy phải, chồng biết cắt
nghĩa, vợ biết thuận tùng, chồng nói vợ nghe thì hòa khí có lẽ sẽ vững bền, ân
tình có lẽ sẽ chặt chẽ.
Rằm tháng giêng có lễ thượng ngươn, các chùa đều mở cửa cho
thiện nam, tín nữ đến lễ bái thánh thần, Trời Phật, tưng bừng.
Vì các trò mới tết thầy hôm tết nguơn đán, nên ông Giáo Huân
cấm trước, ông không cho đem lễ vật mà tết thầy nữa.
Trưa bữa đó, ông Giáo đi lên nhà trên mà nghỉ rồi, thì Cúc Hưởng
nói nhỏ với Vĩnh Xuân: "Hồi nãy đi học, em đi ngang qua chùa Ông, em thấy
chùa mở cửa, người ta vô ra bận rộn. Vát trưa nầy chắc bớt người đến cúng rồi.
Em muốn anh dắt em đi lại chùa đặng em vái Ông Quan Đế phò hộ đôi ta, giúp cho
em an ổn mà chờ anh, giúp cho anh ăn học tinh tấn, rồi giúp luôn cho hai đứa
mình được phối hiệp trăm năm, đừng có điều chi trắc trở".
Vĩnh Xuân nói: "Hai đứa đi, rủi người ta gặp, sợ họ đàm
tiếu chớ".
Cúc Hương nói: "Để em mượn một trò nhỏ lại chùa coi có ai
hay không. Chùa ở một bên đây đi lại đó mình đi ngả trước làn chi mà sợ người
ta thấy. Hai anh em mình lén đi ngả sau vườn đây mình băng qua chùa thì êm ru.
Để em mượn học trò đi coi trước".
Cúc Hương bước ra ngoài kêu một trò trai chừng mười hai tuổi
mà nói nhỏ rồi trò ấy phát ra đi liền.
Cúc Hương trở vô nói với Vĩnh Xuân;
- Em mượn đi coi rồi. Nếu không có ai thì mình đi ngả sau mà
qua chùa. Em muốn thừa dip nầy mình vái rồi thề nguyền với nhau trước mặt ông
Quan Đế đặng ông chứng minh lòng dạ của minh.
- Thề mình phải nói làm sao ?
- Mình nói tên họ, rồi thề nguyền dầu thế nào mình cũng không
bỏ nhau. Nếu. đứa nào bội ước thì Ông vặn họng cho chết.
- Ghê quá.
- Anh sợ hay sao?
- Sợ giống gì. Qua có tính bội ước đâu mà sợ.
- Nếu anh không tính bội ước thì cứ thề với em. Em không sợ
gì hết: Đi đến ông nào bà nào mà thề em cũng dám.
- Em muốn thề thì qua thề cho em tin bụng.
Trò nhỏ sai đi hồi nãy trở về nói chùa Ông mở cửa, nhưng
không có ai cúng hết. Ông từ nằm ngủ trưa trong chòi lá nhỏ ở bên chùa.
Cúc Hương móc túi lấy đưa cho trò ấy một đồng xu bản mà thưởng
công, rồi thối thúc Vĩnh Xnân theo cô băng vườn đi ngả sau mà qua chùa.
Hai người không thấy ai hết, bèn do cửa hông mà bước vô chùa.
Trong chùa im lìm. Hai người ngó vào bàn thờ Ông thì thấy nhang đèn còn cháy, cốt
Ông ngồi giữa mặt đỏ, áo xanh, râu đài năm chòm, tướng mạo oai nghiêm lẫm liệt.
Bên nây thì cốt Quan Bình ôm chồng sách hầu, gương mặt hiền từ. Còn bên kia thì
cốt Châu Thương cầm siêu đứng phò mặt nổi gân đen, râu mọc xồm xàm, bộ tướng dữ
tợn.
Hai.người khiếp sợ, nên vội lại đứng mà ngó. Vĩnh Xuân nghĩ
làm trai mà nhút nhát thì khó coi, lại đến cung kỉnh mà lễ bái thánh thần, chớ
không phải làm điều chi quấy mà sợ. Cậu bèn mạnh dạn bước tới đứng ngay trước bàn
thờ Ông xá ba xá, rồi vói lấy hai cây nhang châm vào thếp đèn dầu phọng mà đốt.
Nhang cháy rồi, Vĩnh Xuân ngoắc Cúc Hương lại, cậu đưa cho cô một cây, rồi hai
người song song đứng trước hương án, hai tay cầm nhang, đưa ngang trán mà vái.
Vĩnh Xuân vái trước: "Tôi là Phan Vĩnh Xuân, 17 tuổi, ước
nguyện kết tóc trăm năm với Lý Cúc Hương. Kính cẩn vái Ông ủng hộ cho hôn sự được
thành. Tôi thề nếu tôi vong tình bội ước thì bị Ông bẻ cổ chết".
Cúc Hương tiếp nói: "Tôi là Lý thị Tư, biệt hiệu Cúc
Hương, vừa mới được 16 tuổi, tôi ước nguyện kết nghĩa vợ chồng với Phan Vĩnh
Xuân. Tôi lạy mà cầu Ông chứng minh lời ước nguyện của tôi, phò hộ cho Vĩnh
Xuân mạnh giỏi và ăn học thành công đặng cưới tôi. Nếu tôi bội ước, không chờ
Vĩnh Xuân, thì xin Ông vặn họng cho tôi chết".
Vĩnh Xuân góp hai cây nhang đem cặp trên bàn thờ, rồi cùng với
Cúc Hương lạy mỗi người bốn lạy. Vái lạy rồi hai người mới thủng thẳng nhẹ bước
lui ra cửa, ngực nhảy thình thịch, mặt còn tái xanh. Chừng về tới vườn ông Giáo
rồi, Cúc Hương mới níu Vĩnh Xuân đứng lại mà nói: "Hồi nãy mới bước vô
chùa, em thấy cốt Ông em sợ quá. Anh dạn thiệt. May có anh, em với đám vái lạy,
chớ một mình em chắc em trở ra liền, em có dám lại đứng trước bàn thờ đâu.
Thôi, hôm trước ông Tơ đã định nhơn duyên, bây giờ ông Quan Đế lại làm chứng
cho anh em mình kết nghĩa vợ chồng với nhau nữa. Việc đó đã chắc chắn rồi.
Không ai làm sao cho rã rời được. Vậy anh cứ an lòng mà ăn học. Dầu phải chờ
bao lâu em cũng chờ".
Đến ngày 21 tháng giêng. Vĩnh Xuân với Cúc Hương chỉ còn nghe
thầy giải năm tờ sách chót thì hết bộ Mạnh Tử. Ấy vậy ngày nay là ngày hai trẻ
được chung chạ với nhau lần cuối cùng, rồi người đi học phương xa, kẻ ở nhà
buôn bán.
Bữa ấy Cúc Hương đi học sớm, lại có đem một gói cuốn tròn
ngoài bao giấy trắng và buộc nhợ gai chắc chắn. Chừng Vĩnh Xuân vô tới thì Cúc
Hương cười mà nói: "Đôi ta còn gần nhau có một bữa nay mà thôi. Vậy thầy
giảng sách rồi thì anh em mình vui chơi với nhau một bữa rồi có phân ly".
Cô nói cô cười, mà cô ứa nước mắt.
Vĩnh Xuân tuy cảm xúc, song bề ngoài vẫn bình tĩnh như thường.
Nhưng ngồi học một hồi, cậu liếc mắt ngó Cúc Hương, rồi cậu châu mày, lộ vẻ buồn
lo về sự sắp ly biệt.
Đến trưa ông Giáo Huân cắt nghĩa bộ sách Mạnh Tử cho Cúc
Hương với Vĩnh Xuân, dạy dứt rồi ông rất vui mừng mà nói: "Thầy lấy làm
hài lòng mà dạy hai cháu được trọn bộ Tứ Thơ. Học Mạnh Tử rồi, thầy chắc hai
cháu đã nhận thấy đạo học của thầy Mạnh. Đức Khổng Tử chủ chữ "nhân".
Ngài dạy "Sát thân dĩ thành nhân". Chữ nhân của ngài nó hàm súc bao
la tất cả mối đạo. Thầy Mạnh Tử chủ chữ "nghĩa". Thầy dạy "Xá
sanh nhi thủ nghĩa". Chữ nghĩa của thầy nó cũng bao trùm cả đạo học như chữ
nhân. Nhưng muốn nên người quân tử, phải làm cho tròn nhân tròn nghĩa. Kể từ
ngày mai hai đứa sẽ rời xa thầy, đứa thì học chữ Tây, đứa thì về nhà ở nhà buôn
bán. Trước khi từ biệt nhau, thầy dặn hai cháu điều nầy: dầu học thứ chi, dầu
làm việc chi, hễ có rảnh hai cháu nên lấy bộ Tứ Thơ ra mà đọc đi đọc lại. Đọc Đại
Học, Trung Dung, hai cháu sẽ nhớ nguyên tắc nho giáo. Đọc Luận Ngữ để tu tâm,
dưỡng tánh. Còn đọc Mạnh Tử để hành vi xử sự. Đạo học của thầy Mạnh Tử có vẻ thực
tế. Vậy hai cháu ở đời cứ đọc Mạnh Tử rồi nương theo ý thầy Mạnh mà xử sự thì
khỏi sợ thua sút người. Hai cháu học đã dứt rồi, muốn về liền bây giờ cũng được".
Vĩnh Xuân với Cúc Hương đồng nói ở đặng dò hết lại coi có câu
nào không hiểu rõ thì hỏi thêm, rồi chiều sẽ về. Ông Giáo gặt đầu rồi ông đi
nghỉ trưa.
Cúc Hương đưa một cắc bạc mượn học trò ra chợ mua bánh trái
đem về đãi Vĩnh Xuân đặng giã từ nhau. Cô đưa cho Vĩnh Xuân cái gói cô đem theo
từ sớm mơi mà nói: "Trong vài bữa nữa anh sẽ đi Gò Công học. Em chẳng biết
lấy vật chi mà tặng anh. Hồi hôm em đi mua vài thước vải với vài thước hàng để
anh may áo bận đi lọc. Anh bận áo thì anh nhớ em. Vậy xin anh đừng từ chối làm
cho em buồn".
Vĩnh Xuân bối rối không kiếm được lời mà từ, nên phải nhận
lãnh, thầm tính đem về nhà nói dối với mẹ hàng vải của thầy cho thì khỏi mang
tiếng gì hết.
Cúc Hương với Vĩnh Xuân dan díu, dặn dò nhau đủ điều. Đến xế
ông Giáo trở xuống trường dọn bài các bàn đủ rồi ông cho học trò về. Cúc Hương
với Vĩnh Xuân dắt nhau đến trước mặt mà tạ ơn và cáo biệt thầy. Ông Giáo chúc
cho hai trẻ, tuy đi riêng hai ngả, song cả hai đều được thành công mỹ mãn và được
đạo nhân nghĩa giúp cho rực rỡ, hiển vinh.
Vĩnh Xuân tuổi còn trẻ mà đã mang chí to. Vì nhà nghèo, cha
chết sớm, mẹ cực thân, nên cậu nuôi cái chí tấn thủ thiệt mạnh, thiệt cao, quyết
lấy sự học để lập thân, học cho giỏi cho nhiều đặng vượt ra khỏi cảnh bần hàn
mà bước vào chốn vinh quang cho thân được thảnh thơi, danh được rỡ ràng, mẹ được
sung sướng, mà vong linh của cha cũng được an vui nơi chín suối nữa.
Hôm nay Vĩnh Xuân lại mang thêm một khối tình riêng rữa, ngày
như đêm nó cứ trìu trịu trong lòng. Theo thế thường, thanh niên mà vương vấn bịnh
tình thì như say như mê, chỉ biết vui với người yêu, không còn kể thế gian thấp
cao hay khôn dại gì nữa.
Đối với Vĩnh Xuân không phải vậy. Với Vĩnh Xuân tình không hại
chi. Trái lại tình giúp thêm nghị lực, thêm hăng hái cho chí tấn thủ để lập
thân, trước kia phải lập thân đặng vượt khỏi cảnh nghèo lang bang, bây giờ còn
phải lập thân để được thỏa mãn tình yêu đầm ấm.
Khai trường, Vĩnh Xuân được Đốc Học chọn cho lên học lớp nhứt
đặng thầy dạy rút rồi cuối năm cho đi thi. Vĩnh Xuân phấn chí, nỗ lực học hành,
vào trường chăm chú nghe thầy giảng bài, về nhà cặm cụi kiếm thế học thêm, đêm
ngày không rời cuốn sách.
Vợ chồng Ba Cao tuy thương Vĩnh Xuân như con, song dốt nát
không dạy dỗ gì hết, chỉ cho ăn cơm mỗi ngày hai bữa vậy thôi. Mà cả hai vợ chồng
lại có tánh ham bài bạc, nên thường ngồi sòng hoài, để Vĩnh Xuân thong thả học
hay chơi tuỳ ý.
Trong hai năm trước, Vĩnh Xuân để hai tuần lễ mới về thăm mẹ
một lần, chiều thứ bảy về rồi khuya thứ hai đi xuống. Bây giờ bài vở nhiều, lại
muốn dùng chúa nhựt rảnh mà coi lại bài cũ, bởi vậy Vĩnh Xuân định mỗi tháng về
một lần chớ không về thường nữa.
Mới học lớp nhứt tháng đầu thì Vĩnh Xuân lại chiếm ưu hạng,
được ông Đốc với thầy nhứt ban khen. Vĩnh Xuân vui lòng nên thứ bảy tuần đó về
thăm mẹ. Cậu không để ý tìm kiếm Cúc Hương, nhưng sáng chúa nhựt cậu ra chợ
chơi, dường như có ám lực xô đẩy cậu phải đi ngang qua nhà Cúc Hương rồi xây mặt
ngó vào nhà. Cậu không thấy dạng Cúc Hương cậu lo buồn. Buổi chiều muốn đi nữa,
mà sợ đi cũng không thấy rồi càng buồn thêm, bởi vậy nằm nhà dở sách Mạnh Tử đọc
chơi, rồi khuya dậy sớm mà đi học.
Tháng sau, Vinh Xuân về nữa. Cậu nhứt định không léo hánh trước
nhà Cúc Hương, vì sợ không thấy được thì buồn, mà dầu có thấy cũng không nói
chuyện được.
Sớm mơi lúc chợ nhóm đông, Vĩnh Xuân thả bước ra chợ chơi. Cậu
vào nhà lồng rộng lớn minh mông của chợ Giồng, bắt từ đầu trên, phía đình thờ
thần, đi lần xuống phía chợ cá. Nửa cái nhà lồng phía trên không có ai mua bán
vật chi hết, bỏ trống cho bầy con nít chạy vòng theo những cuộc gạch bự chơi
cút bắt la om sòm. Đi tới phía trước mới có đàn bà con gái dọn hàng ngồi day
lưng vô mấy gốc cột gạch mà bán. Vĩnh Xuân chợt thấy Cúc Hương ngồi tại một góc
chợ, trước mặt và hai bên bày đồ bán đủ thứ: đường, đậu, chùm kết, bún tàu, thuốc
giấy, hộp quẹt, nước mắm, đầu lửa, vải trắng, vải đen, chổi quét nhà, khăn lau
mặt. Cậu đứng xa xa mà ngó, không muốn lại gần, vì có người khác cũng dọn đồ ngồi
bán chung quanh, sợ lại đó nói chuyện rủi biểu lộ thâm tình rồi người ta nghi
mà mang tiếng.
Chẳng dè Cúc Hương ngó thấy, cô đứng dậy kêu mà nói lớn:
"Anh Xuân, anh mới về phải hôn ? Bước lại đây cho em hỏi thăm một
chút".
Vĩnh Xuân dụ dự, thấy kẻ mua người bán lăng xăng, không biết
có nên lại nói chuyện với nhau hay nên làm lơ bét đi chỗ khác. Cúc Hương ngồi
xuống, nhưng kêu nữa. Không thế làm lơ được, Vĩnh Xuân thủng thẳng đi lại mà
trong bụng ái ngái cực điểm. May lúc ấy không có ai mua đồ của Cúc Hương. Mà có
chị Tỷ, có chồng khách trú ở trong một căn phố phía sau chợ, chị cũng dọn gian
hàng ngồi bán dựa bên Cúc Hương, chỉ ngó Vĩnh Xuân trân trân, làm cho cậu bối rối
hết sức.
Thấy Vĩnh Xuân lại tới, Cúc Hương hỏi:
- Từ hôm khai trường đến nay anh ở luôn dưới mà học hay sao,
nên không thấy về ?
- Năm nay bài nhiều nên một tháng tôi mới về một lần. Hôm
tháng trước tôi có về.
- Em không hay. Năm nay anh được lên lớp nhứt phải hôn ?
- Phải.
- Em chắc anh học giỏi hơn người ta rồi.
- Thì rán học vậy thôi.
- Tía em giao cho em ít trăm đồng bạc làm vốn đặng tập mua
bán. Em mua đồ rồi mới dọn ra đây bán chừng mươi bữa rày. Em chưa thạo cách mua
bán. May nhờ có chị hai ngồi một bên em đây chị chỉ dẫn dùm cho em, nên chắc ít
tháng em quen rồi em làm được. Chúa nhựt nào anh có về thì ghé đây nói chuyện
chơi. Mỗi bữa tảng sáng em dọn ra đây bán, chừng tan chợ thì dọn về.
Chị hai Tỷ, tuổi lối 30, chị hỏi Vĩnh Xuân.
- Em là con thím Hương văn phải hôn ?
- Thưa, phải.
- Em học dưới Gò Công hay học ở đâu ?
- Tôi học dưới Gò Công.
Có một bà già ghé lại gian hàng hai Tỷ lựa đường táng mà mua.
Liền đó lại có hai chị bưng thúng ghé gian hàng Cúc Hương hỏi giá đặng mua dầu
lửa với nước mắm. Vĩnh Xuân nhơn dịp có khách hàng lại mua đồ mới từ Cúc Hương
với Hai Tỷ mà đi.
Cúc Hương không cầm lại mà dặn: "Tuần nào anh có về thăm
bác thì ra đây nói chuyện chơi!".
Vĩnh Xuân ừ, nhưng thầm tính không nên vởn vơ chỗ Cúc Hương
buôn bán, vì gặp nhau Cúc Hương hay hỏi việc nầy việc nọ lăng xăng, rủi cô nói
lỡ lời, làm cho mấy người ngồi gần đó họ hiểu được tình ý, thì sanh chuyện
không tốt.
Thiệt quả mấy lần sau Vĩnh Xuân về, cậu ít muốn ra chợ. Lần
nào cậu nhớ Cúc Hương quá, tính thấy hình dạng một chút cho nguôi bớt nỗi lòng,
thì cậu đi ngoài xa đặng thấy mặt nhau vậy thôi, chớ không dám lại gần mà nói
chuyện trước mắt thiên hạ, nhứt là trước cặp mắt láo liên của chị Hai Tỷ, hễ chị
thấy cậu thì chị chúm chím cười, cười bởi duyên cớ nào cười mừng hay là cười ngạo
?
Lật bật đã tới bãi trường nửa năm.
Vĩnh Xuân đã chắc chắn chiếm cái địa vị của một trò giỏi nhứt
trường Gò Công, không có trò nào còn lăm le muốn tranh giành, mà ông Đốc với mấy
giáo viên đồng đặt hy vọng vào Vĩnh Xuân để giựt giải trong kỳ thi học bổng sắp
tới.
Vĩnh Xuân rất vui lòng thấy sự cố gắng của mình được kết quả
tốt đẹp. Nhưng vật nào có bề mặt, thì cung có bề trái, là cái bề thô bỉ xấu xa.
Vĩnh Xuân học thì tinh tấn như vậy, mà vợ chồng ông cậu là Ba
Cao, bài bạc thua khiến mắc nợ lút đầu. Còn có ba tháng nữa Vĩnh Xuân đi thi
thì vợ chồng ca Cao phải bán hết xe, ngựa cùng nhà cửa đặng trả nợ rồi tính dắt
nhau xuống Vàm Láng ở mà mua bán cá biển.
Vĩnh Xuân bối tối. May cậu còn lãnh học bổng mỗi tháng năm đồng,
lại may có trò học một lớp nhà ở xóm Cầu Tàu, dắt cậu về thưa với cha mẹ cho cậu
ở ăn cơm quán mà học cho đến mãn năm. Người ta thấy tình thế của Vĩnh Xuân nguy
nan, học giỏi mà nhà nghèo, người ta chịu nuôi cơm giùm, mỗi tháng chỉ đòi ba đồng
mà thôi để hai đồng cho cậu ăn bánh sớm mơi mà đi học.
Nhờ cái may đó nên Vĩnh Xuân có chỗ dung thân mà học cho đến
cuối năm rồi đi thi. Năm đó trường Gò Công chọn sáu trò cho lên Sài Gòn thi
chung với học trò các trường sơ học trong Lục Tỉnh. Trường Gò Công có hai trò
được chấm đậu Phan Vĩnh Xuân với một trò nữa tên Nguyễn Ngọc Chọn gốc ở chợ Tổng
Châu.
Thi rồi trở về, hai trò thi đậu được ông Đốc Học với mấy thầy
giáo ngợi khen nức nở. Ông Đốc nói nếu không muốn học thêm bốn năm nữa thì ông
sẽ xin với tham Biện cấp bằng cho làm giáo tổng, lương mỗi tháng 12 đồng: Thầy
nhứt và mấy thầy đều khuyên rán học thêm bốn năm, đặng làm thông ngôn, ký lúc,
lương lớn hơn, mà sau lại còn được lên chức Huyện, Phủ, vinh hiển. Học được nhà
nước nuôi cơm cháo lại phát áo quần, có tốn hao gì mà không chịu học.
Vĩnh Xuân bươn bả về nhà cho mẹ hay đặng mẹ mừng mà cũng cho
Cúc Hương hay đặng cô vui.
Bà Hương văn Thanh thấy con về, nghe con thi đậu, thì bà vui
mừng cực điểm. Bà hỏi thi đậu rồi làm việc gì. Vĩnh Xuân đem lời của ông Đốc Học
nói với lời của mấy thầy giáo khuyên mà thuật lại cho mẹ nghe, rồi cương quyết
nói thế nào cũng phải đi học thêm bốn năm nữa, chớ được người ta nuôi cơm nước,
phát áo quần, mà mình bỏ để lãnh chức giáo tổng thì uổng lắm.
Sáng bữa sau Vĩnh Xuân đi thăm ông Giáo Huân. Ông nghe thi đậu
ông mừng hết sức, rồi ông cũng khuyên ráng học thêm, vì ông biết với trí thông
minh và tánh cần mẫn của Vĩnh Xuân thì nên học cho đến cùng, đặng thân danh được
hiển đạt.
Vĩnh Xuân trở ra chợ, đi ngay lại gian hàng của Cúc Hương mà
báo tin thi đậu, vì cậu thấy đường tấn thủ đã mở rộng, chí lập thân còn hùng
hào, cậu không thèm ái ngại điều gì nữa.
Cúc Hương rất vui mừng. Chị Hai Tỷ rất khen ngợi. Chị hỏi thi
đậu rồi được làm thầy giáo hay là còn phải đi học nữa. Vĩnh Xuân cương quyết
nói còn đi học tiếp bốn năm nữa, hai năm tại Mỹ Tho, hai năm tại Sài Gòn, rồi
làm thông ngôn, ký lục.
Cúc Hương tiếp cắt nghĩa cho chị Hai Tỷ hiểu học bốn năm nữa
mà nhà nước nuôi cơm và chịu quần áo, mình khỏi tốn gì hết, đi học như vậy sung
sướng quá, người ta muốn hết sức mà muốn không được chớ phải dễ hay sao.
Vĩnh Xuân khoái chí nên chúm chím cười.
Cúc Hương hỏi:
- Rồi chừng nào anh mới lên Mỹ Tho học?
- Còn lâu mà. Ăn Tết rồi, lối cuối tháng giêng tôi mới đi.
- Ở chợ mình có ghe đi Mỹ Tho mỗi ngày, anh đi cũng tiện lắm.
Anh có lên thưa cho thầy hay rồi chưa ? Anh lên nói chắc thầy mừng lắm.
- Tôi đi thăm thầy rồi tôi mới ra đây. Thày mừng dữ. Thầy biểu
phải chịu cực học thêm cho nên danh, đừng ham làm giáo tổng không có tương lai
gì hết.
- Anh nên vâng lời thầy. Ý em cũng muốn như vậy.
Vĩnh Xuân nghe Cúc Hương nói câu chót thì sợ câu chuyện kéo
dài rồi rối nùi, nên cậu từ giã chị Hai Tỷ với Cúc Hương mà đi. Cúc Hương nói
Vĩnh Xuân còn nghỉ lâu, vậy thì buổi sớm mơi nào rảnh ra đây nói chuyện chơi.
Vĩnh xuân làm lơ mà đi, không dám hứa.
Buổi chiều cậu đi viếng mộ cha. Cậu vái vong linh cha phò hộ
cho cậu mạnh khỏe học đến cùng đặng lập thân và báo hiếu.
Tháng chạp, sớm mơi chợ nhóm đông đảo, lại buổi chiều tại đầu
cầu sắt người ta gánh gạo chở lúa vào bán cũng vui. Thế mà Vĩnh Xuân sợ gặp Cúc
Hương rồi tình yêu khêu gợi sanh chuyện không hay, nên cậu ít muốn đi chơi, cứ
lục đục ở nhà đọc sách cũ lại, đặng chừng vào trường lớn học, khỏi thua sút chúng
bạn.
Một đêm bà Hương văn Thanh nằm nói chuyện học hành của con,
bà than rằng ba năm nay con học dưới Gò Công, nhờ vợ chồng Ba Cao nuôi cơm, lại
nhờ có thêm học bổng để may áo quần mà bận lành lẽ. Bây giờ đi học xa tuy nhà
nước nuôi cơm và chịu áo quần, song mình cũng phải có tiền đặng ăn bánh trái
chút đỉnh với người ta, lại còn phải có tiền đặng lúc khai trường và lúc bãi
trường đi tàu, đi xe chớ. Thế nào mỗi năm bà cũng phải có ít lắm là một chục đồng
bạc để cung cấp cho con. Ngặt bà không có vốn, nên mua bán bánh trái lặt vặt mỗi
ngày lời năm ba cắc đủ mua cơm gạo là may. Nếu dành dụm có dư thì may áo quần
mà bận cho khỏi lang thang rách rưới, làm sao tom góp cho tới bạc chục mà giúp
con. Vậy thì ông Đốc Học nói như muốn thôi học ông cho làm giáo tổng, lương mỗi
tháng 12 đồng, con nên chịu lãnh chức ấy phứt cho rồi, có lương ăn liền, khỏi
lìa xa mẹ già, khỏi cực thân học tới bốn năm, lại cũng khỏi lo tiền bạc thiếu
thốn.
Vĩnh Xuân ngồi học, cậu nghe mẹ than như vậy thì cậu châu
mày, ngó sững ngọn đèn rồi thủng thẳng nói:
- Con xin má đừng lo. Con đi học con ăn cơm ăn cháo của nhà
trường mà thôi. Con không cần bánh hàng gì hết mà. tốn tiền.
- Con nói bướng như vậy sao được. Đi học thế nào con cũng phải
cần dùng vật nầy, vật nọ chớ.
- Nhà trường phát sách, giấy, viết mực, đủ thứ hết má à.
- Còn khai trường và bãi trường, tiền đâu con đi tàu, đi xe ?
- Con đi bộ.
- Trời ơi ! Đi sao nổi con! Hai năm đầu con học Mỹ Tho. Ở đây
lên Mỹ thì gần. Có thể đi bộ được. Lại có ghe đò, đi mỗi chuyến có năm ba cắc bạc
chẳng nói làm chi. Chừng con lên học Sài gòn, đường xa xuôi cách bức quá, đi
làm sạo cho nổi ?.
- Tàu lên Chợ Lớn ăn có chín cắc.
- Mà mỗi năm con phải tựu trường hai lần và bãi trường con phải
về hai lần, thì tiền tàu đã tới 4 đồng bạc rồi, chớ phải ít sao ? Đó là chưa kể
tiền xe từ đây xuống Gò Công và từ Chợ Lớn ra Sài Gòn. Chớ chi má mua bán mỗi
ngày lời tới một hai đồng thì má có lo đâu con.
Vĩnh Xuân cảm xúc, không dám đối đáp với mẹ nữa. Cậu chống
tay ngồi ngó ngọn đèn dầu leo lét, mặt cậu buồn hiu. Trong nhà, ngoài sân đều
im lìm, chỉ nghe có tiếng gà gáy xa xa.
Bà Hương văn đi ngủ. Vĩnh Xuân gài cửa rồi tắt đèn lại ván mà
nằm. Sự mừng vui hôm mới về nó hừng hực trong lòng làm cho cậu hăng hái nhảy
bay, tưởng bước đường dễ dàng, êm ấm, không có chi cản trở.
PHẦN I - CHƯƠNG 5 -
B
ữa nay mẹ chỉ cho cậu thấy cảnh đời thực tế, nó cam go nhiều
nỗi, dầu mang thiện chí đầy mình đi nữa, với hai tay không, thì không đễ gì lướt
qua được đâu. À ! Tiền bạc ! Tiền bạc ! Mi đáng ghét, vì mi hay cám dỗ lôi cuốn
con người vào đường bất nhân, bất nghĩa. Mà mi cũng đáng yêu, vì có khi mi giúp
cho con người thoát hèn hạ mà lên thanh cao, mi đưa đẩy người thành tâm, thiện
chí có thể lập thân đặng đền ơn đáp nghĩa. Người quân tử thường khinh rẻ mi.
Nay thấy rõ nếu không có mi thì dầu quân tử cũng nằm co, không làm sao mà cựa
quậy được.
Vĩnh Xuân suy nghĩ tới đó thì trong lòng lạnh ngắt tay chưn bủn
rủn, dường như thấy tương lai đã bít chịt, không còn ngả nào mà đi tới nữa. Cậu
tức vợ chồng Ba Cao bài bạc làm chi mà phải mang nghèo. Chớ khi còn khá như mấy
năm trước thì cậu năn nỉ bao cho cậu ăn học đủ bốn năm, rồi chừng cậu xuất thân
làm việc cậu sẽ trả lại. Bà con không có ai hết, biết cậy nhờ ai. Ông Giáo Huân
chắc có tiền, ông lại thương mình, ngặt mình không bà con với ông, nên không biết
ông dám bao hay không mà nói. Bậy giờ chỉ còn trông cậy vợ chồng ông Giáo mà
thôi. Mình xin ông cho mượn mỗi năm 10 đồng bạc, không cần nhiều hơn. Ông bao bốn
năm cộng 40 đồng. Ví như ông buộc chừng mình học xong, ra làm việc, mình phải
trả góp lại cho ông 80 hoặc 100, mình cũng chịu. Cuối tháng giêng mới đi học,
nên không gấp gì. Để ăn Tết rồi mình sẽ yêu cầu ông. Mà ví như ông Giáo chịu
bao, mình đi học được rồi, mẹ mình ở nhà mua bán, số lời có thể đủ sống trong bốn
năm mà chờ mình nên danh hay không ? Còn thêm cái vấn đề rắc rối đó.
Mình muốn đi học đặng sau làm ông nầy ông kia, mà bây giờ
mình bỏ mẹ ở nhà, áo quần rách rưới, bữa đói bữa no, vậy thì học làm chi ? Nhớ
tới nỗi mẹ, Vĩnh Xuân đau đớn, rồi chán nản cực điềm, chán nản đến nỗi tưởng mạng
số của mình phải chức giáo làng hoặc giáo tổng là cùng.
Vĩnh Xuân buồn rầu hết muốn đi chơi, cứ nằn dàu dàu như chim
bị nhốt trong lồng, cá bị sa vào rọ.
Bà Hương văn mắc lo làm bánh bán, bà không để ý đến sự khủng
hoảng tinh thần của con. Hồi hôm bà than thở với con, ý bà muốn tỏ gia đạo khó
khăn cho con biết vậy thôi, chớ không phải bà tính ép con làm giáo tổng đặng có
lương mà nuôi bà. Bà quen cái cảnh nghèo đã mấy mươi năm rồi. Tuy bà đã gần năm
mươi tuổi, nhưng bà chưa mệt mỏi mà cần phải cậy con giúp đỡ.
Chiều bữa sau, mẹ con đương ngồi ăn cơm, thình lình Vĩnh Xuân
hỏi mẹ:
- Ví như con đi học thêm nữa, mà con làm sao được mặc con, má
khỏi tốn tiền cho con, vậy mà má ở nhà má mua bán má kiếm lời đủ cho má sống
hay không má ?
- Má lo là lo cho con, chớ phận má dễ dàng, má có lo gì đâu.
Má không cần làm đăng đê làm chi cho mệt, mỗi bữa má gói vài chục cái bánh ếch,
hoặc má xôi một chõ xôi mà bán, cũng có lời mua gạo ăn không hết. Con khỏi lo
cho má.
- Con sợ con đi học nữa, mà học tới bốn năm, má ở nhà mua bán
không đủ ăn, rồi phải chịu đói rách chớ.
- Không, không. Một mình má thì má sống dễ dàng. Dầu con ở
nhà đây cho má nuôi cơm nữa má cũng không sợ. Ngặt con đi học nữa, mà lại đi
xa, phải tốn tiền nhiều, nên má mới sợ má lo không nổi.
- Con tính con cậy người ta bao cho con đi học đặng má khỏi
lo.
- Con cậy ai ? Cậu Ba con nghèo rồi, nó bao làm sao cho nổi.
- Con tính con cậy thầy con. Con xin thầy giúp cho con mỗi
năm 10 đồng đặng con ăn học. Chừng con làm việc có lương, mỗi tháng con sẽ góp
mà trả lại.
- Được lắm. Nếu ông Giáo Huân chịu cho con mượn tiền mà ăn học
thì má hết lo. Thím Hằng thiếu gì tiền. Thím bao dễ như chơi.
- Bà Giáo cũng thương con lắm. Hôm thi đậu mới về, con có lên
thăm thầy con. Thầy con mừng dữ. Thầy con khuyên con phải rán học thêm bốn năm
nữa đặng lập thân danh. Sẵn trớn cứ đi luôn đừng bỏ nửa chừng uổng lắm. Vậy để
qua Tết rồi con sẽ năn nỉ với thầy con.
- Thiệt cái nghèo nó dở quá. Con muốn đi học, mà nhà lại
không có tiền. Nếu má dư dã như người ta thì con muốn học chừng nào má cũng chịu.
Vĩnh Xuân đã an lòng về phận ở nhà rồi. Nhưng còn việc cậy
ông Giáo Huân, chưa biết ông sẵn lòng giúp hay không ? Đó là một mối lo nó vấn
vít trong trí cậu luôn luôn, bởi vậy cậu không vui mà đi chơi, mặc dầu gần tới
Tết, ngoài chợ họ chưng đồ mà bán đủ thứ, sớm mơi cũng như buổi chiều, thiên hạ
đi chợ Tết rần rần.
Bắt đầu 27 tháng chạp thì có chợ đêm. Các tiệm đều mở cửa bán
sáng đêm. Còn trong nhà lồng cũng như các nẻo đường chung quanh, thì bạn hàng dọn
đồ mà bán đủ thứ. Hai bên lề đường người ta có cấm cây làm rạp đặng ban ngày ngồi
bán cho khỏi nắng. Đi ngõ nào cũng thấy dưa hấu, cải cây, củ cải, chuối, bưởi,
quít, cam với hột dưa khô. Trong tiệm cũng như mấy gian hàng trong nhà lồng thì
người ta bày cam Tàu, chà là, hồng khô, trái vải với đường phổi. Tượng liễn
treo bán cũng nhiều, lại còn treo khăn lụa với dây lưng xanh, đỏ, vàng, hường,
đủ màu làm cho chợ có vẻ tươi cười đặc biệt mới ra chợ Tết.
Hồi chiều bà Hương văn Thanh bưng thúng đi chợ đặng mua đồ
chút đỉnh mà ăn Tết với người ta. Đến tối bà mới về, mua được hai nải chuối hườm
hườm, một trái bưởi với một cặp dưa hấu nhỏ. Bà khoe chợ Tết đông đảo vui lắm.
Dọn cơm ăn với Vĩnh Xuân rồi bà cứ thôi thúc con ra chợ mà xem thiên hạ mua
bán. Một năm mới có một lần vui như vây, không nên bỏ qua.
Vĩnh Xuân không dám trái ý mẹ, nên cậu thay đồ sạch sẽ rồi đi
chơi. Cậu đi mà trong trí lơ lửng, không quyết định đi hướng nào, mua vật gì.
Ra tới chợ, cậu thấy trong nhà lồng người ta đi chật nứt, mà mấy đường chung
quanh người ta cũng đông dầy dầy. Cậu đứng ngó thiên hạ lại qua một hồi rồi cậu
thả bước trôi theo lượng sóng người, chậm chân bò trên con đường hông nhà chợ,
là chỗ hàng dưa hấu nhiều hơn hết. Đi ngang phía sau gian hàng của Cúc Hương ngồi
bán mấy tháng nay, cậu ngó vô nhà lồng thì thấy chỗ Cúc Hương, cũng như chỗ chị
Hai Tỷ, chỗ nào cũng có đôi ba người mua đồ, người nầy ra đi người khác ráp lại,
luôn luôn có khách hàng hoài.
Vĩnh Xuân xuống mút chợ cá rồi băng qua phía bên kia mà trở
lên. Phía nầy trống trải, vì bán thưa thớt, nên người ta không đông lắm. Đi
giáp hai bên rồi thì đã nửa canh hai, nghĩa là lối 10 giờ. Vĩnh Xuân thấy trong
nhà lồng người đã thưa cậu mới bước vô đó, tính bắt từ đầu trên đi tuốt tới đầu
dưới, đặng xem coi Cúc Hương bán thứ gì.
Lúc cậu đi gần tới gian hàng của Cúc Hương có vài người đương
lựa cam hồng mà mua. Còn chị Hai Tỷ thì chị ngồi ngó mông, vì không có khách
hàng. Chị thấy Vĩnh Xuân thì đưa tay ra ngoắt mà nói: "Lại đây chơi. Có
mua hồng, cam hay là dưa hấu thì ghé đây. Hàng nầy bán rẻ lắm mà bán cầu danh
chớ không phải cầu lợi".
Vĩnh Xuân men men đi lại.
Cúc Hương tay mắc cân cam mà bán, song cô thấy Vĩnh Xuân thì
cô nói lớn: "Dữ hôn. Đợi tới bữa nay anh Xuân mới chịu đi chợ Tết".
Xuân chúm chím cười.
Chị Hai Tỷ nói:
- Ngồi đây em, ngồi nói chuyện với chị chơi.
Vĩnh Xuân ngồi chồm hổm trước gian hàng của chị Hai Tỷ mà
nói:
- Họ đi chợ Tết đông quá chị Hai há.
- Bây giờ họ về hết phân nửa rồi. Hồi chiều mới thiệt đông,
chen chưn không lọt.
- Chị bán khá hôn ?
- Ba ngày Tết ai bán cũng được hết. Hồi chiều họ bu lại làm
chị mệt hết sức.
- Bán đây tới mấy giờ mới dọn về nghỉ ?
- Dọn về sao được. Tốp người đương mua đây là tốp đi hồi chiều.
Họ đã về hết nhiều rồi. Còn một mớ lát nữa đây họ sẽ về hết. Mà chừng ba giờ
khuya có tốp khác đi chợ nữa. Chợ sẽ đông lại cho tới trưa. Dọn về rồi vài giờ
phải dọn trở ra lại, hơi nào mà gánh.
- Ở luôn ngoài nầy rồi làm sao mà ngủ ?
- Nằm bậy đây mà nghỉ lưng. Chị với con Tư thay phiên với
nhau, người nầy ngủ thì người kia thức coi chừng luôn hai bên.
- Mệt chết.
- Có ba đêm mà nhiều nhỏi gì. Bán chợ Tết thì phải chịu cực
chớ.
Bên Cúc Hương bây giờ khách hàng đã đi hết rồi. Lại có ba bốn
người ghé coi đồ bên chị Hai Tỷ.
Cúc Hương kêu mà nói: "Anh Xuân, anh xê qua đây cho em hỏi
thăm một chút".
Cúc Hương trải sẵn một tờ giấy bên phía tay mặt của cô, chừng
Xuân qua thì cô chỉ tờ giấy mà mời ngồi rồi cô hỏi:
- Hổm nay anh đi đâu mất, không thấy anh ra chợ chơi ?
- Qua buồn quá nên ở nhà chớ có đi đâu.
- Tại sao mà anh buồn ? Việc nhà có điều chi trắc trở hay sao
?
Vĩnh Xuân day mặt ngó chỗ khác, bộ buồn hiu, không muốn nói.
Cúc Hương thôi thúc:
- Anh buồn về việc gì, xin anh nói cho em biết. Không biết chừng
em cũng có thể làm cho anh đổi buồn ra vui được chớ.
- Khó lắm. Việc qua buồn, qua còn đương tính mà gỡ. Để ăn Tết
rồi qua gỡ được hay không qua sẽ nói thiệt cho em biết.
- Em muốn biết liền bây giờ. Nếu có rối thì em sẽ tiếp tay với
anh mà gỡ.
- Vì liêm sĩ nên qua không được phép nói cho em biết.
- Dầu có việc chi bí mật hay khốn khổ, anh phải giấu kín, thì
giấu ai chờ giấu em nữa sao ? Đã có thề nguyền với nhau rồi, anh vui thì em
vui, anh buồn em phải buồn. Sao anh còn nghi bụng em như vậy ?
Vĩnh Xuân ngó ngay Cúc Hương, bộ buồn lắm.
Cúc Hương biết Vĩnh Xuân đau khổ nhiều mà lúc ấy chị Hai Tỷ lại
ngồi day lưng qua phía bên nây, dường như có ý muốn để cho hai trẻ nói chuyện
thong thả, khỏi ái ngại.
Cúc Hương mới nói:
- Có chuyện gì làm cho anh khổ tâm, xin anh nói thiệt cho em
nghe. Anh đừng giấu em. Anh giấu thì em càng buồn hơn anh nữa. Nói đi.
Vĩnh Xuân ứa nước mắt và thở một hơi dài mà.nói:
- Qua sợ qua đi học nữa không được em à !
- Ủa! Sao vậy ?
- Hôm qua thi đậu qua về, vì qua mừng quá, nên qua vô ý,
không suy nghĩ cho kỹ việc đi học tới bốn năm. Cách vài ngày má qua nói chuyện
với qua, má qua vạch mắt cho qua thấy đường tấn thủ của qua gay go lắm, chớ
không phải dễ đâu.
- Đi học tự nhiên phải chịu cực. Mà học cho tới bốn năm tự
nhiên sự cực phải kéo dài nhằng chớ sao.
- Chí quyết lập thân qua có sợ cực khổ đâu em. Qua sợ là sợ
đường qua đi nó bít chịt, qua tới không được nữa, cái đó mới nguy hại chớ.
- Sao mà bít đường ? Anh nói rõ cho em nghe thử coi.
- Má qua cắt nghĩa như vầy: qua đi học thêm bốn năm được học
bổng, thì nhà trường chịu cơm, cho chỗ ở, phát quần áo, nón giày, nghĩa la nhà
trường lo cho qua no bụng ấm thân, có chỗ nằm ngủ, có chỗ ngồi học, có giấy mực
sách vở đủ hết. Nhưng qua cũng phải có một số tiền riêng bỏ túi để mua lặt vặt
đồ cần dùng, để ăn bánh, ăn hàng chút đỉnh, nhứt là để trả tiền xe, tiền tàu,
khi đi tựu trường và khi bãi trường về. Má qua than thở nhà nghèo, má qua bán
bánh trái có lời đủ độ nhựt là hay, làm sao có dư mà cung cấp cho qua đi học xa
được. Qua nói thiệt với em, qua quyết học đặng lập thân, qua sẵn sàng xông lướt
tất cả khó khăn, cực khổ. Qua không cần bánh hàng chi hết, có đói thì qua bóp bụng
mà chịu. Đây lên Mỹ Tho qua đi bộ, không cần phải đi đò hay đi xe. Ngặt chừng
lên Sài gòn mà học tiếp thì đường xa xuôi cách trở, không thế gì đi bộ được, tự
nhiên phải đi tàu. Tuy tàu ăn tiền không phải nhiều, song mỗi năm đi lên hai lần,
đi về hai lần, thì hao tốn ít lắm cũng đến bốn, năm đồng bạc. Ấy vậy nếu qua đi
học nữa thì mỗi năm phải có tiền nhà cung cấp cho qua ít nào cũng mười đồng bạc,
qua đi học mới được. Số ấy không phải nhiều, nhưng nó quá sức của má qua, cung
cấp vài ba đồng hoặc may còn rán được, chớ đến bạc chục thì vô phương.
- Tưởng là chuyện gì, chở chuyện đó anh đừng lo. Bác cung cấp
cho anh không nổi, thì em lãnh em giúp cho anh đi học.
- Khoan ! Vì em cứ theo hỏi hoài, nên qua phải nói thiệt cho
em nghe, chớ việc nầy qua đã tính rồi.
- Anh tính cách nào ?
- Qua tính ăn Tết rồi qua lên thăm thầy mình và tỏ gia đạo của
qua cho thầy nghe, rồi qua xin thầy làm ơn bao cho qua mỗi năm 10 đồng bạc đặng
qua ăn học. Chừng qua học rồi, qua đi làm việc lãnh lương qua sẽ trả góp lại
cho thầy, trả bằng hai cũng được. Hôm thi đậu rồi về, qua có thăm thầy. Thầy
khuyên qua phải học thêm, chớ đừng bỏ. Vì vậy nên qua nói chắc thầy chịu.
- Như thầy không chịu rồi anh làm sao ?
Vĩnh Xuân châu mày suy nghĩ rồi đáp:
- Qua phải bỏ mà đi qua đường khác, chớ biết tính làm sao ?
Qua xin làm giáo tổng đặng dạy học lãnh lương mà ăn.
Cúc Hương chân nói:
- Không được. Anh không nên bỏ dở cảnh tương lai rực rỡ đã lộ
ra trước mắt anh rồi. Em không bằng lòng cho anh bỏ. Anh chẳng cần yêu cầu thầy
bao làm chi. Anh để cho em giúp anh phải hơn. Tưởng là học mỗi năm tốn một hai
trăm thì khó cho em thiệt, chớ vài ba chục thì em giúp dễ như chơi. Em bán chưa
đầy một năm mà hôm rằm em tính thử, thì em có lời hơn 50. Bán dịp Tết nầy em lời
thêm ít chục nữa. Em buôn bán nuôi anh ăn học được mà.
Vĩnh Xuân nói:
- Em tính như vậy qua khó chịu quá.
- Khó cái gì ? Em bao cho anh ăn học. Sau anh làm nên anh trả
lại cho em, trả vốn, trả lời, hoặc trả bằng hai như anh tính trả cho thầy vậy
cũng được. Anh tính chắc lại coi mỗi năm phải giúp cho anh bao nhiêu đủ anh ăn
học.
- Mười đồng.
- Ít quá. Phải hai chục mới đủ.
- Nhiều quá vô ích.
- Thôi thì 15 đồng, chớ 10 đồng ít lắm. Đi học anh phải sắm đồ
cần dùng đem theo mà xài, như lược chải đầu, bàn chải răng, cùng nhiều thứ lặt
vặt nữa. Sẵn đây để em đưa trước số tiền năm thứ nhứt cho anh. Như có thiếu thì
bãi trường nửa măm em sẽ đưa thêm.
Cúc Hương dở rổ tiền lấy ba tấm giấy bạc 5 đồng xếp để vào miếng
giấy gói trà mà gói lại rồi đưa cho Vĩnh Xuân.
Vĩnh Xuân dụ dự không muốn lãnh.
Cúc Hương cười và nói:
- Anh cần phải có một người giúp anh mới đi học được. Em lãnh
em giúp cho anh khỏi cậy người khác, sao anh lại dục dặc. Sẵn đây thì lấy đi
cho rồi. Mỗi năm em sẽ giúp một số như vậy cho tới chừng nào anh học thành công
hoàn toàn rồi mới thôi.
- Em giúp rồi qua về qua phải nói sao với má qua. Nói thiệt
thì kỳ quá.
- Ý ! Nói thiệt sao dược... Ừ, anh nói chị Hai Tỷ nghe anh
than, chỉ động lòng, nên chỉ ra tiền bao cho anh ăn học, sau anh sẽ trả lại.
Anh cứ nói vậy đi. Em sẽ dặn trước chỉ đặng có ai hỏi, chỉ cũng chịu có như vậy.
Vĩnh Xuân nghe như vậy mới chịu lấy gói tiền, vừa để vào túi
vừa nói:
- Trong túi hết bạc tiền, dầu tráng sĩ cũng phải chịu hổ thẹn.
Làm trai mà cậy sức đàn bà đặng lập thân thì hèn quá. Nhưng tình thế ép buộc
nên qua không thế giữ liếm sĩ được. Qua xin Trời đất Thánh Thần biết cho qua.
Mà thà là ân nghĩa gom về một tay, ngày sau dễ cho qua đền đáp hơn.
Cúc Hương nói:
- Anh làm nên, em cũng được hưởng. Vậy em lo buôn bán, anh lo
học tập, mỗi người lo một thế, góp sức cùng nhau mà xây nên hạnh phúc chung, chớ
ân nghĩa gì đâu.
Vĩnh Xuân vừa đứng đậy vừa nói:
- Nếu không ân thì là nghĩa. Mà nghĩa càng nặng thì tình càng
sâu. Thôi, để qua về, ngồi nói chuyện lâu quá, chẳng khỏi người ta dị nghị.
Vĩnh Xuân bước qua cáo từ chị Hai Tỷ. Chị vui vẻ nói ;
"Em về hay sao ? Còn hai buổi chợ đêm nữa. Tối ra đây nói chuyện chơi nghe
hôn em. Chị không có anh em trai, nghe em học giỏi, chị thương quá. Ra đây chơi
với chị đừng ngại chi hết…. Khoan, khoan, em lấy một trái dưa đem về ăn chơi.
Con Bảy Hô nói dưa ngon, nó tấn cho chị nửa chục hồi tối. Em lấy một trái về ăn
thử coi. Đi chợ Tết về phải có thứ gì, chớ về tay không, coi sao được".
Chị vói lấy một trái dưa hấu mà trao cho Vĩnh Xuân. Cậu cám
ơn, day lại ngó Cúc Hương mà cười, rồi ôm trái dưa đi về, tuy hết buồn rầu,
song thêm ngần ngại.
Bà Hương văn thức chờ con, thấy con bước vô, tay có ôm một
trái dưa hấu thì bà hỏi:
- Dưa ở đâu vậy ? Con có tiền hay sao mà mua ?
- Thưa, không. Dưa của chị Hai Tỷ cho con. Chỉ mua nửa chục,
chỉ nói giống dưa rầy ngon lắm. Chỉ cho con một trái biểu đem về ăn thử.
Bà Hương văn lại lấy trái dưa đưa gần đèn mà coi. Bà nói trái
dưa nầy đáng bốn, năm cắc, cuống nhỏ, vỏ cứng, già lắm, chắc ngon. Bà hỏi con
như muốn ăn liền thì bà xẻ cho mà ăn.
Vĩnh Xuân nói để dành Tết cúng rồi sẽ ăn, không nên ăn trước
ông bà. Cậu ôm trái dưa đem để trên bàn thờ rồi hân hoan thưa với mẹ:
- Con hết buồn, hết lo rồi, má à.
- Sao vậy ?
- Có người chịu bao tiền cho con học thêm rồi.
- Con có lên trên ông Giáo hay sao ?
- Thưa, không. Con không có lên. Mà bây giờ con khỏi nói với
thầy con. Chị Hai Tỷ thương con, chỉ nghe con tỏ việc nhà của mình bẩn chật, chỉ
động lòng nên chỉ chịu cho con mượn mỗi năm 15 đồng đặng con ăn học. Chừng học
thành công rồi, con làm việc có lương con sẽ trả lại cho chỉ.
- Tử tế dữ há. Phải Hai Tỷ là vợ chú Sấm, bán hàng ngoài chợ
đó hay không ?
- Thưa, phải. Vợ chú Sấm làm tài phú cho tiệm thuốc Quảng
Sanh Đường đó.
- Con quen với Hai Tỷ hồi nào ?
- Con quen thuở nay, ở một chợ với nhau, chớ phải xa lạ gì
sao mà không quen. Chỉ không có em trai, nên chỉ ưa con lắm. Hồi nãy chỉ đưa
trước 15 đồng cho con ăn học năm đầu đây. Chỉ hứa mỗi năm chỉ đưa một số tiền
như vậy cho con đi học đủ bốn năm.
Vĩnh Xuân móc túi lấy gói bạc mở ra cho mẹ coi. Bà Hương văn
lộ sắc vui mừng, biểu con cất để dành mà đi học, bà nói có người giúp con như vậy
thì bà nhẹ lo.
Vĩnh Xuân nói:
- Phận con đi bọc thì đã yên rồi. Bây giờ con chỉ còn lo má ở
nhà mua bán không biết có đủ ăn hay không ?
- Ối ! Con đừng có lo cho má. Con cứ lo học cho giỏi đặng lập
thân. Má ở nhà, má đủ sức chịu đựng với đời. Rán học cho nên danh đi, rồi con sẽ
nuôi má. Chừng đó má ăn ở không mà đi chơi.
- Con học, con sẽ thành danh cho má hưởng sung sướng. Con hứa
chắc với má.
Mẹ con vui cười, nói chuyện tương lai chơi với nhau một hồi rồi
Vĩnh Xuân đi ngủ, bà Hương văn đi hấp bánh đặng khuya đem ra chợ bán.
Hai đêm sau, Vĩnh Xuẩn đợi khuya khuya rồi mới ra ngồi tại
gian hàng của chị Hai Tỷ nói chuyện chơi một lát, vì muốn tránh tiếng, nên
không muốn ngồi bên phía Cúc Hương mà cũng không dám chà lết ở lâu.
Vì chợ Tết người ta đông, bà Hương văn phải làm bánh, phải
xôi nếp nhiều đặng bán khuya, bán chiều hai buổi, bà kiếm lời được sáu, bảy đồng,
bởi vậy có tiền đủ mua đồ mà cúng ba ngày Tết như thiên hạ.
Qua Tết rồi, người ta ít mua đồ. Những bạn hàng ngồi bán hàng
trong nhà lồng không cần dọn ra bán sớm, họ ở nhà nghỉ, tính mùng 8 hoặc mùng
10 rồi sẽ bán mở hàng năm mới.
Vĩnh Xuân đi chơi, không thấy Cúc Hương với Hai Tỷ ngồi bán,
cậu mới đi vòng ra phía sau chợ, rồi đi theo con đường lên dốc cầu sắt. Chị Hai
Tỷ ở đường nầy. Chị thấy Vĩnh Xuân đi ngang chị bước ra kêu cậu và mời ghé nhà
chơi.
Vĩnh Xuân vô. Chị Hai Tỷ mời ngồi, rót một tách rước trà mời
uống, rồi chị kéo ghế ngồi gần mà nói nhỏ: "Việc riêng của em, con Tư đã
có thuật đầu đuôi cho chị nghe rõ hết. Chị thương hết hai em, chị coi cũng như
em ruột của chị vậy. Hai em hứa hẹn ngày sau sẽ phối hiệp với nhau, nếu được vậy
thì chị mừng lắm. Em đừng ái ngại chi hết. Em đừng có ghé chỗ chị với con Tư
bán thường nữa, rủi người ta xầm xì thấu tới tai cha mẹ con Tư rồi nó bị bó buộc
khó lòng. Em muốn nói chuyện gì với nó thì buổi chiều chị không đi bán, em ra
nhà chị mà nói, rồi chị trao lời lại cho nó. Làm như vậy khỏi ai nghi. Con Tư
thương em, nó lo từng chút. Nó sợ em đi học không có áo quần bận cho lành lẽ
như người ta. Tuy nói nhà trường phát đồ, song cũng phải chờ người ta may, rồi
mới phát được, bởi vậy nó có cậy chị mua rồi mướn may cho em một bộ đồ lụa với
một bộ đồ vải đặng bữa khai trường em có sẵn bận mà đi. Vậy trưa hay chiều em
có đi chơi thì em đem ra cho chị một cái áo với nuột cái quần đặng chị đưa cho
thợ may đo ni may cho vừa. Hàng với vải chị mua rồi đây. Để chị lấy cho em
coi."
Chị Hai Tỷ mở tủ lấy nuột xấp lụa trắng với nuột xấp vải trắng
để trước mặt Vĩnh Xuân. Cậu rờ coi sơ sài rồi nói: "Đồ cũ em còn đủ bận.
Cúc Hương mua làm chi nữa thêm tốn tiền".
Chị Hai Tỷ nói: "Ấy ! Nó có tình nên nó lo cho em. Em nhận
lãnh cho nó vui lòng. Chiều em đem ni đặng chị mướn may cho kịp. "
Vĩnh Xuân về rồi chiều đem một cái áo với một cái quần giao
cho chị Hai Tỷ. Thợ may may trong một tuần lễ thì xong, nên chị Hai Tỷ nhắn
Vĩnh Xuân ghé lấy.
Cúc Hương với Hai Tỷ đã dọn hàng ra chợ bán hổm nay.
Vĩnh Xuân sắm đồ đi học đã xong rồi hết.
Bữa 29 tháng giêng khai trường. Vĩnh Xuân xuống Gò Công lấy
giấy tờ xong rồi, định sáng 28 đi đò mà lên Mỹ Tho.
Sớm mơi 27, cậu ra chợ từ giã Cúc Hương với chị Hai Tỷ rồi đi
thẳng lên trình với ông Giáo Huân mà đi. Sáng 28 cậu cậy một người trong xóm
vác giùm rương đem xuống ghe đò đậu sau chợ cá. Cậu đi theo sau, phải đi ngang
qua chợ.
Cúc Hương với Hai Tỷ ngó thấy, cả hai người đều đứng dậy mà
ngó. Vĩnh Xuân với Cúc Hương lấy mắt nhìn nhau người từ biệt, kẻ tiễn hành,
nhưng không nói gì được. Duy có chị Hai Tỷ nói lớn: "Em đi mạnh giỏi nghe
hôn em", Vĩnh xuân dở nón chào, nói: "Cám ơn", rồi ngó người yêu
một lần chót.
Chị Hai Tỷ bước lại nói nhỏ với cúc Hương: "Nó bận đồ mới
may, nhưng bận đồ vảỉ, chớ không bận đồ hàng".
Cúc Hương vừa ngồi xuống, vừa nói: "Tại tánh không ưa se
sua".
Cách một lát nghe tù và thổi dưới bến chợ, thổi luôn ba hiệp.
Chị Hai Tỷ kêu Cúc Hương mà nói: "Ghe đò lui".
Cúc Hương buồn hiu.
PHẦN I - CHƯƠNG 6 -
V
ĩnh Xuân ra đi, tuy cậu ôm ấp một chí lập thân rất mạnh mẽ, lập
thân đặng trả thảo, đặng phỉ tình, đặng thoát khỏi thấp hèn mà bước lên vinh diệu,
song đò mở dây từ từ rời bến, cậu đứng ngoài vịn tay trên mui ghe, trong lòng cảm
xúc vô cùng. Cậu ngó lên chợ, cậu đoán bây giờ có lẽ Cúc Hương đương bùi ngùi
nhớ bạn trăm năm vì nhau mà phải ly hương, rồi cậu trông về xóm Cây Me Lớn, cậu
nhớ bà mẹ già phải rán chịu vất vả, quạnh hiu, để cho con bay nhảy tranh đua, đặng
tạo một đời sống mới mẻ, thảnh thơi, an vui, sang trọng.
Trạo phu chèo bỏ mái chèo sạt sạt, anh đà công một lát rúc tù
và một hơi đặng kêu khách đi đò. Trong thuyền đã có một người khách trú, hai
người đàn ông và hai người đàn bà, thành thử cái mui tum húp mà phải chứa đến
sáu người. Vĩnh Xuân nghĩ mình chun vào đó nữa thì chật chội khó thở. Trời chưa
nắng gắt, cậu đội nón ngồi ngoài cho mát mẻ.
Đò đi xa chợ rồi. Bây giờ hai bên mé rạch nhà cửa thưa thớt,
nhưng vườn tược liên tiếp bịt bùng mà vườn nào cũng trồng dừa cau với chuối chớ
ít thấy cây gì khác.
Mặt trời lên cao giọi nắng nóng mặt, Vĩnh Xuân chui vào mui,
chen ngồi một bên người khách trú.
Hai người đàn bà xuống tại bến chợ là người bán trái cây thường
lên Mỹ mua mít, bưởi, quít, cam, chở về chợ Giồng mà bán. Hai chị biết bà Hương
văn Thanh, thấy Vĩnh Xuân giống bà mới hỏi phải là con của bà hay không. Cậu
nói phải. Hai chị hỏi cậu đi Mỹ có việc chỉ. Cậu nói cậu đi học, sáng bữa sau
là ngày khai trường.
Hai chị ráp nói chuyện với Vĩnh Xuân, nói đò ra Vàm Giồng bị
nước ngược, lại gió ngược, nên đi lâu lắm, có lẽ tối mới lên tới Mỹ Tho. Vĩnh
Xuân nghe như vậy thì than đò lên tối phải chờ tới sáng bữa sau vô trường mới
được. Hai chị hỏi có quen với ai trên Mỹ Tho hay không. Vĩnh Xuân nói mới đi Mỹ
Tho lần nầy là lần đầu nên chưa quen với ai hết.
Một chị nói: "Không có quen thì có chỗ đâu nlà nghỉ đêm
nay. Em mướn phòng ngủ ở khách sạn phải tốn đến một đồng bạc. Như em muốn ít tốn
thì em nói với chủ đò đêm nay ở luôn dưới đò mà nghỉ cũng như hai chị em qua vậy.
Em trả thêm một cắc mà thôi!".
Vĩnh Xuân nghe nói như vậy thì mừng, khỏi lo chỗ ngủ nữa.
Gần nửa chiều, đò lên ngang vàm Kỳ Hôn. Chủ đò đi góp tiền đò
mỗi người 4 cắc. Vĩnh Xuân xin cho nghỉ dưới đò đợi sáng rồi sẽ nhập trường. Chủ
đò biểu trả thêm một cắc. Vĩnh Xuân trả liền.
Tối đỏ đèn rồi đò mới lên tới chợ Mỹ Tho. Hành khách đi hết,
chỉ còn có Vĩnh Xuân với hai chị mua bán trái cây mà thôi.
Vĩnh Xuân lên chợ ăn một tô cháo Quảng Đông no cành, mua hờ một
ổ bánh mì, rồi thả theo mé sông mà chơi. Châu thành Mỹ Tho lớn hơn Gò Công,
buôn bán thạnh hơn, mà dân cư cũng đông hơn. Quang cảnh thì vui, nhưng vì ban
đêm, lại xứ lạ, Vĩnh Xuân không dám đi xa, đi tới nhà ga xe lửa rồi trở lại đò
mà nghỉ.
Hai chị mua bán trái cây nằm trong mui, mà nằm phía sau, chừa
phía trước cho Vĩnh Xuân nằm. Hai chị nói chuyện nhà với nhau, một chị thuật việc
chồng mê sa vợ bé, nói mà giận, dường như muốn gây lộn. Chị kia cười ngất, rồi
kiếm lời lẽ ôn hoà khuyên bạn: "Thứ đàn ông, ai cũng vậy, hơi nào nhà
ghen. Họ có vợ bé, họ theo nó, thì mình khỏi tốn cơm khỏi hầu hạ họ". Chị
nọ nói: "Chị chưa có chồng, nên chị nói nghe xuôi quá. Để tôi chống con mắt
mà coi chừng chị có chồng, chị sẽ vui bòng chia chồng với người khác hay không.
Tôi nói thiệt với chị, tôi nhứt định bữa nào đây tôi phải xởn đầu tóc của con
đó tôi mới nghe".
Vĩnh Xuân nằm nghe hai chị nói chuyện ghen thì tức cười,
không dè con người đã có vợ rồi, mà còn có thể đem tình yêu vợ san sớt cho người
khác được.
Cậu nhớ lại Cúc Hương yêu cậu đắm đuối, yêu mà không ích kỷ,
yêu mà lại quyết giúp cho cậu vượt lên cao hơn người, nên lo cho cậu từ chút,
đã giúp bạc tiền cho cậu đi học, lại còn may quần áo cho cậu khỏi rách rưới. Có
một người vợ như vậy ở trong nhà nỡ lòng nào mà yêu người khác nữa cho được. Có
lẽ chị bán trái cây nầy ăn ở với chồng không có tình, không có nghĩa nên chồng
buồn mới đi tìm tình yêu khác để vùi lấp những nỗi bực trí, khổ tâm.
Hai chị đàn bà ngủ quên không còn nói chuyện nữa. Bây giờ lại
nghe xuồng bơi mà rao bán đồ ăn, vừa mới nghe rao bánh bò, bánh cam, rồi lại
nghe rao thịt bò bánh hỏi!.
Vĩnh Xuân lạ cảnh, nhớ nhà, nằm trăn trở hoài, ngủ không được.
Cậu thớ mẹ, nhớ Cúc Hương, nhớ Hai Tỷ, nhớ Giáo Huân, rồi cậu nhớ sáng mai cậu
sẽ nhập trường để mở rộng học thức và rèn tập văn chương mà bay nhảy với người
đời, cho mẹ già hết cực thân, cho tình nhơn được thỏa nguyện.
Sáng ngày sau, Vĩnh Xuân lên bờ mua một cặp lạp xưởng xuống
ăn với ổ bánh mì mua hồi hôm rồi kêu xe kéo và từ giã chủ đò với hai chị bán
trái cây, chở rương đi vô trường.
Nhà trường mở cửa: Đã có cả chục trò ở các hạt chực sẵn ngoài
cửa đợi người ta cho vô. Vĩnh Xuân để rương trên lề đường, đứng chung lộn với
đám học trò ấy, làm quen nói chuyện với nhau, hỏi thăm nhau cho biết trò nào ở
hạt nào.
Đúng 8 giờ rưỡi, người giữ cửa trường mới mở cửa giữa kêu học
trò vô và dắt hết đi thẳng vô phía trong xa. Có một thầy ngồi tại cái bàn để
ngoài hành lang.
Mỗi trò đều phải ghé đó nói cho thầy biên tên họ và quê quán
rồi thầy chỉ thang biểu đem rương lên lầu lựa giường mà nằm, năm thứ nhứt qua lầu
phía tay nặt, năm thứ nhì qua lầu phía tay trái.
Vĩnh Xuân tuy là học trò mới, song cậu không bợ ngợ chút nào.
Lên lầu cậu thấy giường sắp bốn hàng ngay ngắn, mỗi hàng kê hơn 30 cái, giường
cây sơn đen, nhưng không có chiếu gối. Cậu nhắm hàng giường dựa bên cửa sổ,
phía mặt trời mọc, có thanh khí sớm mơi, lại khỏi bị nắng chiều, cậu bèn đem
rương để mà choán một cái ở khúc giữa.
Cậu đương bối rối không biết làm sao có một chiếc chiếu để trải
giường mà nằm. Thời may trò Nguyễn Ngọc Chơn, ở Gò Công, thi đậu một khóa với cậu,
trò đem rương lên tới.
Xuân mừng rỡ, kêu Chơn biểu lại choán cái giường kế đó đặng
anh em nằm gần thau. Chơn nói Chơn đi tàu lên Chợ Lớn rồi đi xe lửa mới xuống tới.
Anh em đương bàn tính về sự thiếu chiếu, thì nghe mấy trò chiếm hàng giường
phía trong rủ nhau đi chơ mua chiếu, mua thau rửa mặt và mua ca để uống nước.
Chơn biểu Xuân ở đây coi chừng rương để Chơn đi mua đồ luôn
cho hai người và mua bánh mì thịt xá xiếu đặng trưa ăn cho tiện, vì ngày mai
nhà trường mới bắt đầu nấu cơm cho học trò ăn.
Xuân gởi 3 đồng bạc cho Chơn đi mua đồ, nói mền, gối, lược,
bàn chải răng đã có sẵn trong rương rồi, nên khỏi mua mấy món đó.
Chơn đi rồi, Xuân đi một vòng giáp hết cái lầu đặng xem chơi.
Học trò các hạt, tốp đôi ba trò, lần lượt tới hoài không ngớt. Vĩnh Xuân ngồi
trên cái rương mà ngó, các trò đều lạ hoắc, phải chung sống với nhau một thời
gian rồi mới quen. Cậu thầm nghĩ mà mừng Gò Công có được bạn Chơm thi đậu với cậu.
May có được một bạn đồng hương để chia sớt buồn vui trong buổi đầu thì cũng đỡ
khổ.
Đến trưa Chơn đi chợ về, chia đồ mua cho Xuân và tính giá như
vầy:
Chiếc chiếu nhỏ để trải giường ...............4 cắc
Cái thau rửa mặt ....................................5 "
Cái ca múc nước ...................................2 "
Thịt xá xíu..............................................2
"
Hai ổ bánh mì.........................................l
"
Chơn nói: "Phần bạn hết thảy là một đồng tư. Tôi mua thịt
với bánh mì nhiều đặng để dành ăn luôn buổi chiều, khỏi đi mua nữa. Tôi mua phần
tôi cũng y như vậy. Nhưng tôi thấy tiệm bánh có bánh bàn nhỏ coi bộ ngon lắm,
nên tôi có mua riêng một cây để tối ăn chơi.
Chơn trả tiền dư lại cho Xuân một đồng sáu cắc.
Xuân lấy chiếc chiếu trải lên giường, mở rương lấy mền gối bỏ
ra, rồi nhắm thử. Đủ đồ cần dùng rồi, cậu hết lo gì nữa, cậu đắc chí thầm nghĩ
bà mẹ cậu thiệt là sáng suốt, đi học xa phải có tiền riêng, nếu không có thì
làm sao có chiếu mà nằm, có thau mà rửa mặt.
Bốn giờ chiều nghe học trò nói có dán giấy biên tên chia ra
hai lớp. Xuân với Chơn khóa rương rồi dắt nhau xuống từng dưới mà coi. Thiệt quả
học trò năm thứ nhứt chia ra hai lớp A và B. Xuân học lớp A, còn Chơn nọc lớp
B.
Chiều bữa đó học trò cũ và mới trong hai niên khóa đều tới đủ.
Mỗi lầu có một thầy gác để giữ trật tự. Sáng bữa sau, học trò coi theo giấy mà
vô lớp, rồi người ta phát sách, vở, mực, viết. Các việc xong rồi thì mấy giáo
sư người Pháp bắt đầu dạy liền.
Cái ngày Vĩnh Xuân trông trót hai tháng nay đã tới.
Cậu được học chắc chắn rồi. Bây giờ chỉ lo học, học cho
siêng, học cho giỏi, đặng mẹ già được vui lòng, đặng tình nhơn khỏi thất vọng.
Cách vài tháng sau, nhà trường phát áo quần, giày nón, đủ hết.
Sáu chục cậu học năm thứ nhứt mới được lãnh y phục, có dấu hiệu của nhà trường
bổn quốc, hễ lên lầu nghỉ trưa thì lấy ra săm soi. Ban đêm có cậu đợi thầy gác
ngủ rồi, thì lén dậy bận thử đồ mới coi vừa hay không, rồi nhắm nhíu coi hình
dáng đẹp thể nào.
Vĩnh Xuân quen tánh ôn hòa thận trọng, nhưng cũng không khỏi
trông cho mau tới chúa nhựt đặng bận sắc phục mới mà đi chơi.
Học có bốn tháng rưỡi thì tới bãi trường nửa năm, học trò được
về nghỉ 20 ngày. Tuy thời gian học tập ngắn ngủi, song Vĩnh Xuân đã sẵn chí tấn
thủ, lại cũng đã được mấy giáo sư cũng như các bạn học trong lớp nhận thấy Vĩnh
Xuân có đường giựt giải nhứt hay nhì cuối năm.
Xuân đã kết bạn thân với một trò nhà ở bên Chợ Cũ, nên bãi
trường Xuân đem rương với mền chiếu qua nhà bạn mà gởi, nghĩ về nhà không tới
ba tuần nên chẳng cần chở rương về làm chi. Xuân trải chăn gói hai bộ đồ của
Cúc Hương may cho với các áo quần của nhà nước mới phát, đặng về cậy mẹ kết nút
mấy bộ đồ tây cho chắc chắn và cắt sửa mấy bộ đồ mát lại đặng bận cho vừa. Cậu
nghỉ nhờ nhà bạn một đêm rồi sáng kiếm đò chợ Giồng, cậu mới kêu xe kéo chở gói
áo quần với gói sách vở cần ích qua đò mà về. Chủ đò đã có đưa cậu lên hôm
tháng giêng rồi, đã quen với cậu, bây giờ thấy cậu đi về, mặc đồ tây đàng
hoàng, áo nỉ nút bằng thau, bâu áo và trên nón có thêu lá cây bằng kim tuyến,
không dám xem cậu là người khách thường, nên bải buôi, niềm nở hết sức.
Nghe đò còn cả giờ nữa mới lui, Xuân để đồ trong mui đặng lên
chợ ăn uống cho no rồi sẽ trở lại. Cậu nghĩ đã nửa nằm rồi, mà mua đồ và ăn
hàng chưa tới 4 đồng bạc, thế thì không cần phải tiện tặn thái quá. Cậu vô tiệm
cháo ăn tới hai tô mì, mua hai ổ bánh mì với hai cặp lạp xưởng chung một gói,
buộc đây chắn chắn rồi xách đi. Cậu ghé tiệm trà mua một gói trà Đại Hồng một cắc,
với phong bánh in một cắc nữa. Cậu đi ngang tiệm Chà thấy có chăn bán đủ thử. Cậu
trả giá lựa mua một cái chăn mới sáu cắc đặng gói đồ cho rộng rãi.
Trở xuống đò, Xuân thấy có một bà già mà thôi, hành khách
chưa lại đông. Cậu móc gói bánh mì lạp xưởng trên mui ghe rồi cởi giày thay áo
quần mặc đồ mát đặng nằm ngồi cho tiện.
Chuyến nầy cậu mới chịu mặc bộ đồ hàng trắng còn mới tinh. Cậu
soạn đồ lại, sắp hết đồ của nhà trường phát vào cái chăn mới mà gói riêng. Còn
một bộ đồ mát bằng vải trắng với khăn bàn, mu soa, kiếng, lược, bàn chải, thì cậu
gói vào cái chăn cũ với trà tàu, bánh in và sách vở. Cậu để riêng một cuốn sách
ở ngoài đặng nằm đọc chơi, còn mấy gói với giày cậu đẩy vào một góc cho trống
chỗ.
Hành khách xuống thêm hai người nữa, một người đàn ông, một
người đàn bà. Chủ đò nói bữa nay đò rộng, biểu đà công thổi tù và một cấp chót
rồi có lui cho thuận nước. Thiệt quả có một người gánh lại gởi hai giỏ thơm cho
một bạn hàng ở Chợ Giồng, trả tiền chở, chớ không đi theo, nhà cũng không có ai
đi đò thêm nữa.
Đò lui. Hành khách chỉ có bốn người nên rộng rãi, ai cũng nằm
được.
Gặp nước xuôi lại có gió xuôi, bởi vậy ra khỏi vàm rồi trạo
phu trương buồm mà chạy, khỏi chèo. Mặt trời vừa trịt bóng đò đã tới Vàm Giồng,
gặp nước lớn đi vô vàm đi xuôi nữa. Chủ đò đón trước bữa nay về tới Chợ Giồng sớm
lắm, chừng nửa buổi chiều.
Vĩnh Xuân nghe nói như vậy bèn ngồi dậy. Bây giờ đò vô rạch
Vàm Giồng, hai bên cây cối rậm rạp, án gió không bộc buồm được nữa. Trạo phu hạ
buồm rồi gay chèo mà chèo, nhờ nước xuôi nên ghe đi lẹ lắm.
Ly hương đã gần năm tháng, hôm nay được trở về nhà, lúc gần tới,
tự nhiên Vĩnh Xuân khoan khoái, trông đến cho mau đặng mừng mẹ, thấy người yêu,
cho phỉ tình hoài vọng.
Vô khỏi Chợ Mới, chủ đò xin tiền đò. Vĩnh Xuân biết đò đã gần
tới rồi, mới thay đồ, bận sắc phục học sinh trường bổn quốc mang giày, đội nón,
ra đứng dựa mui mà ngó hai bên. Cậu nhớ gói bánh mì lạp xưởng mua hồi sớm mơi,
nhưng sự vui mừng tràn ngập cành hông, bởi vậy cậu không muốn ăn thứ gì hết. Cậu
đứng ngó vườn tược, ngó nhà cửa dài theo mé sông, ngó người ta đi trên bờ lộ,
ngó thứ gì cũng vui, cũng đẹp.
Đò gần tới bến chợ. Anh đà công cầm tù và túc vài hơi. Trên bờ
trẻ nhỏ chạy theo la: "Đò về". Trong phố người ta bước ra đứng ngó.
Hành khách sửa soạn hành lý. Vĩnh Xuân vói lấy cái gói bánh mì nhét vào gói
chăn cũ, rồi chừng đò cắm sào, cậu xách hai tay hai gói, từ giã chủ đò mà lên bờ.
Cậu do con đường bên hông chợ đi lên phía nhà việc đặng về xóm Cây Me Lớn.
Trời chiều mát mẻ, Vĩnh Xuân hân hoan. Hai bên phố ai thấy
Xuân đi ngang cũng liếc mắt ngó, miệng Xuân chúm chím cười.
Bây giờ cậu mới săn bước, đi riết về nhà đặng thăm mẹ.
Bà Hương văn Thanh bưng thúng nếp đi ra sau hè tính vút cho
ráo đặng khuya xôi mà bán. Nghe tiếng giày lộp cộp ngoài lộ, bà xây mặt ngó ra.
Bà thấy con, bà vụt la lớn: "Xuân!". Vĩnh Xuân cũng la lớn:
"Má".
Vĩnh Xuân xách gói đi riết vô sân. Bà Hương văn bưng luôn
thúng nếp ra đón, mẹ con nhìn nhau, mừng vui không kể xiết.
Bà tía lia hỏi:
- Bãi trường hay sao mà con về ?
- Thưa, bãi trường nửa năm.
- Nghỉ được bao lâu ?
- Hai mươi ngày.
- Thôi, vô... Vô nhà rồi sẽ nói chuyện.
Vĩnh Xuân xách hai gói vô để trên ván và đi và hỏi:
-Mấy tháng nay má ở nhà mạnh giỏi luôn hả má ?
-Ừ, má mạnh luôn luôn. Con học bình yên hay không con?
-Bình yên lắm.
-Đồ nhà nước phát cho con bận đó phải hôn ?
-Thưa, phải.
-Tốt quá.
-Ngặt đồ tây họ kết nút sơ sịa nên sút hoài. Còn hai bộ đồ
mát họ may rộng rinh, bận coi kỳ quá. Con đem hết về đặng mượn má kết giùm nút
lại cho chắc. Còn đồ rộng thì xin má cắt sửa lại.cho vừa bận mới được.
Vĩnh Xuân lột nón máng vào cây đinh đóng sẵn trên cột nhà rồi
cậu mở gói áo quần nhà trường phát, lấy hai bộ đồ mát đưa cho mẹ coi.
Bà Hương văn ngồi xề dựa hai bên cái gói. Bà đẩy thúng nếp vô
xa, rồi xổ một bộ đồ mát ra coi. Bà nói: "Vải không được dày lắm, nhưng bận
mà học cũng được. Cha chả, mà quần lại may kiểu xẻ đáy, dễ sút đường chỉ quá.
Còn áo rộng quá, mà lại may tay xùng xình, bận coi như thầy bán quế. Tuy vậy mà
không sao đâu. Để má sửa cho con bận. Mình nghèo cần có như vầy mà bận chớ chê
nỗi gì".
Vĩnh Xuân mở gói thứ nhì lấy đồ ra mà nói: "Con có mua một
gói trà với một phong bánh in đây. Để nấu nước chế trà cúng cha rồi má ăn bánh
in mà uống trà. Ừ, còn gói bánh mì đây nữa. Hồi sớm mơi ăn uống rồi con mua tới
hai ổ bánh mì với hai cặp lạp xưởng, tính đem xuống đò trưa đói bụng có sẵn mà
ăn. Té ra được về thăm má, con mừng quá quên đói, nên còn y nguyên. Má cất rồi
lát nữa ăn.
Bà Hương văn nói:
-Con xài lớn quá, mua tới trà bánh đem về làm chi. Phải để
dành tiền đặng ăn mà học chớ.
-Con có xài gì đâu mà má nói con xài lớn. Mấy tháng nay con
xài có năm đồng mấy cắc. Mà xài tới số đó là tại con phải mua chiếu, mua chăn,
mua thau, mua ca, với đi đò nữa. Về ăn uống con chắc không tới hai đồng.
-Vậy thì tiền con còn đủ đi học tới mãn nạm.
-Con còn gần mười đồng. Mà bây giờ khỏi mua gì nữa hết.
-Má cám ơn con Hai Tỷ quá. Nó bao cho con ăn học, mà hôm
tháng ba nó còn mua đem vô cho má một vóc xuyến đen. Má không chịu lãnh. Má nói
nó giúp cho con ăn học, ơn đã lớn lắm rồi, má không dám chịu ơn hơn nữa. Nó cứ
ép má phải lấy vóc xuyến may áo mà bận đặng đi xóm có áo mặc cho lành lẽ với
người ta. Nó nói thương con cũng như em ruột nó vậy. Nó giúp má đặng con yên
lòng mà học. Chừng con học nên danh rồi con sẽ đền ơn lại cho nó. Nó biểu má đừng
ngại chi hết. Mua bán có thiếu hụt chút đỉnh thì cho nó hay, nó sẽ giúp đỡ cho.
Con Hai Tỷ thiệt là tử tế. Con về đây con phải đi thăm nó nghe hôn con.
Vĩnh Xuân hiểu Cúc Hương giúp mình, mà còn mượn tay Hai Tỷ
giúp mẹ mình nữa, bởi vậy cậu cảm động hết sức, nhưng phải dằn lòng nói dối với
mẹ: "Chị Hai Tỷ thấy con nghèo nhà ham học nên chỉ thương con, chớ không
có ý chi hết. Vậy con đi học, ở nhà má có việc chi rắc rối, má cho chỉ biết, chắc
chỉ sẵn lòng gỡ rối cho má. Con còn ở nhà lâu, để mai mốt con sẽ đi thăm chỉ".
Bà Hương văn vói bưng thúng nếp mà nói: "Thôi, để má vút
ba hột nếp rồi lo nấu cơm cho con ăn. Có lạp xưởng con đem về đây thêm được một
món nữa".
Bà bưng thúng nếp ra phía sau.
Vĩnh Xuân đem trà với bánh in để trên bàn thờ, lấy bộ đồ vải
trắng vô buồng thay mà bận cho mát. Cậu soạn sách vở để một bên đó rồi xếp hết
áo quần gói cất. Thấy mẹ cặm cụi nấu cơm, cậu đi vô nhà bếp ngồi nói chuyện
chơi với mẹ.
Cậu thuật chuyện học tập cho mẹ nghe, cậu nói cậu đủ sức theo
chúng bạn và xin mẹ đừng lo cậu thua người ta; nếu Trời Phật phò hộ cho mẹ mạnh
khoẻ đặng cậu học đủ bốn năm, thì chắc chắn cậu sẽ nuôi mẹ, không để cho mẹ cực
khổ nữa.
Nồi cơm gần chín, bà Hương văn nhớ trong nhà chỉ còn có ít cá
sặt nhỏ kho mặn đủ cho bà ăn buổi cơm chiều, nên bà tính ra quán mua vài trứng
vịt về chiên cho con ăn. Vĩnh Xuân can không cho mẹ đi mua đồ thêm. Cậu lấy gói
bánh mì lạp xưởng đưa cho mẹ đặng xắt lạp xưởng ăn cơm cũng được.
Bữa cơm chiều sơ sài như vậy, nhưng mẹ con gặp nhau vui mừng
nên ăn ngon như mâm cỗ đầy. Bà Hương văn lâu ăn bánh mì, nên bà ăn gần hết một ổ,
bà khen ngon, còn bao nhiêu bà để dành đặng khuya bà ăn nữa.
Ăn cơm rồi thì trời cũng vừa tối. Bà Hương văn dọn dẹp, còn
Vĩnh Xuân đốt đèn, lấy bình bỏ trà, chế nước sôi, rồi đem lên bàn thờ mở phong
bánh in và rót trà cúng cha.
Đêm ấy mẹ con tiếp nói chuyện với nhau nữa, nói chuyện hiện tại
thì mẹ con hăng hái vui cười, rồi bàn đến chuyện tương lai thì con cương quyết
nỗ lực vượt lên cao, trước trả thảo cho mẹ cha, sau khỏi hổ với đất nước.
Vĩnh Xuân cúng cha rồi, cậu bưng bình trà với bánh in để trên
ván mời mẹ ăn uống. Bà Hương văn muốn làm vui lòng con, nên bà ăn vài miếng
bánh in rồi uống một tách trà. Bà nói khuya rồi, bà biểu con đi nghỉ, để bà lo
chõ xôi và đổ bánh bèo đặng sáng có mà bán.
Vĩnh Xuân đi đò bị nắng gió, rồi về nhà mừng ngủ không được,
nên sáng bữa sau cậu dậy trễ, mẹ đã bưng xôi bánh mà đi ra chợ bán rồi. Cậu rửa
mặt, chải đầu, thay đồ mà mặc sắc phục của nhà trường, rồi ăn hết một chén xôi,
khép cửa gởi nhà cho ông Hai ở bên kia đường đặng đi thăm ông Giáo Huân.
Ông Giáo Huân thấy Xuân vô cửa, ông mừng quá, kêu bà vợ ra
coi học trò trường trên mặc y phục hẳn hòi, chớ không phải lem luốc như học trò
trường làng. Vợ chồng ông cầu chúc cho Xuân thành công rực rỡ, mặc dầu ông biết
chắc Xuân thông minh lại ham học, nên dầu học chỗ nào, học chữ gì Xuân cũng giỏi
hơn các bạn.
Thăm thầy rồi, Vĩnh Xuân đi luôn ra chợ đặng thăm chị Hai Tỷ
với Cúc Hương. Chợ đương nhóm đông, ai thấy cậu ăn mặc khác thường cũng đứng
ngó rồi trầm trồ với nhau. Cậu còn đi trên đầu chợ mà Cúc Hương đã ngó thấy rồi
nên kêu chị Hai Tỷ chỉ mà nói: "Đó, chiều hôm qua em đứng chỗ khúc quanh,
em thấy ở dưới đò đi lên, bận đồ như vậy đó, nên hồi sớm mơi em mới nói với chị
chớ. Em thấy rõ em mới nói, chớ đâu phải chiêm bao. Chị coi phải hôn ?"
Hai Tỷ cười..
Vĩnh Xuân lại tới, dở nón chào Hai Tỷ với Cúc Hương. Cậu ngó
Cúc Hương với cặp mắt chan chứa ân tình, nhưng không dám nói chi hết. Còn Cúc
Hương liếc ngó mặt cậu, ngó sắc phục của cậu thì cô hãnh diện mà tự hào, dường
như ý cô muốn hỏi thiên hạ cả chợ, người yêu của tôi như vậy đó, bà con coi có
ai hơn hay không ?
Chị Hai Tỷ hỏi:
-Em về đò hồi chiều hôm qua phải không ?:
-Phải. Sao chi biết ?
-Có người trông em, họ rình họ ngó thấy rồi hồi sáng họ cho
chị hay.
-Có vậy hay sao ? Em không dè, ở nhà mạnh giỏi hết thảy phải
không chị Hai ?
-Mạnh hết, lại nhắc nhở em hoài. Bãi trường hay sao mà em về
được ?
-Bãi trường nghỉ 20 ngày.
-Nghỉ lâu như vậy cũng dễ chịu. Thôi em đi chơi. Buổi chiều
có rảnh ra nhà chị đặng chi hỏi thăm việc trên Mỹ một chút.
Vĩnh Xuân thấy Cúc Hương không bải buổi cười nói như khi trước,
rồi lại nghe chị Hai Tỷ biểu mình đi chơi, thì hiểu ý hai người thấy mình về
tuy mừng, song không muốn mình chà lết trước gian hàng, nên chị Hai Tỷ mới biểu
mình chiều ra nhà chị rồi sẽ nói chuyện. Vĩnh Xuân từ giã đi liền. Cúc Hương ngồi
ngó theo với cặp mắt tự hào, tự đắc.
Thấy còn sớm,. Vĩnh Xuân đi thẳng vô phía chùa Phật viếng mộ
cha, rồi chừng trở về nhà thì mẹ đương lục đục nấu cơm trong bếp. Bà Hương văn
hỏi con đi đâu từ sớm mơi tới giờ. Xuân nói thiệt đi thăm thầy, thăm chị Hai Tỷ
rồi đi viếng mộ cha. cậu lại nói chị Hai Tỷ mắc buôn bán nên chưa tỏ lời cám ơn
chị được, để chiều sẽ ra nhà chị mà nói chuyện dông dài.
Bà Hương văn lấy đưa cho con một đôi guốc mới mà nói:
"Má có mua cho con một đôi guốc đây. Con mang cho sạch chưn".
Đến xế mát, Vĩnh Xuân thấy mẹ đương gói bánh ú, bánh chưng, cậu
mới hỏi:
-Sao bữa nay má lại gói bánh nầy, mà không bán xôi nữa ?
-Má chắc con thèm bánh ú, bánh chưng, nên má làm má bán đặng
cho con ăn luôn thể.
-Má lo cho con làm chi. Hồi sớm mơi má để chén xôi con ăn
cũng được.
-Ở trên trường sớm mơi họ có cho ăn lót lòng hay không con ?
-Có. Cho ăn cháo trắng.
-Ăn cháo mà chịu đến trưa sao nổi ?
-Ăn ít bữa quen bụng rồi chịu cũng được.
-Trong trường có bán bánh trái gì hay không ?
-Thưa, có. Mà họ bán mắc lắm má ơi. Một miếng chuối khô trải
trên một miếng bánh phồng sống rồi cuốn tròn lại, mà họ bán tới 5 đồng xu, thì
ăn làm sao nổi. Mà ăn như vậy có no, có bổ chỗ nào đâu, bởi vậy đói con rán chờ
cơm, con không thèm ăn gì hết. Thôi, má ở nhà gói bánh, để con ra thăm chị Hai
Tỷ một lát.
Vĩnh Xuân mặc bộ đồ hàng trắng, đầu đội nón, chưn mang guốc
ra đi. Cậu nghi Cúc Hương có thể lại nhà chị Hai Tỷ chơi đặng gặp cậu. Té ra bước
vô nhà cậu thấy một mình chị Hai Tỷ nằm trên ván, có chị đàn bà ở gánh hàng
đương cầm chổi quét nhà.
Hai Tỷ mừng rỡ, ngồi dậy mời Xuân ngồi cái ghế gần bộ ván rồi
xít lại một bên mà nói nhỏ: "Hồi sớm mơi cơn Tư thấy em nó mừng quá. Nó
nghe chị mời em chiều nay ra nhà chị chơi, chừng em đi rồi, nó tính nó cũng vô
đây đặng gặp em mà nói chuyện".
-Hèn chi hồi sớm mơi cô không nói chi hết. Em tưởng cô phiền
em chớ.
-Có chuyện gì mà phiền. Nó tưởng nhớ em dữ lắm chớ. Cách mấy
bữa trước nó nghe học trò trường tổng nói gần bãi trường. Nó mừng, nó khoe với
chị rằng em sắp về. Hồi sớm mơi ra chợ vừa gặp chị thì nó cho chị hay em về đò
hồi chiều hôm qua rồi. Chị hỏi tại sao nó biết. Nó nói nghe bãi trường nên mấy
bữa rày hễ đò về túc tù và thì nó đi lại khúc quanh đứng coi chừng. Chiều hôm
qua nó thấy em ở dưới đò xách gói đi lên, nó mừng dữ quá.
-Tội nghiệp ! Hữu tình quá ! Vậy mà em vô ý, em không thấy chớ.
Để cô vô đây em sẽ xin lỗi với cô.
-Không. Nó không vô đâu.
-Sao hồi nãy chị nói cô tính vô đây định gặp em.
-Nó tính như vậy mà chị cản, chị biểu đừng vô. Em mới về, ai
cũng dòm ngó em. Hồi sáng em tuốt ra chợ mà thăm, chị sợ người ta nghi rồi. Nếu
chiều nay cho hai em gặp nhau tại nhà chị nữa, thì chẳng khỏi người ta xầm xì rồi
hai em mang tiếng, mà chị cũng không khỏi bị người ta trách làm mai, làm mối.
Em ở nhà lâu; để thủng thẳng ít bữa rồi sẽ gặp nhau, có muộn gì. Nó mượn chị hỏi
em coi tiền bạc còn đủ xài hay không ?
-Còn nhiều. Tuy em có sắm đồ chút đỉnh đặng vô trường, song
em cũng còn gần 10 đồng.
-Thế thì em không ăn bánh ăn hàng gì hết hay sao, mà tiền còn
nhiều vậy ?
-Em quyết đi học đặng lập thân, chớ phải đi chơi hay sao. Em
có tiền, nếu thiếu thứ gì cần ích lắm em mới mua, em không dám xài bậy. Chị làm
ơn nói giùm với cô Cúc Hương, em còn tiền nhiều. Còn về sự học tập thì em cố gắng
nên không thua sút ai hết.
-Con Tư nó biết tánh em, nên nó chắc em học giỏi, nó không lo
việc đó.
-Em về nghe má em nói chị có cho má em một cái áo xuyến dài.
Em xin cám ơn chị chiếu cố đến má em. Chừng em làm nên em không dám quên ơn chị.
-Vóc xuyến đó của con Tư nó mua, nó mượn chị đem cho thím
Hương văn và phải nói của chị đặng tránh tiếng cho nó.
-Vậy hay sao ? Lo cho tôi ăn học, rồi lo cho mẹ tôi khỏi rách
rưới nữa !
-Nó còn biểu chị dặn thím Hương văn nếu mua bán có thiếu hụt
thì cứ cho chị hay. Chị cứ giúp thím, rồi nó trả lại cho chị.
Vĩnh Xuân xúc động nên ứa nước mắt.
Hai Tỷ nói:.
-Con Tư nó thương em thiệt tình, nó sợ thím Hương văn nghèo
khổ quá, em buồn rồi em học không được, nên nó lo từ chút.
-Người đối đãi với em đủ tình, đủ nghĩa như vậy, em biết làm
sao đền đáp cho vừa. Em cậy chị Hai nói giùm với cô Cúc Hương, em nguyện làm
tròn các điều em hứa hẹn với cô dầu phải nát thân em cũng không dám lỗi hẹn.
-Chị thấy hai em yêu nhau mà yêu một cách khác hơn thiên hạ,
yêu cao thượng, yêu theo người có học, thiệt chị khen quá. Trai với gái yêu
nhau như vậy thì nên, chớ hư hay sao mà sợ. Chị dặn em đừng có ra chợ thường nữa.
Để bữa nào con Tư nó vô nhà chị mà chơi thì chị sẽ cho em hay rồi em ra đây nói
chuyện với nói một lát.
Vĩnh Xuân nói chuyện với Hai Tỷ đến mặt trời gần lặn mới về.
Mấy bữa sau cậu không đi chơi nữa, cứ nằm nhà học bài vở cũ lại
cho nhuần rồi dở sách coi trước những bài chưa học đặng chừng khai trường học
bài mới cậu khỏi bợ ngợ.
Thiệt có bữa cậu tưởng nhớ Cúc Hương, nhưng cậu sực nhớ lại
chị Hai Tỷ khen cách yêu cao thượng hôm nọ thì cậu dằn lòng, không muốn léo
hánh ngoài chợ, mà cũng không nỡ cậy Hai Tỷ nhắn với Cúc Hương cho cậu gặp một
chút, trước khi cậu đi học.
Còn có năm ngày nữa thì Vĩnh Xuân phải xuống đò đến Mỹ Tho đặng
nhập trường. Lối nửa chiều cậu đương ngồi học, bỗng có chị gánh hàng cho Hai Tỷ
vô nói Hai Tỷ mời cậu có rảnh ra nhà chị chơi một lát.
Vĩnh Xuân biết có Cúc Hương vô, nên biểu chị đàn bà ấy về trước
rồi cậu bận áo và thưa với mẹ mà đi liền.
Thiệt quả ra tới nhà Hai Tỷ cậu thấy cửa mở có một cánh, còn
khép một cánh. Cậu bước vô, thấy Cúc Hương ngồi phía trong vách, sau cánh cửa
khép, nên người đi ngoài đường không thấy cô được.
Còn chị Hai Tỷ thì ngồi tại đầu ván ngó ra. Hai người đương
ăn thơm mà nói chuyện.
Vĩnh xuân với Cúc Hương mừng nhau. Hai Tỷ chỉ cái ghế gần chị,
mời Vĩnh Xuân ngồi ăn thơm chơi.
Cúc Hương hỏi Vĩnh Xuân:
-Chừng nào anh đi học ?
-Còn năm bữa nữa.
-Vì sợ thiên hạ đàm tiếu, nên hổm nay chị Hai không muốn anh
ra chợ đặng gặp em. Em nghĩ nếu anh đi mà không gặp em đặng từ giã nhau, chắc
anh buồn, bởi vậy em vô đây rồi mời anh ra đặng em hỏi thăm một chút. Theo lời
chị Hai nói thì anh tiện tặn quá. Học đã nửa năm rồi, mà anh xài mới có năm đồng.
Phải ăn xài như người ta. Như có thiếu em đưa thêm, cần gì phải hà tiện dữ vậy.
-Qua đi học chớ phải đi xài tiền đâu em, nhứt là tiền em buôn
bán mệt nhọc. Qua đã có nói với em, mỗi năm qua có 10 đồng thì đủ cho qua lập
thân được.
-Anh đừng ngại chi hết. Nếu anh muốn mua thứ gì thêm thì anh
lấy thêm tiền mà mua.
-Qua có đủ đồ cần dùng rồi, có mua gì nữa đâu. Mà qua còn hơn
9 đồng, học nửa năm sau dư dật. Qua nghe nói em lo cho tới má qua ở nhà thiệt
qua cảm đức, cảm tình em hết sức.
-Anh mắc đi học. Em ở nhà phải chăm nom bà già giùm cho anh
chớ sao.
-Cám ơn em. Qua nói thiệt với em, vì qua mang tình nghĩa của
em nặng quá, nên qua lo học ngày, học đêm cho thành công đặng đền bồi lại cho
em. Sự nên hư đều do nơi mạng Trời, qua không dám đoán trước. Nhưng riêng về bổn
phận của qua, thì trước mặt chị Hai đây qua dám hứa chắc với em trong sự học tập,
bất luận môn nào, qua không nhường chúng bạn của qua. Em cứ tin lời qua, đừng sợ
qua thua sút họ.
-Về việc học thì em biết trước có thế nào họ qua mặt anh nổi
mà em lo. Em chỉ cầu chúc cho anh mạnh khỏe mà học luôn luôn cho mãn bốn năm rồi
tự nhiên anh hiển đạt.
Chị Hai Tỷ nghe hai trẻ nói chuyện, lời nào cũng thân yêu
nhưng chánh đáng chớ không nhảm nhí, thì chị rất vui lòng. Bây giờ chị mới chen
vô mà nói: "Việc tình duyên của hai em là việc lâu dài. Chị khuyên hai em
rán giữ một mực bình tĩnh mà đối đãi với nhau. Người ta hát: "Khi thương
thương vội, khi lìa lìa xa". Vậy hai em phải tránh cái "vội" cho
khỏi bị cái "lìa". Hai em không gần gũi nhau thường. Bữa nay gặp nhau
đây từ biệt nhau luôn, chẳng cần gặp nhau nữa làm chi. Mỗi kỳ bãi trường hội hiệp
với nhau một lần đặng nói chuyện, nghĩ cũng đủ. Làm lộng quá, rủi bể chuyện sợ
e khó lòng".
Cúc Hương nói: "Chị Hai nói phải lắm. Nếu đổ bể, má tía
em hay thì khó cho em. Em nói khó chẳng phải em sợ phải lìa xa anh Xuân. Đã có
ông Tơ mách bảo lại còn thêm ông Quan Đế chứng minh, ai làm sao lìa xa nhau được.
Em chỉ sợ đổ bể rồi em bị bó buộc, không còn phương tiện lo lắng cho anh Xuân đến
cùng, tự thủy chí chung như lời em hứa hẹn. Vậy thì bữa nay gặp nhau đây, em
nói chuyện đủ rồi, em không còn chuyện gì nữa. Em chỉ xin anh Xuân bữa anh xuống
đò đi học, anh đi ngang gian hàng của em đặng anh em thấy mặt nhau, thấy mà
thôi, chớ không cần nói, thấy rồi rẽ phân, kẻ ở người đi, một người một ngả. Em
cũng xin anh Xuân vào trường, nếu có việc chi bối rối thì anh cứ nhớ em. Hễ nhớ
tới em thì anh định tĩnh tâm hồn mà vượt các khó khăn, quên hết phiền
não".
Vĩnh Xuân nói: "Qua sẽ làm y theo lời em dặn. Qua chúc
em với chị Hai ở nhà an vui mạnh khỏe luôn luôn, Qua đi tháng chạp, bãi trường
cuối năm qua về rồi chúng ta sẽ gặp gỡ lại nữa.
Cúc Hương đứng dậy nói cô đi chơi đã lâu rồi, nên cô cáo từ
mà về, vì sợ ở lâu cha mẹ sai người đi kiếm. Chị Hai không nỡ cầm. Cúc Hương
nhìn Vĩnh Xuân với cặp mắt thân yêu cô ứa nước mắt mà nói: "Thôi, em chúc
anh Xuân đi học mạnh giỏi. Nhớ mấy lời em dặn hồi nãy nghe hôn. Em về nghe chị
Hai".
Cúc Hương cầm khăn bước ra cửa, day lại ngó Vĩnh Xuân một lần
nữa rồi mới đi.
Chị Hai Tỷ mời Vĩnh Xuân ăn thơm. Cậu vị tình ăn một miếng, uống
lột tách nước trà, rồi từ giã ra về, hứa sẽ ra thăm Hai Tỷ một lần nữa, trước
khi xuống đò.
Giữ lời hứa, còn một bữa nữa thì đi, Vĩnh Xuân ra thăm Hai Tỷ,
xin chị ở nhà an ủi cho Cúc Hương vui lòng. Chị biểu Xuân cứ lo học tập, chị sẽ
chăm nom việc nhà giùm cho, đừng lo chi hết.
Sáng bữa sau Vĩnh Xuân mặc sắc phục nhà trường, ăn uống no rồi,
mới mượn người lối xóm xách giùm hai gói xuống đò. Bà Hương văn gởi theo một
đòn bánh tét nhỏ đặng trưa con có đói thì ăn. Bà muốn đưa con xuống đò. Vĩnh
Xuân không cho, nói rằng cậu đã lớn rồi, mẹ chẳng nên đưa rước như trẻ nhỏ.
Vĩnh Xuân ra tới chợ, thấy Hai Tỷ với Cúc Hương đứng ngó, cậu
dở nón chào rồi đi thẳng xuống đò.
Chủ đò thấy cậu thì niềm nỡ nói bữa nay đi gặp nước xuôi chắc
bốn giờ chiều sẽ tới Mỹ Tho. Vĩnh Xuân nghe như vậy thì mừng thầm, nghĩ tới 5
hoặc 6 giờ vô trường cũng kịp.
Chuyến nầy hành khách có bốn người, xuống đủ rồi thì chủ đò
biểu túc tù và đặng mở dây đi cho kịp nước.
PHẦN I - CHƯƠNG 7 -
V
ĩnh Xuân bỏ nho học mà theo tân học, phải lãng lơ nề nếp cổ
truyền đặng chăm chú tập học thức Tây Âu, là tại nghèo. Phải đuổi theo tân học
mới giải thoát cái nghèo được, mà trả nợ sanh thành và thỏa mãn ân tình.
Cả hai mục đích đều quan trọng, vì một là hiếu, hai là tình:
phải đạt cho được cả hai mục đích ấy thì nợ đời mới trả xong, ân tình mới vẹn vẻ.
Đi học lần nầy, Vĩnh Xuân được biết Cúc Hương chẳng những lo
lắng cho cậu, mà ở nhà cô còn chăm nom giúp đỡ luôn cho mẹ già nữa, bởi vậy
lòng cậu nhẹ nhàng, quyết chí học cho thành công rỡ ràng, cho xứng đáng vơi mỹ
ý của người yêu đương mong mỏi.
Cậu tận tâm nỗ lực học ngày học đêm, học đặng lấy danh một
trò giỏi nhứt, trong lớp không có một bạn nào theo kịp. Thiệt quả nửa năm sau,
Vĩnh Xuân học giỏi hơn hết trong lớp, thi môn nào cậu cũng giựt giải nhứt luôn
luôn.
Còn vài tuần rữa thì bãi trường, trên phòng văn của ông Đốc Học
người ta soạn những bài thi đặng lập sổ phát phần thưởng. Một giáo sư, người
Pháp, yêu Xuân, ông lấy sổ phần thưởng mà biên rồi cho Xuân coi. Xuân được một
phần thưởng danh dự, một phần thưởng giải nhứt, và tám phần thưởng theo bài
thi: hạng nhứt đủ các nôn, Pháp văn, toán pháp, địa dư v. v.
Xuân lấy làm vui lòng thấy công lao cố gắng của mình kết quả
mỹ mãn,. kết quả quá hy vọng một năm nay,
Gần tới bãi trường, các giáo sư đã dạy bài vở dứt hết rồi,
nên vô lớp mấy ổng giảng. bài ngoại chương trình cho học trò nghe chơi. Có khi
mấy ổng cắc cớ hỏi Xuân một hai chuyện chưa dạy tới. Xuân suy nghĩ rồi trả lời
trúng, thì mấy ổng khen ngợi, làm cho Xuân được thêm danh giá rất cao.
Còn 12 bữa nữa phát phần thưởng rồi bãi trường. Chánh nhằm
ngày rằm tháng 11 theo âm lịch, còn theo dương lịch thì là 12 tháng chạp. Ngày ấy
lại nhân chủ nhật, không có học. Vĩnh Xuân đọc sách và nói chuyên chơi với các
bạn tối ngày. Đêm ấy cậu khỏe trí vui lòng, không còn lo việc chi hết, chỉ
trông cho mau tới ngày bãi trường. đặng ồm sách thưởng về cho mẹ già phỉ chí và
người yêu an tâm.
Giữa lúc Vĩnh Xuân với học trò cả lầu đều ngon giấc, tư bề vắng
vẻ, trên dưới im lìm, thình lình Vĩnh Xuân thấy Cúc Hương hiện ra đứng trên đầu
giường của cậu, đưa tay vỗ mặt cậu và kêu mà nói: "Anh Xuân ! Anh Xuân !
Thức dậy đặng em nói cho anh hay: Em chết rồi. Chừng nào anh về, anh ra nhà chị
Hai Tỷ, chỉ sẽ thuật chuyện tại sao em chết cho anh nghe. Anh đừng buồn rầu, cứ
lo học tập cho thành công, theo như lời anh đã hứa với em. Về phần em thì đã sắp
đặt sự giúp đỡ cho anh ăn học đủ bốn năm. Anh khỏi lo việc đó. Em chết oan ức lắm.
Em sẽ xuống Diêm đình em kiện về vụ người ta phá căn duyên của đôi ta. Em yêu cầu
Diêm Vương cho phép em theo phò hộ anh ăn học cho nên danh và chấp nối chỉ điều
của đôi ta lại. Vậy anh cứ lo ăn học. Chết cũng như sống, sẽ có em ở một bên
anh luôn luôn. Anh đừng lo, chẳng sớm thì muộn thế nào đôi ta cũng sẽ sum híệp.
Thôi, em cho anh hay một chút đó thôi, em mắc đi kiện, em ở lâu nữa không được.
Em chào anh".
Vĩnh Xuân lồm cồm ngồi dậy, đưa hai tay ra chụp Cúc Hương.
Hai cái đèn treo trên lầu giọi yếng sáng khắp các hàng giường, nhưng Vĩnh Xuân
không thấy hình dạng Cúc Hương, không biết cô đi ngả nào, chỉ giọng cô nói vẫn
còn nghe văng vẳng bên tai.
Trời đã lập đông, đêm khuya mát lạnh, thế là Vĩnh Xuân đổ mồ
hôi dầm dề, chảy nước mắt ướt mặt. Cậu ngồi ngó trân tứ phía, nửa mệ, nửa tỉnh,
dường như kẻ mất trí, mất thần.
Cúc Hương chết ! Cúc Hương chết rồi hiện hồn kiếm mà cho mình
hay ! Tại sạo lại chết ? Không có lý. Chết rồi thì làm sao mà nói đài như vậy
được. Mình không nên tin. Chắc là mình cứ mơ tưởng Cúc Hương, nên chiêm bao thấy
cô, chớ không phải thiệt sự.
Mà chiêm bao thì thấy Cúc Hương hoặc ngồi buôn bán, hoặc nói
chuyện với mình, chớ sao lại thấy cô kêu mình mà cho hay cô chết. Cô lại biểu
chừng về thì hỏi chị Hai Tỷ, chị sẽ thuật chuyện cho mà nghe. Mình có nghĩ đến
sự cô chết hồi nào đâu nên chiêm bao thấy cô chết.
Nếu thiệt quả.Cúc Hương chết, thì mình làm sao mà học cho tới
cùng. Mà học thêm nũa để làm chi ? Mình vì cô nên học thêm đặng lập thân cho
cao để tạo hạnh phúc gia đình mà chung hưởng với cô. Nếu cô chết, mình xây hạnh
phúc gia đình đặng hưởng với ai mà học nữa. Trả thảo cho mẹ, mình làm giáo tổng
cũng có lương đủ nuôi mẹ ấm no, cần gì phải học cho nhiều mà bỏ mẹ ở nhà nghèo
nàn cực khổ.
Nhưng không có cớ gì mà tin Cúc Hương chết được. Cô yêu mình,
cô tin có lời ông Tơ mách bảo nợ duyên, cộ lại ép đến trước ông Quan Đế mà thề
nguyền nữa. Cô cương quyết là vợ chồng với mình, vì vậy nên cô nới giúp tiền
cho mình học thêm cho cao, cô mới lãnh chăm nom mẹ mình đặng mình yên lòng khỏe
trí mà học cho tinh tấn. Cô nuôi hy vọng, thấy có mòi thành tựu, chớ có điểm
nào gieo rắc nghi ngờ đâu mà thất trí đến nỗi quyên sinh Không có lý mà tin Cúc
Hương chết được. Chiêm bao mộng mị, không nên tin bậy mà buồn rầu.
Vĩnh Xuân lấy khăn lau nước mắt rồi nằm lại, tín ngủ cho khỏe,
không thèm nhớ chuyện chiêm bao nữa.
Tư bề vẫn im lìm. Canh khuya vẫn vắng vẻ. Trăng rằm vẫn thinh
thinh.
Tuy Vĩnh Xuân nghĩ chiêm bao không đáng tin, song nằm nhắm mắt
thì cậu thấy hình dạng Cúc Hương cứ vởn vơ trước mặt, cậu nghe lời Cúc Hương
nói cứ văng vẳng bên tai, cậu bồi hồi trong lòng hoài, không thế ngủ được.
Cậu nhớ Cúc Hương dặn chừng về thì ra nhà chị Hai Tỷ, chị sẽ
nói cho biết tại sao mà cô chết. Cô lại biểu học tiếp cho nên danh, đừng buồn rầu
mà bỏ dở đường công danh. Cô lại nói cô đã sắp đặt mà giúp cho cậu học đến
cùng. Vậy phần cậu cũng phải giữ lời không được để thất ước. Cô lại còn nói cô
đi kiện, đi thưa, thế nào vợ chồng cũng sẽ sum hiệp, đừng lo chi hết.
Nếu Hai Tỷ biết duyên cớ về cái chết của Cúc Hương, sao chị
thương Cúc Hương như em, mà chị không ngăn cản, không lập thế giải cứu, lại để
cho Cúc Hương chết ?
Nếu Cúc Hương sắp đặt để giúp cho cậu có phương thế học đến
cùng đặng lập thân thì tự nhiên Cúc Hương biết trước cô phải chết. Đã yêu cậu
nên lo xa như vậy, sao lại bỏ mà chết? Phải cô mang bịnh đau trầm trệ nhiều
ngày, nên cô biết sắp chết hay sao mà cô lo lắng trước như vậy?
Cúc Hương nói cô đi kiện với Diêm đình, cô chết có oan ức gì
hay sao mà thưa kiện ? Mà thưa kiện ai ? Ai làm cho cô phải chết hay sao mà cô
kiện ?
Mà cô đã chết rồi, sao cô còn nói chuyện sum hiệp, cô dặn đừng
buồn, đừng lo.
Chuyện gì mà thắc mắc quá, hiểu làm sao cho được.
Vĩnh Xuân cho là chuyện mộng mị không đáng tin, tuy vậy cậu vẫn
nằm trăn trở hoài, ngủ không được. Cậu nằm mỏi rồi thì cậu ngồi dậy, mà ngồi
cũng như nằm, trong trí cậu cứ nhớ điềm chiêm bao kỳ quái đó hoài, nên cậu thức
luôn tới sáng.
Trót mấy ngày sau cậu cử ngơ ngẩn, trong mấy giờ chơi cậu cứ
thơ thẩn đi riêng một mình, biếng nói chuyện; hết vui cười, học hạng nhứt trong
lớp sẽ lãnh sách thưởng cả chồng, nhưng cậu bớt mừng, bớt khoái, cứ trông cho
mau tới ngày bãi trường đặng về coi chuyện chiêm bao thiệt giả lẽ nào.
Trông thì lâu, mà rồi cũng tới. Sớm mơi 24 tháng chạp đương lịch,
trường làm lễ phát phần thưởng. Vĩnh Xuân lãnh một mình tới mười quyển sách bìa
đỏ, quyển lớn có, quyển nhỏ có, quyển nào cũng tốt đẹp vô cùng. Trong lúc vinh
diệu được ông Đốc Học, mấy giáo sư cùng quan khách ngợi khen thì Vĩnh Xuân hân
hoan, mà chừng ôm sách lên phòng ngủ, sực nhớ lại điềm chiêm bao thì sự hân
hoan đó tiêu tan, rồi trong lòng bắt ngậm ngùi áo não.
Lúc ăn cơm trưa có huấn lịnh của ông Đốc Học truyền xuống rằng
tuy chiều mới bãi trường, nhưng sách đã góp rồi, mà phần thưởng cũng đã phát rồi,
vậy buổi chiều học trò được thong thả đi chơi, hoặc muốn đi về cũng được.
Vĩnh Xuân muốn về gắp. Ngặt buổi chiều không có đò phải chờ đến
sáng bữa sau đi mới được. Buổi chiều cậu lo gói sách, gói tập, xếp áo quần để
vào rương. Đến 5 giờ chiều cậu mới ra bến chợ, kiếm đò mà hỏi cho chắc coi sáng
bữa sau đò lui giờ nào.
Vĩnh Xuân kiếm không có đò Chợ Giồng mà lại thấy có đò Chợ
Dinh. Cậu hỏi đò Chợ Giồng lên chưa tới hay sao ? Chủ đò Chợ Dinh nói đò Chợ Giồng
đã nghỉ đưa cả tháng rồi và khuyên cậu đi đò bao nhiêu và về tới Chợ Dinh mấy
giờ.
Chủ đò nói: "Đò của tôi một bữa lên, một bữa xuống. Sáng
mai lối 8 giờ rưỡi đò lui; chừng 2 giờ, có trễ lắm là 3 giờ thì về tới Chợ
Dinh. Tiền đò 4 cắc. Tới Chợ Dinh cậu mướn xe ngựa vô Chợ Giồng, đi một mình
thì 4 cắc nữa".
Vĩnh Xuân gặc đầu nói sáng mai, lối 8 giờ, cậu sẽ chở rương
ra mà đi.
Đêm ấy nhằm lễ Giáng Sanh (Noel). Trước nhà thờ Thiên Chúa
giáo người ta treo đèn đủ màu. Mà mấy nhà có đạo cũng kình nhau đốt đèn coi cho
đẹp. Ngoài đường thiên hạ đi coi đèn dập dìu, phần đông là nam thanh nữ tú, y
phục nhốn nha, vui cười ngã ngớn.
Hồi chiều duy có học trò ở Mỹ Tho thì ra trước. Học trò gốc ở
Tân An, Sài Gòn và Chợ Lớn thì đi xe lửa cũng về rồi. Còn lại số đông thì chờ bữa
sau có tàu, có đò hoặc có xe mới về được. Mấy cậu sửa soạn áo quần rồi rủ nhau
đi coi lễ rần rần. Vĩnh Xuân soạn đồ mà gói đặng sáng chở đi cho gọn.
Vính Xuân nóng lòng muốn về cho mau. Cậu nằm dàu dàu, được phần
thưởng nhiều hơn chúng bạn mà không mừng, gặp lễ Giáng Sanh mà cũng không chịu
đi xem chơi với chúng bạn.
Sáng bữa sau, mới 7 giờ, Vĩnh Xuân đã kêu xe kéo chở rương,
sách, chiếu, mền đem xuống đò. Cậu đi ăn cho no bụng, rồi nhớ lần trước mẹ ăn
bánh mì lạp xưởng mẹ khen ngon, cậu cũng mua vài cặp lạp xưởng, vài ổ bánh mì với
thèo lèo và trà tàu đem về cho mẹ.
Chủ đò nói không sai. Hai giờ rưỡi đò về tới Chợ Dinh. Vĩnh
Xuân lên mướn xe ngựa đi Chợ Giồng. Họ đòi 5 cắc. Cậu gấp đi không thèm kèn cựa,
biểu bắt kế xe đem liền lại bến đò rồi chở đồ mà đi.
Bà Hương văn Thanh thấy con về bà mừng, nên lật đật bước ra hỏi:
"Con về ngả nào mà đi xe ngựa ? Con mướn xe ở trên Mỹ Tho đưa con về đây
hay sao ? Đò Chợ Giồng thì hết đưa gần một tháng nay làm má lo quá, không biết
bãi trường con làm sao mà về".
Vĩnh Xuân vừa xuống xe vừa nói: "Con về đò Chợ Dinh, rồi
mướn xe ngựa về đây".
Bà Hương văn nói: "Có đò Chợ Dinh, vậy cũng tiện".
Anh Xa phu bưng rương và đồ đạc xuống. Mẹ con bà Hương văn rước
xe vô nhà. Vĩnh Xuân lấy tiền trả tiền xe và cám ơn. Anh xa phu từ giã lên xe
mà đi.
Vĩnh Xuân lột nón và cởi áo bỏ trên ván rồi hỏi mẹ:
-Cô Tư, con của Hia Mỹ, buôn bán gạo ở đầu cầu sắt, cô chết rồi
phải hôn má ?
-Ừ, sao con hay ?
-Con đi đò con nghe họ nói.
-Con đó học chữ nho với ông Giáo Huân đó mà. Nó chết chừng mười
mấy bữa rồi.
-Trời đất ơi ! Thiệt vậy hay sao má ?
-Thiệt chớ.
Vĩnh Xuân kéo ghế mà ngồi rồi hai tay bụm mặt khóc rống lên.
Bà Hương văn ngạc nhiên nên bước lại gần mà hỏi: "Con
quen với nó nhiều lắm hay sao, mà nghe nó chết con khóc dữ vậy ?"
Vĩnh Xuân cứ khóc, cậu không trả lời.
Bà Hương văn tuy không biết tâm lý học, song thấy con đương
buồn thảm bà không hỏi nữa, để cho con khóc đặng nguôi bớt nỗi lòng rồi sẽ nói
chuyền.
Bà đi ra sau, tính nấu cơm cho con ăn vì đi từ sớm mơi tới giờ
chắc ăn bánh chớ chưa có hột cơm trong bụng.
Vĩnh Xuân không dọn dẹp hành lý, cứ ngồi khóc rất lâu, rồi chống
tay trên bàn mà ngó ra ngoài lộ, mặt.buồn hiu, trí suy nghĩ.
Bà Hương.văn thấy cơm cạn rồi bà mới trở ra trước, coi con đã
hết buồn rầu hay chưa.
Vĩnh Xuân thấy mẹ liền hỏi:
-Má có biết cô Cúc Hương đau bịnh gì mà chết vậy không má?
-Tên nó là Cúc Hương hay sao ?
-Cô học chữ nho với con tại trường ông Giáo Huân. Thầy con thấy
cô học giỏi nên đặt hiệu Cúc Hương cho cô, để kêu cho thanh nhã.
-Má biết mặt nó, chớ không quen. Má nghe họ nói cha mẹ nó ép
gả nó cho con nhà giàu nào đó ở trong Vĩnh Hựu. Nó không chịu. Hia Mỹ đánh đập
rúng ép. Nó tức trí nên tự vận mà chết.
-Vậy à ! Má nhớ cô chết bữa nào hay không ?
-Má không nhớ nổi. Chừng mười mấy bữa chớ không lâu, nhưng
không biết chắc bữa nào.
-Con xin thưa thiệt cho má rõ: cô Cúc Hương là tình nhơn của
con. Con với cô có đến chùa ông Quan Đế thề nguyền kết nghĩa vợ chồng với nhau.
Cô lo buôn bán mà nuôi con ăn học. Chừng nào con học nên đanh rồi con sẽ cưới
cô.
-Vậy hay sao.?
-Thiệt vậy, con nói giấu với má rằng chị Hai Tỷ bao cho con
chớ thiệt là cô Cúc Hương. Cô đã đưa 15 đồng cho con đi học năm nay đó. Hai bộ
quần áo may cho con đó là của cô, mà vóc xuyến chị Hai Tỷ đem cho má đó cũng của
cô nữa.
-Trời Phật ơi ! Nó thương con tới như vậy lận sao ? Nó đã lo
lắng cho con ăn học mà nó còn lo cho má nữa.
-Cô sợ má nghèo nàn rách rưới, con buồn con bỏ học để ở nhà
làm thầy giáo mà nuôi má. Bơi vậy cô lãnh giúp đỡ luôn má nữa. Cô sợ mang tiếng,
nên phải cậy chị Hai Tỷ ra mặt làm giùm.
-Hèn chi con Hai Tỷ dặn má nếu có thiếu hụt, hoặc có chi bối
rối, thì cứ cho nó hay, nó sẽ giúp má. Mẹ con mình nghèo, mà có người thương
yêu, lo giúp đỡ như vậy thì may quá. Con nghe nó chết con khóc phải lắm. Bây giờ
má hay cuộc tình duyên của con vỡ lở má cũng động lòng. Cha chả, con còn học tới
ba năm nữa. Cúc Hương chết, con làm sao mà học tiếp cho được.
-Con bủn rủn tay chưn, tán loạn đầu óc, con hết muốn học hành
gì nữa.
Vĩmh Xuân bước lại ván mở gói sách phần thưởng trình cho mẹ
coi và nói: "Vì con mang nặng ân tình của Cúc Hương nên trót một năm nay
con cố gắng học ngày, học đêm, không thèm vui chơi chi hết. Con thành một học
trò giỏi nhứt trong lớp, cuối năm con mới được lãnh phần thưởng nhiều đây. Chớ
chi con biết trước sẽ có việc đau khổ như vầy, năm ngoái con xin làm giáo tổng
đặng giúp đỡ má, khỏi học thêm một năm mà Cúc Hương cũng khỏi bực tức đến tự tử".
Vĩnh Xuân nói tới đó rồi khóc nữa.
Bà Hương văn nói:
-Tại vợ chồng Hia Mỹ ham giàu ép gả con nên mới sanh tai họa.
Để thủng thẳng nghe coi ép gả cho con nhà giàu nào ở đâu và ép cách nào mà con
nhỏ bực trí đến tự vận.
-Để tối con ra thăm chị Hai Tỷ, con hỏi lại cho rõ ràng rồi sẽ
liệu.
-Ừ chắc con Hai Tỷ biết rõ.
-Đêm rằm tháng 11 nầy con ngủ, lối nửa đêm con mơ màng thấy
Cúc Hương đứng trên đầu giường vỗ mặt kêu con mà nói cô đã chết rồi, cô biểu
con về hỏi chị Hai Tỷ thì sẽ biết tại sao cô chết. Cô khuyên con cứ tiếp tục học,
đừng buồn rầu, đừng thối chí. Cô đã sắp đặt giúp con học đến cùng theo như lời
cô đã lứa với con. Vậy con phải học cho nên danh đặng sau vợ chồng sum hiệp.
-Chết rồi mà sum hiệp nỗi gì ?
-Con không hiểu tại sao cô nói kỳ cục như vậy. Con không tin.
Con cho chiêm bao là mộng mị. Chừng về đây nghe má nói Cúc Hương tự vận, còn chết
điếng. Thiệt con không dè ở nhà có việc rắc rối bất ngờ như vầy. Con không có
nghĩ đến chuyện cha mẹ cô ép gả cô rồi cô tự vận. Cha mẹ gả, cô không chịu thì
thôi, chớ sao lại hủy mình đi. Giận mà làm như vậy thì thiệt thân mình, chớ có
hại cho ai.
-Con không nên trách nó. Cha nhẹ biểu mà nó không vâng lời
sao được con.
-A ! Tại "Tam tùng" nên Cúc Hương chết. Con hiểu rồi
!
Vĩnh Xuân khóc nữa.
Bà Hương văn nói: "Cơm chắc chín rồi. Để má đi hâm đồ dọn
cho con ăn rồi ra hỏi con Hai Tỷ cho rõ công chuyện. Vĩnh Xuân mở gói bánh mì lạp
xưởng, trà tàu và thèo lèo đưa cho mẹ.
Bà Hương văn đem để hết trên bàn thờ, chỉ lấy một ổ bánh mì với
một cặp lạp xưởng đem vô trong đặng nướng lạp xưởng mà dọn cơn.
Vĩnh Xuân tính ăn cơn rồi thì đi thăm Hai Tỷ liền, nên cậu
không thay đồ mát. Cậu đi qua đi lại mà suy nghĩ. Thầy mình thường nói nho học
giúp cho con người nắm giữ thuần phong mỹ tục. Cha chả, đàn bà con gái nếu giữ
cho tròn tam tùng tứ đức thì có khi nguy hại quá. Cúc Hương cảm nhiễm nho giáo,
cô bị câu: "tại gia tùng phụ" cô không được phép trái ý cha mẹ, nên
cô bối rối, không biết làm sao cho khỏi lỗi với cha mẹ, mà cũng khỏi thất ước với
mình. Chắc tại như vậy nên cô quyên sinh cho trọn hiếu vẹn tình chớ có gì đâu.
Người học giỏi, học nhiều, biết trọng nhân nghĩa, biết suy thấp cao, nhiều khi
xử sự không bằng kẻ thất học, họ cứ do tình cảm, hoặc do lợi danh, mà làm liều
rồi họ được việc.
Bà Hương văn bưng mâm cơm ra để trên ván rồi kêu con lại ăn.
Vĩnh Xuân kéo ghế lại ngồi ăn với mẹ, mà vì trong lòng đau khổ, phải ăn cho đỡ
đói, chớ không biết ngon chút nào hết. Cậu rán ăn cho hết chén cơm của mẹ xúc,
ăn thêm một khúc bánh mì với lạp xưởng nữa, rồi buông đũa đi uống nước.
Hồi mới về, Vĩnh Xuân tính đợi tối rồi sẽ ra nhà Hai Tỷ hỏi
thăm vụ Cúc Hương. Nhưng nghe mẹ nói Cúc Hương bị cha mẹ ép gả cho con nhà
giàu, cô không chịu, nên cô tự tứ, thì cậu nóng nảy quá, muốn biết chuyện cho gấp.
Bởi vậy ăn cơm rồi, mặt trời chưa lặn mà cậu mặc sắc phục của nhà trường và
trình với mẹ mà đi, thầm nghĩ cúc Hương vì mình mà dám chết, thì mình không được
phép sợ thiên hạ đến dụ dự không đám đi hỏi thăm. Bây giờ mà còn sợ ai nữa.
Bà Hương văn đứng trong cửa ngó theo con, thấy bộ con áo não
lửng lơ, thì bà châu mày, thương ái tình của con vỡ tan, mà tương lai của con
cũng sụp đổ.
PHẦN I - CHƯƠNG 8 -
C
hị Hai Tỷ đương ngồi ăn cơm chiều với chồng là chú tài phú Sấm
phía sau. Chị nghe có tiếng giày lộp cộp ở ngoài trước, chị bước ra cửa buồng
mà dòm. Chị thấy Vĩnh Xuân đang bợ ngợ ngoài cửa thì chị la lớn:
-Ủa ! Em Xuân, Em về bao giờ ?
-Em mới về tới hồi bốn giờ chiều đây.
-Cha chả, con Tư mất rồi em à !
-Em hay.
-Thím Hương văn nói phải hồn ?.
-Phải.
-Nó mất chị thương quá, chị chết điếng trong bụng. Chị muốn
cho em hay, mà không biết làm sao. Em có nói tháng chạp bãi trường. Gần hết
tháng 11 rồi, nên hổm nay chị có ý trông em. Thôi, em ngồi đó chơi, chờ chị ăn
cơm một chút rồi chị nói chuyện cho nghe. Chuyện dài lắm. Kéo ghế đó mà ngồi
em.
Vĩnh Xuân để nón trên bàn ngồi ngó ra lộ, nghe vợ chồng chị Tỷ
ăn cơm và nói chuyện nho nhỏ với nhau ở phía sau. Cậu dòm trong nhà, cậu nhớ lại
hôm gần khai trường, Cúc Hương ngồi trong nhà nầy mà nói chuyện với cậu rất
lâu, cô ngồi cái ghế để phía sau cánh cửa đó, cậu ngồi chỗ nầy đây, chị Tỷ ngồi
tại đầu ván kia. Có lẽ cô cảm tưởng sắp có cái buồn vĩnh biệt hay sao mà cô trầm
tĩnh nhu mì, chớ không cười nói tía lia như hồi trước. Có lẽ cô biết trước lần
gặp gỡ đó là lần chót hay sao, mà chừng cáo từ đặng đi về, cô bịn rịn không muốn
đi, chừng ra ngoài cửa rồi cô còn đứng lại nhìn cậu và dặn phải nhớ mấy điều cô
nói. Có lẽ cô muốn thấy mặt nhau một lần cuối cùng rồi sẽ rẽ phân âm dương hai
ngả hay sao, nên cô nài cậu bữa xuống đò mà đi học, cậu phải đi ngả chợ, đi
ngang gian hàng của cô đặng cô thấy mặt cậu một lần chót cho vui lòng. Cậu nhớ
bữa đó Cúc Hương với Hai Tỷ đứng dậy mà ngó cậu. Cúc Hương mặc áo dài hàng đen,
cô thấy cậu dở nón lên mà chào thì cô chúm chím cười, trong nụ cười ấy có duyên
dáng, có thân yêu, có nồng nhiệt ái tình, có tràn trề hy vọng.
Vĩnh Xuân nhớ hình dạng của Cúc Hương, cậu nghĩ hình dạng ấy
từ đây không còn thấy được nữa, thì cậu đau đớn, tức tủi nên chảy nước mắt. Cậu
đương lấy khăn trong túi ra lau giọt lụy, thì tài phú Sấm ăn cơm uống nước rồi,
chú ở phía sau đi ra. Thấy Vĩnh Xuân ngồi, chú hỏi:
-Em học chữ pháp trên trường Mỹ Tho phải hôn ?
-Phải.
-Nghe nói em học chữ tàu giỏi rồi, bây giờ em học được chữ
Pháp nữa thì quí lắm. Người các chú mà biết được hai thứ chữ như vậy, thì ăn tiền
nhiều lắm. Người Y Nam (Viện Nam, phát âm theo tiếng Triều Châu) biết chữ Pháp
giỏi thì làm thầy thông, thầy ký cũng no lắm.
Câu chuyện của tài phú sấm ở ngoài xa tư tưởng của Vĩnh Xuân
trong lúc nầy, bởi vậy Vĩnh Xuân làm lơ không muốn đáp.
Tài phú Sấm móc gói thuốc trong túi ra, lấy một điếu mà ngậm,
rồi quẹt hộp quet đốt hút. Chú nói: "Thôi, em ngồi đó chơi. Tôi mắc đi ra
tiệm, ra tính sổ đặng mai đi bổ hàng".
Tài phú Sấm đi rồi thì chị Hai Tỷ bưng cái giỏ trầu cau ra để
trên bàn. Chị ngồi tại đầu ván têm trầu mà ăn. Chị biểu Vĩnh Xuân kéo ghế lại
ngồi gần rồi chị nói:
-Con Tư nó chết tức quá em ơi ! Thiệt chị không dè chút nào hết.
-Má em nói người ta đồn cha mẹ cô ép gả cô cho con nhà giàu
nào đó. Cô không chịu mà cha mẹ cứ rúng ép, nên cô tức giận, cô tự tử, phải vậy
hay không chị Hai ?
-Phải. Để rồi qua nói có đầu có đuôi cho em nghe.
-Khoan ! Xin chị cho em biết coi Cúc Hương tự vận cách nào ?
-Nó uống á phiện, giấm.
-Chị có nhớ Cúc Hương chết bữa nào, hồi giờ nào hay không ?
-Sao lại không nhớ. Nó chết trên tay chị rằm tháng 11 nhóm họ
đặng 16 đưa dâu. Đêm rằm đó nó lén vô buồng uống giấm với á phiện, uống hồi giờ
nào không biết. Đến 10 giờ tối bà con trong nhà mới hay rồi hô hoảng lên, chạy
đi kiếm thuốc mà giải, làm vở lỡ cả chợ. Chị hay, chị chạy ra thì nó nằm nhắm mắt
mà thở dốc. Chị nhảy lên giường, chị ôm chị kêu nó. Nó diu oặt, nhưng không biết
gì hết, qua một giờ khuya nó thở yếu lần lần, rồi tắt hơi luôn. Chị ra ngoài chị
ngó đồng hồ thì là 2 giờ rưỡi.
-Nếu vậy thì phải rồi. Em không có đồng hồ nên em không biết
hồi Cúc Hương kêu em đó là mấy giờ. Mà em ngồi chờ lâu quá mới sáng, em định hồi
cô kêu em đó lốI 2 hay 3 giờ khuya.
-Nó có kêu em hay sao? Kêu nói giống gì ?
-Để em nói chị nghe. Từ mùng 10 tháng 11, em hay em có sách
phần thưởng nhiều, nên em vui mừng hết sức. Không biết tại sao qua ngày rằm em
lại bứt rứt trong lòng, hết vui nữa, mà lại muốn về cho mau. Tố lại, tới giờ ngủ,
em cứ nằm thổn thức lâu lắm mới ngủ được. Đến khuya em chiêm bao thấy Cúc Hương
đứng trên đầu giường em, vỗ mặt em mà nói cô đã chết nên cô lên cho em hay.
-Úy ! Linh dữ vậy hay sao ? Nó chết rồi hồn nó xuất mà báo
tin cho em hay liền ! Vì nó thương em quá, mà lại chết oan, nên nó hiện hình
cho em thấy. Nó nói gì nữa hay không ?
-Cô không có nói tại sao cô chết. Cô biểu em bãi trường về hỏi
chị thì biết. Cô nói cô có sắp đặt để giữ vẹn lời hứa hẹn với em. Cô căn dặn em
đừng buồn rầu, đừng thối chí, cứ tiếp tục học cho đến cùng đặng rạng rỡ thân
danh. Cô sẽ âm thầm theo ủng hộ luôn luôn và cô sẽ thưa kiện tới Diêm đình, đặng
căn duyên khỏi vỡ tan, vợ chồng được sum hiệp.
-Trời ơi ! Nó chết mà hồn nó khôn quá, hiện về kêu em cho em
hay liền, lại còn dặn đủ điều hết. Nó tính thưa kiện phải lắm. Oan ức quá mà !
-Mà cha mẹ cô ép gả cô cho ai ? Tại sao cô không thú thiệt cô
đã thề nguyền với em, lại giận lẫy tự tử mà chết? Chị Hai làm ơn thuật rõ đầu
đuôi cho em biết một chút.
-Mà em ăn cơm rồi hay chưa ? Như chưa ăn thì để chị sai đi
mua mì cho em ăn.
-Đừng, đừng. Em ăn cơm rồi. Em về hồi nửa chiều. Em nghe má
em nói, em bủn rủn tay chưn. Tuy chiêm bao thấy như vậy em buồn, muốn về cho
mau, song em tưởng mộng mị, nên không tin cho lắm. Chừng về tới nhà, hay Cúc
Hương chết thiệt, em muốn chạy ra hỏi thăm chỉ liền. Ngặt đau đớn quá, em cứ ngồi
mà khóc. Phần thì má em lại lo nấu cơm dọn cho em ăn. Em mới tính dằn lòng mà
chịu, đợi tối rồi em sẽ đi ra đây. Té ra đau lòng quá, ăn uống gì được. Má em
ép quá, em phải rán ăn cho hết chén cơm rồi đi đây, không cần đợi tối .
-Vậy thì để chị nói rõ công chuyện ở nhà cho em nghe. Bãi trường
trước em về em không có gần gũi với con Tư cho lắm. Mới về tới, em ra chợ đứng
bên gian hàng của chị mà thăm chi và thăm nó có một chút. Chị sợ tiếng thị phi,
chị biểu em ra nhà chị mà nói chuyện. Chị dặn em đừng léo hánh đặng gặp nhau giữa
chợ nữa. Chừng gần khai trường, con Tư cậy chị mời em ta đây đặng nó nói chuyện
một lát. Thiệt nó ngồi có một chút rồi lật đật từ giã nhau. Không biết ai ngó
thấy nên thêu dệt sao đó mà em đi học được ít bữa rồi vợ chồng Hia Mỹ rầy con
Tư, nói sao nó dám núp lén trai gái với em. Nó chối, nó nói không có. Nó thuật
chuyện đó cho chị nghe. Chị khuyên nó cứ chối và về sau phải dè dặt, bãi trường
em có về thì chẳng nên gặp thau thường, hai đàng muốn nói chuyện gì, với nhau
thì nói với chị, rồi chị trao lời lại giùm cho. Cách hơn một tháng, con Tư cho
chị hay cha mẹ nó bàn soạn gả nó lấy chồng phứt cho rồi, đặng khỏi mang tiếng.
Nó hỏi chị như cha mẹ ép gả nó lấy chồng thì nó phải làm sao ? Chị khuyên nó nếu
cha mẹ ép gả thì nó phải nói thiệt nó thương em từ hồi nhỏ, hai đàng có đến trước
mặt ông Quan Đế mà thề nguyền với nhau. Nếu nó bỏ em mà ưng chồng khấc thì ông
Quan Đế sẽ vặn họng nó chết. Chị nghĩ hia Mỹ là con cháu người khách tự nhiên
kính trọng ông Quan Đế, nói như vậy chắc hia không dám ép gả cho người khác.
-Chị khuyên như vậy thì phải lắm. Thà nói thiệt phứt cho rồi
đặng yên ổn mà chờ nhau.
-Té ra cách ít ngày con Tư cho chị hay vợ chồng Thôn Khoa,
trong Vĩnh Hựu, cậy mai nói cưới nó cho con. Thôn Khoa giàu lớn ruộng vườn nhiều,
có tới bốn đứa con gái, mà chỉ có một thằng con trai đó mà thôi. Theo lời bà
mai nói thì thằng con trai muốn cưới con Tư đó 20 tuổi, tên Tiền. Vợ chồng Hia
Mỹ nghe Thôn Khoa giàu thì mê, nên tính gả con Tư cho rồi, không cần dọ ý nó
ưng hay là không ưng. Chị xúi nó chống cự đừng chịu lấy chồng, dầu gả cho con
Thôn Khoa hay là cho người nào khác cũng vậy. Nó nghe lời chị, ban đầu nó chê
con Thôn Khoa dốt nát, không có học. Vợ chồng Hia Mỹ nói người ta không có học,
mà người ta có tiền, có ruộng vườn có nhà cửa. Người ta chỉ có một con trai,
mình ưng con trai ấy thì ngày sau mình hưởng phân nửa gia tài. Mỗi buổi sớm mơi
ra chợ ngồi bán, nếu trong nhà có bàn tính việc gì thì nó học lại với chị hết.
Chị xúi nó nói đã có thề nguyền với em. Nó cùng thế rồi nó mới nghe lời chị mà
tỏ thiệt nó đã có hứa hẹn với em. Vợ chồng Hia Mỹ nổi giận rầy la nó, nói không
thế nào gả nó cho em được. Nếu nó cãi lời thì sẽ đánh nó chết rồi thả trôi
sông.
Vĩnh Xuân bực tức quá, dằn lòng không được, nên chận mà nói:
"Em biết trước sẽ có sự trắc trở đó, nên em đã nói với Cúc Hương. Tại cô cứ
xem học thức quí hơn tiền bạc, nên bây giờ em phải bị người ta nhục mạ".
Hai Tỷ thấy trong nhà đã tối rồi nên lấy đèn tọa đăng để trên
bàn mà đốt, rồi lại mở tủ lấy ra một gói cũng để trên bàn. Chị ngồi lại vừa têm
trầu, vừa nói tiếp:
-Chi hay họ khinh khi em, chị giận hết sức. Chị đốc nó cứ
kháng cự; cha mẹ nó giận nói như vậy chớ không dám đập chết đâu mà sợ. Thiệt nó
kháng cự hẳn hòi, cứ nói có thề thốt với em, nếu nó ưng người khác thì ông Quan
Đế vặn họng nó chết. Vợ chồng Hia Mỹ mê giàu nên ám muội quá. Con nói như vậy
mà không kể, cứ chịu gả nó cho con Thôn Khoa. Lại muốn gả cho mau, nên cho đi lễ
hỏi rồi định ngày 16 tháng 11 thì làm lễ cưới.
-Cha mẹ áp bức quá như vậy sao Cúc Hương không đến làng thưa,
hoặc bỏ nhà trốn đi chỗ khác ở ?
-Chị có bày cho nó nhiều cách mà nó thối thoát. Nó khóc mà
nói làm con lẽ nào dám tố cáo cha mẹ. Còn phận gái bỏ nhà đi thì người ta còn
coi ra gì.
-Thiệt quả tại Cúc Hương có học, mà lại học giỏi nên mới chết
! Tam tùng, tứ đức giết Cúc Hương rõ ràng.
-Chị không dè nó tự vận chút nào hết em. Nếu chị biết thì chị
khuyên giải nó chớ. Cha me định ngày cưới rồi, mỗi bữa ra chợ ngồi bán, nó khóc
với chị hoài. Nó nói đạo cha con với đạo vợ chồng đều trọng hết cả hai. Mà phải
có cha con rồi mới có vợ chồng được. Vậy muốn trọn đạo cha con thì phải lỗi đạo
vợ chồng, chớ biết làm sao. Thôi, kiếp nầy nó không trọn nghĩa với em, thì nó hẹn
kiếp sau sẽ đền đáp.
Vĩnh Xuân tức tủi, nước mắt tuôn dầm dề.
Hai Tỷ xúc động nên ngừng lại, có ý chờ Vĩnh Xuân bình tĩnh lại
rồi sẽ nói tiếp.
Vĩnh Xuân nói:
-Chị cứ nói tiếp đi chị Hai. Cúc Hương nói như vậy thì ý cô
nói cha trọng hơn chồng, nên thà lỗi với chồng, chớ không nên lỗi với cha. Nói
như vậy mà sao lại tự vận.
-Chị cũng hiểu như vậy. Chị tưởng nó nghe lời cha mẹ mà ưng
con Thôn Khoa chớ, bởi vậy chị không đám xúi nó cừ ngạnh nữa. Bữa mùng 5 nó nói
má nó biểu nghỉ, đừng dọn hàng ra chợ ngồi bán nữa, ở nhà dặng sửa soạn đám cưới.
Nó xin để cho nó rán bán tới mùng 10 đặng tẩy cho hết đồ. Bữa mùng 8 nó ra chợ
nó đưa cho chị cái gói nầy đây. Nó cậy chị cất giùm chừng bãi trường em về chị
trao lại cho em. Nó nói nó muốn viết thơ mà xin lỗi với em, nhưng nó không biết
chữ quốc ngữ, lại câu chuyện thắc mắc quá, không thể nào viết cho hết ý được.
Vì chị biết rõ đầu dây mối nhợ hết, nên nó cậy chị thay thế cho nó, chừng em về,
chị thuật chuyện lại cho em nghe. Nó nói trong cái gói nó có viết ít chữ để cho
em đặng nhớ bút tích của nó. Có 50 đồng bạc để cho em ăn học ba năm nữa cho khỏi
bỏ dở nửa chừng, vì nó hứa bao cho em học đủ bốn năm, nên dầu nó không được làm
vợ em, nó cũng phải giữ lời hứa. Lại có một vóc xuyến với một quần lãnh nó xin
em trao dùm cho thím Hương văn và thưa với thím rằng dầu nó không có phước mà
phụng sự thím, nó cũng kỉnh tặng thím lột vóc áo, một vóc quần để tỏ tấm lòng
hiếu kỉnh của con đâu xấu số.
Hai Tỷ cầm cái gói đưa cho Vĩnh Xuân, gói có buộc dây gai kỹ
lưỡng.
Vĩnh Xuân vừa khóc, vừa mở gói ra, thấy ở trên hết có một miếng
lụa trắng, bề dài chừng một gang còn bề ngang bằng ba ngón tay, có viết một
hàng 5 chữ nho lớn "xá sanh nhi thủ nghĩa" ở dưới có viết hàng ngang
2 chữ "Cúc Hương",
Vĩnh Xuân vừa thấy miếng lụa ấy thì la lớn: "Trời ơi ?
Cúc Hương viết câu như vầy thì biết cô đã quyết định tự tử rồi ! Vậy chớ chị
không mở gói ra coi hay sao ?".
Hai Tỷ ngạc nhiên đáp:
-Không. Nó đã kể mấy món trong đó cho chị nghe rồi, còn mở ra
làm chi. Mà chị không biết chữ, dầu mở ra chị cũng không hiểu.
-Chú tài phú coi chú hiểu chớ.
-Mà nó viết nó nói làm sao nên em biết nó quyết định tự tử ?
-Cúc Hương học sách Mạnh Tử một lượt với em. Thầy cắt nghĩa
câu xá sanh nhi thủ nghĩa rành lắm. Nay cô viết 5 chữ đó mà gởi lại cho em, tức
thị cô muốn nói cho em biết: một bên là đời sống, còn một bên là đại nghĩa. Thà
bỏ đời sống mà giữ đại nghĩa. Ý cô nói cô phải chết cho trọn nghĩa với em, chớ
có gì đâu. Vì em mà Cúc Hương phải chết ! Em sống làm sao được chị Hai ?
Vĩnh Xuân buông miếng lụa, hai tay bụm mặt mà khóc.
Hai Tỷ lấy miếng lụa cầm coi rồi nói: "Á, hôm con Tư tắt
hơi rồi, má nó móc khăn với tiền bạc trong túi nó ra thì cũng có một miếng lụa
viết chữ y như vầy".
Vĩnh Xuân hỏi:
-Bà con trong nhà coi rồi họ có bàn luận lẽ nào hay không ?
-Họ có hiểu gì đâu mà bàn luận.
-Bữa nhóm họ có chị ở đó hay không ?
-Có chớ. Bữa mùng 10 nó thôi bán. Nó căn dặn chị thế nào chiều
rằm nhóm họ chị cũng phải lại chơi với nó đặng nó về nhà chồng. Xế chị lại. Con
Tư thấy chị thì mừng rỡ. Nó vô ra nói chuyện vui vẻ như thường. Gần tối chị muốn
từ mà về thì nó mời chị vô buồng rồi nó khóc mà dặn chị chừng em về thì chị đưa
giùm gói đồ nầy cho em, thuật rõ tại sao mà nó phải xa em…
-Đó ! Cô nói "xa" chớ không phải "phụ bạc"
hay là "lấy chồng khác". Chị thấy chưa ? Cô muốn chết rõ ràng quá.
-Chị không dè. Nó căn dặn chị rán an ủi biểu em đừng buồn rầu,
phải chí công học cho thành danh, rồi sau vợ chồng sẽ sum hiệp.
-Em còn đầu óc gì nữa mà học, chị Hai.
-Em đừng có thất chí chớ. Làm trai phải học đặng lập thân. Huống
chi em ở trong cảnh nhà nghèo, lại còn phải nuôi mẹ già, em cần phải học hỏi
hơn người ta đặng trước hiển đạt thân danh cho họ hết khinh khi, sau giúp đỡ mẹ
già mà báo bổ công sanh thành, dưỡng dục. Con Tư nó lo việc ấy lắm. Nó cứ căn dặn
thế nào em cũng phải tiếp tục học cho đủ bốn năm, đừng có buồn rầu mà bỏ. Nó
thương em lắm, nó muốn cho em nên danh, nó mới căn dặn như vậy, mà nó còn gởi
tiền lại cho em ăn học nữa. Nó không phụ lời nó hứa với em. Nó chết rồi, có lẽ
nào em đành làm trái ý tốt của nó. Em phải suy nghĩ lại.
Vĩnh Xuân ngồi trầm ngâm một hồi, lấy miếng lụa có bút tích của
Cúc Hương để vào túi và đưa 50 đồng bạc cho chị Hai Tỷ mà nói: "Em xin chị
Hai cất giùm số bạc nầy lại. Để ít bữa bớt buồn rầu, em suy nghĩ coi nên học nữa
hay không rồi sẽ hay. Chị cất tiền bạc giùm cho em. Còn xuyến, lãnh đây thì em
xin đem về trao cho má em, đặng má em thấy lòng thảo của cô Cúc Hương, tuy chưa
được làm dâu chánh thức song quyết tự vận mà cô cũng không thiếu sót đạo dâu
con, đã lo cho chồng mà cũng không quên mẹ chồng, Con người đủ hiếu, đủ nghĩa,
đủ tình như vậy mà chết mất, thì tôi học cho giỏi đặng ngồi cho cao, rồi vui hưởng
phú quí với ai mà phải cần lo học nữa !".
Vĩnh Xuân gói vóc lãnh với vóc xuyến lại rồi hỏi Hai Tỷ:
-Chị Hai biết mồ mả của Cúc hương nằm chỗ nào hay không ?
-Biết chớ. Chị có đưa đám ma, chị đi tới chỗ. Chị ở tới hạ
khoán xong rồi mới về. Chôn trong đất chùa, dựa bên đường vô Long Hựu.
-Xa hay gần chị ?
-Không xa gì lắm. Đi một chút thì tới.
-Em hỏi xa hay gần, ý em muốn cậy chị dắt giùm em đặng chỉ mộ
cho em viếng một chút. Nếu xa thì em mướn xe cho chị đi.
-Đi bộ cũng được. Gần mà. Mướn xe làm chi. Như em muốn đi thì
xế mai chị đi với em. Xế mát em thay đồ rồi chị vô chị kêu đi. Từ nhà em đi vô
một chút, hết xóm rồi thì thấy. Để chị mua nhang, đèn và giấy tiền vàng bạc
giùm cho em cúng. Em khỏi mua.
-Đám ma làm tử tế hay không chị Hai ?
-Khá. Làm coi cũng được. Chừng con Tư chết rồi, vợ chồng Hia
Mỹ mới sáng con mắt. Cha chả, vợ chồng khóc dữ. Thằng con thứ Hai cằn rằn, nó
nói con Tư đã có thề thốt với em thì thôi, giàu nghèo nó chịu. Ép gả nó chỗ
khác làm chi cho nó bực tức đến tự vận. Nội chợ nầy ai cũng chê Hia Mỹ dại đột,
ham giàu làm chi cho chết con. Họ biết em học giỏi. Họ nói sao không để sau gả
cho em, lại gả chi cho công tử bột.
-Em nói thiệt với chị, ngày trước em yêu Cúc Hương một phần.
Cái chết của Cúc Hương, chết vì tình vì nghĩa, làm xúc động tâm hồn em quá, nên
bây giờ em tưởng nhớ cô đến mười phần. Thôi, Trời khiến em không được Cúc Hương
làm vợ chắc em ở độc thân tới già, em không cưới vợ nào khác. Làm sao em kiếm được
một người như Cúc Hương vậy nữa mà cưới.
-Em buồn, em nói như vậy, thủng thẳng nguôi ngoại rồi em cũng
sẽ có vợ như người ta. Con Tư chết rồi thì thôi, tuy tưởng nhớ nó thì tưởng nhớ,
song tìm người như nó làm sao cho được.
-Thôi, để em về cho chị nghỉ. Chị cất giùm 50 đồng bạc đó .
Vĩnh Xuân ôm gói hàng, cáo từ rồi độI nón bước ra cửa. Hai Tỷ
đi theo nói: "Xế mai lối 4 giờ chị sẽ vô đặng đắt em đi viếng mộ con
Tư".
Vô tới nhà, Vĩnh Xuân thấy mẹ đương ngồi xếp lá gói bánh
chưng, cậu để gói hàng dựa bên mẹ mà nói: "Trước khi Cúc Hương uống giấm với
á phiện mà tự vận, cô có mua một vóc lãnh với một vóc xuyến gởi cho chị Hai Tỷ,
cô dặn chị đợi con về trao lại cho con đặng may áo quần cho má. Chết mà lo việc
về sau đủ hết, mua áo quần cho má, gởi tiền bạc cho con ăn học đủ bốn năm, sắp
đặt rành rẽ lắm".
Bà Hương văn nói: "Tội nghiệp dữ hôn". Bà xô xấp lá
chuối ra xa đặng mở gói hàng mà coi.
Vĩnh Xuân đi vô buồng thay đồ mà bận đồ mát. Chừng cậu trở
ra, bà Hương văn nói: "Nó mua đồ tốt dữ. Sắp đặt đặng tự vận mà nó không
quên má, thiệt nó làm cho má cảm quá Nếu nó sống mà làm dâu má, chắc nó thương
má lung lắm. Con Hai Tỷ nói chuyện nó chết làm sao đâu, con ngồi nói lại cho má
nghe coi".
Vĩnh Xuân ngồi trước mặt mẹ, thủng thẳng thuật đầu đuôi câu
chuyện lại cho mẹ nghe. Bà Hương văn ngồi gói bánh chưng, nhiều lúc bà nghe rồi
động lòng đến rơi nước mắt. Mà Vĩnh Xuân nhắc lại nhiều đoạn cậu cũng ấm ức rồi
khóc dầm, nói không được.
PHẦN I - CHƯƠNG 9 -
T
rót một năm trời, Vĩnh Xuân say sưa mê mẩn cái cảnh tương lai
vừa rực rỡ, vừa ấm êm. Ngó tiền trình cậu thấy chán chở tươi cười, chỗ thì bằng
thẳng như ruộng lúa sắp đơm bông, chỗ thì vòi vọi như non cao, chỗ thì thinh
thinh như biển rộng. Cậu cứ bình tĩnh an vui mà thả bước, tin chắc rồi đây cậu
sẽ thoát khỏi thốn thiếu bần hàn và vui hưởng ấm no thơ thới, với bà mẹ già
chơn chất hiền từ và người vợ yêu, nặng mang tình nghĩa.
Thình lình.gió đông bất trắc làm sụp đổ hết một khoảng đường
của cậu đương đi. Bây giờ phải làm sao ? Phải thối lui đặng tìm ngả khác mà đi,
hay là phải ngó lơ cảnh thảm khổ điêu tàn, phải lướt trắc trở, vẹt chông gai mà
tiến bước để tìm hạnh phúc.
Còn hạnh phúc gì nữa mà tìm ?
Thuật chuyện Cúc Hương hết cho mẹ nghe, cậu thấy mẹ thương tiếc,
mẹ cũng khóc, thì cậu càng thêm buồn rầu, càng thêm chán nản. Đêm ấy cậu ngủ
không được, nhớ tình duyên thì đau đớn, nhìn tương lai thì tối đen. Tinh thần cậu
uể oải, nghị lực cậu tiêu tan; cậu nằm cứ thở dài, tâm chí đật dờ, lợi danh lơ
lãng.
Có khi Vĩnh Xuân nhắm mắt, tính ngủ phứt đặng quên hết nỗi
lòng, mà hễ nhắm. mắt thì cậu thấy hình dạng Cúc Hương vởn vơ, rồi giọt lệ tuôn
rơi, tấm lòng thắt thẻo.
Nửa thức, nửa ngủ, thức thì đau đớn, ngủ thì mơ màng, Vĩnh
Xuân. thấy trời hừng sáng, và nghe mẹ mở cửa đặng đi bán bánh.
Cậu ngồi dậy sật sừ. Bà Hương văn day lại nói: "Má có để
một cái bánh chưng trên bàn đó. Con lót lòng đi. Má bán một lát rồi má mua đồ về
nấu cơm cho con ăn". Bà nói rồi bưng thúng bánh mà đi.
Vĩnh Xuân rửa mặt chải đầu rồi ra bàn mà ngồi. Cậu không ăn
cái bánh chưng của mẹ để, mà lại móc túi lấy miếng lụa di bút của Cúc Hương trải
lên bàn mà nhìn.
Ngó 5 chữ "Xá sanh nhi thủ nghĩa" với 2 chữ nhỏ
"Cúc Hương" cậu ủ mặt châu mày, ruột gan lạnh ngắt. Cậu nghĩ người bỏ
sự sống cho trọn đạo nghĩa, lúc cầm bút mà viết, không biết tâm hồn đau khổ bao
nhiêu, chớ người mang nghĩa nặng của kẻ hy sinh thì bây giờ tâm hồn ngẩn ngơ bể
nghể, biếng ăn, mất ngủ, sống cũng như chết, sống cũng như tượng gỗ, không biết
vui mừng, không biết ham muốn.
Trong ấm nước sôi nếu hơi lên nhiều quá nó tung mạnh, nấp ấm
cũng phải rớt. Buồn rầu cũng vậy, hễ buồn cực điểm thì nó hoá sanh bực tức
trong lòng.
Vĩnh Xuân thương tiếc Cúc Hương thái quá rồi cậu giận. Cậu giận
Cúc Hương gợi ái tình, gây duyên nợ, gieo ân nghĩa làm chi, nên bây giờ phải chịu
kẻ mất người còn, kẻ mất đã an thân, người còn đau đứt ruột. Cậu giận học thuyết
Mạnh tử bày "Xá sanh nhi thủ nghĩa" làm chi cho Cúc Hương bị cảm hoá
đến trọng nghĩa quyên sanh. Rồi cậu giận tới vợ chồng Hia Mỹ ham giàu có làm
chi, ép duyên con cho nó bực tức mà tự vận.
Nhắc tới Hia Mỹ, cậu nhớ lời Hai Tỷ nói Hia Mỹ khinh rẻ phận
cậu.
Nhớ tới việc đó, cậu trợn mắt đứng dậy đi ra đi vô. A ! Người
ta khinh mình ! Hèn chi Cúc Hương biết thế tình như vậy nên chiêm bao dặn mình
rán học tiếp đặng lập thân, mà trối với Hai Tỷ cũng dặn dò mình bỏ dẹp buồn rầu
để lo học. Nhờ cái giận đó mà Vĩnh Xuân bớt buồn. Cậu mở bánh chưng ra ăn, mắt
liếc ngó bút tích của Cúc Hương, trong trí vẫn ngậm ngùi, tưởng nhớ.
Bà Hương văn bán hết bánh rồi bà mua chút đỉnh thịt cá bưng về
kho nấu đặng ăn với con. Bước vô cửa bà thấy Xuân đương ngồi đọc sách, bà biết
con đã bớt buồn rồi nên bà vui vẻ hỏi con:
-Má để lại một cái bánh đó, con có ăn hay không ?
-Con ăn rồi hồi sớm mơi.
-Nếu vậy thì con không đói. Má không cần phải lật đật nấu cơm
cho mau.
-Xin má thủng thẳng mà nấu. Con ăn bánh chưng đó đến chiều
cũng chưa đói.
-Con có đi lên thăm ông Giáo hay không ?.
-Thưa, không. Con buồn quá nên con chưa muốn đi đâu.
-Chiều nay con lên thăm ổng một chút.
-Chiều nay chị Hai Tỷ dắt con vô viếng mộ Cúc Hương. Để bữa
khác con sẽ đi thăm thầy con. Con còn ở nhà lâu nên không gấp gì lắm.
-Té ra con có hẹn với Hai Tỷ đặng đi viếng mộ nó. Ừ, được lắm.
Nó với mẹ con mình có nghĩa quá. Con phải viếng mộ nó chớ sao. Bậy quá, phải má
hay hồi nãy má mua nhang đèn cho con khỏi thất công ra chợ nữa.
-Má khỏi lo. Cho Hai Tỷ có nói để chỉ mua cho con.
-Vậy thì xong.
Bà Hương văn vô bếp lo nấu cơm. Vĩnh Xuân để quyển sách trước
mặt, nhưng đọc ít hàng rồi ngồi lửng lơ suy nghĩ. Đến xế mát, Vĩnh Xuân sửa soạn
đặng đợi Hai Tỷ vô rồi đi viếng mộ Cúc Hương. Ban đầu cậu muốn bận đồ mát đi
cho gọn, mà rồi cậu nghĩ Cúc Hương trước kia nài ép rồi bao tiền cho mình đi học
trường lớn, chừng chết cũng còn để lời căn dặn mình phải tiếp tục học cho đến
cùng; nếu viếng mộ cô mà mình mặc đồ mát có lẽ cô không vui lòng. Nghĩ như vậy
nên cậu thay sắc phục nhà trường mà mặc.
Gần 4 giờ chiều, Hai Tỷ che dù đi vô, tay cầm một gói nhang
đèn.
Bà Hương Văn ra mời ghé nhà chơi một chút. Bà nói hồi hôm
Xuân về thuật chuyện lại cho bà nghe và trao gói hàng của Cúc Hương gởi. Tình
sâu nghĩa nặng của gái bất hạnh làm cho bà cảm động đến rơi nước mắt. Bà chắc
không thế nào Xuân cưới vợ khác mà biết tbảo thuận, biết thương mẹ chồng cho bằng
Cúc Hương. Hai Tỷ nhắc xấp xuyến của chị đưa hôm tháng ba đó là áo của Cúc
Hương mua rồi cậy chị nói dối mà hiến cho bà. Cúc Hương lại còn căn dặn khi nào
bà có thiếu hụt thì cứ cho hay đặng giúp đỡ cho Xuân an lòng ăn học. Bà nói hồi
hôm Xuân thuật chuyện đó bà mới hay, bởi vậy bà cảm động đến rơi nước mắt.
Rồi đó bà Hương văn với chị Hai Tỷ hiệp nhau trách vợ chồng
Hia Mỹ dại dột ham giàu, không kể lời nguyện ước trăm năm của con, mới gây tai
họa cho hai trẻ.
Vĩnh Xuân nghĩ mình sửa soạn đi viếng mộ để niệm ân nghĩa của
Cúc Hương, mà trách móc cha mẹ cô thì thất lễ, bởi vậy cậu thôi thúc Hai Tỷ chấm
dứt câu chuyện đặng đi cho sớm. Bà Hương văn hỏi có mua nhang đèn đem theo đốt
đặng vái vong linh Cúc Hương về chứng chiếu lòng thành của Xuân hay không. Hai
Tỷ đưa cái gói mà nói có mua đủ hết, cũng có hộp quẹt nữa.
Vĩnh Xuân lấy gói nhang đèn mà cầm rồi đội nón ra đi với Hai
Tỷ.
Tuy trời còn nắng, song nhờ có gió chướng thổi lai rai, nên
hai chị em đi bộ mà không biết nóng nực.
Vĩnh Xuân lặng thinh ngó xuống lộ, lầm lủi đi một khúc đường
rồi nói với Hai Tỷ: "Em nghĩ cuộc đời chẳng khác nào một đám hát, còn người
đời dầu trai, dầu gái, dầu trẻ, dầu già, đền là đào kép hết thảy. Trời phân người
làm tướng, kẻ làm quân, người làm quan, kẻ làm hề, người làm trung, kẻ làm nịnh,
đặng xướng ca nhảy múa một hồi cho hết vai tuồng rồi gỡ râu, cởi áo, lột mão, bỏ
hia, ra ngồi góc chợ, xó đình, ăn xôi, ăn cháo. Mà đời sống của con người cũng
như giấc chiêm bao. Lo học cho rộng, lo làm nhân nghĩa cho tròn, lo xử sự cho
khôn ngoan, lo ngồi cao hơn thiên hạ, chung cuộc rồi khôn dại, giàu nghèo, thấp
cao, lớn nhỏ cũng phải chết như nhau, không ai tránh khỏi. Ấy vậy, Cúc Hương chết
sớm, vai tuồng của cô đã dứt rồi, cô được nghỉ ngơi. Phần em còn sống đây, sống
đặng trả cho dứt nợ đời, sống đặng lăng xăng chiều chuộng thế lực nhơn tình, chớ
có ích chi cho em đâu mà sống".
Hai Tỷ day qua ngó xuân mà hỏi: "Sao em lại nghĩ bậy như
vậy ? Em tính chết theo con Tư hay sao ? Em tính cái đó quấy lắm. Em sống sao lại
vô ích. Em có một bà mẹ già nghèo khổ, đương thương yêu em, đặt tất cả hy vọng
vào sự ăn học của em. Vậy đời sống của em có cái ý nghĩa tốt đẹp quá, sống đặng
lập thân danh mà nuôi mẹ".
Vĩnh Xuân đáp: "Em có quên đâu. Vì em nhớ, nên em hay
Cúc Hương chết cho trọn nghĩa với em, mà em vẫn còn sống được đây. Đêm hồi hôm,
em tưởng nhớ tình nghĩa của Cúc Hương, em ngủ khộng được em tính đã đủ mọi đường,
mà chưa thấy phải đi đường nào mới đền đáp tình nghĩa ấy cho xứng đáng. Em nói
thiệt với chị Hai, lát nữa tới mộ, em sẽ vái vong linh Cúc Hương về đặng em xin
lỗi. Em xin cô chứng nhận lòng kỉnh ái của em, vì còn mẹ già nên em không thể
chết theo cô được. Em cũng sẽ xin cô châm chế cho em thôi học, vì nuôi mẹ già,
em làm giáo làng, giáo tổng, hoặc làm mướn, làm thuê cũng nuôi được, chẳng cần
phải học cho nhiều, học nhiều rồi vui sướng với ai, học nhiều rồi cũng làm tay
sai cho thiên hạ".
Hại Tỷ cười mà nói: "Cha chả,. em xin cái gì, chớ nói với
con Tư đặng bỏ học, chắc nó không chịu. Nó căn dặn việc đó lung lắm. Nó cứ biểu
em phải học cho đến cùng. Ý nó muốn như vậy, nên nó mới gởi tiền bạc đủ cho em
ăn học đó chớ".
Vĩnh Xuân hết cãi nữa.
Ra khỏi xóm rồi, Hai Tỷ đưa tay chỉ phía trước mà nói:
"Miếng đất chùa ngó thấy rồi đó nằm dựa lộ, về phía tay trái, chỗ có mả
lúp xúp đó".
Vĩnh Xuân nói: "Vậy thì gần lắm. Mộ của cha tôi nằm
trong xa nữa, bên phía tay mặt.
Hai người đi một chút nữa thì tới thổ mộ của chùa. Hai Tỷ do
một bờ nhỏ mà vô, chị đi trước, Vĩnh Xuân theo sau. Vĩnh Xuân buồn hiu, mắt ngó
các mộ, có ý muốn kiếm coi Cúc Hương nằm chỗ nào.
Hai Tỷ dắt đi quanh co lại tới một cái mả mới đắp, đất bị trời
nắng rên núm mả nứt đường ngang, đường dọc, phía trên đầu có cắm một mộ chí bằng
đá xanh. Hai Tỷ mới nói đó là mả của Cúc Hương. Vĩnh Xuân đọc mộ chí thấy khắc
tên Lý Thị Tư thì cậu dằn lòng nữa không được, nên bước tới ôm núm mả vừa khóc
vừa nói: "Cúc Hương em ôi ! Qua về đây em! Một phần cũng vì muốn đền đáp
tình nghĩa của em nên qua rán học đêm, học ngày. Cuối năm qua được thấy thành
công mỹ mãn, mong mau tới ngày bãi trương đặng về nói cho em vui mừng. Té ra về
thì em không còn nữa ! Qua không thấy vui mừng mà lại thấy đau khổ ! Tức quá !
Chịu sao cho nổi !"
Vĩnh Xuân nghẹn cổ, nói không được nữa.
Hai Tỷ lấy gói nhang mở ra quẹt hộp quẹt đốt hai cây đèn cầy
cắm trước mộ, mở lọn nhang thơm đốt nữa mà cắm giữa hai cây đèn. Chị đốt luôn
vài lá vàng bạc với vài tờ giấy tiền mà vái: "Có Vĩnh Xuân về cậy chị dắt
vô viếng em đây, em Tư. Hồn em linh thiêng thì về chứng chiếu lòng thành của
Xuân và nghe Xuân khóc kể.
Hai Tỷ lại nắm cánh tay Xuân dắt đứng trước nhang đèn rồi biểu
cậu vái.
Vĩnh Xuân chảy nước mắt ròng ròng, thủng thẳng đi lại đứng
trước chỗ nhang đèn, lột nón quăng xuống đất rồi chắp hai bàn tay đưa lên ngang
trán mà vái: "Qua là Phan Vĩnh Xuân, học trên trường Mỹ Tho, nhơn dịp bãi
trường nên mới được về đây. Qua tha thiết khẩn cầu vong hồn của em Lý thị Tư,
biệt hiệu Cúc Hương, hiển hích về đây nghe qua bày tỏ nỗi niềm đau khổ".
Cảm xúc quá nói không được nữa, lại thấy Hai Tỷ ngồi bẹp xuống
đất một bên đó khóc thút thít, Vĩnh Xuân càng thêm cảm, nên xếp chưn quì gối mà
khóc rống lên.
Hai Tỷ vói lấy vài lá vàng bạc mà đốt nữa.
Vĩnh Xuân móc trong úi lấy miếng lụa có bút tích của Cúc
Hương ra trải trước mặt rồi nói: "Cúc Hương em ôi ! Em rút trong sách Mạnh
Tử viết 5 chữ mà để bút tích lại cho qua xem. Xem câu đó thì qua hiểu rõ tâm
chí của em. Phận em thủ nghĩa đã xong rồi, còn phận qua đáp nghĩa, qua phải làm
sao ? Qua còn mẹ già, lại mẹ nghèo khổ, qua không phép "Sát thân vi thành
nhân" cho được. Về tới nhà từ chiều hôm qua, hay tin chắc chắn em đã chết,
chết đặng vẹn toàn tình nghĩa với qua, thì tinh thần qua tán loạn, tâm chí qua
đảo điên không còn biết đâu là phải đâu là quấy, sao là nên sao là hư mà tính.
Nếu vong linh em hiển hích, xin em mách bảo cho qua biết đường lối mà đi. Em cứ
căn dặn qua phải tiếp tục học cho đến cùng; trong giấc chiêm bao em đã biểu như
vậy, mà trối với chị Hai em cũng biểu như vậy, em lại gởi tiền cho qua ăn học đủ
bốn năm. Học làm gì nữa mà em biểu qua học ? Trước kia qua hăng hái học thêm là
vì có hai nghĩa vụ: thứ nhứt giúp cho má qua hết cực khổ, thứ nhì là làm cho
đôi ta thỏa mãn tình yêu. Nay em đã mất rồi, còn tình yêu gì nữa đâu mà phải lo
làm cho thỏa mãn ? Còn việc nuôi mẹ thì qua đã đủ sức rồi, dầu làm nghề gì qua
cũng nuôi được, không cần học cho nhiều hơn nữa. Vậy qua xin em vui lòng để cho
qua trái ý em về chỗ đó. Trót một năm rồi, qua vì em nên qua cố gắng, qua học
giỏi nhứt trong lớp. Em không còn sống mà hãnh diện về sự thành công rực rỡ của
qua. Lò lửa tinh thần của qua đã nguội lạnh rồi, nghị lực tiến thủ của qua đã
giảm suy rồi, làm sao qua học cho được giỏi nữa mà em muốn cho qua học. Thôi
em, qua không còn ham muốn phú quí, lợi danh gì nữa hết. Từ rày qua chỉ lúc lắc
theo đời đặng nuôi mẹ mà thôi, đợi hết vai tuồng rồi qua ngon giấc".
Hai Tỷ lấy vàng bạc, giấy tiền đốt thêm nữa rồi chị vái tiếp:
"Tư dặn chi những điều gì thì hồi hôm chị có nói lại cho Xuân nghe đủ hết.
Xuân lãnh gói hàng với miếng lụa Tư có viết chữ đó. Còn 50 đồng bạc thì Xuân gởi
cho chị cất, nói rằng hết muốn đi học nữa. Y theo lời em dặn, chị có khuyên
Xuân đừng buồn rầu mà bỏ học. Dầu thế nào cũng phải học cho đủ bốn năm, ý em muốn
như vậy, Xuân còn dụ dự nói để suy nghĩ lại. Đó các việc em dặn chị đã làm xong
rồi hết".
Vĩnh Xuân lấy miếng lụa, vừa đứng dậy, vừa nói: "Em chết
mà em để lại cho qua mảnh lụa nầy, chẳng những là em để bút tích của em cho qua
nhớ mà thôi, mà ý em còn tỏ trí ý của em cho qua biết nữa. Mảnh lụa nầy qua xem
nó quí giá chẳng có chi bằng. Qua sẽ cất kỹ lưỡng để dành làm lá bùa tu dưỡng.
Chừng qua có nhà cửa, qua sẽ đóng khuôn lộng kiếng treo trong phòng qua ngủ, để
thấy nó cũng như thấy em. Thân mến nhau trót hai tháng khi học Mạnh Tử với thầy
rồi thầm yêu trộm nhớ nhau tới hai năm nay nữa, hạnh phúc ấy không cho phép qua
hối hận về cuộc gặp gỡ rồi nguyện ước cuộc trăm năm. Nhưng qua nghĩ lại cái hạnh
phúc ngày bữa chớ không bền dai mà đôi ta phải mua với một giá mắc quá. Em nghĩ
coi, phải lấy đời sống của em mà đổi với cái hạnh phúc như vậy, thì uổng thân
phận em biết chừng rào. Từ buổi chiều hôm qua cho đến bây giờ qua ăn năn về sự
hốt tốc của qua. Chớ chi khi nghe em nói chuyện chiêm bao thấy ông Tơ mách bảo
duyên nợ của em, qua làm lơ đi, thà để trộm nhớ thầm yêu vậy thôi, đừng hứa hẹn
trăm năm, đừng dắt nhau vào chùa Ông mà thề thốt. Đôi. ta có yêu nhau thì để bụng.
Nếu phải duyên nợ nên sau Trời khiến được phối hiệp cùng nhau thì tốt, còn nếu
có sự trắc trở nên phải rẽ phân thì thôi, bất quá đôi ta buồn ít ngày rồi nguôi
ngoại. Tại qua thiếu thận trọng, qua nói với em bần phú bất đồng, nên sợ có chỗ
khó, tại qua biết trước như vậy mà qua không có đủ nghị lực đàn áp ái tình để
ái tình lôi cuốn rồi hứa hẹn thề nguyền nên bây giờ mới sanh họa, làm cho em.phải
xá sanh mà thủ nghĩa. Em chết tại qua. Tội của qua lớn lắm".
Vĩnh Xuân ngồi xuống đất khóc nữa. Hai Tỷ lại ngồi một bên mà
an ủi. Hai người nói chuyện với nhau, mà chẳng nói chuyện chi khác hơn là nhắc
nhở đức tánh của Cúc Hương, thương tiếc người như vậy mà mạng lại vắn.
Mặt trời chen lặn. Nhang đèn đã tắt hết rồi.
Hai Tỷ quẹt hộp quẹt cho Vĩnh Xuân đốt hết giấy tiền vàng bạc
rồi chị em mới vái vong linh Cúc Hương mà về.
Ăn cơm tối rồi, thấy con chưa thay đồ, bà Hương văn biểu con
lên thăm ông Giáo Huân một chút, kẻo ông hay về lâu mà không thăm, ông buồn.
Vĩnh Xuân nghe lời mẹ mới đi thăm ông Giáo. Vợ chồng ông thấy
Xuân thì mừng rỡ vô cùng. Ông Giáo biểu ngồi rồi ông hỏi thăm việc học. Vĩnh
Xuân tỏ thiệt trong năm rồi nhờ cậu cố gắng nên cậu giỏi nhứt trong lớp, hôm
bãi trường cậu được phần thưởng đủ các môn.
Ông Giáo nói: "Cháu thông minh lại mẫn cán, bởi vậy thầy
biết trước dầu học chữ gì cháu cũng giỏi hơn người ta. Thầy dạy mấy năm nay, thầy
thấy con trai thì có cháu, côn con gái thì có Cúc Hương, hai đứa thiệt thông
minh. Á, con Cúc Hương chết rồi. Cháu về cháu có nghe nói hay không ?".
Vĩnh Xuân dụ dự rồi đáp: "Thưa, con có nghe nói".
Ông Giáo nói: "Hia Mỹ dốt nát, ham tiền rồi làm bậy. Con
có ăn học thì chọn người có ăn học mà gả. Ép gả nó cho thằng bột, nó bực tức tự
nhiên nó phải tự vận. Năm cháu với Cúc Hương học Mạnh Tử, thầy thấy hai đứa đều
ham học, lại xứng đôi vừa lứa, thầy có tính để ít năm cháu học xong rồi, thầy
làm mai đặng cháu cưới Cúc Hương. Hai đứa phối hiệp với nhau chắc chắn gia đình
êm ấm lắm. Tại vợ chồng Hia Mỹ làm bậy nên con nhỏ chết, uổng quá".
Vĩnh Xuân nín khe.
Bà Giáo hỏi: "Hôm Cúc Hương chết, người ở chợ mình họ đồn
rùm. Họ nói Cúc Hương có hứa hẹn tóc tơ với cháu, có đắt nhau vô chùa Ông mà thề.
Khi vợ chồng Hia Mỹ tính gả nó cho con Thôn Khoa, nó có thú thiệt tình riêng của
nó. Cha mẹ nó chê cháu, làm cho nó phiền nên nó mới tự vận. Thiệt nó có hứa hẹn
với cháu, hai đàng có thề thốt với nhau, hay là thiên hạ đồn huyễn vậy cháu
?".
Vĩnh Xuân ú ớ một chút rồi mới đáp: "Thưa, họ đồn đó
đúng chớ không phải đồn huyễn".
Ông Giáo trợn mắt ngó Vịnh Xuân mà hỏi:
-Thiệt hai đứa có yêu nhau và có thề nguyền với nhau hay sao
?
-Thưa, yêu nhau rồi thề chừng khôn lớn sẽ kết nghĩa vợ chồng
với nhau vậy thôi, chớ không phải trai gái.
-Thầy hiểu. Còn nhỏ thì trai gái miệng, trai gái con mắt, chớ
biết gì mà trai gái. Mà yêu nhau, nhưng không gần nhau, tình yêu như vậy mới mặn
nồng. Hia Mỹ dại quá. Con đã thú thiệt sao lại rầy nó. Biết con có tình riêng
thì thủng thẳng ta dọ coi tình con đậm lợt thế nào, người con yêu tánh nết ra
sao, rồi ta liệu nếu con khờ dại yêu đứa hoang đàng thì ta lập thế làm cho khối
tình tan rã, còn như tên trai đó phải người, thì ta tán thành ý của con, làm
như vậy con mình nó mang ơn, mà thằng rể nếu có nghèo thì nó càng kính trọng
mình thập bội. Sao nghe con nói thì vội chê nghèo, không kể tánh tình, không
màng học thức, phủi hết để đem con mà bán vào nhà giàu, làm như vậy thì ngu qụá.
Nghe nói nó chê cháu nghèo thầy giận lắm. Người nghèo có phải là đồ bỏ đâu mà
khinh khi. Cháu rán học cháu, học cho đến cùng đặng ngồi trên cổ họ, cưới vợ
giàu bằng mời họ cho họ sáng con mắt một chút.
Vĩnh Xuân ngồi êm rơ, không nói chi hết.
Ông Giáo nói tiếp: "Thầy không biết coi tướng, nhưng thầy
biết tánh tình và trí não của cháu, thầy hắc cháu học trong ít năm nữa cháu sẽ
nên danh rực rỡ. Cháu rán làm cho vợ chồng Hia Mỹ tiếc chơi". Vĩnh Xuân
không dám thổ lộ niềm riêng với thầy, nên ngồi nghe thầy nói và cứ vâng dạ vậy
thôi, Chừng thầy bớt nói rồi cậu mới cáo từ mà về, nói về cho thầy nghỉ.
Bà Hương văn thấy con về, bà hỏi ông Giáo có nói chuyện Cúc
Hương tự tử bay không. Vĩnh Xuân thuật câu chuyện lại cho mẹ nghe; cậu nói rằng
bà Giáo hay cậu với Cúc Hương có hứa hẹn với nhau, khi cha mẹ định gả lấy chồng,
Cúc Hương có tỏ thiệt tình riêng. Tại Hia Mỹ chê cậu cứ ép gả con cho Thôn Khoa
nên Cúc Hương mới tự vận. Ông Giáo nghe nói Hia Mỹ chê cậu nghèo thì ông nổi giận,
nên khuyên cậu rán học đặng sau cưới vợ giàu hơn Hia Mỹ cho hia sáng mắt ra.
Bà Hương văn nói: "Đến ông Giáo mà nghe chuyện đó ông
cũng giận. Ông khuyên con như vậy phải lắm chớ.
Vĩnh Xuân thay đồ đặng ngủ.
Đêm đó Vĩnh Xuân nằm suy nghĩ, cậu nhớ lại thì ai cũng đốc cậu
phải rán học cho cao. Cúc Hương trối mà dặn cậu phải tiếp tục học cho đến cùng,
lại để tiền đủ cho cậu ăn học ba năm nữa. Mẹ cậu với Hai Tỷ đều khuyên cậu phải
học tiếp. Bây giờ ông Giáo Huân cũng ép nữa, ông biểu phải học cho nên danh đặng
họ hết khinh khi.
Chí tấn thủ gặp cơn ngao ngán có thể làm lung lay, còn lòng tự
ái, dầu giữa hiểm nguy hay đau khổ, bao giờ cũng vững vàng, cứng cỏi.
Bị khinh khi, Vĩnh Xuân tức giận rồi lò lửa tinh thần từ hôm
qua đã nguội lanh, nay nhờ thầy với mẹ khêu gợi, nên lần lần ngún lại ít nhiều.
Đã vậy mà hồi chiều viếng mộ Cúc Hương, khấn vái rồi thổ lộ thâm tình, Vĩnh
Xuân nhẹ bớt nỗi lòng, bởi vậy đêm nay cậu không thổn thức như đêm trước nữa, cậu
nằm êm rồi ngủ quên, ngủ rất ngon giấc.
Vì trí cứ mơ tưởng mà xác lại mệt mỏi, nên đến canh khuya vắng
vẻ, Vĩnh Xuân chiêm bao thầy Cúc Hương kêu mà tạ ơn về cuộc viếng mộ hồi chiều.
Nàng vui vẻ nói: "Em lấy làm vui mừng được thấy rõ ràng vì yêu quí em nên
khi em còn sống anh gắng sức ăn học được kết quả tốt tươi; rồi khi hay em mất
anh buồn rầu thảm thiết. Nhưng em bất mãn điều nầy: Em phải chết đặng trọn
nghĩa với anh. Anh thương tiếc thì tưởng nhớ nhau vậy thôi. Tại sao anh buồn rầu
rồi thối chí, chán đời đến tính bỏ học ? Em chết thì anh cần phải học nhiều hơn
nữa chớ. Anh phải học đặng thân được cao sang, danh được hiển đạt, cho người ta
hết khinh rẻ anh nữa. Anh phải học đặng nuôi mẹ già, cho mẹ hưởng sung sướng với
người ta, khỏi mua gánh bán bưng cực khổ nữa. Vì anh nghèo nên em mới chết,
không được phối hiệp với anh. Đó là hai động lực giúp cho anh phấn chí mà học
tiếp. Đó là đường lối đã vạch sẵn để cho anh đi. Anh không thấy hay sao, nên
anh còn biểu em chỉ dẫn. Vì em muốn anh phải đi đường lối đó là đường lối giải
thoát bần hàn để tiến tới hiển đạt, nên em ân cần căn dặn anh phải tiếp tục học
hoài, và có gởi tiền bạc lại cho anh đủ phương tiện mà ăn học. Tưởng nhớ em thì
được, mà tưởng nhớ đế chán nản bỏ học, cái đó em không vui lòng. Anh phải dẹp
chán nản và phải phấn chí mà học. Hồn em sẽ ở một bên anh luôn luôn. Anh đừng
lo chi hết".
Vĩnh Xuân mừng quá, chụp rắm tay Cúc Hương. Nàng giựt tay bước
lại cửa rồi biến mất. Chàng la lên một tiếng lớn rồi lồm cồm ngồi dậy.
Bà Hương vãn đương ngủ, bà nghe con la, lật đật quẹt hộp quẹt
đốt đèn bước ra coi. Bà thấy Xuân ngồi thở dốc, mặt đổ mồ hôi. Bà hỏi tại sao
mà la. Xuân nói chiêm bao thấy Cúc Hương về biểu phài tịếp tục học cho đến
cùng, không được bỏ lỡ dở, sẽ có linh hồn nàng theo phò hộ luôn luôn. Xuân lập
lại các lời của Cúc Hương cho mẹ nghe. Bà Hương văn nói vì Cúc Hương chết oan
nên hồn linh khôn ngoan.
Bà khuyên con phải làm theo, không được cãi. Ý Cúc Hương cũng
hiệp với ý bà và ý ông Gláo. Vậy thì Xuân không nên dụ dự nữa. Huống chi Cúc
Hương đã có để tiền bạc lại, rồi linh hồn theo ám trợ nữa thì còn dụ dự nỗi gì.
Vĩnh Xuân ngồi nghe mẹ nói, cậu không cãi, dường như mười phần
đã xuôi theo hết tám phần rồi.
Sáng bữa sau, bà Hương văn đi bán bánh rồi thì Vĩnh Xuân mặc
đồ mát, đội nón ra khép cửa đặng gởi nhà mà đi. Bữa nay cậu đi thẳng vô phía
trong thăm mả cha. Bận về cậu mới ghé mộ Cúc Hương rồi ngồi một bên mà tưởng nhớ.
Cậu ngồi rất lâu, ngồi tới mặt trời lên cao, nắng giọi nóng gắt cậu mới chịu về.
Buổi chiều cậu ra thà Hai Tỷ thuật chuyện chiêm bao hồi hôm
cho chị nghe, rồi nói thầy với mẹ cậu cũng như Cúc Hương đồng ý khuyên cậu phải
đi học tiếp cho đủ bốn năm.
Hai Tỷ nói ai cũng biểu phải đi học nữa, học đặng cho chúng hết
khinh khi. Đến Cúc Hương cũng hiện về biểu phải học cho đến cùng. Vậy thì Xuân
phải nghe lời, không được phép trái ý người yêu đã khuất mặt.
Chị lấy gói bạc giao cho Xuân.
Xuân nói: "Những người yêu tôi đều hiệp nhau khuyên tôi
phải tiếp tục học nữa. Vậy tôi phải vâng lời. Nhưng gần cuối tháng giêng mới
khai trường, nên tôi không lấy tiền bạc làm chi bây giờ. Chừng gần đi tôi sẽ lấy,
lại mỗi năm tôi lấy 10 đồng mà thôi. Xin chị Hai cất giùm để mỗi năm phát cho
tôi 10 đồng.
Hai Tỷ thấy Xuân bớt chán nản, thì chị mừng. Chừng Xuân về,
chị đi theo ra cửa mà nói: "Em thương con Tư thì cứ đi học cho nó vui
lòng. Em đừng lo cho thím Hương văn ở nhà. Bây giờ con Tư mất rồi thì còn chi
đây. Em dặn thím khi nào có túng rối thì thím cho chị hay. Chị sẽ tiếp giúp
cho. Sau em làm nên em sẽ trả lại.
Vĩnh Xuân đứng lại ngó Hai Tỷ và nói: "Em cám ơn chị. Em
sẽ rán làm nên".
Kỳ bãi trường nầy Vĩnh Xuân cứ ở nhà coi sách, không thèm ra
chợ chơi. Hễ nhớ Cúc Hương thì ra nhà Hai Tỷ nói chuyện, đặng cùng nhau nhắc nhở
người quá vãng hoặc ôm sách đi vô mộ Cúc Hương ngồi mà đọc, sớm mơi đọc tới trời
nổi nắng, buồi chiều đọc tới trời sụp tối mới chịu về. Đến Tết tinh thần Vĩnh
Xuân vượng lại như xưa, chí tấn thủ hăng hái trở lại, duy sắc mặt có vẻ buồn, cặp
mắt lườm lườm như giận.
Gần tới ngày khai trường có đò khác ra đưa hành khách đi Mỹ
Tho. Vĩnh Xuân khỏi đi đò Chợ Dinh mà phải tốn thêm tiền xe. Cậu sắp đặt sách vở
áo quần rồi đi thăm ông Giáo Huân với chị Hai Tỷ mà từ giã.
Hai Tỷ lấy gói bạc mà đưa. Vĩnh Xuân đếm lấy 10 đồng mà thôi,
còn bao nhiêu thì gởi lại, Hai Tỷ nài ép lấy 15 đồng, Xuân nói tiền cũ còn ít đồng,
nên không cần lấy nhiều.
Buổi chiều Xuân mua một lọn nhang đem vô mộ Cúc Hương đốt mà
vái, lầm thầm nguyện ước với vong linh người yêu rằng sẽ tận tâm nỗ lực mà học
đặng lập thân danh cho cao, cho thiên hạ biết núi chẳng cầu cao, hễ có tiên ở
thì có danh, sông chẳng cầu sâu, hễ có rồng thì linh thiêng, Phật vàng thờ
trong chùa rách cũng xong, chí sĩ nằm trong lều tranh cũng quí.
PHẦN II - CHƯƠNG 10 - GIỮ LỜI NGUYỆN ƯỚC
T
hợ trời thiệt là khéo léo, hoá sanh muôn loài, không bỏ sót một
loài nào, đã sanh con voi to, mà còn sanh con muỗi nhỏ, đã sanh cọp hùm để giết
người, mà còn sanh bò heo để nuôi người.
Mà thợ trời cũng thiệt trớ trêu, mỗi loài lại sanh nhiều thứ,
hình dáng, màu sắc, tánh chất đều không giống nhau, sanh rắn độc mà cũng sanh rắn
hiền, sanh hoa thơm mà cũng sanh hoa thúi.
Sanh loài người, Tạo hoá cho có mặt, có mũi, có tay, có chưn,
có gan, có ruột như nhau, mà cắc cớ sơn cho nhiều màu da, người thì trắng, kẻ
thì vàng, người thì đen, kẻ thì đỏ. Mà dầu đồng một màu da với nhau đi nữa, tâm
tánh cũng bất đồng, kẻ hiền người dữ, kẻ ngay người gian, kẻ dại người khôn, kẻ
sáng người tối.
Có một điểm, loài người dầu đen, đỏ, trắng, vàng, dầu dữ, hiền,
khôn dại, phần nhiều đều giống nhau, ấy là thói say mê tiền bạc, say mê đến nỗi
không kể tội lỗi, không biết thúi hôi, không sợ chê khen, không màng quấy phải,
áp nhau bu lại mà giựt giành, nếu giựt cho được rồi chết cũng vui lòng mà nếu
giựt không được.lại phải chết cũng không sợ.
Vĩnh Xuân nằm dưới đò trở lên Mỹ Tho mà học năm thứ nhì, khi
đò ra sông Cửa Tiểu, gặp con nước lớn chảy cuồn cuộn lại nhờ ngọn gió chướng phất
lai rai, cậu ngó nước, ngó trời, rồi cậu thầm nghĩ máy tạo, nghĩ lòng người, nghĩ
thế cuộc như hí trường, nghĩ ái tình như giấc mộng, thì cậu chúm chím cười, nhứt
là cười cái tiền bạc là quí không có thứ gì bì kịp.
Đã biết không phải tất cả mọi người đều ham tiền, cũng có người
ham thứ khác, nhưng số người ham tiền là số đông, còn số người không ham tiền
là số ít.
Số người ham tiền họ chỉ lo phận họ, lo cho hiện thời được
lên xe xuống ngựa, được ăn mặc rực rỡ, được nhà cửa kinh dinh.
Số người không ham tiền họ cho thế cuộc là hí trường, nhơn
gian tà khổ hải, bởi vậy họ lo tu tâm, dưỡng tánh, họ lo cho việc cao xa, họ lo
tương lai hơn hiện tại, bởi vậy họ không để ý đến bề ăn ở.
Người ham tiền cho người không ham tiền là người mơ mộng, rồi
họ chê là dại, không biết hưởng thú vui của đời.
Người không ham tiền cho người ham tiền là người cảm nhiễm vật
chất, rồi họ chê là gian tham, không kể nghĩa nhân, họa phước.
Hai đàng chê bai khinh rẻ lẫn nhau, ai cũng giành phần phải,
làm cho người vô can phải lưỡng lự, không biết lẽ phải ở bên nào, thấy đám ham
tiền đông hơn, đông hơn nhiều, lại rần rộ, rực rỡ thì nhảy bổ theo cho đông
thêm nữa, thành thử phe ham đạo nhân nghĩa lơ thơ rải rác, nói lẽ phải không ai
thèm nghe, rồi bị chúng khinh khi, đè ép.
Vĩnh Xuân nghĩ tới hoàn cảnh xã hội loài người như vậy thì bực
tức, lồm cồm ngồi dậy ngó ra ngoài sông. Trời cao, sông rộng gió đùa mặt nước
lao xao đập vào thuyền nghe lạch xạch. Cậu nhớ cậu thuộc trong phe ham đạo đức,
nhân nghĩa nên cậu bị phe ham tiền bạc khinh rẻ, bị Hia Mỹ chê bai, cậu nổi giận
quyết vẫy vùng cho thiên hạ hết khinh khi, quyết vượt cao cho khỏi sình lầy, bụi
bậm.
Vĩnh Xuân đương giận rồi lại nhớ Cúc Hương, nhớ hồi mở đầu
gây cuộc tình duyên, cậu có than sự bần phú bất đồng, sợ tình duyên không thành
tựu. Cúc Hương có nói nhà nàng có tiền bạc nhiều, còn chàng có tài học giỏi. Học
giỏi mới quí, tiền bạc sánh sao cho bằng. Cậu nhớ mấy lời nàng nói như vậy thì
cậu hết giận, miệng chúm chím cười, thầm nghĩ cha quí trọng bạc tiền, không hiểu
nghĩa nhân hay học thức là cai quái gì, nhưng con lại biết quí trọng học thức,
dám "xá sanh nhi thủ nghĩa" vậy thì cũng đủ chuộc lỗi cho cha rồi,
mình còn phiền ông cha mù quáng đó làm chi nữa. Nếu mình cứ chấp nhứt giận hờn
thì mình có lỗi hẹp hòi mà lại còn không vị bụng người yêu đã chết đặng cho trọn
tình, vẹn nghĩa. Mình đừng thèm giận thói đời, đừng thèm kể hủ tục, cứ che mặt
bít tai mà tu tâm khai trí, cứ lo học cho thành công đặng người bạn yêu dưới suối
vàng khỏi thất vọng, đặng bà mẹ già trên dương trần hết lao khổ, đặng thân danh
mình vượt lên cao, khỏi vướng sình lầy, khỏi bị khinh rẻ, vậy thì xong, chẳng cần
nghĩ tới việc giận hờn, thù oán làm chi nữa.
Đã định tâm, đã lập chí đã vẽ ra con đường tấn thủ xong rồi,
Vĩnh Xuân hết chán nản, tinh thần gom lại đủ, quyết tấn bộ mạnh như xưa.
Người có tánh cương quyết hễ nói thì làm, không dụ dự nữa dầu
cực nhọc hay khó khăn bao nhiêu cũng không nại. Thiệt học năm thứ nhì, Vĩnh
Xuân cũng đoạt giải nhứt trong lớp nữa. Sau lên Sài gòn hai năm cậu cũng cứ giữ
cái mực ấy luôn luôn, chúng bạn không làm sao qua mặt cậu cho nổi.
Mỗi kỳ bãi trường về nghỉ thì hai ba ngày Vĩnh Xuân đi viếng
mộ Cúc Hương một lần, mà lần nào Xuân cũng cà rà ngồi tưởng nhớ trót một hai giờ,
dường như quyến luyến không nỡ rời nhau, mất tưởng như còn, chết coi như sống.
Hai năm sau lên Sài gòn học, mỗi năm Vĩnh Xuân cũng lấy của
Hai Tỷ 10 đồng bạc mà thôi. Hai Tỷ nài ép thế nào cậu cũng không chịu lấy thêm
nữa.
Học mãn bốn năm, thi bằng thành chung, Vĩnh Xuân giỏi nhất tự
nhiên chiếm thủ khoa.
Chở rương ra về, trong lòng Vĩnh Xuân phơi phới nhẹ nhàng, mừng
học được thành công rỡ ràng, khỏi phụ tình người bạn quá vãng.
Về tới nhà, Vĩnh Xuân lấy làm hài lòng nhận thấy sự thành
công của mình làm cho người quen biết ai cũng vui mừng. Bà Hương văn Thanh tự
nhiên vui nhiều hơn hết, mà chị Hai Tỷ với vợ chồng ông Giáo Huân vui cũng
không ít.
Vĩnh Xuân đi thăm ông Giáo Huân trước hết. Vợ chồng ông mừng
rỡ, khen ngợi, vui vẽ vô cùng. Ông Giáo nói: "Thầy biết trước, hễ chảu học
thì cháu thành công rỡ ràng, bởi vậy hay cháu đậu thủ khoa, thầy cho là lẽ tự
nhiên không lạ chi hết. Thầy có môn đệ như cháu thầy lấy làm hãnh diện. Thầy tiếc
năm trước vợ chồng Hia Mỹ làm bậy nên con Cúc Hương tự vận. Chớ phải nó còn thì
bây giờ làm bạn với cháu, thầy vui lắm vậy. Học xong rồi, bây giờ cháu tính làm
việc gì ? Phải đợi nhà nước bổ mới đi làm hay là cháu phải kiếm chỗ xin mà làm
?".
Vĩnh Xuân đáp:
-Thưa thầy, bây giờ nhà nước không bổ nữa. Mình muốn vô làm sở
nào phải xin mà làm. Có sở vô phải thi, có chỗ khỏi thi. Nhà nước mới thông cáo
trong một tháng nữa sẽ mở cuộc thi tại dinh Thượng Thơ đặng tuyển 12 thầy ký lục
để bồ đi tùng sự với Tham Biện các tỉnh. Có anh em rủ nên con có làm đơn gởi
xin dự thi. Con nghỉ tới tháng sau con sẽ lên Sài gòn thi, như đậu thì nhà nước
bổ đi làm tỉnh nào tuỳ ý.
-Cháu thi thì đậu chắc trong tay. Trong ít ngày đây cháu sẽ
làm thầy thông, thầy ký vinh hiển biết chừng nào. Đây rồi vợ chồng Hia Mỹ mới
tiếc hùi hụi cho mà coi. Đi thi thông ngôn, ký lục phải ăn mặc cho đàng hoàng.
Cháu đã hết cái lớp học trò rồi, còn mặc sắc phục nhà trường nữa sao được. Cháu
có sắm áo dài hay không ? Phải bận áo dài, chớ không lẽ đi thi làm thầy mà bận
áo vắn.
-Thưa, con chưa có áo dài. Để con xin má con may cho con.
-Thôi, cháu đừng làm rộn cho chị Hương văn. Cháu thi đậu thầy
mừng. Vậy thầy thưởng cháu một vóc xuyến đặng cháu may áo dài mà bận như người
ta. Để sáng mai thím cháu ra chợ lựa mua một vóc xuyến cho thiệt tốt rồi thầy gởi
xuống cho.
-Con cám ơn thầy quá.
Bà Giáo nói: "Có gì đâu mà cám ớn. Cháu côi cúc, mẹ lại
già, mà cháu ăn học được như vậy đáng thưởng lắm. Thầy cháu thưởng cháu một cái
áo dài. Thôi, về phần thím, để thím thưởng cháu một áo cổ giữa với một quần vải
trắng đặng đủ bộ mà bận với áo dài, cho chị Hương văn khỏi lo.
Vĩnh Xuân cám ơn nữa rồi mới cáo từ mà về. Thấy chưa tối, cậu
đi thẳng ra thăm chị Hai Tỷ, gây một cuộc vui mừng tưng bừng hơn nữa.
Hai Tỷ nhắc Cúc Hương, nói chắc Cúc Hương phỉ chí vui lòng, rồi
nhắc tới Hia Mỹ cũng nói như ông Giáo, nói chắc vợ chồng Hia Mỹ tiếc không còn
Cúc Hương mà gả.
Vĩnh Xuân mời Hai Tỷ như chiều bữa sau có rảnh thì đi với cậu
vô viếng mộ Cúc Hương. Hai Tỷ chịu đi, Vĩnh Xuân dặn để cho cậu mua nhang đèn đặng
cậu tỏ tấm lòng thành thiệt tri ân người bạn trăm năm bạc mạng.
Hai Tỷ mở tủ lấy 20 đồng bạc đưa cho Vĩnh Xuân mà nói:
"Em học xong rồi, mà bạc của con Tư gởi lại bây giờ còn dư 20, chị phải
giao cho em. Em phải lấy đặng sắm áo quần mà mặc, chớ không lẽ bỏ vạ cho chị. Bạc
nó gởi đặng giao cho em thì em phải lấy chớ".
Vĩnh Xuân ngồi suy nghĩ rồi nói: "Em nghĩ lại em mang ơn
của Cúc Hương nặng quá. Nhờ có cô lo cho em đủ mọi phương diện, đã giúp đỡ tiền
bạc, lại còn lo làm cho em phấn khởi tinh thần, nên em học mới được đây. Mà để
tiền bạc lại cho em ăn học cô để dư, có lẽ cô biết trước em còn cần dùng nhiều
việc khác nữa. Tháng sau em phải lên Sài gòn mà thi ký lục. Hồi nãy thầy em nhắc
phải sắm áo dài đặng bận như người ta. May thầy em biểu em đừng lo việc đó, để
thầy em thưởng em một vóc xuyến cho em bận, rồi thím lại hứa mua vải thưởng em
để may một bộ đồ trắng mà bận với áo dài. Thiệt là may cho em lắm, ai cũng
thương, ai cũng giúp đỡ. Bây giờ còn 20 đồng bạc đây em phải lãnh để làm lộ phí
mà đi thi. Em chịu ơn của Cúc Hương cho đến cùng, rồi kiếp sau em sẽ đền đáp lại
cho cô".
Vĩnh Xuân lấy bạc bỏ vào túi.
Hai Tỷ vui vẻ nói: "Ông Giáo, bà Giáo hứa mua xuyến, mua
vải thưởng em. Vậy chừng nào có thì em đem ra đây đặng thị cậy con Ba Đẩu nó
may giùm cho. Ba Đẩu may khéo, hồi trước nó cũng thân với con Tư lắm. Nó may
giùm cho em, chắc nó không ăn tiền công đâu".
Vĩnh Xuân về thuật cho mẹ nghe sự vợ chồng ông Giáo Huân hứa
cho hàng cho vải, và chị Hai Tỷ hứa mượn may giùm, thì bà Hương văn nói:
"Nhà mình thiệt là có phước, nên không phải bà con mà ai cũng thương, ai
cũng lo giúp mẹ con mình. Con phải ghi nhớ việc đó. Nay mai con đi làm thầy
thông, thầy ký, con thấy người nghèo, con phải giúp đỡ cho họ nghe hôn con. Đó
là cách con trả ơn cho người đã giúp con".
Sáng bữa sau bà Hương văn đi ra chợ bán bánh. Vĩnh Xuân dặn mẹ
mua giùm nhang đèn với giấy tiền vàng bạc đặng buổi chầu cậu đi viếng mộ Cúc
Hương mà tạ ơn.
Đến trưa hai mẹ con đương ăn cơm, thì có một học trò gái ôm
vô đưa cho Vĩnh Xuân một gói, nói bà Giáo sai đem cho Xuân. Bà Hương văn mở liền
ra coi, thấy có một xấp xuyến đen với nuột xấp vải trắng. Vĩnh Xuân dặn con nhỏ
về thưa lại cậu cám ơn ông Giáo, bà Giáo vô cùng.
Lối nửa chiều Hai Tỷ vô tới, Vĩnh Xuân lấy nhang đèn đi liền
với chị vô mộ đặng tạ ơn Cúc Hương. Vĩnh Xuân cảm thấy phần mộ bây giờ cỏ chỉ mọc
bao trùm, cậu đốt nhang đèn và giấy vàng bạc rồi đứng trước mộ mà vái: "Em
Cúc Hương, qua học xong rồi. Qua thi đậu rỡ ràng, nên qua về đây mà tạ ơn em.
Em có công gắng vó lo cho qua ăn học thành danh. Qua vừa theo ý em, nên qua phải
giữ vẹn lời hứa. Qua học thành công rồi, nhưng em không còn cho qua đền ơn đáp
nghĩa. Vậy qua ước mong kiếp khác đôi ta tái ngộ đặng qua trả nợ cho em".
Vĩnh Xuân vái mà cậu ứa nước mắt.
Cúng vái xong rồi, Hai Tỷ với Vĩnh Xuân ngồi dựa bên mộ mà
nói chuyện.
Gíó chiều hiu hắt, ngọn cỏ phất phơ. Phía trước những thớt vườn
cau, dừa liên tiếp nhau trưng cảnh xanh lè, phía sau những đám ruộng lúa chín nằm
lải rải phơi màu vàng chói. Chim về ổ bay kêu chéo chét, người đi đường săn bước
xung xăng.
Nhắm cảnh động tình, Vĩnh Xuân ngồi tưởng nhớ người quá cố.
Hai Tỷ nhắc tánh nết Cúc Hương thẳng ngay cương quyết, ưa làm nghĩa, dám cứu
người không kể thị phi không chịu gian dối.
Vĩnh Xuân than không thế nào trong đời nầy cậu còn gặp được một
Cúc Hương thứ nhì, mà dầu gặp được có lẽ cậu cũng lãng lơ vì lửa tình đã tắt,
khối tình đã tan, trót ba năm rồi cậu sống với quyển sách hoặc bài văn, cậu vui
với vừng mây hoặc ngọn gió, cậu đã quen rồi, không biết thích thứ gì khác.
Hai Tỷ ngó cậu mà cười rồi cùng nhau đi về. Xuân nói bà Giáo
đã gởi xuyến với vải cho rồi. Hại Tỷ mới ghé nhà Xuân lấy đem về mượn may giùm.
Bà Hương văn có gói theo một bộ đồ vải cũ của Xuân để cho thợ may coi biết kích
tấc.
Cách 10 bữa sau đồ may xong. Hai Tỷ ôm lên giao cho Xuân bận
thử. Bộ đồ trắng cũng như áo xuyến bận ngoài, cái nào cũng vừa hết. Xuân bận đi
qua đi lại cho mẹ với Hai Tỷ xem cậu ra dáng thầy thông thầy ký rõ ràng, nên bà
Hương văn vui lòng cực điểm.
Hai Tỷ có đem theo một gói. nữa. Bây giờ chị mới mở gói đó ra
lấy đưa cho Xuân nuột bộ đồ vải trắng với một bộ đồ lụa trắng mà nói: "Con
Tư không còn mà lo sắm áo quần cho em đì làm việc. Chị là chi cả của hai em. Vậy
chị thay mặt cho con Tư may thêm cho em hai bộ đồ nữa. Ấy là phần của chị thưởng
em. Chị nghĩ một bộ đồ trắng bận đi làm việc không đủ, nên chị may thêm một bộ
nữa đặng có mà thay đối. Còn bộ đồ hàng để lúc rảnh rang em bận đi chơi".
Mẹ con bà Hương văn cảm tình nói không xiết.
Cách ít ngày nữa Vĩnh Xuân được thơ của người bạn học ở Sài
gòn cho hay ngày thi đã định chắc rồi và dặn phải lên trước một bữa, lên ở nhà
người bạn, đặng anh em bàn soạn với nhau mà đi thi.
Gần tới ngày thi, Vĩnh Xuân đi thi, đã có đủ áo quần, có sẵn
tiền bạc trong lưng, lại có nhà bạn mà ngụ đỡ ít bữa, khỏi tốn hao chi hết, bởi
vậy Xuân vững bụng, không lo chi nữa.
Thi ký lục, Xuân đậu nữa, cũng đậu cao. Mục đích lập thân đã
đạt được rồi. Công lao học tập thành tựu, viên mãn. Đã bỏ cảnh đời bần sĩ mà bước
qua cảnh đời thầy ký, thầy thông. Cảnh đời mới thể nào ? Chưa biết được. Mừng
mà cũng lo.
Vĩnh Xuân về tới nhà, bà Hương văn vui mừng, chị Hai Tỷ vui mừng,
vợ chồng ông Giáo Huân vui mừng. Mà ông Giáo hãnh diện hơn hết. Ông đi khoe
cùng chợ, khoe môn đệ của ông danh giá lẫy lừng, khoe tài ông đoán trước không
sai, khoe con nhà nghèo có tâm chí thì quí hơn con nhà giàu thập bội.
Mấy người buôn bán xầm xì chê vợ chồng Hia Mỹ dại, chớ chi đừng
ép gả con Tư, để bây giờ gả nó cho Vĩnh Xuân, nó được làm cô ký, cô thông sung
sướng một đời, vinh vang một cửa. Vợ chồng Hia Mỹ hổ thẹn nên ban ngày rút ở
phía sau, không muốn ló ra cửa.
Chiều bữa đó, Vĩnh Xuân một mình đi viếng mộ cha và mộ Cúc
Hương. Mỗi chỗ cậu ngồi mặc niệm giây lâu, với cha thì tạ ơn sanh thành, với
Cúc Hương thì cảm tình cảm nghĩa.
Tối lại, Vĩnh Xuân ngủ, chiêm bao thấy Cúc Hương về thăm,
nàng vui vẻ nói: "Em về mừng anh học đã thành công theo ý anh định trước,
mà cũng theo ý em mong mỏi. Em cũng cho anh hay lời em hứa với anh đâu đó đã
vuông tròn. Vậy anh thấy em lần nầy là lần chót, bởi vì ba năm nay hồn em theo
phò hộ anh cho anh ăn học. Em xin với Diêm Chúa như vậy. Nay anh ăn học đã
xong, lập thân đã xong, nên Diêm Chúa dạy em phải đi đầu thai, không để cho hồn
em theo anh nữa Vậy từ rày về sau anh tưởng nhớ em thì được, nhưng đừng vái van
mong thấy mặt em. Em không thể cho anh thấy em nữa được. Thiên cơ đã định như vậy.
Xin anh đừng buồn. Diêm chúa có mách cho em biết kiếp sau đôi ta sẽ gặp nhau. Vậy
kiếp nầy anh phải cưới vợ đặng có người lo cơm nước cho anh. Từ nhỏ chí lớn má
cực khổ lung lắm. Bây giờ má già rồi, tự nhiên má mỏi mệt. Anh đi làm việc, hễ
kiếm nhà ở yên rồi, thì rước má về mà nuôi. Nuôi má thì phải để má ở không đi
chơi. Anh đừng có để má phải lo cơm nước cho anh nữa. Anh phải cưới vợ đặng vợ
anh lo phụng sự anh và má. Thôi, em cầu chúc cho đường công danh của anh càng
ngày càng thêm rạng rỡ, ở trong gia đình thuận thảo, ra ngoài thiên hạ kính nhường,
ngó lên không hổ, ngó xuống không phiền, chí tấn thủ không khờn, lòng háo nghĩa
không mỏi. Người ta thôi thúc em phải đi cho kịp giờ. Vậy em xin anh nhìn em một
lần chót rồi cùng nhau vĩnh biệt. Em kính chào anh".
Vĩnh Xuân la một tiếng lớn, chờn vờn ngồi dậy, đưa tay như muốn
níu Cúc Hương. Té ra không thấy ai hết, chỉ có ngọn đèn leo lét trên bàn thờ với
tiếng gà cồ gáy vang trong xóm.
Bà Hương văn nghe con la lớn, bà bước ra thấy con ngồi trơ
trên ván. Bà hỏi tại sao con la. Vĩnh Xuân thuật điềm chiêm bao lại cho mẹ
nghe. Cậu nói Cúc Hương về mách bảo rằng nàng xin phép Diêm Vương hưỡn đầu thai
ba năm đặng linh hồn nàng theo phò hộ cho cậu ăn học hoàn tất. Nay cậu học đã
thành công rồi nên Diêm đình buộc nàng phải đi đầu thai, đợi kiếp khác sẽ được
phối hiệp. Nàng lại căn dặn hễ đi làm việc, dọn nhà cửa ở yên rồi thì phải cưới
vợ đặng có người lo cơm nước cho mẹ nghỉ, vì mẹ già mỏi mệt, không nên để mẹ cực
nhọc nữa.
Bà Hương văn cảm thấy hồn ma mà cũng biết hiếu đạo, sắp đi đầu
thai mà cũng còn lo cho mẹ con bà, thì bà xúc động đến ứa nước mắt. Bà đốt một
cây nhang cắm trên bàn, vái cho linh hồn Cúc Hương đầu thai vào nhà giàu có
sang trọng cho nàng sung sướng tấm thân.
Rồi đó mẹ con chong đèn ngồi mà bàn tính đời sống tương lai với
nhau. Vĩnh Xuân nói để coi nhà nước bổ đi làm việc xứ nào. Hễ tới đó cậu mướn
phố rồi cậu sẽ viết thơ cho mẹ hay đặng mẹ bán nhà, bán đồ theo ở với cậu cho mẹ
con khỏi cách biệt. Như có thể chở đồ đi được thì lựa thứ nào cần như bàn thờ,
giường, ván, thì mướn ghe chở đi, còn đồ lặt vặt không xứng đáng thì để lại cho
bà con lối xóm ai cần dùng thứ gì họ lấy mà dùng.
Mẹ con tưởng còn phải chờ lâu, té ra chưa tới 10 bữa thì có
trát Tham biện suất cho hương chức làng Vĩnh Lợi phải truyền cho thầy Phan Vĩnh
Xuân hay, quan Thống Đốc đã cấp bằng cho thầy làm ký lục chánh ngạch và bổ thầy
tùng sự với quan Tham Biện, chủ tỉnh Mỹ Tho. Vậy thầy phải đến Tòa Bố Gò Công
lãnh cấp bằng và lấy giấy đi tàu đi xe lửa lên Mỹ Tho mà làm việc.
Hương chức hay Vĩnh Xuân được nhà nước cấp bằng làm ký lục, lại
thấy quan tham Biện gọi bằng thầy thì kiêng nể, nên cậy Hương hào lại nhà bà
Hương văn mời thầy ký Xuân đến nhà việc Giồng đặng lãnh trát của quan Tham Biện.
Vĩnh Xuân mặc áo dài đàng hoàng đi lại nhà việc làng. Hương
chức niềm nở nhắc ghế mời ngồi, rồi lấy lá trát của quan Tham Biện trao cho
Xuân. Đợi Xuân xem trát rồi thôn trưởng mới nhỏ nhẹ tỏ lời khen ngợi Xuân ăn học
giỏi, được chức vị cao, làm rỡ ràng cho làng Vĩnh Lợi. Hương hào tiếp hỏi thăm
cách ăn học, cách thi cử. Hương giáo hỏi về lương hướng. Còn Hương thân tiếc
Xuân không được bổ làm việc tai Tòa Bố Gò Công cho hương chức được nhờ che chở.
Vĩnh Xuân thấy được bổ Mỹ Tho, không xa xứ sở cho lắm thì mừng
thầm, muốn về liền đặng báo tin cho mẹ hay, mà bị hương chức hỏi cù nhây làm cậu
phải mất hơn nửa giờ đồng hồ.
Chừng Vĩnh xuân về, bà Hương văn hay tin con được làm việc tại
Mỹ Tho thì bà mừng mà nói Chợ Giồng có đò đi Mỹ hằng ngày, bà lên xuống thăm con
rất tện. Xuân nói nhờ có đò nên chừng Xuân mướn được phố rồi mẹ bán nhà và chở
đồ lên mà ở, khỏi tốn hao tiền chở chuyên nhiều.
Vĩnh Xuân tính trưa mai phải xuống Tòa Bố Gò Công mà lãnh cấp
bằng với giấy đi tàu đi xe, kiếm nhà quen ở nghỉ một đêm rồi sáng mốt xuống tàu
lên Sài gòn đặng đi xe lửa qua Mỹ.
Cậu ra nhà Hai Tỷ cho chị hay và cáo từ với chị mà đi làm việc.
Hai Tỷ hỏi cậu ra đi mà còn tiền hay không. Như cậu cần dùng tiền bao nhiêu thì
nói cho chị biết, chị sẽ cho mượn. Xuân nói hôm đi thi cậu xài tiền cũ nên số bạc
20 chục đồng của chi giao hôm nọ vẫn còn nguyên. Bây giờ đi làm việc, nhà nước
cho giấy đi tàu đi xe khỏi tốn tiền, bới vậy cậu không cần dùng tiên thêm làm
chi.
Vĩnh Xuân đi thẳng lên từ giã vợ chồng ông Giảo Huân. Hai ông
bà nghe Xuân được bổ Mỹ Tho cũng mừng lắm. Bà Giáo hỏi Xuân đi làm việc, vậy mà
đem bà Hương vãn theo hay không. Xuân nói để lên trển kiếm phố mướn được rồi sẽ
rước mẹ lên. Bà Giáo nói xuất thân đi làng việc, tới xứ lạ quê người trong lưng
phải có sẵn tiền mới khỏi bối rối. Vậy để bà cho mượn một số tiền đem theo mà
xài, vì lương phải cuối tháng người ta mới phát, nếu không có tiền thì lấy chi
ăn đặng chờ ngày lãnh lương. Xuân nói đã có 20 đồng, xài một tháng không hết.
Bà Giáo nói: "Thím có một dứa con, tuổi cỡ tuổi cháu. Nó cũng mồ côi cha
như cháu mà nó ở bên Tàu, thím không châu cấp cho nó được, không biết nó no đói
thể nào. Thím thấy cháu côi cút lại bẩn chật thím thương cũng như con thím vậy.
Vậy để thím giúp cho cháu một số tiền đặng nhờ âm đức khiến cho có người khác
giúp đỡ con thím".
Bà Giáo lấy đưa cho Xuân 30 đồng bạc. Xuân cồ từ không chịu lấy.
Ông Giáo phải can thiệp, ép Xuân lấy đặng trong lưng có ít nữa là 50 đồng, chừng
nào làm có tiền dư rồi sẽ trả lại, mà dầu không trả cũng không sao, bởi vì bà
Giáo tính làm phước đặng con bà nhờ âm đức.
Xuân nghe như vậy nên mới chịu lấy tiền.
Ông Giáo hỏi chừng nào đi. Xuân nói ngày mai xuống Tòa Bố
lãnh giấy tờ rồi đi luôn.
Ông Giáo mới nói: "Vậy thì bắt đầu ngày mai cháu sẽ lìa
cố hương, sẽ xa thầy, xa bạn mà bước chưn vào đường đời, sống trong cảnh đời
khác hẳn với cảnh đời thuở nay. Cháu không phải là một đứa học trò nghèo nữa.
Cháu là thầy thông, thầy ký, kẻ bẩm, người dạ, kẻ bợ đỡ, người cầu thân. Vậy
trước khi cháu xa thầy, để thầy giảng cho một bài học cuối cùng, bài học làm
người sống với cuộc đời thực tế. Cháu có học Tứ Thơ, cháu biết thánh nhơn có
nói như vầy: sống trong đời thái bình, xa gần đều lạc nghiệp an cư mà mình ở địa
vị nghèo hèn, đó là một điều đáng hổ. Còn sống trong đời ly loạn, nước nghiêng
nhà nát, trăm họ lầm than, mà mình ngồi địa vị giàu sang, đó cũng là một điều
đáng hổ. Nay nước mình đã mất chủ quyền, mà vì cơm áo phải ấm no, lại vì thảo
thân phải toàn vẹn, nên cực chẳng đã cháu phải bỏ nho học mà theo Âu hoá, đặng
làm thầy ký, thầy thông. Xưa thánh nhơn nói ra làm quan là vì muốn thi hành đạo
học, chớ không phải vì nghèo, nhưng có khi cũng vì nghèo mà phải làm quan. Mà nếu
vì nghèo nên phải ra làm quan, thì nên lãnh một chức vụ nhỏ mọn như đánh trống
canh cũng được. Chức vụ thầy thông, thầy ký không có gì hệ trọng, nhưng người cầm
quyền không biết tiếng Việt, còn thầy thông, thầy ký thì biết tiếng Pháp. Chức
vụ nhỏ mọn mà nó thành trọng hệ là tại trường hợp đó, tại quan Pháp không biêt
tiếng Việt, dân Việt không biết tiếng Pháp, cháu làm thông ngôn, ký lục, cháu
nói và hiểu được cả hai thứ tiếng, tức nhiên cháu đứng làm trung gian giữa quan
với dân. Cháu nói sao thì quan tin vậy, cháu biểu sao thì dân làm vậy. Cháu thấy
cái đỉểm quan hệ đó hay không ?.
Vĩnh Xuân gặc đầu mà đáp:
-Dạ, con thấy.
-Ừ, chức vụ của cháu lợi hại cho làng cho dân lắm, tội phước ở
trong đó, ghét thương cũng ở trong đó mà phát sanh. Mấy mươi năm nay thầy
thông, thầy ký phần nhiều làm gió, làm mưa, làm sống, làm chết, bởi vậy mấy ổng
được dân kiêng nể chiều chuộng, dua bợ, đút nhét, nhờ vậy nên mấy ổng giàu có,
sang trọng hơn người. Mấy ổng không nhớ nước ngã, dân nghèo, cứ lo cho vinh
thân, phì gia, ăn ngon, ở sướng mà thôi. Đó cảnh đời thực tế của thầy thông, thầy
ký trong buổi nầy là vậy đó. Vì vậy nên từ bữa hay cháu thi đậu ký lục thầy giựt
mình, thầy lo cho cháu sẽ bị tiền bạc nhem thèm, rồi còn bị bợ đỡ lôi cuốn mà
cháu cũng phải sa ngã vào đường bất công, bất chánh với họ.
-Thưa, con không thế làm như họ được. Sửa soạn bước chưn lên
đường đời, con đã chọn bốn chữ "Thanh cao chánh trực" để làm tiêu biểu
đặng ngó chừng mà đi tới.
-Thanh cao chánh trực ! Được vậy thì hay lắm. Nhưng không phải
dễ mà làm được đâu cháu. Cháu chung chạ với một đám người, cả thảy đều phải
băng ngang qua một vũng bùn lầy, dầu cháu không chịu lấm chưn, cháu cũng không
làm sao cho khỏi lấm được. Nếu cháu không chịu lội qua, thì cháu trái ý với các
bạn, làm sao cháu chung chạ nữa được. Thanh liêm, cao thượng, chánh trực phải
hiền nhơn, chí sĩ mới làm được. Cháu nhỏ tuổi, lại học ít, thầy sợ e cháu khó
mà đạt được mấy đức tánh đó. Vậy thầy khuyên cháu ở đời dầu gặp trường hợp nào
cháu cũng đừng quên đạo nhân nghĩa của Khổng Mạnh. Cháu đừng dua bợ bề trên mà
cầu thân đặng dễ bóc lột kẻ dưới mà thủ lợi. Cháu phải gắt gao với cháu và rộng
dung cho người, cháu phải thương yêu cứu giúp người yếu hèn, nghèo khổ. Tiền bạc
bất nghĩa cháu đừng thèm, những thói xa hoa cháu đừng tập. Cháu phải tu tâm dưỡng
tánh, giúp người chớ đừng hại người. Được như vậy cũng đã khá lắm.
-Con sẽ rán sức làm theo lời thầy dạy.
-Cháu phải nhớ điều nầy nữa: mặc dầu vật đổi sao dời, cháu là
người Việt, thì bao giờ cháu cũng là người Việt, không lột da mà làm người gì
khác được. Cháu có biết câu hát nầy không ?
Huyện đường mãn, nha môn bất mãn,
Bìm bìm leo, thúi địch cũng leo,
Chi chi cũng kiếp thằng Tèo,
Đắc thời hống hách, nghiêng nghèo ai thương ?
(thúi địch: loại dây leo mọc ở mé sông chung lộn với đừa nước,
mùi thúi gắt. Người miền Nam ép lá thúi địch lấy nước trộn với bột gạo làm
"bánh thúi địch", bánh có màu xanh ở trung tâm và màu trắng ở rìa, ăn
với đường cát (ngọt) hoặc với mắm kho (mặn))
Cháu hiểu ý câu hát đó hay không ?
-Thưa hiểu.
Ông Giáo chúm chím cười rồi ông đưa tay chỉ ngoài sân mà hỏi:
"Cháu thấy hai chậu môn của thầy trồng thuở nay kia hay không?".
Vĩnh Xuân thấy hai chậu môn hai giống khác nhau: một giống lá
xanh mà có điểm trắng đỏ xen lộn, còn một giống lá xanh ngoài rìa, mà tròng ở
giữa thì đỏ lòm. Cậu không hiểu ý thầy hỏi chi vậy, song cậu cũng đáp:
-Thưa mấy năm nay con thấy hai chậu môn đó loài.
-Sách vở nói cây trúc tượng trưng người quân tử. Mà thầy coi
môn có đủ tánh chất quân tử hơn. Thầy trồng đó đặng mai chiều thầy ra ngó mà tu
tâm, dưỡng tánh. Cháu nhớ coi, mỗi bẹ môn, cái cọng thì thẳng ngay suôn đuột,
mà ở trong thì có lỗ thông từ dưới lên trên, không có gai, mà cũng không có
nhánh. Còn cả bụi môn thì lá nằm trên che gốc kín mít, coi có đủ văn đủ chất lắm
vậy. Năm trước thầy ngó môn rồi thầy đặt một cặp đối như vầy:
Trung thông ngoại trực, vô mạng vô chi,
Thượng cái, hạ tàn, hữu văn hữu chất.
Phải hôn ? Trong thông, ngoài thẳng, không có gai, không có
nhánh. Trên che đậy cho dưới được ấm êm, ra vẻ đủ văn, đủ chất như người quân tử.
-Thưa, thầy tả tánh chất môn như vậy thì trúng lắm.
-Ừ, chừng cháu có nhà cửa, cháu kiếm môn trồng như thầy để ra
vô dòm thấy đặng nhớ mà tu dưỡng.
-Con vâng lời thầy.
-Thôi, cháu về sửa soạn hành lý đặng mai có đi làm việc. Hồi
xưa đưa bạn đi làm quan người ta tặng cây quạt để phất gió nhân cho dân gian được
gội nhuần. Nay cháu đi làm việc, thầy cũng chúc cháu rải nhân đức cho dân chúng
đều được hấp thụ.
Bà Giáo tiếp nói: "Cháu đi mạnh giỏi. Chừng chị Hương
văn theo lên trển ở với cháu rồi, lúc nào cháu có dịp về viếng mộ, thì cháu ghé
nhà thầy thím đây ở, đừng ngại chi hết".
Vĩnh Xuân cám ơn, chúc thọ cho vợ chồng ông Giáo rồi từ mà về.
Bà Hương văn lăng xăng lo cơm cho con ăn. Bà hỏi đi thăm đủ hết
chưa. Vĩnh Xuân nói thăm xong rồi hết, lại thuật chuyện bà Giáo ép cho mượn 30
đồng bạc cho mẹ nghe. Bà nói bà dành dụm xưa rày được 10 đồng, tính chừng con
đi bà sẽ đưa cho con đem theo. Vĩnh Xuân nói bây giờ con đã có tới 50 đồng, còn
lấy thêm làm chi nữa. Cậu xin mẹ cất để dành ở nhà xài.
Buổi chiều, Xuân đi viếng mộ cha với mộ Cúc Hương một lát, rồi
xếp quần áo bỏ vô rương sửa soạn mà đi.
Bữa sau, bà Hương văn nghỉ bán bánh, ở nhà lo cơm nước cho
Xuân, rồi bà mượn người vác rương ra xe tờ, bà cũng theo đưa con đi làm thầy ký
lục
PHẦN III - CHƯƠNG 11 - LẢNG LƠ DUYÊN MỚI
C
ải cách cơ quan hành chánh, nhà nước sắp đặt lần lần trong mấy
mươi năm, đến lúc nầy người ta đã nhận thấy có nhiều tục cũ bị thủ tiêu và có
nhiều cách mới được phát hiện trong xứ.
Hai mươi hạt tổ chức hồi ban đầu, bây giờ gọi là hai mươi tỉnh.
Tham Biện cai trị mỗi tỉnh thì gọi là Tham Biện Chủ Tỉnh.
Nhà nước cũng đã ban hành đạo luật gọi là "Tổng Lý qui
điều" chỉ định cách tuyển cử Hương chức Hội tề trong mỗi làng và cách thâu
xuất giữ gìn tiền bạc công nho.
Trường học của làng thì chuyên dạy chữ quốc ngữ chớ không được
dạy chữ nho nữa. Nhơn dân đến Tòa Bố hoặc Tòa án yêu cầu hay thưa kiện việc
chi, thì đơn từ phải viết bằng chữ quốc ngữ mới được quan chấp để tra xét.
Cơ quan y tế đã bắt đầu tổ chức.
Chánh sách bắt đầu, đắp lộ để giúp thuận tiện cho cuộc giao
thông, có lẽ tại ngân sách eo hẹp nên chưa áp dụng. Lúc ấy người ta chỉ thấy
có:
l) Một đường xe lửa từ Sài gòn xuống Mỹ Tho, khởi công kiến
trúc hồi năm 1885;
2) Một đường xe lửa nhỏ từ Sài gòn vô Chợ Lớn, chạy ngang Ô
Ma (Camp des mares-gọi tắt: aux mares, có lúc là trụ sở Ủy ban quốc tế kiểm
soát đình chiến, về sau là trụ sở tổng cuộc Công an Cảnh sát);
3) Một đường xe lửa nhỏ từ Gò Vấp ra Sài gòn rồi thẳng vô Chợ
Lớn, chạy dọc theo mé sông;
4) Đường xe lửa xuyên Đông Dương, khởi công từ năm 1900, chỉ
mới đưa hành khách tới Bên Hòa mà thôi.
Còn lộ để giao thông liên tỉnh, vì chưa có xe hơi, nên không
cần thiết, bởi vậy tổ chức cuộc giao thông đường thủy thấy tiện lợi hơn.
Mỗi ngày đường Chợ Lớn xuống Gò Công và đường Sài gòn lên Thủ
Dầu Một đều có tàu đi tàu về.
Đường Sài gòn đi Vũng Tàu, Bà Rịa, mỗi tuần có hai chuyến tàu
chạy.
Đường Sài gòn lên Tây Ninh mỗi tuần có một chuyến.
Đường Sài gòn lên Nam Vang mỗi tuần có hai chiếc tàu lớn chạy
ngã sông Cửa Tiểu, ghé Mỹ Tho.
Dường Sài gòn xuống vùng Tiền Giang và qua Hậu Giang thì mỗi
tuần ba chuyến, có tàu lớn gọi là Tàu Lục Tỉnh chạy ngã kinh Chợ Gạo, cũng ghé
Mỹ Tho.
Hành khách ở Lục Tỉnh lên Sài gòn hay là ở Sài gòn về Lục Tỉnh
thảy đều phải đi ngang qua tỉnh lỵ Mỹ Tho. Mà đến 95% bận lên tới Mỹ Tho rồi người
ta đi xe lửa cho mau và bận về người ta cũng đi xe lửa xuống Mỹ Tho rồi mới đi
tàu.
Vì vậy nên người ta mở nhiều đường thủy lộ cho tàu nhỏ chạy để
đưa rước hành khách từ tỉnh lỵ Mỹ Tho xuống mấy tỉnh miệt dưới, mỗi đường đều
có tàu của hãng người Pháp mà lại có thêm tàu Hoa Kiều. Mỗi ngay có tàu đi tàu
về đường Bến Tre, đường Trà Vinh, đường Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, (tới Đai
Ngãi phải sang tàu khác), đường Vĩnh Long, Sa Déc, Long Xuyên, Rạch Giá.
Ấy vậy tỉnh lỵ Mỹ Tho chiếm vị trí trung tâm về cuộc giao
thông giữa Sài gòn và Lục Tỉnh. Tàu ở Lục Tỉnh vô tới đó phần nhiều nhằm ban
đêm. Hành khách phải trú ngụ đợi đến gần sáng mới có xe lửa chạy lên Sài gòn.
Khách sạn mở ra rước khách rất nhiều, mà luôn luôn có khách ra vào, không bao
giờ ế, bởi vì có người đi Sài gòn về, nếu họ có mua đồ nhiều, họ xuống trước buổi
chiêu ở đó nghỉ một đêm đặng sáng đem đồ xuống tàu cho tiện, khỏi phải lật đật
sợ hết tàu.
Tuy vậy mà mỗi ngày đúng 8 giờ rưỡi sớm mơi, khoảng đường từ
nhà ga xe lửa lại bến tàu, thiên hạ rần rộ, lại qua náo nhiệt. Cả chục chiếc
tàu đậu chực dưới bến đốt lửa cho nóng máy sẵn sàng, chờ khách xuống đặng mở
dây chạy liền, chiếc nào cũng muốn chạy trước đặng giành rước khách dọc đường.
Hễ nghe xe lửa síp lê đặng vô ga, thì các tàu ở mé sông đều đua nhau súp lê
vang dội. Hành khách lóng nhóng chờ xe ngừng thì chen nhau nhảy xuống rồi người
dắt con, kẻ xách đồ đi riết lại bến tàu, gây ra một quang cảnh om sòm lật đật,
kêu réo lăng xăng, làm cho người vô sự đứng coi cũng phải mệt.
Phan Vĩnh Xuân có ở học hai năm tại Mỹ Tho, thầy đã từng xem
cái quang cảnh náo nhiệt nầy.
Sáng hôm nay thầy ngồi xe lửa từ trên Sài gòn đi xuống dưới Mỹ
tho tựu chức, có giấy nhà nước cho thầy đi hạng nhì, nên trong toa xe không có
hành khách đông như bên hạng ba, chỉ có một bà sồn sồn với một thiếu nữ sang trọng
ngồi trong một góc. Thầy không dám ngó, không thế gì nói chuyện được, nên thầy
lột cái nón trắng mới mua trên Sàigòn hồi chiều hôm qua mà cầm trong tay, cứ
day mặt ra cửa sổ xem đồng ruộng với xóm nhà dọc theo đường. Thầy tính trong
trí coi chừng xuống tới Mỹ Tho thầy sắp đặt bề ăn ở cách nào, phải kiếm nơi trú
ngụ đỡ ít bữa rồi mới mướn phố mà ở được. Trú ngụ nhà ai ? Thầy chỉ quen có một
anh bạn học ở bên Chợ Cũ. Mà anh bạn đó không có đi thi ký lục. Anh đi làm việc
gì ở đâu ? Anh có ở nhà hay không ? Nếu mình chở rương đi thẳng qua đó, rủi
không có anh bạn ở nhà thì làm sao xin ở đậu cho được.
Vĩnh Xuân suy nghĩ rồi quyết định xuống tới Mỹ Tho thầy sẽ mướn
một căn phòng trong khách sạn mà để rương đặng đi trình diện. Trưa thầy ăn cơm
tiệm. Chiều thầy sẽ qua Chợ Cũ tìm bạn rồi cậy sắp đặt giùm chỗ ăn ở ít bữa.
Nghĩ tới khách sạn, Vĩnh Xuân chẳng khỏi nhớ tới quang cảnh
tưng bừng náo nhiệt khi xe lửa tới ga, tàu xúp lê vang rân, hành khách chen
nhau đi riết, hè hụi, lăng xăng, người bồng con, kẻ xách gói. Nhớ cảnh đó như
thấy trước mắt, thầy day vô ngó bà với cô ngồi trong góc miệng thầy chúm chím cười.
Bà nọ tưởng thầy cười là muốn làm quen, nên bà nhìn thầy trân trân, không dè thầy
cười là vì thầy nghĩ chừng xe tới thầy khỏi xung xăng, lật đật như họ.
Thiệt vậy chừng xe chạy ngang nghĩa địa thổi xíp lê thì hành
khách trên mấy toa xe lao nhao, kẻ đứng dậy soạn đồ người biểu con đội nón. Chừng
xe ngừng, Vĩnh Xuân bình tĩnh chống tay dựa cửa sồ mà ngó. Bà với cô đi hạng
nhì với thầy, xách đồ đi xuống, bộ đi cũng hăm hở như người ta. Thầy nghĩ ở đời
chẳng có chi vui sướng cho bằng mình vô sự, trí không lo, lòng không sợ, đứng
nhìn thiên hạ xâu xé tranh đua nhiều khi lật đật, lăng xăng mà rồi không mau
hơn ai, không ích chi hết.
Đợi người ta đi hết rồi, Vĩnh Xuân mới kêu một anh phu mướn
vác rương đem vô khách sạn ở ngang nhà ga. Thầy lấy một căn phòng nhỏ để rương
rồi rửa mặt thay đồ sạch sẽ. Thầy mặc quần lụa trắng mới với áo xuyến dài, đầu
đội nón trắng, chưn mang giày đen, lại đứng trước cái kiềng nhắm nhía rồi khóa
cửa phòng đi Tòa Bố, y phục đàng hoàng, tướng đi cứng cỏi phải điệu thầy thông,
thầy ký lắm.
Giờ đó tại Tòa Bố làng dân đương hầu rất đông, làng bịt khăn
đen, bận áo dài, còn dân thì mặc áo vắn, để đầu trần nên dễ phân biệt.
Vĩnh Xuân đi ngoài hành lang phía trước, đi giáp ba phòng, thấy
phòng nào cũng có mấy ông, mấy thầy ngồi làm việc, cả thảy đều mặc áo dài nhưng
người bịt khăn đen, người bịt khăn đầu rìu xanh, mà cũng có người không bịt
khăn gì hết. Trong cái phòng giữa rộng lớn, có năm sáu thầy ngồi hai hàng bàn đặt
hai bên. Phía trong sâu, có một bàn lớn. Một ông quan Pháp, để râu bó hàm ngồi
day mặt ra ngoài, đương hút thuốc và nói chuyện với một ông quan Pháp khác, trẻ
tuổi hơn, đứng tại đầu bàn bên tay trái.
Vĩnh Xuân nhắm nhía muốn vô, nhưng vì mới lãnh chức thầy ký
nên còn bợ ngợ, lại không biết hai ông quan Pháp nầy là ai, tự nhiên đứng dụ dự.
May có chú cai hầu ở trong phòng đi ra, hai tay áo có gắn lon vàng cháy. Vĩnh
Xuân chận chú lại mà nói:
-Tôi là ký lục, có giấy bổ tôi làm việc tại đây. Tôi muốn
trình diện với quan Chánh Tham Biện. Hai ông đương nói chuyện trong phòng đó
ông nào là ông Chánh ?
-Té ra thầy đổi lại đây. Xin lỗi thầy tôi không dè. Hai ông
đó không phải quan lớn Chánh. Ông có râu ngồi đó là quan Phó nhứt, còn ông nhỏ
đứng một bên đó là quan Phó nhì. Quan lớn Chánh ngồi phòng phía trong nữa. Phải
đi vòng vô phía sau mới hầu ngài. Mà thầy mới đổi lại, nên trình diện với quan
lớn Phó nhứt, rồi sẽ vô quan lớn Chánh. Cho hầu rồi, bây giờ hai ông nói chuyện
chơi. Thầy cứ vô đại đi, vô trình giấy cho quan lớn ngồi giữa đó.
Vĩnh Xuân nghe nói như vậy mới lấy giấy của quan Tham Biện Gò
Công phát cho đi đường mà cầm trong tay, rồi lột nón đi ngay vô, cúi đâu chào hết
hai ông và đưa giấy đi đường cho quan Phó nhứt.
Quan Phó coi giấy rồi vui vẻ hỏi Vĩnh Xuân phải mới thi đậu kỳ
nầy và phải gốc ở Gò Công hay không. Vĩnh Xuân nói phải. Ông đứng dậy kêu cai hầu,
hỏi quan lớn Chánh hồi sớm mơi ngồi xe đi quan sát vùng Chợ Cũ đã về rồi hay
chưa. Cai hầu bẩm quan lớn Chánh đã về nãy giờ rồi.
Quan Phó nhứt biểu Vĩnh Xuân đi với ông rồi ông mở cửa phía
sau lưng, dắt Ký Xuân qua trình diện với quan Chánh Tham Biện.
Khác hẳn với quan Phó, quan Chánh lớn tuổi, nhưng nhỏ vóc,
nghiêm chỉnh, nói ít lại nói chậm.
Quan Phó giới thiệu thầy ký mới, rồi quan Chánh ngó qua Vĩnh
Xuân mà nói rằng quan Phó sẽ chia việc cho thầy làm. Còn nhỏ tuổi, mới tập sự,
thầy phải siêng năng, hăng hái lo cho tròn bổn phận, đừng trễ nải, nhứt là đừng
kiếm cách làm khó cho làng, cho xã, đừng ăn tiền, bởi vì ăn hối lộ là tội trọng,
luật pháp sẽ trừng trị thẳng tay.
Mới xuất thân mà nghe lời hăm dọa, Vĩnh Xuân thấy hổ thẹn. Thầy
muốn cãi rằng không phải quyết chí bóc lột nên thầy thi mà làm ký lục, nhưng thấy
Quan Chánh oai quá, thầy phải ẩn nhẫn mà nói thầy sẽ cố gắng làm việc, làm việc
siêng năng, ngay ngắn cho đẹp lòng quan trên, không dám để lỗi phận sự.
Quan Chánh gật đầu, khoát tay, tỏ ý câu chuyện đã chấm dứt.
Quan Phó dắt Xuân trở ra, kêu thầy Khuê, người trộng tuổi, bịt khăn đen, ngồi
cái bàn gần đó, biểu dắt Xuân đi giới thiệu với mấy ông, mấy thầy trong Tòa Bố.
Trước hết thầy Khuê dắt Xuân qua trình diện với quan Phủ, ngồi
trong phòng phía tay trái. Quan Phủ bịt khăn đen, không có râu, ốm yếu, mặt
thon, nước da mét như người có bịnh. Tuổi ông đã quá 50, tánh ôn hòa, tiếng nói
nhỏ, ít hay cười. Ông nói ít lời rồi có Hương chức vào chầu, nên ông biểu thầy
Khuê dắt đi giới thiệu với mấy thầy, để bữa khác rảnh ông sẽ nói chuyện dài.
Thầy Khuê dắt ra bàn quan Huyện, ông ngồi phía trước. Quan
Huyện cao lớn, mập mạp, để râu ngạnh trê bịt khăn đầu rìu xanh, tuổi đã trên
40, tướng khỏe mạnh. Vừa nghe thầy Khuê tiến dẫn thầy ký mới thì ông vui vẻ đưa
tay ra bắt tay Vĩnh Xuân kêu bếp hầu biểu nhắc lại hai cái ghế, ép Vĩnh Xuân ngồi
và hỏi Xuân:
-Thầy ký ra trường năm nào, thầy được bao nhiêu tuổi ?
-Thưa tôi mới ra trường kỳ rồi đây. Năm nay tôi được 22 tuổi.
-Có vợ hay chưa ?
-Thưa, chưa.
-Làm ít tháng rồi cưới vợ. Ở đất nầy thiếu gì gái đẹp. Lựa cô
nào có sắc, lại có tiền, thì đem về cất nhà cửa nhà ở, sắm xe ngựa đi chơi. Làm
việc ở Tòa Bố nhà giàu họ giành mà gả con, lo gì ế vợ. Cha mẹ còn song toàn lay
không ?
-Thưa, tôi mồ côi cha, còn bà mẹ già.
-Thầy lại đây hồi nào ? Tính mướn phố dọn nhà hay là ở đậu với
người ta ?
-Thưa, tôi đi xe lửa mới tới hồi 8 giờ rưỡi đây. Tôi ghé
khách sạn mướn phòng mà để rương. Để chiều tôi đi hỏi thăm coi có nhà nào chịu
nấu cơm tháng cho tôi thì tôi xin ở đậu ít ngày, đợi kiếm phố mới được rồi sẽ ở
riêng.
-Ở khách sạn rầy rà quá, nghỉ sao được. Lại làm thầy thông,
thầy ký mà ở như vậy khó coi. Nhà tôi đông quá, nhứt là có bầy cháu ngoại giỡn
trửng rầy rà dữ. Chớ chi nhà tôi rộng, tôi mời lên nhà tôi mà ở đỡ. Mông xừ
Khuê coi trong Tòa Bố thầy nào có nhà rộng, thì nói giùm cho thầy ký ở đậu. Anh
em thuộc một ty phải giúp nhau. Đó là cuộc vần công. Bây giờ mình giúp thầy ký
đây, sau mình đổi qua tỉnh lạ, thì sẽ có thầy khác giúp mình lại.
Thầy Khuê suy nghĩ một chút rồi nói: "Mấy thầy ai cũng
có gia đình đông quá. Duy ông Kinh Lịch Lương có lẽ ổng cho Mông xừ Xuân đùm đậu
đỡ được. Ông ở một căn phố rộng rãi mát mẻ, mà nhà chỉ có hai ông bà. Con gái lớn
của ổng có chồng về ở dưới Bình Đại. Còn người con trai thì làm thông ngôn Tòa
án trên Long Xuyên. Ông cho thầy ký ở ăn cơm với ổng thì tiện lắm".
Quan Huyện nói: "Đâu thầy mời ông Kinh qua đây đặng tôi
nói giùm thử coi ổng chịu hay không ?".
Thầy Khuê đi một chút rồi dắt ông Kinh Lương qua.
Quan Huyện nói:
-Ông Kinh, thầy ký Xuân mới được bổ lại làm việc với mình
đây.
-Thưa, hồi nãy tôi thấy vô trình diện với quan lớn rồi.
-Ừ, quan Phó biểu thầy Khuê dắt đi trình diện với mấy ông, mấy
thầy. Mới đi tới đây chưa kịp qua ông. Tôi hỏi thăm mới hay thầy không có quen
với ai hết thảy phải mướn phòng ở ngoài nhà ngủ. Ở như vậy không coi được. Tôi
nghe nhà ông chỉ có hai ông bà. Vậy ông làm ơn cho thầy ký Xuân ở đậu đỡ ít
ngày đặng thẩy kiếm phố được rồi thẩy dọn nhà. Thẩy đáng em cháu, ông bà ăn gì
thì thẩy ăn nấy. Làm một ty với nhau, cũng như bà con một nhà, nếu giúp đỡ thẩy
trong bước đầu, Thẩy không quên ơn đâu.
-Tôi ở có một căn phố, tôi sợ chật hẹp bất tiện cho thẩy. Như
thẩy bằng lòng tá túc với tôi thì vợ chồng tôi vui mà cho thẩy ở đặng có người
hủ hỉ chơi.
-Được lắm, được lắm. Vậy thì xong rồi.
Xuân cám ơn ông Kinh, cám ơn quan Huyện, thấy ai cũng chiếu cố
sẵn lòng giùm giúp thầy mừng hết sức.
Ông Kinh Lương biểu Xuân đợi tan hầu rồi ông sẽ dắt về nhà ở
với ông.
Xuân cám ơn quan Huyện một lần nữa, rồi theo thầy Khuê đi
thăm hết mấy thầy trong Tòa Bố.
Chừng thăm đủ rồi, quan Phó kêu Xuân mà nói bữa nay thứ bảy,
vậy buổi chiều ông cho Xuân nghỉ ở nhà đặng lo bề ăn ở cho yên rồi sáng thứ hai
sẽ bắt đầu làm việc.
Xuân cám ơn rồi lại bàn ông Kinh Lương ngồi nói chuyện.
Ông Kinh Lịch Lương đã trên 50 tuổi, để râu le the, tóc râu đều
điểm bạc, tướng đi khoan thai, nói chuyện hòa hưỡn. Vốn nhà nho học nên y phục
đàng hoàng, đầu vấn khăn nhiễu đen, mình mặc áo xuyến đen trong có áo dài trắng.
Ông bận quần nhiễu trắng, chưn mang giầy tàu, kiểu hắc mã vĩ.
Xuân thấy ông đang ngồi dịch một tờ bán đất chữ nho ra chữ quốc
ngữ, mới hỏi ông dịch chi vậy, bây giờ người ta còn được vô đơn từ bằng chữ nho
hay sao.
Ông Kinh cắt nghĩa rằng mấy năm nay đơn từ phải viết chữ quốc
ngữ, hoặc chữ Lang sa, chớ không được viết chữ tàu nữa. Nhưng có nhiều giấy tờ
cũ thuở cựu trào lập bằng chữ tàu, như tờ chúc ngôn, tờ tương phân, tờ đoạn mãi
điền thổ, tờ hôn thơ, bây giờ có người đem những giấy tờ ấy đến xin đóng bách
phần cầu chứng đặng nạp cho Tòa. Mấy thầy bây giờ học giỏi chữ Tây mà không biết
chữ nho, làm sao hiểu cho được mà làm việc, Vì vậy nên mỗi Tòa Bố phải có một vị
Kinh Lịch đặng dịch giấy tờ chữ nho cho mấy thầy. Lại mấy tờ cáo thị nếu làm bằng
chữ quốc ngữ thì ít người đọc được. Phải dịch chữ nho một bên để phổ thông khắp
dân gian.
Xuân hỏi làm Kinh Lịch cần phải biết chữ tây hay không. Ông
nói không cần, như ông thì ông biết chữ nho với quốc ngữ mà thôi. Nếu tờ nào
quan lớn muốn hiểu cho rõ thì thầy thông ngôn coi bổn quốc ngữ của ông rồi dịch
ra chữ Tây. Đúng 11 giờ nghe trống tan hầu, mấy thầy đều dẹp đồ đi về ăn cơm.
Vĩnh Xuân đi theo ông Kinh Lương. Ra ngoài đường ông hỏi Xuân vậy chớ hành lý để
đâu, nên lấy đem luôn lại nhà ông cho rồi. Xuân dắt ông lại khách sạn, trả tiền
phòng rồi kêu xe kéo chở rương vô nhà ông Kinh.
Ông Kinh Lương ở đường từ cầu tàu Lục Tỉnh chạy vô trường học,
qua khỏi Tòa Án một đỗi, có dãy phố bên phía tay mặt, ông ở căn thứ nhì.
Ông dắt Xuân vô nhà, kêu xa phu biểu đem rương vô, chủ khách
nói chuyện lao xao. Bà Kinh ở sau bếp coi cho chị bếp dọn cơm. Bà nghe nói chuyện
phía trước, biết ông đi hầu về nhưng không biết ông nói với ai, bởi vậy bà xăng
xớm đi ra trước mà coi.
Ông Kinh đương cởi áo dài, ông thấy bà ra thì chỉ thầy Xuân
mà nói: "Thầy thông đây mới thi đậu, quan trên bổ xuống làm việc tại Tòa Bố
mình. Đến đây thầy không quen với ai hết. Quan Huyện nói để thầy ở nhà ngủ và
ăn cơm tiệm coi kỳ quá, nên ngài hỏi tôi có sẵn lòng cho thầy ở tạm, đợi kiếm
phố mướn được rồi thầy sẽ dọn nhà. Tôi nghĩ nhà mình tuy không rộng, song có 2
vợ chồng chen ngoẻn, cho thầy ở đậu không hại gì, bởi vậy tôi rước thầy vô đây.
Bà nó coi cơm rồi thì dọn ăn".
Bà kinh mừng rỡ nói: "Cơm gần rồi đa. Thay đồ rồi thì
con bếp sắp đặt cũng rồi. Ông nó rước thầy thông vô ở với mình thì phải lắm, chớ
để ở ngoài nhà ngủ coi kỳ quá. Thầy đừng ngại gì hết thầy thông. Không biết
nhau chẳng nói làm chi, chớ làm chung một chỗ cũng như bà con trong nhà. Thầy
cũng như em cháu. Thầy mới tới còn chưn ướt, chưn ráo, không quen với ai. Thôi
thì ở đây cho vui. Mỗi bữa thầy đi làm với ông Kinh. Tối tôi giăng mùng cho thầy
ngủ bộ ván trước đây. Còn cơm nước, không có thầy, tôi cùng nấu cho ổng ăn vậy.
Có thầy thì thêm một cái chén với một đôi đũa, chớ có thất công gì đâu. Thôi,
thầy thay đồ mát đi, thay đồ rồi tôi biểu nó bưng cơm lên.
Vĩnh Xuân cám ơn bà, thấy bà niềm nở sẵn lòng như ông, thầy
vui mừng hết sức.
Bà Kinh đi vô trong coi dọn cơm.
Thầy Xuân mở rương lấy đồ mát ra thay. Thầy dòm trong nhà thấy
trong ngoài sạch sẽ, vén khéo, ghế bàn tốt, tủ ván bóng ngời, có một tủ sách nhỏ,
lại có treo đờn kìm, đờn tranh, đờn cò với một ống tiêu trên vách. Trên bàn có
để một bộ chén uống trà với một bình nhỏ. Thấy như vậy thầy biết ông Kinh ưa
thú phong lưu, trưa uống trà, tối khảy đờn, không kể thị phi, không màng danh lợi.
Ông Kinh vô trong thay đồ rồi ra trước thấy thầy Xuân mặc bộ
đồ mát, chưn mang guốc, đương đứng tại cửa ngó ra đường. Ông kêu mà nói:
"Mời thầy vô thầy thông, vô đặng tôi dắt đi từ trước ra sau cho thầy biết.
Vô đặng rửa mặt rồi ăn".
Ông Kinh dắt thầy Xuân vô trong, chỉ cái giường mà nói vợ chồng
ông ngủ chỗ đó, chỉ có bàn để tại cửa sổ phía sau nói chỗ đó ăn cơm, gần đó có
lót một bộ ván gõ nhỏ để nằm chơi hoặc để ông nghỉ trưa. Ông dắt luôn xuống nhà
bếp, mở cửa sau chỉ chỗ đi đại tiện hoặc tiểu tiện cho Xuân biết rồi trở lại chỉ
thau nước cho Xuân rửa mặt.
Thầy Xuân nhận thấy nhà tuy chật hẹp, nhưng từ trước ra sau,
chỗ nào cũng sạch sẽ, đồ đạc có đủ dùng, trong có chỗ ngủ chỗ ăn, ngoài có bàn
tiếp khách uống trà, lại có ván để nằm nghỉ. Xuân mong muốn được như vầy thì mẹ
con ở thong thả.
Chị bếp bưng mâm cơm dọn lên để trên bàn. Ông Kinh mời thầy
Xuân ngồi lại ăn cơm với ông bà. Mâm cơn có một tộ canh, một dĩa thit, một dĩa
cá với một dĩa rau chớ không có phẩm thực gì quí, nhưng nấu khéo lại chén đũa sạch,
nên ăn ngon vô cùng.
Trong lúc ăn cơm, bà Kinh hỏi thăm gốc gác và gia đạo của
Xuân. Thầy lấy sư thiệt mà tỏ ông bà, cũng như thầy đã tỏ cho quan Huyện trong
Tòa Bố nghe hồi sớm mơi. Thầy cũng không giấu phận thầy là con nhà nghèo, một mẹ
một con, mẹ già hẩm hút phải bán bánh trái mà độ nhựt. Vì vậy nên từ nhỏ thầy
phải gắng công học tập đặng lập thân mà nuôi mẹ. Thầy cậy bà Kinh coi có căn phố
nào rẻ rẻ chỉ giùm cho thầy mướn đặng rước mẹ lên ở với thầy, không cần mướn phố
tốt và gần chợ, bởi vì lương hướng không bao nhiêu, phải tiện tặn cho khỏi thiếu
hụt.
Vợ chồng ông Kinh thấy Xuân khiêm nhượng lại thành thiệt thì
đem lòng thương. Bà Kinh nói: "Làm thầy thông, thầy ký phải ở phố khá khá
mới được, chớ mướn phố cho rẻ tiền thì phải ở ngoài xa lại phải chung chạ với hạng
bình dân, rầy rà tối ngày chịu không nổi đâu. Vậy để thủng thẳng kiếm cho phải
chỗ rồi dọn mà ở, không nên gấp lắm. Thầy thông đừng ái ngại chi hết. Thầy ở
đây với vợ chồng tôi, ở bao lâu cũng đươc mà. Vợ chồng tôi có hai đứa con, đứa
lớn con gái, ổng gả lấy chồng, nó ở theo bên chồng nó ở Bình Đại mấy năm nay.
Còn đứa, nhỏ, con trai, năm ngoái nó thi đậu thông ngôn Tòa án, nó đổi lên làm
việc trên Long Xuyên. Chật hẹp, mà có thầy đùm đậu vợ chồng tôi vui, chớ có sao
đâu bà ngại".
Vĩnh Xuân nói:
-Đến xứ lạ quê người mà tôi gặp được ông bà đem lòng thương
tôi như con cháu, thiệt tôi cảm đức lung lắm. Tôi xin ở đỡ năm ba ngày chớ ở
lâu cực lòng ông bà, nhứt là bà phải lo cơm nước nhiệt tôi không dám.
-Ấy, tôi nói không có cực lòng chỉ hết. Thầy đừng ngại, để thủng
thẳng coi gần gần đây có phố trống rồi sẽ mướn đặng thầy tới lui cho tiện.
Ăn cơm rồi, ông Kinh với thầy Xuân ra bàn phía trưởc ngồi uống
trà. Xuân ngó mấy cây đờn treo trên vách rồi hỏi ông Kinh.:
-Ông đờn đủ cây hay không ông Kinh ?
-Tôi chuyên về cây kìm. Còn mấy cây kia tôi không thích nên đờn
được, nhưng ngón không tươi.
-Sách nho ông có nhiều quá.
-Nhà nho thì có sách nho chớ sao ? Thầy học Tây, mà có biết
nho chút đỉnh gì hay không thầy thông ?
-Hồi tôi còn nhỏ, ông thân tôi cho tôi đi học chữ nho. Chừng
tôi được 13 tuổi, ông thân tôi mất, ông cậu tôi ép bà già tôi phải cho tôi học
chữ Tây đặng lập thân với người ta, chớ học nho nhiều không ích gì. Bà già tôi
nghe lời mới biểu tôi bỏ nho mà đi học Tây.
-Nếu vậy thì thầy biết chữ nho.
-Tôi có nghe giảng trọn bộ Tứ Thơ.
-Vậy à ? Học hết bộ Tứ Thơ thì khá lắm. Thầy học với ai ?
-Thầy tôi là ông Giáo Huân ở chợ Giồng Ông Huê.
-Chà Thầy học với ông Giáo Huân ? Tôi không biết ổng nhưng
tôi có nghe danh ổng học rộng lắm. Thầy coi truyện được hay chưa?
-Từ ngày qua học chữ Tây, tôi không cố đến chữ nho nữa. Để dọn
nhà ở yên rồi tôi sẽ tập lại.
-Tôi có truyện đủ thứ. Thầy có buồn thì cứ lấy mà đọc. Thầy
nên đọc Tam Quốc, Đông Châu, Tây Hớn, Thuỷ Hử cho biết. Thầy có tập làm thi hay
không ?
-Chưa.
-Để thủng thẳng tôi chỉ thể thức giùm cho, rồi anh em mình xứng
(xướng) họa với nhau chơi, thầy cũng nên học đờn đặng dưỡng chí phong lưu. Uống
trà ngon, làm một bài thi rồi đờn chơi vài bài, thú vị biết chừng nào. Tôi
thích sống với cảnh đời đó.
-Cảnh đời đó là cảnh đời phong lưu nhàn lạc, tôi cũng thích lắm.
-Vậy thì anh em mình là đồng thinh, đồng khí mà. Tôi mừng lắm.
Để tôi tập cho thầy biết đờn, biết làm thi phú, đặng vui hưởng thú vị thanh cao
với nhau chơi.
-Trong Tòa Bố có thầy nào giỏi chữ nho như ông vậy hay không
?
-Không có, bởi vậy tôi buồn quá. Có vài thầy trộng tuổi như
thầy Khuê hồi sớm mơi đó, họ học lỏm ít câu trong sách Minh Tâm, rồi tới đám tiệc
họ nói chữ lốp bốp, không dùng được vào chỗ nào hết. Bây giờ mấy người xưng là
nhà nho đó thì ai cũng học chữ nho chút đỉnh chớ có học đạo nho đâu, bới vậy
nhà nho đời nay không hiểu tâm để của thánh hền, không hiểu nghĩa lý sâu xa của
đạo học nên xử sự họ làm nhiều việc chướng tai gai mắt hết sức. Thầy còn trẻ tuổi,
mới bước chưn vào đường đời, thầy chưa thấy đời đê tiện. Để rảnh rồi tôi sẽ nói
cho thầy nghe. Chiều nay thầy được nghỉ mà tôi mắc đi làm. Để mai chúa nhựt,
tôi sẽ dắt thầy đi thăm mấy ông mấy thầy, phải thăm cho đủ hết. Mới đổi lại phải
thăm kẻ bề trên với bạn đồng liêu, thăm như vậy người ta mới cho thầy là người
biết lễ.
-Quan Phủ tên gì vậy ông Kinh ?
-Tên Hậu, Nguyễn Trung Hậu. Ngài ưa lập nghiêm lắm, lại có bịnh
hút nên hay quạu quọ. Còn quan Huyện tên Lê Thành Kiên. Ngài có tật uống rượu,
tánh tình vui vẻ, giản dị biết thương kẻ dưới, nên ai cũng yêu ngài.
Nhà còn lạ mà người cũng chưa quen, thầy Xuân nằm lim dim muốn
gây giấc ngủ mà cứ thao thức hoài. Thầy nhớ thầy vào Tòa Bố trình diện hồi sớm
mơi, quan chánh, quan phó đều dễ chịu, còn mấy ông, mấy thầy vui vẻ, hoan
nghính. Thầy thấy bước đầu trong đường đời đã có mòi dễ dàng, duy có lời quan lớn
Chánh Tham Biện dặn đừng hối lộ, lời ấy làm cho thầy hổ thẹn. Rồi thầy nhớ tới
ông Kinh nho nhã, bà Kinh bãi buôi, vợ chồng đều sẵn lòng giúp, dìu dắt thầy,
thì thầy lại càng thêm mừng. Nhưng thầy nghĩ không lẽ đùm đậu với người ta nhiều
ngày, thế nào cũng mướn dọn cho mau, trước khỏi làm nhọc lòng vợ chồng ông
Kinh, sau rước mẹ lên ở đặng mẹ con khỏi phân cách.
Hai giờ ông Kinh thức dậy tắm rửa rồi thay đồ đi làm việc.
Ông mở tủ lấy bộ truyện Tam Quốc Chí để trên bàn, dặn Xuân ở nhà có buồn thì đọc
thử chơi mà giải muộn.
Ông đi rồi, bà cứ theo nói chuyện với Xuân, hỏi chuyện học
hành, nói chuyện kiếm đôi bạn, học chuyện mấy thầy làm việc ở đây đều khá hết,
bà tỏ ý muốn cho Xuân hiểu cách ở đời của thiên hạ trong thời đợi kim tiền nầy.
Câu chuyện càng kéo dài bà Kinh càng tỏ tình thân thiết. Xuân
cứ ngồi nghe bà giảng dạy, dầu có điều không hạp ý thầy cũng cười chớ không dám
cãi, vì thầy không muốn trái ý bà là người trưởng thượng sáng suốt tình đời.
Gần 3 giờ rưởi, Xuân mới thay đồ thưa với bà Kinh để thầy đi
viếng nhà trường là chỗ thầy có ở ăn học hai năm, rồi qua chợ Cũ tìm một người
bạn hồi trước coi còn ở đó hay đã dời đi chỗ khác.
Vĩnh Xuân đội nón đi vô trước trung học Mỹ Tho, đứng ngó một
hồi rồi trở ra chợ, lên cầu quây mà ra Chợ Cũ. Vào nhà của người bạn cũ hỏi thăm,
thì người nhà nói anh bạn xin làm giáo viên nên quan trên đã bổ đi dạy học trường
tỉnh bên Tân An. Xuân thầm nghĩ, nếu hồi sớm mơi mình chở rương qua dây thì bơ
vơ vô ích. Thầy càng thấy phải có phước mới được gặp ông Kinh Lương. Thầy càng
kính mến hai ông bà, cả hai đều hảo tâm làm nghĩa.
Thầy đi xem phố hai bên đường, thấy dãy nào cũng tệ quá, phố
lá thì nhiều, còn phố ngói thì cũ lại căn nào cũng có người ta ở buôn bán đồ lặt
vặt, thấp thỏi, dơ đáy không phải chỗ mấy thầy ở được.
Thầy trở lại cầu quây rồi đi dọc theo mé sông mà chơi. Thầy
vô mấy đường trong có ý kiếm phố trống, té ra đãy nào cũng có người ta ở đủ,
không thế gì chen vô được nữa.
Gần 6 giờ, Vĩnh Xuân mới về tơi nhà. Tan hầu hồi 5 giờ, nên
ông Kinh về đã lâu rồi, ông nằm trên ván coi truyện Tam Quốc Chí, còn bà Kinh đứng
dựa bàn têm trầu ăn.
Thầy Xuân bước vô, ông Kinh ngồi dậy hỏi Xuân đi chơi phía
nào. Xuân nói thăm trường cũ rồi qua Chợ Cũ kiến phố, sau trở ra phía nhà ga nữa.
Bà Kinh nói: "Phố bên chợ cũ tệ quá, thầy ở sao được mà
kiếm. Còn phía ngoài ga bao giờ có trống mà mong. Tôi biểu để thủng thẳng vậy
mà, gấp làm chi. Tôi nghe phong phanh dãy mình đây có một người tính đi, họ về
An Hoá. Vậy để đợi họ đi rồi tôi sẽ mướn giùm cho thầy, đặng bà con mình ở gần
nhau cho vui".
Xuân nói: "Nếu được vậy thì tốt lắm".
Bà Kinh nói: "Phố nầy sạch sẽ lại thị tứ, mà một tháng
có năm đồng, rẻ quá".
Ông Kinh nói: "Buổi chiều nay vô nhà hầu, tôi có nghe một
chuyện ngộ ngộ. Số là thuở nay thầy Sung coi bộ đinh (dân cư, thuế thân) mà coi
luôn bộ sanh ý (ngề nghiệp, thuế hành nghề) nữa. Bây giờ buôn bán thạnh phát,
dân sự đến xin sanh ý nườm nượp. Thầy Sung làm tới hai việc thầy làm không xiết,
để bê trể người ta kêu nài hoài. Quan Phó nhứt mới nói với quan lớn Chánh xin
thêm một thầy ký nữa đặng chia công việc với thầy Sung. Hổm nay được mấy quan
trên cấp bằng thầy xuống đây ai cũng tưởng quan Phó sẽ chia cho thầy hoặc bộ
đinh, hoặc bộ sanh ý. Hồi sớm mơi thầy vô trình diện với quan Phó, rồi ổng dắt
thầy vô quan lớn Chánh. Chừng trở ra ổng biểu Thầy Khuê dắt thầy đi giới thiệu
với mấy ông, mấy thầy trong nhà hầu. Hồi nãy đi về chung một khúc đường với thầy
Huấn coi về điền thổ, thầy nói nhỏ với tôi rằng quan Phó nhứt sẽ bắt thầy đứng
thông ngôn cho ông chớ không phải coi bộ đinh hay là sanh ý".
Vĩnh xuân la lớn :
-Trời ơi ! Tôi mới vô làm việc, tôi chưa biết gì hết, tôi đứng
thông ngôn sao nổi. Phải để tôi tập sự lâu lâu cho tôi thông thạo việc nhà nước
đã chớ. Mà sao thầy Huấn biết việc đó nên thầy nói với ông.
-Thầy nói lúc thầy Khuê đưa thầy đi chào mấy ông mấy thầy đó
thì quan Phó nhì qua nói chuyện với quan Phó nhứt; hai ông đồng khen thầy ký mới
nói tiếng Tây bặt thiệp rành rẽ. Quan Phó nhứt lại nói ổng sẽ bắt thầy đứng
thông ngôn thế cho thầy Khuê vì thầy Khuê chậm lụt, nói tiếng Tây không chạy.
-Thưa, không được. Nếu quan Phó biểu thì tôi xin từ, để cho
tôi làm việc gì dễ dễ đặng tôi học tập. Tôi chưa hiểu việc nhà nước mà đứng
thông ngôn nỗi gì. Làm không kham nói bậy bạ họ cười chết.
-Thông ngôn với quan Phó có gì đâu mà khó. Họ hầu đặng xin
sách ghe, đóng sanh ý, mua bán trâu bò với điền thổ, hoặc xin phép về việc lặt
vặt vậy thôi. Mấy việc lớn thì hầu trong quan lớn chánh. Thầy đứng thông ngôn
chừng một tuần lễ thầy thạo hết.
-Tôi cũng phải từ, vì nếu tôi chịu, té ra tôi giựt chỗ thầy
Khuê.
-Tại lịnh quan Phó định, chớ có phải thầy xin hay sao mà sợ
mích lòng. Thầy Khuê giao việc của thẩy cho thầy làm thì thẩy coi sanh ý hay là
bộ đinh cũng có lợi vậy, tuy thua bộ thuyền một chút. Nếu thầy đứng thông ngôn
thì thầy coi bộ thuyền, giấy súng với đơn xin phép lặt vặt, thầy làm nếu có việc
chi chưa hiểu tôi chỉ giùm cho, đừng lo chi hết. Thầy thay đồ rồi đi ăn cơm.
Vĩnh Xuân thay đồ mà sắc mặt buồn xo.
Bà Kinh ngó ông mà nói:.
-Quan Phó thấy có tài nên bắt đứng thông ngôn, vinh vang hết
sức mà thầy thông không vui, cái đó mới là kỳ.
-Vui hay buồn cũng vậy, mình tùng sự với quan Tham Biện, quan
muốn biểu mình làm việc gì, mình phải làm chớ cãi sao được. Để ăn cơm rồi tôi sẽ
cắt nghĩa tư cách của thầy thông ngôn ký lục cho thầy nghe. Bà đi dọn cơm đi.
Từ hồi trưa đến giờ, bà Kinh thấy Vĩnh Xuân mềm mỏng, nhỏ
nhoi hiền lành, thành thiệt, bà đem lòng yêu, lại nghe nói nhà nghèo, mẹ góa
con côi nên thầy rán ăn học đặng làm việc mà nuôi mẹ thì bà phới động từ tâm,
bà quyết giúp đỡ thầy đặng làm ơn, làm nghĩa. Bây giờ bà nghe ông Kinh nói quan
Phó nhứt khen Vĩnh Xuân bặt thiệp, nói tiếng Tây gọn ghẽ dễ dàng; ổng định bắt
thầy đứng thông ngôn thế cho thầy Khuê lù mù, chậm chạp thì bà thêm mến tài học
của thầy nữa. Bà thầm nghĩ, thầy mới để chưn vào hoạn lộ, thì được quan trên
yêu chuộng liền; nếu không học giỏi, không nói hay hơn người, thì làm sao mà được
vậy. Thầy thông trẻ tuổi nầy không phải là người tầm thường, thầy sẽ đi xa, sẽ
vượt lên cao, rồi đây thầy sẽ lần lên thông ngôn cho quan lớn Chánh, sẽ bước tới
địa vị ông Huyện, ông Phủ cho mà coi. Giúp đỡ thầy không uổng công đâu.
Ngồi ăn cơm, bà thấy Vĩnh Xuân vẫn còn sắc buồn bà mới cười
mà nói:
-Mấy thầy đi làm việc, ai cũng mong mỏi được đứng thông ngôn
cho vinh vang. Nhiều khi họ dùng cách cúi lòn, bợ đỡ, hoặc âm mưu hại bạn đặng
giựt cái địa vị đó. Thầy thông mới lại tới, quan Phó tự nhiên muốn bắt thầy đứng
bàn, thầy không bợ đỡ không âm mưu giành giựt chỗ của ai. Dày công ăn học giỏi
hơn người, tự nhiên thầy được phần thưởng, chớ có gì đâu mà thầy lo ngại nên buồn
đến muốn thoái thác.
-Thưa bà, vì nghèo nên cực chẳng đã tôi phải theo tân học đặng
làm việc lãnh lương mà nuôi mẹ. Tôi ước mong được ngồi yên trong một góc bàn mà
biên chép, chờ cuối tháng lãnh tương ăn vậy. Tôi thưa thiệt với ông bà, tôi
không ham danh, ham lợi chút nào hết, nhứt là danh không chánh đáng và thứ lợi
không hạp nghĩa.
-Không ra làm thầy thông, thầy ký thì thôi chớ thầy đã mang
cái lớp thầy thông thây ký thì còn nệ cái gì nữa. Thầy đã vào trường danh lợi rồi
thì phải chen lấn tranh đua với người ta, không nên để thua sút họ. Tuổi thầy
đáng em cháu của vợ chồng tôi, vậy để tôi nói sự thiệt cho thầy nghe. Thầy côi
cút nhà nghèo, phải nuôi mẹ già lại chưa có vợ. Thầy cần phải có tiền, có danh
hơn người ta, chớ sao lại chê. Phải có tiền đặng nuôi mẹ cho sung sướng, phải
có danh đặng cưới vợ chỗ sang giàu. Tôi khuyên nhập gia tuỳ tục, người ta làm
sao, thầy cứ làm vậy, đừng thèm ngại chi hết. Với tài học đã cao của thầy, chắc
thầy sẽ hiển đạt mau lẹ.
-Hôm tôi được trát đòi đi làm việc, tôi có đến từ giã ông thầy
cũ của tôi là ông Giáo Huân. Thầy tôi có giảng dạy việc đời cho tôi nghe, có nhắc
đời quân tử theo trong sách rồi chỉ đời thực tế theo bây giờ. Thầy tôi cặn đặn
dầu việc chi cũng đừng quên đạo nhân nghĩa của Khổng Mạnh, mặc dầu người đời
nay họ chê đạo ấy đã lỡ thời, là thối hoá. Tôi đã có hứa với thầy tôi, dầu phải
nghèo khổ, dầu bị hoạn nạn, tôi cũng chẳng dám bỏ nhân nghĩa, là căn bản tấn
hoá của người Việt nam. Tôi lại quyết định lấy bốn chữ "Thanh cao chánh trực"
làm tiêu biểu, để nhắm vào đó mà bước tới. Tôi nghĩ đã làm thân trâu ngựa thì
còn kể danh lợi làm chi. Sống giữa đời hỗn độn thì giàu sang càng thêm hổ.
Nãy giờ ông Kinh ngồi ăn lóng tai nghe bà Kinh với Vĩnh Xuân
bàn cãi, ông không muốn chen vô. Đến đây ông mới cười và nói:
-Tôi hiểu tâm trí của thầy thông rồi. Môn đệ của ông Giáo
Huân dầu hèn cũng thể, có lẽ nào thua sút người ta. Câu chuyện thầy nói với bà
nó đó tôi xin thầy đình lại, để thầy làm việc ít ngày cho thầy thấy thế thái
nhân tình, cho thầy nếm mùi đời cay đắng rồi tôi sẽ bàn luận với thầy. Bây giờ
tôi xin cãi với thầy về điểm nầy: thầy nói đã làm thân trâu ngựa thì còn kể
danh lợi làm chi. Thế thì quan Phó muốn thá ví phía nào thì thầy phải đi phía
đó, chớ sao thầy cự nự, dầu đi qua sình lầy, thầy cũng phải rán mà bước, làm
sao mà cãi được.
Vĩnh Xuân suy nghĩ một chút rồi nói:
-Thiệt vậy, đã làm tay sai thì người ta biểu làm gì thì mình
phải làm theo, chớ đâu được phép cãi. Nhưng nếu việc người ta biểu mình làm đó
quá sức của mình thì mình phải nói trước cho người ta biết đặng khỏi trách
mình.
Ông Kinh gặc đầu nói:
-Nói như vậy thì phải. Làm việc mà thầy biết dè dặt như vậy
thì ai dám khinh khi.
Ăn cơm rồi thì trời đã tối. Ông Kinh đốt cái đèn treo cho
sáng, rồi ông với Vĩnh Xuân ngồi tại bàn mà uống trà. Không hiểu vì muốn khoe
ngón đờn tươi, hay là vì cảm hứng gặp bạn đồng đạo, mà ông Kinh uống vài chung
trà rồi ông lấy đờn kìm treo trên vách, đem lại ván ngồi vít đốc (khêu tim đèn)
mà lên dây. Bắt đầu ông đờn nuột bản nam xuân rồi sửa dây đờn một bản lưu thủy.
Sau hết ông đổi dây oán, đờn thêm lột bản tứ đại nữa..
Vĩnh Xuân ngồi nghe, vì ngón đờn giéo giắt, tiếng đờn thanh
tao, nên thầy mê mẩn tâm thần. Thầy liếc mắt ngó ông Kinh, thấy ông đờn mà sắc
mặt ông vui sướng như nương mây mà bay, như ngồi trên đỉnh núi cao nhìn xuống đồng
áng. Phong lưu biết chừng nào ! Thú vị biết chừng nào !
Ông Kinh đờn mấy bản rồi ông để cây đờn trên ván, lại rót
chung trà mà uống. Nghe Vĩnh Xuân khen ông đờn tươi, ông hứng chí lấy ống tiêu ngồi
ngang thầy mà thổi chơi ít bài.
Vĩnh Xuân càng mê mẩn hơn nữa.
Ông Kinh để ống tiêu trên bàn mà nói:
-Thầy thông đã thấy đời sống của tôi về bề ngoài rồi. Để tôi
dở bề trong cho thầy xem luôn. Tôi cũng như thầy, tôi không màng danh lợi. Làm
việc thì tôi đi đúng giờ, không khi nào bê trễ. Mà làm việc là có ý để lãnh
lương đủ cho vợ chồng sống thong thả mà thôi, không cần dư. Giữ xã giao đủ lễ,
đám tiệc mời phải đi. Không ham thả đi chơi. Thú vui của tôi là lúc rảnh rang,
uống trà ngon, ngâm ít câu thi, đờn chơi vài bản, rồi nằm đọc truyện, đọc sách.
Ai tranh đua danh lợi mặc ai, tôi cứ giữ thú vui của tôi, ai nói khôn không mừng,
ai chê dại không giận.
-Bề, cư xử của ông như vậy thì ông là quân tử rồi.
-Tôi không dám lãnh lời thầy tặng đó. Tôi chỉ lo thủ phận cho
an thân vậy thôi.
-Tôi ước mong được như ông thì nguyện vọng đã thỏa mãn. Nếu
tôi dọn nhà cửa yên rồi và nếu ông sẵn lòng với tôi thì tôi sẽ xin thọ gáo đặng
ông dạy tôi đờn kìm, vì tôi nghe tiếng đờn kìm sao tôi thích quá.
-Được chớ. Tôi sẵn lòng chỉ cho. Tôi muốn thầy học đờn mà
cũng tập thi phú chơi nữa. Khảy đờn ngâm thi là thú phong lưu cao thượng đệ nhứt,
người có học ai cũng phải biết thưởng thức cái thú ấy. Đợi ít bữa thầy lãnh việc
làm quen rồi thì bắt đầu tập liền, cần gì phải chờ dọn nhà.
Ông Kinh mở tủ lấy tập thi của ông làm thuở nay đưa cho Vĩnh
Xuân xem. Hai người đọc và bình luận với nhau đến khuya mới đi ngủ.
Sáng bữa sau, ông Kinh Lương dắt thầy Vĩnh Xuân đến thăm mấy
ông, mấy thầy trong Tòa Bố, thăm đủ hết không bỏ sót một nhà nào.
Qua sáng thứ hai, Vĩnh Xuân bắt đầu theo ông Kinh đi làm việc.
Quan Phó nhứt lại nhà hầu, vừa ngồi thì ông kêu thầy Khuê, thầy
Sung với Vĩnh Xuân lại mà nói ông nhứt định bắt thầy Xuân đứng thông ngôn cho
ông. Ông biểu thầy Khuê giao việc của thầy cho Xuân làm, còn thầy Sung thì giao
bộ đinh cho thầy Khuê coi.
Vĩnh xuân nhỏ nhẹ nói với quan Phó rằng mình mới vô làm chưa
hiểu công việc nhà nước, nên xin cho phụ vơi một thầy nào đó, để tập sự một thời
gian cho quen, rồi làm một mình mới được. Ông Phó nói không có gì khó, làm
trong ít bữa thì quen. Ông dặn thầy Khuê phải chỉ cách thức mỗi việc cho Xuân
biết. Xuân không dám cãi nữa.
Thế thì lời ông Kinh nói không sai. Mới vô lãnh việc Vĩnh
Xuân đã được đứng thông ngôn cho quan Phó và coi bộ thuyền với giấy súng. Trong
nhà hầu ai cũng nể, vì lịnh của quan Bố nhứt đã định, nên không ai dám bàn luận
gì hết.
Chừng tan hầu đi về dọc đường, ông Kinh mới thỏ thẻ nói cho
Vĩnh Xuân hay rằng theo lời người ta đồn thì quan Phó nhứt đổi thông ngôn thiệt
cũng tại thầy Khuê nói tiếng Tây không rành, mà phần nhiều là tại thầy Khuê
phát giấy súng thầy ăn tiền sao đó thấu tới tai quan Phó nên ổng mấy (mới) đổi
thầy qua coi bộ đinh.
Về tới nhà ông Kinh kêu bà mà cho hay quan Phó đã bắt Vĩnh
Xuân đứng thông ngôn thế cho thầy Khuê rồi. Bà vui mừng mà nói: "Có phước
thì có phần. Hữu tài tất đắc dụng".
Vĩnh Xuân nói: "Thế nào tôi cũng không quên tiêu biểu của
tôi: "Thanh cao chánh trực".
PHẦN III - CHƯƠNG 12 -
N
gười có danh thường hay thận trọng, dầu danh lớn hay nhỏ cũng
vậy, phải lo giữ gìn củng cố; không chịu để cho người ta chê "hữu danh vô
thiệt", phải làm sao cho người ta công nhận "danh bất hư truyền".
Vĩnh Xuân hồi nhỏ học chữ nho với ông Giáo Huân, được ông
Giáo khen thông minh, mẫn cán, ông cho là ngôi sao rạng rỡ trong trường ông. Chừng
bỏ nho học mà theo Tây học, thì từ Chợ Giồng xuống Gò Công, sau lên Mỹ Tho, Sài
gòn cũng vậy, học trường não cũng được cái danh giỏi nhứt trong lớp.
Nay xuất thân đi làm việc vừa mới vào Tòa Bố Mỹ Tho trình diện,
liền được quan Phó Tham Biện khen thầy bặt thiệp, nói tiếng Tây dễ dàng nên chọn
thầy đứng thông ngôn. Dầu muốn dầu không thầy cũng phải vâng chịu không được
phép kiếm kế mà từ chối.
Trưa về ăn cơm, Vĩnh Xuân nói với ông Kinh:
-Đường đời có nhiều khoảng gay go. Bây giờ tôi mới thấy gay
go thiệt. Thi đặng làm nghề ký lục tôi tưởng tôi ngồi biên chép rồi cuối tháng
lãnh lương mà ăn vậy thôi. Tôi có dè phải làm việc khó quá như vầy đâu.
-Có khó chi đâu. Tôi biết thầy dư sức. Thầy đừng lo chi hết.
Hồi sớm mơi quan Phó cho dân vô hầu. Thầy đứng thông ngôn lần đầu, mà mấy thầy
lén coi ai cũng cho thầy thông ngôn vững vàng, không bợ ngợ, không lụi đụi chút
nào hết. Người ta đoán trong ít lâu thầy sẽ lên đứng thông ngôn cho quan lớn
Chánh cho mà coi.
-Làm việc gì cũng vậy, hễ có thiện chí tự nhiên phải thành
công. Tuy chưa thạo việc, song tôi cố gắng, có lẽ tôi cũng sẽ làm cho quan trên
vừa lòng được. Có một điều làm cho tôi ái ngại quá nên hết sốt sắng.
-Điều gì ?
-Hồi nãy đi về dọc đường ông nói ông nghe rõ lại thì quan Phó
không để thầy Khuê thông ngôn nữa là tại thầy ăn hối lộ sao đó nên mất tín nhiệm.
-Tại thầy làm lộng quá nên mới đổ bể chớ. Làm việc ai lại khỏi
quơ quào chút đỉnh. Nhưng người ta làm kín đáo có sao đâu.
-Tôi nghe như vậy tôi buồn quá. Hôm thứ bảy vô trình diện với
quan lớn Chánh, ổng dặn tôi làm việc phải siêng năng, mà ổng còn khuyên tôi đừng
hối lộ. Tôi hối lộ có danh hay sao mà ổng khuyên như vậy ? Lời khuyên đó nhục
tôi quá, bởi vậy hổm nay tôi phiền không biết chừng nào. Tôi nói thiệt nếu nhà
tôi có cơm tiền đủ sống thì hôm đó tôi nói tiếng cho ổng nghe rồi tôi đi về. Vì
nghèo nên phải làm tay sai cho người ta, mà còn để cho người ta nhục mạ nữa thì
chịu sao được.
-Thầy đừng phiền. Có lẽ tại quan Phó đã cho quan lớn Chánh
hay thầy Khuê lôi thôi sao đó và đã có tính hễ thầy vô làm việc thì bắt thầy thế
cho thầy Khuê, nên quan lớn Chánh mới khuyên như vậy, nghĩa là khuyên đừng có
làm như thầy Khuê, chớ không phải cố ý nhục thầy.
-Nếu vậy thì một thầy hối lộ rồi cho tất cả mấy thầy đều hối
lộ hết hay sao mà dặn như vậy ?
-Việc đó tôi không muốn nói. Để thầy làm lâu lâu rồi thầy sẽ
hiểu lấy
-Ai làm sao thì làm. Tôi lập chí thanh cao chánh trực như tôi
đã dặn lòng tôi, mà tôi cũng đã hứa với thầy tôi như vậy.
-Được vậy thì quí lắm.
-Dại hay khôn chung cuộc rồi mới biết.
-Thầy ở theo sách chớ không chịu ở theo đời.
-Sách hay đời cũng vậy, có cái phải mà cũng có cái quấy. Tôi
quyết ăn ở theo lẽ phải mà thôi, không kể đời hay sách.
-Được lắm, được lắm. Cuộc đời biến chuyển, con người tấn hoá.
Phải dung hòa cũ với mới cho hiệp thời. Duy có lẽ phải bao giờ cũng là lẽ phải,
không làm sao thay đổi được. Nếu cái phải mà cho là quấy, còn cái quấy lại cho
là cái phải, thì trật tự đảo điên, Phật Trời sụp đổ còn biết đâu mà nương dựa nữa.
Tôi khuyên thầy thông cứ lấy lẽ phải nhà xử sự; ăn ở như vầy thì không ai dám
khinh khi, mà cũng khỏi lo ai oán hận.
-Quan Phó gây chuyện rắc rối cho tôi quá. Chớ chi ổng giao bộ
đinh cho tôi coi thì tôi khỏe, tôi mới lo kiếm phố mướn mà dọn chỗ ăn ở được.
Bà Kinh chặn mà nói:
-Thầy thông lo dọn nhà gấp làm chi; ở đỡ đây với vợ chồng tôi
được mà.
-Ở đôi ba ngày không nói gì, chớ ở lâu quá tôi làm nhọc lòng
ông bà. Tôi đâu dám.
-Thầy ở đây vợ chồng tôi vui lắm, có nhọc lòng gì đâu. Thầy ở
mấy tháng cũng được.
-Tôi muốn dọn nhà đặng rước bà già tôi lên. Hôm ra đi tôi có
hứa; nếu để lâu quá sợ bà già tôi trông.
-À nếu có việc đó nữa thì tôi không cãn. Mà tôi muốn thầy ở gần
đây đặng tới lui chơi cho tiện. Tôi hỏi lại thì chắc có người ở dãy phố nầy họ
sẽ dọn đi. Vậy thầy viết thơ thưa cho bà chị hay, đợi tháng sau có lẽ sẽ có phố
trống mà dọn nhà được. Để tôi nói trước với chủ phố, hễ người đó trả phố thì phải
giao chìa khóa cho tôi, Chủ phố làm Hương cả làng nầy. Nghe nói thầy thông đứng
bàn quan Phó mướn phố, ổng phải bằng lòng, đâu dám cho người khác đâu mà sợ.
Ông Kinh tiếp nói: "Thầy muốn học đờn, tập làm thi với
tôi thì phải ở gần nhau cho tiện. Thầy rán chờ ít ngày. Ở đỡ đây với tôi được
mà. Thầy ở tới chừng nào cũng không sao đâu mà ngại".
Hai bữa nay vợ chồng ông Kinh thấy Vĩnh Xuân mới vô làm liền
được đứng thông ngôn thì biết thầy học giỏi thiệt. Đã vậy mà thầy tánh tình ôn
hòa, khiêm nhượng, song cứng cỏi thẳng ngay, vợ chồng đem lòng yêu, muốn chứa
thầy ở lâu lâu cho vui.
Còn Vĩnh Xuân chưa thạo việc trong nhà hầu, cũng muốn cậy ông
Kinh chỉ dẫn, nên không đòi dọn nhà gấp nữa, viết thơ cho mẹ hay rằng chưa kiếm
được phố trống, nên xin chờ qua tháng sau mới có thể dọn nhà.
Bây giờ mắc lo làm việc bổn phận vuông tròn, Vĩnh Xuân chưa
dám nói tới việc học đờn và việc làm thi. Vô nhà hầu thì phải soạn các nghị định
và huấn lịnh của quan trên nói về bộ thuyền mà xem cho hiểu thuyền chia làm mấy
hạng, thuyền lớn phải làm sao, cách thức đo thuyền mà tính ra trọng tải thế
nào, tính số thuế cách nào, ghe tân tạo phải làm sao mà cho sách, ghe giải bản
phải làm sao mà bôi hộ.
Thầy cũng kiếm xem huấn lịnh về phép bắn súng, xem coi tính
được bao nhiêu giấy phép, buộc người xin phép bắn súng phải có điều kiện gì,
người có súng nếu chết, thân nhơn phải làm sao.
Trong hai ngày thì Vĩnh Xuân đã biết hết công việc của thầy
làm, nếu có chỗ nào chưa hiểu rõ thì thầy Khuê chỉ thêm cho.
Về nhà ban đêm nói chuyện với ông Kinh thì Vĩnh.Xuân hỏi tới
việc của mấy thầy khác làm. Ông Kinh làm việc lâu năm nên ông thạo hết. Ông cắt
nghĩa các sắc thuế; thuế quản hạt, thuế địa hạt, phụ công nho. Ông chỉ các sắc
bộ: bộ đinh, bộ điền, bộ vụ đậu, bộ thổ trạch, bộ sanh ý, bộ trâu bò. Ông cũng
nói luôn cách cử Hội đồng địa hạt, cách cử Hương chức hội tề và cách cử mấy
Bang trưởng với thể lệ thâu thuế Hoa kiều.
Một buổi sớm mơi, ông Kinh ở trong, Vĩnh Xuân ở ngoài, hai
người đương thay đồ đặng đi làm việc. Có hai người cầm giấy tờ trong tay, lúm
cúm bước vô cửa, thấy Vĩnh Xuân đương ngồi đút giày vô chưn mà mang thì cung kỉnh
xá mà hỏi thầy thông coi bộ thuyền ở đây hay không. Xuân nói phải và hỏi lại
hai người có việc chi mà kiếm nhà thầy thông coi bộ thuyền. Một người nói mới
mướn đóng rồi một chiếc ghe nên đem xuống xin cho đặng lãnh sách với bài chỉ.
Còn người kia nói mới mua một chiếc ghe để chở lúa nên đem nhờ mua bán xin đóng
bách phần đặng sang bộ sửa sách.
Vĩnh Xuân nói việc như vậy thì vô Toà Bố mà hầu, chớ đây là
nhà riêng, không biết việc của nhà nước. Hai người điều nói theo tục lệ phải
thưa trước với thầy thông rồi sẽ vô Tòa Bố hầu sau.
Vĩnh Xuân cười mà nói: "Tôi coi bộ thuyền hổm nay. Tôi
đã bỏ tục lệ cũ rồi. Hai anh cứ đi ngay vô Tòa Bố mà hầu, khỏi nói trước với ai
hết. Hễ vô đơn rồi tự nhiên tôi làm cho. Đi liền đi, gần tới giờ hầu rồi".
Hai người mở gói lấy tiền.
Vĩnh Xuân la lớn: "Ê ! Ê ! Hai anh muốn làm cái gì đó ?
Tôi đã nói như vậy, hai anh chưa hiểu hay sao ?".
Một người nói: "Thưa kiến tiền nước cho thầy".
Vĩnh Xuân nói: "Nhà nước trả lương cho tôi đặng tôi làm
công việc cho dân. Tôi không được phép lấy tiền của dân, mà dân cũng không được
phép đem tiền cho tôi. Hai anh làm sái phép ở tù chết đa. Đừng có làm quấy như
vậy nữa nghe hôn. Thôi đi, đi".
Hai người ngó nhau, bộ bối rối. Vĩnh Xuân đứng dậy thôi thúc
biểu đi.
Ông Kinh Lương bước ra nói: "Thầy thông đã biểu như vậy
thì hai anh em đi lên Tòa Bố đi, sao lại còn dục dặc".
Hai người nghe như vậy mới chịu xá mà ra của.
Ông Kinh cười mà nói với Vĩnh Xuân:
-Tại có tục lệ như vậy nên họ nới đến đây mà kiếm thầy đó. Thầy
thấy chưa ? Vì thầy mới lãnh việc họ chưa biết nên mới tới có vài người. Lâu
lâu họ biết rồi mỗi bữa họ tới cả chục cho mà coi. Sớm mơi thầy đi thử một vòng
mà coi, mấy thầy coi bộ trâu bò, điền thổ, sanh ý, bách phần, nhà nào cũng có
khách vô ra nườm nượp.
-Có như vậy nên người ta khuyên hờ tôi, nghĩ cũng phải. Mà
xét cho chí lý thì bịnh hối lộ nảy sanh ra được là tại dân. Nếu dân đừng thèm
cho tiền thì sao mà hối lộ được.
-Không cho tiền thì họ làm khó. Họ bắt bẻ từ chút, họ làm tờ
giấy lại, họ bắt chờ đợi cả ngày thì bất tiện quá. Thôi, ra phứt ít đồng bạc đặng
xong chuyện cho mau.
-Nếu người ta làm khó thì mình thưa.
-Thưa với ai ? Dân có biết tiếng Tây đâu mà thưa với quan. Phải
nhờ thầy thông nói giùm. Nếu thầy thông binh vực đàng kia, thầy thêm bớt rồi
mình mang họa.
Vĩnh Xuân suy nghĩ một chút rồi mới nói:.
-Hôm tôi thi đậu, thầy tôi có nói thông ngôn ký lục là hạng
công bộc không có quyền hành gì, nhưng làm trung gian giữa dân với quan nên có
trách nhiệm quan hệ lắm.
-Thiệt vậy. Làm sống làm chết được chớ chơi sao.
-Dân thiệt thà, lại nói ra quan không hiểu, tự nhiên ức thì
rán mà chịu, không dám hở môi. Người ta thừa tình thế đó mới làm mưa làm gió mà
hóng hách bốc lột. Cái nạn nầy phải làm sao mà trừ, chớ để hoài như vậy thì
nguy cho dân quá.
-Tôi không thấy phương pháp nào hết.
-Có chớ. Muốn trừ cái nạn áp bức, bốc lột thì cứ dạy dân cho
khôn, cho dạn, cho cứng, đừng chịu ai hiếp đáp, đừng để ai bốc lột, hễ ức trí
thì chống cự hẳn hòi, hễ sái phép thì kêu nài mạnh mẽ. Làm như vậy thì gỡ nạn
cho dân mới được.
-Ai chịu dạy dân ? Người có học thức họ muốn để cho dân dốt
nát, ám muội đặng dễ sai khiến.
Thấy gần tới giờ hầu, hai người tạm dứt câu chuyện đặng đi
làm việc.
Vĩnh Xuân nhờ có sẵn khiếu thông minh, lại nhờ quen tánh ưa
tìm hiểu, bởi vậy làm việc trong vài tuần thì biết rành rẽ công việc thuộc phận
sự của thầy, mà thầy cũng hiểu sơ lược các công việc của mấy thầy khác trong
Tòa Bố. Thầy còn được biết các ngành hoạt động tổ chức về mặt hành chánh trong
tỉnh và khắp trong xứ. Vì vậy nên bây giờ thì thầy đứng thông ngôn rất bình tỉnh,
vững vàng, ngồi làm việc thì lẹ làng, còn nói chuyện thì hoạt bát, không khác
nào một thầy thông ngôn giúp việc nhà nước đã nhiều năm. Các bạn đồng liêu ai
thấy thầy thông thạo mau lẹ như vậy, thì dầu không thương cũng phải khen tài,
mà lại thấy thầy được quan Phó càng ngày càng thêm thân yêu, nhưng thầy cứ một
mực nhỏ nhoi khiêm nhượng, hỏi đặng học chớ không khoe khoang thì ai cũng phải
kiêng nể. Có một điều thầy làm cho bạn đồng liêu xầm xì rồi ái ngại là thầy
không chịu hối lộ, ai có chuyện đem tiến tới lo với thầy thì thầy đuổi đi hết;
nếu còn nài nỉ thì thầy hăm kêu lính bắt đặng giải Tòa. Không chịu hối lộ sao
không làm thầy giáo, lại làm thầy thông ? Làm thông ngôn ký lục mà thầy khác ý
với bạn đồng liêu thì làm sao mà thuận hòa với nhau cho được ?
Tập sự xong rồi, việc làm đã dễ, bây giờ Vĩnh Xuân khoẻ trí mới
tính tới việc mướn phố dọn nhà.
Bà Kinh cho thầy hay bà Sáu ở cách bà một căn mới cho chủ phố
hay bữa rằm tháng tới nghĩa là còn 20 ngày nữa bà sẽ trả phố đặng dọn về An Hoá
mà ở với cháu. Bà Kinh đã có dặn ông chủ phố rồi, hễ bà Sáu dọn đi thì phải
giao chìa khóa cho bà đặng bà đưa cho thầy thông đứng bàn quan Phó dọn về mà ở.
Chủ phố đã hứa chắc với bà rồi, vậy kể từ ngày rằm tháng tới thì sẽ dọn nhà được.
Ông Kinh hỏi sẽ chở đồ đạc dưới Gò Công lên mà dọn nhà hay là
phải mua đồ mới trên nầy. Vĩnh Xuân tỏ thiệt vì nhà nghèo nên đồ đạc lôi thôi
không có thứ chi quí giá. Thầy có dặn mẹ chừng nào mướn phố được rồi, thầy gởi
thơ cho mẹ hay, thì mẹ bán cái nhà, còn đồ đạc thứ gì xài được và cần ích thì
chở ghe đò đem lên mà dọn, thứ nào không xứng đáng thì bỏ, lên trên nầy sẽ sắm
thêm.
Bà Kinh nói nếu không đủ bàn ghế hay giường ván thì bà kiếm
mượn giùm cho mà dọn đỡ rồi sau sẽ mua sắm thêm đừng lo việc đó.
Vĩnh Xuân viết thơ cho mẹ hay chắc rằm tháng sau sẽ có phố và
xin mẹ sắp đặt cho xong, đặng qua ngày rằm thì chở đồ lên.
Ông Kinh đã thấy Vĩnh Xuân đã an lòng khỏe trí rồi, ban đêm mới
bắt đầu chỉ cho thầy hiểu các thể thi, chỉ niêm vận và bình trắc theo thể thất
ngôn bát cú. Nghe thầy nói thầy thích đờn kìm, ông lại kiếm mượn thêm một cây
kìm kêu tiếng tốt mà treo trong nhà đặng tập cho thầy đờn.
Từ đó mỗi đêm Vĩnh Xuân học làm thi một hồi rồi tập khẩy đờn,
thầy sốt sắng rèn tập, ông Kinh cũng tận tâm chỉ dẫn, đêm nào hai người cũng thức
hoặc đờn hoặc làm thi đến 12 giờ mới chịu nghỉ.
Đến bữa rằm thiệt quả bà Sáu chở đồ đạc xuống ghe đi về An
Hoá, giao chìa khóa căn phố cho bà Kinh Lương.
Trưa bà Kinh dắt Vĩnh Xuân lại coi phố. Bà chê vách dơ, chỉ gạch
bể hết vài tấm, bà nói để bà xin ông chủ phố sơn phết, sửa gạch lại cho đàng
hoàng. Buổi chiều ông Kinh với Vĩnh Xuân đi làm việc rồi thì bà Kinh che dù đi
vô nhà ông Hương Cả chủ phố, bà nói thế nào không biết, mà bữa sau, mới tảng
sáng, thì ông chủ phố ra nhà ông Kinh đặng thăm thầy thông Vĩnh Xuân.
Nói chuyện qua lại theo lễ xã giao xong rồi, ông chủ phố hỏi
chìa khóa và mời thầy thông lại coi cặn phố. Ông nói ông lấy làm vui lòng mà được
để một căn phố cho thầy thông ở.
Vợ chồng ông Kinh đi theo mở cửa đặng cùng nhau coi. Ông chủ
phố nói thầy thông muốn sơn phết màu gì, muốn sửa chữa chỗ nào thì chỉ cho ông
biết đặng ông biểu thợ hồ làm lại cho sạch sẽ rồi sẽ dọn. Vĩnh Xuân chưa kịp
nói thì bà Kinh giành xin ông chủ phố cho thay hết mấy tấm gạch bể từ nhà trên
xuống nhà bếp, sửa khóa cửa trước, cửa sau cho chắc, còn sơn vách thì nên sơn
làu trứng gà, bắt chỉ màu xanh đậm. Ông chủ phố chịu hết. Chừng coi rồi ra về
ông nói với thây thông rằng trong nhà ông có bàn ghế tủ ván dùng không hết. Vậy
dọn nhà thầy thông có cần đùng thứ gì thì cho ông hay ông sẽ biểu trẻ nhà đem
ra cho mượn mà dùng chẳng cần phải mua hoặc đặt cho thợ đóng, tốn tiền nhiều lại
cây không tốt.
Chủ phố về một lát thì có thợ hồ, thợ mộc ra làm lăng xăng,
người thay gạch bể, trám mấy lỗ đóng đinh, kẻ thì sửa khóa cửa, làm thông hồng
đặng đóng cửa cho chắc.
Buổi chiều họ bắt đầu cạo vách đặng sơn, sơn nhà trên mà cũng
sơn luôn nhà bếp nữa. Thợ làm trong hai ngày thì xong rồi hết. Tới phiên ba người
trai mạnh mẽ, hai người gánh nước cho một người cầm chổi quét rửa gạch cho thiệt
sạch. Họ làm một chút thì rồi. Nhưng bà Kinh không cho đóng cửa, để có hơi gió
vô đặng khô vách, khô gạch cho mau.
Đến xế cũng ba người rửa nhà hồi sớm mơi đó đẩy xe tay chở ra
một cái giường cây, một bộ ván gõ ba tấm mỏng nhưng giồì láng bóng, một bàn viết,
một tủ áo với một bàn nhỏ có kèm hai cái ghế.
Bà Kinh nghe họ lụi hụi khiêng vô, bà liền lại mà chỉ lót cái
giường trong buồng, cái bàn nhỏ với hai cái ghế thì để trước bộ ván, bàn viết tự
nhiên để dựa cửa sổ bên tay mặt. Còn cái tủ áo bà đứng nhắm nhía coi phải để
đâu. Bà suy nghĩ rồi biểu khiêng để trong buồng đặng đựng quần áo mà thay cho
tiện.
Chiều ông Kinh với thầy thông về, bà Kinh mời lại coi bà dọn
nhà.
Vĩnh Xuân bước vô thấy bàn ghế, ván tủ đủ hết thì chưng hửng,
hỏi đồ ở đâu có mà đọn đủ hết như vậy. Bà kinh mới nói:
-Ông chủ phố cho bạn của ổng chở ra mà dọn đó.
-Bữa hổm ông có nói nếu dọn nhà mà thiếu thứ gì thì cho ổng
hay, ổng sẽ cho mượn. Tôi lặng thinh, vì chưa quen với ổng mà hỏi mượn đồ thì kỳ
quá. Sao bữa nay ổng lại chở đủ thứ mà dọn như vầy ?
-Ổng ở nhà lớn, lại giàu xưa, nên đồ đạc thiếu gì. Ổng thấy
thầy mới đổi lại, dọn nhà mà không có đồ, nên ổng cho mượn đồ, có sao đâu mà ngại.
Hôm tôi lên nói mà lấy chìa khóa căn nầy, tôi nói tôi mướn giùm cho thầy đặng
bà con ở gần với nhau cho vui. Ổng nghe nói mướn cho thầy thì ổng sẵn lòng lắm.
Ổng khen ngợi kính mến thầy quá. Ổng nói thầy mới đổi lại mà ai cũng khen thầy
trẻ tuổi, học giỏi, vui vẻ, khiêm nhường, nhứt là thanh liêm, làm việc mà không
thèm ăn hối lộ của dân, cái đó làm cho ổng kính phục hơn hết. Có lẽ vì vậy nên ổng
giúp cho thầy dọn nhà mà ở cho đàng hoàng như người ta chớ có gì đâu.
-Tôi không ăn hối lộ mà tôi thọ lãnh đồ đạc như vầy thì tội của
tôi còn nặng hơn lấy tiền bạc nữa.
-Ông chủ phố cho thầy mượn mà dùng đỡ, chớ phải cho đứt hay
sao mà gọi là hối lộ ? Hơn nữa, ổng kính phục tài đức của thầy nên ổng giúp cho
bề ăn ở được phương tiện, ổng có cầu thầy làm việc chi cho ổng đâu mà nói ổng
lo lót.
Vĩnh Xuân suy nghĩ rồi ngó ông Kinh vừa cười vừa nói:
"Mình không nhận tiền bạc, mà nhận đồ của ngươi ta cho mượn, hoặc đi Tết,
hoặc lễ chi đó, nhận đồ như vậy có phải hối lộ hay không ? Đó là một vấn đề cần
phải suy nghĩ đặng giải quyết cho đúng với phong hoá và pháp luật".
Ông Kinh nói: "Theo phép lịch sự của xã giao, hai người
quen nhau nên thù tạc cho nhau đồ, có phải hối lộ đâu. Còn việc ông chủ phố cho
mượn đồ đặng dọn nhà lại còn không phải nữa. Ôi ! Ông chủ phố có đồ dư dùng, ổng
cho mượn thì thầy cứ lãnh, chừng nào hết dùng thì phải trả lại cho ổng. Đó là
việc ân nghĩa, chớ đâu phải hôi lộ mà thầy ngại".
Vĩnh Xuân nói: "Có đủ đồ hết, để ăn cơn rồi tôi đi mua một
cài đèn, đặng tối nay tôi về ngủ nhà mới. Nhưng xin ông bà tiếp cho tôi ăn cơm
tới chùng bà già tôi lên, tôi sẽ ăn cơm nhà".
Ông Kinh nói: "Phải lựa ngày tốt mới về nhà mới chớ. Để
tối tôi coi ngày nào được rồi sẽ về. Còn việc ăn cơm thì thầy cứ ăn với tôi, lo
làm chi".
Bà Kinh khóa cử rồi ba người dắt nhau về ăn cơm. Câu chuyện hối
lộ, hoặc với bạc tiền, hoặc với lễ vật, còn kéo dài thêm nữa. Vĩnh Xuân tỏ ý lo
ngại về sự người ta có thể cậy trước làm ân làm nghĩa để mua lòng thiện cảm của
kẻ có quyền hành hoặc có thế lực, mà nhờ nhỏi về sau, bởi vậy người có chút quyền
thế phải sáng suốt, phải đề phòng, không nên để cho người ta lợi dụng hai tiếng
ân nghĩa mà che đậy dục vọng âm thầm đương hướng về ngả khác.
Ông Kinh cảm thấy Vĩnh Xuân trẻ tuổi, lại mới để bước vào đường
đời là thầy biết nhơn tình thế thái rất châu đáo, thì ông càng kiêng nể, nên
ông cười chớ không đám cãi.
Còn bà Kinh, thì bà không dám xúi hối lộ, song bà không muốn
nghe bài bát việc ấy là chứng bịnh chung của thời đại, bởi vậy bà cố tâm kéo
câu chuyện qua sự dọn nhà là việc cần kíp của Vĩnh Xuân, Bà khuyên ông Kinh lấy
lịch Tàu hoặc sách Ngọc Hạp coi ngày nào tốt rồi sẽ để cho Vĩnh Xuân bắt đầu về
nhà mới mà ngủ. Bà khuyên Vĩnh Xuân viết tiếp một bức thơ nữa cho mẹ hay đã mướn
phố xong rồi nên mời mẹ lên mà ở.
Ăn cơm rồi, Vĩnh Xuân ngồi viết thơ cho mẹ. Ông Kinh mở tủ lấy
cuốn lịch Tàu ra coi ngày. Bà Kinh đốt một cái đèn nhỏ bưng lại để trong căn phố
mới mướn, bà nói rằng đồ dọn rồi mà để tối mò, lạnh lẽo như vậy không nên.
Ông Kinh lật lịch coi một hồi rồi ông nói với Vĩnh Xuân nếu
thầy muốn về ngủ nhà mới thì nên chờ ngày mai là ngày 20, về ngày đó mới hạp với
sự dời chỗ ở.
Vĩnh Xuân viết thơ rồi thì bà Kinh trở về, tay có bưng một
cây đèn tọa đăng mới tinh. Ông Kinh hỏi đèn ở đâu vậy. Bà nói: "Tôi đốt
cái đèn nhỏ để đằng nhà thầy thông rồi đi luôn ra tiệm kiếm mua giùm cho thầy một
cây đèn đây. Đèn trộng đến; ban đêm có khách thì đốt mà nói chuyện được. Có ống
khói, có tim đủ, mà tôi mua có một đồng mốt, rẻ quá. Đồ nầy mà để cho đàn ông
đi mua, không biết kèo nài, khách trú nó đòi tới một đồng rưởi, hoặc một đồng
ba".
Vĩnh Xuân khen rẻ, lấy một đồng mốt trả lại cho bà Kinh. Bà
bưng cái đèn vô trong rót dầu đốt thử rồi bưng trở ra để trên bàn cho ông Kinh
với Vĩnh Xuân coi. Vĩnh Xuân khen tốt. Bà dặn thầy muốn mua vật gì thì nói với
bà đặng bà mua giùm cho vì thầy không biết giá, sợ thầy mua mắc lắm.
Ông Kinh nói tối mai Vĩnh Xuân mới về nhà mới được. Bà Kinh
nói: "Vậy thì chiều mai tôi biểu con bếp bưng một cái lò lại đẳng đặng tôi
nhúm một bếp lửa cho ấm áp. Theo phép thì về nhà mới phải có bếp lửa. Không nên
bỏ tục lệ ông bà".
Chiều bữa sau đi hầu về, Vĩnh Xuân thấy căn nhà của thầy mở cửa,
thầy đi thẳng lại đó, thấy bà Kinh đương nhúm một lò lửa trong bếp, mà bộ ván đằng
trước lại có trải chiếc chiếu bông. Cái đèn tọa đăng mua hôm qua cũng có để
trên bàn.
Vĩnh Xuân trở về nhà ông Kinh, thay đồ mát, rồi bưng cái rương
áo quần đem lại, dọn đồ về nhà mới.
Bà Kinh ở sau bếp đi ra, thấy Vĩnh Xuân bưng rương, thì bà la
lớn: "Sao thầy không biểu con bếp nó bưng giùm cho ?".
Vĩnh Xuân cười mà đáp:
-Tôi bưng được, cần gì phải cậy chị bếp.
-Làm thầy thông mà bưng rương, chòm xóm ngó thấy họ cười chớ.
-Rương của tôi thì tôi bưng, sao lại cười tôi. Nếu họ cậy thì
tôi bưng giùm cho họ cũng được. Có luật lệ nào cấm thầy thông bưng đồ đâu.
-Thôi, thầy bưng luôn vô trong đặng sắp áo quần vô tủ cho rộng
rãi. Tủ có chìa khóa hẳn hòi, để đồ rồi khóa lại tiện lắm. Tôi lấy chiếc chiếu
của tôi mà trải thử trên bộ ván coi vừa quá thấy hôn thầy thông. Tôi cho thầy
mượn ngủ đỡ ít ngày rồi sẽ kiếm chiếu mà mua. Để tôi về tôi ôm lại mùng mền lại
giùm cho.
-Cám ơn bà. Để một lát tối rồi tôi dọn được mà.
-Thầy có một mình, để tôi phụ với chớ.
Bà Kinh đi về.
Vĩnh Xuân mở rương lấy đồ sắp vô tủ. Áo quần không có bao
nhiêu nên để không giáp một ngăn tủ.
Bà Kinh ôm mùng mền đem lại, có ông Kinh đi theo. Bà hỏi Vĩnh
Xuân muốn ngủ cái giường trong buồng hay là ngủ ngoài ván. Vĩnh Xuân tính để
cái giường cho mẹ nằm, thầy ngủ ngoài ván cho mát. Bà Kinh trở về lấy đinh với
dây gai đem lại rồi ông Kinh phụ với Vĩnh Xuân đóng đinh, giăng mùng thử rồi vắt
lên, đợi chừng nào ngủ sẽ bỏ xuống.
Cuộc dọn nhà chỉ có bao nhiêu đó thì xong. Cả tháng nay Vĩnh
Xuân lo lắng đêm ngày, may nhờ cách khôn ngoan, lanh lẹ của bà Kinh nên Vĩnh
Xuân được ở một căn nhà tốt tươi, sạch sẽ, có đủ đồ dùng, mà chỉ tốn có một đồng
mốt mua cái đèn mà thôi. Xuân không tính mua vật chi nữa, đợi mẹ lên coi mẹ muốn
mua thêm thứ nào thì mẹ mua.
Đêm ấy ăn cơm rồi ông Kinh biểu bà chế bình trà ngon đem lại
nhà Vĩnh Xuân rồi ông xách cây đờn kìm lại đó ngồi uống trà mà đờn giéo giắt mấy
bản hay của ông để mừng thầy thông về nhà mới.
Người ở phía tay trái, khít một bên Vĩnh Xuân, !à thím Son, một
góa phụ bán hàng ngoài chợ. Tuổi thím trên 40, thím có hai đứa con, đứa trai
tên Lạc 15 tuổi, đứa gái tên Xuyến 13 tuổi, hai đứa đều đi học trường nhà nước.
Còn người ở căn phía tay mặt rồi tới ông Kinh, là ông Hoằng,
thầy thuốc nam, tuổi gần 60, làm thuốc được tổ đãi, nên có bịnh rước hằng ngày,
và mỗi bữa người ta ra vô hốt thuốc cả chục thang. Ông nghe thầy thông dọn nhà
mới, có ông Kinh lại đờn chơi, ông mặc áo dài qua mừng thầy thông đặng làm
quen.
Vì có hai cái ghế không đủ ngồi, ông Kinh phải về nhà nhắc
thêm một cái ghế đem lại cho mượn. Chủ khách ngồi nói chuyện với nhau. Vĩnh
Xuân lấy làm vui mà được lân cận với một danh y mà cũng là một nhà nho học. Bà
Kinh biểu chị bếp chế bình trà lớn xách lại và đem thêm tách đặng chủ khách uống
trà mà nói chuyện.
Vĩnh Xuân nhận thấy ông Hoằng học nho thì biết chữ vậy thôi,
chớ không hiểu thuần tuý của đạo nho, so sánh với ông Kinh Lương hay ông Giáo
Huân thì lù mù, còn ở sau xa lắm.
Nói chuyện chơi trót giờ rồi ông Hoằng về. Ông Kinh ngồi đờn
hoài gần 11 giờ ông mới về nghỉ.
Vĩnh Xuân bưng bình, tách đem lại trả rồi đóng cửa, vặn đèn
lu lu, và bỏ mùng xuống mà ngủ. Thầy nghĩ lại thì bước chưn vào thế cuộc, nhờ
được mọi người thương yêu, nên việc gì khó cũng hoá ra dễ. Sự làm việc đã yên ổn
lồi, nhà cửa dọn cũng xong xuôi, bây giờ chỉ đợi bà mẹ lên nữa, thì mọi việc đều
vuông tròn.
Ban ngày làm việc, ban đêm học đờn và tập làm thi; tiện tặn đặng
số lương đủ cho mẹ con sống thong thà vậy thôi, bao nhiêu đó đủ thỏa mãn chí hướng,
chẳng cần mon mỏi rực rỡ, vinh quang trong lúc chung quanh mình kẻ khóc người
than, kẻ khòm lưng, người mỏi gối.
Chiều bữa sau, tan hầu, Vĩnh Xuân biểu ông Kinh về trước để
cho thầy đi vòng ngả mé sông coi đò chợ Giồng lên hay chưa đặng thầy nhắn cho mẹ
lên. Ông Kinh nói để ông đi với cho vui.
Hai người xuống mé sông, Vĩnh Xuân ghé tiệm bán đồ học trò thầy
mua vài manh giấy, một xấp bao thơ, một bình mực để dành trong nhà, còn cán viết,
ngòi viết với viết chì, thì thầy có sẵn nên khỏi mua.
May quá, đò chợ Giồng lên rồi. Vĩnh Xuân kêu chủ đò mà cậy về
chợ Giồng làm ơn vô nhà bà Hương văn nói giùm thầy đã dọn nhà xong rồi, nên xin
bà lên gấp, hổm nay thầy trông bà lắm.
Vì Vĩnh Xuân có đi đò nầy mấy lần nên chị chủ đò biết thầy, vừa
nghe thầy nhắn thì chủ đò nói:
-Bà Hương văn nói mốt, 24, bà lên thầy à. Nhưng thầy nhắn như
vậy, để mai đò về, tôi cũng vô nhà tôi nói lại giùm cho.
-Sao chị biết mốt má tôi lên ?.
-Hồi hôm bà Hương văn có xuống đò tôi coi đò có chở đồ đạc chút
đỉnh được hay không. Bà nói có được thơ thầy biểu lên gấp. Nhưng bà còn phải dọn
dẹp đồ đạc nên chưa đi chuyến đò bữa nay kịp. Mai đò về, mốt bà sẽ chở đồ đi.
-Nếu vậy thì chiều mốt tôi sẽ xuống đây tôi rước. Chị nhắm
coi mốt chừng giờ nào đò mới lên tới.
-Cha chả, mốt bị ngược nước nên đò có đi giỏi lắm thì cũng phải
mặt trời lặn lên mới tới đây. Tôi sợ tới đỏ đèn không biết chừng.
-Má tôi có chở đồ chút đỉnh, chị làm ơn chở giùm nghe hôn. Chị
ăn tiền chở bao nhiêu lên đây tôi trả cho.
-Được mà. Bà con một chợ chở đồ chút đỉnh, bà muốn cho bao
nhiêu cũng được, có chi đâu mà lo.
-Hai anh chèo, có anh nào chị làm ơn cho ảnh đi theo tôi cho
biết nhà đặng mốt như đò tới sớm, tôi xuống không kịp, thì ảnh lên cho tôi hay.
Tôi ở đường sau chợ đây
-Được để anh chèo mũi đi với thầy.
-À, như mốt có đồ, tôi cậy hai anh chèo đem giùm lên nhà rồi
tôi cho tiền, được hay không chị ? Được như vậy thì tôi khỏi mướn người ta.
-Được chớ. Đò tới thì hai người nghỉ chớ có làm gì đâu. Đem đồ
giùm, thầy cho tiền mua thuốc hút thì hai ảnh mừng lắm.
-Vĩnh Xuân được tin mốt mẹ lên, thì thầy mừng lắm, từ giả chị
chủ đò, rồi cùng với ông Kinh đi riết về đặng cho bà Kinh hay.
Ăn bữa cơn tối đó, Vĩnh Xuân vui vẻ, nói chuyện không ngớt,
mà chẳng nói chuyện chi khác hơn chuyện mẹ con sum hiệp, từ đây con ở đâu thì mẹ
ở đó, hết xa nhau nữa. Vợ chồng ông Kinh Lương thấy vậy thì đủ biết Xuân kỉnh
ái mẹ chớ không phải như hạng người bất hiếu, hễ học giỏi làm nên rồi thì quên
ân nghĩa sanh thành, không thèm ngó ngàng tới mẹ cha nữa.
Nhân dịp nầy bà Kinh mới ướm thử lòng Vĩnh Xuân, nên bà nói:
-Thầy thông làm việc ai cũng chịu hết. Đi đến đâu cũng nghe
người ta khen rùm, khen học giỏi, làm việc bặt thiệp, ăn nói nhỏ nhoi, tánh
tình vui vẻ, nhứt là khen thanh liêm, cái đó làm cho người ta kiêng nể hơn hết.
-Có gì đâu mà kiêng nể. Nhà nước mướn tôi làm công việc của
dân, nhà nước đã trả tiền công cho tôi rồi. Tôi buộc dân phải trả tiền cho tôi
nữa sao được. Bày chuyện nói đền ơn. Tôi có làm ơn gì đâu mà đền ? Bổn phận của
tôi buộc tôi phải làm, chớ tôi có giúp ai đâu.
-Mấy thầy khác họ có nói như thầy vậy đâu.
-Ai nói sao tự ý họ. Riêng về phần tôi thì tôi cứ do lẽ phải
mà nói ngay ra.
-Thôi, chuyện đó tôi không dám cãi với thầy. Bây giờ việc làm
thì thầy đã thông thạo hết rồi, trên được quan yêu, dưới được dân chuộng. Thầy
còn trẻ tuổi, lại mới ra làm mà thầy đã được danh vọng rất lớn. Nhà cửa dọn
cũng đã yên rồi. Mốt đây bà chị lên thì mẹ con sum hiệp một nhà. Thầy chỉ còn
thiếu có một việc tôi muốn thầy phải nghĩ tới cho sớm một chút.
-Thưa bà, còn việc chi ?
-Việc lập gia thất. Thầy nên lựa con nhà tử tế mà cưới đặng
có người nội trợ, lo cơm nước cho thầy với bà chị, chớ không lẽ thầy rước bà chị
lên đây rồi bắt bà chị đi chợ nấu ăn.
-Việc cưới vợ thì tôi chưa tính. Mà chắc tôi không tính đâu.
Nhưng việc đi chợ nấu ăn thì tôi đã có tính rồi. Tôi chưa dám nói với bà là vì
tôi đợi má tôi lên, tôi thưa với má tôi, rồi tôi sẽ nói. Hổm nay tôi muốn cậy
bà kiếm mướn giùm cho tôi một người đi chợ nấu ăn, chẻ củi, xách nước, làm công
việc lặt vặt trong nhà. Thuở nay má tôi cực khổ quá, vì nhà nghèo nên phải nhọc
thân. Bây giờ má tôi già rồi, tôi phải ép má tôi nghỉ. Khống biết ở đây mướn một
người ở giúp trong nhà mỗi tháng phải trả tiền công bao nhiêu bà ?
-Người lớn tuổi, nấu ăn giỏi họ đòi tới 5 đồng. Như mướn đứa
nhỏ, làm công việc trong nhà được, nhưng dở việc bếp núc, thì vài ba đồng. Để
bà chị lên rồi tôi kiếm giùm cho một đứa biết nấu cơm, nấu nước chút đỉnh vậy
thôi, bà chị chỉ cho nó làm, thì trả chừng ba đồng được.
Ông Kinh Lương chứa Vĩnh Xuân trong nhà cả tháng nay, ông đã
nghe Vĩnh Xuân. nói chuyện nhiều, ông đã thấy cách Xuân xử sự, ông biết chí hướng,
ông hiểu tánh tình, ông chứng nhận lời nói không bao giờ trái với việc làm, mà
việc làm cũng không bao giờ rời xa nhân nghĩa, ông cảm thấy Vĩnh Xuân không phải
thuộc trong hạng thanh niên cậy tài học mà hống hách bóc lột hiếp đáp, hễ đắc lộ
rồi thì mong hốt tiền cho nhiều, cưới vợ thiệt giàu, thiệt đẹp đặng lên xe xuống
ngựa, ăn ở cao sang, miễn mình được sung sướng thì tôi, ai thảm khổ mặc kệ.
Vĩnh xuân được quyền thế lại không chịu ăn hối lộ, nhà nghèo lại không ham bạc
tiền, hổm nay làm việc yên rồi thì mong mướn phố dọn nhà đặng rước mẹ về nuôi,
chẳng hề tính tới việc cưới vợ, cứ nói sắp đặt bề ăn để cho yên đặng học đờn
kìm, tập làm thi, để hưởng thú phong lưu, lánh xa danh lợi. Thấy con người dị kỳ
như vậy, ông Kinh cũng kiêng nể như mấy thầy trong nhà hầu, ông không dám bàn tới
việc lợi danh, đợi bà Hương văn Thanh lên coi mẹ con có nói tới việc tơ tóc
trăm năm của Vĩnh Xuân hay không, rồi ông sẽ liệu mà hướng dẫn. Hôm nay tình cờ
bà Kinh dở chuyện cưới vợ ra mà nói với Vĩnh Xuân, Vĩnh Xuân lại gạt ngang mà
xoay câu chuyện qua hướng khác, ông Kinh không thể nín nữa được, bởi vậy ông để
hai người bàn đứt câu chuyện mướn đứa ở rồi, ông mới chen vô mà hỏi:
-Theo ý tôi, thầy thông dọn nhà cửa xong, mẹ con sum hiệp rồi,
thì thầy phải lo kiếm người nội trợ đặng nuôi mẹ, chớ sao thầy lại nói việc cưới
vợ chắc thầy không chịu tính.
-Nhà nghèo lương ít, cưới vợ phải tốn thêm một miệng ăn nữa
tôi lo sao cho kham, ông Kinh. Tôi phải lo nuôi mẹ đặng đáp nghĩa đền ơn đã chớ.
Nếu tôi đã có chịu ơn nghĩa của người vợ thì tôi mới lo trả. Tôi không có vay
mà bắt tôi trả nợ thì tội nghiệp cho tôi quá. Ông bà nghĩ thử coi.
-Cưới vợ là để nối dòng để có người giúp đỡ việc trong nhà.
Sao thầy lại nói cưới vợ là trả nợ.
-Người ta nói vợ chồng là duyên nợ, vậy thì vợ là nợ chớ gì.
Huống chi cưới vợ phải lo nuôi vợ, tức thị là trả nợ.
-Cưới vợ nếu muốn khỏi nuôi, thì ta lựa người có nghề nghiệp
làm ra bạc tiền, hoặc người có tài sản nhiều, có huê lợi lớn, ta cưới vợ như vậy
ta khỏi nuôi, mà nó còn nuôi ta lại.
-Cưới vợ mà cầu cho vợ nuôi thì hổ quá.
-Thầy có nói học trọn bộ Tứ Thơ, lại ông Giáo Huân có giảng Mạnh
Tử cho thầy rành lắm. Vậy tôi xin nhắc thầy câu nầy: "Thú thê phi vi dưỡng
nhi hữu thời hồ vi dưỡng". Rất đỗi thầy Mạnh còn nói: "Cưới vợ là vì
phải lập gia đình, phải nối tông tộc, chớ không phải cưới vợ là vì cần phải có
người nuôi mình, nhưng có nhiều lúc cũng cần phải có người nuôi nên mới cưới vợ".
Thế thì cưới vợ đặng có người nuôi, làm như vậy có lỗi với đạo thánh hiền đâu
mà hổ thẹn.
-Ý thầy Mạnh nói câu đó tôi tưởng thầy muốn nói cưới vợ không
phải cầu vợ nuôi nhưng khi đau ốm, hoặc rủi bị tật nguyền thì có người dưỡng
nuôi sản sóc. Tôi mạnh khỏe mà tôi lựa người có tài nghề tôi cưới, đặng vợ tôi
làm mà nuôi tôi vậy thì tôi lường công người ta. Hổ lắm, chớ sao không hổ ? Còn
lựa con nhà giàu có mà cưới đặng hưởng gia tài, thì tôi sẽ mang tiếng đào mỏ,
làm như vậy càng xấu hổ hơn nữa. Tôi nghèo, thôi để tôi lo trả thảo cho bà già
tôi mà thôi, cưới vợ làm chi mà phải thêm một mối lo nữa.
-Thầy ở trong nhà gần một tháng rồi, thầy biết vợ chồng tôi
yêu mến thầy như em ruột vậy, yêu mến mà lại quí trọng nữa. Bây giờ không có
ai, tôi xin phép tỏ thiệt việc nhà của thầy theo ý tôi nhận xét. Thầy có nói thầy
là con nhà nghèo thuở nay bà già phải làm cực khổ mà nuôi sống. Bây giờ thầy
làm việc chắc là thầy chỉ nhờ lương bổng mà sống, chớ không có huê lợi nào
khác. Mà thầy mới vô làm thì lương mỗi tháng có 20 đồng, lại bị truất một đồng
cho kho hưu trí, thì còn có 19 đồng. Trong số đó phải trả tiền phố hết 5 đồng,
tiền mướn người 3 đồng, thì còn có 11 đồng, làm sao mà đủ sống. Hổm rày vợ chồng
tôi lo cho thầy về chỗ đó lung lắm. Chớ chi việc làm mà thầy chịu nhận tiền bạc
của gười ta đền ơn, không ép buộc ai, ai muốn đền ơn bao nhiêu tuỳ hỉ, thì có lẽ
mới đủ tiền mà sống. Trái lại thầy không chịu ăn hối lộ như ngươi ta thì làm
sao ? Tôi thấy chỉ có cách cưới vợ giàu đặng bên vợ giúp đỡ .
-Cám ơn ông bà. Ông bà thương tôi nên mới cắt nghĩa chí lý
như vậy. Việc tiền bạc tôi đã có suy nghĩ rồi. Tôi tính bà già tôi lên ở yên rồi
thì tôi kiếm học trò tôi dạy riêng từ 6 giờ tới 8 giờ, mỗi tháng tôi kiếm thêm
từ 15 tới 20 đồng thì đủ mẹ con sống thong thả.
-Làm việc mà về nhà còn phải dạy học nữa thì mệt lắm.
-Tôi còn trẻ tuổi, sức khoẻ còn dư, nên không mệt đâu.
-Thầy lập chí thanh cao chánh trực. Chí ấy tôi kính phục lắm
vậy. Tôi muốn chí ấy được thỏa mãn, nên thiệt hổm nay tôi đương tính kiếm làm
mai cho thầy cưới một người vợ có sẵn gia tài, đặng lo cung cấp tiền bạc đủ
dùng trong nhà, giúp cho thầy trọn thảo với mẹ già, nuôi được chí thanh cao và
hưởng phong lưu thú vị.
-Cưới vợ đặng nhờ vợ thì kỳ quá. Tôi cám ơn ông. Nhưng tôi
không thế làm như vậy được.
-Ở đời muốn bên nầy đầy thì bên kia phải lưng một chút. Muốn
được thanh liêm hoàn toàn, thì phải cưới vợ giàu đặng có tiền mà ăn mới thanh
liêm được chớ.
-Tôi xin thưa thiệt với ông bà, tôi đã quyết định không cưới
vợ để đời sống của tôi thong thả mà giữ thanh cao chánh trực, ông bà thương nên
lo giùm cho phận tôi thì tôi cám ơn, nhưng thiệt tôi không thể vâng theo ý ông
bà được.
Bà Kinh cười ma nói: "Thầy nói như vậy, để mốt bà chị
lên đây coi bà chị có hiệp ý với thầy hay không?".
Tại vợ chồng ông Kinh khuyên Vĩnh Xuân cưới vợ nên đêm ấy
Xuân nằm nhớ lại Cúc Hương. Thầy tiếc ngày nay công thành, danh toại, nhà cửa
đàng hoàng mà Cúc Hương không còn đặng sum hiệp một nhà, cho chồng yêu vợ, vợ
giúp chồng, vợ chồng đồng chí đồng tâm mà nuôi mẹ già, làm nhân nghĩa. Thầy
cũng tiếc Cúc Hương đã đi đầu thai rồi, nên không cho thầy chiêm bao thấy mặt nữa.
Thầy nhớ Cúc Hương có dặn thầy phải cưới vợ đặng có người lo cơm nước và phụng
dưỡng mẹ già. Dặn thì dặn chớ tình của Cúc Hương thiệt nặng, nghĩa của Cúc
Hương thiệt dày, ngày nay thầy nên danh là nhờ Cúc Hương, nếu không trả nghĩa
đáp tình với nàng được thì làm sao mà cưới vợ.
Chiều bữa 24, Vĩnh Xuân ra khỏi Tòa Bố rồi thì thầy đi thẳng
xuống bến chợ coi đò Chợ Giồng đã tới rồi hay chưa. Hôm nọ chủ đò nói bữa nay
đò lên trễ, té ra đò đã lên tới rồi, Vĩnh xuân thấy hai trạo phu đương khiêng
ván để trên bực thạch, dựa mé sông. Thầy hỏi mẹ thầy có lên hay không thì chị
chủ đò bước ra nói chị tưởng đò lên trễ, may nhờ có gió xuôi đò chạy buồm được
nên tới sớm, hai người chèo đò đã xách đồ lặt vặt đưa bà Hương văn lên nhà rồi,
bây giờ chỉ còn khiêng hai bộ ván với hai cái bàn nọ thì xong.
Vĩnh Xuân mừng quá, hỏi tiền chở đồ ăn bao nhiêu đặng thầy trả.
Chủ đò nói bà Hương văn đã cho tiền rồi. Vĩnh Xuân dặn hai người chèo đem giùn
đồ lên hết rồi thì sẽ đền ơn. Thầy đi riết về nhà đặng mừng mẹ.
Về tới đầu dãy phố, Vĩnh Xuân thấy tại căn của thầy thì cửa mở
bét hết hai cánh còn ông Kinh thì đứng trước căn nhà ông. Thấy thầy đi tới thì
ông Kinh kêu mà nói: "Ghé đây thầy thông. Có bà chị ở đây. Phải thầy đi về
luôn với tôi, thì thầy đã gặp bà chị trước rồi".
Vĩnh Xuân bước vô thấy mẹ đương ngồi uống nước trà nói chuyện
với bà Kình, thầy vui vẻ mừng mẹ, nói thầy xuống bến đò mà đón, té ra mấy người
chèo đò nói đã đưa mẹ lên nhà rồi. Họ đương đem đồ để dựa mé sông rồi sẽ vác
lên.
Bà Hương văn hỏi con:
-Đồ ở đâu mà con dọn đủ thứ hết vậy ? Phải má dè có đồ nhiều
rồi thì má bán hết đồ của mình, lên trên nầy có thiếu thứ gì thì mua thêm. Đồ không
đáng gì mà chở đi kình càng quá.
-Má chở lên những gì đó má ? Con thấy có hai bộ ván nhỏ với
bàn thờ.
-Ừ, bàn thờ tốt hay xấu cũng phải đem theo, chớ không lẽ bỏ.
Má chở bộ ván dầu phía trước với bộ ván nhỏ ở nhà bếp, cái bàn ăn, hai cái ghế
còn chắc và mùng chiếu chén bát. Có vài cái lò với cái lu nhỏ nữa. Còn đồ lặt vặt
má để lại cho chòm xóm họ dùng.
-Má chở gần hết đồ trong nhà còn gì nữa. Thôi, để con lại con
coi cho họ để đồ.
Vĩnh Xuân đi về nhà thay đồ rồi thì hai người chèo vác bộ ván
dầu lên tới. Bà Hương văn với vợ chồng ông Kinh lại coi .
Vĩnh Xuân biểu vác thẳng bộ ván dầu vô lót trong buồng, bộ
ván nhỏ lót dưới nhà bếp. Bàn ăn thì để trong buồng sát với bộ ván. Dời bộ ván
gõ của chủ phố cho mượn qua lót một bên vách, chừa chỗ trống chính giữa đặng đặt
bà thờ. Còn các đồ lặt vặt thì đem xuống hết nhà bếp.
Bà Kinh về lo bữa cơm tối đặng đãi khách. Ông Kinh chạy đi chạy
lại để cho Vĩnh Xuân coi sắp đặt đồ đạc theo ý thầy. Bà Hương văn mới cho con
biết cái nhà bà bán cho người ta được 50, còn đồ lặt vặt bán được 30 nữa.
Đến đỏ đèn thì đồ đã dọn xong rồi hết. Bà Hương văn nói tiền
chở chủ đò xin 2 đồng bà đã trả rồi. Bây giờ bà cho hai người đem đồ lên nhà mỗi
người l đồng. Vĩnh Xuân cho hai ngươi thêm 1 đồng nữa. Hai người cám ơn rồi từ
giã mà xuống đò.
Bà Kinh lại mời ăn cơm. Vĩnh Xuân để mẹ theo bà Kinh đi trước.
Thầy khóa cửa rồi theo sau.
Trong lúc ăn cơm bà Hương văn tỏ lời cám ơn vợ chồng ông Kinh
lấy lòng háo nghĩa mà cho Vĩnh Xuân đùm đậu trong nhà cả tháng nay, ơn ấy không
bao giờ bà quên được. Bà Kinh nói anh em một ty một sở với nhau, người cũ phải
giúp đỡ người mới. Đó là việc vần công với nhau, đặng sau như ông Kinh đổi đi tỉnh
khác thì có người khác giúp đỡ ông. Ông Kinh nói Vĩnh Xuân lên tới thì muốn mướn
phố đặng dọn nhà liền. Vợ chồng ông cãn, biểu chờ ít bữa dãy nầy có phố trống sẽ
mướn đặng anh em ở gần nhau chơi cho vui.
Bà Hương văn tính ngày sau bà sẽ lo cơm nước cho Vĩnh Xuân liền,
không dám làm cực lòng bà Kinh lâu nữa. Bà Kinh không cho. Bà nói hai mẹ con phải
ăn đằng nhà bà thêm một ngày nữa đặng có thì giờ mua gạo, mua củi, mướn gánh nước
và mua đồ lặt vặt rồi mốt sẽ nấu được.
Vĩnh xuân cậy bà Kinh kiếm mướn giùm một người làm công việc
nhà đặng đỡ tay cho mẹ và xin bà sẵn lòng giúp mẹ trong lúc ban đầu, vì mẹ chưa
biết chợ mỹ Tho, nếu muốn mua đồ cần đùng thì không biết chỗ nào mà mua. Bà
Kinh khuyên Vĩnh Xuân đừng lo, bà sẵn lòng giúp mọi việc trong lúc đầu.
Bữa sau bà Hương văn theo bà Kinh ra chợ mua lu đựng nước,
mua thêm nồi, ơ, mua gạo, củi, dầu lửa, nước mắm, đủ hết rồi bữa sau nữa bà mới
đi chợ mua cá thịt nấu riêng đằng nhà đặng mẹ con ăn với nhau.
Bữa đó nhằm cuối tháng, Tòa Bố phát lương rồi. Tối lại Vĩnh
Xuân đem lại 10 đồng bạc mà thưa với bà Kinh cho phép thầy chung đậu chút đỉnh
trong sồ tiền mua cá thịt cả tháng nay. Thầy xin bà vui lòng chấp nhận ít đồng
bặc nầy, tuy không đủ vào đâu song có vậy thầy mới bớt ái ngại.
Bà Kinh không chịu lấy 10 đồng bạc đó. Bà nói rằng bà giúp
anh em làm nghĩa, chớ không phải nấu cơm quán cho thầy ăn mà trả tiền.
Ông Kinh mới tiếp mà nói hẳn hòi: "Thầy thông nầy, thầy
biết vợ chồng tôi thương thầy như em ruột vậy. Anh em mình còn gần gũi với nhau
lâu dài chớ không phải một ngày một buổi rồi thôi. Nay thầy bợ ngợ trong bước đầu
thì vợ chồng tôi giúp thầy. Mai mốt rủi tôi sa chưn sảy bước thầy giúp tôi lại.
Thầy có học nho thầy hiểu ở đời nhơn nghĩa mới quí, chớ tiền bạc có quí gì đâu.
Thầy ăn cơm với tôi một tháng nay không đến nỗi tôi nghèo, mà thầy không ăn tôi
cũng chưa giàu được. Thầy cất tiền đi, đừng nài nỉ mà làm cho vợ tôi buồn".
Ông lấy 10 đồng bạc nhét vào túi Vĩnh Xuân rồi ngâm:
Danh lợi mắt lơ tròng một cặp,
Non sông gánh nặng đạo ba giềng.
Ông vừa ngâm thi, vừa bước lại lấy cây đờn kìm, lên dây, rồi
đờn ít bản cho Vĩnh Xuân nghe.
PHẦN III - CHƯƠNG 13 -
M
ấy bữa rồi, những người ở trong dãy phố bình an thanh tịnh nầy
thảy đều công nhận duy có căn nhà của thầy thông Vĩnh Xuân là xinh tươi vui vẻ
hơn cả.
Không xinh tươi sao được ? Chủ phố chú ý lo lắng đặc biệt, đã
cho thợ dậm vá, sơn phết như phố mới, đã cho dân rửa quét sạch sẽ, lại còn chở
đồ cho mượn dọn ở đàng hoàng.
Không vui vẻ sao được ? Vĩnh Xuân xuất thân đi làm việc trong
lưng có sẵn tới 50 đồng. Trong một tháng rồi mua sắm ăn xài chỉ hao có mười mấy
đồng. Mới lãnh lương rồi trả tiền cơm thì vợ chồng ông Kinh lại không chịu lấy,
thành thử trong tủ của Vĩnh Xuân còn hơn 50 đồng bạc, làm sao thiếu hụt được mà
lo. Huống chi bà Hương văn bán nhà và đồ đạc tom góp đem lên thêm tới bảy tám
chục nữa. Tiền bạc đã dồi dào, mà ăn xài thì tiện tặn, nếu xài có thâm thủng
thì cũng lâu lắm mới hết tiền. Đã vậy mà bữa mẹ lên tới, tối lại mẹ con to nhỏ
bàn tính việc nhà, Vĩnh Xuân than số lương ít quá, không đủ sống thảnh thơi, thầy
tính kiếm học trò mà dạy riêng ban đêm đặng kiếm tiền thêm một hai chục mới sống
được thì mẹ khuyên con đừng lo vội, để thủng thẳng bà coi rồi bà sẽ liệu cho.
Tư cách bình tĩnh, lạc quan của bà Hương văn làm cho Vĩnh
Xuân vui lòng an chí, nên mấy bữa rồi ban ngày thầy hăng hái làm việc, ban đêm
thầy đốt đèn sáng rở rồi ông Kinh lại dạy đờn và tập làm thi làm phú mà chơi.
Còn bà Hương văn, bà nhờ bà Kinh mướn dùm cho bà được thím Tư
Cam, thím đã năm mươi tuổi rồi nhưng còn mạnh mẽ, nhậm lẹ, siêng năng, vui vẻ.
Thím pha phách, dọn dẹp trong nhà lại đi chợ nấu ăn, tuy không khéo, song cũng
dễ ăn, mà mỗi tháng thím chỉ đòi có 3 đồng và xin cho thím trầu cau đặng thím
ăn vậy thôi.
Có người phụ giúp, bà Hương văn rảnh rang. Sớm mơi bà đi chợ
mua thịt cá về chỉ cho thím Tư Cam kho nấu. Nhiều bữa bà Kinh lại rủ bà đi chợ
đặng chỉ cho bà biết chỗ nào bán thứ gì, đi vài lần thì bà đã thấy đủ hết. Đi một
mình thì bà Hương văn thường nghểu nghến lối hàng bánh, coi họ bán chè, cháu,
xôi, bún, bánh cam, bánh tét, bánh ếch, bánh chưng. Bà cũng hay đi dạo hàng bán
trái cây coi thứ nào nhiều, thứ nào rẻ.
Đã quen nghề bán bánh trái thuở nay, bởi vậy bà sẵn có cặp mắt
sáng suốt, liếc qua thì bà thấy thứ nào bán đắc, thứ nào bán ế, bà nhận thấy có
hai việc bà làm thì chắc có lợi: thứ nhứt cậy chị chủ đò thương thuyết với mấy
ngươi bán trái cây ở chợ Giồng rồi bà mua trái cây gởi theo đò chở về cho họ
bán. Họ trả tiền chở và chịu tiền đầu cho bà; thứ nhì gói bánh ú bánh chưng,
bánh tét mà đếm cho bạn hàng ngồi chợ hoặc bưng ra bến xe, bến tàu mà bán, gói
những bánh ấy thì lựa nếp thiệt tốt, xào nhưn thiệt ngon, mỗi ngày gói 100 bánh
ú, vài chục bánh chưng và một chục bánh tét, thì chắc chắn có lời không dưới ba
đồng bạc.
Mới lên ở chưa tới 10 bữa, mà bà Hương văn đã quen hết với
các người ở trong dãy phố. Đã sẵn cách bải buôi mua bán, lại thêm tánh giản dị,
bình dân, bà chinh phục thiện cảm của tất cả mọi người, đến mấy chị bán bánh,
bán trái cây ngoài chợ, dầu họ chưa biết bà là mẹ của thầy thông ngôn đứng bàn
quan Phó.
Một đêm, trong lúc ông Kinh lại dạy Vĩnh Xuân học đờn, thì bà
Hương văn qua nhà bà Kinh nằm nói chuyện chơi. Hai bà đã thân thiết với nhau rồi,
nên nói chuyện với nhau thì lấy thiệt tình mà nói, không cần phải dè dặt hay giấu
giếm.
Bà Kinh mới dở chuyện vợ chồng bà thấy Vĩnh Xuân ăn lương ít,
lại quyết giữ thanh liêm nên tính kiếm chỗ giàu làm mai cho thầy cưới vợ, đặng
thầy nhờ cậy cho khỏi bần chật trong việc ăn xài.
Thầy nói thầy không thể cậy nhờ người đàn bà nuôi thầy, mà thầy
đã quyết định thầy không cưới vợ, nên thầy xin đừng có tính tới việc đó. Nếu tiền
lương không đủ ăn thì thầy sẽ kiếm học trò mà dạy riêng ban đêm, để có thêm tiền
đủ nuôi mẹ, thầy sẽ rán sức một chút, tự nhiên sẽ có đủ tiền xài, chẳng cần phải
cưới vợ đặng nhờ vợ. Bà Kinh khuyên bà Hương văn nên cắt nghĩa cho Vĩnh Xuân
nghe, Vĩnh Xuân mới làm việc mà được quan yêu dân chuộng, đứng thông ngôn mà
không ăn hối lộ, bởi vậy danh giá nổi như cồn. Nhà giàu ở đây ai cũng kỉnh ái,
ai cũng muốn gả con. Vậy Vĩnh Xuân nên thừa nhơn tâm đương quí trọng đó mà cưới
vợ giàu, đặng có sẵn tiền bạc mà xài mới nuôi tánh thanh liêm được.
Bà Hương văn nằm êm mà nghe cho hết câu chuyện rồi bà mới cười
mà nói:
-Ép nó cưới vợ không được đâu bà. Vì nó có một chuyện riêng,
nên ba bốn năm nay nó thường nói nó không cưới vợ. Còn chuyện lương ít không đủ
xài, nên nó tính dạy học ban đêm thì bữa tôi mới lên, tối lại nó có bàn với
tôi. Tôi đã cản nó, tôi nói ban ngày làm việc rồi tối còn phải dạy học nữa thì
mệt lắm, Để thủng thẳng cho tôi tính ít bữa rồi tôi sẽ liệu cho. Tôi không dám
giấu bà, thuở nay tôi có cái nghề bán bánh trái đã quen rồi. Bây giờ nếu ăn rồi
nằm co tôi chịu không nổi. Hổm nay đi chơi ngoài chợ tôi thấy có hai cách buôn
bán khỏe lắm mà lại có lợi: hoặc mua trái cây ở đây gởi đò chở xuống chợ Giồng
cho bạn hàng bán, mình ăn tiền đầu, hoặc gói bánh ú, bánh chưng, bánh tét đếm
cho bạn hàng họ bán ngoài chợ với bến xe, bến tàu. Ở đây mấy thứ bánh đó họ gói
dở quá. Mình gói cho ngon tự nhiên bán đắc. Bán trái cây có khi lời, khi lỗ, chớ
bán bánh tôi chắc mỗi ngày lời hai ba đồng dễ như chơi.
-Gói bánh mà bán thì cực chị lắm.
-Có thím Tư Cam thím phụ thì có cực chi đâu. Điều cần nhứt là
phải có nếp cho tốt, và phải có lá chuối cho sẵn, đủ cho mình gói bánh hằng
ngày. Không biết trên đây họ có bán nếp tốt hay không. Nếu không có thì phải mượn
chủ đò mua giùm dưới chợ Giồng chở lên.
-Nếp trên nầy tốt lắm. Tôi có quen với tiệm gạo, nếu chị cần
dùng mỗi tuần hoặc mỗi tháng bao nhiêu thì tôi dặn trước tiệm gạo họ kiếm mà trữ
sẵn đặng bán cho chị. Còn lá chuối thiếu gì mà lo. Chung quanh đây là vườn, nhứt
là bên phía Chợ Cũ, chị muốn dùng bao nhiêu cũng có.
-Vậy thì xong lắm. Để tôi sắm chã ba, sắm đồ hấp bánh cho đủ
bộ vận rồi tôi cậy bà tiến đẫn cho tôi làm quen vơi tiệm gạo đặng tôi mua nếp
mà làm.
-Gói bánh rồi phải gánh ra chợ ngồi bán hay sao ?
-Không. Mình đếm cho bạn hàng họ vô nhà lấy mà đi bán chớ. Họ
mua một chục, mình phải thêm cho họ hai bánh đặng họ có lời. Tôi có nói chuyện
với vài người rồi. Họ chịu lãnh bánh của tôi họ bán. Thím Tư Cam thím nói có
vài đứa cháu gái, thím sẽ biểu nó lãnh bưng đi bán theo bến xe, bến tàu
-Còn hồi nãy chị nói thầy thông có chuyện riêng, nên thấy
không chịu cưới vợ, không thế gì ép thầy được. Chuyện riêng là chuyện gì vậy. Bộ
thầy đã hứa hẹn với ai rồi hay sao chí ?
-Tại vậy đó. Mà hư hỏng rồi, nên nó nản chí thất tình mới
ghét con gái, không thèm cưới vợ.
-A ! Tại vậy à ! Hèn chi lại đây hơn một tháng rồi ông Kinh để
ý không khi nào thầy thèm ngó con gái.
-Không phải tình nhân nó phụ bạc nên nó giận rồi oán hết con
gái. Tình nhơn nó vì thương nó mà phải tự vận, làm cho nó bực tức và tưởng nhớ
đêm ngày, không đành cưới vợ nào khác.
-Thương sao lại tự vận đi ?
-Chuyện kỳ cục lắm; để tôi nói cho bà nghe. Nhưng xin bà đừng
có nhắc lại với nó. Nhắc tới nó buồn lắm. Con nhỏ đó đích đáng thiệt. Nói tới
tôi cũng động lòng. Tôi chắc không thế nào tôi kiếm con dâu nó biết thương thằng
Xuân và biết lo cho tôi bằng con đó. Số là năm trước bãi trường nó đi học thêm
chữ nho. Nó gặp con Cúc Hương, con gái của một người buôn bán giàu có ở trong
chợ. Con nọ học chung với nó mà cũng học giỏi như nó. Hai đứa thương nhau rồi
lén thề thốt với nhau thế nào tôi không hay. Chừng Xuân thi đậu học bổng được học
thêm bốn năm đặng sau làm thầy thông thầy ký, tôi mới than với con rằng tuy nhà
nước chịu cơm, chịu áo quần, song con cũng phải có tiền mà ăn bánh, sắm đồ, đi
xe, đi tàu. Nhà nghèo tôi bán bánh trái kiếm lời nuôi sống hằng ngày, tôi làm
sao có tiền mà nuôi con đi học xa, lại phải học tới bốn năm. Tôi khuyên nó
thôi, bỏ học để xin làm giáo tổng lãnh lương đủ ăn cho tiện. Nó buồn, nó nói
mình nghèo, phải học cho nhiều mới lập thân danh được. Nếu tôi ở nhà mua bán đủ
ăn thì để cho nó nói với thầy nó bao tiền dùm cho nó học đủ bốn năm, sau nó ra
làm việc rồi nó sẽ trả lại. Cách ít bữa nó nói với tôi có con Hai Tỷ, bán hàng
ngoài chợ, nghe nó học giỏi mà nghèo, thì thương nó như em ruột, nên chịu ra tiền
cho nó ăn học đến cùng. Nó cậy giúp mỗi năm 10 đồng, Hai Tỷ chê ít nên đưa cho
nó 15 đồng đặng sửa soạn đi học năm đầu, sau mỗi năm cứ giúp một số như vậy
hoài.
-Chà, người có tiền mà biết làm ơn làm nghĩa như vậy thì sẽ
được phước lắm.
-Tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi cảm ơn Hai Tỷ lằm. Xuân đi học được
vài tháng, hai Tỷ đem vô nhà cho tôi một vóc xuyến để may áo bận đi xóm cho
lành lẽ với người ta. Nó lại dặn tôi nếu có túng rối thì cho nó hay, nó sẽ giúp
đỡ, đừng ái ngại chi hết. Tôi càng cảm ơn hơn nữa.
-Vậy thì chị Hai Tỷ nầy tử tế quá, ít ai được vậy.
-Khoan. Để tôi nói tới cho bà nghe. Chừng bãi trường cuối năm
Xuân về, vừa bước vô nhà thì nó liền hỏi tôi phải Cúc Hương là con Hia Mỹ chết
hay không. Tôi nói phải, vì cha mẹ nó ép gả lấy chồng chỗ giàu có, mà nó không
chịu, nên tự vận. Xuân nghe như vậy thì ré lên khóc dữ quá. Nó mới chịu nói thiệt
với tôi nó cùng Cúc Hương đã có thề nguyền kết nghĩa vợ chồng với nhau, thiệt
Cúc Hương buôn bán kiếm lời đặng bao cho nó đi học. Cúc Hương cũng mua cho tôi
vóc xuyến, có cậy Hai Tỷ ra mặt đặng tránh tiếng cho nó mà thôi.
-Người có tình, có nghĩa như vậy tôi nghe tôi cũng cảm. Thầy
thông thẩy tưởng nhớ, không đành cưới vợ, nghĩ cũng phải.
-Xuân nhờ con Cúc Hương nó mới học được mà làm thầy ký, thầy
thông đây, bởi vậy hôm tôi mới lên, nó mừng, nhưng tối lại nó nhớ con nọ nó
khóc mà tiếc bây giờ thành công danh toại, mẹ con sum hiệp mà thiếu Cúc Hương đặng
chung vui cùng nhau cho phỉ tình mãn nguyện.
-Mà bãi trường thầy thông về thầy hay cô nọ chết. Thầy có hỏi
coi tại sao cô nọ chết hay không ? Cha mẹ ép gả lấy chồng, ta không ưng thì
thôi, hoặc ta bỏ nhà mà đi, dại gì mà tự vận.
-Có chuyện nầy hiển hích lắm bà à. Xuân nói đêm rằm tháng 11,
còn có vài tuần nữa tới bãi trường nó đương ngủ, đến khuya nó chiêm bao thấy
Cúc.Hương đứng trên đầu giường vỗ mặt kêu mà nói cho nó hay cô đã chết rồi; cô
biểu về hỏi Hai Tỷ sẽ biết tại sao cô chết. Cô lại căn dặn đừng có buồn rầu mà
thôi học, phải học cho đủ bốn năm, cô đã sắp đặt trước rồi cô mới chết, nên
không có điều chi trở ngại hết. Xuân lo sợ, nhưng tưởng chiêm bao là mộng mị.
Chừng về nghe tôi nói chết thiệt, nó mới chạy ra hỏi Hai Tỷ. Theo lời Hai Tỷ
thuật lại thì cha mẹ Cúc Hương ham giàu nên ép gả cô cho con trai của một điền
Chủ. Nó không ưng. Nó nói thiệt nó đã thương Xuân và có thề nguyền kết vợ chồng
với Xuân. Cha mẹ nó chê Xuân nghèo, cứ ép gả nó. Nó không đành bội ước với
Xuân, mà cũng không dám cãi lịnh cha mẹ, nó mới tính tự vận. Nhưng mà nó không
chịu nói cho Hai Tỷ biết. Cha mẹ nó định bữa rằm tháng 11 nhóm họ rồi sáng 16
đưa dâu. Cúc Hương đem một gói mà gởi cho Hai Tỷ, dặn Xuân về thì đưa lại cho
Xuân, biểu Xuân phải học cho đến cùng, vì trong gói đó nó có để 50 đồng bạc đủ
cho xuân ăn học ba năm nữa, lại có gởi cho tôi một vóc lãnh đặng tôi may tôi bận,
Xuân khỏi lo tôi rách tưới. Đây xuyến với lãnh nó để lại cho tôi năm nay vẫn
còn, tôi đương bận đây.
-Tội nghiệp quá ! Sắp chết nhà cũng còn nhớ tới mẹ chồng.
-Bởi vậy tôi nói không thế nào tôi kiếm con dâu khác bằng nó
được. Con Hai Tỷ nói chiều rằm nó có đi đám nhóm họ. Cúc Hương ra vô như thường.
Hai Tỷ tưởng nó gởi gói đồ và dặn công việc là dặn đặng đi lấy chồng, chớ có dè
trối đặng chết đâu. Đến tối Hai Tỷ từ giã ra về thì Cúc Hương mời nó vô buồng
khóc mà từ biệt và căn dặn phải rán an ủi cho Xuân đừng buồn rầu, biểu Xuân phải
học cho nên danh đặng trước nuôi mẹ sau khỏi bị người ta khinh khi nghèo hèn nữa.
Hai Tỷ về. Đến nửa đêm nghe người ta rước thầy chạy thuốc làm vỡ lở, nói Cúc
Hương uống giấm với á phiện mà tự vận. Hai Tỷ chạy lại thì con nọ mê man không
biết gì nữa hết, rồi mòn hơi lần lần, đến khuya thì chết.
-Chết rồi hồn xuất đi lên nhà trường kêu thầy thông mà cho
hay đó chớ gì. Vậy thì linh quá.
-Còn cái nầy mới linh nữa chớ. Xuân nghe rõ công chuyện rồi
nó thối chí, nhứt định không học nữa để xin làm giáo tổng đặng nuôi tôi. Nó mượn
Hai Tỷ dắt chỉ mả đặng nó cúng vái: Tối lại nó chiêm bao thấy Cúc Hương về biểu
nó phải học cho đủ bốn năm chớ không được bỏ. Cúc Hương lại nói nó đã kiện dưới
Diêm Chúa nên Diêm đình huỡn đầu thai cho nó, để hồn theo phò hộ cho Xuân học đủ
bốn năm. Có vậy nên Xuân mới chịu tiếp tục học luôn. Mà hôm Xuân thi đậu ký lục
rồi, còn chiêm bao thây Cúc Hương về mừng cho Xuân và từ giã đặng đi đầu thai,
nói rằng từ đó hồn không còn theo Xuân nữa được, dặn Xuân phải cưới vợ đặng có
người giúp nuôi mẹ và lo cơm nước cho, còn duyên nợ thì để kiếp sau rồi sẽ
tương hội.
-Hồn Cúc Hương biểu thầy thông phải cưới vợ đó chớ có cản đâu.
-Vậy mà nó không chịu. Nó còn thương nhớ con nọ quá, nên nó
không muốn ai hết. Tôi tưởng phải để đôi ba năm đặng nguôi ngoai rồi ông Kinh
giúp cắt nghĩa giùm, có lẽ nó sẽ hồi tâm mà lo lập gia thất như ngươi ta..
-Ừ, thôi để thủng thẳng coi rồi vợ chồng tôi sẽ liệu mà an ủi
thẩy. Thiệt đáng thương hết sức. Nhỏ tuổi, học giỏi, biết điều, có thiện chí, mộ
nghĩa nhân, mà bị cái họa làm cho thất tình chán nản, tội nghiệp quá. Ông chủ
phố ái mộ, ổng muốn gả con, nên ổng sửa phố và cho mượn đồ mà dọn nhà đó.
-Vậy hay sao ?
-Mà không được chị à. Ông chủ phố thì nhiều tiền, nhưng con
gái ổng kém bề nhan sắc quá. Thiếu gì con gái khác cũng có tiền, mà lại có sắc
nữa.
-Hai ông bà nói làm sao cho nó chịu cưới vợ, thiệt tôi mang
ơn lắm.
-Chi để vợ chồng tôi lo cho.
Qua bữa sau, nhằm chúa nhựt, sớm mơi bà Hương văn đi chợ về,
bà thấy Vĩnh Xuân đương thay đồ bà hỏi thầy tính đi đâu. Thầy nói thầy đi vòng
xuống mé sông coi có bán sách gì đặng đọc thì mua đọc chơi.
Vĩnh Xuân đi một hồi rồi trở về đưa cho mẹ một gói trà, còn một
gói lớn nữa thầy để trên bàn viết. Thầy thay đồ rồi ra ngồi tại bàn viết mà mở
cái gói lớn đó. Té ra trong gói chỉ có một khuông kiếng để lộng hình, chớ chẳng
có vật chi khác. Thầy lấy giẻ lau kiếng sạch sẽ, rồi nới đem miếng lụa trắng của
Cúc Hương viết hàng chữ nho mà để lại hồi năm trước đó, thầy để vào khuông kiếng
và treo ngay trước mặt mà nhắm.
Vĩnh Xuân đương ngồi xem di bút của người bạn yêu quá vãng
thì ông Kinh Lương bước vô. Ông thấy cái khuông kiếng lộng tấm lụa viết hàng chữ
"Xá sanh nhi thủ nghĩa" dưới lại có hai chữ "Cúc Hương". Hồi
hôm ông dạy Vĩnh Xuân học đờn, chừng ông vô bà Kinh đã có thuật tâm sự của Xuân
cho ông nghe, bây giờ ông thấy chữ viết trong tấm lụa đó thì ông hiểu, nhưng
ông cũng cứ hỏi:
-Thầy lộng kiếng mà treo câu chữ nầy làm chi vậy thầy thông?
-Đó là di bút của người bạn học thân yêu với tôi đã quá vãng
nên tôi lộng kiếng để kỷ nịệm, thấy chữ cũng như thấy người.
-Mà di bút lại viết câu của Mạnh Tử như vầy, chắc người bạn của
thầy muốn cho thầy hiểu ý nghĩa sao đó, chớ không phải vô cớ mà viết liều đâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét