Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Chất ngọc 2

Chất ngọc 2

Con ma học trò
Ma quỷ tìm đến gặp ông Cửu Hiền vào lúc đêm khuya, khi ông mất ngủ, ngồi dậy uống một tách trà. Trăng đã ngả hẳn về tây, chiếu màu ánh sáng nhợt nhạt qua khe cửa sổ khép hờ. Một ngọn gió lạnh từ đâu thổi lại rạt rào, lay chuyển chòm tre đầu ngõ, gởi đến nơi ông đang ngồi một mùi oi nồng sót lại từ chiều của lớp đất gò vừa bén một trận mưa dông ngắn ngủi. Ông Cửu nhăn mũi, tưởng nghe một mùi mồ hôi ẩm mốc trên một tấm áo quên giặt nhiều ngày.
Khi ông đứng lên, vặn nhỏ ngọn đèn định lại giường nằm, bỗng thoáng thấy một bóng người lướt nhẹ bên mình. Hơi nồng vẳng nhẹ rồi tan. Ông không kịp nhận rõ được tất cả sự ẩn hiện ấy, tưởng mình trong lúc mệt mỏi có những rối loạn tâm thần. Nhưng vừa sờ soạng bước lại gần giường, ông thấy bóng người lướt qua, cọ vào tay phải của ông rồi vượt tới trước, vòng lại, cọ vào tay trái. Ông Cửu quay hẳn ra sau, không thấy gì hết. Một hơi lạnh lẽo của chốn mồ hoang phảng phất mùi nồng ẩm mốc bây giờ như tràn lan cả gian phòng. Tự nhiên ông Cửu run rẩy, loạng choạng tiến lại phía giường. Ông muốn kêu lên, nhưng hai hàm răng tê cứng không mở ra được. Vừa ngã xuống chiếu, ông có cảm giác như thấy một cái bóng người đang nằm nhổm dậy nhìn ông, nham nhở nụ cười quái gở rồi khuôn mặt ấy lớn dần đến độ nhòe tan, biến vào bóng tối. Ông Cửu nằm yên, giương mắt thao láo trân trân nhìn lên nóc màn tưởng nghe trong đêm nhiều tiếng xôn xao từ đâu vẳng lại mỗi lúc một rõ. Trong những vang động mơ hồ như có tiếng cười, tiếng khóc, những tiếng rên rỉ oán hờn.
Qua đêm thứ hai, ông Cửu giật mình vào lúc nửa khuya, cảm thấy đau nhức như có ai đang trói chặt chân mình. Ông gượng ngồi dậy, ngơ ngác nhìn quanh không thấy một ai, nhưng khi nằm xuống nghe một bàn tay lạnh buốt đè nặng lên trán và ấn đầu ông xuống chiếu mỗi lúc một mạnh. Trong cơn vật vã đuối liệt, ông có cảm tưởng như bàn tay kia lần xuống cổ họng của ông và bóp thật mạnh, khiến ông giẫy giụa kêu lên một cách tuyệt vọng. Giữa lúc mê tỉnh chập chờn, mơ hồ ông nghe nhiều người nhốn nháo lùng chạy quanh nhà, những tiếng sàn sạt kéo lết ở trên mái ngói, những đồ chén bát loảng xoảng, rơi vỡ tứ tung do một bàn tay hung hăng phá phách.
Sự phá phách ấy mỗi đêm một tăng khiến ông Cửu Hiền như muốn điên loạn. Ông gầy rạc hẳn, đôi mắt hõm sâu, dáng đi lạc lõng như người mất trí. Mỗi lần xô nhẹ cánh cửa ông nghe tiếng rít căm hờn sau đấy, và lúc ngồi xuống, đứng lên, luôn luôn có một bóng người im lìm nhại theo điệu bộ của ông với một dáng điệu ủ rũ hoặc đang sôi sục giữa cơn thịnh nộ. Ông Cửu dần dần sợ mọi tiếng động, mọi bóng dáng người, kể cả hình bóng của ông.
Người phù thủy đầu tiên là ông Hộ Liệu, được mời đến xua ma quỷ, đã cúng ba đêm liên tiếp và giết hết ba con gà lấy huyết bôi vào cột nhà. Trong suốt thời gian thầy ê a đọc phù chú, ma quỷ dừng hẳn hoạt động. Nhưng khi thầy bước ra về, ngay đêm hôm ấy, những sự phá phách càng mạnh hơn lên. Ông Cửu tưởng chừng căn nhà như muốn sụp đổ và các gốc cột bắt đầu lung lay, nhảy múa liên hồi. Mùi hôi nồng ẩm lan đầy và một bàn tay sù sì, lạnh ngắt từ đâu xen vào tay áo, cổ áo của ông như muốn tìm đúng mạch sống để siết thật chặt. Ông Cửu mời thầy phù thủy thứ hai, ông Tư Ngãi, ở tận trên làng Đồng Thượng xa xôi. Thầy đến xem vết máu gà đã khô trên cột và các bùa ếm ở bốn góc nhà, cười khẩy nhiều lần ra vẻ hết sức khinh bỉ. Vợ chồng ông Cửu, đắn đo một lát, mới dám thưa lời:
- Chẳng hay phép cúng của ông Hộ Liệu không thiêng sao thầy?
Ông Tư Ngãi nhíu mắt, làm thinh giây lâu, rồi mới cất giọng khàn khàn trả lời:
- Trong chỗ đồng nghiệp với nhau, lẽ nào tôi lại đi nói anh ta dốt nát hay sao? Ông bà hiểu giùm, dù cho anh ta chẳng biết cóc khô gì hết, tôi cũng không nỡ chỉ trích.
Và ông làm thinh không chịu nói thêm gì nữa để khỏi mang tiếng nói xấu người bạn đồng nghiệp, sau khi đã cho vợ chồng khổ chủ hiểu rằng Hộ Liệu vừa rất dốt nát, vừa không hiểu biết cóc khô gì cả. Ông Tư Ngãi cho rửa sạch hết máu gà và truyền giết con chó mực lớn nhất của ông Cửu Hiền lấy huyết bôi vào chỗ ấy. Ông Cửu rất thương con chó khôn ngoan nhưng chỉ tiếc thầm trong ruột. Con chó mỗi đêm thường nằm đầu ngõ sủa vọng về nơi nghĩa địa xa xôi, canh chừng giấc ngủ của ông, và khi ma quỷ lục đục phá phách, nó thường chạy rảo quanh nhà tru lên từng hồi ghê rợn như muốn xua đuổi oan hồn quấy nhiễu nơi ăn chốn ở của ông. Máu của con mực bôi lên đỏ sẫm trên cột và ở chân tường. Ông Tư còn lấy chất máu vẽ bùa trên những miếng thiếc dựng ở nhiều nơi trong nhà, ông bắt lập đàn cúng tế hết sức công phu và không quên dặn mua hai lít rượu để phun vài ngụm vào các mền chiếu - trừ tà - còn lại bao nhiêu ông dùng lai rai đưa tiễn vào trong bao tử suốt mấy ngày liền.
Trong một tuần lễ có ông Tư Ngãi trong nhà, ma quỷ im hơi, lặng tiếng. Ông Tư lộ vẻ đắc thắng rõ rệt, ra vào, lên xuống một cách hiên ngang, không ngớt đòi rượu và đòi thức nhắm. Ông bảo:
- Ma quỷ là giống không bị đau ốm bao giờ cho nên chúng mạnh khỏe lắm. Nếu mình không nhậu, làm sao mà đối phó được?
Nhưng tối hôm ấy, ông Tư sửa soạn hành lý để sáng về sớm thì bỗng ma quỷ hiện lên. Ban đầu có tiếng loảng xoảng ở trên bàn thờ và đồ tam sự, ngũ sự nhào lăn xuống đất lổng chổng. Cả nhà Ông Cửu choàng tỉnh, hướng về ông Tư cầu cứu. Ông Tư vội vàng rút cái khăn ấn, hối hả thắp mấy cây hương gài lên mái tóc, đứng ở giữa nhà bắt quyết. Nhưng sự hiện diện của ông Tư Ngãi gần như không làm ma quỷ mảy may xúc động. Tiếng cười lạnh lẽo, tiếng rít khô khan vẫn cứ văng vẳng quanh nhà, tiếng kéo sàn sạt ở trên mái ngói vẫn còn tiếp diễn, tiếng khua lổn cổn, lạc cạc trong các kho lúa vẫn không chịu dừng, mỗi lần sự phá phách mỗi gia tăng cường độ. Người ta có cảm tưởng rằng ma quỷ có vẻ khinh thường các vị pháp sư rõ rệt, và sự đình chỉ hoạt động trong mấy thời gian vừa qua chỉ là giai đoạn nghỉ ngơi của chúng mà thôi.
Ông Tư Ngãi cuốn gói ra về như một chiến tướng bại trận. Sau đó, còn đôi vị pháp sư nổi danh khác lại được mời đến, nhưng không vị nào có thể đàn áp nổi giống ma quỷ lộng hành trong nhà ông Cửu.
Giữa lúc gần tuyệt vọng ấy, may thay, còn có một người.
Đó là một vị pháp sư du học nhiều năm ở tại nước ngoài, theo lời của thầy tự giới thiệu mình. Ông đã qua Xiêm, qua Miên, qua Lào, qua cả Ấn Độ nghiên cứu pháp thuật, làm như là mấy nước đó độc quyền về môn bắt ma, trừ quỷ và chỉ chuyên môn về một món ấy mà thôi. Để kỷ niệm những năm du học vất vả, ông lấy biệt hiệu là “Ba Da Ka Lu Tu Na”, một cái biệt hiệu mà khi nói lên người ta thấy sự ngân nga của Lào, của Xiêm, và của Ấn Độ. Nhưng muốn cho hợp thời hơn, ông Ba Da... còn để một bộ râu Tây - đúng hơn là râu Ăng lê - cốt để tăng thêm sự quan trọng của nghề nghiệp mình. Đối với bà Cửu thì vị pháp sư có râu hay không có râu cũng chẳng quan hệ gì lắm, bởi lẽ ma quỷ có thừa lông lá đầy mình, đâu có kiêng nể một đôi chòm lông bé nhỏ ở trên môi mép, nhưng với ông Cửu thì bộ râu ấy thật đáng kính trọng, cụ thể phải thêm rượu, thịt vào các bữa ăn. Ông Ba... - từ nay xin gọi vắn tắt như thế, miễn là vẫn giữ nguyên sự thành kính với người - ngay từ hôm đầu đã tỏ ra một bản lĩnh cao cường. Suốt đêm, ông ta không ngủ, thỉnh thoảng lâm râm khấn niệm như đang cầu khẩn một sức thiêng liêng độ trì, thỉnh thoảng lại nói lảm nhảm như đang trò chuyện với kẻ khuất mặt. Sáng ngày, với một dáng điệu ưu tư, ông bảo khổ chủ:
- Tôi đã gặp oan hồn rồi.
Ông Cửu giật mình, kêu lên:
- Gặp rồi? Gặp hồi nào?
Ông Ba chậm rãi trả lời:
- Hồi khuya.
- Nó là hạng nào?
Ông Ba nghiêm nghị:
- Là ma, là quỷ. Nhưng vốn tiền thân là một học trò.
Ông Cửu cau mặt:
- Tôi có quen biết với hạng học trò nào đâu? Nhưng sao ma quỷ học trò mà lại phá phách quá vậy?
Ông Ba quắc mắt:
- Cụ lầm... Trong các loài ma, loài quỷ xưa nay, chỉ có ma quỷ học trò là đáng sợ nhất. Hãy nghĩ mà xem, người ta ai cũng vì sự sinh kế ở đời mà hóa hiền lành nhu nhược, chỉ có một loại hạng người được sống lành lặn mà không bận tâm về chuyện áo cơm, do đó không hiểu cuộc đời, dễ thành nông nổi, là hạng học trò. Một khi họ hóa thành ma, thành quỷ, thì họ không biết kiêng sợ gì cả. Nhưng khốn, tên ma học trò phá phách ở đây lại là một học trò nghèo có mối nợ nần từ trước với cụ, cho nên xem y còn định báo oán lâu dài...
Ông Cửu làm thinh, vân vê bộ râu, lục lọi ở dĩ vãng cố tìm bóng dáng một người học trò. Hai người cùng ngồi đối diện rất lâu, không ai mở miệng nói một lời nào. Ở ngoài, gió thổi rạt rào qua các bờ tre, có tiếng chim kêu rất nhỏ mơ hồ như tiếng nhắc thầm vẳng lại từ một không gian xa vắng. Bỗng nhiên ông Cửu giật mình, tái mặt:
- Một học trò nghèo... tôi nhớ ra rồi.
Ông đưa bàn tay gầy guộc, lẩy bẩy vớ lấy bình rượu đặt trên tủ trà, rót vội vào chén khiến rượu tạt cả ra ngoài mặt chiếu. Ông đưa hai tay bưng chén rượu lên, không ngăn được sự xúc động và nốc một hơi cạn sạch.
Ông Ba chăm chú theo dõi khổ chủ, rồi bảo:
- Cụ không cần nói với tôi chuyện ấy làm gì. Tôi đã biết rồi...
Ông Cửu kêu lên:
- Biết rồi?... Hồn ma đã nói cho thầy biết rồi?...
Ông Ba gật đầu. Ông Cửu có vẻ lo lắng:
- Tôi không chắc gì ma đã nói thật...
- Chính vậy, ma cũng nói dối như thường. Trong nhiều năm trời tôi đã tiếp xúc ma quỷ, tôi thấy chúng có gần đủ tật xấu như người. Có lẽ chúng còn tệ hơn người nhiều. Nhưng cụ đừng lo, tôi biết phân tích lời thật lẽ dối, ma quỷ không lừa tôi được. Nỗi khổ mà hồi nhỏ cụ đã gây cho người học trò thật là quá sức lớn lao khiến y phải giã từ đời, bỏ cả tương lai hứa hẹn, bỏ cả tình yêu tươi đẹp, bỏ hết, bỏ hết. Ngày nay, y đã vượt được bao nhiêu trở ngại ở dưới cõi âm về đây đòi lại món nợ ngày xưa. Đó là một món nợ máu...
- Nó định làm gì?
- Đẩy cụ vào một cái chết thê thảm, cái chết lần mòn...
chết cả gia đình, dòng họ...
Ông Cửu lặng điếng giây lâu, mới nói:
- Không có cách gì trừ được nó sao?
- Nó không cần nghe ai nữa.
- Hay nhờ hồn ma các thầy dạy nó ngày xưa can thiệp?
Học trò chắc phải biết nghe lời thầy.
Ông Ba lắc đầu:
- Bây giờ, biết những ma thầy ở đâu mà tìm kiếm được? Tôi chắc mấy ông thầy dạy đều bị nhốt dưới địa ngục cả rồi... Vả lại... việc làm của nó là vì lẽ phải, không ai mà can thiệp được.
- Còn thầy đành chịu thua sao?
Ông Ba đáp gọn:
- Chịu thua. Nhưng nếu cụ chấp nhận cho điều kiện sau đây, tôi cũng thử liều một nước cuối cùng.
- Thầy hãy nói đi.
- Chia nửa gia tài...
- Trời ơi! Nửa phần gia tài?
- Thế là mất ít đó cụ... Không thì cụ sẽ mất hết, cả người lẫn của. Còn một điều kiện sau đây rất là cần thiết: cụ phải làm giấy nhường lại cho tôi tất cả gia tài càng sớm càng hay, nhưng để khỏi điều ngờ vực cụ cứ giữ mảnh giấy đó. Chừng nào xong việc, sẽ giao cho tôi cũng được. Xin cụ đừng tưởng là tôi tham lam. Tôi quyết cùng ma giao đấu một phen sống mái, nếu tôi không hưởng gia tài của cụ thì ma sẽ không đời nào tranh chấp với tôi... Đã dọ thử ý nó rồi...
- Dọ như thế nào?
- Tôi tỏ lòng muốn đấu phép với nó, nó cười bảo rằng: “Tôi có can dự gì đến ông đâu mà bày ra sự xung đột cho thêm rắc rối. Tôi chỉ thèm cái mạng sống của thằng...”
- Của tôi...?
- Của cụ, chính thế.
Ông Cửu suy nghĩ suốt ngày hôm đó, không biết quyết định ra sao. Đến chiều, thấy bóng đêm đã đem màu đen tối nhá nhem phủ lên vạn vật và nghe gió lạnh từ xa thổi về rạt rào qua các chòm tre trước ngõ như lời than oán căm hờn, ông bỗng nhận rõ tất cả ý nghĩa quái gở của sự giàu sang mà ông không ngừng chạy đuổi gần trọn cuộc đời. Ông rút mảnh giấy, trịnh trọng mời vị pháp sư lại gần, chính thức chia đôi cho ông “Ba Da Ka Lu Tu Na” tất cả những gì ông có, tất nhiên không kể đứa con và người vợ già.
Ngay đêm hôm ấy, ông Ba tổ chức giao đấu để quyết diệt loài ma quỷ.
Ông bảo mọi người ngủ sớm và đem nhiều đạo bùa linh chôn bốn góc nhà. Ông đã cho tìm mỡ chó đổ vào bảy chiếc đĩa đất làm đèn, đặt sẵn quanh nhà, cắt đặt một số gia nhân đợi hễ khi nào nghe ông hô xướng thì phải nhất tề đốt lên cho sáng. Ngoài ra, ông còn đem một bình nhỏ đựng chất bột xám bốc mùi hăng hắc rưới nhẹ thành một lối đi ra vườn và còn vẽ nhiều hình thù kỳ dị trên khắp mặt đất.
Gia đình ông Cửu tuy đi ngủ sớm nhưng không ai nhắm được mắt. Nửa đêm, họ nghe một tiếng cười dài rất đỗi lạnh lùng vẳng lên ở trên nóc nhà và một tiếng rít rùng rợn tiếp theo. Một lát, nghe tiếng huỳnh huỵch trên đất, tiếng thở hào hển, tiếng xô, tiếng đẩy phát ra từ sự giằng co quyết liệt. Những tiếng động ấy kéo dài không biết bao lâu, cuối cùng chỉ còn những tiếng thở gấp và giọng rên rỉ vẳng lại mỗi lúc mỗi yếu rồi tắt lịm hẳn. Gia nhân ông Cửu đợi hoài không nghe tiếng hiệu thắp đèn, nên cứ đợi mãi và ngủ gục trên mấy chiếc đĩa đất lúc nào không hay. Vợ chồng khổ chủ yên trí pháp sư toàn thắng, nhiều lần định ngồi hẳn dậy coi thử cớ sự ra sao nhưng không có lệnh ông Ba đành phải nằm chặt trên giường. Mờ sáng, họ thấy ông Ba nằm yên trên đất như một đống thịt mềm dẻo. Lay mãi ông mới dần dần tỉnh dậy, cố gắng đứng lên rồi lại té xuống. Người nhà khiêng ông lên giường thấy mình mẩy ông tím bầm, hai bên khóe môi tứa máu đông thành hai vệt đen sì. Đến trưa, ông Ba mới ngồi dậy được. Ông phều phào nói:
- Nếu tôi không đem tất cả các món bí truyền đối phó thì hóa kiếp rồi. Gớm thật! Tên này bản lĩnh cao cường tột bực. Tôi đã chơi thử ma Ấn, ma Xiêm, đủ loại đủ cỡ mà chưa gặp một hạng nào đánh hiểm thế này.
Ông Cửu lo lắng:
- Thế lỡ tối nay nó đến thì sao?
Ông Ba trả lời mệt nhọc:
- Thì chết... Nhưng nó có bảo tôi trả gia tài cho ông và rời gấp khỏi nhà này. Tôi xin triển hạn năm ngày cho lại sức đã.
- Nó bằng lòng không?
- Tên này vốn có ăn học nên đối xử khá. Nó đã bằng lòng. Từ đây đến năm hôm nữa, tôi chắc nó không có mặt nơi đây.
- Bây giờ phải liệu thế nào?
- Để tôi nghỉ khỏe vài hôm rồi lo liệu cách đối phó.
Ông Ba nằm vật ra giường mà thở hổn hển. Suốt hai ngày liền ông chỉ uống sữa, đôi mắt nhắm nghiền, thỉnh thoảng trằn trọc qua lại có vẻ mệt nhọc. Đến ngày thứ ba ông mới tỉnh hẳn, đứng lên đi lại trong nhà. Ông mở tráp, lấy một lá bùa hộ mạng đeo cổ, rồi cầm chiếc gậy phòng thân chào hai vợ chồng ông Cửu:
- Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi, chỉ có ma quỷ mới loại trừ được ma quỷ. Tôi đi trễ lắm độ chừng hai ngày là tôi trở về, ông bà đừng ngại. Tôi sẽ tìm một đối thủ của nó, và gây một trận thư hùng để tiêu diệt nó mới xong.
Đúng hai ngày, ông Ba chống gậy trở về. Ông nói:
- Đáng lẽ tôi còn ở lại thêm vài ngày nữa nhưng sợ ông bà chờ đợi.
Ông Cửu vội hỏi:
- Có kế gì chưa?
- Có rồi. Tên học trò này mới chỉ thuộc về loại ma vừa lên hạng quỷ, nhưng chưa thật sự là quỷ thâm niên. Tôi đã dò khắp các nơi hiểm hóc may mắn gặp được một loài ác quỷ, một thứ đại tinh hiện đang phá phách gia đình ông Hương Lý Bỉnh trên xã Tứ Hải. Đáng lẽ tôi phải thử sức với nó một phen nhưng tôi chưa được mạnh lắm, và phải ở thêm lại một đêm nữa, e nỗi ông bà sốt ruột ở nhà.
- Bây giờ phải làm thế nào?
- Tôi đã có cách.
Suốt ngày hôm sau, ông Ba bố trí một cái võ đài đặc biệt ở phía sau vườn. Ông ếm thật kỹ các ngõ sau nhà, sai đốt mỡ chó bốn góc và bôi huyết trâu vào các chân cột. Ông dùng hình nhân trấn đóng quanh vườn và trên chóp nóc ngôi nhà năm gian lợp ngói của ông Cửu Hiền, ông cho hai vị thiên sứ - thắt bằng lụa điều cầm hai thanh kiếm - trấn giữ. Trên mặt đất, trên nền tường đều có vẽ hình bát quái trận đồ, chằng chịt mê lộ, u cung để cho hồn ma, vía quỷ không biết lối nào mà đặt chân tới. Cuối cùng, ở ngay trong góc võ đài ông dựng hai cái hình nhân phỏng đúng theo hình của ông và ông Cửu Hiền. Ông bảo ông Cửu:

- Tôi đã ghi dấu của tên đại tinh đại yêu tác quái trên nhà ông Hương Lý Bỉnh, rồi đem dấu của ma quỷ ở đây xáo trộn trên ấy, cốt gây một sự khiêu khích và dùng ám hiệu dẫn nó xuống đây. Đêm nay thế nào cũng có một trận quyết liệt.
Cả nhà hồi hộp chờ đợi như mong một sự giải thoát cuối cùng. Chuyến này không được thành công thì cầm bằng như chịu chết. Đợi cho bóng tối tràn đầy khu vườn, ông Ba một mình ra ngồi trong một bụi rậm sau khi cẩn thận gài kỹ bên mình gần mười đạo bùa. Gia đình ông Cửu nằm yên thao thức, lo âu, lắng nghe tiếng động âm thầm quanh nhà và cứ hình dung ra những hoạt động quái đản của giống yêu ma.
Nửa khuya, vẫn không có động tĩnh gì. Đang nằm trằn trọc, ông Cửu bỗng nghe ông Ba gõ cửa gấp rút. Lập tức ông choàng dậy liền, mở cửa, ông Ba hấp tấp chạy vào. Ông Ba không giấu được sự vui mừng cố đè nén lại:
- Trời ơi!
- Sao đó? Sao đó? Sao đó?
- Chúng gặp nhau rồi.
- Đánh nhau dữ chưa?
- Chẳng đánh khỉ khô gì hết.
- Úy cha mẹ ơi! Làm sao mình sống cho nổi?
- Đừng lo. Ai ngờ con tinh ở trên Tứ Hải là con quỷ cái...
- Chết cha! Quỷ cái thế thì dữ lắm?
- Nhưng con quỷ này trước kia vốn là người yêu của thằng học trò phá phách nhà ông. Hai đứa lấy không được nhau nên cùng nhau chết, bây giờ gặp nhau tình cờ chúng mừng rú lên ôm quấn lấy nhau như sợi dây neo. Ban đầu, tôi tưởng chúng sẽ một còn một mất ai ngờ sau đó thấy cả hai đứa ra ngồi ở góc võ đài tỉ tê tâm sự, tôi mới ngã ngửa.
Ông Cửu lo lắng:
- Nguy lắm, rồi chúng hiệp sức hại mình, làm sao đối phó cho đặng?
Ông Ba cười xòa trong bóng tối dày, vỗ vai ông Cửu:
- Đừng lo! Tôi đã bảo ông bọn ma quỷ này thuộc loại học trò, vốn quen mơ mộng, bây giờ đã sụp trong hố ái tình thì chúng chết nghẹt trong đó chứ còn phá phách gì nữa! Rồi xem, chúng còn nỉ non tâm sự, chúng còn hò hẹn gặp gỡ, rồi nhớ rồi thương, rồi sầu rồi mộng, thế là sinh con đẻ cháu, lo mệt một đời chứ còn hung hăng sao nổi?
Rồi ông nói tiếp, bằng một giọng trầm:
- Ông chẳng thấy sao, xưa nay muốn đẩy cho một xã hội sớm đi vào chỗ suy thoái thì cách tốt nhất là làm cho đám thanh niên tê liệt, mê muội dần đi bằng lối cổ võ, gieo rắc ái tình liên tục, qua những tiếng nhạc, lời ca, qua các sách báo và bằng mọi thứ gợi cảm có thể tạo được. Dìm chúng xuống dưới bể tình thì chúng chết chìm, chết nghẹt hết thôi.
Nói xong, ông Ba yên lặng dắt tay ông Cửu rón rén cùng ra sau vườn. Ông Ba dán lên trán ông Cửu một đạo bùa và cả hai ông cùng vào trong một bụi cây ngồi nhìn hai con ma trẻ đang quấn vào nhau không chịu buông rời.
Một lát, ông Ba dắt tay ông Cửu rón rén trở vào.
Ông nói:
- Để yên cho chúng yêu nhau, chúng sẽ quên hết sự đời. Tôi cam đoan mười ăn một với ông là chúng ngồi đây cho đến gà gáy mới đi, và cho đến già chúng không phá phách gì nữa.
Ông Ba nói chẳng sai lời. Ba tháng đã qua không còn thấy bóng ma quỷ gì nữa. Một năm sau đó, nhà ông Cửu Hiền vẫn được yên ổn như thường. Ông Cửu vui lòng chia đôi gia sản và ông “Ba Da Ka Lu Tu Na” hể hả nhận lấy món tiền khổng lồ, sau khi không ngớt ca ngợi tình yêu là thứ quyền lực có đủ khả năng vật ngã mọi loài ma quỷ và khiến người ta quên hết mọi sự quan trọng trên đời.
1971
Bút máu
Lương Sinh người đất Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười, có bài Tơ liễu trong trăng được tán thưởng nhất mấy câu:
Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày, sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi-di-ninh-thần dùng toàn não tủy một giống bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn chí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh, điều hoà. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu, ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm làu thông mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi, Sinh đang múa kiếm bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi, cau mày kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Đến nhà, lạy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý báu vô cùng nhưng vẩy ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi đao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy, cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thật cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ đấy là gây điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi đao, không thể chỉ thấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa.
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ. Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: “Tuyết Hồng tiện nữ chuyết họa”. Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất quan để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê mẩn tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.
Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gãy, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, song nghĩ duyên số tại trời, nhan sắc của nàng tuy kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều chối từ. Hỏi sao hồi xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế, mà bây giờ chẳng cho nghe lời nào, thì nàng cúi đầu, ngập ngừng giây lâu mới đáp:
- Chàng kén thiếp để làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã tròn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng nài ép bao nhiêu, thiếp cũng cam đành chịu lỗi.
Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm, chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.
Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi, y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du sơn thuỷ, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.
Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, màu trời, như theo giác quan dào dạt thấm vào mạch tuỷ khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ. Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn, túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản muốn quay về nhưng ruột đói, lưỡi khô bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước tới nơi thấy đám hội ở trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe reo hò rồi thấy đám người trước cửa giạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo màu loè loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẹt người, dừng lại. Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết đấy là Lý Duyên Hương con quan Tổng trấn vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu kỳ và nét sắc sảo của khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông lơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa. Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ nhà.
Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng đều mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.
Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi về nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:
Lá gió sầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng.
Động biếc, thoáng cười tiên nữ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần.
Mặt nước hồ im, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi giạt ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy, kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thơ!
Lập tức, hai, ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập ép đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống, không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời chống chế nhưng lính xông vào trói chặt lấy chàng.
Đám đông có tiếng thì thào:
- Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi!
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!
Lúc ấy, Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã.
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam rồi tâu trình lên Tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dáng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao được gặp một người tài đức, nay biết ngươi là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ suất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, ngươi hãy ở đây với ta hưởng mấy ngày xuân, vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.
Đoạn truyền đem rượu ngon, thịt béo thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh Sinh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời cho Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thư định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.
Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để dân lấy nước cấy cày, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác màu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chan chứa nhiệt tình đối với những bậc “dân chi phụ mẫu” mà xưa Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.

Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ngợi ca tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch và mấy nén vàng nhưng Sinh một mực chối từ để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, Sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm, đang nằm nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn, Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh bèn gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông viết, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày Sinh tỉnh dậy, lòng lại khát khao cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư, nhưng vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số oan hồn đòi mạng. Từ đó, Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng có giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua tội ác mờ mịt nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ đến vật dục mà quên ái tình, khêu cho thiên hạ tiếc điều tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay, nếu đem phân tích, biết đâu chẳng dồn chất thành ngàn dãy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
Lương Sinh nghe xong, bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ lại chưa tìm được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ đến những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng dài trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực trái ngược làm sao với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở về chốn cũ tìm hiểu sự thực.
Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ mới, hiu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương người thân quyến nào vậy?
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mồ không phải bà con quyến thuộc của tôi.
Sinh nghĩ: “Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?” Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đây?
- Tôi từ chốn xa, nhân bước phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:
- Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thực uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ thôn trưởng chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá, cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó, nên đã ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: “Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học, đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài vậy”. Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người đã chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ goá, con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.
Sinh chết điếng cả người, giây lâu mới gượng gạo hỏi:
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên là gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị người đày đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: “Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta được gần gũi với các người”. Hơi thở gần tàn, cụ còn nói tiếp: “Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vin vào che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó”.
Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:
- Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!
Đoạn, gục đầu trước mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
12-1958
Người khách không tên
Hồi đó - ông Trần Thế Kỷ kể lại - vào dịp nghỉ hè tôi về Quế Sơn, quê của người bạn, ở chơi đôi tuần gần mạn núi rừng. Vừa đến, tôi nghe có một võ sư tên là Bảy Quý chuyên dạy các môn võ Tàu, võ ta cho các thanh niên trong vùng. Bảy Quý ở miền duyên hải, sống nghề thuyền chài nên có sức mạnh, lại nhờ đi đây, đi đó trong ngành nghiệp mình nên học võ vẽ được ít côn quyền. Vào năm quân Nhật kéo sang Đông Dương và các phi cơ Đồng Minh oanh tạc đường biển, Bảy Quý không thể sống đời ghe chài như trước, lại gặp liên tiếp những mùa biển động không có cách gì nuôi sống, anh bèn từ giã vợ con lên mạn nguồn này tìm cách sinh nhai bằng nghề làm mướn.
Lúc mới đến đây Bảy Quý chỉ còn da bọc lấy xương, vì trải nhiều ngày đói khổ, nên phải làm thuê cho các địa chủ trong vùng. Lần hồi nhờ ăn no đủ, Bảy Quý hồi phục sức khỏe như xưa. Thấy nghề làm mướn không sao nuôi đủ vợ con, anh bèn tìm cách dạy võ. Nhưng một kẻ quá lam lũ như anh, xưa nay phục dịch nhà chủ một cách vất vả, làm sao nhất đán có thể trở thành sư phụ cho các thanh niên con nhà giàu có trong vùng? Để leo lên vị trí ấy, Bảy Quý loay hoay tìm một nấc thang. Và nấc thang ấy xuất hiện, vào đêm ba mươi, cuối mùa đông lạnh.
Đêm ấy, nhà ông Chánh Nghị thức khuya để nấu bánh chưng, bánh tét, và sau khi đã làm lễ giao thừa mọi người mệt mỏi lăn ra ngủ vùi. Ngày xưa, đêm ba mươi tháng chạp là cái thời khoảng rất tốt để cho đạo chích làm ăn. Một phần vì đêm tối trời, một phần vì đa số nhà đều tích lũy sẵn bánh thịt, áo quần ăn Tết, và một phần nữa là do không khí thoải mái, rộn rịp đón chờ xuân đến dễ khiến cho họ hớ hênh. Gia nhân của ông Chánh Nghị đều ngủ, ngoại trừ Bảy Quý. Anh nằm thao thức nhớ vợ con ở miền bể xa xôi đang sống trong sự thiếu thốn, nghèo nàn. Tết đến, con anh chỉ có những tấm áo rách tả tơi trước ngọn gió lộng từ khơi thổi vào. Gia đình của anh chỉ có cháo lỏng, ngô khoai và đọt rau lang chấm muối...
Bỗng Bảy Quý nghe một tiếng động nhẹ ngoài tường và anh nghiêng đầu hướng về phía ấy. Một bóng đen từ cổng sau men theo vách tường nhà bếp tiến vào. Bóng đen khá lớn nhưng rất lanh lẹ, thoáng chốc đã mất hút sau bể cạn đặt chỗ nhà ngang. Bảy Quý áp tai xuống đất dò theo tiếng động. Lát sau, anh nghe một mùi hăng hắc xông nồng rồi có những tiếng đào đất kín đáo vội vàng, ở mé vách sau của ngôi nhà trên. Bầy chó đông đảo, hung dữ của ông Chánh Nghị không nghe lên tiếng, có lẽ chúng bị đánh bả nằm chết ngoài vườn. Bây giờ tiến đến bắt lấy kẻ trộm thật là khó khăn vì nó có thể vụt chạy. Hơn nữa bắt nó khi chưa có những tang vật thật không đủ lý vững mạnh mà cái thành tích của mình cũng kém vẻ vang. Bảy Quý nhẹ nhàng ngồi dậy, rón rén vòng quanh sân trước và men bờ tường bò ra phía sau. Tên trộm đang cúi đào đất, thỉnh thoảng đứng dậy nghe ngóng, đảo đầu nhìn chung quanh mình. Nhiều lần y dán cặp mắt vào chỗ bụi cây đinh lăng, nơi anh đang núp, nhưng y không trông thấy gì. Cuối cùng, y lấy chiếc cây đội chiếc nồi đất luồn qua lỗ gạch cho vào bên trong để dò động tĩnh. Nếu người nhà núp bên trong chờ đợi có thể tưởng lầm đầu của tên trộm ngoi vào đã vội ra tay thì y có thể nhanh chân tẩu thoát. Giây lâu, vẫn thấy im lìm, y bèn chui vào. Đợi cho tên trộm lọt hẳn vào trong, Bảy Quý bê một tảng đá nhẹ nhàng đến lấp lỗ gạch rồi vòng ra phía cửa hông ngồi chờ. Độ một giờ sau, cánh cửa hé mở, tên trộm bước ra hai tay xách đầy đồ vật. Trong bóng tối mờ, Bảy Quý nhìn thấy miệng gã cắn ngang một lưỡi dao dài nhọn hoắt.
Khi tên trộm qua chỗ anh đang núp, Bảy Quý chuyển hết gân lực đánh đòn chí mạng vào sau gáy gã khiến gã ngã chúi về trước, nhả văng lưỡi dao loảng xoảng trên gạch. Tuy vậy hai tay gã vẫn giữ chặt xách đồ và gã gượng dậy rất mau, vọt chạy về phía sân sau. Bảy Quý hô lớn “Ăn trộm! Ăn trộm!”, rồi chạy rượt theo. Anh cũng biết rằng đã đánh một đòn chí tử mà không hề hấn gì đến tên trộm là nhờ y choàng nơi cổ một vòng khăn dày.
Người nhà nghe kêu có trộm, trỗi dậy vội vàng và cùng ùa chạy đuổi theo. Biết rằng ham của sẽ khó thoát thân, tên trộm đợi cho Bảy Quý đến gần, cầm hai xách đồ ném mạnh vào anh. Nhưng sức lực hai cánh tay thạo nghiệp thuyền chài đủ đánh bật tung hai xách đồ nặng giạt ra hai bên. Thừa cơ hội ấy, tên trộm vọt lên bờ tường toan leo ra ngoài. Nhanh như chớp, Bảy Quý kịp nắm lấy chân anh ta kéo mạnh. Bấu chặt tường thành, tên trộm chuyển sức xuống cả đôi chân cố đá những đòn độc hiểm vào người Bảy Quý. Vừa né tránh đòn, vừa nghiến răng lại chịu đựng, Bảy Quý cố trì kéo mạnh không cho tên trộm trốn chạy. Lúc ấy người nhà ùn ùn kéo đến, đã có đôi người nổi đuốc sáng lòa chạy tới vây quanh.
Tên trộm lấy đà ở nơi bức tường nhảy ập trở xuống cố dùng sức mạnh đè ngã Bảy Quý. Hai người cùng té xoài ra mặt đất, cùng xoắn lấy nhau, kẻ nắm, người gỡ, tung bụi mù mịt. Bên ngoài, những tiếng la ó vang dậy nhưng không một ai dám xáp lại gần. Một lát, tên trộm rứt khỏi đôi tay Bảy Quý chồm dậy phóng đến đánh ngã một người gia nhân, đoạt lấy chiếc gậy cố mở đường thoát. Bảy Quý trườn chạy đuổi theo. Ánh đuốc chói lòa, soi rõ bộ mặt đẫm ướt mồ hôi cùng lớp áo quần lấm bết bụi đất của hai đối thủ. Thấy Bảy Quý không nao núng, lớp người đứng ngoài siết vòng vây lại. Bây giờ tên trộm mới đứng dừng lại, múa tít cây gậy để buộc mọi người giạt ra, rồi y dõng dạc nói lớn:
- Để cho tao đi yên ổn thì thôi, nhược bằng đứa nào cản trở thì Mười Thẹo này đập cho bể sọ!
Nghe tên Mười Thẹo, đám đông vội giạt hẳn ra. Đó là tên trộm khét tiếng từ lâu ở cái vùng này. Y đã giỏi võ lại rất gan lì nên mọi người đều khiếp sợ. Nhưng Bảy Quý đã cười lớn, bảo y:
- Được lắm. Tao nghe tiếng mày từ lâu, nay mới gặp mặt. Anh em cứ đứng dang ra để tôi bắt sống thằng này cho coi.
Mười Thẹo trợn mắt:
- Mày mà hạ nổi được tao thì tao nguyện làm con mày.
Bảy Quý liền đáp:
- Ai thèm cha con với mày! Tóm được cổ mày tao sẽ gông đầu mà giải lên quan để mày ở tù rục xương cho biết.
Bảy Quý huơ quyền nhảy tới, nhưng Mười Thẹo đã lui lại, ném gậy xuống đất, rồi bảo:
- Mày đánh tay không thì tao cũng đánh tay không với mày.
Cả hai huơ quyền xông vào đánh đấm loạn xạ. Mười Thẹo vạm vỡ, râu ria, trông tướng thật là hùng hổ, tiến thoái hết sức nhẹ nhàng. Bảy Quý vóc dáng nhỏ hơn nhưng đôi cánh tay rắn rỏi của anh vung quyền một cách chắc chắn, thủ thế rất mực kín đáo. Cả hai đón đỡ linh hoạt, tỏ ra bất phân thắng bại. Nhưng trong cuộc đấu, thế trận tinh thần Bảy Quý lấn áp Mười Thẹo khá nhiều, bởi anh đứng vào vị trí của kẻ chủ nhân có một đám đông ủng hộ bên ngoài. Mười Thẹo vốn sẵn đa nghi, luôn luôn hoảng hốt trong cảnh bị động nên dù đã cố liều lĩnh tạo cách thoát thân rốt cuộc đón đỡ lúng túng bị Bảy Quý đánh một quyền vào ngay mạng mỡ, loạng choạng ngã quỵ xuống đất.
Đám đông reo hò, ùa đến, kẻ gậy người hèo đánh đập túi bụi. Mười Thẹo quá đau vì bị cú đánh vừa rồi nên không cách gì đỡ gạt chỉ biết ôm bụng lăn tròn trên đất. Có người cầm cả bó đuốc đang cháy phừng phực thui đốt người y, miệng vẫn không ngừng chửi bới. Mười Thẹo cắn răng không nói một lời, không rên một tiếng, quằn quại, giãy giụa ở trên mặt đất. Giây lâu, y nằm bất động, đôi mắt trợn trừng, miệng thở hồng hộc. Có người đề nghị đóng bốn cây nọc để căng y ra, qua mồng một Tết phơi nắng một ngày rồi mồng hai sẽ giải y về huyện.
Bảy Quý đứng giữa những tiếng trầm trồ tán thưởng của kẻ chung quanh, cảm thấy vô cùng sung sướng nhưng không tránh khỏi xúc động trước cảnh Mười Thẹo bị người hành hạ. Anh nói:
- Đánh đập như thế đủ làm cho nó thành tàn phế rồi. Bây giờ còn tính đem ra phơi nắng thì nó chết gấp. Chúng ta hãy trói y lại bỏ ngoài vựa trấu sau vườn, đến sáng trình làng quyết định.
Giọng nói của Bảy Quý bây giờ là giọng kẻ có uy quyền. Trước mắt mọi người, anh là một kẻ đáng nể. Mười Thẹo xuất hiện đã làm đổi thay vị trí của anh, và ông Chánh Nghị cho rằng anh nói chí lý, bảo lớp gia nhân tuân hành.
Khi mọi người đã lục đục kéo nhau nối lại giấc ngủ dở dang thì Bảy Quý, tuy mệt rã người, vẫn không sao nhắm mắt được. Chỗ nằm mọi lúc bây giờ không còn xứng đáng với anh, và anh nghĩ ngợi về một ngày mai có thể tốt đẹp đang còn đợi chờ. Gần sáng, anh ngồi nhổm dậy ra vườn, ghé lại vựa trấu, muốn nhìn ngắm lại nạn nhân vừa là kỳ công của mình.
Anh thấy Mười Thẹo nằm yên, bèn lấy bàn tay lay thử. Một chút cựa mình khó khăn, vài tiếng rên nhẹ, đôi mắt chừng như hé mở trong bóng tối mờ. Rồi một tiếng nói yếu ớt cất lên:
- Cho... xin... hớp... nước.
Bảy Quý quay ra ảng nước, múc một gáo lớn, sờ soạng tìm miệng Mười Thẹo đổ vào. Anh nói:
- Ráng mà uống đi để rồi ngày mai chịu đòn.
Mười Thẹo phều phào:
- Đói khổ mới ra cái nông nỗi này. Tôi chết cũng đành, nhưng vợ con tôi sẽ ra sao đây...
Bảy Quý lặng yên nhìn vào bóng tối, nơi những tiếng nói phát ra. Anh nghe hơi thở hào hển mệt nhọc của gã ăn trộm:
- Thằng Chánh Nghị này ác đức... lấy bớt của nó chẳng sao... Anh cũng khốn khổ như tôi... Tôi đã nguyện làm con anh... Anh là cha tôi... Anh cứu tôi với.
Tiếng nói đứt quãng, hụt hơi như kẻ sắp sửa xuống mồ. Bảy Quý cảm thấy khó chịu, lặng lẽ bước ra.
- Cứu con với, cha ơi...
Giọng nói mệt nhọc, nhưng thật khẩn thiết chừng nào! Giọng nói có một vẻ gì tồi tàn, tuyệt vọng và thật quái gở. Bảy Quý bỗng nghĩ đến vợ con mình, đến cảnh tình mình.
- Cha ơi... Cha cứu con với, cha ơi!
Bảy Quý dừng lại, nghe nhói ở trong gan ruột. Rồi anh lặng lẽ quay lại:
- Đừng kêu... Hãy nghe tôi hỏi: liệu còn đủ sức chạy không?
Mười Thẹo nín thinh không đáp, nhưng anh tưởng như thấy gã lắc đầu. Bảy Quý suy nghĩ rồi nói tiếp:
- Ráng lết theo ngõ cửa sau ra phía bờ sông. Có một bờ lau rậm lắm. Chun vô trong đó, ngâm mình xuống nước. Đợi cho trời tối rồi đi. Nhớ đừng lai vãng làm ăn đây nữa.
Anh sờ soạng cởi trói cho gã, nhưng gã vẫn không nhúc nhích. Tiếng gà gáy sáng bắt đầu vang dậy xóm thôn, và ở đâu đây xao xác tiếng người. Bảy Quý cuống quýt như chính anh là kẻ phải chạy trốn. Anh cúi xuống ôm Mười Thẹo bồng lên chạy ra ngả sau, nhét gã trong một bồ lúa bỏ trống, rồi kéo thúng hư, giỏ nát gần đấy phủ tấp lên trên. Xong, anh giả như vừa ra đằng sau nhà tiểu tiện và làm cái bộ chệnh choạng của kẻ ngái ngủ lần mò về chiếc chõng tre của mình. Khi đặt lưng nằm xuống chiếu, Bảy Quý mới nghe tim mình đập mạnh như muốn phá vỡ lồng ngực.
Câu chuyện Mười Thẹo bị đánh gần chết, bị đốt cháy mình, bị trói gô lại như đòn bánh tét, vậy mà tự tháo chạy được làm cho mọi người khiếp hãi. Nhất là những kẻ đã có chia phần đánh gã, bắt đầu run sợ. Người ta cho rằng gã có bùa phép, thư phù gì đó rất đỗi linh thiêng, và dù bị cột bằng những dây sắt thì gã chỉ cần niệm chú đôi câu là thoát nguy liền. Bởi vậy, không ai còn nghĩ đến việc lùng kiếm vì gã được coi như biết cả việc tàng hình.
Nhưng càng lo sợ Mười Thẹo bao nhiêu, người ta lại càng hướng về Bảy Quý bấy nhiêu. Anh thành võ sư trong nhà ông Chánh, lo chuyện kết nạp đồ đệ, mở các lớp dạy côn quyền. Tài nghệ ông thầy đã được thử thách, chứng minh, không ai còn hồ nghi nữa.
Tất cả thanh niên trong vùng kéo đến thụ giáo mỗi ngày một đông, cuộc sống Bảy Quý cũng được mười phần sung túc. Mỗi lần về quê thăm nhà, anh không lủi thủi một mình với mo cơm nguội dưới nách như xưa, mà bây giờ anh che dù, mặc áo xuyến đen, có hai hoặc ba đệ tử gánh gồng gạo nếp, vịt gà kĩu kịt theo sau. Uy tín Bảy Quý càng tăng vì từ khi anh dạy võ không còn xảy ra trộm đạo, cả đến Mười Thẹo, tài nghệ như vậy, mà cũng không thấy bén mảng trở lại. Đời sống thôn xóm nhờ có Bảy Quý thổi vào nguồn sinh lực mới dần dần đã bớt những cảnh tụ họp rượu chè, cờ bạc. Những người trai trẻ nỗ lực tập dượt để cùng đua sức tranh tài. Cả những chuyến săn cũng có kết quả hơn xưa, bởi các tay giáo đâm mồi đã được tăng cường bản lĩnh. Bảy Quý rất được trọng vọng, tên tuổi của anh vang dậy khắp vùng.
Nhưng giữa lúc ấy, tôi đã đi tới. Tôi ở cái tuổi sung sức lại rất hiếu thắng, khao khát được người bàn tán về mình, nghe dân trong vùng nói đến Bảy Quý với lời tán tụng nhiệt tình, tôi rất nao nức tìm gặp.
Vào một buổi chiều, qua cái cổng hậu đưa vào sân sau của ông Chánh Nghị tôi thấy Bảy Quý đang đứng chỉ dẫn cho đám học trò luyện tập. Người y lùn thấp, đó là một nhược điểm lớn. Y ở trần, phô bộ ngực nở nang và hai cánh tay gân guốc, cánh tay bền bỉ của kẻ thuyền chài. Tướng mạo y hiền nhưng trong lời nói, dáng điệu, y có một vẻ nặng nề. Đôi khi y bắt học trò ngừng tập, coi y biểu diễn thế đánh hoặc múa thảo côn, đường quyền.
Hồi đó tôi chưa học tập võ ta, võ Tàu, và sẵn có ý coi rẻ các môn võ này. Tuy tôi không biết thảo, thế của y nhưng tôi cũng thấy dễ dàng là y nhờ cậy sức mạnh hơn là tài võ. Đường quyền của y chẳng được kín đáo và các cú đánh rời rạc. Đặc biệt là y trở bộ không lanh và các thế chân di chuyển thường không ăn nhịp vững chãi với sự biến hóa đôi tay. Đã vậy, theo lối võ ta, võ Tàu, y thường vểnh cao chiếc cằm, nhưng vểnh một cách trống trải, chỉ cần một cú đia-réc là y loạng choạng.
Nắm vững các nhược điểm của Bảy Quý, tôi rất nôn nóng muốn vào thử sức. Lại thêm thái độ người ta trọng vọng anh ta cùng đám đệ tử đông đúc là những yếu tố kích thích tinh thần hiếu chiến của tôi. Tôi nghĩ mình sẽ thắng cuộc, và sự hiểu biết quyền Anh bấy giờ cho tôi mặc cảm tự tôn của kẻ nghĩ mình mới là văn minh, hợp thời, còn hạng người như Bảy Quý là lớp nhà quê, cổ lỗ. Tôi tiến đến gần anh ta, cười nói:
- Chào ông thầy!
Bảy Quý nghiêng đầu theo lối bái tổ:
- Chào ông.
- Nghe thầy dạy võ ở đây đã lâu, nay mới gặp mặt. Muốn được thử sức với thầy để học thêm ít ngón nghề.
- Chẳng hay ông chuyên về môn võ nào?
- Mới học chút đỉnh quyền Anh.
Bảy Quý có vẻ không hiểu hai tiếng “quyền Anh” có ý nghĩa gì. Tôi bèn cắt nghĩa:
- Là môn “bốc xơ” đó mà.
- A! Vậy thì ông học khác tôi, đường ai nấy bước, thử thách làm chi.
Nhận thấy Bảy Quý có vẻ lo âu, tôi bèn khiêu khích:
- Hay là thầy sợ đánh đá giữa chỗ đông người bất tiện?
- Có gì mà bất tiện đâu!
Đám bạn của tôi thuộc những gia đình khá giả, được ra Huế học, tự coi là lớp tân tiến, văn minh có ý khinh thường ông thầy dạy võ và các học trò quê kệch, đều muốn cho tôi giao đấu. Võ nghệ của tôi sẽ là món đồ trang sức cho họ. Chiến thắng của tôi, nếu có, sẽ là một thứ giá trị củng cố thêm những ưu thế tinh thần và cả vật chất của họ ở tại địa phương. Vì vậy họ thúc đẩy tôi: “Đánh đi! Đánh đi! Sợ cái gì toa?” Học trò Bảy Quý cũng nôn nóng muốn anh ta giao đấu vì họ bị cái mặc cảm thấp kém giày vò. Vốn là quê mùa, chất phác, ít học hơn bọn chúng tôi, nay thấy bọn tôi ăn mặc chải chuốt, nói năng nghênh ngang có vẻ xa lạ và coi thường họ, tất nhiên họ sinh oán ghét và muốn tôi bị thầy họ đánh bại.
Do đó, Bảy Quý và tôi bắt đầu giao đấu.

Khi tôi cởi chiếc áo ngoài và chiếc quần dài trao cho người bạn cầm hộ, tôi thấy Bảy Quý vẫn còn tần ngần, vẻ mặt không vui. Tôi nghĩ y đã thua cuộc ngay từ lúc đó. Bất cứ cuộc giao đấu nào, cuộc thử thách nào, thái độ tinh thần tham dự có một ý nghĩa quyết định. Tuy vậy, Bảy Quý không thể chần chờ lâu hơn. Khi người ta là võ sư, khi đám môn đệ vây quanh đều hướng về mình với sự tin tưởng và sự chờ đợi, khi cái vị thế của mình ở nơi chốn ấy là phải chứng tỏ, biểu dương, người ta không còn cách nào khác hơn là phải tiến tới.
Sau khi Bảy Quý bái tổ và đảo vòng người, trở bộ, theo trảo mã tấn vừa khuỳnh tay trái xuống che một bên thái dương và đưa tay mặt ra trước với hai ngón chĩa theo lối song xỉ, tôi đã muốn tấn công ngay và hạ y liền. Nhưng nơi tôi có một sự tính toán: đánh thắng cấp tốc hay là kéo dài trận đấu? Đánh gấp, thắng mau, đó là thành tích vẻ vang, một cách xác nhận Bảy Quý là kẻ bất tài, nhưng nếu kéo dài cuộc đấu để mà đùa cợt sự bất tài đó, lại là điều thú vị hơn.
Tôi nghiêng về ý sau này. Tôi muốn thưởng thức đầy đủ thắng lợi của mình. Hạ ngay đối thủ thì làm cho y tê liệt về mặt cơ thể nhưng chưa làm y trầy trụa về mặt tinh thần. Thắng mau, có thể gợi sự hồ nghi ở đám khán giả vì họ dễ nghĩ là ông thầy võ không đánh thật lòng, và tôi tạo được chiến thắng nhờ sự bất ngờ nào đó.
Bởi vậy tôi quyết làm cho đối thủ khổ sở, lao đao, khắc khoải cầu xin một sự thất bại, để cho chính y và cả mọi người hiểu rằng sự kiện tôi đánh gục y là ân huệ lớn cho y. Tôi không vội vàng để khởi thế công. Quyền Anh có lối phòng vệ rất chắc, rất ít tốn sức, mỗi cánh tay mặt của tôi ngăn đón nhẹ nhàng phía trước khiến tôi trở nên bất khả xâm phạm. Thoạt đầu tôi thấy Bảy Quý diễu võ dương oai hơn là giao đấu thật sự. Có lẽ y muốn thủ hòa để giữ uy tín. Tôi sẽ làm cho điều mong mỏi đó của y trở thành một nỗi tuyệt vọng lớn lao.
Một lát, Bảy Quý đã cảm thấy mệt trong những cách thế trở bộ liên tục. Còn tôi thì sự di chuyển rất ít chưa phải hao sức chút nào. Bảy Quý bèn quyết định đánh thắng mau, và ý thức được nhược điểm của mình là sự thấp lùn, y cố lăn vào nhập nội thật sát, đánh vào phần dưới của con người tôi. Nhưng các cú đánh đia-réc liên tục của tôi đã gạt y ra một cách dễ dàng. Mỗi lần y nhào lăn đến là tôi để lại trên khuôn mặt y một dấu vết đậm. Sau khi một bên mắt trái bị bầm, đến mũi bị xẹp, rồi môi bị dập, y mím miệng lại cố nuốt sạch dòng máu đỏ rỉ chảy xuống cằm.
Mỗi lúc thấy y dừng lại, có lẽ để thở, thì tôi xốc tới, nhử một đia-réc, móc một cờ-rốt-sê, bắt y lúng túng đỡ gạt, nạp y vào thế phải phản công lại. Nhưng khi y lăn xả vào thì tôi lui về phòng thủ, dù biết rõ rằng nếu tôi tấn công thì hạ y ngay. Ngại rằng kéo dài quá lâu rồi đánh bại y dễ khiến nhiều người hiểu lầm tưởng tôi đã thắng được y một cách khó khăn, tôi bèn làm vẻ như không gắng sức chút nào, và các cú đánh cũng giữ cái vẻ dễ dàng, phóng túng, đôi khi làm ra bất chợt, đượm chút giễu cợt, khinh thường. Bây giờ Bảy Quý không còn là đối thủ của tôi nữa. Y thành con chuột và tôi là một con mèo. Một con mèo rất sung sức nên chưa cảm thấy đói lòng quá sớm.
Trong khi đấm đá, tôi đủ thời giờ để nhìn thiên hạ chung quanh. Mọi sự chiến thắng sẽ kém ý vị biết bao nếu không thưởng thức được hết tinh thần tham dự của đám khán giả. Nhưng sự thật không như tôi đợi chờ. Trừ một số ít bạn hữu thân thiết của tôi tỏ rõ sự tán thưởng tôi một cách nồng nhiệt, còn thì hầu hết đều giữ im lặng, trong đó chừng như có cả ái ngại và nỗi bất bình. Bấy giờ điều đó làm tôi tức giận. Tôi nghĩ cái số đông ấy thiên vị, và còn cho rằng họ vốn mù lòa không biết tán thưởng tài nghệ của tôi. Tất nhiên, tôi không thể đánh họ được, nhưng tôi phải đánh Bảy Quý để trả thù họ.
Và lần này tôi tấn công thật sự. Khi tôi xáp đến giáng những cú đấm liên tiếp vào người Bảy Quý, tôi thấy anh ta đã rối loạn rồi, hơi thở hào hển, gấp rút, khuôn mặt nhợt nhạt, méo mó, đôi mắt hơ hải, kinh hoàng. Rồi đến một lúc bỗng nhiên anh ta trỗi dậy. Nghiến chặt lấy răng, trợn tròn đôi mắt, anh ta hầm hè lao tới, cúi đầu chịu hết đòn đánh của tôi và tung liên tiếp quyền cước vào tôi.
Bảy Quý phải cứu danh dự của y, đời sống của y, cơm áo của vợ con y. Bây giờ anh ta liều mạng thật sự và tôi bắt đầu nhận thấy đôi tay của gã thuyền chài dày dạn thật khó coi thường. Cũng có đôi lúc y đánh trúng vào mạng mỡ, thúc được cùi chỏ vào hông, vào sườn của tôi, đôi khi ngọn cước của gã cũng phóng được vào ngực tôi, nhưng các sự đụng chạm ấy gã đều mua bằng giá đắt. Tôi đã khai thác lập tức các điểm hớ hênh, và những cú móc chính xác của tôi phải làm cho gã khốn đốn.
Từ giai đoạn vờn nhau như để biểu diễn bây giờ chuyển sang giai đoạn giao đấu quyết liệt, một sống một chết. Cuối cùng, cú cờ-rốt-sê tôi đã đốn y ngã. Bảy Quý hự lên một tiếng ngắn ngủi, máu họng trào ra và gã khuỵu xuống, nằm bẹp trên vạt đất nện lấm tấm tro trấu, phân gà, phân vịt đã bị chân người cày nát. Mấy người học trò của gã ào đến để vực gã dậy. Trong sự rối loạn lúc đó, tôi có nhìn thấy một đôi ánh mắt căm hờn phóng về phía tôi. Nhưng tôi là kẻ thắng thế, làm gì tôi được? Thầy của chúng bay tao còn đánh bại, kể chi một lũ học trò tẹp nhẹp! Và tôi ung dung ra về, thật không thấy lòng hào hứng bao nhiêu.
Không khí lạnh lẽo sau trận đấu ấy khiến tôi giã từ vùng quê của đám bạn bè rất chóng. Ở đó không còn những cảnh thân mật, tự nhiên như trước. Mọi người tỏ ra dè dặt với tôi và đôi khi sự dè dặt còn lộ rõ vẻ khó chịu. Rõ ràng tài năng của tôi không làm xúc động đến họ chút nào. Nhưng tài năng ấy đã gây xáo trộn, đã làm đổ vỡ, tạo những lệch lạc, tổn thương đến các sinh hoạt đã được đặt thành nề nếp từ bấy lâu nay.
Tuổi trẻ quên đi rất mau những sự phá phách của nó. Rời miền quê ấy, tôi không còn nhớ đến Bảy Quý nữa. Y chỉ là một con số trong cái bản dọc kê những nạn nhân, thành tích của tôi, và tôi đâu tổn hơi sức tìm hiểu về y cho thêm bận lòng!
Mãi về sau này tôi có được nghe bạn tôi kể thêm về đoạn kết đó. Bảy Quý phải nằm liệt giường, liệt chiếu gần hai tuần lễ mới ngồi dậy được. Một người thầy võ đã bị đánh bại không còn là thầy võ nữa. Không cần một lời phán định nào khác, Bảy Quý lặng lẽ gói mớ quần áo của mình và gom góp các món gì có thể mang đi, âm thầm giã biệt vùng ông Chánh Nghị vào một buổi sáng tinh sương, khi trên các nẻo đường mòn thôn xóm chưa hề có bóng một người.
Về đến quê nhà, phải sống trong cảnh túng thiếu, Bảy Quý bị đau trở lại. Bệnh phổi không thể sống với gió sóng biển khơi, y nằm vật vã trên giường nhiều tháng, sống trong đói khổ, rách rưới và chết không có một lời trối trăng. Bảy Quý còn có gì đâu để phải trăng trối trên cuộc đời này? Vợ con của y tả tơi, xơ xác, lại sống trong cảnh đói nghèo cùng cực.
Sau khi Bảy Quý qua đời độ chừng vài tháng thì buổi trưa nọ, người vợ Bảy Quý thấy có một người khách lạ bước vào nhà mình. Khuôn mặt dạn dày của khách đầy những râu ria và thẹo. Khách hỏi:
- Đây có phải nhà của ông Bảy Quý không?
Vợ Bảy Quý đáp:
- Dạ phải. Nhưng ổng đã qua đời rồi.
- Trời ơi! Qua đời hồi nào?
- Mới vài tháng trước.
Khách cúi đầu xuống, nước mắt chảy dài trên đôi gò má sạm đen, đọng thành vũng nhỏ nơi các vết sẹo, lóng lánh ánh nắng trưa hè lọt xuống từ mái nhà tranh dột nát. Khách ngồi rất lâu và khóc âm thầm như vậy. Vợ của Bảy Quý thấy người khách lạ thương khóc chồng mình cũng lại lặng lẽ khóc theo. Nước mắt, cũng như nụ cười, vẫn có cái sức lôi cuốn ngàn đời của nó.
Giây lâu, khách mới đứng dậy, lễ phép thưa rằng:
- Tôi biết tin quá chậm trễ, thật là có lỗi với ông ở nhà. Có một món quà xin được gởi cho các em.
Khách lôi từ trong túi áo một cái gói nhỏ khá dày, hai tay cung kính đưa cho người vợ Bảy Quý. Chị Bảy ngơ ngác, sượng sùng, không dám cầm lấy.
- Tôi đâu có biết ông là...
- Xin bà đừng ngại. Tôi là một người chịu ơn ông nhà. Ơn ấy thật là to lớn, còn hơn cả công sinh đẻ ra tôi. Tôi đã nhớ lời ông nhà dặn bảo nên đi làm ăn nơi xa, không dịp về thăm chốn cũ, nay mới tìm lại biết ông đã trở về quê, đến viếng thì ông đã mất. Xin bà cho tôi được thắp nén hương trước bàn thờ ông.
Người khách tướng mạo hung dữ nhưng ăn nói thật hòa nhã, cử chỉ cũng đầy thành kính. Chị Bảy cầm lấy gói quà, gạt giọt nước mắt, đưa khách lại cái bàn thờ xiêu vẹo cạnh đấy, thắp một nén hương. Khách quỳ rất lâu và khóc nức nở, rồi khi lạy xong vội chào chị Bảy ra đi.
Chị Bảy đợi khách đi khuất mới gỡ mảnh giấy bọc ngoài gói quà. Tay chị bỗng run, mắt chị hoa lên khi nhìn thấy một xấp bạc khá dày. Một số tiền lớn mà chị chưa hề được cầm lấy trong đời mình. Chị cũng không hiểu khách làm nghề gì, và chồng của chị đã gia ơn gì đối với kẻ đó để sau khi anh lìa đời, vợ con của anh lại được đền đáp thế này. Sau đó, mỗi tháng hay cách vài tháng, khách lại đến thăm gia đình chị Bảy một lần. Khách luôn giữ sự cung kính, mặc dù có vẻ lớn tuổi hơn cả chồng chị mà cách xử sự như là em út, con cháu trong nhà.
Bao giờ khách cũng đến thăm một cách đột ngột, cũng không chịu nán lại lâu. Sau khi hỏi han đủ điều về chuyện làm ăn, về sức khỏe chị cùng lũ con cái, khách lại bàn thờ cung kính thắp một nén hương rồi quày quả đi. Mỗi chuyến viếng thăm như vậy đều có một gói quà tặng khá dày, những gói quà mà chị Bảy chưa bao giờ dám ước mơ trong cuộc đời mình.
Nhiều tháng như thế rồi không thấy khách đến nữa. Có lẽ khách đã đi xa, hay đã chết rồi. Chị Bảy cùng với lũ con vẫn không biết khách là ai, chỉ nghe khách bảo thuộc vế thứ mười ở trong gia đình. Ông Mười, hay chú Mười, đó là cái tên mà gia đình chị còn nhớ về khách.
Bây giờ chị Bảy đã khá giả rồi, có thể nuôi dưỡng bầy con trong sự sung túc, hơn cả những người khá giả chung quanh.
1972
Miếng thịt vịt
Tám Gàu cố ngủ nhưng vẫn không sao ngủ được. Trống ngực còn đập thình thình, hai vai ê mỏi, cặp chân bủn rủn, rụng rời. Anh thấy lại mình đang đi trong đêm, cặp mắt lấc láo, lò mò bước theo anh em Năm Đực. Anh nghe lại tiếng vịt kêu, tiếng dao mác chạm loảng xoảng, tiếng thét “Ối trời” của thằng Đực Nhỏ, thấy lại máu phụt từng vòi, bóng thằng Đực Lớn luồn rào chạy trốn, và anh cõng thằng Đực Nhỏ bươn chạy, lội bừa trong gai lưỡi long, nhiều lần quýnh chân muốn ngã sấp trên bờ thổ.
Anh ôn lại phút trở về tới ngõ thằng Đực... anh té quỵ xuống, Đực Nhỏ rời khỏi lưng anh, ngã lăn ra đất, rên rỉ, quằn quại, hai chân giẫy giụa trong cát. Giữa lúc ấy, bóng thằng Đực Lớn từ đâu hiện ra miệng cười nham nhở trong đêm: “Tưởng mi bị nắm đầu rồi”, và hắn chìa một con vịt: “Phần của mi đó”. Tám Gàu khoa tay: “Tao không lấy mô” rồi anh lết bết, lùi lũi chạy về.
Anh ngồi rất lâu ngoài ngõ trước khi mò vào chiếc giường tre ọp ẹp này. Anh vừa nghĩ gì, anh không nhớ nữa... Hình như từ nhà Cửu Thưởng, nơi anh nghe theo lời hai anh em thằng Đực mò vào trộm vịt, có tiếng kêu lên: “Thằng Gàu! Đích thị thằng Gàu!” Anh chạy bở cả hơi tai, được một quãng xa mà hình như những tiếng ấy còn vọng đuổi theo.
Bỗng anh cảm thấy rin rít sau lưng. Khi anh cựa mình, một chất nhầy nhụa như quánh lại trong lớp áo... Lập tức anh ngồi thẳng dậy. Cởi xong chiếc áo, anh quờ tay vuốt sau lưng. Bàn tay xoè trong đêm tối như nhuộm mực đen. Anh đưa gần mũi, một mùi tanh ói.
Tám Gàu loạng choạng đi lần ra bờ ao ở góc vườn. Anh ngồi vò áo rất lâu, hai tay mỏi rụng. Khi đoán chừng đã sạch rồi, anh đưa lên ngửi, nhưng mùi tanh vẫn còn hoài. Sau cùng anh thả chiếc áo xuống nước, chậm chạp vào nhà.
Anh ngồi bệt xuống vệ hè, dựa vào gốc cột, ý nghĩ loạn xạ ở trong đầu óc. Thằng Đực Nhỏ chắc không sao sống nổi, hoặc sẽ tàn tật suốt đời. Làng ngoài, ai cũng sẽ biết Tám Gàu là thằng ăn trộm.
Tám Gàu biết điều là vậy, chăm chỉ là vậy mà ăn trộm sao? Rồi bao nhiêu vụ mất cắp từ trước và về sau này người ta cũng sẽ đổ riệt cho anh. Đến mỗi bữa ăn, ông Cấn sẽ vác chổi cùn đánh vào đầu anh, vừa réo vừa chửi mẹ anh đã đẻ cho ông thằng con chết dịch. Mẹ anh, người mẹ hiền lành, qua đời trước đây vài năm chỉ vì đang đau mà phải dầm mình trong nước suốt mấy buổi liền để vớt rong rêu... Dạo này nắng gắt, làm ăn gì được? Đồng khô cỏ cháy, những nhà giàu cũng gác bớt công việc, không dám thuê mướn. Muối cũng không còn bán để mua đem lên nguồn đổi lấy sắn, khoai. Mấy chiếc ghe buôn đi vào miền trong mắc kẹt đâu đó, không thấy trở về. Những người trong xóm dậy từ mờ sáng xuống bến chực đến trưa hoang mới về, đòn gánh tòn ten hai chiếc mủng không. Anh đã nằm khoèo mấy hôm nay rồi. Cả ngày ngủ miết cho đến xế chiều mới dậy, lục lọi trong rá vài củ khoai nguội ăn ngốn ăn ngấu rồi nốc ba ngụm nước lạnh, ngủ lại. Ngủ cho khỏi thấy thèm ăn. Nhưng ngủ mãi rồi cũng chán, không ngủ được nữa. Anh trỗi dậy đi thất thơ thất thưởng trong xóm. Ai xui anh bước vào nhà thằng Đực vào lúc đầu hôm?
Từ chân trời xa, phía đông, rừng rựng một vệt sáng trắng. Tám Gàu chống hai tay vào đầu gối, đứng dậy đi lần vào nhà. Anh đứng rất lâu, trong tối, lờ mờ nhìn cái thân hình ông già Cấn nằm chèo queo, ngủ giấc nặng nề trên căn ván bằng gỗ tạp trải manh chiếu nát. Gần bên, anh Hai Cấn nằm chàng hảng, tiếng ngáy khò khè. Tám Gàu đi lại tấm phên, sờ soạng tìm một chiếc áo, mặc vào rồi bước xuống bếp. Chị Ba Lèo nằm ngủ yên trên một chiếc chõng cụt chân, đặt sát mặt đất. Thằng Cời, con chị, lăn xa ngoài đất. Anh cúi xuống lay chân chị:
- Nề, chị Ba nề...
Chị Ba ứ hự đôi tiếng, rồi rặn ì ì... Chị nói lảm nhảm, chép miệng trong giấc mệt mề. Tám Gàu thôi không kêu nữa. Anh lắc mạnh vào vai chị. Chị Ba tỉnh giấc, lớ mớ:
- Ai đó?
Tám Gàu đáp khẽ:
- Chị dậy, tôi nói cái này...
Người đàn bà nằm im một lát mới từ từ trỗi dậy, ngả đầu lắc qua lắc lại cho mớ tóc rối dồn ra sau vai, vừa ngáp vừa nói:
- Trời đã sáng đâu...
Chị lại làm thinh, nhìn em đang ngồi một cục trước mặt.
Giây lâu, Tám Gàu từ từ đứng dậy. Anh nói:
- Tôi đi.
- Đi đâu?
- Chưa biết đi đâu. Không thể ở nhà được nữa thì đi.
Chị Ba tưởng mình nghe lầm, trố cặp mắt đã tỉnh ngủ, nhìn chằm chặp mặt người em nhập nhèm trong tối chỉ trừ cặp mắt long lanh. Tám Gàu rầu rầu nói tiếp:
- Thôi, tôi đi. Chị ở nhà được bình yên.
Chị Ba gần như kêu lên:
- Chớ không nói cho cha ổng biết na?
Tám Gàu thấp giọng:
- Nói làm chi. Để yên ổng ngủ. Thôi, tôi đi đây kẻo trời sáng ra, không tiện. Chưa biết chừng nào tôi mới về được.
Anh lụi thụi bước ra cửa. Anh ngước mắt nhìn quanh quất, như ghi lại lần cuối cùng cảnh quê xơ xác tiêu điều rồi lầm lũi bước. Vết sáng rừng rựng ở chân trời xa như theo chân anh lan rộng dần ra nhưng anh cảm thấy những ngày sắp đến cũng sẽ mập mờ, đen tối như đầu óc anh bây giờ.
Khi chị Ba Lèo chạy theo ra ngõ thì Tám Gàu đã đi xa. “Có lẽ hắn đã lội suối và đổ lên đồng”, chị nghĩ như thế, rồi bước vào nhà.
Chị không hiểu rõ tại sao mình không ngăn cản Tám Gàu đi vong như vậy. Tám Gàu đi đâu? Chính anh ta cũng không biết. Tám Gàu ra đi, trong túi không có một đồng xu nhỏ, trên người chỉ mặc một cái quần cụt và một áo cánh cũ nát. Chị ngồi thừ nhìn thằng Cời nằm lăn ngoài đất. Chị không bồng nó lên giường, sợ nó tỉnh giấc, khuấy rộn tâm trí chị trong lúc này. Thằng Cời dầu sao cũng là mối an ủi lớn cho chị. Năm nay chị đã ba mươi mấy tuổi, có lẽ gần bốn mươi rồi, chị không nhớ nữa. Đàn bà Xóm Cát ít ai nhớ rõ tuổi mình. Tám Gàu ra đi, một nỗi vắng vẻ hiện ra, khiến chị nghĩ lại đời mình. Từ khi lớn lên cho đến bây giờ, chưa có người đàn ông nào hỏi chị làm vợ. Thỉnh thoảng trong số thợ gặt, giữa lúc chị đang lọ mọ theo sau để mót mấy bông lúa rớt, cũng có đôi lời đùa cợt sỗ sàng... Nhưng đã xa lắm lắm rồi... chị chưa bao giờ được nghe một lời tình tứ. Những lời tình tứ cũng như xuyến vàng, nhẫn ngọc là thứ quý giá chỉ những con nhà thong thả mới có. Tuy vậy, chị vẫn mong mỏi được gặp một người đàn ông cần cù, siêng năng, dù rằng thô lỗ nhưng thỉnh thoảng biết dịu ngọt với vợ. Mỗi ngày giữ bò ven suối, chị vẫn mong đợi người đàn ông ấy. Nhưng không có người đàn ông nào chịu tìm đến người đàn bà xấu xí, tuổi đã bộn bề mà còn bận quần sát háng, da xám như chì, trên mình chỉ mặc độc chiếc yếm rách, lễnh thễnh cả ngày theo sau một con bò cái gầy còm.
Cuối cùng, vẫn có một người.
Người ấy, chị không bao giờ biết mặt.
Cách đây chín mười năm rồi, một đêm trăng sáng, chị đánh bò ra bãi sau cho ăn cỏ sương đặng sáng cày sớm. Suốt ngày làm việc mệt nhọc, nên dựa vào gốc dương liễu trên bờ một đám thổ khoai chốc lát thì chị nằm lăn ra ngủ. Không biết bao lâu, chị có cảm giác như bàn tay ai nắn khắp người mình. Chị làm ra bộ ngủ mê, ú ớ đôi tiếng, rồi nằm chài bài người ra. Một người đàn ông, có lẽ không to lớn lắm trong lúc vội vàng nhẫn tâm xé rách phía dưới cái quần cụt đen đã cũ của chị...
Người đàn ông ấy đem lại cho chị một đôi cảm giác là lạ, chua xót, khó nói làm sao, nhưng cũng ngắn ngủi, chóng tàn hết sức. Chị nhớ như mình có cảm thấy nỗi đau đớn nhưng chị không dám kêu lên, sợ người đàn ông càng mất bình tĩnh hơn nữa. Suốt trong giây phút gặp gỡ, chị không hé mắt để nhìn. Khi người kia đã đi rồi, chị mới úp tai xuống đất, nghe những tiếng chân bải hoải bước gấp rút đã khá xa, chị mới nhổm dậy nhìn theo. Một người nào chị không rõ, hấp tấp đi về lối xóm.
Hai ba đêm sau, rồi suốt cả con trăng ấy, suốt cả những đêm tối trời tiếp theo, rồi suốt cả hai ba con trăng nữa, chị vẫn ra ngồi ở nơi bờ thổ đêm nào. Người đàn ông kia không thấy trở lại. Nhiều lần chị cố nghĩ rằng đấy là một người lái buôn giàu có đi lạc vào trong động cát mà chút duyên nợ tình cờ đã xui gặp gỡ. Sau này, chị đoán chừng thằng Đực Lớn đi ăn trộm vặt về khuya. Đôi lúc chị có cảm giác như đấy là lão Chín Bường, một người bà con của chị, một gã đàn ông nghèo cực, đã bốn mươi mấy tuổi rồi vẫn sống một mình cuối xóm trong ngôi nhà tranh lụp xụp, nhỏ như chiếc chòi.
Ít tháng sau đó, bụng chị mỗi ngày một lớn. Chị không hề nghĩ đến sự phá thai, không nghĩ đến sự giấu diếm. Bà Cấn chửi đôi ba ngày rồi cũng làm thinh. Ông Cấn đòi đánh cho một cán cuốc bể óc chết tươi, nhưng vẫn không hề thấy đánh. Anh Hai Cấn, thằng Tám Gàu, không thấy nói gì. Trời ơi! Đứa con trong bụng, chị yêu quý nó biết là chừng nào! Đứa con, dù gái hay trai, là một cái gì quý nhất đời chị. Dù gái hay trai, nó là vật sống mang ở trong mình khí huyết và linh hồn chị. Nó sẽ lớn lên, sẽ là hình bóng của chị, là nguồn an ủi, là chỗ nương tựa cho chị sau này, trong lúc chiều tà xế bóng. Chị tìm luộc những ngọn khoai non nhất để ăn, hút vụng trứng gà sau chái, không dám gánh nặng, không dám thức khuya, toàn là công phu, ý tứ, để dưỡng chiếc thai. Bao nhiêu những lời xỉa xói, bóng gió, mỉa mai, giễu cợt của người lối xóm đối với chị nào có nghĩa gì đâu, khi chị khát khao có một đứa con!
Trong lúc sinh đẻ, quặn đau mấy lần, nhưng chị không hề cảm thấy khổ nhọc. Ngày thằng bé ra đời, chị mừng không sao kể xiết. Ông Cấn đặt cho nó tên Cời. Càng ngày thằng Cời càng lớn, chị nom nó giống Trưởng Liệu như đúc. May thay, Trưởng Liệu không có bà con với chị. Đó là một ông già goá vợ từ hồi còn trẻ, sống với một người cháu dâu tàn tật, giữa xóm. Nhưng nó giống ai cũng mặc, miễn là con chị, thuộc hẳn về chị, do chị cưu mang, sinh đẻ mà ra.
Sau khi thức dậy, nghe chị Ba Lèo ấp a ấp úng kể lại cái tin Tám Gàu bỏ nhà ra đi, ông Cấn đã toan rủa lên “Có mà đi ăn cướp!” nhưng ông dằn lòng lại được. Ông lúng búng định hỏi gì nữa, nhưng rồi nín thinh. Tám Gàu là đứa con út của ông, linh hoạt, mạnh bạo nhưng vốn hiền lành. Từ ngày nó lớn, ông vẫn hy vọng nó được cuộc đời lành lặn nhưng chưa lúc nào nó sống thư thả, thong dong, trừ những tháng ngày đói kém. Lúc này, ở nhà cũng chẳng làm gì. Cùng lắm, có ai thuê mướn cũng đủ phủi lủm. Thôi thì đi đâu thì đi, biết đâu nó chẳng làm ăn nên nổi sau này. Ông già cảm thấy cay nơi khoé mắt, buồn buồn tủi tủi trong lòng, rồi những cảm giác ấy tan nhoè đi như vệt khói thuốc.
Anh Hai Cấn cũng không nói gì. Anh nhớ lại bao lần anh đã muốn bỏ xứ ra đi, nhưng nghĩ rồi thương cha già, em dại, quyến luyến vạt thổ, mảnh vườn, anh lại nguôi ngoai. Biết đâu ra đi, bây giờ anh đã chẳng có vợ con, vui vẻ đề huề. Nhưng đấy là bao nhiêu chuyện ước ao của ngày xa xửa xa xưa... Năm nay bốn mươi mấy tuổi, anh vẫn sống đời cô độc, chưa dám nghĩ đến lấy vợ, vì sợ tốn kém. Vẫn biết gặp người vợ giỏi có thể giúp đỡ làm ăn nhiều đó, nhưng lấy gì mà sắm sửa cưới xin, ăn hỏi bây giờ? Sự đòi hỏi của cơ thể nhiều khi cũng giày vò anh, nhưng đè nén mãi nó thành cùi đi. Vả lại, thổ vườn mỗi ngày làm anh tê liệt rụng rời, đâu còn sức lực tơ tưởng như kẻ rảnh rang thong thả. Con heo đực luôn luôn kêu nái là vì nó vốn ăn không, ngồi rỗi trong chuồng.
Tám Gàu ra đi, anh Hai tuy thấy buồn nhớ, nhưng ở nơi lòng hình như có gì vơi nhẹ. Phải chăng từ đây một phần của anh cũng được dong ruổi ở nơi xứ lạ đường xa theo với Tám Gàu? Cái cảm giác ấy mơ hồ, mong manh quá đỗi, anh không làm sao mà nhận biết được.
Hai cha con ngồi đối diện ở thềm cửa, im lặng hồi lâu, mỗi người theo đuổi ý nghĩ của mình. Rồi chậm chạp, ông Cấn đứng dậy, ra sân. Ông toan ra vườn bỗng nhìn thấy những dấu chân trên cát còn tươi đi về phía ao. Ở miền đất cát, người ta nhận biết dấu chân cũng như nhận biết mặt người. Ông ra phía ấy. Vạt nước đỏ lợt chảy trên mặt ao, và ở dưới ao, cái áo vắt tròn. Ông già lụm thụm lội xuống, vớt lên. Ông đứng trên bờ nhìn kỹ dấu đỏ, rồi vắt áo cho ráo nước, cầm vào. Trong óc ông già thoáng hiện những nỗi hồ nghi, lo ngại.
Bỗng con chó mực gầy còm nằm ở đầu hè hực lên một tiếng. Ông Cấn ngước lên và thấy từ ngõ, Thủ Tự lững thững đi vào. Ông vội vào nhà bươi giấu chiếc áo ở trong bồ trấu, rồi làm vẻ mặt tỉnh khô, ngồi vấn một điếu thuốc lá. Thủ Tự đi tới đầu hè, dừng lại nhìn quanh nhìn quất khắp vườn theo như thói quen, rồi mới nện chân thình thịch cho sạch bớt cát trước khi chui xuống mái tranh mà vào trong nhà. Kể trong Xóm Cát, Thủ Tự là người khá giả hơn hết. Ba gian nhà tranh rộng lớn hơn tất cả nhà nào trong xóm. Cái sân cũng lớn nhất xóm, đắp bằng đất bàu, dện rất kỹ lưỡng. Thủ Tự có được bốn con bò cái, tuy rằng gầy còm nhưng cũng là bốn con bò. Bò cái tuy cày hơi yếu, nhưng vùng đất cát người ta chỉ cần sức cuốc. Nuôi bọn bò cái vì nó đái nhiều, tốt phân. Hai anh bò đực thiệt lớn, ráng sức đái dào một trận không bằng một chị bò cái xề xề đái rất lơ lửng. Bò cái lại còn dễ giữ, có thể giao cho con nít lên mấy cũng được. Món lợi khác nữa là bò cái còn sinh đẻ. Thỉnh thoảng đến mùa, thả nó lên đồng, thế nào nó cũng gặp gỡ đôi anh bò đực thả rông. Tuy là gầy còm, yếu đuối, nhưng được một điểm dễ dãi, không hề làm bộ nhảy quẹo, nhảy quanh nên có lắm anh bò già quyến luyến và cả những anh bò tơ nhút nhát cũng dám mon men lại gần.
Thủ Tự có khá nhiều con, cả trai lẫn gái đã trên mười lần sinh đẻ. Hai Sanh là con đầu lòng, có vợ và ba con, ở riêng trong một ngôi nhà trước ngõ để cả hai bên cùng gần gũi sự nhờ đỡ. Anh ta làm đủ thứ nghề lặt vặt, trong đó có nghề thiến heo, lái bò và sửa cối xay. Ba Kình được xem cứng đầu nhất nhà thì theo về bên quê vợ làng ngoài, dựa thế ông gia bà gia làm ăn. Sau Ba Kình là chị Tư Mãng, năm nay ba mươi mấy tuổi nhưng vẫn chưa chồng. Ông Trưởng Nhi ở cuối xóm, cách đây ba năm có mượn mai mối đến hỏi cho con trai ông, anh Hai Cồ, nhưng sau đó chừng mấy tháng, vào một buổi sớm mùa đông người ta gặp xác Hai Cồ trong một cái đìa gần suối. Hai Cồ chết trong nước cạn, chẳng biết vì sao. Chị Tư trở thành goá bụa sau khi chỉ ăn một cái lễ hỏi hết sức đạm bạc. Sau chị Tư Mãng là Sáu Cường, người con thứ năm bị bỏ từ khi sanh được ba tháng. Sáu Cường tiếp đến Bảy Đáng là hai anh trai linh lợi. Còn cả một bầy lút chút ở sau, nào là thằng Dứa, thằng Thời, thằng Tre, con Một...
Gia đình Thủ Tự gần như ai làm nấy ăn, ngoại trừ những đứa nhỏ. Đến bữa, ai nấu trước thì người khác gởi nấu nhờ đôi ba củ khoai, luộc nhờ đôi ba bó rau, có khi không hái kịp rau thì ăn xía một vài đũa. Chỉ trừ mẹ của Thủ Tự là bà Thủ Tộ, trên bảy mươi tuổi, ở riêng, ăn riêng trong một cái chái phía ngoài. Cái chái hẹp ché, chỉ vừa đủ kê một cái giường con thấp cẳng và đủ đặt ba ông táo lùn tịt, nặn bằng đất bàu. Bà già khúm rụm nhưng sống không nhờ vả ai. Suốt ngày bà lò mò trong các thổ khoai, là rà dọc các bờ đìa, lụm thụm sau vườn và lui cui trong cái chái hẹp. Bà ăn không tốn mấy chút và chỉ một om khoai nhỏ bà để dành ăn hai ba ngày liền khỏi phải tốn công nấu nướng. Những củ khoai cuối cùng ở trong om bao giờ cũng đóng lớp nhựa nhờn nhợt và bốc nặng mùi thiu ẩm, nhưng không mấy khi bà Thủ bỏ phí của trời. Thỉnh thoảng, Hai Sanh có tát được cá, luộc một đĩa với dưa cải, sai lũ con mang vào cho bà cố thì dọc đường từ ngõ vào sân, thằng Chai và con Miễng đã bốc lủm hết những con trộng nhất.
Thủ Tự liếc nhìn trong nhà, rồi hỏi:
- Ủa! Chớ thằng Tám đâu rồi?
Ông Cấn liếc nhìn trên mặt Thủ Tự dò đoán ý nghĩa câu hỏi, trả lời:
- Không rõ hắn đi đâu từ tửng mưng sáng... Có việc chi na?
Thủ Tự thong thả:
- À... Thằng Đực Lớn có ra nhờ bầy trẻ tôi giúp một đòn khiêng thằng Nhỏ lên táng trên đồng.
Anh Hai Cấn vội hỏi:
- Chớ thằng Đực Nhỏ chết hồi nào rứa?
- Đâu hồi khuya. Chẳng là bầy trẻ của tui nó mắc đi xuống dưới bến chực muối từ hồi gà mới gáy tan, nên thằng Đực Lớn nhờ ra nói với thằng Tám, không thì anh Hai...
- Lạ hỉ? Thì đang mạnh ù mà nhè chết răng vội rứa?
Thủ Tự làm thinh, lấy thuốc vấn hút. Rồi nói:
- Mình nghe nói chết thì hay rằng chết, chớ biết chi mô. Kể rứa cũng khỏe. Biểu sống, lấy chi ăn chừ.
Ông ta đứng dậy:
- Có siêng vô giúp hắn ta một tay!
Ông Cấn thấy thoáng một ý nghi hoặc. Không những bà con với thằng Đực Lớn mà còn là người gánh chịu trách nhiệm công việc của xóm, Thủ Tự phải lo là việc đương nhiên. Có lẽ ông ta sợ bị liên lụy, không muốn cho con dính líu đến cái chết này nên mới ra gọi con ông. Ông liếc sang nhìn anh Hai. Anh Hai thản nhiên đi theo Thủ Tự ra ngõ. Ông Cấn lẩm bẩm: “Hôm nay cũng chẳng làm chi. Nó kiếm một bữa ăn sáng, một bữa ăn trưa cũng được”.
Xác thằng Đực Nhỏ được bó trong ba bốn manh chiếu cũ, ở ngoài nẹp chặt sáu bảy thanh tre, buộc ba dây lạt - dây trên đầu, dây giữa người, dây dưới chân - và được đặt trên một tấm cửa tre đã cũ. Công việc gói ghém ấy làm đâu từ hồi khuya, nên khi mấy người đi tới thì bọn kiến vàng đã bu dày đặc trên mấy kẽ chiếu.
Thủ Tự giục giã:
- Không còn có ai nữa hả? Bôn đi mà táng cho rồi chứ ở trên đồng lúc này đào ra cái huyệt cũng bở hơi tai.
Đực Lớn, sắc mặt ráo hoảnh, nhưng cũng lấy giọng rầu rầu trả lời:
- Dạ, có nhờ Hương Đại. Chắc cũng sắp qua bây chừ. Phải chi có người nhờ khoét lỗ trước thì cũng đỡ nhọc cho những người khiêng, nhưng ngặt ai cũng đi theo muối hết.
Anh ta ngừng lại, đổi giọng nói lớn:
- Tôi có biểu mụ Đực ở nhà làm thịt con vịt nấu cháo... Có trễ cách chi mình về cũng cứ kịp trưa.
Anh Hai Cấn nghe tiếng “thịt vịt” rất rõ nhưng vẫn tưởng mình nghe lầm, liếc nhìn trên mặt Đực Lớn rồi ngó xéo xuống dưới nhà. Mụ vợ Đực Lớn quả đang lui cui dưới bếp. Có tiếng dao chặt rầm rập trên thớt. Bây giờ thấy người kéo đến, chị bèn đem ra bằm lại, chứ thực chị đã lo làm từ sớm tửng mưng. Phải bằm nát vụn xương ra, khuấy vào trong cháo, để không còn ai phân biệt thịt cánh, thịt cẳng hay là thịt đầu, bởi vì hai cái phần mình con vịt và hai chiếc đùi đã được chị cất một nơi rất kỹ. Chị cũng không quên lấy cái đòn kê gỗ bứa để bằm thực mạnh. Gỗ bứa mềm hơn xương vịt. Vì thế, chỉ có nhúm xương mà bằm một lát đã thấy bộn bề.
Hương Đại vừa vào, nghe tiếng chặt thớt, vội cười xề xề... Anh ta cúi nhìn cái xác gói chiếu, bông đùa:
- Nhiều thiệt. Đã có cả đống mà cũng cứ còn để bằm...
Thấy không một ai hưởng ứng, Hương Đại rút điếu thuốc tàn giắt trên mép tai, xuống bếp. Anh ngồi thắp thuốc bì bập, vừa liếc nhìn người đàn bà, hỏi khẽ:
- Vịt đâu rứa?
- Mua.
- Xì! Mua cái ngữ quỷ! Nói thiệt, ăn cái thịt vịt của bà cho thêm mang họa mà cũng là nuốt ba cái xương không.
Anh liếc rất nhanh lên nhà rồi véo dưới lưng chị ta, vừa cười ỡm ờ:
- Có phải không hề!
Người đàn bà làm bộ giận, hươi con dao lên:
- Đồ chết dịch! Tui cho một dao bây chừ!
- Ừ, bằm luôn tui mà ăn nề!
Anh đứng dậy, xê cái đít lại phía chị ra tuồng thách đố, cúi véo thấp hơn ở chỗ ban nãy một cái đích đáng, rồi vừa đi lên, vừa nói ra kiểu phân trần:
- Ba cái thuốc này vô món phân gà mà dở lửa quá, hút cứ tắt miết.
Rồi đứng dừng lại, bập bập rất mạnh, nhả khói từng luồng.

Trước khi khiêng đi, Đực Lớn còn lấy thêm hai sợi lạt buộc bó chiếu vào tấm cửa. Anh Hai Cấn lúi húi cột giúp. Hương Đại đứng chống nạnh, cố nói một câu để bào chữa sự ở không của mình:
- Còn chạy đi đâu mà ràng mà rịt cho nhiều. Bó chặt cách ấy, bữa sau cũng đách cần cúng giỗ nữa. Xuống được dưới đất thì nằm liệt luôn dưới đó chứ có về cái ngữ quỷ!
Ràng rịt xong, mặt trời lên đã khá cao. Đực Lớn rút ít vạt giường đã cũ, chặt đôi, bó lại làm đuốc lấy lệ. Đoạn, quay xuống nhà nói lớn:
- Lo cháo vịt nghe! Nửa buổi là về kịp đó!
Rồi quay về phía hai người - Hương Đại và Hai Cấn - anh ta dọn một bộ mặt rầu rĩ:
- Đáng lẽ tôi cũng khiêng một đòn với mấy anh, để đưa em nó lên đồng, nhưng ngặt tôi đi gánh bổi hôm qua cho lão Năm Dật, bị trẹo xương vai... Kể thằng Đực nó cũng nhẹ...
Anh xây qua phía Thủ Tự:
- Cậu Thủ nằm chơi, chúng tôi về liền chừ đó.
Thủ Tự không nói không rằng, nằm khểnh trên chiếc giường tre, Đực Lớn giục giã:
- Thôi, đi ta!
Rồi vác hai chiếc cuốc, hươi đuốc dưới nắng, đi trước.
Hai người khiêng tùng tơn bó chiếu theo sau.
Anh Hai Cấn vừa đi vừa nghĩ đến nồi cháo vịt, cố tìm một sự liên lạc giữa vịt và cái xác chết. Hương Đại vừa đi vừa nghĩ đến mụ Đực Lớn, vừa nghĩ đến mớ xương bằm nát vụn. Hai hình ảnh ấy lởn vởn trong óc, cái nào cũng gợi cho anh nỗi vui ngờ ngợ. Hương Đại là láng giềng của Đực Lớn. Anh ta không có bà con với ai ở xóm này cả. Vào số những người nghèo khổ nhất xóm, Hương Đại có một lối sống hơi khác mọi người. Anh ta chưa hề làm lý hương gì, nhưng vốn tên Đại, anh đặt tên đứa con gái đầu lòng là Hương để mọi người trong xóm theo lối gọi quen cha mẹ bằng tên của con, gọi anh là anh Hương. Dần dần để phân biệt với những người trùng tên, người ta gọi thêm tiếng Đại. Từ đấy cái tên Hương Đại được gọi quen đi, nhiều lúc Hương Đại cũng có cảm giác như mình đã từng có thuở làm lý hương thiệt. Không ai biết rõ tường tận trước khi đến ở xóm này anh đã làm gì, nhưng theo anh nói thì từng đi lính và biết tiếng Tây! Chỉ có khi nào nài nỉ nhiều lắm anh mới nói thử đôi câu để những đàn bà con gái trong xóm nghe qua cho biết cái tiếng nước ngoài. Thực ra, quốc ngữ trong xóm cũng không ai biết, nữa là tiếng Tây! Chữ nho thì Thủ Tự nhờ thuở nhỏ cha mẹ gởi lên giữ trâu cho ông nghè Vỹ trên làng để mong kiếm năm ba chữ, nên cũng biết được một nắm, một mớ, nhưng đã lâu ngày rơi rụng chỉ còn đủ để thủ ký trong các văn khế vay nợ. Bởi vậy Hương Đại tự do nói tiếng ngoại quốc, không sợ một ai. Mỗi lần như thế anh đứng chàng hảng, hai tay chống nạnh, mặt vách ngược lên, môi hơi xẹo lại một bên, rồi anh bắt đầu “bà lù xù, bà lùy xùy” cả tua, sùi cả bọt mồm bọt miếng trên mặt những người chung quanh. Đàn bà con gái thảy cười rúc ra rúc rích, lấy tay che bụm mặt lại, nhưng vẫn hé dòm qua những kẽ tay để hở. Còn bọn trai trẻ thì cười hả hả, hươi chân, múa tay hết sức thích chí. Một điều đáng kể là không một ai phục Hương Đại cả. Ở Xóm Cát này, trên cái cảnh sống nghèo nàn, trơ trụi do những con người gom góp từ đâu giạt đến, ít ai thực lòng tin một điều gì, ngoại trừ rau muối, lúa khoai.
Cứ xong một trận phát thanh như thế, Hương Đại đứng thở hào hển, tưởng như ngút hơi. Một lần, Hai Sanh đi qua, thấy vậy bèn nói chõ vào:
- Ông Tây đã đói bụng xẹp hông rồi! Bồ lô xí là, ai có khoai chạc dư không, đem cho ít khúc, bà lù xù, bà lì xì!
Tức thì Hương Đại trợn dọc mắt lên, chỉ tay vào mặt Hai Sanh, ba xí ba tú một hơi rất dài đủ các thứ tiếng kỳ lạ mà người Xóm Cát chưa từng nghe đến. Mọi người ngơ ngác nhìn anh, không ai cười nữa. Xong, Hương Đại chắp tay sau đít, đầu cúi gằm xuống, dạng chân đi từng bước lớn, trịnh trọng trở về nhà mình, vẻ mặt hầm hầm như một ông Tây bất mãn.
Mà Hương Đại bất mãn thực. Là bởi Hai Sanh nói đúng gan ruột anh ta. Ông Tây đói lắm, vì trọn cả ngày hôm đó ông Tây chỉ ăn có mỗi một chõ khoai trưa.
Qua suối, lên đồng, Đực Lớn dẫn đến một cái gò nhỏ ở giữa mấy đám ruộng trì khô nẻ. Lơ thơ những mồ đất đỏ, lẹt trẹt, cỏ mọc lòi còi, y như những miếng bánh đúc để khô bu đám ruồi nhặng.
Đực Lớn ném đuốc và bỏ cuốc xuống:
- Thôi, chôn đây được rồi.
Hương Đại chống nạnh nhìn quanh ra vẻ quan sát, rồi đưa ngón tay chỉ đông, chỉ tây, lên giọng:
- Nên đem chỗ nào cao cao mà chôn cho nó phát tướng sau này, con cháu mới mong ăn trên ngồi trốc thiên hạ. Kỵ nhất là mấy chỗ trũng trũng này. Táng mấy chỗ trũng phát đinh dữ lắm. Mình còn không đủ phủi lủm, phát cái thứ con cho đông, có mà chết sớm.
Nói thế, nhưng sau ai cũng đồng ý nên đào huyệt ở chỗ trũng vì đất mềm hơn. Hương Đại chống nạnh, cố tìm một việc để khỏi cầm cuốc nên lấy ngón chân kẻ kẻ dưới đất, vạch hướng cho người đào theo. Anh Hai Cấn cặm cụi bổ những lát cuốc nặng trịch. Anh không dám nghĩ đến sự mệt mỏi, bởi vì đòn khiêng vừa rồi cũng như những lát cuốc này vốn là chút tình của anh đối với người chết. Đực Lớn cuốc được vài lát, dừng lại ra vẻ sực nhớ điều gì, bỏ cuốc, chạy lại nắm lấy bó đuốc, thổi phì phì cho bùng lên ngọn lửa, rồi nói:
- May quá, cứ tưởng tắt nghín mất rồi. Để thắp thuốc chớ.
Anh Hương giúp một tay cuốc đi ề! Tui vấn thuốc cho.
Anh ta làm bộ lục lạo khá lâu ở trong túi áo, rồi lôi ra những lá thuốc vàng sậm. Hương Đại đành cầm lấy cái cán cuốc. Đực Lớn ngồi vấn chậm chạp, vê đi vê lại điếu thuốc, lăn giữa lòng hai bàn tay, tém đầu, tém đuôi ra vẻ hết sức chu đáo. Xong, anh ta thắp thuốc. Bập vài hơi thấu óc, anh mới đem lại tra vào nơi môi Hai Cấn. Rồi lọ mọ anh vấn điếu khác cho phần Hương Đại. Xong điếu của Hương Đại rồi, anh mới vấn lấy điếu mình. Vừa vấn, anh nói:
- Cái nghề cầm cuốc nghỉ tay mấy bữa là đã sút rồi. Nhưng ông Hai đây, ai cũng phải chịu là tay cừ nhất. Cuốc không biết mệt, đường cuốc đi đều mà thiệt nặng tay. Còn như ông Hương ngày trước đã từng đi lính bên Tây bên Tàu thì chắc có tài bắn súng, cỡi ngựa chứ chuyện cuốc cày dù sao cũng không thuần bằng. Nhưng nghe đồn ông có cuốc đất đậu thử sức với lão Ba Thế hai ngày, phải không? Ông hơn Ba Thế, phải không?
Hương Đại không dừng tay cuốc, đáp trong hơi thở hổn hển:
- Sá gì Ba Thế. Tui chấp cả hai anh em nhà nó cũng cứ ăn đứt liền liền.
Đực Lớn lại kể lể đến những người đàn bà cuốc giỏi. Nào con Sáu Lường, con Hí, con Huê... cuốc thực dịu dàng mà rất dai sức, đàn ông ít người hơn nổi. Anh ta nói mãi, nói mãi cho đến một lúc Hương Đại ném cái cuốc xuống, phán rằng:
- Được rồi. Sâu lắm nó hãm cái xác, hồn ma lục đục, mình ở không yên.
Anh Hai Cấn bèn dừng tay, cúi nhìn cẩn thận, rồi nói:
- Chưa lút đầu gối. Cạn quá, không nên.
Anh định bảo rằng: “Chôn cạn sợ chó đánh hơi đào xác” nhưng nghĩ nói vậy nghe tội tình quá. Cho đến người sống, dù họ hung hăng gấp mấy, anh Hai cũng không muốn nói một tiếng mất lòng, nỡ nào bạc miệng bạc mồm đối với người đã nhắm mắt.
Hương Đại xì một tiếng lớn:
- Nên với không gì! Đủ sức thì thôi chớ hị. Tui bàn vét lại thì vừa. Anh Hai chịu khó vét sơ sơ đi. Mình nghĩ, chôn dưới động cát có khỏe hơn không? Công sức đào một cái huyệt trên đồng có thể đào được mười lăm, hai mươi cái ở dưới cát.
Anh Hai Cấn nhíu mày:
- Nói nghe lạ quá. Nắm xương mình gởi trên đồng nó cũng hơn chớ. Đất đồng nó dẽ dặt hơn, nó ấm áp hơn. Từ hồi ông bà đến chừ ai cũng muốn chôn được gần làng, xã, chớ ai nỡ đem cái xác bỏ vùi, bỏ lấp dọc động như mả cô hồn.
Suốt buổi, đây là lần thứ nhất anh Hai nói nhiều như thế. Đời anh, anh chỉ ao ước sau này có được nấm mộ trên đồng, nấm mộ ở giữa lúa ruộng, gần với mồ mả ông bà, mồ mả người xóm, người làng, được gởi mình giữa lớp đất dẽ dặt mà trọn cuộc đời anh cày một cách cực khổ, lam lũ, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau chịu kiếp cô đơn.
Đực Lớn im lặng giây lâu, có vẻ suy nghĩ, rồi cũng phụ họa:
- Phải rồi. Anh Hai nói phải. Cực nhọc bao lăm mà gởi được xác trên đồng cũng yên ổn hơn. Phải, thôi, anh Hai chịu khó vét sơ rồi ta hạ huyệt.
Trong khi vội vàng lùa cháo vào họng, nhiều lần anh Hai Cấn có cảm tưởng những thứ cứng cứng và khô xảm ấy không phải thuộc về loài vịt, nhưng cũng cố nghĩ đấy là thịt vịt. Đặt đũa xuống rồi, anh vẫn thòm thèm nhưng nhìn nồi cháo sạch quẹt sau khi Hương Đại cúi vét sàn sạt tưởng lủng đáy nồi, anh bỗng nhớ đến ông Cấn, mẹ con thằng Cời... Phải chi mỗi người được một bát cháo để ăn, họ sẽ thỏa dạ biết là bao nhiêu!
Suốt trong bữa ăn không ai nói gì đến người đã chết. Mọi người làm thinh, làm thế mà húp sùm sụp, cánh tay cầm đũa ngoáy đều, cặp mắt láo liên đảo vòng từ nơi đáy nồi đến những cái bát của người bên cạnh. Ăn xong, anh Hai nghĩ rằng trước khi về nhà nên nói một câu dính líu đến người đã chết cho hợp đạo trời, nhưng ngồi tìm mãi không có câu nào nghe được, anh bèn đứng lên chào hết mọi người, quày quả bước ra. Hương Đại hai lần xuống bếp thắp thuốc nhưng nhìn quanh quất không thấy mụ vợ Đực Lớn nên cũng bước theo. Thủ Tự những muốn bắt chước hai người, nhưng nhớ lại sự chờ đợi của mình suốt cả buổi sáng, bây giờ ăn xong về liền coi ra không tiện, đành ngồi rốn lại giảng giải:
- Con người sống chết là do cái số, đó chú Đực à... Thằng Nhỏ chết đụng cái ngày cũng tốt, lại được cái mồ cái mả trên đồng, rứa là mọi bề cũng được êm đẹp...
Thủ Tự đột ngột dừng lại. Mới quay sang nhìn, ông thấy Đực Lớn ngồi dựa vào cột, đầu ngoẹo một bên ngủ từ bao giờ, khóe mồm nhẻo ra một dòng nước dãi. Thủ Tự nhẹ nhàng đứng lên, rón rén bước ra.
Vừa qua khỏi ngõ ông Trà, bước sang vườn của bà Đầy, Thủ Tự nghe nhiều tiếng chửi vọng ra. Rồi ở dưới vườn Hai Trí có tiếng chửi đổng trả lại. Theo đúng quy luật phát triển của loài ngôn ngữ, họ bắt đầu bằng tiếng một, sau tiến lên đến câu dài, rồi mới thành chương, thành bài tuôn ra một lượt, không có bên nào chịu nghe bên nào. Ban đầu cả hai cùng ở trong nhà chửi qua kẽ phên, nhưng sau vì cùng đua nhau nói lớn không ai nghe rõ được mình nói năng những gì, nên đồng tiến ra phía sau, lựa chỗ ảng nước để làm thế đứng, chõ miệng sang rào, chửi nhau kịch liệt hơn trước. Thủ Tự toan vào can thiệp để họ nể mình im đi nhưng sau thoáng nghe trong câu họ chửi có nhắc nhở hoài hai tiếng “thịt vịt”, Thủ Tự chột dạ làm thinh đi luôn. Được một quãng, gặp bóng cây trâm ở góc vườn khá mát, Thủ Tự bèn ngồi xuống chõ tai nghe. Bây giờ quá mệt, họ thôi làm bài, và trở về từng câu ngắn. Tiếng bà Đầy gào khan:
- Tao đào mả cha mi ra cho mi coi!
Lập tức, vợ Hai Trí the thé đáp lại:
- Mả cha tao chôn trên đồng, đố thằng-lằng-cha đứa nào có giỏi thì lên mà đào. Nói mà không làm được là đồ uống máu đẻ!
Thủ Tự nghĩ thầm: “Cũng may mà đem chôn cả trên đồng, nếu chôn dưới cát thì chắc người chết ăn nằm không yên”.
Tiếng bà Đầy gắng gượng:
- Máu đẻ đem đổ trên đầu cao tằng cố tổ nhà mi!
Giọng vợ Hai Trí không chút nao núng:
- Quơ mà nuốt hết đi rồi chứ đâu có còn mà đổ trên đầu đứa nào. Ôi chào! Thèm lắm! Thèm lắm lắm mà! Ăn cái của dơ, của nhớp vô rồi chừ thì mạnh miệng lắm mà!
- Không biết đứa nào thèm! Không biết đứa nào thèm!
- Ừ, không biết đứa nào thèm. Cái của bất lương, phi nghĩa là cái của dơ, của nhớp, còn vục đầu vô mà ăn, không biết xấu hổ, lại hả họng ra mà nói nữa tề!
- Người ta cho tao ăn thì tao ăn. Tao không ăn cắp, ăn trộm. Đừng ăn không được rồi cành nanh, sủa hoài, điếc đít!
Thủ Tự nhớ như lúc nãy có nhìn thấy mụ Đực Lớn tay cầm cái bát, đi băng theo ngõ rào dưới về nhà. Đầu đuôi câu chuyện chửi bới nguyên do là thế: Mụ vợ Đực Lớn đem cho bà Đầy bát cháo. Nhưng không đi bằng ngả trước, mà cố tình băng ngả sau cho mụ Hai Trí nhìn thấy. Chẳng là tháng trước, khi cắt rạ đêm trên đồng về bỏ chuồng bò, vợ của Đực Lớn có hốt trộm của ông Trà mất một đầu gánh. Đem về chưa lọt thì bị ông Trà bắt được quả tang. Sau này mụ vợ Đực Lớn dò biết là tại mụ Hai Trí mách, và ông Trà thưởng cho mụ này nửa gánh rạ. Đã lâu hậm hực trong lòng nay mới có dịp trả thù, bởi vì cho cháo bà Đầy tức là khiêu khích mụ vợ Hai Trí.
Trong khi ngồi nhìn bà Đầy húp cháo, mụ vợ Đực Lớn kể lể tất cả thói xấu của con gái lão Bàng - một cách gọi vợ Hai Trí. Bà Đầy vừa lùa cháo, vừa gục đầu. Chưa bao giờ hai người tỏ ra tương đắc như thế. Họ ngồi chò hõ ở nơi cửa sau nên từ nhà của Hai Trí trông lên rất rõ. Vợ Hai Trí mới ăn một rổ rau luộc từ nửa buổi nhưng đến bây giờ thấy đói hung rồi. Nhìn thấy mụ Đầy vừa ăn, vừa nói, mà ghét. Đến lúc vợ của Đực Lớn đứng dậy ra về, còn thấy bà Đầy kêu lại nói những chuyện gì, vừa chỉ tay xuống nhà mình, tức thì mụ vợ Hai Trí đứng lên, chạy rút đũa bếp, giáng mạnh xuống lưng con Vện ốm đã lòi xương, chửi đổng:
- Mệ cha mi! Biết ăn mà không biết liếm cái bát cho sạch!
Lập tức, bà Đầy hiểu ngay là vợ Hai Trí nói đứa nào rồi.
Vội vàng, bà ta cũng quơ đũa bếp, đập túi bụi vào con Vàng nhỏ chút cho kêu ẳng ẳng, vừa nói thật to:
- Cố tổ mi! Có mà liếm cái ngữ cứt ngoài gò!
Thế là cuộc chiến bắt đầu. Từ chỗ nói bóng, nói gió, hai người đi dần vào trong cuộc đời tư riêng của nhau, lôi cả dĩ vãng không lấy gì làm tốt đẹp của nhau ra nói. Có nhiều chuyện hoặc đã rõ, hoặc chưa biết rõ, bây giờ được đem phổ biến hết sức hăng hái. Nào là mụ vợ Hai Trí vào dịp năm ngoái đi cấy cho nhà Cửu Thưởng làng ngoài, ăn vụng cá kho dưới bếp, sau đổ thừa cho chó... Nào là vợ chồng Hai Trí là bọn vô đạo, năm ngoái hạ bàn thờ cha chúng xuống, để làm giường nằm...
Tiếng vợ Hai Trí thét lên:
- Cái đồ ăn bậy nói xàm. Nghèo thì tao chịu, chớ tao không làm cái chuyện vô độ, vô lưng!
Vợ của Hai Trí nhất định không bao giờ làm những chuyện vô đạo, vô luân. Chỉ có hồ sơ bà Đầy - theo vợ Hai Trí - thiệt mới đáng nên truy cứu rõ ràng: nào là mấy lần moi trộm khoai của ông Hòa... nào là đã già khú đế mà còn gái trai với lại Thủ Tự...

Thủ Tự vụt đứng thẳng lên, bước đi rất nhanh. Những mụ đàn bà điên loạn không còn nể nang ai nữa. Thủ Tự thấy mình chưa hề có chuyện lăng nhăng với bà Đầy, thế mà con vợ Hai Trí cứ việc ám xác nói điều bậy bạ thiệt là xấu hổ quá sức. Đúng ra, không phải Thủ Tự không có ý nghĩ ấy đâu. Nguyên bà Đầy rất thèm có một đứa con. Lần đầu bà nuôi một đứa con gái, không biết con ai, lạc loài vào trong động cát. Được đôi ba năm, con bé quảy gánh xuống sông mua muối rồi lên ngồi luôn trên ghe một gã thuyền chài. Bà Đầy chờ đợi mỏi mòn, dáo dác đi tìm nhưng không biết chiếc thuyền tình trôi giạt bến nào. Cho rằng con gái là đồ bội bạc, bà xin một đứa con trai, con út của lão Ba Chỉ. Ba Chỉ nghèo quá mà người vợ lại cứ đẻ năm một nên khổ tâm lắm. Mỗi lần biết mình có thai là bà ngồi khóc bù lu bù loa và mỗi lần đẻ không quên réo chửi bằng đủ danh từ tồi tệ cái “thằng chồng già chết dịch, chết toi”. Đẻ đến thằng Đồ thì bà Ba Chỉ hằm hằm cầm dao chỉ vào dưới rún ông Ba độ chừng hai tấc, bảo rằng nếu lúc đêm khuya canh vắng mà còn mon men tính chuyện vợ chồng chung chạ, thì bà... cắt đứt một phen cho tiệt giống nòi. Ông Ba tỏ vẻ bình tĩnh, xem thường mọi lời dọa nạt công khai như vậy. Theo ông, khi người ta nói toạc hoạc mọi điều đáng lẽ phải nên chôn giấu trong ruột, thì nhất định là người ta vô hại. Hơn nữa, dù có phải bị “cắt đứt” thật sự, thì giống nòi ông với bảy đứa trai và hai đứa gái lúc nhúc hiện giờ cũng khó mà tiệt cho nổi. Ông còn thách đố trở lại, và hứa sẽ còn đẻ nữa cho xem. Tuy vậy, kể từ ngày đó thì bà Ba Chỉ đã đình chỉ được công việc đẻ chửa mà bà chăm chỉ thực hiện trong mấy mươi năm. Gặp mùa đói kém, vợ chồng ông Ba ưng thuận để cho thằng Đồ về làm con nuôi bà Đầy. Nhưng được ít năm, thằng Đồ về thăm cha mẹ và được cha nó gửi lên trên làng học nghề thợ mộc. Bà Đầy tuyệt vọng, bắt đầu hoài nghi những đứa con nuôi. Giữa tình cảnh ấy, Thủ Tự nhiều phen cũng thấy động lòng thương xót. Trong cuộc gặp gỡ chuyện trò với bà Đầy, nhiều lần Thủ Tự cũng than thở rằng mình tốt giống quá, “cựa đâu đẻ đó” không sao mà nuôi cho xiết. Bà Đầy liền cười hô hố, đáp lời:
- Sao không chia sớt cho kẻ thiếu thốn, ông Thủ!
Ông Thủ cũng cười hô hố, ra vẻ thông cảm. Tuy vậy, Thủ Tự là người phải chịu trách nhiệm việc xóm cho nên Thủ Tự cần phải giữ gìn. Nhất là sau khi đôi bên đã bày tỏ được ý tứ của mình, Thủ Tự nhận thấy cần phải giữ gìn hơn nữa. Công việc mới đi tới đó, vậy thì có gì là bậy bạ đâu? Con vợ Hai Trí là đồ trời đánh trật búa, ăn nói điên khùng.
Thủ Tự hối hận tại sao lúc nãy mình không nhảy vào nạt thét một trận cho chúng im đi. Bây giờ thì muộn quá rồi. Về phần Thủ Tự thì không còn mặt mũi nào để vào nói nữa, mà phần hai người đàn bà thì đã quá say máu ngà, không còn cách gì ngăn lại cho được. Không những chửi vì giận nhau, họ còn chửi vì có biết bao nhiêu mối giận với biết bao người trong xóm. Lại thêm không thể làm gì hơn nữa trong cảnh túng đói cùng quẫn, nên sự chửi rủa giúp họ trút bớt những nỗi căm hờn không đâu, đem lại cho họ ít nhiều ảo tưởng về cái sức mạnh của mình.
Nhưng bỗng Thủ Tự dừng bước đưa tay lên véo một cạnh râu mép, nghiêng tai nghe ngóng... Mặc dù giọng của bà Đầy cố sức phá đám nhưng tiếng mụ vợ Hai Trí trẻ hơn, thanh hơn, nên rõ mồn một. Bây giờ mụ vợ Hai Trí đang kể đến khúc bà Đầy có mang với lão Hai Nguyên, một người lái bò què quặt. Nào là bà Đầy quấn cái bụng lại không cho ai biết, tới kỳ sinh đẻ, đem con bỏ trên bờ suối. Nào là bà Đầy lập mưu cho lão Hai Nguyên giả đò tình cờ qua suối bắt gặp “con ai không biết” rồi mang nó về rêu rao khắp xóm, nhờ người ta nuôi lấy phúc, lấy đức. Thế rồi lại chính bà Đầy chạy ra, vừa chửi “cái bọn chửa hoang, đẻ bậy”, vừa xin thằng nhỏ về nuôi. “Bây giờ đã rõ cái mặt ra chưa? Bà con khắp xóm ai không nhìn biết cái tướng thằng Đà! Cái miệng tòa loa như miệng mụ Đầy, con mắt ti hí như mắt lão Nguyên...”
Đã đến cái độ không ngăn cản được nữa rồi. Chưa có bao giờ hai người giận nhau đến thế. Cũng chưa bao giờ họ lại tỏ ra có sức đến thế. Chuyện xưa, chuyện nay đã nói cả rồi. Bà con trong xóm, trên làng, cũng được nhắc đến cả rồi. Tới những người chết từ đời thuở nào cũng được gọi lên để dự những đám cỗ lớn gồm toàn các thứ dơ nhớp nhất trong thiên hạ. Chỉ còn một nước cuối cùng: đánh nhau.
Hai người áp tới một lượt, và gặp nhau chỗ bờ cát. Họ đánh đấm túi bụi, xô nhau, kéo nhau, lôi tóc nhau, cào cấu trên quần trên áo của nhau, miệng thở phè phè. Khi hai người té nhoài ra, mỗi người mỗi ngả, thì trên khóe miệng ai cũng có một ít máu và lớp quần áo không còn là những thứ dùng che đậy thân thể. Mụ vợ Hai Trí chồm chồm ngồi lên, cố hét bằng giọng đã khàn:
- Tao đốt nhà cho mi coi!
Bà Đầy cũng vội trườn lên gào lại, giọng khàn hơn:
- Đố mười mặt mi. Tao cũng đốt nhà mi coi!
Thế là hai người lạch ạch ai về nhà nấy. Phút chốc mỗi người chạy ra thổi phì phì trên con cuối bằng rơm. Họ nhìn nhau, liếc quanh mong có người nào can gián, nhưng không một ai có mặt đấy cả. Họ lại nhìn nhau rồi làm vẻ rất cương quyết hì hụi chạy dí lửa vào mái tranh của nhau. Những ngôi nhà tranh giòn rụm dưới nắng hạ như đói lửa, cháy lên ngùn ngụt. Hai người đàn bà, ai vội chạy về nhà nấy, kêu cứu, la làng inh ỏi. Nhưng giọng của họ hầu như đã tắt hẳn rồi.
Đến lúc Hai Trí chạy về tới sân và thằng Đà lùa con nghé đến ngõ thì hai ngôi nhà chỉ là hai nhúm tro tàn. Cạnh mỗi đống tro tàn ấy, mỗi người đàn bà xờ xạc, lõa lồ, mồ hôi muối đầy cát trắng, tro đen, nằm thở hào hển như sắp chết gấp.
1.1957
Một chuyến xe
Chiếc xe Dodge lù lù bò lên dốc, tiếng máy rú dài như một con vật mệt nhọc bị vây đuổi gấp. Qua một khúc eo và gặp quãng đường bình hơn, người tài xế đổi tốc độ, dận thêm ga cho xe vượt khỏi chặng đường đèo khuất gió, hầm hơi vì nắng xế chiều nung đốt và mùi khói xăng khét lẹt.
Trong xe, ngoài người tài xế và người phụ máy, có sáu hành khách chiếm trọn ghế trước và ghế thứ nhì. Ban đầu chỉ hai hành khách - một người chủ tiệm và gã con trai - thuê trọn chuyến xe để chở hàng nhà. Nhưng vừa ra khỏi thành phố, có người Hoa kiều đón xe, chủ hàng nhận biết là người buôn bán quen thuộc, sợ bỏ lỡ một dịp tốt để trao đổi việc mua bán, chủ hàng đồng ý để người tài xế rước khách. Hai ông cùng ngồi ghế trước, bên cạnh bác tài. Người con trai ông chủ nằm dài trên ghế thứ nhì cố tìm giấc ngủ sau một đêm thức trắng để hành lạc ở chốn thị thành. Những tiếng cười của người Hoa kiều và giọng nói rất lớn của cha anh cố át tiếng máy làm anh tỉnh dậy. Anh bỗng nhận thấy tiếng cười của người Hoa kiều có một vẻ gì rất đỗi vô duyên, và cha của anh có lối hứng thích nói chuyện không mấy hợp thời. Anh định ngủ lại, nhưng giấc ngủ có lẽ đã tụt khỏi xe và đang đuổi theo không kịp chiếc máy xả hết tốc lực. Anh ngồi dậy, cho rằng người ta chỉ có thể tìm được giấc ngủ khi tỏ ra không cần đến nó. Nhưng vừa nhìn ra phía trước anh thấy hai người vẫy xe một cách vội vã dưới ánh nắng trưa. Có lẽ là hai mẹ con. Người con mặc chiếc áo hồng thực đẹp. Người tài xế liếc nhìn sang người chủ hàng, thấy ông này vẫn yên lặng nên định chạy luôn nhưng người thanh niên đã đập vào vai anh ta và bảo dừng lại. Người cha tỏ vẻ không được bằng lòng, toan giục chạy đi, nhưng ông chợt thấy người đàn bà còn nhiều duyên dáng trong cái xuân tàn và ăn mặc khá sang trọng. Ông làm thinh, giữ vẻ nghiêm nghị. Nhưng khi bà kia vừa bước lên xe, ông nhìn khuôn mặt thon thon phản chiếu vào tấm gương ở trước mặt, cảm thấy phải nói một câu có lợi, vừa để thanh minh thái độ của mình với người tài xế, vừa để gợi sự chú ý của bà khách nọ:
- Thôi, chạy đi kẻo trễ giờ rồi!
Cô gái lên xe, thấy người trai trẻ nhìn mình chòng chọc, toan lùi xuống nhường cho mẹ vào trước nhưng nghe hối chạy nên phải vội vàng ngồi xuống một cách ép uổng. Người con trai cảm thấy cha mình xử sự rất là hợp thời. Bây giờ, anh không thấy buồn ngủ nữa. Trái lại, anh đang tỉnh táo hơn bao giờ hết.
Được một đoạn đường, chiếc xe đang xả hết tốc lực bỗng dừng lại trước một căn nhà nhỏ bên đường. Người tài xế bóp còi, rồi quay sang ông chủ:
- Tôi gọi nhà tôi.
Một người đàn bà đi ra, chậm chạp, uốn éo. Chị lên xe nhìn quanh, hình như phật ý vì phải ngồi xa bác tài, nhưng sau nhận thấy ai cũng có vẻ sốt ruột, chị đành ngồi xuống phía ngoài người đàn bà kia.
Xe lại chạy.
Sau khi nuốt hết quãng đường trường dằng dặc, chiếc xe lại hồng hộc vượt đèo. Ông chủ hàng đã hết nói chuyện, thỉnh thoảng nhìn lên tấm gương trước mặt. Người Hoa kiều có vẻ băn khoăn như sực nhớ một điều gì không được an tâm. Ở ghế sau, cô gái và chàng trai trẻ đã đi qua được giai đoạn mở đề và họ bắt đầu chung góp ý kiến để chỉ trích những sai lầm của tất cả nam nữ thanh niên sống trong xã hội ngày nay. Hai người đàn bà kia, không ai bảo ai, cũng cảm thấy rất tự nhiên rằng xe hơi là loại máy ru ngủ rất tốt. Ở phía sau, người phụ máy bám chặt thành xe, mồ hôi nhễ nhại, sẵn sàng vồ lấy cục canh để nhảy vọt xuống mỗi khi chiếc xe tắt máy giữa dốc.
Lên đến đỉnh đèo, người tài xế dừng xe, nghỉ cho mát máy. Trong lúc người phụ máy rẽ đám cỏ tranh bước xuống chân cầu múc ít nước suối đổ vào “két” nước, mọi người đã bước xuống xe, khoan khoái nhìn cảnh trời bể bao la trước mắt.
Ông chủ hàng vừa đứng gần mẹ cô gái, vừa xem xét lại hàng hóa, cố tìm một chỗ sơ hở trong các nuộc dây dừa cột chằng chịt. Ông xây lại người đàn bà, thấy cần phải giải thích thêm một điểm mà ông đoán rằng bà này chưa được rõ ràng:
- Bà rất có duyên đi sớm được chuyến xe này, vì tôi thuê trọn để chở hàng nhà. Đáng lý là xe không chở một ai.
Người đàn bà hơi nghiêng đầu, hơi nhếch môi, nhưng không biết tỏ thế nào cho hợp lẽ hơn nên đành làm thinh. Tuy vậy, cặp mắt bà ta có vẻ dịu dàng hơn trước và bấy nhiêu đó cũng làm ông chủ khoan khoái trong lòng.
Người con ông chủ leo lên một mỏm đá lớn gần đường, đôi tay chống nạnh, nhìn ra bể xa với vẻ chăm chú của một thi sĩ say đắm cảnh vật. Thỉnh thoảng anh không quên rằng trong cảnh vật ấy có người thiếu nữ. Và người thiếu nữ lấy chiếc khăn tay màu xanh cột rất lâu lên mái tóc bồng phất phơ trước gió, cố giữ mãi dáng điệu ưỡn ngực một cách rất là tự nhiên.
Anh tài xế dựa vào thành xe lấy thuốc thơm hút, âu yếm nhìn người đàn bà mà anh gọi là “nhà tôi” lúc nãy. Người đàn bà lấy tay véo vào sườn anh, nở một nụ cười không thể tìm thấy trong các bà vợ. Khi ngước lên, thấy mọi người chăm chú ngó mình, anh ta đưa tay chỉ về một dốc núi xa và nói:
- Các người trông cái sườn dốc xa kia... Chỗ mảng núi sụp lở kìa. Ấy đấy! Nơi đó bao nhiêu chuyến xe đổ đèo đã nhào xuống biển.
Mọi người chăm chú nhìn theo hướng tay anh chỉ, im lặng một cách ý nghĩa.
Anh tài xế nói tiếp:
- Bao nhiêu chiếc xe cùng với bao nhiêu mạng người tan tành chỉ vì sơ ý một chút mà thôi.
Anh rít một hơi thuốc dài, phun khói rất mạnh, mỉm cười như không chú ý mấy đến câu nói vừa rồi. Mọi người vẫn còn trầm ngâm nhìn về phía núi cheo leo khuất bóng nắng chiều, bắt đầu nhuộm màu xanh sẫm. Họ lấy cặp mắt đo từ sườn xa xuống dưới vực thẳm và tưởng chừng như linh hồn những người tử nạn vẫn còn phảng phất chung quanh.
Người trai trẻ cố nói một giọng tự nhiên:
- Vừa rồi báo chí đăng một tai nạn xe hơi hết sức thảm khốc xảy ra ở tại Bokor, bên Miên. Một chiếc xe đò và chiếc xe nhà chạm nhau ở trên đầu núi rồi cùng lăn xuống biển sâu. Chưa rõ bao nhiêu người chết.
Mọi người lại đứng trong sự im lặng. Trời bắt đầu chiều. Gió biển thổi vào mạnh hơn, rung chuyển ngàn cây. Ai nấy cảm thấy rờn rợn.
Người phụ máy đã đổ nước xong.
Mọi người lên xe. Lần này, tuy không có ai giục giã nhưng cô gái thấy không cần phải đổi chỗ nữa. Khi xe nổ máy, người ta mới nhớ thiếu người Hoa kiều. Sau một hồi còi của tài xế, ông ta mới từ bụi rậm vội vàng bước ra, nét mặt bình tĩnh hơn trước khá nhiều.
Xe bắt đầu xuống dốc. Mọi người nghe gió vun vút đập vào thành xe, núi rừng vọng lại tiếng máy nổ đều. Sức chạy nhanh như kích thích, khiến mọi người say sưa, một nỗi say sưa xen lẫn kiêu hãnh thường tìm thấy trong con người thời đại máy móc những lúc bị quay nhanh trong tốc độ.
Giữa phút miên man ấy, những câu nói vừa qua của người tài xế và hình ảnh tai nạn thảm khốc ở Cao Miên như lởn vởn trong óc mọi người. Ông chủ hàng bỗng nhiên nghĩ rằng một tai nạn có thể xảy ra và gia đình ông sẽ lâm vào cảnh đau thương hết sức. Ông và con ông sẽ chết gục bên sườn núi, trong một chiếc xe gãy vụn hoặc nằm bẹp dí dưới một hố sâu. Hàng hóa ông sẽ tan tác, cửa tiệm ông sẽ phá sản. Vợ ông đầu quấn hai lớp khăn tang khóc lóc, trọn đời thủ tiết thờ ông. Hay là nó sẽ đi lấy chồng khác? Ông lại nghĩ thầm như thế. Biết đâu nó không lấy tên chủ tiệm góc phố giàu có, góa vợ từ mấy năm nay? Biết đâu nó lại chẳng lấy lão Hoa kiều này, nếu lão sống sót? Ừ, lão này sống sót sẽ tìm vợ ta để báo cái tin đau đớn và sẽ giả vờ méo mặt chia buồn, thỉnh thoảng lại đến viếng thăm an ủi. Trông nó cũng không đến nỗi xấu người, xem chừng đàn bà cũng có thể ưa nụ cười hềnh hệch, đi đôi với cặp mắt hin hít này. Chắc là khi lấy nhau xong nó sẽ dẹp gấp bàn thờ của ta và của con ta. Không, nó sẽ để đấy nhưng thu dẹp lại một xó vì sợ miệng thế chê cười. Khi ấy có lẽ ta đã thành chồng con mẹ ngồi ở ghế sau. Đến lúc vợ ta chết xuống, nó sẽ ghen đấy, nhưng ai bảo nó lấy lão Hoa kiều?... Lão này thừa dịp trục lợi những công việc ta bàn tính ban nãy và làm giàu chẳng mấy chốc. Bây giờ lão đang lúng túng, nhưng người Hoa kiều vốn buôn bán giỏi. Thực ra, cũng không đứa nào giỏi hơn ta được. Nhưng một người ít may mắn như cái lão này, làm sao thoát được tai nạn hiểm nghèo mà ta không thể vượt khỏi? Nếu một trong hai người này phải chết, nhất định không phải là ta.
Tự nhiên ông thấy rằng ông không sao chết được. Có chết chăng là người Hoa kiều này. Thời vận của ông rất tốt, không thể có sự vô lý xảy ra giữa lúc thuận buồm xuôi gió. Chính người thầy Tàu nổi tiếng nhất về tướng số đã bảo đến năm bốn mươi tám tuổi ông sẽ phát đạt tột bực. Còn những ba năm. Có rủi ro chăng cũng chín, mười năm nữa kia. Nhưng nghĩ cũng vô lý nốt. Mạng ông rất thọ. Bao nhiêu lá số tử vi đều nói giống y như vậy. Ông còn bao nhiêu dự định trong đầu, toàn là mưu lược kinh doanh tuyệt vời, nhất định cuộc sống phải cần đến sự có mặt của ông không biết bao nhiêu năm nữa. Biết đâu ông lại chẳng sống dai như một người lột xác, để chứng kiến cuộc bể dâu dồn dập này đây. Điều này cũng có lý lắm vì sức khỏe ông dồi dào và gia đình ông phúc hậu. Ông chẳng phải người phúc đức là gì? Ông vẫn thỉnh thoảng giúp đỡ những người túng thiếu bằng cách cho vay nhẹ lãi đấy ư? Ông đã vui lòng để cho mẹ con người đàn bà này lên xe khỏi phải chờ đợi giữa lúc trưa nắng đấy ư? Ông mỉm cười, tự thấy bằng lòng cho mình nhiều lắm. Tiếng máy xe nổ giòn giã nghe vui tai lạ. Ông liếc sang người Hoa kiều, chú này vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên. Sau khi trút sạch được mối băn khoăn ở một lùm cây bên rừng, bây giờ chú thấy dễ chịu, yên lòng. Chú không nghe người tài xế nói chuyện, cũng không nghe người trai trẻ kể lại tin tức. Con đường này đối với chú quen thuộc quá rồi. Chú đang lơ mơ nghĩ lại câu chuyện mua bán mà người chủ hàng vừa nói, cố tìm xem thử có phải là sự lừa phỉnh hay không. Nếu hợp tác được với hắn, mình sẽ có cách sinh lợi nhiều bề mà hắn không sao ngờ được. Nhưng chắc là phải lên xuống con đường này luôn thì cũng hơi phiền. Bỗng nhiên nhớ đến hai má phinh phính của xẩm Lìn, chú thấy vui vui. Chuyến sau mình xuống, nhất định ngủ lại nhà nó. Chú ngước nhìn lên tấm gương trước mặt. Hình như người chủ hàng cũng nhìn lên tấm gương và mặt người đàn bà thon thon kia bỗng nhiên cúi xuống. Chú quay lại sau, nhìn vào khuôn mặt tròn mập và trát đầy phấn của “vợ” bác tài. Chị này quay nhìn ra ngoài. Sau cùng chú cúi xuống nhìn cái ruột mình và thấy đói bụng.
Trong khi đó, ở ghế sau cặp trai trẻ qua những phút im lặng rất phong phú đã bắt đầu nói chuyện lại. Nàng buột miệng nói:
- Xe chạy nhanh quá nhỉ...?
Chàng không hiểu được ý nghĩa sâu xa trong câu nàng nói, nhưng vội trả lời một cách săn đón:
- Vâng, hơi mau nhưng không hại gì. Anh tài xế này vững lắm. Vả lại những hôm nào đi xe nhà, tôi thường chạy nhanh hơn nhiều.
Sự thật anh ta không có xe nhà. Tuy nhiên, anh thấy cần phải nói thêm để cho có vẻ khiêm tốn và đủ ý nghĩa.
- Xe nhỏ bao giờ cũng dễ đi hơn, cô ạ. Lại ít xảy ra tai nạn.
Đó là câu nói không chút căn cứ, nhưng người con gái không chú ý đến sự phân tích. Tiếng tai nạn bỗng gợi lại trong óc của nàng những hình ảnh tưởng đã xóa nhòa. Nàng có thể chết vì chuyến xe này, hồng nhan vốn thường bạc mệnh. Nàng sẽ có một nấm mồ bên đàng và mỗi chiều thu lá rụng sẽ có những người yêu nàng, cả chàng trai trẻ này nữa, khóc nàng ở đấy. Nàng sẽ hóa thành yêu tinh chòng ghẹo những khách qua đường. Nàng sẽ hát trên ngọn núi, bay ngoài mặt biển, chạy trên cây rừng. Những đêm trăng sáng về khuya, nàng sẽ xõa tóc ở bên bờ suối và cặp tình nhân lạc loài nào đó sẽ nghe tiếng nàng thở dài... Tự nhiên, người con gái thấy lòng mình xúc động và nghe cay trên khóe mắt. Nàng còn yêu đời và chưa thực sự yêu ai... Trinh nữ ít khi bị chết vì họ còn trả nợ đời. Vả lại, có bao nhiêu người yêu nàng, nàng phải sống chứ!... Nàng tự trách mình sao khéo lãng mạn, suy nghĩ viển vông... Người trai lịch thiệp, con ông chủ hàng hiền lành đã biết địa chỉ của nàng và hứa sẽ đến nhà nàng một hôm nào đây. Hôm nào? Có nên hỏi rõ ngày không? Như thế nghe vô duyên lắm. Tự nhiên, nàng nghĩ có thể ngày kia nàng là vợ của người này... Không, anh ta dù sẽ hết sức tỏ tình, ta vẫn từ chối, ta không thể yêu ai hết, vì ta có một nỗi lòng u ẩn, xa xôi...
Nàng liếc qua người trai trẻ để xem nếu thế thì anh ta sẽ thất vọng ra sao. Anh chàng thấy người con gái im lặng triền miên nên đã quay nhìn ra phía bể khơi. Anh đang nghĩ đến một sự rủi ro. Có thể xe này rớt xuống biển sâu và mọi người sẽ chết hết, trừ một mình anh. Anh cũng thấy ngồi ở chỗ anh đây khó lòng mà tìm lối thoát. Biết đâu anh không kịp thời vọt ra khỏi cửa hẹp này? Biết đâu khi xe lăn lông lốc trên sườn non anh không bị rớt ra ngoài, bám kịp vào một ngọn cây? Biết đâu xuống dưới biển khơi anh không nín thở tìm cách bơi ra... Như thế, anh là một người đặc biệt, có một vận mệnh lạ lùng, một người như thế sau này có thể thành một vĩ nhân. Chắc sau tai nạn, báo chí sẽ in hình anh, sẽ nói đến anh như người có một bản lĩnh phi thường. Anh sẽ viết bài tường thuật những phút rùng rợn vừa qua, hoặc anh sẽ kể lại cho một đôi nhà báo, sau cùng nếu họ muốn hỏi cảm tưởng lúc đó, anh chỉ mỉm cười, làm như không để ý tới, rồi sẽ trả lời vắn tắt:
- Không có cảm tưởng gì lạ. Chỉ hơi ngạc nhiên ít phút ban đầu. Nhưng luôn hiểu rằng cần phải chiến đấu, vượt mọi hiểm nghèo để sống. Chỉ tiếc tai nạn xảy ra quá sức đột ngột, không cứu sống được ai hết.
Ý nghĩ sau này làm anh vừa kiêu hãnh vừa hơi buồn. Như thế, anh đành mang khối hận tình. Người con gái này chết đi sẽ làm cho anh đau khổ không bao giờ nguôi. Suốt đời anh quyết sẽ không lấy vợ, mặc dù bao nhiêu người đẹp yêu anh. Anh nghĩ: Có lẽ ta thành thi sĩ để khóc thường nàng. Đời sau sẽ nói: “Đó là một mối tình cao thượng nhất từ cổ chí kim”.
Anh chống tay ra ngoài lề cửa, chuẩn bị để đối phó với tai nạn. Bỗng anh mang máng thấy rằng từ xưa đến nay anh chưa tỏ ra cao thượng lần nào đối với phụ nữ, có thể cao thượng là điểm mà anh ghét nhất cũng nên. Vậy cô gái này có thể thoát khỏi tai nạn để cùng ta thành vợ chồng. Ta cứu được nàng chuyến này nàng sẽ lấy ta nhất định. Nàng sẽ yêu ta không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng e rằng có một lúc ta không còn yêu nàng nữa. Vóc nàng hơi gầy, nếu đẻ ít lần thế nào cũng phải tiêu điều nhan sắc. Biết đâu đẻ xong, nàng lại chẳng mập sồ sề? Anh lại loay hoay tự tạo ra những điều kiện thuận lợi trong óc đặng cứu sống nàng. Dù sao cũng phải cứu nàng, như thế nàng mới chung thủy với ta. Anh không hề nghĩ đến sự phải cứu người khác, kể cả cha anh, có lẽ vì ông ngồi xa anh quá.
Anh quay sang nhìn cô gái hết sức thương cảm. Nhưng anh bắt gặp cặp mắt người mẹ, cặp mắt có vẻ soi thấu gan ruột của anh. Khuôn mặt bà ta bỗng có đủ nét cương quyết của một người tướng giữ thành. Anh lại quay nhìn ra ngoài. Tự nhiên anh thấy yên lòng, bởi vì với một người mẹ như thế hẳn cô gái này chưa có dịp để yêu ai. Ta sẽ tạo nhiều dịp đến thăm nàng, sẽ coi mẹ nàng như là mẹ ta, hơn cả mẹ ta. Ý nghĩ sau này khiến anh tự thấy có đủ can đảm để nhìn mặt người đàn bà. Quả thực, cặp mắt bà ta đã dịu hơn trước. Đây là cặp mắt của một tâm hồn xao xuyến, vì hơn ai hết, người đàn bà này vẫn mang những nỗi thắc thỏm về sự rủi ro mà bà đã nghe nhắc đến ở trên đỉnh đèo. Bà thầm oán trách người tài xế kia đã không biết giữ mồm miệng trong khi đi đường. Nhưng câu nói của người thanh niên kia mới thực dại dột. Họ đều còn trẻ, ăn chưa no, lo chưa tới. Cũng như những người đi rừng không nên nhắc đến “ông thầy”, những người đi xe, đi thuyền không nên nhắc đến tai nạn. Đó là những điều đáng lẽ mẹ họ phải răn dạy họ từ khi còn nhỏ. Bà nhìn mọi người với vẻ ái ngại, nghĩ ngợi rất lâu về đứa con gái của bà... Nếu con gái bà chết đi, thì đời bà sẽ khổ lắm. Nhưng bà có sống sót không? A di đà Phật! Không nên nghĩ bậy như thế! Trăm năm mới có một lần. Bà thấy xe chạy mau quá. Lạy Trời, lạy Phật sao cho chuyến này đi được yên ổn. Trời Phật đã từng phù hộ bà nhiều lần rồi và bà chỉ cần cầu khẩn các ngài là qua mọi nỗi lo âu. Thỉnh thoảng bà cũng có đi lễ chùa, lòng thành của bà có lẽ động đến quỷ thần. Phúc phận nhà bà rất lớn, con bà ai cũng bảo sẽ có chồng sang trọng, bà sẽ có nhiều cháu ngoại đều là quý tử... Con gái bà kể cũng xinh đấy chứ? Rất xinh chứ lại. Nó phải cái tự nhiên quá, gặp ai cũng nói chuyện được, cũng làm quen được. Đó là kết quả của mấy năm học xa nhà. Nhưng đây là đứa con trai của ông chủ, ông này kể ra cũng giàu, cũng là người có ý tứ. Biết đâu chuyến này người ta sẽ không lấy tiền xe mẹ con bà? Cha con nhà này đã chẳng thuê trọn cả chuyến đấy ư?
Chiếc xe vồng lên, vấp phải ổ gà trên đường. Người mẹ giật mình đánh thót, buột miệng: “Mô Phật!” Chị đàn bà ngồi bên bật cười. Chị nheo mắt lại nhìn người đàn bà đang giương cặp mắt lo âu. Người đàn bà kêu lên: “Cho xe chạy chậm bớt lại, bác tài!”, bác tài có vẻ không nghe. Chị đàn bà ngồi bên nói bằng một giọng hiểu biết:
- Thôi đi, cụ ơi! Người ta lái xe đã bao nhiêu năm trên đường này rồi.
Và chị thấy người đàn bà quả thực buồn cười. Bà này có lẽ ít đi đâu xa, cũng là một thứ nhà quê. Chị đã từng đi bao nhiêu con đường hiểm nghèo gấp mấy đàng này mà nào chị có biết sợ là gì. Vận mạng của chị ở đâu, là sự tốt lành ở đó. Có chị là y như xe có được yên ổn hơn lên. Chị cũng như một thứ bùa khiến ma quỷ phải kiêng nể. Nhưng chỉ có lão Tư tài xế này chẳng biết kiêng nể gì mình. Hôm nào mình lên đến nơi nó cũng phá phách không ngủ yên được. Chị thoáng nghĩ đến một người khiến chị kiêng nể: đó là vợ của lão Tư, một người đàn bà mà chị thấy là xấu xí, lỗ mãng nhất đời, không bao giờ đi cùng một chuyến xe với chồng nhưng hình như luôn có mặt ở các phòng ngủ để theo dõi chồng. Chị lan man nhớ những đêm gặp gỡ đã qua với người tài xế. Không hiểu tại sao mình lại dễ dãi như thế? Đáng lẽ phải làm mặt nghiêm hơn nhiều. Đôi khi phải làm như không cần đến, phải kháng cự lại. Thỉnh thoảng phải giả vờ đau, đau đầu hay là đau bụng, để từ chối lúc ban đầu. Giả vờ đau đầu thì lịch sự hơn. Bỗng nhìn thấy người tài xế quay lại, chị trỏ bà ngồi bên cạnh và bảo: “Bà cụ bảo anh đi chậm lại đấy”.
Bà này có vẻ như không chú ý câu nói của chị. Bà thấy rõ ràng giữa mình và chị đàn bà ngồi sát bên mình có một khoảng cách rất xa. Người tài xế vẫn cho xe chạy hết tốc lực. Không khi nào xe anh lái mà có thể nguy hiểm được. Anh là tay lái sành sỏi, lành nghề. Một thời gian nữa, anh sẽ bỏ lái, anh sẽ mua xe, làm chủ, sẽ thuê tài xế. Anh thấy rằng trừ anh ra thì bọn tài xế bây giờ chẳng có mấy ai ra dáng. Sau này chắc có nhiều người đi xe vẫn còn nhắc đến tên anh khi qua những con đường dốc hiểm nghèo.
Anh nhìn bóng người tình nhân của anh phản chiếu ở nơi tấm gương trước mặt. Mắt anh dừng lại hơi lâu một chút ở nơi bộ ngực nở nang của người đàn bà. Nhưng rồi con đường bắt anh phải chăm chú vào tay lái. Anh điều khiển xe lượn quanh sườn núi, vượt qua những khúc cầu hẹp, rẽ ngoặt theo những con đường chữ chi một cách tài tình. Anh thấy trong sự điều khiển máy móc ngày nay, chỉ có lái xe ở những đường này là khó khăn nhất. Mình phải đến nơi cho sớm. Liệu có xuống sớm được không? Tối nay sẽ dắt con Sáu đi ăn tiệm nào?
Mảng núi sụp lở hiện ra bên đường. Người tài xế thấy đủ tự tin để cho xe bám nhanh theo triền dốc quanh co và ép sát theo đường vòng rất ngặt. Mọi người trong xe đều ngã hẳn về một phía. Người trai trẻ có dịp đè sát mặt mình vào đầu cô gái và anh ngửi thấy trong tóc mùi thơm nồng dịu. Anh cố nghĩ rằng đó là mùi da cô nàng...
Người phụ máy, khi xe đổ dốc, ngồi ở một chỗ phía sau ép mình vào đống hàng hóa và mở rộng cánh cửa sau để có thể duỗi thẳng chân chỗ bục lên xuống. Anh nhìn chiếc quần ka ki đã sờn hai gối và cả chiếc áo bê bết dầu máy, tự hỏi bao giờ mình mới được sống những ngày thong thả? Anh nghe ngóng tiếng máy chạy, nghe nhịp quay nhanh vùn vụt trên đường, cảm thấy đời mình quay lông lốc trong cuộc sống dồn dập xô bồ, mệt nhọc. Làn khói bụi tỏa sau xe cũng mờ mịt như tương lai của anh. Anh có cảm giác lờ mờ đời anh như một chiếc xe chạy cho đến ngày mòn mỏi, không biết nơi đâu là bến cuối cùng... Khi xe quanh ngặt anh bị ngã vẹo người qua một bên khiến anh cau mặt. Anh nghĩ không tội gì phải nôn nả trên những quãng đường vất vả thế này, khi chở hàng nhà không cần tranh khách với xe nào khác. Lúc đó, ở hàng ghế đầu, bác tài mỉm cười nhìn vào tấm gương trước mặt. Chị đàn bà cũng nhìn anh mỉm cười, mắt như ra dấu rằng người ngồi bên cạnh chị đang còn sợ hãi chưa yên. Anh thấy cần phải quay lại nói đùa một câu cho được lòng chị đàn bà:
- Cụ ơi, xe qua khỏi chỗ núi sụp rồi đấy. Bây giờ đã gần hết dốc. Chuẩn bị mà ăn cơm nhà.
Anh dận thêm ga, nhấn kèn, định cho xe vòng rộng ra con đường rồi bẻ quặt lại đột ngột để những kẻ yếu bóng vía có thêm đôi chút cảm tưởng về tài năng anh. Nhưng chiếc xe đã quá trớn, đầu xe húc vào một mô đá nhỏ ven đường, dội lại, hất mạnh mọi người vào thành ghế sau. Người phụ máy nhanh như cắt, nhảy vọt xuống đường, trong khi chiếc xe thẳng đà rượt tới, trườn xuống sườn núi cheo leo...
Người phụ máy bị té sấp xuống lề đường, chân xóc vào tảng đá nhọn. Vốn luôn tỉnh táo như đã thường xuyên chuẩn bị đối phó với những trường hợp bất trắc, anh chồm ngay dậy sau phút bàng hoàng choáng ngợp, chỉ kịp nghe vọng một tiếng rất xa. Anh thoáng nhìn thấy chiếc xe như hộp thiếc nhỏ lăn từ một mỏm đá lớn dưới núi xuống biển rồi mất tăm dạng. Giây phút hãi hùng qua mau như một lằn chớp khiến anh sững sờ, tê liệt hết cả cảm xúc. Khi cúi nhìn thấy máu chảy ròng từ chân mình, anh vội ngồi quỵ xuống một tảng đá bên cạnh. Thoáng trong giây phút, anh có cảm tưởng tảng đá ở dưới vực kia cũng bết máu đỏ như chỗ mặt nước khỏa bằng đã vùi giấu những mạng người trong chiếc xe kia.
5-1958
Mụ Tư Cò
Gia đình bà Bảy vào ở miếng đất khi nó còn là bãi hoang chen chúc đủ loài cây dại. Một người Hoa kiều mua để cải táng ngôi mộ tổ phụ, cần người coi mộ và coi miếng đất. Bà Bảy nhờ một người con lấy chồng Hoa kiều có mối liên hệ cách bảy tám đời với người chủ đất, giới thiệu để nhận cái nhiệm vụ đó. Quyền lợi được hưởng là nhà bà ở khỏi trả thuế đất hàng năm và gia đình bà có thể trồng trọt ở đấy để hưởng hoa lợi.
Một số gia đình sau đó đã được bà Bảy cho đến tạm trú. Trước nhà bà Bảy, dưới một bụi tre rậm rạp là vợ chồng của Tư Cò ẩn núp trong một mái tranh xiêu vẹo. Tư Cò sống bằng nghề xích lô đạp, là người nghèo nhất xóm này. Mái nhà của họ một bên gác lên thành mộ, một bên treo vào bụi tre nhưng thấp đến phải chui vào chứ không thể đứng hay khom người mà bước vào được. Đó là tiệm hút rẻ tiền cho nhiều dân nghiện trong xóm thừa cơ đêm tối lẻn vào kéo đỡ ít hơi cho đã cơn ghiền. Buổi sáng, khi lão Tư Cò chệnh choạng đẩy chiếc xích lô cũ kỹ ra ngõ thì mụ Tư Cò vẫn còn nằm ngay thẳng cẳng đến ngoài chín giờ mới dậy. Rồi mụ lảo đảo bước như người say, ra một tiệm nước đầu ngõ, dùng món bánh mì, xíu mại và cà phê sữa, rồi vừa xỉa răng quếch quác vừa lảo đảo về. Mụ gầy còm, hom hem, da trổ đồi mồi sủi lên từng về trông thật gớm ghiếc nhưng cái miệng mụ trong cơn giận dữ có một năng lực phi thường. Theo người lối xóm mụ hay tức giận và duyên cớ nào cũng làm mụ nổi sùng lên được. Có người hiểu lai lịch mụ cho biết trước kia mụ là con gái nhà giàu, xinh đẹp, thích chuyện ăn chơi đua đòi, lần lượt bị bọn Sở Khanh móc hết tiền của rồi bỏ bê, dẫn mụ đến cảnh đàng điếm khốn cùng. Lúc xuân sắc đã phai tàn, đeo cảnh nghiện ngập, phải đi xin ăn ở nơi bạn bè lối cũ, nhưng của bố thí đầy vẻ khinh bạc làm sao nuôi mụ cho được nhiều ngày! Một vài nhân tình ngày trước, khi mụ quay lại, có kẻ còn muốn khạc nhổ vào sự tàn phế của mụ. Nhưng cuộc chiến tranh Việt Pháp càng ngày càng bùng nổ mạnh, bọn Tây lê-dương kéo sang càng đông, mụ lại kiếm được thị trường, và từ sĩ quan tụt xuống binh lính, từ lớp da trắng chuyển sang da đen, mụ lại có rượu, có thuốc suốt trong mười năm dân tộc đổ máu, phơi xương để quét những nhân tình mụ về quê cha chúng. Khi tên lê-dương cuối cùng về nước thì mụ gá nghĩa với lão Tư Cò, một gã ma cô ngày xưa dắt mối cho mụ. Lão Tư Cò về ở nơi đây là nhờ người chồng bà Bảy đã ủng hộ ngầm để ông có chỗ lui tới hút xách cho tiện.
Tất nhiên bà Bảy không ưa mụ Tư. Cái cảnh chồng bà mỗi bữa chui vào trong cái chòi nát tối tăm ở dưới bụi tre trước nhà để nằm hút với một con điếm già không gây nơi bà chút ghen tức nào, nhưng làm cho bà nhờm gớm. Thà là nó nằm ở đâu khuất mắt. Nhưng đuổi mụ Tư ra khỏi sào huyệt của mụ là chuyện khó lòng. Bà Bảy, dù có thừa sự hỗn ẩu vẫn không sao đối địch lại với một con điếm có nanh, có sừng. Mỗi lần bà Bảy muốn chửi xa gần vài câu cho hả cơn giận là mụ Tư Cò chui ra khỏi lều và mụ phạch áo, vén quần, xông đến trước cửa nhà bà chửi lại bằng đủ danh từ tục tĩu nhất trần gian này và hỏi một cách sống sượng: “Tao có hiếp thằng chồng già mi đâu mà mi nổi ghen, hở con đĩ chó?” làm cho bà Bảy tức trào cả người run lên bần bật, mặt xám miệng câm, không sao có thể mở môi để nói nửa lời. Tiếng “con đĩ chó” ném vào cuộc đời thủy chung đầy rẫy khổ đau của bà nặng nề hơn chiếc búa tạ giáng xuống một ngọn cỏ non, và chỉ có sự chịu thua ở đây mới có ý nghĩa tồn tại cho một thanh danh.
Nhưng bà Bảy không phải là người có thể ẩn nhẫn nuốt nhục trước một người đàn bà khác, khi đó là kẻ bà coi dơ hơn dòi bọ. Nhờ sự buôn bán giao thiệp hay ngồi lê la trò chuyện đó đây bà biết được một địch thủ lợi hại của mụ Tư Cò, đó là mụ Bích. Mụ này cùng chung tiền kiếp với mụ Tư Cò, biết gốc gác mụ và đã từng làm chủ chứa qua nhiều chế độ. Trong cuộc cạnh tranh nghề nghiệp, mụ Bích đã có nhiều lần sai bọn em út đánh đòn hội chợ mụ này, đã từng buộc mụ hạ xuống nước nhỏ lạy xin mụ Bích tha cho mạng sống. Tây về nước rồi mụ Bích cũng lâm vào cảnh bơ vơ và không tiên liệu được nổi tình hình là Mỹ sẽ kéo qua đây nên mụ hối hả quơ gấp một người chăm sóc ngựa đua ở gần Phú Thọ để gởi nhờ cái xuân tàn, và để cho thằng Rờ Nê, con trai của mụ, có người cha hờ. Khi bà Bảy nghe tin mụ Bích sục sạo tìm chỗ đất rộng để cho Tám Béo, chồng mụ, mở mang chuồng ngựa, bà liền sốt sắng cho mụ dời về ở cạnh nhà mình. Mụ Bích hiển nhiên là một loại thần hộ mệnh cho bà và cái biện pháp “lấy độc trị độc” xem ra kết quả khá tốt. Vợ của Tư Cò như cúp đuôi trước uy thế mụ Bích. Mụ này tự biết mình cũng đã hết thời rồi nên không hống hách quá độ, cốt giữ cho cái uy thế tàn tạ khỏi bị sứt mẻ nhiều hơn.
Một buổi sáng nọ, nhiều người còn trong giấc ngủ thì ở nhà mụ Tư Cò chiếc xích lô đạp cũ kỹ chở một bó chiếu từ từ tiến ra. Không phải là lão Tư Cò ngồi đạp mà mụ Tư Cò đẩy xe một cách chậm chạp, vụng về.
Ông Sáu Lửa đi uống cà phê sớm trở về, mới bước vào ngõ thấy vậy kêu lên:
- Chở cái gì đó bà Tư?
Mụ Tư dừng lại, một tay chỉ vào bó chiếu, một tay quệt ngang đôi mắt, trả lời bằng giọng thiểu não:
- Ông Tư nhà tôi đó mà.
- Trời đất! Giả chết rồi sao?
- Dạ...
- Chết hồi nào vậy?
- Đâu hồi khuya nay. Đang ngủ tôi nghe tiếng nấc. Tôi dậy, không có đèn lửa tôi quơ tay qua phía ổng thì thấy ổng lạnh ngắt rồi. Tôi lay một hồi, ổng không cụ cựa. Rờ tay lên mũi thì nghe im xò. Hết thở.
- Giả đau cái gì?
- Hôm kia đi xe mắc mưa, về nhà cứ ho sù sụ, tối rên hư hử, kêu lạnh, sáng dậy không nổi. Nhưng đến nửa buổi thì phải đạp xe.
- Sao không biểu giả nằm nhà?
- Có biểu nhưng đâu có nghe. Lúc này ế lắm, đạp thấy mồ tổ mà chẳng có khách. Mấy lần định đi dinh điền nhưng tôi không chịu.
- Thì bán cái gì ăn đỡ, chớ đã cảm mạo mà còn xông pha ngoài nắng thì bứt ngay liền, chịu sao cho nổi?
- Còn gì mà bán được đâu. Ăn sạch, hút sạch cả rồi.
- Bây giờ đem chôn ở đâu?
- Bó sơ sơ lại đem lên nghĩa địa xin gởi ở trên nhà xác cái đã.

- Đâu được. Đừng có tưởng dễ. Ở Sài Gòn này sống không có tiền đã khó mà chết không tiền lại khó hơn. Mụ chở lôi thôi ngoài đường cảnh sát nắm cổ bỏ bót thì rầy rà lắm. Rồi lại khui xác lão ra, khám lên, khám xuống, còn tội cho lão thêm nữa.
- Chớ biết làm sao? Chẳng lẽ để ổng nằm thúi trong nhà?
- Đẩy lão trở về cho lão nằm đó một bữa nữa đi. Rồi báo cáo với liên gia, xong lên nghĩa địa Đô Thành xin đất thí trước. Đâu vô đó rồi mới chôn cất được. Chết mà không có giấy tờ thì để thúi rục thành dòi chớ ai cho chôn.
Mụ Tư đứng lên thở dài. Hóa ra thằng chồng của mụ tới chết mà còn rắc rối. Bây giờ mụ mệt rã rời, mà chuyện giấy tờ thì mụ không quen.
- Nhờ bác giúp hộ cho cháu. Cháu không biết liệu làm sao. Chẳng là ở đây cháu không có ai bà con, thân thích. Bây giờ thằng chồng của cháu nó không sống nữa, cháu nhờ...
- Đ... mẹ, cũng mệt đó nghe. Để coi thử nà!
Ông Sáu Lửa gãi sau ót, rồi nói về mình:
- Mẹ cha, thất nghiệp đã lâu, nay cái thằng Cọt Ti Ni ở dưới Khánh Hội gọi xuống không lẽ lại không lo đi... Thôi, ừ, để đó.
Rồi ông Sáu Lửa lôi cái mô bi lết cà tàng xành xạch chạy đi lo việc chôn cất lão Cò.
Cũng kể từ đó, mụ Tư lâm cảnh túng thiếu cùng cực. Có ngày không ăn được miếng cơm nào, mụ nằm ngủ mê mệt trong chòi nhỏ, đôi lúc tỉnh dậy bò ra ngồi ở gốc me trước nhà bà Bảy, đầu ngoẹo một bên, mồm chảy dãi ra, cặp mắt nhắm nghiền. Thỉnh thoảng một đôi dân hút chui rúc vào chòi với mụ, và mụ lại soạn bàn đèn dọc tẩu ra hầu hạ khách. Được bữa no nê, mụ lại tỉnh táo, phe phẩy đi ra ngoài đường, lượn một đôi vòng mới trở về nhà. Nhưng các khách ghiền dần dần xa mụ để tìm một địa điểm khác có lẽ vui hơn và ít tốn hơn. Mụ Cò mỗi ngày mỗi hốc hác thêm, da nổi sần sùi gớm ghiếc. Bây giờ mụ ngửa tay xin tất cả mọi người trong xóm và ai cũng muốn cho mụ một lần để có cái cớ về sau từ chối một cách quyết liệt.
Nằm lì ba ngày không có hột cơm trong ruột, mụ Cò bỗng nhớ lão chồng của mụ hồi sống có nói về những người bạn của lão bán máu ở dưới bệnh viện Đồn Đất. Một buổi sáng nọ, mụ gượng ngồi dậy thất thểu tìm xuống bệnh viện. Con đường không xa nhưng mụ đi gần nửa buổi mới đến vì phải ngồi nghỉ ở các gốc cây ven bờ đại lộ.
Dưới những cây me rợp bóng mụ thấy rải rác từng nhóm đôi ba người ngồi. Cũng có vài kẻ ngồi riêng một mình, ra chiều tư lự. Nhìn cái vẻ mặt khô rốc, áo quần xốc xếch của họ, mụ đoán họ là lớp người bán máu ở đây.
Mụ sán lại một thiếu phụ xanh xao, gợi chuyện làm quen:
- Này chẳng là tôi cứ đau rề rề, tôi muốn xin vào nhà thương nằm có được không hở chị?
Thiếu phụ nhìn mụ Tư Cò như nhìn một thứ quái vật rồi nói:
- Răng lại không được? Cứ hễ có tiền là vô, chớ răng không được?
- Nói chi có tiền. Tôi có cắc bạc nào đâu, nghèo chết đây mà.
- Vậy thì tìm nhà thương thí, chớ vô chỗ ni sao lọt. Đây là chỗ cho nhà giàu chữa bệnh. Ở đây đâu có chữa cho những bọn không tiền.
- Vậy hả? Tôi đâu có biết. Bây giờ khổ quá, thiệt đi hết nổi. Từ sáng đến giờ chưa có miếng nào trong bụng. Bà chị chờ ai đó vậy?
- Chờ khách.
- Ủa, buôn bán gì mà chờ khách?
- Tôi có hơn chi chị mô. Tụi tui ở ngoài miền Trung bị bắt đưa vô mấy sở dinh điền trên Ban Mê Thuột. Chồng con tui đều bị sốt rét rừng chết hết. Tui trốn mà đi xuống đây. Đói quá, có người bảo xuống tại đây bán máu. Chớ có vốn liếng chi đâu mà làm ăn chừ?
- Bán được chuyến nào chưa chị?
- Chưa, mới ngồi hôm qua bị cảnh sát đuổi chạy tới, chạy lui mấy lượt, chẳng thấy ai hỏi han đến. Đói xé ruột gan đây nè.
- Chị có nghe nói giá cả sao không?
- Cũng không nhứt định, vì còn tùy người. Nhưng có mấy chả ngồi ở đằng tê cũng chuyên bán máu để sống, các chả dặn là mỗi lít năm trăm. Đứa nào phá giá các chả đâm liền.
- Ôi, ai mà phá giá làm chi. Đồng nghiệp với nhau cả mà!
Bỗng người thiếu phụ kêu lên:
- Cảnh sát đó tề!
Hai người cảnh sát cưỡi mô bi lết từ xa đi tới. Đến gần cổng của bệnh viện cả hai dừng lại, dựa xe nơi lề rồi xách dùi cui lăm lăm tiến tới chỗ mấy người ngồi. Thiếu phụ bảo mụ Tư Cò:
- Đi xuống dưới tê. Không thì họ xúc đó bà!
- Xúc thì xúc chớ. Xúc thì nuôi cơm chớ sợ nỗi gì?
- Thôi đi, đừng có nghĩ rứa mà lầm. Mấy chả bị xúc nói nó nhốt đói gần chết mới thả, chớ có cơm nước chi mô. Có một thằng cha hôm kia nói có được ăn cơm dĩa một lần. Nhưng ăn xong rồi họ bắt trả tiền. Nó đâu có một cắc nào, bị đánh một trận quá chừng.
Thiếu phụ đứng lên, rẽ xuống con đường chạy thẳng trước cổng bệnh viện. Mấy người cảnh sát tiến đến các nhóm tụ tập, đưa dùi cui lên dọa dẫm:
- Ê, đi chỗ khác mau, cấm tụ tập trước bệnh viện.
Một người đàn ông có râu lún phún trả lời:
- Bọn tôi ngồi ở ngoài đàng chớ có tụ tập trước bệnh viện đâu?
- Mày còn bướng hả? Đi ngay!
Người kia đứng yên, hai tay chống nạnh, vẻ mặt gườm gườm nhìn viên cảnh sát.
- À! Thằng này chì ta. Được lắm.
Vừa nói người cảnh sát quất một cây dùi cui vào lưng của gã. Gã hét:
- Tại sao mà lại đánh tui?
- Tao bảo mày đi mà còn cứng đầu là tao đánh đó.
Vài người trong bọn của gã đi về hướng khác.
- Thôi mà, ở đó lý sự làm chi cho khổ.
- Cái đời dân chủ mà sao ngang ngược quá ta. Chẳng coi nhân vị [1] vào đâu hết cả.
- Lạy ông nội đi. Còn khuya mới có dân chủ. Lại còn nhân vị, nhân vẹo. Tránh đi cho rồi không lại khốn đốn bây giờ.
- Nhưng mình ngồi đây chớ mình có làm chi đâu.
- Biết vậy, nhưng họ đã không cho ngồi thì mình hãy đi. Lát nữa, họ không còn đứng ở đây thì mình lại đến, mất gì. Chỉ tại ba thằng viết báo làm hại tụi mình. Nó làm phóng sự điều tra chi đó, ở trên các chả hay ra nên bắt dẹp đuổi bọn mình.
Một người góp thêm:
- Cái bọn ký giả nhiều khi chúng bất nhân lắm.
- Đi mày.
Mấy người bạn gã kéo gã về hướng mà người thiếu phụ đã đi. Mụ Tư thừa lúc đôi bên sừng sộ đến ngồi sau một gốc me đủ lớn để che khuất mụ. Mụ đã đói lả, không còn hơi sức xê dịch nơi khác.
Mụ nghe một người cảnh sát gằn giọng:
- Đ... mẹ, mấy cái thằng này! Coi bộ ba đá lắm nghen.
Người kia lên tiếng:
- Được rồi. Mình xuống kia uống cà phê rồi quần trở lại. Hễ thấy tụi nó còn lảng vảng đây là cứ cho xe cây đến, xúc mẹ nó đi cho xong.
Tiếng xe hai người xa dần. Mụ Tư ló đầu ra xem. Con đường trở nên vắng vẻ hơn. Một vài người bán hàng rong chậm chạp đi qua. Chỗ xe nước mía gần đấy có mấy nữ sinh mặc đầm từ trong thư viện của Văn hóa Pháp bước ra ghé lại. Đôi chiếc xe nhà lặng lẽ quanh vào cổng chính của bệnh viện. Lá me lất phất theo cơn gió thổi rụng đầy mặt đường.
Mụ Tư chống vào gốc me ngồi dậy. Bây giờ chỉ còn có mụ độc quyền bán máu ở đây. Ít nhất cũng được mười phút hay nửa giờ. Mụ phải cấp tốc tranh thủ khách hàng. Nếu để chậm trễ, lát nữa mụ không sao giật được mối cho lại với đám ban nãy.
Mụ lọm khọm lại sát nơi cửa bệnh viện, dáo dác nhìn quanh. Chẳng thấy ai ra vẻ cần đến mụ. Bỗng mụ thấy một tắc xi chạy đến. Lại một con bệnh đi vào nhà thương.
Nhưng xe ngừng lại gần mụ. Một người đàn ông gầy gò trạc bốn mươi tuổi bước ra, và một người nữa trẻ hơn, gầy gò không kém, ra theo. Chiếc xe chạy đi, cả hai đứng trên lề đường hút thuốc.
Người lớn tuổi hơn quay sang người kia:
- Thôi, anh cứ tìm mua một ít, nửa lít càng tốt. Tôi thì... thôi vậy.
Người trẻ tuổi hơn đáp lại:
- Việc gì mà anh cứ ngại. Tôi có đủ tiền đây mà.
- Không phải về chuyện tiền nong. Tôi có nói chuyện với anh hồi nãy rồi đó. Chỉ ngại...
- Mình có uống máu đồng bào đâu mà anh sợ. Mình cũng không ép buộc họ lấy máu, hay cắt cổ họ. Mình mua đàng hoàng. Họ giúp mình mà mình cũng giúp cho họ. Nếu không thì họ cũng phải tìm bán cho một kẻ khác.
- Thà là họ bán cho những kẻ khác. Nhưng dù mua bán sòng phẳng chăng nữa mà lấy máu người khốn khổ cho vào cơ thể của mình coi nó bất nhẫn làm sao.
- Vậy cứ để họ và mình cùng chết mà chẳng ích gì cho ai được cả. Có lẽ anh cố chấp quá.
Người lớn tuổi hơn nín lặng, không trả lời lại.
Người kia bước tới ít bước, ra dáng tìm tòi.
- Lạ quá, mấy hôm người ta ngồi đông lắm mà. Sao hôm nay vắng vẻ thế?
Mụ Tư ra khỏi gốc cây tiến tới:
- Thưa ông...
- Bà hỏi cái gì?
- Tôi bán máu.
- Trời ơi, gầy nhom như bà...
- Tôi gầy vậy chớ dư máu nhiều lắm. Chính ông bác sĩ bảo thế.
- Thật à?
- Tôi không dối đâu. Tôi cần bán lắm. Nếu không bán được thì tôi sẽ chết.
Người đàn ông trẻ nhìn mụ Tư Cò với chút thương hại pha lẫn nhờm gớm. Rồi quay về phía người lớn tuổi hơn:
- Anh nghĩ thế nào?
- Anh cứ mua đi. Tôi sẽ chạy chữa cách khác.
Người kia quay về phía người đàn bà đang lấm lét nhìn về các ngả đường sợ lớp đồng nghiệp kéo lại đoạt mất mối hàng.
- Tôi ngại là bà ít máu quá đi.
- Trời! Tôi cam đoan mà. Muốn mua bao nhiêu cũng được, đừng ngại.
- Tôi chỉ cần độ nửa lít mà thôi.
- Vậy thì dư xài, khỏi lo. Một lít tôi cũng có đủ, nói gì nửa lít.
- Bà tính bao nhiêu?
- Thầy cho ba trăm. Thầy coi, ba trăm chưa ăn được một tuần lễ. Có nhiều nhặn gì đâu thầy?
- Ừ, thì ba trăm.
- Thầy bao luôn xe nghe thầy?
- Tôi đưa bà lên Chợ Rẫy nhưng chuyến về thì tùy bà.
- Được rồi. Thầy kêu tắc xi kia kìa. Ê! Tắc xi!
Chiếc xe dừng lại. Người đàn bà lên phía trước, hai người đàn ông phía sau:
- Cho chúng tôi lên Chợ Rẫy.
Chiếc xe khởi chạy, đến ngã tư Hồng Thập Tự và Công Lý, người lớn tuổi nói:
- Cho tôi xuống đây.
Xe dừng lại.
- Thôi anh đi nhé. Tôi xin về trước.
Hai người bắt tay rồi xe lại chạy. Mụ Tư thấy đói và mệt. Gần tới Chợ Lớn thì mụ đã ngủ thiếp rồi, ngả người ra cái băng xe, đầu ngoẹo một bên.
- Xuống đi bà ơi!
Người tài xế gọi làm mụ giật mình, xô cửa bước ra. Người đàn ông chờ bên đường.
Cả hai đi vào trong cổng, theo lối đi rộng ở giữa, thẳng vào bên trong bệnh viện. Bóng cây che rợp, mát mẻ, mụ Tư nhớ lại một thời xa xưa mụ đã có lần đi dạo như thế với gã tình nhân khi mụ dưỡng bệnh ở đây.
Theo bảng chỉ dẫn, hai người rẽ vào tay mặt, đến một dãy nhà hơi thấp nằm ở cuối khu. Người đàn ông bảo mụ Tư Cò đứng ở ngoài rồi gã xô tấm cửa ngăn vào trong.
Một lát mụ Tư được gã gọi vào.
Ở ngay giữa phòng có chiếc bàn nhỏ, một người có tuổi mặc bờ lu trắng, đầu chụp mũ vải màu trắng đang ngồi sục sạo trong đống ống chích. Sau lưng người này có một cái kệ sắp đầy những lọ màu đỏ chắc là chứa các loại máu. Bên trái và bên phải, là những tủ lớn đóng kín không biết chứa chấp những gì ở trong. Một mùi nồng nồng, hăng hắc bốc tỏa đây đó khiến mụ Tư Cò nhớ các vết thương, các mụt ghẻ lở. Bỗng mụ cảm thấy lợm giọng, buồn nôn. Từ sáng mụ chưa có chút gì bỏ bụng.
Nhưng vừa lúc ấy, cửa phòng sịch mở. Một đàn bà béo, son phấn lòe loẹt dìu một đàn ông to bự, ăn mặc sang trọng, ì à, ì ạch đi vào. Sau lưng có một cô gái khá xinh, mặc đầm, đưa cánh tay ra đỡ hờ người đàn ông này đang thở mệt nhọc.
Người mặc bờ lu ngừng tay sục sạo ống chích, ngước lên cung kính:
- Chào cụ.
- Không dám, chào ông, nhà tôi lại mệt quá rồi.
Người mặc bờ lu hối hả kéo ghế:
- Xin mời cụ ngồi. Ấy, để cụ dựa vào ghế này. Mời cụ bà và cô ngồi.
Ông ta kéo ghế sột sột, mấy lần tưởng xô ngã mụ Tư Cò để có chỗ rộng đặt ghế cho ba người kia.
- Lại tăng huyết áp cao độ. Cụ mệt là phải. Để tôi sẽ lấy bớt ra. Tôi lấy bây giờ.
Người đàn ông to mập với hai má sệ, cổ bạnh, bụng lớn tay chân béo ụ đang thờ phì phì. Da thịt ông ta đỏ tươi, tưởng chỉ bấm nhẹ là máu sẽ vọt ra ngay. Cả người đàn ông toát ra một sự no nứt dồn tụ tất cả những gì màu mỡ béo tốt.
Người đàn bà son phấn hẳn là vợ ông ta, nói bằng một giọng kéo dài:
- Ông xem, mới có năm ngày thôi đấy. Mấy lúc phải là nửa tháng hay cũng mười ngày.
Người mặc bờ lu vội vã tiếp lời:
- Dạ vâng, chuyến này huyết áp tăng mau chắc là cụ nhà dùng nhiều đồ bổ dưỡng quá. Tôi đã thưa với cụ bà...
- Ồ, ông ấy đã bớt cả thịt lẫn rượu kia đấy. Ông liệu cho lấy máu đi kẻo nhà tôi mệt.
- Vâng, vâng, kể ra cụ đã làm ơn cho nhiều người lắm, không có những người như là cụ đây làm sao mà có đủ máu cung cấp cho biết bao nhiêu người bệnh. Mỗi tháng riêng mỗi mình cụ đã cho bệnh viện trên ba lít máu. Kể ra, đó cũng là một hy sinh.
Rồi quay lại phía mụ Tư và người đàn ông đã đưa mụ đến:
- Các người ra ngoài chờ một lát nghe. Việc của cụ đây gấp lắm không thể trì hoãn.
Người đàn ông lặng lẽ đi ra phía cửa, vẻ mặt lầm lì cố nén một sự khó chịu. Mụ Tư cũng bước theo sau. Ra ngoài, mụ nghe dễ thở hơn nhiều nhưng quá mệt mỏi vì cơn đói dài khiến mụ ngồi quỵ xuống dưới mặt thềm.
Một lát khá lâu, cánh cửa sịch mở, người đàn bà và cô gái dìu người đàn ông to béo ra chiếc xe hơi Huê Kỳ đậu sát mé hiên. Cả ba lên xe một cách nặng nhọc. Cánh cửa đóng lại và người tài xế chực sẵn nổ máy cho lướt đi trên con đường đá cuội mát mẻ.
Mụ Tư ngước mắt nhìn theo cho đến khi chiếc xe kia mất hút sau mấy dãy nhà. Nhưng người đàn ông đã vẫy bàn tay ngoắt mụ rồi đẩy cửa bước vào trong.
Người nhân viên bây giờ mới nhìn mụ Tư, có vẻ bây giờ mới thấy rõ mụ:
- Ốm quá, làm gì có máu.
Mụ Tư nài nỉ:
- Tôi chỉ bán có nửa lít thôi mà.
- Đâu được. May lắm là bà cho lấy độ phần tư lít.
- Ông cứ rút thêm. Tôi chịu được mà.
- Chúng tôi biết việc mà chúng tôi làm. Bà đừng có cãi.
Mụ quay sang người đàn ông để dò xem ý của gã:
- Thầy tính làm sao?
Gã đáp:
- Thì được bao nhiêu cũng tốt. Chờ sốt ruột quá.
Mụ chìa tay về phía người nhân viên:
- Thôi thì ông cứ lấy đi.
Người nhân viên hất hàm ra dấu cho mụ xăn tay áo lên, vẻ mặt anh ta có vẻ nhờm gớm về những cáu ghét đóng đen trên lớp vải đã cũ nhàu. Bàn tay run rẩy, lật bật, mụ lôi ngược tay áo lên một cách chậm chạp.
- Mau lên.
Người nhân viên giục, lộ vẻ sốt ruột.
Mụ Tư chìa cái cánh tay khẳng khiu, lớp da mốc cợi lộ rõ những đường gân xanh. Rồi mụ quay đầu nhìn về nơi khác để khỏi trông thấy mũi kim đâm vào. Khi nghe đau nhói, mụ cau mặt lại, rồi nhắm đôi mắt tưởng như tất cả sự sống ở trong người mụ cuồn cuộn thoát ra từng luồng.
Mồ hôi của mụ chảy giọt xuống từ hai bên thái dương. Mụ nghe như người teo lại, nhẹ đi, tim đập liên hồi, không biết bao lâu nhưng mụ cảm thấy dài dặc, nặng nề bứt rứt khó chịu.
Tiếng người nhân viên:
- Xong rồi.
Mụ quay đầu lại nặng nhọc, đưa mắt lờ đờ nhìn bình máu đang được người nhân viên đưa lên.
Người này nói:
- Một phần tư lít. Độ một xị thôi.
Mụ nói bằng giọng yếu ớt:
- Ông lấy ở tay bên kia thêm một xị nữa. Tôi muốn bán chừng nửa lít.
Người nhân viên cười:
- Tay nào cũng là máu của bà cả, cũng lấy từ trong người bà. Lấy nhiều chịu không nổi đâu.
Người đàn ông đưa mụ tới, lộ vẻ phàn nàn:
- Chà, ít quá! Ông có thể nhường cho tôi nhiều hơn cái số ấy không?
Người nhân viên lắc đầu:
- Nhường cách nào được? Số máu dự trữ ở đây bắt đầu khan hiếm. Người ta đã đánh đá nhau dữ dội khắp các miền quê, máu không đủ cung ứng cho bệnh viện. Ông hãy bằng lòng bấy nhiêu. Rồi sau sẽ tìm người khác mua thêm.
Rồi người nhân viên lật cái toa của người ấy ra xem, tiến lại chiếc tủ, mở lấy một chai máu nhỏ đưa ra.
- Đây, phần máu của ông. Loại A.
- Xin cám ơn.
- Ông để cho tôi làm các giấy tờ.
Người nhân viên ngồi bàn hí hoáy ghi vào một đống sổ sách và trên nhiều mảnh giấy rời. Đoạn trao cho người đàn ông:
- Xong rồi, ông có thể về.
Mụ Tư vịn ghế đứng lên, cúi lượm chiếc nón đặt ở góc phòng, lặng lẽ theo người đàn ông ra ngoài. Mụ thấy mệt mỏi choáng váng, và bỗng căm giận người nhân viên nọ nên không muốn chào.
Ra ngoài, người đàn ông kia dừng lại, đặt cái bình máu xuống thềm và móc ví ra:
- Tưởng là nhiều nhặn, nào dè ít quá, thật là mất công. Đây, tôi trả tiền. Bao nhiêu vậy hả?
- Ông cứ tính đi.
- Chỉ có một xị, vậy là một trăm.
- Một lít sáu trăm kia mà.
- Năm trăm là hết giá rồi. Vậy một phần tư là một trăm hai mươi lăm đồng. Tôi trả tiền. Tôi trả thêm năm đồng nữa cho bà đi xe.
Mụ không trả lời, uể oải ngồi xuống bậc thềm, lưng dựa vào cây trụ vôi, cảm thấy buồn ngủ. Người đàn ông chìa tiền trước mặt mụ. Một lát mụ mới nhìn thấy. Cái gì trông cũng lờ mờ không có góc cạnh gì hết.
Mụ đưa tay cầm số bạc, nắm lại thật chặt và khi mụ chống hai tay vào cây trụ vôi đứng dậy trên hai đầu gối run run thì người đàn ông đã cầm chai máu đi khá xa rồi.
Mụ Tư Cò nhét tiền vào túi, cẩn thận đậy lên trên một lớp khăn, rồi mới lê bước ra ngõ. Tới đường nhìn lớp người qua kẻ lại, xe cộ nhộn nhịp, mụ thấy bớt được mệt mỏi. Nghĩ mình đã có tiền trăm trong túi, mụ cũng vui vui.
Mụ đi lại trạm xe buýt, đứng chờ. Bây giờ ruột đói cồn cào, chịu đã hết nổi. Phải ăn cái gì cho khỏe rồi mới về nhà. Mụ Tư toan lê bước vào một quán hủ tiếu ở ngã ba đường nhưng lại cảm thấy xây xẩm phải vịn vào một cột đèn gần đấy. Tiếng ồn mỗi lúc một tăng báo hiệu chiếc xe đã dừng chỗ trạm. Mụ cố mở mắt nhưng mở không nổi. Trong nỗi mệt mỏi mụ bỗng hốt hoảng ngỡ mình đã hóa đui mù. Nhưng chính là sự tê liệt do đói, do mệt, do sự căng thẳng vừa qua gây nên. Mãi một lúc sau mụ mới hé được đôi mắt. Người ta chập chờn lên xuống, tiếng nói tiếng cười ồn ào. Mụ lết về phía tiếng động, miệng kêu:
- Cho đi... cho tôi đi với.
Mụ nghe có người nắm mạnh cánh tay của mụ kéo lên. Rồi mụ bị đẩy vào một đám đông gồm đủ loại người đang chen chúc đứng, bấu tay lên các thanh sắt chạy ngang trên đầu. Tiếng xúp lê thổi. Xe rồ máy chạy. Những cái thân người va đập vào nhau. Một đôi tiếng hét, một vài tiếng cười. Rồi tiếng khàn khàn của người bán vé vang lên.
Hơi người nồng nặc càng làm mụ Tư xây xẩm. Một lát, mụ nhớ là tiền của mụ đang ở trong cái túi áo bà ba. Ở trên xe buýt không thiếu những bọn móc túi. Hoảng hốt, mụ Tư đưa bàn tay xuống sờ nắn túi áo. Mấy tờ giấy bạc cuộn lại còn nằm nguyên đấy, ép sát dưới lớp mùi xoa chôn kỹ bên trên. Một chút vui mừng thoáng dậy trong đầu. Mụ giữ nguyên cái bàn tay bóp chặt mấy tờ giấy bạc, cảm thấy vững tâm hơn bao giờ hết. Mụ có thể sống cả tuần với số tiền này rồi sẽ tìm kiếm kế khác để xoay xở nữa.
- Tới rồi! Chợ Sài Gòn đây bà con!
Người bán vé chỏi miệng la trong lúc xe từ từ vòng bùng binh và đỗ hẳn lại. Người ta ùn nhau, lục đục bước xuống.
Mụ Tư bị lớp người ở phía sau xô đẩy và mụ cố gượng lại rất khó nhọc để khỏi ngã nhào về trước. Nhiều lần mụ chửi:
- Quỷ hà! Làm gì mà cứ thúc đại vào mông con người ta thế.
Nhưng mụ bỗng nhớ là mụ đã già, đã cằn cỗi rồi, và quá xơ xác tiêu điều như một bóng ma giữa cái sinh hoạt luôn luôn cuồng nhiệt của Sài Gòn này.
Xuống được dưới đất mụ phải ngừng lại để thở, rồi lết lại nơi nhà trạm ngồi nghỉ, chờ đợi chuyến xe Hòa Hưng mới về tới bến.
Lại cái quang cảnh nhả vội người ra, nuốt vội người vào. Mặt trời đã lên đỉnh đầu, ánh nắng chói chang, không khí hừng hực sức lửa trong cái toa xe như một lồng nhốt chật hẹp phơi giữa nắng trưa.
- Chạy thôi bác tài!
- Trời nóng thấy mồ, chạy đi.
- Đông nghẹt rồi mà. Chờ cái gì nữa!
Người tài xế xếp một cánh tay trên vô lăng, một tay cầm cái mũ kết quạt quạt, mong kiếm một chút hơi mát bé nhỏ phất lên da mặt. Nhưng ông ta cũng mệt mỏi, đờ đẫn, không buồn trả lời mọi người.
Cuối cùng xe cũng chuyển bánh. Mụ Tư đã lên tìm được chỗ ngồi, bây giờ có thể dựa ngửa ra sau, cặp mắt lim dim nghe sự di chuyển đưa đẩy mình về một cõi lơ mơ, chập chờn. Không biết bao lâu, mụ đã ngủ thiếp, rồi lạc vào trong thế giới đầy những ma quái và những xô xát kinh hoàng.
- Hòa Hưng!
Tiếng người bán vé hét lên.
- Tới Hòa Hưng rồi, bà con. Hòa Hưng đây...!
Mụ Tư choàng mắt với nỗi nặng nhọc như cũ. Khi mụ tỉnh người hành khách xuống xe đã hết. Đây là trạm cuối, người ta sắp sửa quay đầu.
Người lơ la lên:
- Xuống đi chớ bà!
Mụ Tư càu nhàu:
- Chớ ai thèm ở lại đây làm gì.
Mụ đưa tay nắn lại tiền, yên tâm là nó vẫn còn. Mụ lại lạch bạch đi về ngã rẽ con đường vô xóm. Sự mệt làm cho cơn đói êm đi nhưng nó biến thành một nỗi rã rời khắp cả châu thân. Mấy lần mụ muốn tạt vào một tiệm hủ tiếu hoặc một tiệm cơm nhưng dằn lòng được. Đã về tới đây, tội gì mà chui vào đó. Ráng một chút nữa tới quán Hai Xỏn hãy ăn. Ăn ở đầu ngõ có lợi: cho bà con ở lối xóm biết mình có tiền. Sau đó thanh toán sòng phẳng với lão Hai Xỏn là cái cơ hội để có thể ăn chịu được về sau vào lúc thiếu hụt.
Mụ Tư tới quán Hai Xỏn thì hai đầu gối gần rụng. Nhìn quanh mụ lấy làm tiếc vì lúc xế trưa, quán chẳng có người, chỉ có mỗi mình chủ quán đang ngồi ngủ gục trên cái ghế gỗ. Nếu có người ta ra vào tấp nập, mụ Tư ăn uống sẽ ngon hơn nhiều.
- Cho tô hủ tiếu, ông Hai.
Hai Xỏn mở to cặp mắt, nhưng vừa thấy mụ lại sụp mí xuống.
- Cho lẹ lên đi, đói bụng quá rồi.
Hai Xỏn lại mở mắt nhìn lần nữa, giọng mụ Cò nghe hách quá. Ở Sài Gòn này khi đã đổi giọng là tất có chuyện. Cái mụ đói rách, ăn chịu, ăn thiếu lâu nay bây giờ hẳn đã có tiền rồi chắc? Nhưng mụ làm gì mà có tiền được? Nhan sắc không còn, làm đĩ ai thèm? Sức khỏe không có, ăn trộm đâu nổi? Vậy mụ có tiền thật không? Đó là chuyện đáng dè dặt.
Mụ Tư Cò chừng hiểu ý:
- Có tiền đây mà, không ai thèm ăn chịu đâu.
Nói xong mụ vỗ bạch bạch lên cái túi tiền của mụ. Ông Hai Xỏn vẫn nghi ngờ. Biết đâu là giấy nhật trình chứ tiền bạc gì.
Mụ Cò lôi cái khăn ra một cách thận trọng và kéo từng tờ giấy bạc vuốt lại thẳng thắn trên cái đùi vế gầy lép. Đó là một cách trả lời gián tiếp mối ngờ vực của Hai Xỏn. Mụ ủi giấy bạc bằng da tay khá chậm chạp và làm cho ông chủ quán không sao biết được là mụ hiện có bao nhiêu, nhưng nhất định phải có nhiều. Hai Xỏn ngạc nhiên:
- Giàu có dữ ta!
- Xì! Giàu gì mà giàu. Có mấy trăm bạc mà đủ thiếu gì.
- Nhét đầy hai túi mà có mấy trăm!
- Giấy lộn trong đó, ông ơi!
- Giấy lộn đó liệng ra khối người lượm.
- Nè, cho người ta ăn đi chớ cứ đứng nói hoài kỳ hông? Có tiền đây mà.
Hai Xỏn đứng dậy, kéo dép lệt bệt lại chỗ bếp lửa. Ông ta quơ cái vá lớn hốt bánh bỏ vào rồi thọc vào thùng nước sôi để nhúng cho mềm. Mụ Cò đã cất hết tiền vô túi ngồi nhìn chăm chăm vào các động tác ông Xỏn mà thấy lâu lắc quá chừng.
- Ông nội này làm hủ tiếu còn chậm hơn rùa.
Hai Xỏn nhăn răng coi bộ như cười nhưng không thành tiếng.
- Đó, ăn đi.
Ông ta đặt mạnh cái tô xuống trước mụ Cò, rồi gác ngang lên đôi đũa đã được nhúng vào nước sôi trước đó.

Mụ Tư như con mèo đói vồ mồi, chợp tô hủ tiếu kéo sát vào mình rồi cúi đầu xuống ngoáy đũa lia lịa lùa vào trong cái cổ họng mở rộng. Vừa thổi sì sụp vừa húp, vừa nhai lỏng chỏng, vừa nuốt ừng ực, mụ đẩy một hơi hết liền nửa tô. Mụ ngẩng đầu lên, trán ửng mồ hôi, nước mắt giàn giụa vì miếng ớt cay, đưa cái cánh tay dơ hầy quệt ngang dưới mũi vừa hít nước mũi rồn rột, mụ nói:
- Cho một xị đế, ông Hai. Rồi làm tiếp một tô nữa.
- Được rồi. Bữa nay tụi em tui ở Cần Giuộc có đem lên loại đế này, uống đã hết sức. Lâu lâu, say một bữa cho tới chứ.
Mụ Cò lại cúi xuống bát hủ tiếu. Nước mắt nước mũi lại túa dài ra. Đũa mụ ngoáy lia ngoáy lịa mấy vòng, tô hủ tiếu đã sạch quẹt chỉ còn lỏng bỏng một ít nước cặn. Mụ bỏ đũa xuống mặt bàn, bưng cái tô lên húp một tiếng sột rất mau, không hiểu là tiếng húp nước hủ tiếu hay húp nước mũi.
- Nhậu lần, rồi tôi làm tiếp.
Mụ Tư Cò đổ ồng ộc ra ly rồi đưa lên nốc. Cơ thể của mụ như một khoảng trống đang cần thu hút tất cả những gì có thể thu vào. Cái đói thật cồn cào, cái khát cũng quá vồ vập, tưởng như ăn vào bao nhiêu, uống vào bao nhiêu cũng không sao thỏa mãn được.
Bây giờ mụ uống đến ly thứ ba. Phải say một bữa cho đảo đất trời rồi về ngủ cho đã đời đến tận sáng mai. Từ trước đến nay mụ vẫn nhậu rượu nhưng uống rất ít, mỗi lần cao hứng làm hai phần ly, hoặc đến nửa ly là cùng. Uống xong ba ly mụ thấy choáng váng. Xị đế còn chừng một ly nữa là cạn sạch. Tô hủ tiếu đã làm xong. Hai Xỏn bưng lại, đặt trước mặt mụ và nói:
- Coi bộ nước nhậu bà Tư cũng tươi quá mà.
Mụ không trả lời, cúi xuống ngoáy đũa.
- Chà! Ăn nhậu ngon lành quá ta!
Hai Xỏn ngó ra thấy thằng Rờ Nê đứng dán ngoài cửa ngó vào. Thằng Nê - người ta quen bỏ bớt cái chữ Rờ - con của mụ Bích, bây giờ đã lớn nhiều lần Tám Béo muốn cho nó nghỉ nghề nài [2]. Mụ Cò ngẩng lên, thấy nó lờ mờ qua cặp mắt đã đỏ ngầu vì rượu. Mụ vừa nhồm nhoàm nhai ngốn vừa hỏi:
- Nê đó hả mậy?
- Ừ, tui đây bà Tư. Coi cái mặt bà đỏ khiếp.
- Mới... uống có mấy... ly nhỏ... Uống rượu không mày?
- Thôi đi, đừng có xúi dại. Ai mà biết rượu chè đâu.
- Mày hiền quá mà!
Mụ nhai ngấu nhai nghiến. Hai Xỏn vừa đốt điếu thuốc vừa hỏi:
- Ăn thêm nữa không?
Mụ đáp không ngẩng đầu lên:
- Cho một tô nữa.
Thằng Nê nhăn hàm răng cười:
- Ăn mấy tô rồi bà Tư?
- Mới có hai mà.
- Nhiều tiền dữ ta!
Hai Xỏn nói vào:
- Chà, hôm nay thì bả “cổ tại” [3].
Thằng Nê nheo mắt:
- Nhiều không?
Hai Xỏn chỉ tay vào túi, gật gật đáp lại:
- Nhiều mà.
Mụ Tư đã ăn xong tô hủ tiếu thứ ba, thấy trong người bớt trống rỗng và nghe bị đốt rần lên bởi cái chất rượu hăng nóng lạ thường. Mụ rót phần rượu còn lại ra ly nhắm mắt nốc cạn. Đầu mụ choáng váng, mụ tưởng mình đang quay như chong chóng.
- Bao nhiêu...?
Mụ líu cả lưỡi và hỏi như đang mê ngủ.
- Ba tô hủ tiếu là mười lăm đồng. Xị đế năm đồng là hai chục.
Mụ lật đật giở chiếc khăn, lôi mấy tờ giấy bạc. Có ba chục lẻ, đi xe hai chặng mất ba đồng rồi, vậy còn hai mươi bảy đồng cả thảy. Trả đi hai chục còn đúng một trăm lẻ bảy.
- Cho bảy đồng thuốc bao xanh.
Mụ lôi tất cả số lẻ đặt hết lên bàn. Như vậy còn chẵn một trăm. Mụ hơi lo lắng về sự tiêu pha quá trớn của mình. Một trăm sẽ đảm bảo mụ sống được mấy ngày trong khoản tiền bạc khan hiếm, sinh hoạt trở nên quá đỗi khó khăn?
Mụ Cò loạng choạng đứng dậy, đưa tay run run vịn vào chiếc bàn gần đấy, bước ra phía cửa. Cặp mắt của mụ nhìn thấy mọi vật chập chờn. Bây giờ hình như có đến ba, bốn thằng Nê đang đứng trước mặt.
- Tổ sư mày, Nê... để cho bà đi.
Tiếng thằng Nê nghe xa vời:
- Ơ hay, bà chửi ai đó? Đường bà, bà đi, đứa nào cản trở bà đâu.
- Tao nói... tao nói... Tiên sư cha chúng...
Mặt mụ đỏ như là mặt trời mọc. Cặp mắt mụ mở trợn trừng, môi mụ lắp bắp run run, lưỡi mụ líu lại.
Trời vẫn còn trưa, nắng gắt, không một tí gió. Oi nồng bao phủ khắp nơi. Mụ Cò loạng choạng bước ra ngoài đường, tưởng như mình đi giữa một lò lửa. Hơi nóng của rượu trong người xông lên hừng hực.
- Tiên sư cha chúng... cứ tưởng là bà không tiền...
Mụ lại chửi rủa líu tíu trong họng, loạng choạng bước tới nghe như có tiếng người ở đâu đó xì xồ.
- Tiên sư cha chúng...
Rồi mụ vấp vào cục đá, nhào tới, hai tay quơ đùa không khí rối loạn, cái thân xác mụ nằm lăn kềnh trên mặt đường. Trong cơn lơ mơ mụ nghe có tiếng chân bước rón rén, tiếng người thì thầm quanh quẩn. Rồi mụ chìm trong cơn mê. Mụ thở nặng nề, miệng nói lảm nhảm.
Không biết mụ nằm bao lâu rồi lại lơ mơ tỉnh giấc, ngơ ngác nhìn quanh. Đầu óc vần vù nhức nhối, hai vai ê ẩm, cả người mệt mỏi, mồ hôi ướt đẫm, mụ hé mắt ra đã vội nhắm lại. Ánh sáng chói chang đổ xuống từng luồng.
Mụ cố chống tay khó nhọc, ngồi dậy. Từ ruột nghe quặn từng cơn, cổ họng buồn nôn. Mụ toan đứng lên nhưng phải ngồi xuống ôm ngực mửa thốc ra cả mặt đường. Hủ tiếu và rượu quện lại trong chất nước vàng sền sệt.
Mụ ngồi ọc mửa một lát mới thấy tỉnh táo phần nào; nhưng ruột quặn thắt và ngực tức ran.
Nhìn đống đồ ăn vãi ra ngoài đất, mụ tiếc quá chừng. Ba tô hủ tiếu mửa sạch, một xị đế cũng tiêu luôn. Cơn đói dai dẳng không dung nạp kịp một lần bao nhiêu món đồ khó chịu dồn vào trong cái dạ dày yếu đuối.
Bây giờ thì phải cố gắng lết về. Mụ gượng chống tay, đứng dậy, thấy cái khăn tay thòi lòi ở ngoài túi áo. Chợt tỉnh, mụ kéo vội nó ra ngoài thọc mấy ngón tay run rẩy vào trong. Không có gì hết.
Trời ơi, mụ Cò giũ mạnh chiếc khăn, trợn mắt dớn dác nhìn quanh. Mặt đất khô cằn, đây đó điểm những lá khô, bã mía, tàn thuốc, những que tre nhỏ để ghim các miếng cà rem.
Không có một tờ bạc nào, không có gì hết. Mụ lùa cả hai bàn tay vào hai túi áo trống rỗng, sục sạo một cách tuyệt vọng, rồi rờ rẫm khắp mình mẩy tưởng như còn sót đâu đó một chỗ chưa mò tìm tới.
Rồi mụ ngẩn người, mắt đờ đẫn nhìn chung quanh. Đoạn mụ đứng im, không thấy gì nữa. Và mụ òa lên, khóc rống như một đứa bé bị đòn oan ức.
Mụ Cò khóc lớn một hồi rồi bắt đầu chửi.
Tiếng chửi của mụ nhập nhèm nước mắt nhòe ra, đôi lúc nghe như giọng cười cố ý ở trong một tuồng tích nào. Vài người trong xóm ló đầu ra nhìn. Thấy mụ, ai nấy thất vọng thụt vào. Mụ Cò chửi bới, khóc lóc, màn ấy chẳng có gì là đặc sắc.
Một người đi đường đứng lại, ngắm nghía một lúc, rồi như ghê tởm cảnh ấy, vội đi rất mau. Một người đàn ông cút kít đạp chiếc xe qua:
- Ê, cái gì mà khóc lóc vậy?
Mụ hãm bớt tiếng hu hu, ngước nhìn người kia, trả lời:
- Nó lấy sạch tiền tôi rồi.
- Mất hết bao nhiêu?
- Chỉ một trăm rưởi.
Mụ đã kịp thời thêm vào năm chục để cho món tiền lớn hẳn, như thế mới xứng với sự khóc lóc chửi bới giữa đường dưới nắng. Biết đâu người ta lại không cảm động cho mụ được cái lẻ kia thì cũng đỡ thiệt phần nào.
- Một trăm rưởi à?
Người đàn ông bỗng gằn giọng hỏi lại.
- Dạ...
Tiếng dạ của mụ thật là bi thảm.
- Khéo vẽ chuyện lắm. Làm gì mà mất đến một trăm rưởi. Tiền đâu nhiều thế?
Rồi ông ta cút kít đạp xe đi, ra vẻ bực tức như mình bị lừa.
Mụ Cò đã dứt tiếng khóc, loạng choạng lê bước về nhà.
Ngủ vùi mấy hôm, mụ mới ngồi dậy, đầu nặng, bụng đói. Mụ đưa cánh tay khẳng khiu lên nhìn, rồi kéo ống quần để coi da thịt ống chân. Gầy tép, khô cằn, không còn máu đâu để bán. Và không chắc gì xuống nổi nơi đó để tranh được mối với đám người kia.
Khi mụ lê bước ra khỏi ngôi chòi, mụ gặp con Nhiễu đi qua. Năm nay con bé đã lớn, trổ mã dễ coi, mái tóc óng mướt, cặp mắt long lanh, đôi môi đỏ hồng, ngực cũng bắt đầu nở nang, eo lưng thắt lại để hông trùm ra. Mụ Bích đứng ở đầu ngõ, thấy con bé đi ngang qua, nói với bà Bảy đang xách nước ở chỗ giếng:
- Coi cái con Nhiễu, nó lớn quá cỡ.
- Biết rượn rồi đó. Tối nào cũng dỡn rật rật với bọn “cô bồi” trong xóm.
- Nó xinh đó chớ.
- Cái nghề con gái mới lớn nó vậy. Lấy chồng có đôi mặt con là xệ xuống liền.
- Đàn bà mau già quá há!
- Bởi làm đàn bà nó khổ đủ thứ.
- Làm đàn ông ở thời này cũng khốn đốn lắm. Cái thì đi lính, cái thì ở tù. Còn bọn ôn hoàng dịch lệ xóm này sao mà không ai chịu hốt đi giùm, để nó phá làng phá xóm chịu không có nổi.
Bà Bảy bắt trớn câu chuyện, để gàu ở trên thành giếng, chống nạnh như phân bua với mụ Bích:
- Bà coi, hai cây khế nhà này trái thôi vô kể mà tôi có ăn được trái nào đâu. Hôm qua có bọn “cô bồi” xóm dưới kéo lên, sáng nay cái bọn “cô bồi” xóm trên kéo xuống, leo lên bứt hết. Nó làm như là của cha tụi nó không bằng.
- Sao bà không la chúng nó?
- La cho chúng đốt nhà đi phải không? Bây giờ sư sãi đấu tranh, lính tráng xúm vào ba cái chùa lớn, ở đây cái lũ ôn con này nó hoành hành chẳng coi ai ra gì hết.
Mụ Bích chặc lưỡi:
- Đây rồi, con Nhiễu nó lớn, nó lại dễ coi, thôi thì bọn quỷ nó có cho mình ngủ yên được đâu. Mà mấy hôm nay chúng nó kéo đi hết trơn, xóm mình mới vắng hoe đó.
- Chúng kéo đi đâu?
- Xuống ở dưới chùa Xá Lợi. Ối chào, thiên hạ kéo đi đông cả hàng ngàn, hàng vạn. Mấy cái ông sư coi vậy mà cứng ghê ta, lính và cảnh sát đàn áp cách mấy cũng không có sợ. Lựu đạn cay thả mịt mù, dùi cui họ đánh có kể ai đâu. Vậy mà thiên hạ cứ nhào đại vô, đồ đạc rớt thôi vô số, giày dép la liệt đầy đường.
Mụ Tư Cò nghe được câu chuyện trao đổi bên giếng giữa mụ Bích với bà Bảy. Mụ liền bỏ bụng câu nói sau cùng và mụ vào nhà rửa mặt, tém lại đầu tóc, lựa bộ áo quần tươm tất mặc vào. Rồi nén cơn đói và cơn thèm thuốc cào cấu, mụ cố lê bước đến chùa Xá Lợi.
Đến trưa, mụ Cò về với giỏ xách khá nặng. Trong giỏ đầy ắp giày dép, có cả những đôi guốc sơn còn mới. Những lúc đàn áp, người bị khủng bố bỏ chạy hất văng các món đồ mang dưới chân thì mụ Tư Cò liều mạng xông vào để lượm. Đôi lúc mụ cũng hứng được đôi cây dùi cui tưởng gẫy xương sống nhưng mụ cắn răng, lết vào với một tinh thần bất chấp nguy hiểm để mà thủ lợi. Nhưng trong các lúc lộn xộn như vậy, những chiến lợi phẩm thu được lại không có giá. Một phần giày dép đã bị hư hại, chiếc này lộn với chiếc kia nên lượm được nhiều mà ghép thành đôi chẳng được bao nhiêu.
Những lúc bình thường đồng bào các giới vì lòng căm thù chế độ nhà Ngô kéo đến nghe các Thượng tọa, Đại đức thuyết giảng, bỏ dép ở ngoài bước cả vào trong thì mụ Tư Cò có dịp lựa chọn bằng thích. Mụ cũng bỏ dép, một đôi dép đã vẹt gót và đáng cho vào thùng rác, ở bên đống giày, đống guốc la liệt và ngắm nghía lần đôi nào vừa ý nhất. Rồi mụ vào trong, thành khẩn chắp tay lên ngực, lim dim nghe thầy thuyết giảng. Thỉnh thoảng mụ quay sang người bên cạnh, bình phẩm “Thầy Thích Thiện Hoa nói nghe được quá, hả cụ?” hoặc là “Thầy Thích Hộ Giác sao mà trẻ vậy, có phải không cô?”
Rồi mụ rón rén đi ra với tất cả lòng thành kính trên mặt, vừa đi vừa niệm mô Phật khi gặp bất cứ một ai. Đến chỗ bậc thềm, nơi để giày dép, mụ Tư tiến đến một đôi vừa ý mang vào hết sức tự nhiên, nhẹ nhàng bước ra. Đến một chỗ vắng mụ bỏ vào giỏ. Rồi lại quay vào, quay ra ít lượt như thế. Trước khi thiên hạ giải tán ra về mụ đã có năm bảy đôi thật là lý tưởng để bán giá hạ cho các chị em trong xóm mang chơi.
Suốt mùa tranh đấu của chị em Phật tử chống lại ông Ngô Đình Diệm, mụ Tư Cò bỗng trở nên no đủ nhờ có nguồn lợi giày dép dồi dào. Thỉnh thoảng có người bắt gặp mụ mang đôi dép của mình, kêu lên:
- Trời đất, bà mang lầm rồi.
Thì mụ Tư Cò làm vẻ sửng sốt rồi cười xuề xòa:
- Xin lỗi, xin lỗi. Cứ nghĩ đâu đâu mà chẳng để ý gì cả, thật là tệ hại, xin cô cảm phiền.
Rồi mụ vội vã nhả đôi dép ra, trao lại cho chủ, vừa làm bộ đi vòng quanh tìm kiếm đôi dép của mình. Cố nhiên là mụ tìm ngay được một đôi khác cũng giống như thế và tốt hơn thế, mang vào:
- Đây rồi. Đây rồi, thế mà tìm mãi, khốn khổ cho tôi.
Đôi dép của mụ rõ ràng là tốt hơn nhiều, không ai có ý nghĩ xấu về sự nhầm lẫn vừa rồi. Nhưng rồi mọi việc ở trên đời này phải bước tới đoạn kết thúc. Ông Diệm, ông Nhu, một tối bỏ chạy khỏi dinh, rồi bị đâm chết. Đoạn kết những kẻ độc tài thường rất bi thảm. Trong số những người còn tin ông Diệm vẫn chưa chịu chết và còn mong mỏi như vậy, phải kể đến mụ Tư Cò. Sao mà chết gấp như vậy? Đâu có dễ dàng thế được? Phải còn sống thêm để cho thiên hạ đấu tranh nữa chớ? Thiên hạ phải đi hội họp, cầu nguyện, đọc kinh, nghe các Thượng tọa Đại đức thuyết giảng, bỏ giày bỏ dép cho mụ Tư Cò lựa chọn với chớ.
Rồi mụ Tư Cò không thể sống sót nhiều ngày sau khi ông Diệm qua đời. Một số chị em trong xóm lại tiếc thương mụ về khoản giày dép từ đây không còn đem bán với giá đại hạ như trước. Một sáng, mụ không dậy nữa. Suốt ngày hôm ấy, chẳng ai hay biết. Ai mà có thể hay biết được sự sống chết của mụ Tư Cò?
Nhưng vào lúc tối một người bạn ghiền của mụ đã đến tìm mụ. Gã đã trôi dạt nhiều năm lên mạn Cao Miên, làm ăn chẳng khấm khá nổi nhưng người ta vẫn thích mặc áo gấm về làng. Áo gấm của gã là một hộp thuốc hiệu hai Con Rồng. Gã mang đến mụ vì nghe tin lão Tư Cò qua đời, mụ Cò còn đấy, có thể nhờ đến bàn tay thành thạo của mụ tiêm thuốc và nằm bên nhau nói chuyện tâm tình rỉ rả một đêm cho ấm cõi lòng.
Lúc gã bước đến thì cái chòi mụ tối tăm, im lặng như một nhà mồ. Gã lại bước ra, gặp vợ Hai Đỉnh xách nước ở giếng, lão hỏi:
- Bà Tư còn ở đây không hở bác?
- Vẫn ở đấy mà.
- Tôi thấy tối mò...
- Ngủ ở trong đó chớ gì.
Người đàn ông trở vào, gọi khẽ:
- Chị Tư!
Gã gọi lớn hơn:
- Này chị Tư Cò!
Vẫn không có tiếng trả lời.
- Chị Cò! Chị Cò!
Gã đập bạch bạch vào cửa, gọi lớn liên hồi, nhưng chẳng có ai đáp lại. Gã liền sờ soạng tìm chỗ cái liếp che tạm, chúi vào. Bên trong không có tiếng ngáy, không nghe hơi thở. Gã chạm bàn tay vào một cái xác lạnh ngắt quắt queo. Giật mình gã rụt tay lại, nhưng rồi gã lay thực mạnh. Mụ Cò đã chết, đã chết từ lúc nào rồi.
Người đàn ông hoảng hốt chun vội ra ngoài, không quên giữ chặt hộp thuốc cho khỏi rơi mất. Gã muốn im lặng đi luôn, coi như không có việc gì xảy ra. Gã nào dính líu gì đến cái chết của mụ Tư đâu? Nhưng lúc ban nãy, gã có gặp người đàn bà bên giếng, đã hỏi về mụ Tư Cò và khi gã chun vào đấy có thể là mụ đã nhìn thấy rồi. Nay mai biết mụ Tư Cò đã chết, người ta có thể nghi ngờ cho gã.
Gã tiến về chỗ ánh đèn, tìm đến cửa ngõ gọi vào:
- Bác ơi!
Mụ Bích nhìn ra:
- Gì đó?
- Thưa cái căn nhà trước đây là của chị Cò?
- Đúng rồi.
- Tôi gọi cửa mãi mà vẫn không thấy ai hết. Chắc là chị ấy đi chơi đâu rồi. Phiền bác lúc nào có gặp nói hộ có lão Hai Toản đến thăm. Mai mốt rảnh rỗi, tôi sẽ ghé lại, cám ơn bác ạ.
Gã bịa cái tên Hai Toản theo đúng truyền thống cho địa chỉ ma của người Sài Gòn vẫn quen dùng đến. Rồi không kịp đợi mụ Bích trả lời, gã bước một mạch ra ngõ, luồn vào hẻm tối, lủi qua lối khác, tim vẫn còn đập thình thịch.
Một ngày sau đó không ai thấy mụ Tư Cò thấp thoáng. Lại một ngày nữa trôi qua và bầy chó xóm đã thấy chui rúc vào lều mụ Tư giành nhau gầm gừ. Nhiều người nghe mùi hôi thối, tanh tưởi xông lên. Ai cũng đoán mụ Tư Cò đã chết nhưng không ai dám bước vào. Người ta lại nhờ đến ông Sáu Lửa và ông Sáu Lửa lại nhờ đến rượu. Có rượu làm một lực lượng đồng minh, ông Sáu hùng hổ chui vào rồi ông hùng hổ chui ra, lấy tay khoát lia lịa trên mặt mũi mình, nhăn nhó một cách thảm hại. Mụ Tư Cò đã chết, đã thối và không ai đủ can đảm để lo những việc như thế. Ông Lửa nói lớn:
- Phải báo cáo gấp.
Ông lại khịt mũi:
- Thối quá!
Và ông nôn ọc chạy về một mạch.
1970
(Trích truyện dài Lối xóm)
Chú thích:
[1] Đảng lãnh đạo của chế độ Ngô Đình Diệm có tên đảng Cần Lao Nhân Vị.
[2] Nghề cỡi ngựa đua.
[3] Tiếng lóng của du đãng, nghĩa là có tiền.
Người chồng thời đại
Chồng của cô Bông, gọi là anh Đương, trước kia đã giữ két tiền cho một hãng buôn. Gần gũi phát sinh tình yêu, tình yêu đưa đến lấy nhau, lấy nhau tạo ra đau khổ, cái quy luật ấy thật đúng với anh trong chuyện bạc tiền. Bởi cứ giữ tiền nên lâu ngày anh mê nó, và đã lấy nó khá đậm, rồi đau khổ vì vô tù. Anh được ra tù trước cái thời hạn luật định khá lâu, nhờ luật pháp cũng có bệnh si mê tương tự như anh. Lấy được cô Bông về thuê nhà sống cạnh gia đình vợ, anh không còn dám bước ra khỏi ngõ. Tình thế, cảnh ngộ, ái ân, bạc tiền, bao nhiêu là thứ đã tạo ra cho thời đại chúng ta nhiều loại ẩn sĩ. Khác với ngày xưa ẩn sĩ được xem là rất thanh cao, ngày nay ẩn sĩ thường là những người xấu hổ hoặc là sợ hãi.
Tất cả các sự tình đó khiến anh dần dần đổi thay nghề nghiệp và trở thành đầu bếp gia đình. Vợ anh từ đây xuất hiện ở ngoài xã hội, đua chen kiếm tìm sự sống về nuôi cả nhà. Tình trạng giam hãm của anh như vậy đưa đến kết quả rất đỗi nguy hiểm trong giai đoạn này là chị vợ anh liên tiếp mang bầu. Đẻ xong chưa được mấy tháng, đã mang bầu lại. Cứ thế lặp đi lặp lại như một điệp khúc tình ca vào loại giật gân nhưng không kém phần ai oán.

Ở Sài Gòn này mang một cái bầu ra giành sự sống thật là khó khăn, bởi vì cuộc sống chụp giựt đòi hỏi càng nhẹ càng tốt, càng lanh càng hay, không thể lấy sự bầu ruột làm một giá trị như là ngày xưa để tự sắp xếp vào một vị trí khả kính sau sự có râu [1]. Do đó, mỗi lần chị Bông đẻ con là mỗi lần chị có dịp chửi rủa chồng mình nát mồ nát mả. Thằng chồng khốn nạn, thằng chồng trời đánh, thằng quỷ, thằng chó, một hai đẩy ra nó cứ ủi vào, bà mà phen này có xáp lại gần thì bà bửa sọ mày ra... Đại khái trong nhà bảo sanh người ta vẫn thường phát biểu bằng loại văn chương hùng hồn như thế.
Nhưng trong cái nhà bé nhỏ, chật chội, chỉ kê được một giường hẹp cho hai vợ chồng thì muốn hay không họ cũng phải gần gũi nhau hàng ngày. Và những cái đáng lẽ không đến lại cứ xảy ra. Trong những đợt đầu, nghe tiếng chửi rủa, anh chồng có vẻ lo âu, khổ sở, nhưng về sau này anh cười hì hì một cách thông cảm. Trong đạo vợ chồng, theo anh, vẫn có những cơn chửi rủa cần thiết, bởi lẽ cuộc sống lứa đôi vốn có lắm nỗi bất bình, nhiều ngày dồn chứa nếu không thỉnh thoảng mở xú bắp cho xả ra thì dễ tích tụ sinh nhiều biến chứng hiểm nghèo. Chửi xong, tình nghĩa lại càng đằm thắm, cũng như một cái máy xe thỉnh thoảng được súc dầu cặn và được cạo lò, chạy càng êm hơn, có trớn nhiều hơn.
Anh Đương, chồng của cô Bông, sau khi chuyển sang nghề bếp lại chuyển sang nghề vú em. Nấu nướng, giữ con, anh làm rất giỏi và nhận thấy rằng đàn bà thường quá tự hào về những công việc mà nếu để cho đàn ông thay thế thì sẽ kết quả hơn nhiều. Cố nhiên là đừng kể tới chửa đẻ.
Lâu ngày thành một thói quen ăn sâu đến nỗi anh Đương chỉ thích nấu ăn và giữ con thôi. Anh cũng trở thành mềm mỏng, cũng thành chi li vụn vặt như là vợ anh ngày xưa. Cứ lo tính toán tiền chợ, băn khoăn về khoản tương ớt, xì dầu, hồ tiêu, bột ngọt, lâu ngày trí não cũng nát vụn như cơm tấm, và quanh quẩn mãi trong mấy thước bếp chật chội, tâm hồn cũng ứ đọng lại như nước ao tù. Nhưng nước ao tù thường sinh ra muỗi, muỗi thì hay chích và kêu vo vo. Anh chỉ giống muỗi một phần, vì anh không kêu gì hết.
Bây giờ chị Bông cũng đã đổi khác. Chị giao thiệp rộng, toàn quyền giao thiệp với bất cứ ai mà không bị chồng kiểm soát, bởi không có gì hạn chế uy quyền một người đàn ông hơn là khi anh phải sống nhờ vợ. Người ta cho rằng anh Đương cũng to mập ra. Cử chỉ anh Đương hóa thành uyển chuyển, dịu dàng, còn chị Bông lại thô bạo, cứng ngắc. Rồi anh để tóc dài phủ xuống gáy trong lúc vợ anh cắt ngắn gần như húi cụt. Đã vậy, chị mặc áo mông-tê-gu, quần tây, lại càng có vẻ đàn ông một cách hăm hở. Giao thiệp với bà con ở trong xóm chị Bông cười nói nghiêng ngửa, hả họng thật to, và hươi cái tay, cái chân để giúp diễn đạt ý mình. Anh Đương, trái lại, mắt anh nhìn xuống chớp rất nhẹ nhàng khi cần phải trả lời ai, và anh cố gắng trả lời người ta cho vừa đủ nghe, khỏi dư khỏi thiếu. Nếu cần thì anh nói nhỏ hơn mức bình thường chút đỉnh. Đàn bà nên biết giữ thiếu hơn là cho thừa.
Một khi quyền lợi đổi thay, bản chất cũng lại thay đổi và cái bản chất thay đổi làm cho tương quan giữa vợ chồng họ cũng đổi thay theo. Người vợ tự cho mình có công nuôi gia đình, tự thấy mình quan trọng hơn và không có mình thì “thằng chả” phải chết đói. Càng về sau này chị Bông lại càng ý thức nhiều hơn về cái vị trí lớn lao của mình đối với chồng con. Bởi lẽ đồng tiền chuộc cái mạng sống cho anh lại cũng là tiền mồ hôi nước miếng của chị. Cứ thế, địa vị anh Đương càng ngày càng bé nhỏ lại một cách thảm hại. Giống như tất cả các bà vợ phải lệ thuộc chồng, anh không còn dám phát biểu ý kiến độc đáo nào nữa, về bất cứ vấn đề nào, và trước kẻ khác anh cũng dần dần tập cái thói quen yên lặng một cách tội nghiệp.
Khi đẻ đứa con thứ năm, người chồng đáng thương hại ấy đã quen cuộc sống thấp thởi, hèn mọn, như một con gián trong nhà. Và đến một lúc, chị Bông coi như mình chưa có chồng. Ban đầu người trong xóm cũng thương tâm khi thấy mỗi đêm về khuya, anh Đương ra đứng đầu ngõ chờ vợ đi làm về trễ và chị thường về trên chiếc hông đa của một gã đàn ông khác.
- Em đi về với ai thế?
Chị sừng sộ nói:
- Hỏi để làm gì?
- Để biết...
- Biết mà làm gì? Dẹp đi, ở đó mà nhiều chuyện lắm. Người ta chịu khổ, chịu sở, lo làm cho có miếng ăn còn muốn thứ gì nữa chứ? Nói cho mà biết, đừng có giở cái giọng ghen mà xấu với tôi đó nghe.
Người chồng làm thinh không dám nói một lời nào. Sau đó, mỗi tối anh bồng con nhỏ mới đẻ vài tháng thẫn thờ đầu ngõ đón vợ vốn thường khuya lơ khuya lắc mới về. Khi thấy bóng vợ thấp thoáng đằng xa nơi yên xe sau một chiếc hông đa, anh vội thụt vào trong ngõ, và lúc đến kịp bên anh, chị gắt:
- Trời ơi! Đêm hôm khuya khoắt mà bồng nó ra phơi sương thì bỏ bố tôi.
Anh lại ôm sát đứa bé vào lòng, ngoan ngoãn theo chị về nhà. Trong lúc chị cởi tung cả quần áo, xối nước tắm rửa rồn rột thì anh sửa soạn mâm cơm, giới thiệu các món xào nấu:
- Hôm nay cá rẻ, em à. Mua được mấy miếng cá chép kho tương đấy nhá. Món này hẳn là em ăn vừa miệng. Còn đây là thịt nai xào cà chua. Ngộ quá, thỉnh thoảng lại có một con nai lớn mang xuống trong chợ, không biết nai đâu mà nhiều lắm thế. Thịt ngọt mà rẻ hơn thịt bò nhiều. Còn món canh chua nấu me đó em...
Khi người vợ cầm đũa xơi ít miếng, anh mới ngồi vào xới cơm và bắt đầu ăn. Cách ăn của anh cũng khá nhỏ nhẹ, hiền lành. Anh luôn nhường đũa cho vợ và tự coi như bất nhã khi gắp một miếng khá lớn hoặc gắp quá vội.
Cuối cùng người vợ buông đũa, đứng dậy lại giường nằm ngửa ra để xỉa răng thì anh ăn nốt những gì còn lại với một dáng điệu gấp rút hơn trước, rồi rót một ly trà nóng đem lại bên chị đặt lên một cái ghế đẩu gần giường. Đoạn, công việc của anh là lau bàn ghế và rửa chén bát.
Đứa con thứ sáu được chị Bông đẻ trong sự im lặng dù rằng chuyến sinh nở nầy cũng khó khăn. Người chồng không bị réo chửi, nhưng đó chính là nỗi khổ tâm lớn cho anh. Ngày xưa, nghe chị chửi rủa thì anh có thể nhăn răng ra cười hì hì. Ngày nay chị không nói một lời nào xúc phạm, thì anh lại ngồi ở một góc tối mà chảy nước mắt. Bởi những gì anh chờ đợi như một chứng cớ hiển nhiên đã được xuất trình đầy đủ và quá rõ ràng.
Thằng bé vừa mới chào đời không giống anh một chút nào.
Nó chẳng giống một ai hết thì cũng không sao. Người ta có thể đãng trí trong lúc thụ thai, và không nghĩ đến ai khác nên đứa bé con không chép đúng lại mặt mũi người nào. Nhưng khốn khổ thay, nó lại giống hệt như đúc cái gã hàng đêm chở chị về khuya, với đôi mắt lộ và khuôn mặt gãy. Dù người kém óc quan sát đến đâu, nhìn đứa bé cũng biết ngay nó được xuất xứ từ nguồn gốc nào, nó là bản sao trung thực của cái nguyên bản từ đâu. Có thương yêu nhiều mới giống đủ đầy như thế. Đó cũng là lời chửi rủa hết sức hỗn xược hơn là bất cứ lời chửi rủa nào mà chị đã sản xuất được từ trước đến giờ. Bởi vậy, chị đâu cần phải mở miệng cằn nhằn anh nữa?
Anh Đương ngồi yên mà khóc rất lâu rồi chùi nước mắt nhìn vào cửa kính trước mặt. Nước mắt đàn bà có thể là bản hiệu triệu, kêu gọi sức mạnh tập họp, nhưng thường nước mắt đàn ông lại có dấu hiệu của một sụp đổ thảm thương. Nhất là khi đàn ông ấy khóc ở trong góc một nhà bảo sanh hạng thường. Anh rút mù-xoa chùi mạnh lên mắt lần nữa, và liếc vào trong tấm kính. Kể ra anh cũng đẹp trai đấy chứ? Nhất định đẹp hơn thằng kia gấp cả trăm lần. Nhưng biết vậy, nào có ích gì? Rõ ràng đàn bà không phải thích sự đẹp trai như thiên hạ vẫn lầm tưởng.
Nhẫn nhục quen rồi, anh Đương chấp nhận sự thực một cách yên lặng. Và đã yên lặng dễ dàng trước một sự việc như vậy, người ta có thể yên lặng trước nhiều việc khác tiếp theo.
Một buổi sáng kia người chồng cô Bông có dịp ra ngoài đầu ngõ, thấy chiếc xe hơi vụt qua, trên đó vợ mình đang cười ngả ngớn với một anh chàng to lớn như đã được nứt sinh ra từ cái lỗ nào ở Phi Luật Tân.
Anh đã trố mắt, ngạc nhiên, dù đó chỉ là sự kiện chẳng mới mẻ gì. Từ lâu anh đã đoán rằng vợ anh thường làm cái việc kiếm tiền chẳng mấy tốt đẹp. Và với quân đội Huê Kỳ ồ ạt kéo sang, giữa cái tình trạng vật giá leo thang theo đà gia tốc, nhiều người đàn bà coi nhẹ liêm sỉ đã làm cái việc trục lợi bằng vốn riêng của da thịt mình. Nhưng thà là nó khuất mắt. Theo anh, khuất mắt là được tất cả. Các tiệm ăn kia nấu nướng dơ dáy biết chừng nào, các ngài có biết cho chăng? Khi các ngài đến tiệm ăn, các ngài chỉ ngồi ở các phòng trên có mùi dầu thơm và những tiện nghi sáng loáng, chứ các ngài có tận mắt nhìn thấy những gì xảy ra sau bếp được đâu? Các ngài có biết, rau sống các ngài đang ăn được rửa ở chỗ nào không? Ở trong một cái chậu giặt của bà chủ đấy. Lúc vội vàng quá không ai được quyền bắt khách đợi chờ. Cầu tiêu bị dồn ứ lại nghẹt kín, người ta đại tiện bừa bãi lên trên và đám ruồi nhặng bay đến đông vô số kể. Tất cả nằm ngay chỗ bếp, và ở đầu cống sau hè có mấy con chuột chết phơi đỏ lói bên một rổ thịt vừa thái vội vàng. Mọi sự có thể trộn lẫn vào nhau một cách cố ý hay là vô tình. Các vị khách vẫn có thể nhai nuốt một cách ngon lành. Nhưng không riêng gì ăn uống mà chuyện ân tình cũng vậy. Anh chồng bảo vợ là đi tới sở, nhưng anh ấy ghé vào đâu, ăn nằm với ai, làm những việc gì, trời cũng chào thua. Phần người đàn bà cũng thế, anh chồng chẳng biết cóc gì. Loài người vẫn cứ tưởng lầm là họ biết hết mọi sự, thật ra họ có thể biết nhiều điều, trừ những điều họ không biết. Nhưng mọi người đã vui sống, đã hạnh phúc, đã nâng ly lên và chúc tụng nhau bằng những danh từ đẹp đẽ. Miễn khuất mắt là xong tất, đó là bí quyết để sống của nhiều người trong chúng ta. Chỉ có những kẻ không có phương tiện che giấu mới đáng thương thôi. Người ta nghĩ đến những vụ xúc phạm thuần phong mỹ tục của các anh xích lô đạp bị bắt quả tang giữa đường và các vụ tình tay ba, tay tư triền miên xảy ra êm thấm trong những biệt thự có vòng rào sắt vây quanh và bảng “chó dữ” trang trí ở nơi cổng chính.
Trong nỗi đau khổ như vậy, anh Đương bất đắc dĩ thành triết gia, một loại triết gia bi đát của thời đại này.
Rõ ràng hằng ngày vợ của anh Đương có những đồng tiền rộng rãi như vậy là đã có những tiếp xúc dơ bẩn ngoài sự kiểm soát của anh. Nhưng nếu chị che đậy hộ cho anh, có phải dễ chịu chừng nào! Đằng này, chị cho ra đời đứa bé thứ sáu với một bản mặt gãy gập của cái thằng bố là đã khinh anh thái quá. Giá cứ dùng những viên thuốc ngừa thai, rồi cười tỉnh bơ, coi có ngộ không? Và giá chỉ cười ngả ngớn trên xe của một người khác dù đó là Phi Luật Tân hay là Đại Hàn hay là con cháu Lông Nôn chăng nữa, mà lựa một con đường khác để đi, chứ đừng biểu diễn chấp chới trước ngõ nhà chị thì đã êm đẹp biết là chừng nào.
Chiếc xe đã vút qua rồi nhưng bụi bặm ở trên đường bay vãi vào mặt anh Đương từng đám nặng nề như những cái tát kỳ lạ, cái tát nhẹ nhàng mà chụp kín hết người anh. Chưa kịp đợi lành vết thương do cái thằng con thứ sáu ra đời gây nên, anh bị một vết thương khác chồng lên, và vết thương này lạ thay đã xóa lành vết thương kia. Thì ra thằng cỡi hông đa chở chị đi trong đêm cũng chưa phải chiếm thượng phong nơi người vợ anh và điều đó lại an ủi anh nhiều. Vô tình gã Phi Luật Tân nào đó đã báo thù hộ anh rồi, và anh vững tin sẽ có một tên Đại Hàn, hay một tên Mỹ nào đó sẽ lại báo thù giúp anh đối với tên Phi. Anh Đương cứ việc im lặng đợi chờ, khỏi cần ra tay, sẽ có liên tiếp kẻ này xuất hiện đánh bại kẻ khác, anh khỏi làm một đối thủ cho thêm khổ sở. Trên chiến trường đó, anh được là một khán giả từ đây. Một loại khán giả yên lặng, vì từ đau khổ quá mức, đã thành thản nhiên, nghĩa là đắc đạo. Mới biết con người luyện cho thành đá mới thực gian nan. Và quỷ Sa Tăng rất là cần thiết cho sự tu trì chóng thành viên mãn. Từ đó anh cảm thấy rõ hơn bao giờ hết rằng cái tiếng “chồng” là tiếng vô nghĩa lạ lùng. Đôi khi nằm trên sàn nhà lau sạch, anh lẩm bẩm lặp tiếng “chồng”. Chồng là cái gì? Nghe vang lên một âm thanh quái gở, xa lạ, như là một thứ thổ ngữ mà anh không sao hiểu nổi ý nghĩa cho được tinh tường.
Rồi một buổi sáng, chị Bông chạy về hốt hoảng gọi anh:
- Này, cưng ơi, lên đây em bảo cái này.
Sao giọng cô ả hôm nay ngọt xớt như đường phèn vậy? Người chồng đâm ra cảnh giác, không dám tỏ bày lộ liễu một sự hưởng ứng nhiệt nồng. Chị vợ vẫy tay:
- Lại đây, em nói cho nghe.
Anh lại tiến đến, ngập ngừng chờ đợi. Chị tiếp:
- Này, chẳng là có một thằng cha giàu lắm, gặp em dưới Tax, hỏi em đã có chồng chưa. Em mới đáp lại là chồng... này, đừng buồn nghe cưng, là chồng em đã chết rồi.
Chị Bông ngừng lại, bẹo vào má anh một cái:
- Thì em nói đại, vậy mà. Nhưng lão một hai đòi đến thăm nhà, hôm nay lão lên thăm đấy.
Anh Đương nhìn vợ ngơ ngác, tự hỏi vợ anh định giở trò gì.
- Sao mà vẻ mặt anh trông lạ thế?
- Thế cô muốn gì?
- Muốn lúc chín giờ anh qua bên ông Sáu Lửa nằm chờ một lát. Độ mười một giờ sẽ về. Mà thôi, để lúc nào em qua kêu hẵng về tốt hơn. Lỡ nó đến trễ hay nó thích ngồi nói chuyện con dê, con ngỗng, biết đâu.
Chị thấy vẻ mặt của anh vẫn cứ bất động lầm lì, chị bèn giải thích:
- Mấy thằng giàu nó ngu lắm. Tội gì mà không khoét túi nó lấy tiền xài! Nó hẹn mười giờ nhưng sợ nó đến sớm hơn để bắt chợp mình, nên khoảng chín giờ anh liệu dẫn mấy đứa con qua bên hàng xóm chơi đi. Ở nhà chỉ để thằng nhỏ với em mà thôi. Em làm một người đàn bà đau khổ, góa bụa, ở vậy thờ chồng, nuôi con giữa lúc tuổi xuân, trong cảnh nghèo nàn. Nó tán tỉnh mấy em cũng không nghe, em cứ thở dài, bảo nó: “Tội nghiệp em lắm, anh ơi, anh đừng làm em xiêu lòng mà lỗi đạo với chồng em yên nghỉ dưới suối vàng”. Phần anh, thì anh cứ việc yên nghỉ bên ông Sáu Lửa, chờ em gọi nhá.
Thấy chồng không nói gì, chị bèn cho lộ bí mật cuối cùng, nhưng lộ phân nửa:
- Nó dám nhả ra cho mình nửa triệu là ít. Bảo là giúp vốn cho em buôn bán.
Lần này chồng chị vẫn cứ khoặm mặt, không chịu nói một tiếng nào. Trông cái bộ mặt thiệt là hãm tài quá xá. Chị gằn giọng hỏi:
- Sao đó? Sao không ừ hử gì cả?
- Ừ hử cái gì?
- Chà! Lại chất vấn tôi nữa chứ. Người ta đã biết điều lắm, gọi lại bàn bạc, vậy mà cứ làm cái bộ ta đây không nói không rằng gì hết. Con chó nó cũng biết sủa nữa là con người.
- Thì cô làm gì cô cứ việc làm.
Chị Bông thét lên:
- Làm gì? Làm đĩ chứ làm gì nữa? Làm đĩ để nuôi lũ con của mày. Mày tưởng tao sung sướng lắm đấy hở! Tao khổ sở hơn con chó là khác. Tao ngoắc đuôi với thằng này, tao cọ mõm với thằng kia, đứa thì tao sủa, đứa thì tao gặm, cả ngày tao phải lang thang đây đó chứ đâu có khỏe như mày hở đồ khốn nạn mặt dày? Mày thì nằm ườn ra đấy, cơm ngày hai bữa no nê, đâu có bữa nào bắt mày nhịn đói? Giặt ít cái đồ, rửa ba cái chén, chứ có làm gì vất vả cho cam? Thế mà bảo mày qua bên hàng xóm nằm chơi ít tiếng đồng hồ, mày lại không thèm ư hử một tiếng. Mày tưởng tao rước người ta về nhà là để phục vụ cho tao đó hử? Cũng mồi, cũng chài năm phen bảy lượt mới dẫn dụ nó tới đây chứ phải dễ đâu! Mà trong lúc tao ở nhà làm đủ tuồng trò để moi cho ra đống tiền mày tiêu, thì mày chỉ có qua nhà thiên hạ nằm khềnh ra ngủ. Mẹ kiếp, thế mà mày còn làm bộ khinh khỉnh với tao nữa chứ. Thiệt là đồ ngu, thấy người ta xuống nước nhỏ lại tưởng người ta khiếp sợ chỉ toan lên mặt làm bố ông trời. Này, tao hỏi thiệt, mày có đi không? Hở? Hở?
Chị xỉa xói đứng lên, sấn tới. Anh Đương thụt lùi, da mặt từ đỏ như gấc lúc đầu đã thành xanh mét.
- Thì đi.
- À. Nói nhẹ không ưng lại ưng nói nặng. Đồ con lừa!
Thế là anh chồng theo đúng lời vợ qua nằm bên nhà của ông Sáu Lửa để mặc vợ mình tiếp lão chủ tiệm giàu có vừa đóng vai người đàn bà đau khổ đang chống chỏi lại một cách đau đớn trước sự hấp dẫn lạ lùng của một ông già đa tình. Cố nhiên là vợ anh Đương phải làm một kẻ chiến bại, sau những giằng co tuyệt vọng giữa ái tình và bổn phận. Ái tình thiêng liêng và mãnh liệt quá nên chiến thắng bổn phận một cách rực rỡ.
Tất cả khó khăn ở đây là phải làm sao cân lường cho mọi sự việc xảy ra theo những ni tấc cần thiết để bắt lão già chờ đợi đúng mức mà lão có thể đợi chờ, đặng lão chịu xù tối đa đồng tiền chụp giựt của lão trong cái thời buổi loạn ly. Lão già phải được chị Bông biến thành một người tình nhân bản lãnh, và sự việc lão chinh phục được chị coi vẻ vang hơn người ta cắm cờ trên ngọn Hy Mã Lạp Sơn.
Khi lão hoan hỉ ra về, sau sự hứa hẹn chu tất cho chị mọi bề, kể từ cửa tiệm chị buôn cho đến đồ lót chị dùng, thì chị mới qua gọi cái thằng chồng khốn nạn. Nhưng bước vào nhà ông Sáu, chị thấy chồng chị đã nốc rượu đế say mèm và nằm ngay đơ ngáy như kéo gỗ.
- Sướng thiệt!
Chị nói một cách ngao ngán, không biết ngao ngán cho mình hay cho thằng chồng. Nhưng thời gian sau, chị Bông đã tiêu hết tiền của lão già rồi, thì đến bị bắt vì tội buôn lậu bạch phiến. Chị nhắn chồng chị vào bót, và trao địa chỉ, bảo phải cấp tốc đến tìm cả hai lão già một lượt. Bây giờ anh Đương ngã ngửa người ra. Tưởng phải đương đầu với một lão già, nào ngờ lại phải đối phó với cả hai lão một lúc. Anh quên rằng sự hồi xuân ở đất Sài Gòn đã được xuất hiện như một bệnh dịch, và các dược liệu dồi dào càng ngày càng có khả năng kích thích cho bệnh phát triển mỗi ngày một mạnh mẽ hơn. Chưa có bao giờ các loại thuốc men, thực phẩm lại được khai thác một cách sốt sắng tận tình trên cái ý hướng bổ thận tráng dương như thế. Nói về các món sâm nhung thì lạc hậu rồi. Có trăm món ăn kỳ dị, có ngàn thức uống quái đản, và vô số kể các loại sinh tố pha chế, bày đặt, cùng các môn thuốc gia truyền kỳ bí đã được lôi ra từ các sách vở và các bộ óc giàu sự tưởng tượng của đủ loại hạng lang băm, để mong cải lão hoàn đồng. Ngay trên Chợ Lớn, ở một đại lộ mang tên của bậc đạo đức khả kính là ông Khổng Tử, vậy mà lại có một tiệm chuyên bán thứ rượu ngâm với bộ phận của loài cẩu đực. Cứ theo như lời quảng cáo thì các dược phẩm của các danh y thời này được tung ra trên thị trường có thể giúp cho các bậc già lão hom hem trở nên cường tráng gấp ba bốn lần thanh niên vào cỡ sức khỏe trung bình. Còn việc các loại thuốc ấy đồng thời có giúp các bậc trưởng thượng quá yêu đời kia được chạy mau hơn trong chuyến về chầu tiên tổ hay không, thì chẳng thấy nghe nói tới. Nhưng việc sống chết là do số mệnh cả mà!
Chị vợ anh Đương trong chuyện làm ăn đã tìm đúng được thị trường tiêu thụ món hàng màu mỡ của mình, bởi vì tuổi chị thích hợp đặc biệt cho các nhu cầu loại đó: không còn khờ khạo trong tuổi thơ ngây mà cũng chưa đến cằn cỗi, khô khan ở buổi xế chiều. Nhưng những đồng tiền thu hoạch theo ngả lối ấy dễ tạo điều kiện cho người dấn thân vào những cuộc phiêu lưu khác. Chị Bông đã đem nướng vào sòng bài với các bồ trẻ của chị, những kẻ đã dùng tuổi trẻ để khai thác chị như chị đã lợi dụng lớp già lão. Đó cũng là một loại vòng luẩn quẩn, trong cái hệ thống của muôn ngàn vòng luẩn quẩn làm nên xã hội chúng ta.
Bây giờ chồng chị bị bắt buộc phải phản ứng như một đồng lõa của chị, bởi không còn có cách nào khác nữa. Anh phải tự nhận là anh ruột chị, đến nhờ các gã tình nhân của vợ xù tiền để cứu vớt. Có được dịp tốt tỏ lòng hào hiệp với đàn bà, hy vọng bắt họ cam kết một niềm thủy chung bền chặt, các cụ bô lão bỏ tiền ra thật mau chóng. Đồng tiền đã đem năng lực cứu rỗi chị Bông sớm đưa chị Bông về với gia đình.
Khi chị hớn hở bước vào trong nhà, anh đã tiếp chị hoàn toàn như tiếp một gã đàn ông nào đó chưa quen thân lắm. Chút xíu ảo tưởng tình cảm còn lại đâu đó bây giờ cũng rã tan rồi. Chuyến ở tù này đã gạn lọc sạch những gì gọi là tình nghĩa cuối cùng nơi họ, và một lần nữa, người ta được thấy bất trắc cũng có cái mặt hữu ích lớn lao là làm sáng thêm lòng dạ con người. Từ cái địa vị người chồng, anh Đương chính thức thành một người ở với cái đặc điểm là có được con với bà chủ nhà, khi nào hai bên hay chỉ một bên nhà chủ xét thấy cần thiết.
Đó cũng là đặc điểm lớn của thời đại này. Không có cái gì chính thức là cái gì hết. Tất cả đều được phá phách, sao chế, nhập nhằng hỗn độn, với một nhãn hiệu nào đó bên ngoài.
1970
(Trích truyện dài Lối Xóm)
Chú thích:
[1] Tục ngữ: “Nhất có râu, nhì bầu ruột”.
Lời cuối sách
Vũ Hạnh
Nhà Văn Trí Tuệ Và Cách Mạng
Thanh Lê
Trong thời gian đất nước bị chia cắt hai miền, ở Hà Nội có dịp tôi theo dõi báo chí miền Nam và đã bắt gặp nhiều cây bút tiến bộ, đặc biệt có cuốn sách đã ra đời mà nhiều người không biết tác giả là ai. Người thì nói tác giả là một kỹ sư hóa học, người thì nói đó là một nhà văn nước ngoài, có người khẳng định: là người của cơ sở nội thành của ta, có người đã nhờ cơ quan nước ngoài tìm tông tích gốc gác của nhà văn này. Cuối cùng Vũ Hạnh phải nhận lỗi là đã mạo nhận một người nước ngoài để nói về dân tộc mình, ca ngợi dân tộc mình bằng cách mượn tên một người khác. Âu đó cũng là một điều dễ hiểu khi chiến tranh đã cướp đi tất cả, xô đẩy anh vào Sài Gòn sinh sống và bí mật chiến đấu vì lý tưởng cách mạng của mình.
Hai mươi năm sống trong vùng Mỹ-ngụy tạm chiếm, anh luôn dùng cây bút của mình để đấu tranh công khai chống văn hóa của địch ở vùng Sài Gòn Gia Định. Vũ Hạnh đã trở thành cây bút nòng cốt của tờ báo Tin Văn do anh làm Tổng thư ký. Trong những thành công của anh, đáng chú ý nhất trên lĩnh vực lý luận phê bình có cuốn: Đọc lại truyện Kiều (1966); đến nay vẫn còn nguyên giá trị (vì có người nghiên cứu Truyện Kiều, nhưng hiểu sai lệch nội dung tác phẩm).
Khi Mỹ đổ quân vào miền Nam, Vũ Hạnh cho ra mắt cuốn: Người Việt cao quý, mang tên một người Ý - A. Pazzi. Tác phẩm này đã làm chấn động trong và ngoài nước, được tái bản trên mười lần. Qua tác phẩm nổi tiếng này, anh đã để lại một dấu vệt dài cho thế hệ xả thân vì dân tộc mình. Từ năm 1960 đến năm 1974, anh đã viết bảy tác phẩm tuyệt hay, đặc biệt nổi lên cuốn Lửa rừng, tái bản lần thứ hai vào năm 1994.
Vũ Hạnh là một con người hiếu động, như những ngày đầu tham gia Việt Minh, viết kịch, làm thơ vận động quần chúng hưởng ứng các phong trào chống mù chữ, chống mê tín dị đoan, đoàn kết chống giặc ngoại xâm,... và anh còn là con người rất tốt bụng, khi nào cũng muốn đưa lại cho người khác một niềm vui, hạnh phúc. Gần anh, thấy anh rất giản dị, gần gũi với mọi người, thật đáng yêu. Anh đã thành công trên con đường sự nghiệp văn chương, nhưng lại là con người rất khiêm tốn. Anh thuộc vào lớp người từng trải, nếm đủ mùi cay đắng, ít ra cũng thấy được năm lần bị địch bắt cầm tù trong đó có một lần nằm trong danh sách bị thủ tiêu. Thật lòng mà nói sự tồn tại của một con người như thế là một tấm gương về lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, với tình yêu quê hương, quý trọng bạn bè để lại cho người đời.
Nhìn Vũ Hạnh thấy ngay cái lớn lao, cao đẹp cùng với nét mặt nghiêm nghị của một thầy giáo năm nào dạy ở trường trung học Thăng Bình (Quảng Nam) quê hương anh nhưng duyên dáng vô cùng. Bất kỳ gặp Vũ Hạnh ở đâu cũng thấy như le lói một mặt trời đang ló dạng. Đối với Vũ Hạnh không có gì khó hiểu. Những tình cảm gọi là thiêng liêng nhất đã hiện lên trong cái thiêng liêng của một thế giới đầy biến động, nói đúng hơn là chưa được hoàn hảo, Vũ Hạnh có thể nói ngay, viết ngay với tất cả sức mạnh của tài năng và kỹ xảo của mình. Anh nhìn và nhận xét rất tinh tường mà không coi thường một ai. Có thể nói, Vũ Hạnh là một con người của thời đại: lao động và sáng tạo. Khi chưa gặp anh, tôi hình dung Vũ Hạnh trong trí tưởng tượng như một người hùng - một nhà văn đầy tự tin và bất chấp sóng gió của thời cuộc. Gặp anh rồi vẫn thấy anh như thế, một nhà văn, một con người rất có bản lĩnh. Giờ đây sống trong làn gió ngát hương, dưới bầu trời bát ngát, mênh mông chúng tôi vẫn thường gặp nhau khi thì ở tòa soạn báo chí, khi thì ở quán cà phê, khi thì ở quán phở. Lúc nào cũng vậy, không khí bao giờ cũng sôi nổi và được nghe anh nói rất nhiều về những chuyện bất ngờ trong đời sống xã hội. Những câu chuyện ấy như hơi thở tiếp sức cho ước mơ của những con người đang say sưa trong niềm mơ ước. Dĩ nhiên là mới nghe anh nói chỉ có một phần trong những điều anh đã nói... Vũ Hạnh, vừa là một nhà văn vừa là người nghệ sĩ bậc thầy có thể viết cả một trường thiên tiểu thuyết chỉ thông qua một cánh hoa rơi. Bởi vậy, đọc những tác phẩm của anh, người đọc như bị nhà văn lôi cuốn mãi bởi trạng thái tâm hồn phong phú, và suy nghĩ của anh.
Có thể nói, mỗi một sự khám phá về cuộc đời và con người, Vũ Hạnh đã mở ra trước mắt chúng ta những điều mới lạ của cái đẹp. Vũ Hạnh là người có bề dày kinh nghiệm cuộc đời và viết văn. Đúng như thế. Năm nay, tuổi của anh đã quá thất thập, nhưng mùa xuân cuộc đời anh vẫn còn mãi trong cuộc sống đời thường và trong nền văn học đương đại của chúng ta, đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và đã góp phần không nhỏ trên mặt trận báo chí từ ngày giải phóng đến nay.
T.L. tháng 10.1999
Báo Thế hệ trẻ, số 20, tháng 12.1999
 Vũ Hạnh
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chương XIII thuyền-trưởng bất đắc dĩ TÔI yên trí tôi chỉ xuống trình-diện tại một chiếc tàu nào là được tuyển-mộ ngay. Vì thế, sau khi tới...