Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Chất ngọc 1

Chất ngọc 1

Tâm sự của người cầm bút
Năm 1946, sau khi cách mạng tháng Tám thành công đem lại độc lập cho đất nước thì thực dân Pháp - được đế quốc Mỹ viện trợ - đã quay trở lại để mong tái chiếm Việt Nam. Sau chín năm chiến đấu, ta đã buộc Pháp ký kết Hiệp định Genève, tạm thời chia đôi Nam, Bắc để sau hai năm sẽ có cuộc tổng tuyển cử quyết định chế độ cho đất nước. Nhưng liền sau đó, Pháp giao miền Nam cho Mỹ để trừ nợ. Đây là thời kỳ đất nước rơi vào tình trạng chia cắt với nhiều xáo trộn tồi tệ và đẫm máu nhất.
Ngày ấy, sống ở miền Nam, tôi có nhiệm vụ sử dụng ngòi bút góp phần đấu tranh cho sự giải phóng quê hương. Ngoài một số truyện chứa đựng nội dung phê phán chế độ được viết theo lối cổ kính - để tránh lưỡi kéo kiểm duyệt - tôi nghĩ các truyện viết về đồng quê và rừng núi sẽ được người đọc thị thành ưa thích vì những màu sắc xa lạ. Như vậy phải có văn phong đa dạng phù hợp với từng thể truyện, và đây có lẽ cũng là sở trường của tôi, sở trường vốn là kết quả của nhiều biến cố - hay nói đúng hơn là những bầm dập - mà tôi đã phải trải chịu từ lúc ấu thơ đến tuổi trưởng thành. Từ một gia đình giàu có nhất vùng, tôi đã phải sống trong cảnh nghèo nàn, từ một bà mẹ tiểu thư, con của một vị thượng quan - tiến sĩ ở trong Ngũ Phụng Tề Phi - tôi đã phải sống với những dì ghẻ thất học, và không kể mấy lần tù cùng bốn chế độ đã phải trải qua - chỉ tính tới thời Mỹ Diệm - tôi chẳng những sống nhiều năm giữa chốn phồn hoa đô hội, còn dành thời gian không nhỏ cho vùng rừng núi hoang vu đến miền cát trắng hoang sơ. Những bất thường ấy, ở trong cuộc sống, có thể giúp tôi tìm được giọng điệu khác nhau cho mỗi thể truyện.
Khi viết Bút máu theo lối cổ kính, vào năm 1958, như một tuyên ngôn đối với chính mình, đồng thời để phản ứng lại đội ngũ bồi bút đông đảo thời ấy, tôi mượn tên anh Vũ Hạnh để làm bút hiệu - đó là người bạn đồng hương, vừa là bạn tù, đồng thời là một chiến sĩ tuyệt vời - để tăng thêm phần trách nhiệm của mình đối với ngòi bút. Sau ngày Giải phóng, một cô bạn văn ở ban đối ngoại của Hội Nhà văn Liên Xô cho biết Bút máu từng được dịch ra tiếng Nga, song vì tôi không biết ngoại ngữ này nên không tìm giữ bản dịch, chỉ giữ mỗi truyện Chất ngọc được một tạp chí ở Mỹ - Southeast Chronicle - dịch và đăng tải ở số 70-71.
Để thử viết một truyện nông thôn - là Miếng thịt vịt - tôi đã khai thác cảnh nghèo cùng cực ở một miền quê, sát cạnh làng tôi, trước thời Cách mạng, và sau khi đăng trên tờ Bách Khoa, tôi nhận được lời nhắn gửi trên một nhật báo - của kịch tác gia nổi tiếng là Vi Huyền Đắc - mời tôi đến gặp tại nhà, vì tôi bấy giờ còn sống lang thang, không có chỗ ở cố định. Ông đón tiếp tôi niềm nở, tỏ ra thích thú câu chuyện tôi viết, vì ông cho rằng có nhiều kịch tính. Truyện Miếng thịt vịt là bước mở màn cho một tình bạn vong niên hết sức đậm đà giữa ông và tôi, kéo dài cho đến ngày ông từ giã cõi đời.
Viết về núi rừng, tôi có khá nhiều vốn sống và truyện Mùa xuân trên đỉnh non cao chỉ là một kỷ niệm nhỏ trong thời chống Pháp khi tôi xin được nghỉ dạy để gia nhập đội Văn nghệ Thanh niên xung phong lên phục vụ trên chiến trường Tây Nguyên, và Cuôi ba dùm là sự ghi lại, theo lời kể về các phong tục tuyệt vời của những đồng bào miền núi.
Khi Mỹ kéo quân ồ ạt sang xâm lược Việt Nam thì sự hiện diện của quân đội Mỹ và đám chư hầu đã làm xã hội miền Nam xuống cấp trầm trọng về mặt tinh thần. Thực trạng đó thể hiện trong các truyện ngắn Người chồng thời đại, Mụ Tư Cò để mong ghi lại chút gì về sự sa đọa của một giai đoạn ở trong sinh hoạt đô thị miền Nam.
Tôi chỉ xin nhắc lại đôi kỷ niệm về một số truyện có mặt trong tuyển tập này, chứ không làm một hồi ức về cái quãng đời cầm bút mà tôi trải qua với nhiều sự cố và nhiều ngục tù.
Vũ Hạnh
11.1.2011
Mùa xuân trên đỉnh non cao
Mặt trời đỏ lói như một cục máu, có vẻ vội vàng trụt xuống sau đỉnh núi cao. Hiệp bước khập khiễng trên con đường dốc nhấp nhô, kêu lên một cách thảm thiết:
- Đi chậm một chút các người! Định bỏ thằng này cho cọp nhai sao?
Sự thực là cả ba người đi trước lê chân rất là chậm chạp. Cả ngày hôm ấy họ chỉ ăn một bữa cơm với muối vào khoảng nửa buổi, và phải luồn lỏi băng rừng, leo núi, không dám nghỉ trưa chỉ sợ mặt trời vội tắt mà chưa đến được Đất Tó. An, người khỏe nhất bọn, đứng trên đầu dốc áp người vào một thân cây, quay nhìn trở lại, hét to:
- Gấp lên, ông cụ! Chỉ sợ cọp xơi luôn cả bốn mạng đó thôi.
Khánh, người trưởng đoàn, ngồi xuống mô đá ven đường nói bằng một giọng mệt nhọc:
- Chờ nó một chút. Thằng ấy khó tính lắm mà.
Rồi anh nhăn mặt, duỗi thẳng hai chân để tìm một phút nghỉ ngơi, ngả người dựa cái ba lô vào một vách đá thở từng hơi dài. Dụng tiến lại gần bên Khánh, ngồi xuống rất là nặng nề, chậm rãi lấy khăn lau lớp mồ hôi chan hòa trên mặt. Một lát, Hiệp nhăn nhó tới, xanh xao, chập choạng như một con bệnh, giương hai con mắt lờ đờ:
- Gần đến nơi chưa?
An đáp:
- Sắp tới nơi rồi. Lên đây mà nhìn.
Anh chỉ về phía bên kia sườn núi:
- Chỉ một phần ba khâu rựa là đến buôn rồi, tha hồ ăn hút. Đi ta!
Hiệp phều phào đáp:
- Gần đến thì đi làm gì cho vội, nghỉ một chút đã.
Nói xong anh nằm ngửa ra, dựa mình trên cái ba lô, duỗi thẳng hai tay trên đất, nhắm nghiền đôi mắt. An lại ngồi xuống ở trên đầu dốc, vòng tay ôm lấy đầu gối, đưa mắt nhìn về phía chân trời xa.
Ánh nắng cuối cùng như tái nhạt dần, gió núi xào xạc rung động ngàn cây đem những hơi lạnh từ lòng thung lũng chuyền đi khắp nẻo thâm u.
An giục:
- Đi thôi! Tối rồi!
Hiệp không mở mắt, rên rỉ:
- Nghỉ một chút đã!
An cằn nhằn:
- Đa số mà cứ phục tùng thiểu số cách này thiệt là đảo lộn dân chủ rồi đó. Lên đây mà xem. Một phần ba khâu rựa không phải là gần. Buôn còn xa lắm, các ngài.
Khánh và Dụng cùng ngồi thẳng dậy vịn nhau đứng lên. Khánh lấy cây gậy gõ vào chân Hiệp, giục giã:
- Dậy nào, đi thôi!
Hiệp hé đôi mắt, rồi nhắm nghiền lại.
- Đi ta! Tối rồi!
Hiệp lại mở mắt trân trân nhìn một lát nữa rồi mới mệt nhọc ngồi lên:
- Ừ, thì đi.
Nói thế nhưng anh vẫn không nhúc nhích. Khánh bảo Dụng:
- Đỡ nó đứng lên, kẻo nó muốn sụm bà chè rồi kìa.
Hai người lại kéo tay Hiệp, nâng anh ta dậy hết sức khó khăn.
An nói chõ xuống:
- Ai bảo tính chuyện xông pha rừng núi mà còn vợ con làm gì, để cho gối mỏi chân chồn sớm vậy.
Khánh cười gượng gạo:
- Ấy, cái ngốc của loài người là cứ tưởng mình sống nguyên một chỗ.
Dụng cũng cố gắng nói đùa một câu cho bớt mệt nhọc:
- Trước kia, nếu biết có ngày mình phải sống lì trên núi thế này thì cố giữ vẹn tiết trinh để mà bây giờ gá nghĩa với một cô Thượng.
Hiệp cất tiếng cười “hê hê” một cách khó nhọc nhưng không bước tới được một bước nào. Khánh bảo:
- Nào, chia bớt gánh nặng cho Hiệp kẻo nó nằm vạ ở đây thì khốn. Đưa khẩu súng này cho cậu ba An. Tháo ruột tượng gạo cho tôi. Còn cái mền kia, đưa cho cậu Dụng.
An đeo hai khẩu súng trường vội vã đi trước, dáng điệu lầm lì. Khánh và Dụng đi gần bên nhau thỉnh thoảng quay lại như thúc giục Hiệp. Anh này vẫn nhăn nhó, lử khử nhấc bước như một con bệnh đi về địa ngục.
Giữa cái khung cảnh núi rừng đang chìm dần vào hoàng hôn bỗng Khánh nói lớn:
- Còn mười ngày nữa là Tết đấy nghe!
Dụng hỏi:
- Chúng mình định sẽ ăn Tết ở đâu?
Khánh đáp:
- Có lẽ phải nghỉ lại ở Đất Tó, mồng năm mới lại lên đường.
Hiệp nói bằng giọng khàn khàn:
- Đồng bào Thượng du đâu có Tết nhất mà ăn với uống. Chuyến này lại hưởng mùa xuân cơm muối, thèm thịt bỏ cha!
Sau câu nói ấy, dáng điệu của Hiệp lại càng thiểu não thêm lên và bước chân anh có vẻ rã rời hơn trước. Bốn người lại cùng im lặng lê những bước chân nặng nề, mỗi người theo đuổi ít nhiều ý nghĩ xa xôi để quên bớt nỗi khó nhọc.
Họ đến cửa buôn thì khắp núi rừng đã nhuộm một màu xám ngoẹt. An vừa tiến lên đầu ngõ bỗng đứng sững rồi quay ngoắt lại, kêu lên:
- Nguy rồi!
Tiếng kêu đầy ý tuyệt vọng làm cho ba người đi sau hốt hoảng cùng dừng cả lại. Khánh hỏi:
- Sao đó?
An bước trở xuống, mặt anh căng tối hẳn lại trong bóng đêm về:
- Cấm vào.
Dụng tiếp:
- Có chắc vậy không?
- Sao lại không chắc! Đồng bào gài lá trên cổng đó kìa, chắc mình đến giữa vụ mùa nào rồi.
Và lần này An ngồi phịch xuống đất, tháo vội ba lô khỏi vai:
- Chỉ còn một cách là nằm lăn kềnh ra đây ngủ đói đêm nay.
Hiệp cũng ngồi xuống, không nói nên lời, có vẻ hết sức đau khổ. Mọi người im lặng để nghe lòng mình xao xuyến lo âu. Bao nhiêu hy vọng ăn no ngủ ấm thế là tan tành, và những ước mơ nghỉ ngơi trên ngôi nhà sàn sáng rực ngọn lửa đêm dài sau một ngày đường vất vả, bây giờ như ánh nắng chiều tắt ngấm sau dãy non xa.
Hiệp bỗng nói lớn:
- Kéo đại vào thôi, chẳng lẽ nằm đây chịu chết hay sao?
Khánh cười gằn:
- Nằm đây chưa chắc đã chết, nhưng muốn chết sớm thì cứ kéo vào.
- Thế thì làm sao?
Trầm ngâm một lát, Khánh đáp:
- Buôn đã có dấu cấm kỵ thì không một người lạ nào có thể vào được. Chúng ta phải chờ, nhưng không biết đợi cho đến ngày nào. Chỉ còn một cách, hãy đi trở lại...
Hiệp kêu:
-Trời ơi! Tôi chịu chết thôi.
An bỗng thở dài:
- Sức đâu mà đi bây giờ?
Dụng cũng rầu rĩ:
- Bụng đói, trời đêm, làm sao mà bước?
Khánh nói:
- Cố nhiên là không làm sao trở lại đường cũ. Nhưng tôi biết rõ cách đây không xa có một buôn nhỏ từ lâu đã bị bỏ hoang, chúng ta hãy tìm về đó nghỉ tạm xem sao.
Giọng anh trở nên cương quyết:
- Chỉ còn có mỗi một con đường ấy mà thôi. Ngồi đây để trời tối sụp thì hết đường đi, cũng không cách nào đề phòng được loài thú dữ. Đề nghị anh em có bao nhiêu sức còn lại, thì ráng mà bước. Nào, ta đi.
Khi bốn người mò mẫm lên được ngôi nhà đầu tiên mà họ tìm gặp thì họ nhào ngửa trên lớp sàn tre, không kịp tháo rời ba lô ra khỏi đôi vai. Họ cũng không nhận được rõ ngôi nhà rộng, hẹp bởi vì bên trong tối mịt, và ở bên ngoài đêm đã phủ xuống mênh mông. Họ cũng chẳng hiểu vì sao đến được tận nơi, nếu không phải do một sức thôi thúc lạ lùng đẩy họ bước tới như những xác chết còn được điều động bởi sự hút dẫn ma quái khác thường. Khánh đã dẫn đầu cả bọn và chính anh cũng không tin là mình nhớ rõ con đường. Anh bươn nhào tới, vấp té nhiều lần khá nặng, rồi lại đứng lên lao mình về trước, không kịp nhận thấy một đau đớn nào. Bây giờ anh nghe toàn thân nhức nhối, hình như da thịt bị cào rách cả và cái đầu gối bên phải tê liệt hẳn đi. Nhiều lần anh cố nhấc tay để sờ vào đấy nhưng không nhấc nổi, chỉ máy động mấy ngón tay rất nhẹ rồi giữ yên lặng một chỗ để nghe mệt mỏi thấm mềm ở trong xương tủy. Lâu lắm anh mới quơ dần cánh tay về phía đầu gối, và anh cảm thấy ran rát, ướt đẫm. Có lẽ là máu, mà có lẽ đấy cũng là mồ hôi, vì khắp mình anh ướt đẫm mồ hôi. Anh nghe hơi thở mệt nhọc của người nằm cạnh và tiếng ú ớ rời rạc, đoán chừng là Hiệp, nhưng không muốn gọi, vì anh cứ chực thiếp đi sau mỗi lúc chợt tỉnh giấc.
Cả ba người kia từ lúc bươn bả theo Khánh cũng không còn kịp suy nghĩ gì nữa. An cũng nhào té nhiều lần như Dụng và cả hai người không biết là mình có bị vết thương nào không. Chỉ riêng có Hiệp, con người có vẻ mệt mỏi nhất bọn, thì lại tỏ ra tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn cả trong chuyến “hành quân” cấp tốc vừa rồi. Tuy vậy, vừa ngả mình xuống là họ ngủ vùi mê mệt và sau một giấc nặng nề, dần dần tỉnh thức để nghe tứ chi bải hoải và sự nhức mỏi làm cho rũ liệt châu thân.
Người cất tiếng nói đầu tiên là An. Anh hỏi giữa khoảng tối tăm dày đặc:
- Có ai tỉnh dậy đó chưa?
Tức thì cả Khánh và Dụng cùng đáp một lượt:
- Dậy rồi.
Khánh hỏi:
- An đấy à? Nằm đâu?
An đáp:
- Không biết là nằm ở đâu. Chắc không phải dưới âm phủ.
Khánh hỏi tiếp:
- Hiệp ở đâu rồi? Hiệp ơi!
Hiệp ú ớ mấy tiếng rồi húng hắng ho trước khi trả lời mệt nhọc:
- Có lẽ tôi sốt rồi các anh ơi...
Và Hiệp lại rên hừ hừ, miệng nói lảm nhảm nhiều câu dấp dính vào nhau không rõ những gì. Cả bọn lại nằm yên lặng. Lát sau, một vài giọng ngáy khò khè vang lên. Không biết cách đó bao lâu, Dụng bỗng giật mình tỉnh giấc. Anh kêu:
- Anh Khánh!
Không nghe tiếng Khánh đáp lại. Dụng gọi thêm lần thứ hai:
- Anh Khánh!
Khánh vẫn nằm im mê mệt. Dụng nghe một sự yên lặng nặng nề khủng khiếp và nếu không có tiếng ngáy gần gũi thì anh tưởng mình hoàn toàn cô độc giữa chốn hoang vu.Theo các lỗ trống gió núi về khuya hắt vào hơi lạnh từng luồng tê buốt và anh co quắp mình lại, nhưng vẫn không tìm được chút ấm nào. Bên ngoài muôn ngàn tiếng động âm thầm bí mật xạc xào theo cơn gió vút, anh tưởng nghe được tiếng thác ào ào từ xa, tiếng mang tác ở nơi nào gần gũi, tiếng loài rắn độc gáy từng hồi dài quanh quẩn đâu đây. Anh gượng ngồi dậy nhiều lần nhưng vẫn không sao ngồi được. Cuối cùng, anh quờ tay về phía Khánh, đập mạnh vào bạn, kêu to:
- Anh Khánh!
Khánh choàng tỉnh giấc:
- Gì đấy?
- Lạnh quá!
Khánh nói bằng giọng yếu ớt:
- Ừ, lạnh lắm.
Tiếng An rời rạc tiếp theo:
- Lạnh cóng hết người rồi đây.
Và giọng của Hiệp rền rĩ:
- Lạnh không chịu nổi, các anh em ơi.
Tất cả bốn người đều cảm thấy lạnh nhưng không một ai có thể gượng dậy để nghĩ một cách đối phó. Họ cùng hiểu rằng càng khuya trời càng lạnh lẽo, cộng với đói và mệt thì đến một lúc nào đó họ sẽ không còn cựa quậy được nữa. Lại thêm thừa dịp tăm tối muỗi đói có thể tha hồ hút máu và bốn cơ thể xanh xao của họ ngày mai sẽ thành cơ sở độc quyền của sốt rét rừng. Những nỗi lo ấy đều làm cho họ xốn xang nhưng họ chỉ biết đợi chờ một kẻ nào khác ngồi thẳng dậy bật được lửa là họ có thể ngồi lên. Hai chân của An quơ lại phía Khánh gặp hai chân Khánh cọ quậy như cố di chuyển, và khi cánh tay của Dụng duỗi ra trườn về phía An thì bàn tay anh áp vào một cái mặt người. Anh vuốt lên má và nghe nổi gồ cái xương khá cao của một khuôn mặt hốc hác. Dụng hỏi:
- Ủa, anh Khánh đây à?
Khánh cười rất nhẹ trong bóng tối dày:
- Không, mặt hoa da phấn của cô tiểu thư nào đấy.
Dụng cũng gắng cười:
- Cớ sao tiểu thư lại trôi giạt về phương này?
- Chẳng biết, số trời định vậy.
Cả bọn vẫn còn thói quen là thường liên hệ câu chuyện trong lúc nhọc mệt đến các vấn đề nam nữ và một đôi lời bông đùa giễu cợt kiểu ấy có cái tác dụng kích thích bản năng để họ bớt sự chán nản.
Khánh đưa tay lên nắm lấy bàn tay của Dụng, cảm thấy rất rõ hơn bao giờ hết tình trạng gầy gò xương xẩu của bạn. Anh lại nghĩ đến thái độ tự nhiên nhưng không kém phần thâm trầm của Dụng rồi liên tưởng đến tác phong mạnh bạo, ngay thẳng của An, tinh thần tính toán chi li của Hiệp... Anh thấy mỗi người có mỗi tâm tính khác nhau, hoàn cảnh khác nhau lại chung cuộc sống vất vả với mình và anh xúc động trong lòng. Anh đặt tay Dụng xuống sàn, rồi gượng ngồi dậy. Đầu anh nhức như búa bổ, chung quanh đảo lộn, quay cuồng. Sờ soạng một lát khá lâu, anh mới lấy được bật lửa và một mẩu nến. Ngón tay cái anh run run ấn mạnh vào chiếc bánh xe nhiều lần mà vẫn không sao phát được ánh lửa đủ bén vào cái tim mồi. An đã ngồi dậy, xán lại:
- Nào, đưa cho tay này thử coi. Đây bật cú một cho xem.
Khánh quay người lại để đưa quẹt máy cho An nhưng vẫn bật thêm liên tiếp nhiều lần. An đỡ lấy, mần mò sửa lại tim, vặn thêm đá rồi bật một cái khá mạnh, tiếp một cái nữa.
Dụng kêu lên:
- Cú hai, cú ba rồi đấy. Đưa mình quẹt cho.
Anh trườn tới, giằng lấy bật lửa, loay hoay một lát rồi cố sức quẹt liên hồi, nhưng lửa vẫn không bén cháy. Không khí chờ đợi ánh sáng thu hút mọi người và ai cũng thấy nôn nả một cách khó chịu. Nhưng Hiệp đã ngồi lên được, nói bằng một giọng khàn khàn:
- Bây giờ thì đến phiên tôi, đưa đây.
Hiệp lại loay hoay một lúc khá lâu, ba người nghe anh mở nắp, thổi phì phụp trong quẹt máy. Sau cái quẹt mạnh, ánh lửa rực lên, lèo xèo bốc to trên một cái mồi khá lớn.
An gục gặc đầu, nhận xét:
- Gặp phải tay nghiện thuốc lá có khác.
Khánh vội vàng thắp ngọn nến và rọi chung quanh. Trong ánh sáng chập chờn bốn người thấy rõ một ngôi nhà sàn khá rộng và dài, có nhiều lỗ hổng ở hai bên vách.
Anh bảo:
- Dấu đạn đấy nhá.
Hiệp nói:
- Lục soát xem có gì ăn được không.
Khánh đáp:
- Cả buôn đã bỏ theo giặc từ lâu lắm rồi, đừng hòng kiếm chác được gì. Hình như ngoài vườn có một số mít, nhưng cũng không chắc có trái.
Khánh cắm ngọn nến xuống sàn và thấy vết máu đặc quánh ở đùi. Anh gượng cười, bảo:
- Hư cẳng rồi đây.
Rồi anh nhăn mặt kéo ống quần lên. Một lớp da bị cuốn theo phơi một mảng thịt đỏ loét. Anh cúi thổi nhẹ và hơi xuýt xoa nhưng nhận thấy đã chú ý quá nhiều đến mình, anh ngả đùi xuống, quay hỏi mọi người:
- Có ai thương tích gì không?
An đáp:
- Tôi trật gân chân.
Dụng tiếp:
- Tôi chưa nỗi nào.
Hiệp rên nho nhỏ rồi nói:
- Tôi thì tứ chi rũ liệt.
An hỏi:
- Có bị thương không?
Hiệp lù rù đáp:
- Chắc không.
Khánh bảo:
- Bây giờ có hai vấn đề trước mắt là đói và lạnh. Đói thì có gạo, có muối nhưng chưa có nước. Suối ở cách đây không xa nhưng phải trèo xuống một cái dốc sâu.
An nói:
- Đã khuya quá rồi, đành nhịn luôn vậy.
Dụng tiếp:
- Đồng ý.
Khánh hỏi:
- Còn Hiệp? Có chịu được không?
Hiệp nằm ngửa ra sàn đáp:
- Thôi thì nhịn vậy chứ biết làm sao?
Khánh nói:
- Chắc là trong nhà còn lại củi khô, nếu không thì ta rút lấy một phần sàn nhà để chụm đỡ vậy. Nào, mau lên kẻo nến sắp tàn.
Họ phải hì hục một lát khá lâu mới đốt lên được ngọn lửa. Và khi ánh sáng phần phật chói sáng căn nhà tung ra hơi ấm chan hòa, bốn người cùng ngồi sát lại quanh bếp và thấy yên tâm hơn trước. An xòe hai tay hơ trên ngọn lửa, mỉm cười:
- Ước gì chúng ta có được ít trái bắp già.
Sáng hôm sau, mặt trời lên đã khá cao, bốn người mới ngồi dậy được. Công việc đầu tiên là đi lấy nước nấu cơm. Khánh và An bước đi khó khăn nên Dụng và Hiệp phải lo liệu lấy. Khi tụt xuống cái dốc cao, Hiệp nửa đùa nửa thật bảo Dụng:
- Nếu trật xương chân hay lả một miếng thịt đùi có lẽ sung sướng hơn nhiều.
Dụng cũng cảm thấy khó khăn, mệt mỏi trong khi tuột dốc, tự nhiên lòng sinh oán hận không đâu, nhưng khi nghe Hiệp nói thế anh liếc nhìn Hiệp rất nhanh và giữ vẻ mặt lầm lì, không trả lời lại.
Lấy nước xong, Dụng chia số ống lồ ồ ra làm hai phần và mang ba ống của mình về trước. Anh thấy ghét Hiệp lạ lùng, muốn nói một câu cho hả tức nhưng không tìm ra câu nào cho hợp ý mình. Anh lại thấy An tự phụ một cách khó chịu, còn Khánh thì giỏi che đậy để mà điều khiển mọi người. Trong lòng hậm hực, anh cố gắng vượt khỏi dốc cho mau nhưng hai đầu gối run run chỉ chực khuỵu xuống. Vừa leo tới đỉnh anh ngồi trên một tảng đá để nghỉ, thấy Hiệp lồm cồm leo lên, vẻ mặt nhăn nhó:
- Nguy quá, tôi té lộn nhào giữa dốc, đổ hết nước rồi.
Dụng nín lặng một lát, cảm thấy cơn giận sôi sục trong lòng. Tuy thế, đến phút cuối cùng anh chỉ nói được một câu, mượn ý của Hiệp lúc nãy:
- Vậy thì đổ sạch hết nước có lẽ khỏe khoắn hơn nhiều.

Và anh vội vàng đứng lên, tuy trong thâm tâm còn muốn nghỉ thêm lát nữa. Anh nhìn vẻ mặt của Hiệp, thấy Hiệp vẫn cứ trơ trơ như không có gì đáng phải bận tâm, Dụng bèn nói thêm:
- Ai cũng đổ sạch thì nhịn cho xong.
Rồi anh vội vã lê bước về buôn.
Hiệp ngồi ngắm nhìn lơ đãng chung quanh và anh thấy Dụng đã ám chỉ mình một cách rõ rệt. “Nhưng lấy chứng cớ gì để bảo mình không làm đổ nước? Lấy chứng cớ gì?” Thật là khó lòng mà bảo rằng anh có một dụng tâm bất chính đối với anh em. Vả lại, anh mệt mỏi quá chứ nào anh có lười biếng cho đành! Chỉ vì anh không lở da, trật gân như những kẻ khác nên anh mới phải khổ nhọc thế này. Hiệp thấy mình không đến nỗi tệ lậu, nhưng khi vác mấy ống tre không có một giọt nước nào anh cũng cảm thấy ngượng ngùng. Anh đứng tần ngần nhìn xuống dòng suối xa xôi, dốc núi có vẻ cheo leo hiểm trở, rồi lững thững về.
Dụng đang ngồi bên bếp lửa với An và Khánh nói chuyện rì rầm nhưng khi thấy Hiệp thì họ nín bặt. Hiệp làm bộ không chú ý:
- Uổng quá, mất toi ba ống nước đầy giữa dốc. Các anh xem thử, nếu thiếu thì tôi sẽ đi lấy thêm.
An cho thêm củi vào bếp, đáp bằng một giọng lững lờ:
- Thôi được, nếu hết thì đến phiên tôi hay là anh Khánh.
Thoáng thấy một ý chia rẽ đã được biểu lộ rõ ràng qua lời tường thuật của Dụng và giọng mát mẻ của An, Khánh cố mỉm một nụ cười hòa giải:
- Việc gì mà phải cố chấp như vậy. Cậu Hiệp mà còn cố gắng đi được thì giúp đỡ cho anh em càng tốt chứ sao.
An cho câu ấy thật là thâm độc để gài cho Hiệp phải quay lại suối một lần thứ hai, nếu nước thiếu thốn và anh cảm thấy bằng lòng. Nhưng Hiệp lại hơi khó chịu, nghĩ Khánh đoán mình đổ nước dưới dốc cho nên mỉa mai như vậy. Còn Dụng lại cho rằng Khánh điêu ngoa, nói vậy để bắt Hiệp đi lấy nước thay mình. Bốn người ngồi quanh bếp lửa trong một không khí hết sức nặng nề, hình như bao nhiêu thành kiến, bao nhiêu giận dỗi nghi ngờ từ lâu bị dồn đẩy lại một bên bây giờ được dịp tháo tung sau nỗi vất vả đói khát kéo dài làm cho lý trí rã rời không còn đủ sức chế ngự. Giữa sự im lặng chán nản, Khánh cố tạo giọng vui vẻ:
- Nếu mang những bộ mặt đói thế này mà đi hỏi vợ thì chắc chắn không có ma nào thèm.
An nói:
- Nhưng mặt của Hiệp thì trông bảnh bao đấy chứ! Con nhà có khác. Các cô thiếu nữ thường thích những hạng con giống cháu dòng.
Hiệp trả lời lại:
- Thằng này đã có vợ rồi, khỏi lo. Chỉ lo cho hạng khỏe mạnh chưa vợ, chưa con, lúc nào cũng hăng tiết vịt.
An cau mặt hỏi:
- Thế nào là hăng tiết vịt?
Hiệp cười khẩy:
- Ấy, cũng bắt chước người mà nói cho vui, chớ đâu có hiểu mình nói thứ gì.
Khánh kêu lên:
- Thôi đi! Các cậu trẻ con lắm nghe! Kìa, cơm đã sôi rồi, “liệu mà bớt lửa một đời không khê”.
Sau khi Dụng dụi tắt lửa để vần nồi cơm thì Khánh nói tiếp:
- Tưởng phải nói cho các cậu ý thức về cảnh ngộ mình. Số gạo mang theo chỉ còn ăn được ba ngày, mỗi ngày hai bữa. Nhưng ở Đất Tó thì không biết được bao giờ mới hết cấm kỵ, cứ xem cái chòm lá tươi hôm qua thì phải ước độ chừng mươi ngày nữa.
An nói:
- Ở đây rảnh rỗi chẳng phải làm gì, mỗi ngày ăn một bữa vậy.
Dụng tiếp:
- Như thế cũng chỉ được có sáu ngày.
Khánh nói:
- Lúc nãy hai cậu đi xuống dưới suối lấy nước thì tôi có gắng lội chung quanh buôn, tìm thấy năm sáu trái mít.
Hiệp vội vàng hỏi:
- Chín chưa?
- Không, mít già.
Hiệp thở dài:
- Rủi chưa!
Khánh bảo:
- Phải nói là may mới phải. Ở trong cảnh ngộ bọn mình, mít chín đâu có quý bằng mít già. Chúng ta luộc mít mà ăn với cơm, nếu cứ mỗi bữa nấu hai phần mít và một phần gạo thì chắc có lẽ kéo được mươi ngày.
Sau bữa cơm trưa ngon lành ăn với muối và mắm ruốc, bốn người loay hoay dọn chỗ để ngủ thì Khánh bèn nói:
- Hồi hôm, chúng ta thật là liều lĩnh quá đáng, ngủ không canh gác đề phòng gì hết. Bây giờ thì tôi cắt đặt mỗi người phải gác ba giờ. Phiên đầu là của anh Hiệp. Nào, vặn đồng hồ lại, mười hai giờ rưỡi đấy nghe. Ba giờ rưỡi gọi An dậy rồi đến phiên Dụng. Tôi ngủ dài hơn các cậu thì tôi sẽ gác về khuya, và gác luôn cho năm giờ.
- Thế không ăn chiều hay sao? - Hiệp hỏi.
- Thôi, cho qua cơm chiều vì được ngủ rồi. “Kẻ nào được ngủ, kẻ ấy đã ăn”, tục ngữ có câu như vậy.
- Nhưng ngày mai có thêm mít phải ăn đủ hai bữa chứ?
- Có lẽ như vậy... Tốt hơn là đợi ngày mai sẽ nói về chuyện ăn uống ngày mai. Chỉ biết là mai không có ngủ ngày nữa đâu.
An ngủ một giấc bỗng nghe nóng ran cả mặt và choàng tỉnh dậy. Ánh nắng xuyên qua lỗ đạn khoét sâu trên tường chiếu thẳng vào anh, khiến anh chói lòa, không mở mắt được, phải lăn mình qua nơi khác. Anh nghe trong người bần thần khó chịu và xem đồng hồ thấy gần ba giờ. Chỉ còn nửa giờ là đến phiên anh. Anh muốn ngồi dậy uống một viên thuốc phòng sốt nhưng cứ thẫn thờ nhìn lên trần nhà, nghĩ ngợi lan man không trỗi dậy được. Lát sau, anh sực nhớ là từ lúc tỉnh dậy đến giờ không trông thấy Hiệp. Anh bèn ngồi lên, nhìn xuống sân buôn. Chung quanh là cảnh hoang vắng, tiêu điều. Anh đứng dậy, nhón chân ra khỏi gian nhà, leo xuống bục thang ọp ẹp. An lê bàn chân đau nhói, khập khiễng đi quanh mấy dãy nhà sàn vắng lặng, lỗ chỗ vết đạn, soi mói nhìn vào bên trong nhưng vẫn không thấy bóng Hiệp. Từng ngọn gió đuổi lá khô xào xạc trên những thềm đất từ lâu không có dấu người. Vắng những sinh hoạt, cả buôn giống như một đám nhà mồ lạnh lẽo. Đoán chừng Hiệp xuống dưới suối, An định trở về, nhưng một ý nghĩ tò mò xui anh đi về phía dốc. Cúi nhìn, anh chỉ thấy dòng nước chảy rộn ràng, đôi chỗ đã ửng sáng vì ánh nắng chiều dọi xuống. Nơi bờ đá nhẵn mòn - chỗ lấy nước ngày nào của dân buôn - không có bóng Hiệp. An đứng tần ngần giây lâu rồi lại lững thững trở về. Khánh và Dụng vẫn ngủ mê mệt, nhưng Hiệp, người có phận sự canh gác giấc ngủ anh em thì lại biến dạng. Quá lâu như thế, hẳn không phải Hiệp đi việc tiêu hóa ngoài rừng. Hiệp không xuống suối, vậy thì đi đâu? An xem đồng hồ thấy còn độ năm phút nữa đã đến phiên mình mà chưa gặp Hiệp, lấy làm sốt ruột hết sức. Anh định đánh thức hai người bạn dậy, nhưng sau một thoáng nghi ngờ, anh bèn bước về sau buôn, khập khiễng leo lên bờ đất trổ ra một khu vườn rậm. An mới vạch bụi tiến về phía mấy cây mít đã thấy Hiệp nhai ngồm ngoàm đi lại. An ngửi thấy mùi mít chín văng vẳng. Anh hỏi xẵng:
- Anh đi đâu vậy?
Hiệp nuốt vội vàng rồi đáp:
- À, đi tiêu. Anh đi đâu vậy?
An thấy vẻ mặt của Hiệp có vẻ thỏa mãn của một con người no đủ và anh khó chịu lạ lùng. Anh vừa quay lại, vừa đáp trong nỗi tức giận cố nén:
- Tôi tìm anh về để anh đánh thức tôi dậy kẻo tới giờ rồi.
Hiệp tằng hắng cho sạch giọng rồi nói:
- Sao quá lo xa như vậy? Lo nhiều nó già người đi. Nếu tôi quên kêu thì anh cứ ngủ, chứ thiệt thòi gì?
An đứng lại:
- Sao không thiệt thòi? Không thiệt cho tôi thì chẳng thiệt cho anh sao?
Hiệp đáp lớn:
- Việc gì mà thiệt? Tôi canh gác cho anh em kia mà!
- Hừ, canh gác! Đi chơi trong rừng chứ canh gác gì?
- Sao anh biết tôi đi chơi?
- Tôi tìm anh nửa giờ rồi.
- Phận sự của anh là ngủ, chứ đi tìm tôi làm gì?
- Nhưng tôi không thấy anh gác!
- Anh ngủ thì thấy sao được?
- Nhưng mà tôi thức.
- Ai bảo anh thức? Tôi làm thế nào cho tròn phận sự thì thôi.
Và Hiệp nói tiếp, có vẻ mỉa mai:
- Gác để anh thấy thì gác nỗi gì? Tôi leo lên trên cao này, ngồi vào một nơi kín đáo...
- Ở trên ngọn mít...
- Ừ, ở trên ngọn mít. Để canh cho các anh ngủ.
- Và để ăn mít.
- Thì ngồi trên mít tất phải ăn mít, chứ ăn thứ gì?
- Nhưng ăn một mình như vậy thì khó coi lắm.
Hiệp làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Việc gì mà khó coi? Ơ hay, nói lạ chưa kìa! Tôi thấy một trái mít chín đã bị loài dơi, loài chồn xơi hết, sót đâu mấy múi lủng lẳng nơi cùi. Tôi nghĩ nếu bỏ thì phí của trời, mang về thì chia không đủ lại làm các anh thèm khát thêm khổ. Thôi thì mình ăn miếng thừa của loài dơi, chồn cho... tiện.
Hiệp đá vào một bụi cây bên đường rồi tiếp:
- Nếu biết anh giận như vậy thì tôi đã mang về rồi.
An tức lắm, nói lớn:
- Anh tưởng tôi dơ đến thế kia à? Sao anh không nghĩ rằng tôi dậy sớm, muốn đi tìm anh nói chuyện cho vui? Sao anh lại không nghĩ tốt về tôi mà cứ xét đoán người khác theo cái bao tử của mình?
Hiệp ôn tồn đáp:
- Thế sao anh không nghĩ tốt về tôi? Sao anh không tin những lời tôi nói? Anh xem, tôi có làm hại gì ai không nào? Thôi, đúng ba giờ rưỡi rồi đấy, tôi giao phiên gác cho anh.
Nói xong, Hiệp leo lên sàn, dọn một chỗ nằm rồi trùm chăn lại.
Câu chuyện ăn mít An không kể lại cho Dụng và Khánh, bởi vì sau khi Hiệp đi ngủ rồi anh ngồi ngay ở đầu nhà nghĩ lại những lời của mình vừa nói mà thấy ngượng nghịu thế nào. Hình như anh không còn là mình nữa, anh khác hẳn với ngày nào và cả bốn người cũng không còn ai giống ai rõ rệt như trước. Họ có vẻ tốt bằng những cố gắng bực dọc, và sự thiếu thốn, mệt mỏi mỗi ngày càng làm cho họ ít lời thêm lên.
Đến ngày thứ năm thì cả bốn người đều thấy không sao ăn nổi mít già nấu chung với cơm và dù đói lả họ cũng nuốt những miếng mít lèo tèo điểm những hạt cơm một cách uể oải, khổ sở khác thường. Khánh cầm miếng mít chấm vào mắm ruốc nở một nụ cười méo xệch, cố gắng khôi hài:
- Chúng ta giống như con nhà cưng dưỡng, cứ tới bữa ăn thì lại èo uột, nhưng đỡ một nỗi là đến cuối cùng vẫn cứ sạch chén, sạch nồi.
Hiệp vừa cắn mít vừa nói:
- “Chả” này không được ngon đâu. Ngày mai phải đổi món khác. Chúng ta ăn món cá chiên hay là thịt hầm mới được.
Nói xong anh cười hô hố, vẻ mặt nhăn lại một cách thảm hại. Dụng lầm lì ăn, đầu óc nghĩ ở đâu đâu nhưng mỗi lúc nhai xong anh phải cố gắng hết sức mới nuốt trót lọt, cổ họng đau nhói như sướt trên những vết thương. Anh vẫn nghe trong lòng mình có sự oán giận ngấm ngầm, nhưng cũng không rõ vì đâu, tại sao, và thích giữ sự yên lặng để khỏi nói lên những điều phiền bực. An ăn xong miếng cuối cùng, nghiêng cái nồi lại, vét những hạt cơm còn sót chìa ra trước mặt mọi người:
- Có ai tráng miệng nữa không?
Khánh cười:
- Thôi, ăn đi. Cái kiểu “mời, lạy trời đừng ăn” ấy, trông rõ lắm mà.
Hiệp tiếp:
-Tôi nhớ thằng em thứ tư của tôi ở nhà, một lần nó làm nước chanh để uống thì bọn em nó bâu lại chung quanh. Nó làm thinh, cầm những miếng đường, không lấy dao cắt, nhưng đưa vào miệng cắn cho thật nhỏ, rồi nhả vào bát nước chanh. Xong, nó khuấy cho đều và thân mật mời lũ em một cách thật là rộng rãi. Nhưng lũ em nó lắc đầu ngoay ngoảy, tuy thèm nước chanh hết sức, nhưng gớm nước miếng ông anh dính ở trong đường.
An cho Hiệp mỉa mai mình, chìa hai tay ra:
- Chắc tôi không thể sắp chung vào loại anh em của cậu Hiệp được vì tôi ăn uống cũng hợp vệ sinh. Trước khi ăn cơm bao giờ tôi cũng rửa tay, và không phải là gặp gì cũng bốc, bạ gì cũng ăn.
Nói xong, An thấy hả hê và Hiệp quay mặt nhìn đi nơi khác. Dụng và Khánh cũng gắng cười để tạo không khí dễ dãi, hầu tránh các sự va chạm chứ không hiểu rõ những ý thầm kín giữa An và Hiệp. Đến lúc mang đồ đi rửa, An nói một cách quả quyết:
- Ngày mai tôi sẽ cho các anh ăn, đổi món, không phải nói đùa đâu nhé.
Khánh nói theo:
- Chung quanh vùng này không có rẫy hoang, đừng hòng đi hái bắp già hay đi bới đào khoai sót.
An nói vọng lên:
- Không đâu, món ăn của tôi đặc biệt hơn nhiều.
Sáng hôm sau, ăn trưa xong, An cầm dao, xin với anh em để đi vào rừng. Dụng muốn đi theo nhưng An lắc đầu:
- Ở nhà có công việc khác, tôi đi một mình đủ rồi.
Khánh dặn:
- Cấm đi xa đấy.
An cười:
- Chân cẳng thế này đi xa sao nổi.
- Nhưng qua khỏi suối cũng đủ cọp nhai xương rồi.
- Đừng lo, tôi đem hai quả lựu đạn.
Mọi người nhìn An khập khiễng tiến vào trong núi, phỏng đoán nhiều cách khác nhau. Xế chiều, vẫn chưa thấy An trở về. Ai cũng lo lắng nhưng không nói lên ý nghĩ của mình, sợ nói trắng ra như có điều gì tàn nhẫn. Cuối cùng họ tuột xuống sàn, mỗi người tìm đến một ngả vào rừng đứng ngóng. Khánh nén đau ở gối, cố leo lên một ngọn cây, nhìn vọng khắp nơi. Khắp nơi chỉ thấy cây rừng trùng điệp, đá núi cheo leo, khói bốc lờ mờ tỏa lên từ các lũng sâu. Anh thấy trong người bồn chồn, thầm trách mình quá dễ dãi, khinh thường bất trắc. Anh nhớ lại bao nhiêu việc đã qua, trách mình chủ quan, sơ suất và tự hỏi mình tại sao có thể ngu ngốc như vậy. Anh lẩm bẩm: “Thực là vô trách nhiệm quá! Bậy quá!” nhưng không biết phải tìm An về ngả hướng nào.
Hoàng hôn xuống dần, nắng chiều lui mãi, lui mãi sau đỉnh non xa. Gió lạnh thổi lại rờn rợn, hun hút qua mấy dãy nhà hoang vắng. Bỗng Dụng reo lên:
- An kìa!
Khánh quên cả cái chân đau, nhào lại chỗ Dụng. Hiệp cũng bươn bả chạy đến. An ở sườn dốc tiến lên, dáng đi lảo đảo như người say rượu. Khánh kêu:
- Trông An đi kìa, xuống đỡ mau lên.
Và anh cố gắng bước tới nhưng Dụng rồi Hiệp đã vượt đi trước. An vừa thấy Dụng, buông tay, thả rời một xâu măng dài và ngã vào Dụng khiến anh này suýt té ngửa. Khắp người của An mồ hôi dầm dề, miệng thở hồng hộc, cặp mắt lờ đờ của kẻ đuối sức. Hiệp vừa cúi xách xâu măng thì Dụng đã kêu:
- Đưa cho anh Khánh, giúp tôi một tay đây này.
Hai người dìu An một cách khó khăn, và Khánh phải giúp một tay mới đem được An lên nhà.
Nằm xuống, An đã mê man bất tỉnh. Khánh lau mồ hôi cho An, hỏi dồn:
- An! An! Sao vậy?
Anh gọi to hơn. Một lát, An mở cặp mắt ngơ ngác, ú ớ trả lời:
- Tôi bị... rít cắn.
Ba người suýt cười nhưng ghìm lại được. Khánh hỏi gặng lại:
- Rắn hay rít?
An phều phào đáp:
- Rít.

Rồi anh nhướn cổ và ba người thấy dưới gáy một chỗ sưng to, đỏ ửng. Hiệp cười:
- Ngỡ là cọp cắn, ai ngờ lại rít.
Nhưng An đã trợn mắt lên, cặp mắt trắng dã của người sắp chết. Rồi An run bắn toàn thân, giật tay, đập chân như bị điện giật. Miệng anh thở ra phì phì sùi cả nước bọt, và cả ba người xúm lại cố đè anh xuống, giữ lấy tay chân nhưng anh vẫn cố lăn lộn xô đẩy ba người, kêu lên một cách khó nhọc. Khánh thét to:
- An bị nhiễm độc của loài rít lớn ở trong tre rừng. Mau lên! Châm máu ở đầu ngón tay thử xem!
Hiệp là người phụ trách thuốc men nên vội chạy đi đem hộp thuốc lại. Trong hộp chỉ có mấy gói kí ninh, một ve thuốc đỏ, mấy ống hồi dương. Anh nghe lời Khánh nắm chặt bàn tay của An, lấy kim châm vào đầu ngón cho máu rỉ ra nhưng khi thả xuống thì An vẫn cứ vùng vẫy, lăn lộn, mắt trợn ngược lên, thở nấc từng hồi. Dụng cố giữ chặt hai chân hung hăng của An, nói trong hơi thở hổn hển:
- An bị hành quá như thế, e chết mất thôi. Hãy cho một mũi hồi dương xem sao!
Thực ra, không còn thuốc nào khác nữa. Hiệp lại vội rút ống tiêm - nấu sẵn không biết bao nhiêu ngày rồi - chích gấp cho An một mũi. Nhưng An vẫn cứ lăn lộn, vùng vẫy mỗi lúc càng thấy mệt nhọc hơn lên.
Dụng hối hả bảo:
- Cho một mũi nữa đi nào!
Hiệp lại chích thêm một mũi, nhưng nỗi đau đớn của An không hề giảm bớt mảy may. Những cơn vật vã của anh lại càng mệt mề - nặng nhọc. Ba người vừa cố giữ An vừa ngước nhìn nhau bối rối. Khánh hỏi:
- Còn môn ngoại khoa nào không?
Rồi anh kêu lên:
- À, rệp! Tôi nhớ ra rồi. Bị rắn độc cắn thì cho uống rệp.
Hiệp cãi:
- Đây là rít mà!
- Rắn cũng như rít chứ gì. Gấp lên, tìm ít con rệp.
Dụng và Hiệp nhìn nhau ngơ ngác. Tìm đâu những thứ của độc, bây giờ được xem như là thuốc quý để cứu mạng người? Mấy dãy nhà sàn vắng ngắt, vắng tanh, bắt đầu tối lại khi hoàng hôn xuống chắc khó có thể cung cấp được con rệp nào. Dụng nói như mếu máo:
- Hãy đốt lửa lên! Không có người ở làm sao mà tìm được rệp?
Khánh phải ngồi choàng qua người của An để giữ lấy cánh tay kia cho Hiệp đốt lửa. Anh giục giã:
- Tìm xem trong cái ba lô thử nào! Tôi nhớ như trong ba lô anh Hiệp có rệp đấy mà.
Hiệp vội xách ba lô lại bên lửa và anh căng từng mí vải để tìm. Cuối cùng anh reo lên:
- Có đây!
Khánh mừng rỡ:
- Có rồi hả? được mấy con?
- Hai con.
- Ít quá, tìm thêm.
- Lục lọi khắp rồi nhưng không có nữa.
Dụng nói:
- Hễ có hai con chắc phải có nhiều nữa chứ!
Câu ấy mọi ngày có thể tạo dịp nổ những trận cười nhưng trong cảnh ngộ bấy giờ không ai có thể nghĩ đến mua vui. Hiệp hơi nhếch mép nhưng anh kịp thời nén lại. Khánh bảo:
- Bóp cho dập ra, bỏ vào trong ca, cho một ít nước, mau lên.
Hiệp vội làm theo, cố nạy miệng An để đổ chút nước hôi hám ấy vào. An giãy giụa, thở phì phì, rồi nuốt ực cả. Nhưng anh vẫn giật liên hồi, có vẻ gần như kiệt lực, quằn quại trước phút cuối cùng. Khánh đẫm mồ hôi, nói như tuyệt vọng:
- Cố nhớ xem còn cách gì nữa không?
Hiệp có vẻ tư lự rồi hỏi:
- Nhưng mà xưa nay rít cắn đâu có nguy hiểm như vậy?
Dụng cũng tiếp lời:
- Ừ, dù rít có lớn cũng không nhiễm độc như thế. Hay là...
Nhưng anh không tìm ra được nguyên nhân nào khác. Bỗng Hiệp nói to:
- Đúng rồi! Hồi trưa An ăn mắm ruốc, phải không?
Dụng và Khánh cùng đáp:
- Có đấy!
- Đúng rồi. Rít cắn. Tôi đã có nghe nói đến một lần. Ăn thứ mắm ruốc mà bị rắn cắn thì độc mạnh lắm.
- Liệu chữa được không?
Hiệp gật đầu:
- Được, được.
Rồi anh vội vàng chạy lại chỗ để ruột tượng, đổ gấp số gạo ra cái mo cau. Anh tặc lưỡi:
- Gạo còn ít quá, sợ không đủ cám.
Khánh hỏi:
- Cám à? Vậy thì lấy hết số ruột tượng không, lật ngược nó lại, vò nát cho cám dính ở trên vải rớt ra.
Hì hục một lát, Hiệp đã hòa được nửa ca nước cám. An đuối lắm rồi, anh giật chậm hơn nhưng rất mệt mề. Hiệp đổ nước từ từ vào miệng An, anh ừng ực nuốt hết. Như một phép lạ, khi Hiệp rót giọt cuối cùng vào giữa đôi môi hé mở thì An từ từ dịu đôi mắt lại, hơi thở êm dần và toàn thân anh chuyển động nhẹ nhàng rồi nằm im hẳn như người ngủ thiếp. Khánh lau mồ hôi, nói trong nỗi mừng nghẹn ngào:
- Cậu Hiệp giỏi thật, không ngờ một chút cám vụn mà cứu được một mạng người.
Một lát, An mở mắt ra, nhìn khắp mọi người có vẻ xa lạ rồi cười một cách ngây dại. Khánh bảo:
- Ngủ đi!
An ngoan ngoãn nhắm mắt. Lát sau, anh ngáy đều đặn. Dụng cúi nhìn An rồi nói:
- Trông nụ cười và đôi mắt cậu An vừa rồi thì chưa diệt hẳn nọc độc trong người. Nếu mình có thêm ít cám thì quý chừng nào!
Khánh lê lại chỗ xâu măng, co tay xách lên có vẻ nặng nề, rồi bảo:
- Thế này mà An bị đau còn cố mang về cho chúng mình ăn, có tội nghiệp không?
Hai ngày sau đó, phần cơm đều dành cho An nên cả ba người chỉ ăn có mít. Họ gầy rạc hẳn và không còn muốn suy nghĩ gì nữa. Nhất là Hiệp, anh cứ nằm lì một chỗ giương mắt thao láo, ít nói và ít trả lời. Một buổi sáng, Khánh dậy sớm, bảo Dụng và Hiệp:
- Các cậu trông An để tôi đi lên Đất Tó xem thử thế nào.
Dụng nói:
- Anh để tôi đi, chân anh còn đau kia mà.
Khánh đáp:
- Cậu không biết đường, đi mất công lắm.
Dụng nài:
- Tôi đi cho biết đường với.
- Thôi, ở nhà. An thì chưa mạnh, còn Hiệp đã muốn nhuốm bệnh rồi đó.
Anh chống cây gậy, cố lê chân đi. Nửa chiều, Khánh về, có vẻ hết sức mệt mỏi. Vết thương đêm nào ở nơi đầu gối bây giờ rướm máu. Dụng hỏi:
- Lại té ở đâu phải không?
Anh đáp:
- Vấp ngã nhẹ thôi, chẳng hề hấn gì.
Nhưng khi ngồi xuống, anh nhăn mặt lại rất lâu. Hỏi qua sức khỏe của An, Khánh nói:
- Độ ba ngày nữa, chúng ta mới có thể lên Đất Tó. Hôm nay đã gần cuối năm, tôi muốn đi kiếm ít gạo về cho chúng ta ăn uống no nê để lấy lại sức. Nhưng mà không vào buôn được. Đồng bào lên rẫy xa quá, chiều tối mới về, không thể nào gặp. Ngày mai là ba mươi rồi.
Hiệp lẩm bẩm:
- Đã ba mươi rồi!
Dụng nói:
- Ngày nào của chúng ta đây cũng giống y như ngày nào, nói chuyện ba mươi mồng một làm gì cho phiền.
An nằm yên, nghe ba người bạn nói chuyện, ngước về phía họ, nói bằng một giọng run run:
- Hôm kia, tôi thực dại dột, bỏ đi quá xa, không chịu nghe lời mấy anh dặn trước. Lại ham hái mấy mụt măng mà cứ đi mãi. Nhưng khỏi ngọn núi sau buôn, tôi có nhìn thấy một cái xóm nhỏ ở trên chót đỉnh, ta thử đến đó xem sao, biết đâu lại chẳng có gì để ăn trong ba ngày nữa. Hôm nay chỉ còn một nắm gạo thôi. Rau rừng và mít làm sao mà ăn nổi nữa?
Cặp mắt của Khánh sáng lên. Nhưng cúi nhìn xuống chân mình anh lại ái ngại. Dụng nói:
- Ngày mai, anh để tôi đi.
Khánh lắc đầu:
- Anh đi một mình không tiện.
- Sao lại không tiện? Anh để tôi đi. Ngày mai, anh để tôi đi.
Khánh nhìn vẻ mặt cương quyết của Dụng và anh làm thinh.
Đi khuất khỏi buôn, Dụng thấy trơ trọi lạ lùng giữa chốn núi rừng vắng vẻ. Anh hơi hối hận về cái ý định lên đường và thấy hồi hộp, lo âu về mọi bất trắc mà anh tưởng tượng có thể xảy ra. Dụng lại có dịp nhận thấy mình quá suy yếu đến nỗi mỗi lần trèo dốc, anh thở hào hển, đầu nặng, tai ù, cặp mắt không còn trông rõ đất trời. Anh lại ngồi nghỉ rồi lại cố gắng đứng lên. Sang được triền núi bên kia, Dụng thấy ở trên đỉnh cao chót vót trước mặt một xóm nhà nhỏ như lời An nói. Anh vui mừng, tự giục giã mình nhanh bước, nhưng vẫn không đi mau được bao nhiêu.

Dụng phải đi qua nhiều ngọn đồi nhỏ để tiến dần lên đỉnh cao. Mỗi khi xuống dốc anh lại gặp một dòng suối trong veo và anh dốc nước vào mặt cho tỉnh người lại. Càng đi, Dụng thấy cảnh trí thay đổi rõ rệt, khí trời mát mẻ êm dịu mặc dầu ánh nắng vẫn chiếu bao la. “Đây là một ngày cuối năm tươi sáng”, anh tự nhủ mình như vậy, và có cảm tưởng lạc loài vào chốn Bồng Lai. Lá cây dài, mướt, loang loáng, chập chờn, theo đà ngọn gió phơ phất nhẹ nhàng. Có những tiếng chim ríu rít, và anh đoán là những giống chim lạ không thể tìm gặp bất cứ nơi nào trong chốn rừng rú Trường Sơn. Dụng hơi ngạc nhiên thấy mình tự nhiên khỏe lại và nỗi nhọc mệt leo dốc không còn nặng nề như lúc ra đi. Anh hái nhiều hoa ở sát bên mình gài lên khắp người và rất sung sướng thấy trên bước đường đăng sơn không có những giống dây leo chằng chịt, những bụi gai rậm um tùm, những lớp lá mục ẩm ướt, oi nồng dồn chất tự biết bao đời, đất sống của loài sên vắt.
Hình như đỉnh núi cao quá nên được chan hòa trong lớp khinh - thanh và cả cỏ cây đều đượm nhuần vẻ tươi mát. Bao nhiêu rác rến bụi bặm có lẽ thường xuyên đã được nước lũ từ cao dội về hố thẳm, lũng sâu cho nên mặt đất sạch sẽ, phơi bày xen giữa các cây những khoảng sáng sủa như mời mọc nằm. Dụng lại có ý mừng thầm cho sự may mắn của mình, nghĩ rằng bao năm sống ở núi rừng bây giờ mới tìm gặp được một khung cảnh mới, hoàn toàn khác lạ với bao nhiêu cảnh trải qua. Niềm vui khiến anh đủ sức rẽ cây vạch lá lên cao.
Xế trưa thì Dụng đã thấy bóng người lố nhố trong buôn và những tiếng cồng, tiếng mõ vang dậy. Anh náo nức bước vào buôn.
Mấy con nai lớn thui xong đang nằm nghiêng ngửa giữa vạt đất trống chung quanh đồng bào Thượng du, kẻ ngồi người đứng làm thành mấy lớp vòng tròn.
Họ không đông lắm, người nào trông cũng khỏe mạnh, rắn chắc, nét mặt vui vẻ hồn nhiên. Khi thấy Dụng vào, nhiều cụ già buông vòi rượu cần ngẩng lên nhìn với dáng điệu đón chào, những người trai trẻ dừng nhảy theo nhịp cồng, mõ chờ đợi, các em bé nhỏ rời khỏi vú mẹ giương những cặp mắt đen láy, tròn đẹp, ngơ ngác và mấy cô thiếu nữ nhìn nhau, nhoẻn một nụ cười như ngầm trao đổi với nhau về người khách lạ. Dụng bắt gặp một không khí tự nhiên thân mật từ đầu nên mạnh dạn tiến vào, đến gần một bậc đã có tuổi, vóc dáng khỏe mạnh ngồi giữa các cụ mà anh đoán chừng là ông chúa làng. Anh phải thay đổi tiếng nói ba lần và dùng thổ ngữ Mnông ông cụ mới hiểu. Anh nói về nỗi vui mừng của mình được gặp đồng bào, tỏ ý muốn đổi một số thực phẩm. Đoạn anh giở mấy áo ấm của anh và Khánh, hộp quẹt, ca nước... đem theo thay thế bạc tiền. Ông chúa làng cười:
- Hãy vui vẻ đã. Uống rượu, ăn thịt cho no cái bụng đi đã.
Dụng ngồi phệt xuống vạt đất, bên cạnh ông cụ. Ông vẫy tay ra hiệu. Đoàn trai, kẻ cồng, người mõ, nhịp nhàng, ưỡn ệnh nhảy quanh.
Những bộ mông rắn chắc, đầy thịt quay sang phía tả, lắc sang phía hữu, trong khi đôi chân lò cò, khập khững cùng với đôi tay khuỳnh lại, co giật như diễn tả được niềm vui nức nở trong lòng, giữa một cuộc đời vật lộn không ngừng để mà thủ thắng đối với thiên nhiên. Cuộc vui kéo dài, trong khi một số cụ già cắt xẻo thịt nai ra những miếng lá, thì những cô gái lăng xăng, ríu rít nấu nước, chia muối vào trong từng phần. Dụng hỏi một cụ ngồi cạnh:
- Nai gì vậy kìa?
- Nai săn đấy. Trai làng săn về hồi sáng nay mà. Sửa soạn ăn uống đi thôi.
Khi mọi người nhập tiệc, Dụng cũng được kể trong số thực khách.
Không ai tỏ ra ngờ vực bàn tán về anh và cũng không ai tỏ ra oán ghét hay là mừng rỡ. Anh đến và anh thành người trong buôn ngay từ phút đầu. Dụng ăn những miếng thịt nai chấm muối cắt đầy trên lá, uống nhiều rượu cần, rồi nghĩ đến mấy người bạn ở dưới xa kia đói khát, cảm thấy trong lòng nao nao.
Ăn xong, trời đã chiều. Ông chúa làng dắt anh đi lại đám trai trẻ nói cho họ biết vì sao anh tìm đến buôn và ai cũng đều nhìn anh mỉm cười, gật đầu. Ông bảo:
- Vào nhà nghỉ đã, sáng ngày mới đi về được.
Rồi ông nói to:
- Ai được người khách ở đây? Ai thấy trước nhất?
Dụng hơi ngạc nhiên về câu hỏi khá kỳ quặc ấy. Làm sao mà biết ai thấy trước nhất khi anh đi vào giữa lúc buôn đang tụ tập, mọi người cùng nhìn rõ anh? Dụng đâu phải là một con chim nhỏ, một cành hoa rừng, hay một cây kim bé chút? Nhưng anh ngạc nhiên xiết bao khi thấy một ông cụ già, một bà cụ già và một cô gái kêu lên:
- Thấy trước đấy mà.
Ông chúa làng có vẻ lo nghĩ vì gặp phải một trường hợp khó xử. Ông quay sang Dụng:
- Muốn về nhà ai?
Dụng muốn về nhà cô gái vì cô trông thực ngây thơ, hiền lành. Ông chúa làng hỏi:
- Muốn về nhà cô gái à?
Anh đáp:
- Muốn lắm, nhưng cũng muốn về nhà của bà mẹ, nhà của ông cha này nữa.
Mọi người đều cười. Bà cụ vui vẻ:
- Về nhà tôi đi. Nhà cô Min Ray ở bên tôi đấy. Ông cụ Pay Khoan cũng ở gần bên đấy mà.
Dụng gật đầu, ra vẻ chịu ơn rồi đi theo bà. Anh lên một dãy nhà sàn khá dài có gần cả trăm thước tây, nghe mùi cay nồng của những xâu thuốc phơi khô treo từng dãy dài. Bà cụ bảo anh ngồi xuống bên bếp. Lấy ra một bó thuốc lớn, bà bảo:
- Hút đi.
Anh phì phèo nhả khói cảm thấy tươi vui, sảng khoái. Không khí của miền núi cao và vẻ thân mật trong sự tiếp đón làm cho sự sống trong người của anh như thay đổi hẳn. Hầu như bệnh hoạn, đói kém, âu lo không hề có mặt ở nơi chót vót của đỉnh non này. Anh hỏi bà cụ:
- Buôn gì đấy mí?
- Buôn Pu Tha.
- Núi Pu Tha đấy à?
- Ừ, Pu Tha đấy.
Bà cụ vào trong, anh thấy bóng bà loay hoay dọn dẹp. Một lát bà khệ nệ bưng ra nào chuối, cam, những quả xoài rừng bé nhỏ, vàng óng và nhiều trái cây chín đỏ mà anh chưa hề biết đến. Bà đặt ở trước mặt anh:
- Ăn đi. Ăn cho hết đi.
- Mí cho nhiều quá, ăn làm sao hết?
Bà cụ mỉm cười nhìn anh chăm chú như được săn sóc một người thân yêu. Vừa lúc đó cô gái và một anh thanh niên bước vào, cả hai chào anh bằng một nụ cười vui vẻ. Người con gái dáng điệu nhanh nhẹn, da ngăm ngăm đen, có đôi mắt sáng và một khuôn mặt dịu dàng. Chị ngồi xuống sát bên anh, hỏi rất tự nhiên:
- Tên là gì à?
- Dụng đấy.
Chị cố ép lưỡi, lặp lại tên anh và cất tiếng cười dòn tan. Dụng cũng cười theo, rồi hỏi:
- Tên gì?
- Y Meng
- Y Meng con của mí à?
Chị gật đầu. Dụng nhìn người trai rồi hỏi:
- Em Y Meng đấy phải không?
- Ừ, em đấy. Có dễ thương không?
- Dễ thương lắm. Giống hệt Y Meng như hai giọt nước.
Chị lắc đầu:
- Không giống nhiều đâu. Nó là đàn ông kia mà.
Rồi chị bảo anh:
- Hãy ăn đi chứ!
Dụng lắc đầu:
- Để dành đem về cho anh em tôi. Họ ở dưới kia không có gì để ăn cả.
- Ăn đi, còn có nữa mà.
- Có nữa, tôi cũng đem về. Tôi đã được ăn thịt nai, được uống rượu cần, được hút thuốc lá, họ nào có được gì đâu?
- Anh tốt lắm đấy.
Rồi chị quay sang người em:
- Kiu à, tốt lắm phải không?
Kiu gật đầu:
- Ừ, tốt lắm, tốt đấy.
Dụng vội vàng nói:
- Chẳng tốt gì hết, Kiu à. Anh em lo lắng cho tôi, tôi lo lắng cho anh em, vậy đó. Ai cũng nhờ ai cả thôi.
Y Meng có vẻ nghiêm nghị:
- Lo cho anh em là tốt đấy chứ. Tôi cưới anh nhé?
Dụng hoảng hốt nói:
- Sao lại cưới tôi?
Y Meng thản nhiên trả lời:
- Tôi ưng anh mà.
- Sao ưng gấp vậy?
- Anh tốt đấy.
- Không, tôi xấu lắm.
- Đã bảo tốt mà!
- Tôi nghèo lắm kia.
- Nghèo thì Y Meng nuôi. Y Meng có rẫy, có trâu, có gà. Này, đi xem rẫy Y Meng!
Chị lôi tay anh kéo dậy. Dụng ngoan ngoãn theo, trong lòng có một nỗi vui ngơ ngác. Ra khỏi nhà, anh bảo:
- Gọi Kiu đi với.
- Nó là đàn ông, nó phải ở nhà coi heo.
Y Meng dắt tay anh, qua mấy dãy nhà. Nhiều người đàn ông ngồi hút thuốc ở bục cửa nhìn xuống mỉm cười vui vẻ. Một cụ già hỏi:
- Ưng lấy rồi à?
Y Meng đáp:
- Ừ, ưng rồi.
- Người ta có ưng nhiều không?
- Ưng chưa được nhiều lắm đâu. Còn đi xem rẫy đã chứ.
Cụ già cười rất hồn nhiên, nói theo:
- Ưng nhiều đi thôi, cho buôn ta được đông người.
Dụng theo Y Meng đi về một phía bờ dốc. Nắng chiều đã nhạt, rây xuống cây lá xanh mướt một màu vàng dịu. Không khí mát lạnh nhưng anh không cảm thấy mùi gây gấy ớn người như ở những chốn núi rừng anh đã trải qua. Đi cạnh Y Meng thấy chị tuy nhỏ hơn anh khá nhiều nhưng anh lại có cảm tưởng mình là cô gái đi theo một gã đàn ông. Anh tự nhủ: “Mình là cô gái quá mới, không biết mắc cỡ chút nào”.
Y Meng dừng lại, chỉ tay về một đỉnh xa có những vạt rẫy vàng sẫm lấm tấm vệt xanh, chị nói:
- Rẫy đấy, cưới rồi Y Meng sẽ đưa lên rẫy.
Dụng ngơ ngẩn nhìn, cảm thấy cả một cuộc đời êm đềm trước mắt. Anh tưởng tượng mình sẽ lấy Y Meng, sống một cuộc sống bình dị, đơn giản ở chốn cỏ cây khuất lấp, gạt bỏ mọi sự phiền toái trên đời...
Y Meng kéo tay của anh sát vào người chị rồi rẽ vào một lối khác. Hai người đi đến một dòng suối trong. Chị bảo:
- Nước này mát lắm, rửa đi.
Anh vốc nước, cảm thấy tê lạnh, gượng gạo rửa mặt rồi theo Y Meng lội qua bên kia. Dụng ngạc nhiên thấy rừng ổi tươi tốt, trái chín mọc đầy, trắng nõn, buông cành trĩu xuống là sà mặt đất. Anh bàng hoàng tưởng mình đi vào một thế giới huyền hoặc không có trên cuộc đời này. Anh đứng sững, nhìn quanh, khi Y Meng vỗ vào lưng bảo đi, anh mới sực tỉnh. Anh quờ tay trước mặt mình và các ngón tay của anh lút sâu vào trong những trái ổi chín rục mềm, tỏa ra mùi hương đậm đặc. Hai người đi vào sâu thêm và Dụng nghe tiếng vỗ cánh rần rật của vô số chim qua các lá cành. Nhiều con mải mê mổ vào những trái ổi chín không sợ bóng người, tưởng chừng có thể chụp bắt rất dễ. Rừng ổi mênh mông, hai người đi mãi. Dụng vừa ăn ổi vừa nghĩ đến những bạn ở dưới núi bây giờ chiều xuống đang nằm bên bếp ước ao những chén cơm đầy, và thầm tiếc rẻ cho họ không được may mắn như mình.

Y Meng đưa anh ra khỏi rừng ổi và rẽ sang một lối khác gần hơn để trở về nhà. Chị hỏi:
- Ưng lấy Y Meng nhiều chưa?
Dụng duỗi hai chân trên sàn, đáp lại:
- Ưng nhiều lắm rồi.
Chị lại gần, vỗ lên má anh, cười rất vui vẻ:
- Tốt đấy.
- Nhưng mà...
- Gì à?
- Tôi phải trở về dưới ấy, có nhiều anh em đang chờ.
- Bao giờ mới lên?
- Xong việc, tôi lên.
- Có lâu lắm không?
- Lâu lắm.
- Lâu chừng nào kia?
- Không biết rõ được. Sợ đến lúc nàng Y Meng già như bà mí vậy đó.
Y Meng cau mày, có vẻ buồn bã.
Dụng tiếp:
- Tốt hơn, đừng chờ đợi tôi làm gì.
Y Meng lắc đầu nhẹ nhàng, cặp mắt ngó về nơi xa, rồi nói:
- Không chờ gì đâu. Lâu quá đi mà, chịu không nổi được.
Chị nhìn chăm chắm vào anh, nói tiếp:
- Tốt với anh em mà không tốt với Y Meng, ghét lắm. Có ưng lấy Min Ray không?
Dụng kêu:
- Không đâu! không đâu! Tôi nào có quen Min Ray! Không ai tốt bằng Y Meng, xong việc rồi tôi sẽ lên, tìm thăm Y Meng.
- Chờ ba mùa lúa thôi đấy.
- Ừ, chờ tôi ba mùa.
- Đến nhà Min Ray chơi không? Min Ray dễ thương lắm mà.
- Thôi, tôi ngồi gần bên Y Meng, ngày mai tôi về.
Y Meng lầm lì vẻ mặt, không nói năng gì. Dụng nằm xuống sàn, sát bên bếp lửa đã được Kiu đốt cháy rực. Anh nhìn ra ngoài thấy trời tối lại, những ngọn núi mờ dần chìm trong màn đêm dày đặc mênh mông. Anh thiếp đi trong giấc ngủ nhẹ nhàng. Khi anh chợt tỉnh thấy bên mình một mo xôi khá lớn, mấy xâu thịt nướng và chén nước muối. Bà mí, Y Meng và Kiu ngồi cạnh một bếp gần đấy quay lại nhìn anh. Bà mí bảo anh:
- Ăn đi rồi ngủ cho khỏe.
Anh ngồi dậy, mời mọc mọi người, ai cũng lắc đầu, trả lời: “No rồi”. Dụng vói tay rút lấy bốn miếng mo cau phơi trên giàn bếp, đặt trước mặt mình, chia xôi, chia thịt ra làm bốn phần đều nhau. Rồi nói: “Phần của mí đấy, của Y Meng đấy, của Kiu nữa đấy”.
Ba người nhìn anh có vẻ cảm động, bà mí nói:
- Tốt lắm.
Y Meng nhìn anh chăm chú, rồi quay sang mẹ, nàng bảo:
- Tốt nhiều đấy chứ?
Bà mí gật đầu:
- Tốt nhiều.
Rồi lại bảo anh:
- Ăn cho hết đi. Đừng để còn lại, không tốt.
Dụng ngồi xếp bằng, nhai xôi và thịt một cách thong thả, chậm chạp. Mỗi lần anh ngước nhìn lên, đều gặp Y Meng chăm chắm nhìn anh như quan sát một vật lạ mà nàng ưa mến. Tuy hơi ngượng nghịu nhưng anh cảm thấy một niềm thích thú của kẻ tự nhiên biến thành nhỏ bé hẳn lại.
Quá no, Dụng cũng cố ăn hết phần xôi thịt của mình. Khi Kiu đem nước cho anh, Y Meng rời khỏi nhà sàn. Một lát, chị về, theo sau nào cụ Pay Khoan, Min Ray và nhiều người nữa trong buôn, mỗi người trai trẻ trong tay đều có mang theo một cây đàn dài và những ống tre lồ ồ đục thông các mắt để dẫn tiếng đàn. Mọi người quây quần bên anh, nói chuyện vui vẻ, giữa những tiếng đàn, tiếng hát kéo dài dằng dặc như tiếng suối nguồn bất tận...
Mỗi lần quay lại, Dụng vẫn nhìn thấy những người trong buôn đưa tay vẫy vẫy như kêu gọi anh. Anh cũng vẫy lại nhiều lần, rồi cố bước mau để khỏi kéo dài những phút tiễn biệt ở cách xa nhau như vậy. Xuống một dốc dài quay lại không thấy buôn nữa, Dụng mới ngồi nghỉ và lau những giọt mồ hôi dầm dề trên trán. Anh đã ráng hết sức mình để gánh số nếp, số thịt về cho anh em và đành để lại bao nhiêu trái cây ngon lành. Dân buôn không nhận đồ vật anh đem lên đổi, vui vẻ cho anh những thức đồ ăn cần dùng tùy theo sức gánh của anh. Anh thầm tiếc đã sống quá vội vàng những giờ êm ả trên đỉnh Pu Tha và mong có dịp sẽ trở lại đấy nhiều ngày hơn nữa. Khi ngước lên, anh thấy mặt trời đã vượt quá cao trên nền chói ửng, vụt nhớ hôm nay là ngày đầu năm. Anh đã được hưởng giao thừa trên đỉnh Pu Tha, trong một không khí đầm ấm, hồn nhiên của những con người hầu như không hề biết Tết, nhưng suốt cuộc đời là một mùa xuân bất tận. Đầu năm nay, anh mang những món quà tặng đặc biệt từ đỉnh non cao về với cuộc đời thiếu thốn, đầy những âu lo khắc khoải hàng ngày. Anh lại lên đường, mong chóng gặp mặt anh em để họ được hưởng những sự no đủ, đợi đến ngày mốt cùng về Đất Tó. Khi về gần đến buôn cũ, anh đang hào hển leo dốc đã thấy Khánh bước khập khễnh xuống đón.
Khánh giằng lấy gánh, nở một nụ cười rất lâu, không kịp hỏi anh gì hết rồi khập khễnh bước. Dụng ríu rít kể cho Khánh cuộc đời trên đỉnh Pu Tha mà anh vẽ lại như một cuộc sống ước mơ. Pu Tha, theo như ý Dụng, là chốn thần tiên, là một nếp sống mà cả nhân loại kiếm tìm. Con người luôn luôn no đủ, không hề dối trá, che đậy, ăn ở với nhau một cách giao hòa, thân mật, còn gì đáng khát thèm hơn? Khánh chăm chú nghe không nói một lời, nhưng đến gần nhà anh bảo:
- An và Hiệp mừng lắm đấy nghe, nhưng đừng nói nhiều về cái cuộc đời cậu vừa trải qua mà họ khát thèm.
Dụng cúi đầu bước, dần dần cảm thấy Khánh đã có lý khi dặn dò anh như vậy. Anh không thể nào làm những người bạn của anh cảm thấy chán nản khi nghĩ về cuộc đời đầy thiếu thốn của mình. Và anh nghĩ rằng mình phải chuẩn bị một câu trả lời.
An, Hiệp ngồi chờ anh nơi bục cửa, cặp mắt mỗi người sáng lên trên những khuôn mặt tóp gầy, héo hắt. Họ run rẩy đỡ gánh đồ bằng những điệu bộ giữ gìn của quý và không đợi Dụng kịp ngồi xuống sàn, đã hỏi:
- Thế nào? Mùa xuân trên ấy ra sao?
Dụng nhìn hai người, thấy vẻ hau háu thèm ăn ở trên mặt họ - và đó cũng là hình ảnh vừa qua ở nơi mặt anh - rồi đáp:
- Cũng như bao nhiêu nơi khác mà mình đi qua. Chẳng có tết nhất gì cả. Đồng bào thiếu thốn, đói khổ, sống trên những chiếc nhà sàn rách nát, tiêu điều. Nhưng họ sẵn sàng chia sẻ cho mình, không chịu đổi chác gì hết.
Nét mặt của An có vẻ trầm ngâm, dịu lại và Hiệp cũng mất dáng điệu hớn hở ban đầu. Dụng ngước nhìn Khánh, thấy Khánh cau mày, nhìn anh có vẻ trách móc. Dụng hơi ngơ ngác thì Khánh vội bảo:
- Hãy nấu một nồi xôi lớn ăn đã!
Mấy người hì hục vo nếp, đốt lửa và khi bếp hừng hực cháy, Khánh mới chậm rãi nói tiếp:
- Lúc nãy, vì thương anh em ở nhà khổ sở nên cậu Dụng đã nói dối. Mình nghĩ, việc gì mà phải nói dối như vậy? Tưởng nên tìm hiểu sự thực cho rõ ràng hơn. Mình đã từng sống trên những buôn cao, khí hậu mát mẻ, cây cối xinh tốt lạ lùng. Đồng bào cũng no đủ lắm và vui vẻ lắm. Người ta sẵn sàng cho chúng ta ăn bất cứ lúc nào, và không bao giờ ta phải lo sợ dối trá, lường gạt lẫn nhau vì một chén gạo, manh vải. Cho đến tình yêu, cũng thực giản dị, khỏe mạnh lạ thường. Nhiều cô sẵn sàng yêu ta, chết sống với ta vì ta biết điều, hiền hậu, chứ không vì ta có nhiều bạc tiền, địa vị hay là một thứ nhãn hiệu nào khác. Ở đấy hình như chỉ có suối reo, chỉ có tiếng hát, chỉ có mùa xuân. Nhưng mà...
Khánh bỗng dừng lại, nhìn anh em rồi tiếp:
- Đó là mùa xuân của thời hoang dại, cổ sơ không còn phải là mùa xuân của chúng ta nữa. Anh em nghĩ xem, làm sao có thể sống như cây cỏ không hề băn khoăn vì mục đích gì? Làm sao bọn mình có thể yêu đương đơn giản bằng những thèm khát tầm thường không nâng tình yêu lên khỏi rung động bản năng thấp kém? Chúng ta cần yêu để tạo một sự hòa điệu tâm hồn, một sức cảm thông đầy những xây dựng, hy sinh cho một sự nghiệp. Và bao nhiêu điều hiểu biết sẵn có, bao nhiêu ao ước tương lai ấp ủ ở trong tâm não của mình, làm sao ký thác vào trong câm lặng, hoang vu? Đồng bào miền núi của ta phải chịu cuộc đời như vậy vì họ chưa thoát khỏi một tình trạng sinh hoạt còn nhiều ràng buộc thiên nhiên. Còn ta, ta không thể nào trở lại cuộc đời như thế.
Khánh dằn hai tiếng “trở lại” và kéo dài ra. Lời nói có đà khiến anh hăng hái tiếp theo như trong một buổi thuyết trình đại hội:
- Họa chăng vì phút chán nản nào đó trước những khổ nhọc của đời, ta không tự chủ được mình nên có tư tưởng lẩn trốn, hướng về cảnh đời nghĩ lầm yên vui của chốn sơ khai. Nhưng chắc chúng ta khó lòng chấp thuận cảnh ấy quá một tuần lễ. Mùa xuân chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong cuộc sống này, trong những nỗ lực hướng về một cuộc đời khác cao hơn, đẹp hơn, trong đó mọi người với ta cùng được chung hưởng những kết quả của khoa học, của một tinh thần tổ chức nhân đạo và lý trí hơn.
Anh dừng lại, nói nhỏ và chậm:
- Tôi nghĩ đến sự chịu đựng của anh em mình để làm cho tròn nhiệm vụ, nghĩ đến tình thương ở giữa chúng ta, nghĩ đến xâu măng của anh An, chén cám của anh Hiệp, gánh nếp của anh Dụng và tôi tưởng đấy mới là ý tình của một mùa xuân thực sự.
An nói:
- Anh Khánh, anh cố quên những tình ý của anh hay sao?
Hiệp cúi đầu xuống có vẻ trầm tư không nói năng gì.
Dụng liếc nhìn Khánh, thở một hơi mạnh rồi tiếp:
- Phải rồi, mùa xuân của mình không thể tìm thấy trên đỉnh non cao. Mùa xuân thật sự của ta ở trong cuộc sống này đây, và dưới đồng bằng...
Mọi người im lặng, ngước nhìn về chân trời xa, vệt núi xanh nhạt, mờ mờ. Thoáng chốc giữa tiếng sôi sục trong nồi và tiếng củi cháy, họ nghe như có tiếng pháo, tiếng cười, tiếng nói từ miền quê xa vọng lại liên hồi.
1962
Dương đảo
Từ năm thứ ba của triều Mân Vương, xã hội kể như có sự đảo ngược. Đó là đàn bà lấn sân, uy hiếp đàn ông một cách trầm trọng.

Ngay trong cung cách sinh hoạt, các bà cũng chiếm đoạt dần những gì mà bọn đàn ông xưa nay lầm nghĩ là của riêng mình, và bắt đàn ông học đòi trở lại những gì chị em đã chán chê rồi. Chẳng hạn, từ thời cổ đại phụ nữ vốn để tóc dài, cột lại rồi thả lúc lắc theo kiểu đuôi ngựa, còn đàn ông thì độc quyền “húi cua”, tức cắt tóc ngắn. Nhưng nay thì đã có sự đảo lộn: tóc của các bà hớt cao vổng lên trên ót, còn nhiều đực rựa lại để tóc dài và cũng cột chùm, thả đuôi leo ngheo, tỏ ra hí hửng như mới phát minh được cái mốt lạ. Dễ thấy hơn nữa, là cách ăn mặc. Ngày nào, các bà mặc phủ kín đùi, lỡ để lộ ra một chút da non là thấy xấu hổ sượng sần cả mặt, và dành quần cụt - còn gọi là quần xà lỏn - cho giới mày râu. Nay thì đàn ông bám chặt lấy thứ quần dài để cho các bà chiếm dụng quần cụt, thậm chí rất cụt đến nỗi không thể cụt hơn, lại đi nghênh ngang giữa chốn phố phường theo đúng kiểu cách chào hàng hiện đại. Còn về chuyện ngồi, thì xin miễn bàn. Các bà ngày nay không khép đôi chân, cũng không chịu khó tréo mảy cho nó yên ổn, lại dang cả hai chân ra, kể cả khi ngồi thu hết cặp cẳng lên trên ghế đá, giữa chốn công viên, có vẻ thách thức bàn dân thiên hạ.
Nhưng điều đáng nói là chuyện trong nhà. Các bà luôn cho là mình có lý, có quyền, nói năng hơi lớn, lên lớp hơi nhiều, thường tuyên bố rằng đối với đàn ông chị em luôn phải đề cao cảnh giác để khỏi nếm lấy quả lừa. Vì vậy, những thứ đàn ông kiêu hãnh, nghênh ngang, ra vẻ ta đây, giờ kể như đã tuyệt chủng. Chỉ còn một hạng lấm lét, e dè, luôn luôn ở trong tư thế đối phó mà mình cầm chắc lấy phần thất bại.
Trong hoàn cảnh ấy, có một ngư dân tên là Trần Thân, hiền lành, nhẫn nhục, vì không chịu nổi vợ nhà nên đã nhiều phen có ý quyên sinh, song vào phút chót lại thấy tiếc rẻ cuộc sống còn nhiều cá mắm, bèn muốn tìm phương cách khác. Hồi ấy, chưa có cánh cửa ly dị như một lối thoát an toàn, và thật gọn nhẹ nên Trần Thân bèn nghĩ cách trốn khỏi tay vợ, theo như sách xưa đã dạy: “Ba mươi sáu kế chỉ có cách chạy là cách xịn nhất”. Nhưng chạy đi đâu? Đó là vấn đề. Bởi khắp trên mặt đất liền, dầu anh trốn chui trốn nhủi nơi đâu thì bà xã cũng kịp thời phát hiện và lôi cổ về. Bấy giờ, nỗi khổ sẽ càng mười phần bi thảm.
Cuối cùng, Trần Thân chợt nhớ một lần đánh cá ngoài khơi anh bị bão lớn giạt vào một hòn đảo nhỏ. Hòn đảo xanh tươi, phong cảnh kỳ thú đặc biệt và rất hoang vu như chưa có ai từng đặt chân đến. Chỉ có ra được ngoài ấy, mới có cơ may thoát được vợ nhà.
Thế là nửa đêm Trần Thân lén dậy, đặt một tờ giấy viết sẵn mấy chữ “Vĩnh biệt từ đây” rồi nhẹ nhàng ra khỏi nhà, đến ngay bờ biển có giấu cất sẵn các thứ nhu dụng, lên chiếc ghe con, giong buồm ra đảo.
Đặt chân lên đảo, Trần Thân thấy mình như lên được miền Cực Lạc. Thôi thì từ đây không còn bị ai làm tội, làm tình. Được sống, mà khỏi đối phó với người gần gũi, là thần tiên rồi. Anh ta chạy từ đầu đảo xuống dưới cuối đảo la hét huyên thiên, hết cười lại nói, hết nói lại chửi, vung tay múa chân, tuyên bố đủ điều kỳ lạ mà nếu có ai nghe thấy cũng nổi da gà. Nhưng ở nơi đây, chỉ mỗi mình anh, chẳng phải sợ gì. Cá, ốc có đầy quanh đảo, cây trái rậm rạp, trĩu cành, đất tốt trồng gì cũng dễ sinh sôi, và điều tuyệt vời là không còn nghe vợ tố, vợ tụng, ca kệ, nhì nhằng. Buổi sáng, Trần Thân ra một mỏm đá nói to tất cả những gì bấy lâu ẩn chứa trong lòng nhưng vì sợ vợ nên không dám nói. Buổi trưa, anh vào nằm trong hang đá lảm nhảm một mình bao nhiêu ý nghĩ của anh đối với vợ nhà. Buổi tối, bên ngọn lửa hồng, anh lại một mình thổ lộ tất cả ý nghĩ của anh về giới phụ nữ.
Ba ngày sau đó, Trần Thân rơi vào trạng thái im lặng. Nói, là để cho người ta nghe, và anh đã nói cho chính anh nghe chán chê cả ba ngày rồi. Nay thì còn có ai đâu để mà nói nữa? Trần Thân bắt đầu cảm thấy một nỗi cô đơn. Và anh chợt hiểu: cô đơn lớn nhất của nhân loại này là không được nói.
Thế thì phải làm sao đây? Gấp rút tìm người đồng điệu để mà chia sẻ tâm tình. Trần Thân lấy mấy chai mắm, chai dầu đã cạn, rửa sạch rồi viết tờ thư nhắn gửi đàn ông khắp xứ - những ai sợ vợ, giận vợ, chán vợ - hãy theo bản đồ chỉ dẫn mà đến đảo này. Xong, anh nhét nút kỹ, ném chai xuống biển, để nhờ sóng gió đưa đi.
Và điều kỳ diệu xảy ra. Chỉ trong thời gian rất ngắn, đã có vô số đàn ông tấp nập kéo tới. Con số lên đến gần một ngàn người. Không khéo đảo sẽ bị nạn nhân mãn đàn ông. Bây giờ có một tập thể đông đúc như vậy, cần phải tổ chức, sắp xếp đội ngũ không thì sẽ gây hỗn loạn, bởi lẽ nhiều anh bị vợ đàn áp lâu năm đã có triệu chứng tâm thần phân liệt, một số nửa khùng nửa điên cười khóc thất thường, một số bị trầm cảm nặng, suốt ngày chỉ ngồi im lặng như đá, cạy răng cũng không nói được một lời. Dĩ nhiên, về chuyện ăn uống thì vẫn còn nhiều nhiệt tình.
Trần Thân được toàn thể bầu lên là đảo trưởng. Anh chọn ba chục đảo phó để làm phụ tá, vì có nhiều phó thì cái người chánh xem như là có quyền hơn. Rồi chia đủ thứ ban bệ để khai thác đảo, phần lo săn bắt thủy sản, phần lo trồng trọt, phần lo chăn nuôi. Về mặt duy trì trật tự, trị an thì có đội ngũ đề phòng các tay điên khùng quấy rối, mặt khác cũng phải canh chừng quanh đảo đề phòng phụ nữ tấn công. Dầu ở giữa chốn biển khơi xa xôi, song kẻ sợ vợ vẫn không vì vậy mà hết sợ được.
Đồng thời đảo cũng khuyến khích các môn giải trí để cho cơ thể cũng như tinh thần được sự giải tỏa, bởi sống xa vợ các anh đàn ông dễ bị ức chế gây ra manh động mà cứ tưởng lầm là cái bản lĩnh của kẻ yêng hùng. Hai môn được khuyến khích nhất là môn bóng đá và môn đô vật mà giới đàn ông nhiều năm ngộ nhận là môn thể thao riêng của giới mình. Không có quả bóng đích thực, người ta lấy các giẻ rách quấn tròn và đá với nhau xem cũng ra trò. Đồng thời đảo cũng mở một cửa hàng để các dân nhậu có thể đến uống rượu đế thả cửa, miễn là có cá, có củi để mà trao đổi. Rượu này do một ban bệ gồm nhiều chuyên viên chế cất trong một hang đá, song dầu họ có nhiệm vụ chở rượu ra quán nhưng không mấy khi thực hiện đúng kỳ, bởi lẽ sau khi nấu xong họ thường nốc say bí tỉ và lăn ra ngủ như chết. Đó cũng là điều mà khi phải sống với vợ, họ thường bị sự cằn nhằn, tiến đến chửi rủa - từ sự chửi ngắn lấn sang chửi dài - dẫn đến chén bát bể sạch. Cùng sống trên đảo với những đồng loại toàn là đực rựa, người ta khám phá ra rằng áo quần cùng với các mốt thời trang chỉ là sản phẩm phát sinh do sự đối phó với người khác giới. Bởi thế, ở đây ăn mặc là chuyện không cần bàn đến. Có gì mặc nấy, và nếu không có cũng chẳng sao cả. Lại càng mát mẻ!
Nói chung, ở một quần thể chỉ toàn nam giới, lại mang tâm lý sợ vợ, có biết bao nhiêu là chuyện quái đản, buồn cười không thể kể hết trong một truyện ngắn. Để củng cố sự ra đi của mình, mỗi tối thứ bảy thường có cuộc tập họp lớn để cùng nói xấu phụ nữ, cụ thể là nói xấu vợ, cho hả cơn tức bấy lâu. Nói riết, hết chuyện, người ta lại đặt điều ra, khiến ông đảo trưởng lấy làm kinh ngạc vì nhận thấy rằng đàn ông cũng có bộ óc hư cấu hết sức dồi dào. Và khi cần phải nói xấu người khác, họ tỏ ra có năng lực phi thường.
Sinh hoạt ở đảo cứ thế tiếp diễn, cho đến ngày nọ có một sự cố. Câu chuyện khá dài, song xin tóm lược như sau:
Thời ấy, một trong những nghề hốt được bộn bạc, đó là buôn lậu, làm các hàng giả và ra làm quan. Điều này khiến cho khá nhiều kẻ sĩ hăm hở đi học, thậm chí đút lót quan trên để mua đề thi với một giá cao đặng có cơ may chiếm được bảng vàng. Trên tinh thần ấy có gã Mai Trầm, người huyện Thanh Nê, mặc dù học dốt cũng xách khăn gói hăm hở ra chốn kinh kỳ. Đến bến Bạch Phố gã thuê chiếc thuyền để đi đường sông cho được thanh nhàn. Đi được năm ngày, chủ thuyền hết gạo, cạn nước, ghé lại gần chợ Liên Châu lên bờ mua đồ tiếp tế. Mai Trầm ngồi trong thuyền, nghe ở trên bến có tiếng người nữ hát rất não nuột, giọng thánh thót, tiếng dịu ngọt đến mê lòng người. Khi chủ thuyền về, gã hỏi:
- Người nào hát hay vậy kìa?
- Xin thưa, đó là cô gái hát dạo, nghe đâu chồng bị giam trong ngục tối, nàng phải làm nghề xướng ca kiếm tiền độ nhật để đến kinh kỳ kêu oan cho chồng.
- Hãy gọi nó đến cho ta.
Chủ thuyền ra đi, chốc lát đã dẫn người ca nữ về. Mai Trầm thoạt nhìn, đã thấy mê mẩn. Thế ra ngoài cái giọng ca diễm lệ, nàng có nhan sắc mặn mà khác thường. Gã bảo:
- Hãy ngồi xuống đây, nói cho ta rõ sự tình.
Cô gái cho biết tên là Từ Ly, họ Đào, lấy chồng là một nông dân tên Bái, họ Vương. Vì thấy quan trên tham nhũng, lộng hành, chồng nàng đã cùng bè bạn lên tiếng chống đối, lập tức đã bị bắt giam vào ngục. Nàng đã tìm kiếm khắp nơi không gặp mặt chồng, nay lên kinh đô kêu oan. Ngặt vì đường xa, tiền ít, phải hát để kiếm đồng tiền độ nhật. Mai Trầm gật gù:
- Cũng may cho nàng là ta đang trên con đường về chốn kinh kỳ ứng thí. Vậy cho nàng đi theo ta.
Từ Ly cúi đầu cảm tạ, lui về sau ghe.
Đêm ấy, Mai Trầm cho gọi Từ Ly và bắt nàng phải cùng gã vui vầy chăn gối. Từ Ly cự tuyệt. Mai Trầm đưa một nén vàng. Từ Ly lắc đầu. Y đưa hai nén. Từ Ly nghiêm mặt:
- Ông tưởng tôi có thể bán danh dự và thân xác tôi để lấy vàng sao? Cho dầu ngàn lượng vàng ròng cũng không mua được danh tiết tôi đâu.
Mai Trầm cả giận, đáp lại:
- Ca nữ mà còn làm bộ chê tiền.
Từ Ly trả lời:
- Dầu là ca nữ phải sống xó chợ đầu đường nhưng tôi cũng được giáo dục tôn trọng đồng tiền chính đáng do công sức mình làm ra, chứ không đem bán thân mình. Chỉ bọn tham quan lại nhũng, thấy tiền tối mắt, mới làm những chuyện ô danh.
Mai Trầm quát to:
- Đừng có nhiều lời. Mai đây thi đỗ, làm quan ta có vô số tì thiếp xinh đẹp gấp mười, gấp trăm nhà ngươi. Sá gì một gái có chồng tha phương cầu thực!
Qua ngày hôm sau, thấy ở đàng xa có một đảo nhỏ, gã hỏi chủ thuyền:
- Hòn đảo gì vậy?
- Thưa là đảo hoang. Xưa nay, trái đường ít ghe lui tới nên không đặt thành tên gọi. Gần đây nghe có một số đàn ông chán đời đến đó tu hành.
- Vậy hãy ghé lại.
Chủ thuyền tuân lời, cho thuyền cập vào một bờ đá hẹp. Mai Trầm đưa hai đồng tiền và cái chai nhỏ, bảo người chủ thuyền:
- Hãy sai cái con mất dạy lên tìm mua rượu cho ta.
Đợi Từ Ly vừa đi khuất sau một lùm cây, Mai Trầm ra lệnh:
- Cho thuyền đi thôi.
- Nhưng còn cô gái...
- Mặc kệ xác nó. Đó quả là đồ vô dụng, đem theo chỉ thêm gai mắt. Để nó sống chung với bọn tu hành trên đảo, thử có an toàn danh tiết hay không.
Chủ thuyền không nỡ bỏ rơi một người phụ nữ cô đơn ở giữa biển khơi, có vẻ chần chừ thì Mai Trầm quát:
- Ta đã thuê trọn thuyền này thì ta là chủ, muốn cho ai đi là tùy ở ta. Hãy lên đường ngay!
Và thuyền lướt sóng ra khơi.

Từ Ly lặng lẽ men theo triền đảo đi tìm quán rượu. Khi đến đầu dốc, quay lại, thấy thuyền chạy xa biết mình đã bị bỏ lại nơi đảo hoang này. Không còn cách nào khác hơn, nàng lại tiếp tục tìm vào bên trong, hy vọng gặp được nhà của ngư dân. Đang cúi đầu bước và nghĩ về thân phận lưu lạc của mình, bỗng nghe một tiếng rú lên:
- Trời ơi!
Nàng dừng bước lại. Sau một mỏm đá có người đàn ông đang đứng nhìn nàng lom lom, mắt mở trừng trừng trong một dáng vẻ kinh ngạc tột cùng. Cuối cùng, anh ta lắp bắp:
- Đàn... bà phải không?
Từ Ly gật đầu, thầm nghĩ: “Có lẽ đây là một gã điên khùng”.
Nhưng gã đã hốt hoảng bảo:
- Ấy chết! Nàng đừng bước tới kẻo mà mang họa vào thân. Ở đây đã có nghiêm luật: hễ gặp phụ nữ thì phải quăng ngay xuống biển để tránh đại nạn.
Từ Ly nói qua cảnh ngộ của mình, rồi than:
- Thế tôi phải làm sao đây? Chẳng lẽ ở đâu tôi cũng phải gặp những bọn đàn ông ích kỷ, hồ đồ vậy sao? Ở trên mặt biển là phường dâm loạn ác nhân, còn trên mặt đất là lớp cuồng điên tàn bạo. Nếu không vì cảnh chồng tôi tù tội hàm oan chưa được giải tỏ, thì tôi sẵn sàng làm mồi cho cá ở chốn biển khơi chứ nào thiết sống giữa chốn trần gian đầy ô nhục này.
Người đàn ông lộ vẻ xúc động, đáp lại:
- Ta chưa gặp ai xinh đẹp lại có tấm lòng chung thủy kiên cường như nàng. Vậy để ta tìm cách gì giúp nàng thoát cảnh hiểm nguy. Bây giờ hãy nghe lời ta tạm núp vào trong hang đá trước mặt. Đến tối, ta sẽ mang quần áo đến để nàng cải trang mà về ẩn trú nơi cái hàng quán mà ta đã được phân công điều hành.
Từ Ly không cách nào khác là phải nghe theo. Đến gần nửa đêm, Lý Hải - tên người chủ quán - đem đến cho nàng quần áo đàn ông, một khăn vấn đầu và chút lọ nồi để bôi lên mặt cho ra con người lam lũ. Họ cùng đi con đường tắt về quán. Tới đây, Lý Hải đưa nàng vào một buồng nhỏ phía sau và đem cơm nước cho nàng. Gã bảo:
- Hãy cứ suốt ngày nằm yên trong đó, đừng có thấp thoáng ra ngoài.
Gã còn cẩn thận đặt vào bên trong hai cái chậu nhỏ, để người đàn bà giải quyết đầu ra cho bản thân mình.
Từ đó mỗi ngày hai lần gã đem cơm nước vào cho Từ Ly. Ban đầu nàng còn lo sợ nhưng sau thấy gã luôn tỏ thái độ nghiêm cẩn và kính trọng nàng nên mới yên lòng. Song phải giam cầm như thế cho đến bao giờ? Một hôm, Từ Ly nói lên nguyện vọng của mình:
- Kính thưa ân nhân, tôi được sống yên nơi đây là một điều may mắn lớn song cứ nghĩ đến nỗi oan chồng tôi chưa được giải tỏ thì không làm sao có thể an lòng. Mong ngài giúp tôi rời khỏi chốn đảo hoang này thì tôi xin nguyện suốt đời không quên ơn ngài.
Lý Hải đáp lời:
- Ta đã nghĩ đến điều này từ ngày đầu tiên gặp nàng. Từ lâu ta cứ nghĩ rằng đàn bà là kẻ nhà trời sai xuống để mà dằn vặt đàn ông, nay gặp được nàng thấy quả là mình lầm lớn. Xinh đẹp, lại không con cái, nàng rất có thể làm lại cuộc đời một cách an lành, đâu phải đem thân lặn lội chịu nhiều gió bụi, đọa đày để mà vì chồng giải nỗi hàm oan. Song nàng không ỷ tài, sắc của mình để làm hoen ố cái đức của người phụ nữ trung trinh, ta xin bái phục. Nay ta đang đóng chiếc bè để giúp đưa nàng về chốn đất liền, hãy gắng chờ đợi. Và ta sẽ đi với nàng, giúp nàng tìm gặp được chồng.
Từ Ly ôn tồn:
- Ngài quá lời khen, song tôi chỉ là một kẻ tầm thường cố gắng giữ trọn đạo người đó thôi. Nếu có chiếc bè, tôi liệu có thể một mình chèo chống, khỏi phiền lụy ngài rời đảo.
Lý Hải bèn nói:
- Gặp một phụ nữ như nàng, ta không thấy còn có lý do nào để ở lại đây. Chỉ mong giúp nàng đoàn tụ, là ta vui rồi. Ngoài ra cũng phải thú thật điều này: nếu lỡ chồng nàng không còn ở trên thế gian thì ta xin được chung sống với nàng.
Từ Ly đáp lại:
- Đa tạ lòng ngài đã chiếu cố đến con người bèo bọt như tôi. Nếu rủi ro tôi trở thành góa phụ thì xin được ở ba năm phục tang cho chồng, mới dám nghĩ đến đền ơn cứu mạng của ngài.
Lý Hải không giấu được sự cảm động:
- Cho dầu đợi nàng năm năm, mười năm ta cũng vui lòng.
Từ Ly mỉm cười:
- Ngài không sợ thiếp già sao?
- Một người cao quý không bao giờ già.
Từ Ly im lặng, rồi nói:
- Nhưng ngài đã phạm cái lỗi mà đa số kẻ đàn ông vẫn thường mắc vào.
- Cái lỗi gì vậy?
- Là trong những phút xúc động, hứng khởi, đàn ông thường quên mất vợ ở nhà. Ngài nên nghĩ đến người đang chờ đợi mỏi mòn ngày ngài về lại quê xưa.
Lý Hải im lặng, cảm thấy bối rối, thẹn thùng. Lát sau mới nói:
- Cái chính là ta phải giúp đỡ nàng. Mọi việc, về sau, xin để cuộc đời sắp xếp.
Hôm sau, một bạn thân của Lý Hải là Trọng Thìn nhân ra vườn sau hái mấy cọng ngò vào thêm gia vị cho bữa ăn nhậu, lại đi tắt qua ngôi buồng phía sau. Bỗng gã khịt mũi kêu lên:
- Lạ kìa! Có mùi đàn bà!
Lý Hải kịp nghe, chạy đến:
- Thôi đừng nói nhảm! Làm gì có đàn bà ở đây?
Trọng Thìn vẫn cứ khìn khịt, rồi bảo:
- Ta đã sống với phụ nữ trên mấy mươi năm, đâu có lầm được. Phàm trong tạo vật cái gì cũng có mùi riêng của nó, không thể lẫn lộn vào đâu. Hễ gừng thì có mùi gừng, mà quế thì có mùi quế, con cọp có mùi khác với con trâu, đàn ông có mùi khác với đàn bà. Chỉ những lỗ mũi điếc đặc mới không nhận thấy cái hương vị riêng của từng loại một.
Rồi gã la lên:
- Rõ ràng gần đây hẳn có đàn bà! Có thể chị em đã lén đột nhập vào đây để mà ám hại chúng ta cũng chưa biết chừng! Để ta lục soát trong căn buồng này xem sao.
Lý Hải hoảng quá, bấm gã kéo ra phía sau, thú thật mọi điều. Trọng Thìn đòi được gặp mặt Từ Ly mới chịu nín thinh. Khi thấy mặt nàng, gã bỗng sững sờ, chỉ nói:
- Tội nghiệp cho nàng!
Rồi gã bước ra. Lý Hải khẩn khoản:
- Mong bạn thương tình, đừng có tiết lộ cho ai biết rõ điều này.
Trọng Thìn gật đầu một cách khẳng khái, ra về trong nỗi xúc động khó tả. Nhưng suốt đêm ấy, gã không ngủ được. Gần sáng, gã bèn gọi người bạn thân tên là Huỳnh Tâm kể lại sự việc hôm qua, với lời dặn dò khẩn thiết là đừng tiết lộ cho ai biết được việc này.

Một sự bí mật đã có đến ba con người nắm giữ, cũng giống như một con chim nhốt trong chiếc lồng có ba cửa mở. Do vậy, một thời gian ngắn, gần nửa dân đảo đã biết là có một người phụ nữ được giấu trong chiếc buồng nhỏ của quán Lý Hải. Ban đầu mọi người xem đó như là chuyện lạ, sau thấy ngờ vực, rồi sinh ghen tị. Bởi anh đàn ông nào cũng nghĩ rằng chỉ mình mới là con người lý tưởng của các cô gái xinh đẹp, còn những đực rựa nào khác đều là bất xứng. Do đó, một thời gian sau toàn đảo đều biết sự bí mật này.
Đảo trưởng giận lắm, coi đây là biến cố lớn vì đã vi phạm kỷ luật hàng đầu của đảo, cho năm chục người cầm đủ gươm giáo đến vây nhà quán vào lúc sập tối, bắt cả Từ Ly cùng với Lý Hải dẫn về nhà việc của đảo nơi có một sân rộng đốt đống lửa lớn, chung quanh dân đảo đã được tập họp đông đủ.
Mở đầu, đảo trưởng tuyên bố lý do, kết tội Lý Hải đáng bị bắt giam nhịn đói mười ngày dưới một hầm đất sau khi chịu đánh đúng ba trăm gậy vì tội đồng lõa với kẻ gieo họa, còn nàng Từ Ly thì phải bị trói và ném xuống biển. Trước khi thi hành bản án, để cho có vẻ dân chủ, đảo trưởng cho cả hai người được tự biện hộ. Lý Hải cho rằng cô gái không phải là vợ của bất cứ ai trên đảo, nên không thể xem cô như kẻ thù, hơn nữa cô là nạn nhân của một đàn ông, nên cô đáng thương hơn là đáng tội. Ngoài ra Lý Hải cũng đã đóng bè để cô ra khỏi nơi này - hiện bè vừa mới đóng xong - là cốt để giữ vững sự bình yên của đảo. Nếu Lý Hải bị xử phạt, thì hầu hết người trên đảo cũng phải xử phạt như vậy, vì họ đều cùng giữ chung sự bí mật này trước khi bị một vài kẻ tiết lộ.
Những lời nói của Lý Hải khiến cho mọi người bối rối và cùng ngồi im, không biết phải nên phản ứng thế nào. Lý Hải nói tiếp:
- Hơn nữa, xin mời quý vị nghe người đàn bà nói rõ về mình. Quý vị sẽ thấy người đó đáng thương, hay là đáng tội.
Đảo trưởng ra lệnh cho nàng Từ Ly trình bày sự tình. Nàng tỏ thái độ cung kính và rất điềm nhiên ra giữa đám đông, cúi đầu chắp tay thi lễ trước các chức sắc của đảo, rồi với một giọng dịu dàng, truyền cảm, kể lại sự việc của mình. Chồng bị bắt oan khi đã đứng lên bênh vực lẽ phải, sai nha nhũng lạm vét sạch bạc tiền khiến cha mẹ chồng buồn khổ nên lâm bệnh nặng, qua đời, nàng bồng con nhỏ đi gõ cửa quan, ngày tháng dãi dầu sương nắng, đứa con đã bị tử thần cướp đi. Lang thang đây đó, nàng phải hát dạo kiếm tiền để ra kinh đô kêu oan cho chồng. Vì không chiều theo thú tính của một kẻ sĩ ác ôn, nàng bị bỏ rơi trên đảo.
Khi nàng Từ Ly dứt lời, tất cả đều chìm trong sự yên lặng kỳ lạ. Có vài tiếng khóc sụt sùi đâu đó vẳng lên. Họ không ngờ được gặp gỡ một người đàn bà chẳng những xinh đẹp mà còn cao cả đến vậy. Đồng thời họ nhận thấy rằng, hóa ra tất cả nỗi khổ đa dạng mà người đàn bà chịu đựng đều do chính bọn đàn ông gây ra. Một tay diễn viên sân khấu vì quá sợ vợ mà chạy ra đây, nghe Từ Ly nói đã phải làm nghề hát xướng kiếm ăn qua ngày bèn tìm cách để phá tan không khí bi thương và trầm uất ấy, nên đã phát biểu:
- Để chứng thực cho lời nàng vừa kể, nàng hãy hát lại một đoạn nào đó cho chúng ta nghe xem nào!
Từ Ly cúi đầu, tỏ ý tuân lệnh, rồi cất tiếng hát rất là não nuột:
Vượt trăm ngàn ngục nhân gian
Tìm đâu cho thấy mặt chàng thì thôi
Con thơ như ngọc tan rồi
Mẹ cha khuất bóng, còn đôi đứa mình.
Đưa tay vuốt tóc còn xanh
Bạc đầu riêng vẫn để dành cho nhau.
Nàng vừa dứt lời, tiếng khóc bỗng nổi vang lên ở trong đám người chung quanh. Đảo trưởng cố nén mình lại để giữ thể diện, cuối cùng bật khóc to hơn mọi người. Phần vì thương cảm cho cảnh ngộ nàng, phần vì từ lâu vốn bị ức chế do sống xa vợ nên đây là dịp để cho các đấng mày râu giải tỏa nỗi lòng.
Cuối cùng, đảo trưởng phán rằng:
- Cảnh ngộ người đàn bà này thật là đáng thương, thay vì trừng phạt theo luật, ta cho hưởng sự khoan hồng. Ngay trong đêm nay, phải rời khỏi đảo. Chỉ cần một người áp tải đi về đất liền.
Lố nhố hàng chục, rồi đến hàng trăm và gần như mọi người ngồi chung quanh đều đưa tay lên xin đi với người đàn bà. Đảo trưởng lại phán:
- Kẻ nào nhìn thấy người đàn bà trước, kẻ ấy phải có nhiệm vụ dẫn độ.
Như thế, Lý Hải được chọn vào nhiệm vụ này. Anh ta bước ra, xin nói vài lời:
- Để cho đảo được an lành, tôi sẽ đưa ngay Từ Ly vượt biển sau khi quý vị ra về. Song tôi thưa thiệt đôi điều: chính sự gặp gỡ người đàn bà này giúp tôi suy nghĩ để nhận thấy rằng xưa nay đàn ông đã gây quá nhiều nỗi khổ cho giới đàn bà. Nếu họ có phản ứng lại, cũng vì chúng ta quá quắt, chứ không phải họ có một ác tâm. Nay người đàn bà như nàng Từ Ly bị chính bao nhiêu đàn ông gây hại, thế mà đàn ông chúng ta lại đi tìm chỗ lẩn tránh, thật là quá đỗi phũ phàng. Nghĩ cho tận cùng thì dốc toàn lực ra để bênh vực, chăm sóc chị em đến trọn cuộc đời chúng ta, vẫn là chưa đủ. Chính vì lẽ ấy, tôi xin được phép vĩnh viễn ra đi khỏi đảo để trở về với đất liền, trở về với những trách nhiệm đang réo gọi mình.
Lý Hải nhìn thấy mọi người gục đầu như đang suy nghĩ. Đảo trưởng cũng không nói một lời nào. Lý Hải đến dắt Từ Ly rời khỏi đám đông, vội quay về quán gom góp một ít vật dụng cần thiết, rồi cùng xuống bè, chèo gấp ra khơi vì sợ các vị trên đảo bất thần đổi ý.
Câu chuyện về sau thế nào thì không được nghe kể lại một cách rõ ràng. Chỉ biết, vài ngày sau đó, trên đảo người ta dần dần biến mất, còn ông đảo trưởng là kẻ ở lại cuối cùng. Nhưng rồi ông cũng ra đi vì cả dân đảo cùng ba chục vị đảo phó đã không còn nữa.
Các sách ghi lại chuyện này, căn cứ vào những đàn ông tập trung ở đảo, nên gọi tên là Dương Đảo, bởi dương là tiếng dành riêng cho lớp đực rựa, song trong dân gian người ta vẫn hiểu dương còn có nghĩa là dê, nên quen gọi là đảo dê.
1990
Chất ngọc
Ở đất Hào Dương có gã Sầm Hiệu sống nghề cày cuốc, tính tình thẳng thắn nhưng rất thô lỗ, cộc cằn. Trong buổi tụ họp đông đảo nếu Sầm mở lời cười đùa thế nào cũng làm mất lòng trên ba bốn người là ít. Tính Sầm lại vốn ghét sự làm thinh, thấy gì trái ý thì nói chẳng nể nang gì nên đám bạn bè nhiều kẻ xa dần. Con gái trong thôn chưa chồng kể cũng khá nhiều vậy mà Sầm không bắt tình được với cô nào. Hễ Sầm mở lời chòng ghẹo thì y như các cô đều háy nguýt, ngúng nguẩy bỏ đi. Nhiều cô gặp Sầm, vội vã rẽ ngang đường khác. Cha mẹ của Sầm già nua, thấy con lớn tuổi mà vẫn nằm ngủ một mình lấy làm thương lắm, thường mượn mai mối dọ hỏi nhiều nơi nhưng vẫn không một nơi nào ưng thuận. Một hôm đi thăm quê ngoại trở về, Sầm ghé qua núi Trúc Sơn, thấy ngôi cổ mộ của Lý Thiên Vương cỏ mọc um tùm bèn ngồi nhổ cỏ. Xế chiều, dọn cỏ gần xong bỗng thấy một cô gái từ hốc núi đi ra, tay xách giỏ rau. Thấy Sầm, cô gái bèn nói:
- Con cháu bất hiếu dữ ha! Đã bao năm nay mới thấy tìm đến nhổ cỏ!
Sầm trợn đôi mắt tròn xoe, quát rằng:
- Nói thế mà chẳng ngượng mồm! Ta vốn họ Sầm, nào thân thích gì với họ Lý đâu? Nhưng Thiên Vương đây là người lính già đã hơn mười lần đuổi giặc để cho thôn xóm bình an, chẳng may lại bị giặc giết, thế mà chẳng có một ai quét dọn mộ phần, để cho gai bám bụi lùm như nơi hoang địa. Ngày nay hỏi chúng ta đây được sống yên ổn thì ai chẳng tự xem mình như là con cháu Thiên Vương mà còn phân chia dòng họ? Ngươi vốn là dân vùng này, tuy rằng phụ nữ nhưng chẳng lẽ quên anh hùng, đâu cứ ngồi đợi kẻ ở xa đến dọn cỏ thế này? Hay ngươi cho rằng chỉ có mộ phần của hàng tướng lãnh mới đáng hương trầm khấn vái mà khinh nấm đất của hạng sĩ tốt vô danh?
Cô gái đặt bó rau xuống, chắp tay ôn tồn:
- Thiếp xin chịu lỗi đã dám lỡ lời xúc phạm, nhưng dù không phải là người vùng này, hằng năm vào tiết thanh minh thiếp cũng đến đây dọn cỏ cho người dưới mộ. Nếu không, nơi đây gai đám bụi lùm đã giăng phủ kín mất rồi.
Sầm vội kêu lớn:
- Thế thì ta lỡ lời rồi! Thật ta ngu hơn một con heo nhỏ! Mong nàng coi như ta không có nói lời nào.
Nói rồi phủi tay, cắp nón chuẩn bị lên đường. Cô gái nép bên vệ cỏ, nhường bước cho Sầm:
- Trời đã xế chiều, rước chàng đi trước kẻo đàn bà đợi ở nhà.
Sầm cười rất to:
- Ta chưa có vợ, làm gì mà có đàn bà đợi chờ?
Cô gái tỏ ý ngạc nhiên:
- Lớn tuổi thế này mà chưa có vợ thật sao? Hay là chàng quyết ở vậy một mình?
Sầm đáp:
- Dại gì mà ở một mình! Ta cũng thích cưới vợ lắm, nhưng đã dò hỏi nhiều nơi mà các cô gái thảy đều một mực chối từ.
Cô gái bèn hỏi:
- Chê chàng điều gì?
- Chê ta ăn nói vụng về khó nghe.
Cô gái mỉm cười:
- Lấy nhau đâu phải vì nơi chót lưỡi đầu môi.
Rồi nàng e lệ nói tiếp:
- Nếu chàng không chê thiếp xấu thì xin vì chàng sửa trắp nâng khăn.
Sầm không giấu được mừng rỡ, la lên:
- Hay lắm! Ta cũng có nghĩ điều ấy, nhưng sợ nói ra lưỡi vấp gai chông của thái độ nàng.
Cô gái bật cười:
- Bây giờ chàng nói rất hay rồi đó.
Cô gái tên là Chúc Anh, họ Diệp, ở Hoàng gia trang, cách quê Sầm Hiệu hơn chục dặm đường. Mồ côi cha mẹ, nàng ở với một người cô, hết lòng hiếu thảo. Ông bà thân sinh Sầm Hiệu khi nghe tỏ rõ tình đầu hãy còn nghi hoặc, nhưng sau cho người dò hỏi biết được sự thực thì lấy làm mừng. Sau lễ dạm hỏi, Sầm Hiệu năng đến thăm viếng Chúc Anh, hai bên rất là ý hiệp tâm đầu. Mùa xuân năm sau, song thân Sầm Hiệu chuẩn bị lễ cưới cho con thì gặp dịp quan Tổng trấn Hào Dương ra lệnh tuyển mộ thanh niên gia nhập vào đội phòng vệ, vì lẽ tình hình trong trấn càng ngày càng bất ổn. Sầm Hiệu từ giã cha mẹ và nàng Chúc Anh lên đường. Quan Tổng trấn này họ Trầm, tên là Chính Hiệp, tên nghe rất tốt mà người rất dữ. Tay quan lúc nào cũng vung vẩy con roi sắt, miệng quan gào thét như khạc gươm đao, nhân dân đứng trước mặt quan ai cũng run sợ cúi đầu. Quan thích như thế nhưng dân chẳng ai lấy thế làm thích.
Từ khi quan về Hào Dương thì cảnh đói khổ càng tăng, trộm cướp mọc lên như nấm. Quan bèn cho in nhiều sách thánh hiền, tung ra khắp nơi cốt để ổn định nhân tâm. Sách không ai đọc vì đa số dân đều không biết chữ. Những người biết chữ thì không có đủ thì giờ xem sách. Một số có thì giờ xem, thấy sách nói toàn những chuyện xa xôi, bèn sinh bực tức muốn đi ăn cướp.
Quan bèn lập ra một đội Phòng vệ để đàn áp nhân dân. Bệnh không chịu chữa từ gốc nên chặn chỗ này lại phát chỗ kia. Gặp năm trời làm thiên tai, nước sông Bạch Hà tràn lên sáu dặm ngâm mùa suốt một tháng trời, dân chúng cả miền Trà Lý phải hái rau cỏ ven núi mà ăn. Kịp đến vụ thuế, quan bắt dân nộp, tiếng dân kêu trời như bộng. Xã trưởng bị quan dồn vào thế bức, thắt cổ mà chết. Quan truyền cho lính Phòng vệ kéo về Trà Lý bắt trói những chủ gia đình đem về hạ ngục. Khi đội Phòng vệ sắp sửa lên đường, Sầm Hiệu ra trước mọi người nói to:
- Chúng ta nhất quyết không đi!
Quan bèn nạt lớn:
- Kẻ nào trái lệnh thì ta chặt đầu!
Sầm Hiệu vẫn cứ la to:
- Chặt đầu thì chặt, dân đói thì dân phải kêu, không thể bắt dân giam vào ngục được.
Quan thét:
- Phản tặc! Mày không biết mày là lính nhà quan hay sao mà dám cãi bướng!
Sầm Hiệu ngẩng cao đầu, giậm chân, trợn mắt cãi lại:
- Ta ăn hột gạo quan cho nhưng lúa gạo ấy chính là do dân làm lụng khổ cực mới có. Bọn ta thật sự là lính nhà dân đấy thôi. Khi nào quan cùng với dân một lòng một dạ thì ta là lính nhà quan. Nay quan hại dân thì quan là đồ phản tặc, ta quyết chống lại.
Tổng trấn hạ lệnh đao phủ chặt đầu. Bọn đao phủ thấy Sầm Hiệu mặt đỏ bừng bừng, mắt trợn tròn xoe, vành môi mím lại trong một khí phách kiêu dũng lạ thường, thảy đều khiếp sợ không dám lại gần. Quan phải đòi chặt đầu luôn cả bọn, chúng mới xông vào bắt trói Sầm lại rồi đem cột vào cây trụ, khai đao. Lạ thay, chém trên mười nhát mà đầu Sầm vẫn trơ trơ. Đao phủ thảy đều khiếp sợ, xanh xám mặt mày. Quan bèn nạt lui mọi người, rút thanh bảo kiếm chém liền ba nhát nhưng hễ mỗi lần lưỡi gươm bén đến da cổ thì hình như bị sức mạnh lạ lùng bật tung trở lại. Quan cũng thất sắc. Sầm Hiệu tuy bị quỳ gối trói sấp ké vào cột trụ nhưng đầu vẫn cứ ngẩng cao, cả mắt cả miệng đều biểu lộ sức phẫn nộ mãnh liệt lạ thường.
Quan bỗng nảy ra độc ý, truyền bắt cha mẹ của Sầm, cả nàng Chúc Anh về dinh rồi truyền cho lính xử trảm. Khi bọn đao phủ đem thanh kiếm còn dính máu khoa lên trước mặt thì Sầm Hiệu chợt thất sắc cúi gục đầu xuống, nhưng rồi lại ngẩng đầu lên. Lưỡi gươm chém vào da thịt, máu tuôn xối xả từng dòng nhưng đầu vẫn không chịu rụng. Quan truyền chặt đầu những người chống thuế ở thôn Trà Lý vừa mới giải về. Lạ thay, lưỡi gươm dính máu nhân dân chạm vào da cổ thì đầu Sầm Hiệu cũng rơi xuống đất.
Tổng trấn hạ lệnh ném xác Sầm Hiệu xuống biển. Trời rất giá buốt, mưa tuôn dầm dề, nửa đêm mấy người thuyền chài lặn xuống mò xác rồi đem vào chôn dưới núi Hào Sơn. Mấy ngày sau đó, không ai bảo ai mà trên mộ phần luôn luôn có đặt hoa quả hương trầm. Ngôi mộ mới đầu nhỏ bé, nhưng mỗi một người đến thăm bỏ vào nắm đất, nhiều ngày ngôi mộ trở nên cao lớn uy nghi. Ban đầu, người ta còn đi cúng lễ lén lút, lần lần người ta kéo đến khấn vái ngang nhiên, biến ngôi mộ phần của Sầm thành nơi hiển địa. Ngôi mộ càng lớn, tên tuổi Sầm Hiệu càng được lan xa, kỷ niệm của Sầm ở nơi lòng người càng thêm sâu đậm.
Tổng trấn biết sự tình ấy lấy làm giận lắm, truyền cho khai quật mộ Sầm để lấy hài cốt hỏa thiêu. Khi quân đào xuống thì xương cốt Sầm đã rời rã từ bao giờ, hòa tan với đất thấm vào cây cỏ, chỉ còn một khối ngọc hồng như kết tinh lại máu huyết uất hận từ tim.

Quân đem khối ngọc về trình Tổng trấn. Vốn có máu tham, quan truyền rửa ngọc rồi đem cất kỹ trong nhà. Tối đến, quan thấy ánh sáng tỏa khắp gian phòng. Nhìn vào khối ngọc quan bỗng giật mình thấy khuôn mặt Sầm hiện lên, phừng phừng lửa giận, mắt trợn tròn xoe, nhưng hai vành môi trễ xuống trong một nỗi niềm thương cảm vô biên. Tổng trấn khiếp sợ, mồ hôi tuôn vã như tắm, vội vàng nhét ngọc vào rương, khóa kỹ, nhưng ánh sáng vẫn chiếu ngợp cả phòng. Thâu đêm quan không ngủ được, giật mình thấp thỏm nhiều phen, cứ vừa chợp mắt là thấy khuôn mặt dị thường của Sầm hiện rõ.
Mờ sáng, quan truyền quân lính đem ngọc ném xuống một vực biển sâu. Tối đến mặt bể sáng tỏ một vùng. Ánh sáng rực rỡ lóng lánh xuyên từng lớp nước, chói rạng hào quang, những người thuyền chài mò xuống để tìm khối ngọc. Ngọc không thể giữ làm món của riêng được truyền đi khắp và những kẻ nào ao ước được gặp mặt Sầm bây giờ náo nức tìm xem ngọc quý. Nhìn đến khuôn mặt, thấy niềm thương cảm đọng ở bờ môi và lửa giận phừng phừng trên đôi mắt, ai cũng chan hòa giọt lệ. Giọt lệ rơi trên khối ngọc làm cho chất ngọc sáng tỏ lạ lùng. Nước mắt dội xuống càng nhiều, ngọc càng sáng chói. Tiếng đồn càng xa, quan Tổng trấn lại thêm một phen nổi trận lôi đình. Quan liền hạ lệnh tịch thu viên ngọc, lần này không phải giữ lại để làm của quý mà truyền đao phủ đập tan.
Bao nhiêu sức búa vẫn không lay chuyển khối ngọc. Búa càng nện, ngọc càng lì, người ta tưởng chừng như qua tiếng búa nện xuống vang vang nghe được giọng nói căm hờn của người lính trẻ. Tổng trấn nhớ lại thanh gươm vấy máu ngày xưa. Và khi lưỡi gươm còn đọng chất máu nhân dân vừa chém thẳng xuống, ngọc vỡ tan thành mảnh nhỏ trăm muôn. Ở trong mỗi mảnh hồng ngọc lưu ly lại có bóng hình Sầm Hiệu cùng với nỗi giận niềm thương ở trên cặp mắt, đôi môi.
Từ đấy, bao nhiêu mảnh ngọc lại được truyền đi trong khắp dân gian. Thiên hạ lưu giữ ngọc ấy làm một bảo vật để gửi lại cho đời sau. Ngày nay có nhiều người lính còn mang trong lòng chất ngọc lưu truyền, chất ngọc tượng trưng cho sự kiên quyết bảo vệ lẽ phải và lòng thiết tha yêu mến nhân dân.
1-1960
Câu chuyện mất ngựa
Gần tết Nhâm Ngọ, ông Thất Cừ ở kinh đô về, cỡi con ngựa ô tuyệt đẹp. Một tối, ông ghé nghỉ lại quán trọ bên đường, sáng dậy thì con ngựa ông biến mất. Dò theo các dấu chân ngựa, ông Thất tìm đến một ngôi nhà nhỏ ven rừng. Ngôi nhà xác xơ cô độc, khiến ông nghĩ tới sào huyệt bọn cướp. Lúc đó trời đã đứng bóng, ông Thất bụng đã đói mèm. Ông tới sát vách, ghé tai nghiêng mắt nhìn vào bên trong. Gian nhà trống trải chỉ có mỗi chiếc giường tre ọp ẹp, trên đó một người nằm ngủ say vùi, tiếng ngáy kêu ồn như tiếng cưa gỗ. Ông Thất gọi cửa, hồi lâu, người kia mới bừng tỉnh giấc. Dụi mắt, vươn vai, anh ta lảo đảo bước ra, chống cửa mời ông Thất vào.
Ông Thất vội nói:
- Tôi đến đây làm phiền anh, là vì tôi mất con ngựa trong đêm vừa rồi.
Chủ nhà, một người gầy ốm, với đôi mắt sáng và chiếc miệng nhỏ nhìn xéo ông Thất mà không nói một tiếng nào.
Ông Thất lại tiếp:
- Kẻ đã sơ suất bị trộm lấy mất đồ vật phải chịu thiệt thòi. Đáng lẽ thì tôi không được quyền hỏi đến anh, nếu không nhìn thấy dấu ngựa của tôi đi vào nhà này.
Người kia vẫn trầm ngâm một lúc lâu, rồi chậm chạp nói:
- Kể ra đôi mắt của ông khá tinh, nhìn ra được dấu chân ngựa trên nửa ngày đường bụi cát không phải là chuyện dễ dàng. Vậy xin hỏi thiệt: bây giờ ông muốn thế nào?
Ông Thất đáp ngay:
- Muốn chuộc lại con ngựa ấy.
Người chủ nhà đáp:
- Chậm quá. Ngựa đã bán rồi.
- Bán ở nơi nào? Tôi sẽ tìm đến.
Người chủ nhà nhíu mày, bảo:
- Ông có sẵn tiền nên mua ngựa khác mà dùng, chuộc làm gì thêm phiền phức.
- Nhưng đó là con ngựa quý, tôi đã nuôi lâu. Vật đã quen người không thể nhất đán xa lìa mà không tìm cách thâu hồi trở lại.
- Chắc là ông chưa ăn trưa?
- Thú thiệt là chưa. Quanh đây không tìm thấy quán xá nào.
- Còn ít cơm nguội và mắm để dành buổi chiều. Ông có thể ăn đỡ đói.
Chủ nhà lại xuống lúi húi dọn cơm. Ông Thất ngồi nhìn căn nhà vắng vẻ, trống trải, nghĩ ngợi lan man về người đã lấy trộm ngựa của mình. Nhưng quá đói lòng nên khi chủ nhà vừa bưng cơm lên, ông không đợi mời tới tiếng thứ hai, cầm đũa ăn liền. Bữa cơm quá mức thanh đạm nhưng chưa bao giờ ông Thất ăn ngon như vậy. Uống một bát nước chè tươi để thêm no bụng, ông ngả lưng ra trên giường, gối đầu trên chiếc gối gỗ, lim dim tìm giấc ngủ trưa.
Thiếp được một giấc nên thấy đã bớt nhọc mệt của chuyến đi tìm vất vả từ sớm, ông bèn ngồi dậy. Chủ nhà ngồi im dưới đất, dựa lưng vào cột, phì phèo một điếu thuốc lớn. Ông Thất xẵng giọng:
- Thế nào, con ngựa tôi đâu?
Chủ nhà nhìn ông, trả lời:
- Đã nói bán rồi.
Ông Thất hùng hổ đứng lên, nói lớn:
- Tôi bảo cho tôi chuộc lại kia mà.
Chủ nhà vẫn cứ ngồi yên không đáp. Ông Thất giận dữ la lên:
- Hay thiệt! Ngươi đã ăn cắp ngựa quý của ta, đã chịu thú nhận như vậy, rồi khi ta thấy cảnh ngươi nghèo đói muốn bỏ tiền ra chuộc lại, ngươi vẫn làm thinh là nghĩa lý gì? Coi thường luật pháp như nhà ngươi đây là quá lắm rồi.
Chủ nhà bỗng cười to lên, đáp lại:
- Ông đừng nổi nóng, vô ích. Đáng lẽ ông phải hiểu rằng ta không thèm chối chuyện ăn cắp ngựa từ đầu, bởi ta không phải là hạng chuyên nghề ăn cắp. Nếu cần nói cho ra lẽ, thì dấu chân ngựa của ông vào đây chưa phải là bằng chứng chắc để ông nhất quyết là ta ăn trộm. Ai cấm kẻ gian cỡi con ngựa quý của ông ghé vào xin nước, xin cơm như ta sẵn sàng để thết đãi ông vừa rồi?
- Nhưng ta bảo thật: ta cần con ngựa, dù phải trả bằng giá nào.
- Vậy thì ông cứ tự tiện tìm ngựa, nào ai có cản ngăn đâu?
Ông Thất không nén được giận, nhảy đến toan nắm lấy cổ người kia kéo dậy thì gã gạt tay ông ra, chồm lên:
- Được lắm. Ngươi thắng nổi ta, thì cho ngươi lại con ngựa.
Hai người hăm hở xông tới, huơ quyền đánh nhau. Trong ngôi nhà chật, họ phải áp tới loạn đả và ban đầu còn tỏ chút dè dặt để dò sức nhau, dần dần chính sự va chạm cơ thể mạnh mẽ khiến họ được đốt nóng lên, quyết ăn thua đủ.

Nhưng hai đối thủ thật là cân sức nên sự thắng bại khó quyết định được. Họ im lặng tấn công nhau, dùng các ngón nghề thành thạo để giành ưu thế. Ông Thất tinh thông võ nghệ nhưng các đòn đánh không nhanh, không chắc như người chủ nhà, ngược lại các thế đánh của chủ nhà đều bị ông Thất ngăn chặn. Cuộc đấu kéo dài khá lâu, hai đối thủ đã mệt nhoài và đến một lúc họ dừng tay lại để thở.
Người chủ nhà nói:
- Vậy thì ông chưa thể lấy lại con ngựa quý.
Ông Thất đáp lại:
- Được lắm. Ta sẽ tiếp tục.
Cả hai lại xông vào cuộc giao đấu. Bây giờ ông Thất quyết dùng các ngón độc hiểm để hạ tên trộm gan lì, nhưng tất cả ngón bí truyền của ông vẫn không thể nào quật ngã được hắn. Có lúc ông dùng song phi tới tấp theo kiểu liên hoàn tưởng quật được gã, nhưng lúc ông toan áp đến khóa chặt gã nằm dưới đất thì gã đã lanh hơn một con sóc trườn mình nhổm dậy hươi cả song quyền vào bụng của ông. Càng giao đấu, ông Thất nhận thấy gã ăn trộm ngựa là tay bản lĩnh cao cường và gã không dùng một ngón đòn nào thật là ác độc để triệt hạ ông.
Họ đánh đến chiều thì mệt rã rời. Hai người chỉ còn thủ thế nhìn nhau, chờ đợi đối thủ sơ hở để tấn công. Bên ngoài hoàng hôn xuống mau giữa chốn rừng cây vắng vẻ và tiếng bìm bịp, chào mào kêu vang trong các bụi rậm, nhớn nhác đón chờ đêm tối. Trong nhà, hai người không còn nhìn rõ nhau nữa. Đó là hai cái bóng đen vờn nhau, tiếng thở hào hển mỗi lúc mỗi vang to hơn. Cuối cùng, gã chủ nhà bảo:
- Trời đã tối rồi, chúng ta hãy nghỉ tay đã. Tôi còn phải lo cơm nước cho hai chúng ta.
Ông Thất không mong đợi gì hơn cuộc hưu chiến. Ông buông tay, đến ngả người trên chiếc giường, kéo áo lau lớp mồ hôi dầm dề trên mặt. Người chủ nhà chậm chạp xuống bếp thổi lửa, đốt một bó đuốc dầu chai cắm giữa gian nhà. Đoạn hì hục nấu cơm tối. Ông Thất thiếp đi một giấc mê mệt rồi nghe gọi dậy. Chủ nhà đã đặt mâm cơm dưới đất, cạnh ngọn đuốc sáng và mời ông lại. Trên chiếc mâm gỗ cũ kỹ chỉ có chén nước mắm lớn, một ít rau rừng luộc chín, cạnh một nồi cơm.
- Mời ông dùng tạm bữa cơm nghèo khó. Chắc ông đã quen với món cao lương, khó lòng dùng mãi các thứ đồ ăn thanh đạm thế này.
Ông Thất cố giữ vẻ mặt tự nhiên, đáp lại:
- Chủ nhà có lòng cho ăn là tốt lắm rồi.
Và ông ngồi lại, ăn khá ngon lành. Vừa im lặng nhai cơm nóng với món rau rừng chấm mắm, ông tự hỏi thầm: “Quái, sao tên trộm sống nghèo khổ thế này? Món tiền bán ngựa vừa rồi hắn đã làm gì?”
Hai người ngồi ăn, không ai nói chuyện với ai lời nào. Cơm nước xong rồi, ông Thất lại giường ngồi nghỉ. Chủ nhà đã vấn cho ông một điếu thuốc lá khá lớn đặt trên chiếc đĩa, để ở đầu giường. Đợi cho ông Thất hút tàn gần nửa điếu thuốc, gã nói:
- Bây giờ đã tối, cơm nước đã xong, ông muốn chúng ta tiếp tục đấu nữa hay là chờ đợi ngày mai?
Ông Thất yên lặng suy nghĩ, rồi móc túi bạc đặt ở trên giường. Ông nói:
- Dù có đấu sức suốt cả đêm nay, ta chắc cũng không làm sao phân được thắng bại với anh. Coi như là tài võ nghệ không sao giúp ta đoạt được lại con ngựa quý. Vậy ta bằng lòng đem tiền để chuộc, anh cứ ra giá cho xong. Ngặt con ngựa ấy là vật kỷ niệm cha ta lưu lại, nếu không ta cũng sẵn sàng cho đứt luôn anh, chẳng phải mất tiền chuộc lại làm gì.
Gã chủ nhà đáp:
- Tôi không phải sống bằng nghề trộm đạo. Ông coi, một tên trộm cướp không phải cực khổ thế này. Một con ngựa quý của ông cũng đủ cung cấp rượu thịt cho tôi suốt mấy tháng trường, can chi lại ăn rau rừng với mắm cho khổ tấm thân. Nhưng nghề đốn gỗ của tôi không lấy gì làm thong thả.
Ông Thất bèn hỏi:
- Vậy ngựa tôi đâu?
Gã chủ nhà đáp:
- Được rồi, ông cứ ngủ lại. Ngày mai ông sẽ có ngựa cỡi về.
Ông Thất do dự giây lát, rồi hỏi:
- Anh không phải là trộm cắp, sao lại có ngựa để giao cho ta?
Gã chủ nhà có vẻ buồn, trả lời:
- Chính tôi là kẻ ăn cắp, nhưng tôi không sống bằng cái nghề này.
- Ta thực chưa hiểu ý anh thế nào...
Gã chủ nhà đi tìm chiếu, trải dưới nền đất cạnh cây đuốc sáng và nằm dài ra phì phèo điếu thuốc. Ông Thất cũng nằm trên giường nghiêng nhìn phía gã, chờ đợi một câu trả lời.
Lâu lắm không thấy gã nói tiếng nào, ông bèn gợi hỏi:
- Sao anh không chịu lấy món tiền chuộc của ta?
Gã chủ nhà đáp:
- Lấy để làm gì? Tôi mến tài năng và đức độ ông nên phải nói hết sự thật để cho ông nghe.
Và gã bắt đầu kể chuyện.
Gã có một người bạn là thợ rừng bị cây ngã đè ở trong hốc núi. Nhà nghèo, bệnh nặng, bạn gã không sao chạy nổi thuốc thang. Cảm thương cảnh ngộ của bạn, gã tìm mọi cách giúp đỡ nhưng không biết phải xoay xở thế nào. Biết tên Chánh tổng trong vùng thích ngựa, gã nảy ý kiến ăn cắp một con ngựa tốt để bán cho y. Một tối, tìm đến quán trọ bên đường, gã bỗng gặp con ngựa ô của ông Thất Cừ. Nghĩ rằng người cỡi ngựa quý không phải là hạng nghèo nàn - lấy mất, thì tìm mua ngựa khác - gã đã lẻn vào trong chuồng giữa lúc đêm khuya, mở dây, dắt ngựa ra đường, cỡi phóng như bay. Sáng đến, đem bán cho tên Chánh tổng lấy đúng năm trăm quan tiền. Cả số tiền ấy, gã đã đem giúp người bạn nghèo khổ lâm nguy.
Người chủ nhà tiếp:
- Tối nay, tôi sẽ giở trò trộm đạo một lần thứ hai để mang ngựa về cho ông.
Ông Thất bèn nói:
- Rất tiếc là ta không còn đủ số năm trăm quan tiền. Túi bạc mà ta mang theo chưa đến nửa phần giá ấy. Nếu có, ta sẽ giao hết cho anh đem chuộc lại con ngựa kia cho khỏi ân hận trong lòng.
Người chủ nhà ngồi dậy, nhìn ông Thất Cừ với một vẻ mặt xúc động rồi tiến đến gần bên ông, chắp tay thưa rằng:
- Xin cám ơn ngài. Thực là ít có một người hào hiệp như ngài. Dù có đủ số tiền ấy, ngài giao tôi cũng chẳng dám nhận lãnh. Một là viên Chánh tổng kia mua được ngựa quý, giá hời, lão đâu chịu cho chuộc lại. Của tốt vào được trong kho nhà giàu, dễ gì đã được buông ra mà không đem lại món lời gấp chục, gấp trăm. Hai là tôi không muốn người bạn tôi phải chịu ơn ngài. Anh ta nghèo khổ nhưng rất trong sạch, lại quá khí khái đâu muốn nhận tiền của kẻ lạ mặt. Bởi ngài chuộc ngựa là coi như cho gia đình anh ta cả món tiền kia.
Ông Thất Cừ nói:
- Sao lại không thể coi đó là tiền mà ta cho mượn dài ngày?
- Mượn mà biết không trả được, có khác gì là xin xỏ hay cướp giật đâu. Ông đừng bận tâm. Khuya nay, tôi sẽ lẻn vào bắt lại con ngựa cho ông. Viên Chánh tổng kia giàu quá, lấy bớt năm trăm quan tiền cũng chẳng hề gì. Trong khi người ta lâm nạn, chờ chết, đến van xin nó cũng chẳng có được đồng nào.
- Nhưng viên Chánh tổng có biết rõ mặt anh không?
- Cũng ở trong vùng, biết nhau rõ lắm.
- Vậy anh lấy lại ngựa rồi, hẳn gã phải nghi ngờ anh, đâu có sống yên đây được.
- Từ tối, tôi có nghĩ đến điều này. Chắc tôi sẽ phải trốn đi nơi khác.
Ông Thất đỡ gã chủ nhà cùng ngồi xuống giường với mình, thân mật nói rằng:
- Một người tốt lòng với bạn như anh, bao giờ cũng tốt với những bạn khác. Mong rằng tôi sẽ được anh coi như là bạn, kể từ đêm nay.
- Xin cảm tạ ngài.
- Đừng gọi bằng ngài. Chúng ta đã là anh em, cứ gọi nhau bằng thứ bậc ở trong gia đình. Tôi là thứ năm. Còn anh thứ mấy?
- Dạ, tôi thứ tám.
- Chú Tám, nếu chú liệu không thể sống ở đây được nữa hãy về quê anh mà cùng nương tựa với nhau, đừng e ngại gì.
Ông Thất nói rõ quê quán, chức vụ của mình cho người bạn mới hiểu rõ. Chủ nhà tỏ ra hết sức xúc động trước tấm lòng tốt của khách. Cả hai chuyện trò khá lâu, cho đến gần khuya thì ông Thất giục:
- Chú hãy nằm nghỉ giây lát rồi chúng ta cùng lên đường.
- Không, anh để tôi đi một mình.
- Đâu được. Chú đã cho biết nhà viên Chánh tổng hào sâu, thành dày, gia đinh đông đảo, chú đi một mình có thể gặp sự khó khăn. Chúng ta đã là anh em, lẽ nào lại để chú đi vào nơi nguy hiểm một mình.
Ông Tám cảm động trước những lời nói chí tình, đáp lại:
- Đã làm phiền anh, còn nhọc đến anh làm gì. Em phải chịu phần trách nhiệm đem con ngựa về.
Ông Thất nghiêm sắc mặt bảo:
- Chú nói như vậy, anh không bằng lòng. Anh có bổn phận với chú, đừng nên thắc mắc bận tâm gì hết.
Ông Tám đáp lời:
- Vậy thì mời anh lên đường, vì còn xa lắm. Nghỉ ngơi e lại trễ mất.
Cả hai cùng giắt vào mình một thanh đoản đao, uống thêm ngụm nước chè nguội rồi tắt đèn, mở cửa, đi vào đêm tối. Ông Thất im lặng theo sau người em kết nghĩa, nghĩ thấy mọi sự xảy ra là một run rủi kỳ lạ, đã đưa đẩy ông, một người lương thiện có chút phẩm trật ở trong làng nước thành một kẻ trộm, và ăn trộm chính con vật của mình.
Sang đầu canh ba thì cả hai người đi tới một vùng đất cao, cây cối rậm rạp. Ông Thất nhìn được trong bóng đêm dày tòa nhà sừng sững trước mặt, chung quanh có thành lũy cao.
Ông Tám ghé vào tai ông, bảo nhỏ:
- Đây là nhà viên Chánh tổng, dinh cơ của lão nằm trên sườn đồi, nhìn xuống phía trước là đồng ruộng lớn. Tất cả ruộng đất ở đây đều thuộc về lão.
Ông Thất nghĩ thầm: “Làm Chánh tổng như tên này có khác gì làm vua đâu. Hẳn là mồ hôi, xương máu của dân bị nó vơ vét cuốn hút đã quá nhiều đời nên mới có một sản nghiệp lớn lao như thế”. Ông Tám bảo thêm:
- Anh nên cẩn thận. Bây giờ phải lội qua một hào sâu mới đến chân thành. Leo được tường rồi, phải qua mấy dãy sân rộng mới đến khu vực nhà ở. Chó săn của lão nhiều lắm mà gia đinh cũng đông đảo.
- Thế chú biết rõ chuồng ngựa của lão nằm ở đâu không?
- Dạ không. Mua bán vật gì chỉ đến gặp lão ở tiền đường kia, không phải tâm phúc đâu có vào trong ấy được.
- Chúng ta sẽ tìm, đừng ngại.
Hai người lặng lẽ cởi đồ, đội lên đầu, rồi cùng men xuống bờ hào, nhẹ nhàng lội qua vùng nước lạnh buốt và sang được bờ bên kia. Mặc quần áo xong, cả hai men theo bờ tường đi về phía sau. Theo sự suy luận của ông Tám thì các cửa hậu bao giờ cũng kém kiên cố hơn là cửa tiền và chỉ có bằng lối ấy mới lọt vào bên trong được. Tới nơi, cả hai hợp sức dùng đao mới đẩy bật được cánh cửa. Hai người lách vào, bò rạp xuống đất men theo bờ tường bên trong để tìm chuồng ngựa. Cứ được một quãng, ông Tám lại ghé tai sát xuống đất nghe ngóng. Khi vừa đến sau một dãy nhà dài, có lẽ là dãy kho thóc, ông Tám vội ngồi thụp xuống và kéo ông Thất ngồi theo. Có tiếng người đi và tiếng chó hực, gầm gừ, đánh hơi người lạ. Giây lâu, không thấy động tĩnh gì nữa, cả hai lại cùng nhổm dậy, lom khom bước tới. Đêm tối làm cho họ bước khá chậm. Cuối cùng, ông Tám ghé sát ông Thất, bảo nhỏ:
- Đến chuồng ngựa rồi.
- Thật hả? Sao biết?
- Có tiếng ngựa hí, tiếng chân đạp trên nền đất.
Ông Thất áp tai xuống đất nghe ngóng hồi lâu:
- Quả chú tài thật.
Hai người lần mò đi một quãng nữa, quanh co qua các dãy nhà. Mùi rơm cỏ, mùi phân, bao nhiêu là mùi ẩm mốc bốc nặng trong đêm giúp cho lỗ mũi hai ông thay thế được cặp mắt nhìn một cách khá rõ. Lát sau họ đến chuồng ngựa. Nhẹ nhàng, ông Tám lấy dao nạy cửa. Nhiều tiếng ngựa hí vang lên trong đêm tối dày.
Ông Thất kéo ông Tám lại:
- Chú gác ngoài cửa, để tôi đi vào. Ngựa tôi quen chủ, tôi dễ tìm hơn.
Ông Tám vâng lời. Đứng im một lát cho bầy ngựa bớt náo động và cặp mắt quen bóng tối dày đặc bên trong, ông Thất rón rén đi vào. Quả con ngựa ô đánh hơi được người chủ cũ, nện móng đì độp và hí vang lên. Ông Thất vỗ nhẹ trên lưng con vật:
- Ta đây. Ta đến đưa con về lại với ta.
Con ngựa vung đầu, đạp chân, ngoay ngoảy mình mẩy ra tuồng vui vẻ gặp được chủ cũ. Tháo vội dây cột, ông dắt nó đi ra ngoài. Bỗng trước mặt ông, một người xuất hiện. Ông hỏi:
- Chú Tám đó hả?
Một giọng ngái ngủ trả lời:
- Tám, chín gì nào. Bây to gan thật, dám ăn trộm ngựa cụ Chánh...
Ông Thất lợi dụng bóng tối, đánh ngay một quyền vào bụng dưới gã. Người kia kêu ối một tiếng, ôm ruột, gập người cúi xuống. Ông Thất đã nhanh như cắt, nhảy tới ôm vật gã xuống, đè lên, chiếc đùi chận lấy cổ họng, sờ soạng tìm khăn nhét vào họng gã:
Người kia ú ớ:
- Xin đừng giết tôi... Tôi là đầy tớ trong nhà.
- Im đi, ai muốn giết mày làm gì... Tao chỉ cần lấy ngựa thôi. Chiều nay thấy thằng Chánh tổng mua được con ngựa đẹp quá, tao mượn cỡi chơi ít lâu, khi nào có dịp ghé lại tao sẽ giao trả.
Ông nghĩ một chút lại tiếp:
- Nhưng cái đó còn tùy ở túi tiền mua rượu của tao. Hễ Thiên Vương này dư tiền uống rượu thì tao chẳng tiếc gì ngựa mà không trao trả...
Khi ông Thất nới đầu gối của mình để nhét khăn vào họng gã, gã run rẩy nói:
- Xin ông...
- Cái gì?
- Xin ông trói tôi thật chặt và bỏ tôi vào góc chuồng...
- Sao mày lại muốn trói chặt?
- Ông có trói kỹ thì ông Chánh trừng phạt tôi nhẹ hơn. Không vậy, ông Chánh lại tưởng tôi thông đồng với bọn cướp.
- Tao không phải cướp!
- Dạ, tôi không có ý nói thế. Xin ông...
- Được rồi, nằm im, tao sẽ làm theo ý mày.
Sau khi trói chặt, ôm gã bỏ vào một xó, ông Thất tháo khăn nhét vào họng gã, dắt ngựa ra ngoài.
Rồi cả hai người vòng ra ngoài thành tìm đến cầu treo bắc qua hào nước, hạ xuống. Dắt ngựa qua khỏi, ông Thất bảo ông Tám cùng leo lên và trên con ngựa thiếu yên cương, hai người phi gấp về nhà.
Đến nhà thì trời hừng sáng. Ông Tám nhảy vọt xuống ngựa, nói liền:
- Gia đình của thằng Chánh tổng không thiếu gì đứa trước kia là tay trộm đạo có tài. Nó sẽ dò theo dấu ngựa tìm đến nơi đây rất sớm. Để em thổi gấp cơm ăn rồi anh lên đường.
Ông chạy xuống bếp lo cơm. Ông Thất theo xuống phụ lực, rồi hỏi:
- Vậy chú làm sao ở yên nơi này?
- Thưa anh, em sẽ liệu cách đối phó.
- Không được. Chú nên theo về quê anh cùng sống cho vui. Đến dịp ra kinh, anh sẽ tìm cách để tiến cử chú.
- Em xin cảm ơn lòng tốt của anh. Nhưng em còn người bạn cũ bị cây rừng đè vẫn chưa bình phục, không thể xa được. Khi nào em liệu khó sống nơi đây sẽ đến tìm anh.
Mối duyên gặp gỡ giữa hai người ấy khởi sự là vậy. Trước khi lên ngựa ra về, ông Thất cầm tay người em kết nghĩa, bảo rằng:
- Em ráng giữ mình, đừng nghi ngờ sự chân thật của anh. Chúng ta đã là anh em, còn hơn cả ruột thịt đó.
Rồi ông tạm biệt, lên đường về quê.
Khi ông Tám dọn chiếc giường, thấy gói bạc ông Thất còn trên đầu nằm. Ông thật bối rối không biết làm sao đuổi theo cho kịp để trao lại cho ông Thất. Ông cũng không dám mở ra để xem, vì ông nghĩ rằng bạc ấy chẳng phải của mình, lại là của người mà ông kính mến, làm mất dấu vết không chỉ thương tổn đến ông mà còn xúc phạm đến anh mình nữa.
Nhưng một cuống lá khá dài thò ra từ gói bạc ấy. Kéo chiếc lá lên, ông đọc thấy dòng chữ nhỏ, có lẽ viết bằng gai nhọn, như sau: “Muôn sự của chung”. Ông Tám cúi đầu, hiểu ý người anh kết nghĩa của mình.
Mấy năm về sau, đến khi người bạn thợ rừng qua đời, ông Tám mới dời đến ở cạnh làng ông Thất là miệt Bầu Nai. Ông vỡ đất hoang làm ruộng, không chịu ở nhờ ruộng đất của người anh mình, những lúc rảnh rỗi dành nhiều thì giờ thăm viếng hầu hạ ông anh. Tuổi già càng làm cho đời sống họ thiên nhiều về mặt tinh thần, do đó tình anh em lại càng đậm đà nhiều hơn.
Một đêm, ông Thất Cừ nhận lời mời của người quen ở xã Long Hồ, đến dự tiệc rượu. Giữa lúc chén uống đang nồng thì có một người trong đám bỗng hỏi ông ta:
- Xin vô lễ với ông Thất, chẳng hay ông còn nhớ những chuyện cũ hay không?
Ông Thất đáp lời:
- Chuyện cũ có trăm ngàn thứ, có thứ đáng nhớ, có thứ nên quên. Chẳng hay ông muốn nói đến chuyện gì?
Người kia đáp lại:
- Chuyện này chắc hẳn là ông không thể quên được, trừ phi ông muốn quên đi.
Ngừng lại một chút, người kia nói tiếp:
- Ông còn nhớ Lý văn Hổ hay không?
Ông Thất nhíu trán, suy nghĩ, cố lục lọi trong ký ức:
- Lý văn Hổ à? Là ai? Ta không nhớ rõ được con người ấy.
Người kia lại nói:
- Phải rồi, ông đã muốn quên.
- Không, ta chẳng muốn quên. Ta không thể nhớ đó thôi.
Người kia im lặng, nốc từng ngụm rượu khá lớn. Mâm tiệc trở thành khó chịu vì cái không khí mập mờ của sự khiêu khích bắt đầu. Ông Thất chăm chú nhìn kỹ người kia qua đôi mắt đã chấp chóa hơi men, cố lục lọi trong ký ức vẫn không nhìn thấy được gì hơn nữa. Thời gian đã phủ một tấm màn lớn như lớp sương mù dày đặc ngăn che quay về dĩ vãng xa mờ.
- Quả tình ta không nhớ được tên ấy là ai.
Câu nói có vẻ ôn tồn của ông rơi giữa mâm rượu bỗng làm người kia ngẩng mái đầu lên, quắc đôi mắt sáng, nhìn ông một cách hằn học.
- Thật tình là ông đã quên Mười Hổ phải không?
Ông Thất gật đầu:
- Đã quên. Ta có sợ gì phải chối nhớ lại cái tên không buộc cho ta bận lòng. Mười Hổ là ai, anh cứ nói ra.
Hơi rượu làm ông bốc nóng, ông tiếp:
- Mười Hổ hay trăm ngàn hổ, cũng vậy mà thôi.
Rồi cười ha hả:
- Cũng đều là hổ, chứ có khác gì!
Người kia đặt mạnh cốc rượu xuống chiếu, nói lớn:
- Ông đừng khinh mạn, xúc phạm cha ta!
Ông Thất ngạc nhiên:
- Ủa? Tên của thân sinh anh à? Làm sao mà ta biết được điều ấy?
Người kia vội rời chiếu rượu, đứng xuống chống nạnh, gườm nhìn ông Thất. Chủ nhà vội can:
- Thôi, thôi đây là tiệc vui. Xin đừng gây nên những chuyện đáng tiếc.
Ông Thất để ý giọng nói của gã chủ nhà không có chút nhiệt tình nào, chừng như đó chỉ là câu chiếu lệ mà thôi. Bất giác trong một thoáng mau, ông Thất chợt nhớ là trong dĩ vãng họ có nhiều mối tị hiềm nhưng được thời gian làm cho phai mờ, như những bãi sình đã được cát lấp và trên cát ấy người ta tưởng rằng có thể trồng được những loài hoa đẹp. Nhưng đó chỉ là loài hoa ảo tưởng.
Người kia nghe chủ nhà nói, gằn giọng đáp lại:
- Được rồi, ta sẽ ra khỏi nơi đây, để mà hài tội tên già.
Giọng nói mạnh mẽ của gã đối với chủ nhà cũng có vẻ gì giả tạo. Ông Thất nghĩ rằng có thể họ đã ăn ý cùng nhau trong một âm mưu hãm hại ông chăng? Nhưng chất men nồng bốc cháy hừng hực trên đầu, mọi ý đề phòng nhường bước cho lòng phẫn nộ, ông thấy căm giận cực độ vì lời xúc phạm của kẻ gây chuyện, nên cũng bước ra khỏi chiếu, hét lên:
- Mày đừng vô lễ. Ta muốn biết mày cố tình gây chuyện là vì lẽ gì? Cha mày với tao nào có quen biết gì với nhau đâu?
Gã kia hằn học:
- Mày đã đánh chết cha ta, rồi ném xác dưới bờ hào, còn nhớ hay không?
Ông Thất chợt thấy bàng hoàng. Trong cuộc đời huấn luyện ngựa cho vua, ông đã lỡ tay đánh chết một người. Đó là một tên ăn trộm ngựa quý của vua đem về bán lại cho các nhà giàu ở những miền xa, hẻo lánh. Hành vi trộm đạo của gã là một xúc phạm lớn lao đối với quyền uy thiên tử và cũng là một thử thách sỗ sàng đối với những người có phần trách nhiệm như ông Thất Cừ. Ông đã để tâm dò xét nhiều ngày và một đêm kia, ông đã bắt gặp thủ phạm. Hai người đấu sức quyết liệt và cuối cùng tên ăn trộm bị ông quật ngã. Trong lúc tuyệt vọng, gã đã tự vẫn để khỏi bị những cực hình giày vò và để gia đình khỏi bị liên lụy. Không ai biết gã là ai, quê quán nơi nào. Tên trộm đã chết, được đem vứt xác ngoài thành, rồi bị treo lên lơ lửng đôi hôm trước khi chôn lấp.
Bây giờ, thì con trai hắn xuất hiện nơi đây, mang mối căm thù dồn chứa từ ba bốn mươi năm rồi. Chắc gã còn phải lớn lên, còn phải tầm sư học đạo, còn đợi cho triều đại kia sụp đổ và đợi cơ hội đến gần ông Thất. Căm thù đã lớn như cây cổ thụ và muốn đơm bông kết trái bây giờ.

Cũng có đôi lần ông Thất áy náy về sự nặng tay của mình, nhưng lòng tự ái của một kẻ có quyền uy như ông đã sớm xua đuổi ra khỏi tâm hồn một điều thắc mắc kiểu đó. Ông gào to lên:
- À, ra mày là con của tên ăn trộm ngày xưa. Mày muốn những gì?
Gã kia trợn mắt:
- Mày phải đền tội!
Ông Thất hét to:
- Tội gì? Tao không đánh chết thằng cha của mày. Nhưng dù có đánh chết được một tên đạo tặc như vậy, tao cũng hả dạ.
Vẻ mặt người kia tối sầm hẳn lại, có lẽ phẫn nộ của gã lên đến cực điểm. Gã đứng câm lặng tuồng như giận dữ làm cho lời nói nghẹn ngào. Giây lâu, gã mới cất tiếng phều phào:
- Nếu ngươi có lòng sám hối, biết quỳ lạy ta thì ta tha mạng. Bằng không thì hãy đến bìa rừng này.
Quỳ lạy người trẻ hơn ông, và là con của một kẻ đạo tặc, làm sao có thể nghe những lời hỗn xược ấy mà không lồng lộn lên được? Kẻ kia đã để ông uống rượu say rồi nung chín muồi tự ái của ông cho ông choáng váng mới hạ độc thủ đó chăng? Tự nhiên, ông Thất cũng cảm thấy nỗi lo sợ. Tuổi già đã đánh mất niềm tự tin khi phải đối đầu chướng ngại.
Ông quay nhìn các người quanh mâm rượu. Đó toàn là những người quen, điểm vài khuôn mặt thân hữu và đôi mặt lạ. Ông chờ đợi họ một lời cản ngăn và tốt hơn nữa một lời bênh vực. Nhưng họ thảy đều im lặng, một sự im lặng đồng lõa chứ không phải là kết quả của lòng sợ hãi.
Ông Thất cảm thấy lạc loài, cô độc. Thế ra những người từng tỏ ra trọng vọng ông, những người từ trước đến nay từng khâm phục ông, nay lại chối bỏ đột ngột sự tín nhiệm ấy là vì lẽ nào? Cuộc đời có lẽ đã đổi thay rồi và các giá trị mà ông khoác vào từ trước hẳn đã suy giảm rồi chăng? Nhưng gã đối thủ của ông như hiểu được nỗi bàng hoàng đang làm xáo động hồn ông, gã nói một cách khinh bỉ:
- Ngươi đừng tưởng rằng giữ ngựa cho lũ vua quan là đáng kính nể hơn những người ăn trộm ngựa.
Ông Thất quắc mắt:
- Nhà ngươi không được xúc phạm...
- Xúc phạm! Xúc phạm đến ai? Đến ngươi hay là đến lũ vua quan? Thôi đi, chuyện đó xưa rồi. Nhưng còn mối thù của ta thì không bao giờ cũ được. Hãy ra ngoài này, không thì ta kéo cổ ngươi đi ra tức khắc.
Ông Thất lảo đảo ra ngoài bìa rừng. Đêm trăng, cỏ ướt đẫm sương lốm đốm điểm bạc. Ông nghe lạnh dưới đôi chân, lạnh khắp mặt mày. Lòng căm hờn của kẻ kia đã dựng ông thành đối thủ của nó. Đáng lẽ thì ông không chịu giao đấu, nhưng tự ái và danh dự đã tổn thương rồi, không thể im lặng, không thể chối từ, và điều chắc chắn đối thủ của ông không cho phép ông được quyền từ chối.
Họ đã im lặng đánh nhau dưới ánh trăng soi vằng vặc. Những ngón quyền đánh trúng mặt làm cho ông Thất bừng tỉnh, và ông tìm lại phong độ đã mất ít nhiều trong những năm qua.
Đối thủ của ông tuy còn trẻ và mang căm hờn sôi sục nhưng tỏ ra rất bình tĩnh, gã đánh những đòn quyết liệt nhưng có tính toán. Chừng như gã biết là phải đối phó với một hạng người như thế nào rồi. Cả hai vờn nhau, sử dụng quyền cước và tất cả ngón bí truyền đã học tập được. Nhưng rồi ông Thất không chịu nổi một đối thủ lợi hại như vậy. Khi ông bị đánh ngã quỵ xuống đất, vừa toan lồm cồm trỗi dậy thì bàn chân gã đã đạp lên giữa mặt ông. Ông lại ngã ngửa người ra, chịu bàn chân ấy ấn mạnh đầu ông xuống cỏ rất lâu tưởng chừng nghẹt thở. Đất cát dẻo quánh hơi sương chà xát trên lớp da mặt nhăn nheo do bàn chân kia đem tới đã phủ một màn ô nhục lên con người ông. Nằm yên trong sự thảm bại đau đớn, ông chờ đợi một cái chết giáng xuống vội vàng.
Nhưng ông đợi đã khá lâu mà không nghe động tĩnh gì. Ông Thất hé mắt và thấy đối thủ đứng im nhìn ông một cách lặng lẽ. Chắc hẳn bây giờ gã mới tìm thấy kết quả của sự báo thù héo hắt, nhỏ nhoi không biết chừng nào. Rồi gã từ từ rời bàn chân ra khỏi cái đầu bạc, nói giọng chán nản:
- Bây giờ ta có giết mày cũng được, nhưng cái mạng mày nào nghĩa lý gì! Mày bảo trước kia đã không đánh chết cha ta, thì nay ta cũng không đánh chết mày.
Rồi gã lặng lẽ quay lưng đi thẳng vào rừng. Hồi lâu ông Thất mới ngồi dậy nổi, bởi những đau đớn thể xác cùng với đau đớn tinh thần thật quá nặng nề.
Khi ông loạng choạng đứng lên, ông thấy chung quanh vắng lạnh mênh mông như cõi nhà mồ rộng lớn.
Ông về đến nhà thì trời gần sáng. Không rửa sạch vết cát bùn lấm đầy mặt mũi, ông gọi một đứa cháu gái sang tìm ông Tám ở mạn Bầu Nai.
Ông Tám đến ngay buổi sáng hôm ấy. Cầm lấy bàn tay gầy guộc của em, ông Thất nghẹn ngào kể lại sự việc, rồi tiếp:
- Thằng Mười Hổ đó trước kia đã phải tự vẫn vì sợ cực hình. Anh đây không thể sống nổi, vì sợ một cực hình khác đau đớn hơn nhiều, đó là nỗi nhục trong chuỗi ngày tàn. Hãy nghe đây lời anh dặn: Em đừng tính chuyện phục thù, vô ích. Em đã già rồi, mà hắn còn trẻ, lại thêm tung tích của nó không biết về đâu. Dù sao cũng là câu chuyện có vay có trả, trên cuộc đời này.
Rồi ông uống chén độc dược, lìa đời. Và cuộc sống đã làm xong một cuộc tính sổ, trong muôn ngàn chuyện đang được kết toán hàng ngày.
Ông Tám chôn cất anh xong, thu xếp việc nhà của anh cho được mọi phần yên ổn, rồi lâm bệnh nặng. Ông không chịu dùng thuốc thang gì hết, mặc dù người nhà đã cố ép nài, lặng lẽ đi theo người anh kết nghĩa về cõi đời khác.
1971
Cuôi ba dùm
Những ngày sắp dời lên mạn Đông Đường, được biết đồng bào Thượng miền ấy có tục Cuôi ba dùm [1] là tôi bắt đầu ăn ngủ không yên.
Thực ra, trong thời gian sống giữa chốn núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, thỉnh thoảng tôi cũng mơ tưởng đến những hình bóng nhẹ nhàng của các cô gái ở chốn quê hương. Nhưng sau những lần vọng tưởng như thế, kiểm điểm trở lại tôi thấy mình chẳng yêu một cô nào rõ rệt, bởi vì rõ rệt chẳng có cô nào yêu tôi rõ ràng. Tôi biết nguyên nhân sâu xa sự thiệt thòi này là tại những khi đến gần phụ nữ, tôi thường làm bộ ta đây là bậc đàn anh, lên mặt dạy bảo những điều phải trái. Khi người ta là... cấp trên, chuyên môn nói chuyện đạo đức thì thật khó lòng hạ xuống cầu xin cấp dưới một chút ân huệ ái tình. Rốt cuộc, cấp dưới trở thành một thứ cấp trên rất cao, đến nỗi tôi không tin chắc có ngày mình sẽ đạt tới.
Nhưng không phải chỉ mình tôi gây ra cho tôi sự tình cô độc mà còn tại các cô nữa. Hình như hầu hết các cô miền xuôi đều không thể hiện chân thành, giản dị ý nghĩ của mình. Vì vậy, những người không sành về khoa tâm lý như tôi, khó lòng chiều ý các cô cho được lâu dài. Lại thêm, hễ có một cô gái vừa lớn là y như ở hàng xóm hoặc một góc đường đều túc trực sẵn một chàng trai trẻ để mà cười tình và trao lá thư duyên. Cho nên tôi không chắc rằng người mà tôi yêu có thực trong trắng tâm hồn, hay là trong khi yêu tôi nàng vẫn lẫn lộn với kẻ xóm giềng nào đó.
Tôi cứ cho rằng đến nông nỗi này có lẽ mình chỉ yêu được những cô gái Thượng mà thôi, vì tôi nghe nói phụ nữ miền Thượng bao giờ cũng rất giản dị và rất chân thành. Do những lẽ đó, ngày lên miền núi tôi vẫn ước ao gặp gỡ một cô gái Thượng thật đẹp để mà có dịp báo thù gián tiếp các cô miền xuôi, nhưng hình như tôi lên chốn núi rừng không nhằm mục đích đi tìm đàn bà, cho nên tháng ngày trôi qua tôi chỉ gặp toàn một thứ đàn ông. Thỉnh thoảng, có gặp một ít thú dữ.
Đến khi được biết sẽ lên nghỉ ngơi nhiều ngày tại mạn Đông Đường và các cô gái miền này thường Cuôi ba dùm nghĩa là nằm ngủ thân ái với người khách lạ - thì tôi bắt đầu nhận thấy núi rừng không phải chỉ là vắt sên hút máu, đèo dốc cheo leo, thác nước ồ ạt tuôn đi không kể tháng ngày.
Lên đường lần này tôi tỏ ra rất hăng hái, y như một người theo đuổi trước mắt lý tưởng cao siêu. Nhưng đến cái dốc thứ chín, thì tôi cảm thấy rõ rệt qua cặp đầu gối rằng mỗi một món tình yêu chưa đủ khuyến khích con người. Tới lúc bước vào cái buôn đầu tiên, gặp hai cô gái đã già ngồi bên suối nước, phô cặp vú sệ gần như chấm cái váy cụt nhạt màu, giương mắt đục lờ nheo nheo nhìn tôi rồi nở nụ cười ngây ngô giới thiệu cả hai hàm răng đã cà mòn nhẵn thì tôi ngơ ngác, và loay hoay mãi vẫn không nhớ thằng ngốc nào đã từng mơ ước kết duyên với cô gái Thượng.
Chúng tôi hạ trại dưới chân một ngọn núi lớn, cạnh con sông nhỏ nước chảy lờ đờ luôn luôn chờn vờn những bầy muỗi rừng. Ở lưng chừng núi là một cái buôn khá lớn, điểm những nét vàng lỗ chỗ giữa nền xanh sẫm. Mỗi sáng, mỗi chiều, khói lam vươn ra từ các đỉnh dốc, quyện trên sườn cao, rồi tan chìm trong sương mờ, y như những nỗi mơ mộng của tâm hồn tôi xóa nhòa trong một ý sầu ngan ngát dâng lên từ khắp núi rừng.
Một chiều, tôi đang lặn lội tìm nguồn một dòng suối nhỏ, chợt nghe tiếng hát vang lên ở giữa rừng sâu. Tôi không biết được câu hát nói gì, nhưng giọng mềm dẻo, thỉnh thoảng ngậpå ngừng ngắt quãng, thu hút lấy tôi như chất nhựa cây chập vào một chiếc lá khô. Dần dần tôi quên nguồn suối đi tìm và lạc bước vào một vùng khác lạ có nhiều mô đá cheo leo rải rác dưới chân dốc núi. Khi gặp tiếng hát thì tôi sửng sốt dừng lại. Một cô gái Thượng đang ngồi rửa rau bên một vũng suối. Không biết có người đến gần, cô vẫn say sưa ngồi hát, đầu cúi thấp xuống soi mình dưới nước, lắc lư nhẹ nhàng, hòa nhịp với bàn tay đang chao qua chao lại từng mớ rau rừng. Tôi ngồi bên này dòng suối, gần như đối diện với cô, yên lặng rất lâu như thế để quan sát một hiện tượng chưa từng bắt gặp trong đời từ trước đến giờ. Cô nàng bé nhỏ, da ngăm ngăm đen, vóc người tròn trịa, gọn gàng trong một tấm dồ và chiếc cà tiu xanh đậm, có một vẻ đẹp hết sức... núi rừng. Lời hát hình như ứng khẩu tuôn ra do nỗi dào dạt từ trong đáy lòng theo một khuôn khổ âm điệu có sẵn tự bao nhiêu đời, nên nghe miên man như không bao giờ dứt được. Tôi đã từng nghe nhiều cô người Kinh ca hát, nhưng hoặc con người không hòa hợp với bài hát, hoặc bài hát không hòa hợp với khung cảnh, thông thường người hát không giữ được vẻ tự nhiên khiến ta có cảm tưởng chứng kiến một sự trình diễn rời rạc về con người ấy, còn những bài hát chỉ là cái cớ phụ thuộc. Ở đây, cây rừng, nước suối, gió ngàn và người con gái với cả tiếng hát đều là một sự hòa điệu thâm trầm. Tôi có cảm giác đó là lời ca xuất hiện từ thuở tinh khôi, một sự thổ lộ của núi của rừng như phát tiết ra từ trong hốc đá, khe sâu, từ trong lòng đất mênh mông thăm thẳm... Tôi ngồi yên lặng, cặp mắt mờ dần bóng hình cô gái để cho thính giác đưa về một cõi hoang vu chập chờn sắc màu man rợ, giữa một không khí u uất lá già ủ mục ngàn năm. Rồi những tiếng chim lạ lùng cất lên, dòng thác ồn ào tuôn xuống, tiếng cồng, tiếng mõ, tiếng chiêng từ đâu bừng dậy, le lói ánh hồng bếp lửa rừng khuya...
Đột nhiên tiếng hát dừng lại, cả cái sinh hoạt bao la của chốn núi rừng như chìm hẳn xuống hố sâu. Cô gái chợt trông thấy tôi, ngừng tay khuấy nước, cặp mắt bỗng sáng long lanh. Cô hỏi vọng sang:
- Làm gì thế?
Tôi cười, trả lời:
- Ngồi nghe núi rừng ca hát.
Cô hơi ngẩng lên, ngây nhìn giây lát, có vẻ không hiểu tôi muốn nói gì. Rồi cô mỉm cười, cúi xuống, quờ tay chao mớ rau rừng, dường như đã quên cả người đang ngồi trước mặt. Xong việc, cô đứng lên, tay xách giỏ rau thoăn thoắt leo lên dốc đá, về buôn. Tôi im lặng đi theo một quãng dài, rồi dừng bước lại, buâng khuâng tự hỏi đi đâu?
*
Từ đấy, bóng hình người con gái Thượng luôn luôn ám ảnh hồn tôi. Những giấc mơ đã chết tiệt ngày nào bây giờ dần dần sống lại. Tôi tin tưởng rằng một dịp nào đó sẽ gặp được người con gái trên buôn, và tôi sẽ ngủ thân ái một đêm với nàng.
Tôi vốn không quen phân tích tâm tư để hiểu vì sao tôi lại khát khao mãnh liệt như thế. Chắc rằng ngoài lòng ham muốn cuồng nhiệt và sự tò mò của tuổi thanh niên, tôi còn bị người lớn tuổi đầu độc bằng cái quan niệm phổ biến cho rằng trình độ từng trải về một nơi nào phải được chứng minh bằng sự tiếp xúc với người đàn bà bản thổ. Với số người này, hình như linh hồn của một dân tộc bao giờ cũng bị kẹp trong đôi vế đàn bà. Nếu chưa thật sự mở được quyển sách hai trang ấy ra, thì dù quan sát bao nhiêu thắng cảnh, ngâm đọc bao nhiêu tác phẩm địa phương cũng vẫn chưa am hiểu gì về địa phương ấy. Do đó tôi cứ ngại rằng ngày sau, khi về đồng nội nói chuyện đường rừng, lỡ ai sốt sắng hỏi tôi đàn bà miền Thượng thế nào thì chắc tôi sẽ xấu hổ mà ấp úng rằng không biết. Cái ý định ấy càng ngày càng nung nấu ở trong tôi đến một cường độ không sao tả được. Tôi không bao giờ tự hỏi ý định như thế, nếu thực hiện được, sẽ gây tác hại thế nào. Sức mạnh tinh thần của đồng bào Thượng là lòng tin tưởng phong tục. Đồng bào miền Thượng bám vào phong tục như những dây leo bám lấy thân cành, như loài hổ dữ nương vào hang đá. Tôi há chẳng biết kẻ nào xúc phạm tập tục miền rừng là phải chuốc lấy oán hờn trọn kiếp đó sao? Tôi chẳng đã học từng phong tục một, như học hỏi từng ngón võ hộ thân trong rừng phong tục um tùm chằng chịt của đồng bào Thượng đó sao? Cái gì đối với đồng bào miền Thượng cũng có thể thành cấm kỵ thiêng liêng: một nhánh lá tươi cắm ở đầu buôn trong mùa gặt hái còn có giá trị ngăn cản hơn ngàn lớp cửa gài bằng khóa sắt; một cái xoa nhẹ thân yêu trên đầu đứa bé có thể coi như xúc phạm bàn thờ và làm bật lên bao nhiêu tia mắt thù hằn; một thân cây lụi dùng làm gậy chống trên đường, một chút quế thơm phòng vệ những khi bệnh hoạn, lỡ mang vào tận trong nhà thì chẳng khác gì đã dẫn theo loài ma quỷ, khuấy lên bao nhiêu căm hờn...
Tôi đã nghĩ nhiều về điều ấy qua khá nhiều đêm thức ngủ chập chờn. Nhưng lòng nhiệt nồng của tuổi thanh niên khiến tôi hoài nghi phong tục có thể cưỡng lại ý thức tò mò lồng trong sức mạnh dục tình. Từ đấy, tôi cố học tập tiếng nói đường rừng. Không biết những người theo đuổi lý tưởng cao siêu khi học tiếng của nước ngoài thì phải chăm chỉ ra sao, chứ tôi thì chỉ vì chút mục đích xin ngủ một đêm mà đã hết lòng ra công đèn sách. Bạn hữu không biết thâm ý của tôi, đều khen tôi có ý thức “nghiên cứu văn hóa miền Thượng”, còn tôi, tuy đã tự hiểu rõ ràng, vẫn cho rằng mình đang chuẩn bị “tham khảo giá trị nhân bản ở trong phong tục của các chủng tộc đồng bào...”
Nhiều lần, nhân dịp anh em lên tiếp xúc trên buôn, tôi muốn đi theo để mong gặp lại cô gái hôm nào, nhưng vẫn không sao đi được, vì bận nhiều công việc khác. Thế rồi, y như mọi lòng ham muốn và mọi đợi chờ trên cõi đời này đều cũng có dịp toại nguyện, một hôm, vào độ cuối năm, chúng tôi được lệnh lên buôn tổ chức đêm vui.
Buôn trông gần gũi nhưng khi đến nơi thì trời tối mịt, mặc dù tôi đã khuyến khích mọi người lên sớm để cho “đồng bào” khỏi phải nhọc lòng chờ đợi.
Một số anh em liên lạc đã lên từ trưa bố trí công việc. Toàn buôn nhóm họp đông đủ chung quanh một đống lửa to bốc cháy ngùn ngụt giữa vạt đất lễ, chiếu sáng một vùng rộng lớn, soi rõ khuôn mặt từng người. Trong khi anh em xếp đặt các màn ca kịch thì tôi len lỏi đi tìm con người bên suối hôm xưa. Khuôn mặt tròn trịa thơ ngây của nàng nổi bật giữa các cô gái nên tôi không phải mất công lùng kiếm. Tôi lại gần nàng, nhìn nàng một phút, cố tình cho nàng có đủ thì giờ để nhận ra tôi. Thấy nàng cứ mãi ngây nhìn, tôi hỏi:
- Có nhớ tôi không?
Nàng bỗng mỉm cười, gật đầu. Nhưng cặp mắt nàng vẫn cứ giương nhìn, tỏ vẻ không hiểu. Tôi bèn hỏi tiếp:
- Xin lỗi... tên là gì à?
Nàng cười:
- Y Sao...
- Y Sao! Tên hay quá há!

Tôi đứng yên, loay hoay lục lọi trong óc tìm những tiếng gì thích hợp để ghép thành câu nói chuyện cùng nàng. Nhưng một hồi chiêng vang lên. Đêm vui bắt đầu. Suốt mấy giờ liền tôi vẫn không quên thỉnh thoảng đưa mắt tìm nàng và thấy nàng vẫn ngồi y một chỗ, vẫn cười hồn nhiên, long lanh cặp mắt ngời trong ánh lửa. Tôi cố đóng trọn vai trò của mình, lòng không được vui vì nôn nao sợ những gì toan tính từ lâu đêm nay không thực hiện được. Đến khi mãn cuộc, ngọn lửa đã tàn chỉ còn trơ lại một đống than hồng to lớn. Thay vội quần áo, tôi chạy đi tìm Y Sao. Nàng cùng một số chị em xúm xít bên lửa, tíu ta tíu tít đun nước, nướng bắp. Ánh than hừng hực tỏa sáng lên người các cô gái Thượng ướt đẫm mồ hôi, trông có vẻ gì cổ quái lạ lùng. Y Sao nhanh nhẹn bỏ bắp trên lớp than hồng trải rộng và nàng dùng tay thoăn thoắt lật trở nhịp nhàng từng trái, gan lì thành thạo một cách khác thường. Tôi lại gần nàng, kêu lên:
- Y Sao! Dùng cây gắp chứ. Nóng tay lắm kìa!
Nàng ngẩng lên cười rồi lại cúi xuống rất nhanh, tiếp tục công việc và đáp:
- Không có nóng đâu.
Muốn chứng thực thêm lời nói của mình, lần này nàng dừng tay lại rất lâu trên từng trái bắp, trước khi lật trở cho nó chín đều. Rồi nàng chồm sang bên cạnh, đưa hai bàn tay nhỏ nhắn của mình nhắc lấy nồi nước đang sôi sùng sục trên một bếp lửa ngùn ngụt, đặt xuống một bên, rồi lại đặt lên như cũ, giữa những lưỡi lửa dữ dằn như muốn nuốt lấy tay nàng. Tôi kinh ngạc đứng yên tưởng mình chứng kiến những trò biến hóa của bà phù thủy. Cuối cùng, tôi lại buồn rầu nghĩ rằng da thịt chai lì như vậy phỏng nàng còn biết xúc cảm là gì!
Lát sau, tôi lại tự trách mình quá lo xa và rồi vui vẻ ngồi xuống bên nàng:
- Y Sao!
- Gì à?
- Xem kịch thế nào?
- Hay lắm.
- Thế ai hay hơn hết đấy?
- Ai cũng hay cả.
- À...
Tôi lại ngồi im, không biết mình phải nhập đề thế nào. Sau cùng tôi hỏi một cách lúng túng:
- Y Sao này...
- Gì à?
- Nướng bắp để làm gì thế?
- Để ăn...
- Cho tôi ăn nhé?
- Ừ, cho các anh ăn.
- Nhưng cho tôi thật nhiều nhé?
- Ừ, đói thì ăn nhiều. Có đói lắm không?
- Đói lắm, nhưng này...
- Gì à?
- Tôi mến Y Sao lắm.
Nàng cười vui vẻ:
- Y Sao cũng mến các anh lắm.
Con đàng gần đến, nếu dừng bước lại thì hóa xa xôi, tôi bèn đánh bạo nói tiếp:
- Đêm nay tôi ngủ nhà Y Sao nhé?
Y Sao gật đầu.
- Cuôi ba dùm nhé?
Y Sao lại gật, mỉm cười tự nhiên, cúi xuống nướng bắp.
Thế là nàng chịu, Cuôi ba dùm moi măn [2] với tôi rồi! Không ngờ câu chuyện dễ dàng như vậy. Nhiều khi ta chạy hàng chục vòng tròn vô ích chung quanh chỗ ngồi dọn sẵn từ lâu.
Suốt buổi tiệc bắp vui vẻ thân mật, tôi làm bộ điệu rất là uể oải, đợi khi giải tán ra về bèn báo cáo trong người khó ở xin được ngủ lại trên buôn. Anh em ai cũng ân cần khuyên tôi ngủ lại để mà giữ gìn sức khỏe. Có người cho rằng tôi vốn nhiệt tâm đối với văn hóa miền Thượng, ngủ lại một đêm cũng là dịp tốt để nâng cao trình độ ít nhiều.
Nằm bên bếp lửa chờ đợi Y Sao, tôi cẩn thận bôi trên mũi nhiều dầu cù là, nghĩ rằng mỗi dân tộc đều có mùi riêng mà chỉ tiếp xúc vội vàng về mặt vật chất không đủ tạo nên hòa hợp dễ dàng. Một lát, Y Sao từ một gian nhà bên cạnh bước ra, miệng nở nụ cười tươi vui khác thường. Nàng đã thay chiếc cà tiu mới tinh còn hôi nồng mùi lá nhuộm, và mặc một chiếc áo chẽn may rất đơn giản bằng thứ vải thô điểm những sọc chỉ xanh đỏ còn tươi nguyên màu, có lẽ là áo dùng trong dịp lễ. Nàng trải xuống sàn ghép bằng những ống lồ ô đập dẹp một tấm chiếu dày dệt bằng các thứ dây sợi lấy trong các vỏ cây rừng và bảo tôi nằm. Xong, nàng nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên, kê vào một chiếc gối mây thắt rất công phu. Tôi nằm yên, ngoan ngoãn, mặc nàng sắp xếp, y như đứa bé nghe theo lời chị. Nhưng khi nàng lấy một tấm dồ rộng còn mới phủ lên mình tôi, thì tôi kêu lên:
- Y Sao ngủ với tôi chứ?
Nàng cười, gật đầu.
- Thế tôi không thích đắp đâu.
- Khuya lạnh lắm mà. Đắp đi, đắp đi.
Nàng nói dịu dàng, có vẻ như lời nài nỉ.
Tôi đáp:
- Ngủ với Y Sao, tôi không thấy lạnh.
Rồi tôi gỡ tấm dồ ra.
Nàng lại ôn tồn:
- Đắp đi.
Rồi nàng lại kéo dồ để đắp cho tôi.
- Y Sao chưa đi ngủ à?
- Ngủ chứ. Có đói cái bụng không đấy?
- Không đói. Chỉ ưng ngủ với Y Sao đó thôi.
- Có khát nước không?
- Không khát, chỉ ưng ngủ với Y Sao đó thôi.
- Hút thuốc lá chứ?
- Hút thuốc không thích bằng nằm ngủ với Y Sao.
Những ngày sống giữa núi rừng tôi đã tìm thấy trong cái thú tút xà reo [3] một nguồn an ủi lớn lao. Đó là lãng quên, vừa là tưởng nhớ, đó là ít nhiều hơi ấm trong cảnh lạnh lùng, ít nhiều khuấy động giữa chốn vắng vẻ... nhưng bây giờ đây khói thuốc làm sao quyến rũ được tôi.
Y Sao loay hoay sửa soạn bếp lửa. Nàng tém gọn lại rồi rút một mớ củi khô thêm vào cho lửa sáng hồng rực rỡ hơn lên. Hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh của mối nhiệt tình nung nấu trong tôi.
Bây giờ, có lẽ đêm đã về khuya. Qua khung cửa hẹp tôi thấy bên ngoài tối đen dày đặc mênh mông, thỉnh thoảng lập lòe điểm sáng của bầy đom đóm. Tôi tưởng nghe trong yên lặng âm thầm núi rừng xao xuyến trỗi dậy gom góp muôn ngàn sinh lực biến đổi sự sống để cho ngày mai dưới ánh mặt trời muôn cành thêm lá tươi non, muôn vật thêm màu lông mới.
Gia đình Y Sao có lẽ ngủ yên từ lâu. Ban nãy khi nàng chưa đến, tôi thấy hai người hiện ra ở phía cuối nhà, một bà cụ già, một người trai trẻ, ý hẳn là mẹ và anh của nàng - cả hai nhìn tôi gật chào, cười rất thân mật rồi biến mất sau tấm liếp.
Tôi muốn bảo với Y Sao hát cho tôi nghe, như tôi đã từng được nghe nàng hát hôm nào, để cho đêm vui thực sự hoàn toàn. Nhưng biết rõ mình không đủ bình tĩnh chờ đợi bất cứ một sự kéo dài nào nữa, tôi hối thúc nàng:
- Khuya rồi, Y Sao!
Y Sao gật đầu:
- Ừ, khuya rồi, ngủ đi.
Và nàng nhanh nhẹn nằm xuống bên tôi.
Bây giờ tôi chỉ còn nghe quả tim của tôi liên hồi đập trong lồng ngực và hơi thở tôi gấp rút, nặng nề. Đầu óc vần vũ những mớ cảm giác rối loạn, tôi không biết rõ mình đang nghĩ ngợi những gì. Tôi thoáng nhớ lại những quyển tiểu thuyết mô tả tâm trạng của người đàn ông khi nằm cạnh người đàn bà và tôi nhận thấy không có quyển nào nói đúng tâm trạng của tôi lúc này.

Từ khi Y Sao nằm xuống bên cạnh thì tôi bàng hoàng nằm yên giây lâu, không chút cử động. Sau cùng, định thần trở lại, tôi mới thấy rõ cái vẻ kỳ dị của việc tôi làm. Nhưng các công trình nghiên cứu, tổ chức, vận động của tôi lâu nay không phải để được nằm yên bên cạnh một cô gái Thượng. Nếu chỉ có thế thì tôi nên lựa bất cứ một khúc gỗ nào thật tốt ngoài rừng đem về ôm ngủ có lẽ yên ổn hơn nhiều!
Tôi bèn bỏ tay qua người Y Sao, kéo nhẹ cho nàng xích lại thêm gần:
- Y Sao...
- Gì à?
- Tôi thương Y Sao nhiều lắm.
- Y Sao cũng thương các anh nhiều lắm.
- Sao lại các anh? Nhiều thế?
Y Sao vẫn đáp nhẹ nhàng:
- Ừ, nhiều lắm.
- Y Sao chẳng hiểu gì cả! Tôi bảo Y Sao... chỉ thương lấy một mình tôi.
Y Sao giương mắt ngạc nhiên:
- Sao thế?
Tôi làm thinh, không biết trả lời cách nào cho Y Sao hiểu tình yêu là sự ích kỷ riêng của hai người. Nhưng tôi chợt nghĩ giữa tôi và nàng chưa hề có gì chứng tỏ là tình yêu thì làm sao nói cho nàng hiểu được những điều đơn giản mà phức tạp ấy? Vả lại, tôi không thông thạo tiếng nói của nàng, trình bày những điều khuất khúc tâm tình là việc khó khăn. Mới biết học nhiều ở trường mà thiếu một môn tiếng Thượng cũng có hại thực. Sau cùng, bắt chước ông bà từ đời thái cổ, tôi dùng bàn tay thông ngôn tình ý của mình.
Bắt đầu tôi thử vuốt ve đôi má Y Sao. Y Sao mỉm cười hết sức dịu dàng. Tôi hạ lần tay đặt trên ngực nàng. Tôi nghe tim nàng đập mạnh, người nàng tỏa ra hơi nóng khác thường. Khi bàn tay tôi không còn giữ đúng lễ độ con người bình tĩnh, thì Y Sao nắm chặt lấy và nàng kêu trong hơi thở:
- Đừng thế!
Rồi nàng kéo tay tôi xuống, đặt nó cẩn thận ở trên mình tôi và còn giữ chặt như thế rất lâu, ý muốn tập luyện cho nó chịu quen tinh thần kỷ luật. Sau cùng, nàng bảo:
- Ngủ đi.
Thở dài, tôi đáp:
- Không ngủ được đâu.
- Sao thế?
- Nằm bên Y Sao, tôi không ngủ được.
Nàng nhìn tôi sửng sốt:
- Thế à?
- Thực đấy.
Nàng trỗi ngay dậy, có vẻ hơi buồn:
- Y Sao đi ngủ chỗ khác.
Tôi kéo nàng lại:
- Y Sao đi ngủ chỗ khác thì tôi càng không ngủ được.
- Chẳng hiểu.
- Gì mà chẳng hiểu? Y Sao hãy nằm xuống đi.
Y Sao ngoan ngoãn nằm xuống. Tôi vuốt má nàng.
- Thương Y Sao lắm.
- Y Sao thương các anh lắm.
- Cứ thế! Không thương tôi à?
- Thương chứ. Thương nhiều lắm đấy.
- Y Sao làm vợ tôi đêm nay nhé?
- Chẳng hiểu.
Tôi nghĩ: “Trời ơi! Gì mà chẳng hiểu, chẳng hiểu! Ngốc đến thế này thì thôi!” Và bèn đổi giọng nài nỉ:
- Tôi mở cái cà tiu nhé?
- Đừng!
- Không cho thì tôi chết đấy.
- Chẳng có chết đâu.
- Ghét Y Sao lắm.
Y Sao không nói. Mặt nàng đọng lại trong dáng trầm ngâm khó hiểu. Thấy dùng văn hóa chẳng ăn thua gì, tôi quyết định dùng quân sự. Tôi vỗ về nàng, rồi thừa dịp nắm cà tiu của nàng và giằng mạnh xuống. Lập tức, người đàn bà co lại như bị điện truyền và nàng xô mạnh người tôi, kêu lên hốt hoảng:
- Không được!
Tôi chồm người tới, cố giằng kéo nàng lại gần, nhưng nàng đã ngồi ngay dậy, xếp hai đùi lại và co hai tay trong tư thế phòng vệ. Trong ánh lửa đêm, tôi thấy mắt nàng long lên sòng sọc, miệng nàng mím chặt, cương quyết lạ lùng.
Những ý nồng nhiệt trong tôi phút chốc đã tiêu tan hết. Nhưng lòng tự ái vội vàng thế vào chỗ trống, khuyến khích tôi đừng bỏ cuộc. Tôi liền sán lại ôm choàng lấy nàng siết chặt trong đôi cánh tay hung hãn cố làm ra vẻ tha thiết yêu đương. Để trợ lực sự chiếm đoạt, tôi bèn phát triển ý thức tò mò bằng cách khuyên mình cố gắng đến cùng để đo xem sức phản ứng của cô gái Thượng có thể chịu đựng đến mức độ nào mới phải đầu hàng. Hình như một thứ mặc cảm tự tôn của kẻ sống ở miền xuôi tự hào văn minh hơn dân rừng núi đã củng cố thêm cho tôi ôm chặt lấy nàng. Y Sao chuyển hết sức mình cố đẩy tôi ra một cách tuyệt vọng, nhưng không kêu cứu lời nào, hình như nàng phải nhận lấy trách nhiệm đối với chính nàng cho đến phút cuối. Tôi hổn hển bảo:
- Y Sao nghe lời tôi đi.
Nàng đáp phều phào:
- Không đâu, không đâu, không đâu...
Nhưng nàng lả người, mềm hẳn cả sức kháng cự. Tôi nới vòng tay, đặt nàng nằm xuống, vừa toan cúi xuống mình nàng thì nhanh như con sóc rừng, Y Sao đã lộn người lại, nhào tới phía trước. Tôi thấy nàng đứng thẳng dậy, rút vội trên sàn chiếc dáo, quỳ xuống chĩa mũi nhọn hoắt về phía ngực tôi, trợn trừng cặp mắt nói như tiếng rít:
- Đừng bắt Y Sao làm xấu cái buôn... Y Sao không quen, không biết anh đâu!
Bây giờ nàng không phải là Y Sao dịu dàng bên suối hôm nào, cũng không phải là Y Sao hiền lành ban tối vừa qua. Đây là Y Sao uy nghi của cảnh núi rừng hùng vĩ, Y Sao dõng dạc của những phong tục ngàn đời giữ vững lấy sự tồn tại con người giữa lòng thiên nhiên hiểm độc. Sự chống đối của nàng không phải là sự phản ứng của một người đối với một người, mà chính là sự bênh vực của nhiều con người tập trung trong cá nhân nàng. Thấp thoáng sau nàng Y Sao im lặng, hung dữ như một vị thần bảo vệ, có cả cuộc sống âm thầm dai dẳng của nhiều dân buôn, và cả màu xanh tươi thắm của núi rừng trùng điệp.
Nàng cứ ngồi yên như thế hồi lâu, sắc diện dần dần dịu lại. Tôi ngồi thẳng dậy, cố nói bình tĩnh với nàng:
- Y Sao có giận tôi không?
- Không có giận đâu.
- Y Sao giận đấy.
- Không giận đâu mà.
- Không phá Y Sao nữa đâu. Ngủ với tôi, nhé?
Rồi muốn cho nàng yên tâm, tôi quờ tay lấy que củi bẻ đôi đưa lại cho nàng:
- Tôi đã thề rồi.
Y Sao lại nở nụ cười hiền dịu, nhẹ nhàng dựng chiếc giáo nhọn nơi liếp rồi nàng ngoan ngoãn nằm xuống cạnh tôi, kéo lấy tấm dồ phủ lên người tôi. Một lát, tôi ngủ thiếp đi.
Không biết ngủ được bao lâu thì tôi nghe lạnh, giật mình tỉnh giấc. Tôi thấy Y Sao đang cúi lom khom thổi trên đống lửa sắp tàn. Ngọn lửa từ từ sáng lại, gieo tỏa hơi ấm khắp nhà. Nàng thêm củi vào rồi nhẹ nhàng, rón rén như sợ kinh động giấc ngủ của tôi đi lấy tấm liếp che cửa để ngăn hơi lạnh rừng khuya ồ ạt ùa vào. Xong, nàng lại rón rén, nhẹ nhàng đi lại bên tôi. Tôi vờ ngủ yên. Y Sao sửa lại tấm dồ cho tôi, vuốt trên tóc tôi, vỗ nhẹ lưng tôi y như người mẹ, người chị săn sóc giấc ngủ cho con em mình. Cử chỉ âu yếm của nàng thực là vụng về nhưng rất tự nhiên làm cho lòng tôi rưng rưng cảm động. Rồi nàng kéo trải một mí tấm dồ ra sàn, nằm đè người lên, vòng một tay qua ôm lấy mình tôi. Tôi nằm trong một lớp vải bọc kín, một đầu có người của nàng chèn giữ, một đầu có bàn tay nàng bó lấy. Tin ở lời thề, Y Sao vẫn phải luôn luôn phòng vệ cho danh dự nàng!
Tôi nằm yên, tâm hồn trở lại bình tĩnh. Nhìn cô gái Thượng xinh xắn đang nằm bên tôi, nhỏ bé hơn tôi rất nhiều nhưng cố ấp ủ lấy tôi bằng một tấm lòng bộ lạc rộng lớn, tự nhiên tôi thấy xấu hổ. Sự hối hận này của tôi chẳng tốt đẹp gì, đây chỉ là phản ứng để hòng vớt vát thể giá sau khi thất bại, một cách che đậy những sự tầm thường, trơ trẽn của mình, nhưng tôi thấy mình trong giây phút này vẫn còn hiểu được phần nào Y Sao là cả một sự an ủi. Bây giờ Y Sao là hiện thân sự chiến thắng của phong tục đối với bản năng, hiện thân sức mạnh giáo hóa tập thể đối với sức mạnh hoành hành của con người ích kỷ. Trong khi tôi ép Y Sao phải chiều theo sự thõa mãn nhất thời và cố vẽ vời gọi là thương yêu thì Y Sao vẫn cương quyết bảo vệ lấy danh dự nàng. Và nàng “chẳng hiểu” không phải là nàng ngu ngốc. Bởi vì điều tôi xem chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là một sự tò mò khoác ở trên mình bộ lông da thú nhưng đối với nàng lại là tất cả, là danh dự, là cuộc đời, là nếp sống tinh thần, là tập quán cổ truyền.
Một lát, Y Sao chừng đã ngủ say nhưng nàng vẫn còn ôm giữ lấy tôi, cánh tay vừa nói lên ý chở che, vừa nói lên sự đề phòng. Đợi cho hơi thở của nàng trở lại điều hòa, tôi khẽ trở mình gỡ nhẹ tay nàng, cẩn thận lật ngược mảnh dồ mà tôi đang đắp phủ lên mình nàng. Y Sao nằm gọn ở trong tấm vải. Tôi bỏ tay qua, ôm trở lại nàng, như ôm núi rừng bao la cô đọng trong một thân xác nhỏ bé, và thấy rõ rệt từ trong đáy lòng nỗi niềm vui sướng của người yêu thương núi rừng, yêu thương vì có niềm tin...
Khi tôi thức giấc thì trên người tôi lại phủ tấm dồ, và ở bên mình không thấy Y Sao. Bên ngoài trời đã sáng rõ. Có lẽ nàng đi xuống suối lấy nước. Tôi vội ngồi dậy, gỡ liếp che cửa. Ánh sáng ùa vào tưng bừng. Núi rừng ngồn ngộn khoe khoang sắc lá tươi non, chim chóc phô màu lông mới trong buổi bình minh dạt dào sức sống của một khung cảnh thiên nhiên vĩ đại.
Một thời gian sau, chúng tôi được lệnh lên đường. Anh em rủ nhau lên buôn từ giã đồng bào. Chúng tôi tìm đến Y Sao, gặp nàng đang giã gạo ở cuối nhà. Thấy chúng tôi, nàng buông chày chạy ra mừng rỡ kêu lên:
- Đến rồi!
Tôi gọi:
- Y Sao ơi!
- Gì à?
- Tối nay tôi ngủ lại nhé?
- Ừ, ngủ lại buôn đi.
- Y Sao! Cuôi ba dùm với tôi một đêm nữa nhé?
- Ừ, một đêm nữa đấy.
- Cuôi ba dùm ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa nhé?
- Ừ, ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa đấy.
Nàng gật đầu lia lịa trả lời, vừa nhoẻn miệng cười rất vui.
- Y Sao ơi!
- Gì à...
- Cám ơn Y Sao, chúng tôi nói đùa đấy mà. Hôm nay chúng tôi lên chào đồng bào, lên chào Y Sao, sắp sửa đi rồi...
Nàng như kêu lên:
- Đi à?
Rồi nàng đứng yên như thế rất lâu.
- Y Sao ở lại cho mạnh giỏi nhé!
Y Sao ngập ngừng:
- Bao giờ các anh về lại cái buôn?
- Không biết bao giờ, không biết bao giờ, Y Sao à... Nhưng chúng tôi không quên đồng bào, không quên Y Sao, không quên cái rừng, cái núi của chúng ta đâu.
- Y Sao nhớ hết các anh, nhớ lắm lắm mà.
Khi rời khỏi buôn, chúng tôi gặp nàng đứng đợi ở lưng chừng dốc. Tôi nắm tay nàng:
- Đi nhé! Y Sao!
Nàng gật đầu, nhoẻn cười, nhưng trên đôi mi long lanh những giọt nước mắt. Nụ cười và giọt lệ, đó là tấm lòng đưa tiễn của Y Sao.
1964
(Viết lại một kỷ niệm của bạn L.T.N, thanh niên xung phong thời chống Pháp)
[1] Ngủ đoàn kết.
[2] Ngủ thân ái một đêm.
[3] Hút thuốc.
Cuôi ba dùm
Những ngày sắp dời lên mạn Đông Đường, được biết đồng bào Thượng miền ấy có tục Cuôi ba dùm [1] là tôi bắt đầu ăn ngủ không yên.
Thực ra, trong thời gian sống giữa chốn núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, thỉnh thoảng tôi cũng mơ tưởng đến những hình bóng nhẹ nhàng của các cô gái ở chốn quê hương. Nhưng sau những lần vọng tưởng như thế, kiểm điểm trở lại tôi thấy mình chẳng yêu một cô nào rõ rệt, bởi vì rõ rệt chẳng có cô nào yêu tôi rõ ràng. Tôi biết nguyên nhân sâu xa sự thiệt thòi này là tại những khi đến gần phụ nữ, tôi thường làm bộ ta đây là bậc đàn anh, lên mặt dạy bảo những điều phải trái. Khi người ta là... cấp trên, chuyên môn nói chuyện đạo đức thì thật khó lòng hạ xuống cầu xin cấp dưới một chút ân huệ ái tình. Rốt cuộc, cấp dưới trở thành một thứ cấp trên rất cao, đến nỗi tôi không tin chắc có ngày mình sẽ đạt tới.
Nhưng không phải chỉ mình tôi gây ra cho tôi sự tình cô độc mà còn tại các cô nữa. Hình như hầu hết các cô miền xuôi đều không thể hiện chân thành, giản dị ý nghĩ của mình. Vì vậy, những người không sành về khoa tâm lý như tôi, khó lòng chiều ý các cô cho được lâu dài. Lại thêm, hễ có một cô gái vừa lớn là y như ở hàng xóm hoặc một góc đường đều túc trực sẵn một chàng trai trẻ để mà cười tình và trao lá thư duyên. Cho nên tôi không chắc rằng người mà tôi yêu có thực trong trắng tâm hồn, hay là trong khi yêu tôi nàng vẫn lẫn lộn với kẻ xóm giềng nào đó.

Tôi cứ cho rằng đến nông nỗi này có lẽ mình chỉ yêu được những cô gái Thượng mà thôi, vì tôi nghe nói phụ nữ miền Thượng bao giờ cũng rất giản dị và rất chân thành. Do những lẽ đó, ngày lên miền núi tôi vẫn ước ao gặp gỡ một cô gái Thượng thật đẹp để mà có dịp báo thù gián tiếp các cô miền xuôi, nhưng hình như tôi lên chốn núi rừng không nhằm mục đích đi tìm đàn bà, cho nên tháng ngày trôi qua tôi chỉ gặp toàn một thứ đàn ông. Thỉnh thoảng, có gặp một ít thú dữ.
Đến khi được biết sẽ lên nghỉ ngơi nhiều ngày tại mạn Đông Đường và các cô gái miền này thường Cuôi ba dùm nghĩa là nằm ngủ thân ái với người khách lạ - thì tôi bắt đầu nhận thấy núi rừng không phải chỉ là vắt sên hút máu, đèo dốc cheo leo, thác nước ồ ạt tuôn đi không kể tháng ngày.
Lên đường lần này tôi tỏ ra rất hăng hái, y như một người theo đuổi trước mắt lý tưởng cao siêu. Nhưng đến cái dốc thứ chín, thì tôi cảm thấy rõ rệt qua cặp đầu gối rằng mỗi một món tình yêu chưa đủ khuyến khích con người. Tới lúc bước vào cái buôn đầu tiên, gặp hai cô gái đã già ngồi bên suối nước, phô cặp vú sệ gần như chấm cái váy cụt nhạt màu, giương mắt đục lờ nheo nheo nhìn tôi rồi nở nụ cười ngây ngô giới thiệu cả hai hàm răng đã cà mòn nhẵn thì tôi ngơ ngác, và loay hoay mãi vẫn không nhớ thằng ngốc nào đã từng mơ ước kết duyên với cô gái Thượng.
Chúng tôi hạ trại dưới chân một ngọn núi lớn, cạnh con sông nhỏ nước chảy lờ đờ luôn luôn chờn vờn những bầy muỗi rừng. Ở lưng chừng núi là một cái buôn khá lớn, điểm những nét vàng lỗ chỗ giữa nền xanh sẫm. Mỗi sáng, mỗi chiều, khói lam vươn ra từ các đỉnh dốc, quyện trên sườn cao, rồi tan chìm trong sương mờ, y như những nỗi mơ mộng của tâm hồn tôi xóa nhòa trong một ý sầu ngan ngát dâng lên từ khắp núi rừng.
Một chiều, tôi đang lặn lội tìm nguồn một dòng suối nhỏ, chợt nghe tiếng hát vang lên ở giữa rừng sâu. Tôi không biết được câu hát nói gì, nhưng giọng mềm dẻo, thỉnh thoảng ngậpå ngừng ngắt quãng, thu hút lấy tôi như chất nhựa cây chập vào một chiếc lá khô. Dần dần tôi quên nguồn suối đi tìm và lạc bước vào một vùng khác lạ có nhiều mô đá cheo leo rải rác dưới chân dốc núi. Khi gặp tiếng hát thì tôi sửng sốt dừng lại. Một cô gái Thượng đang ngồi rửa rau bên một vũng suối. Không biết có người đến gần, cô vẫn say sưa ngồi hát, đầu cúi thấp xuống soi mình dưới nước, lắc lư nhẹ nhàng, hòa nhịp với bàn tay đang chao qua chao lại từng mớ rau rừng. Tôi ngồi bên này dòng suối, gần như đối diện với cô, yên lặng rất lâu như thế để quan sát một hiện tượng chưa từng bắt gặp trong đời từ trước đến giờ. Cô nàng bé nhỏ, da ngăm ngăm đen, vóc người tròn trịa, gọn gàng trong một tấm dồ và chiếc cà tiu xanh đậm, có một vẻ đẹp hết sức... núi rừng. Lời hát hình như ứng khẩu tuôn ra do nỗi dào dạt từ trong đáy lòng theo một khuôn khổ âm điệu có sẵn tự bao nhiêu đời, nên nghe miên man như không bao giờ dứt được. Tôi đã từng nghe nhiều cô người Kinh ca hát, nhưng hoặc con người không hòa hợp với bài hát, hoặc bài hát không hòa hợp với khung cảnh, thông thường người hát không giữ được vẻ tự nhiên khiến ta có cảm tưởng chứng kiến một sự trình diễn rời rạc về con người ấy, còn những bài hát chỉ là cái cớ phụ thuộc. Ở đây, cây rừng, nước suối, gió ngàn và người con gái với cả tiếng hát đều là một sự hòa điệu thâm trầm. Tôi có cảm giác đó là lời ca xuất hiện từ thuở tinh khôi, một sự thổ lộ của núi của rừng như phát tiết ra từ trong hốc đá, khe sâu, từ trong lòng đất mênh mông thăm thẳm... Tôi ngồi yên lặng, cặp mắt mờ dần bóng hình cô gái để cho thính giác đưa về một cõi hoang vu chập chờn sắc màu man rợ, giữa một không khí u uất lá già ủ mục ngàn năm. Rồi những tiếng chim lạ lùng cất lên, dòng thác ồn ào tuôn xuống, tiếng cồng, tiếng mõ, tiếng chiêng từ đâu bừng dậy, le lói ánh hồng bếp lửa rừng khuya...
Đột nhiên tiếng hát dừng lại, cả cái sinh hoạt bao la của chốn núi rừng như chìm hẳn xuống hố sâu. Cô gái chợt trông thấy tôi, ngừng tay khuấy nước, cặp mắt bỗng sáng long lanh. Cô hỏi vọng sang:
- Làm gì thế?
Tôi cười, trả lời:
- Ngồi nghe núi rừng ca hát.
Cô hơi ngẩng lên, ngây nhìn giây lát, có vẻ không hiểu tôi muốn nói gì. Rồi cô mỉm cười, cúi xuống, quờ tay chao mớ rau rừng, dường như đã quên cả người đang ngồi trước mặt. Xong việc, cô đứng lên, tay xách giỏ rau thoăn thoắt leo lên dốc đá, về buôn. Tôi im lặng đi theo một quãng dài, rồi dừng bước lại, bâng khuâng tự hỏi đi đâu?
Từ đấy, bóng hình người con gái Thượng luôn luôn ám ảnh hồn tôi. Những giấc mơ đã chết tiệt ngày nào bây giờ dần dần sống lại. Tôi tin tưởng rằng một dịp nào đó sẽ gặp được người con gái trên buôn, và tôi sẽ ngủ thân ái một đêm với nàng.
Tôi vốn không quen phân tích tâm tư để hiểu vì sao tôi lại khát khao mãnh liệt như thế. Chắc rằng ngoài lòng ham muốn cuồng nhiệt và sự tò mò của tuổi thanh niên, tôi còn bị người lớn tuổi đầu độc bằng cái quan niệm phổ biến cho rằng trình độ từng trải về một nơi nào phải được chứng minh bằng sự tiếp xúc với người đàn bà bản thổ. Với số người này, hình như linh hồn của một dân tộc bao giờ cũng bị kẹp trong đôi vế đàn bà. Nếu chưa thật sự mở được quyển sách hai trang ấy ra, thì dù quan sát bao nhiêu thắng cảnh, ngâm đọc bao nhiêu tác phẩm địa phương cũng vẫn chưa am hiểu gì về địa phương ấy. Do đó tôi cứ ngại rằng ngày sau, khi về đồng nội nói chuyện đường rừng, lỡ ai sốt sắng hỏi tôi đàn bà miền Thượng thế nào thì chắc tôi sẽ xấu hổ mà ấp úng rằng không biết. Cái ý định ấy càng ngày càng nung nấu ở trong tôi đến một cường độ không sao tả được. Tôi không bao giờ tự hỏi ý định như thế, nếu thực hiện được, sẽ gây tác hại thế nào. Sức mạnh tinh thần của đồng bào Thượng là lòng tin tưởng phong tục. Đồng bào miền Thượng bám vào phong tục như những dây leo bám lấy thân cành, như loài hổ dữ nương vào hang đá. Tôi há chẳng biết kẻ nào xúc phạm tập tục miền rừng là phải chuốc lấy oán hờn trọn kiếp đó sao? Tôi chẳng đã học từng phong tục một, như học hỏi từng ngón võ hộ thân trong rừng phong tục um tùm chằng chịt của đồng bào Thượng đó sao? Cái gì đối với đồng bào miền Thượng cũng có thể thành cấm kỵ thiêng liêng: một nhánh lá tươi cắm ở đầu buôn trong mùa gặt hái còn có giá trị ngăn cản hơn ngàn lớp cửa gài bằng khóa sắt; một cái xoa nhẹ thân yêu trên đầu đứa bé có thể coi như xúc phạm bàn thờ và làm bật lên bao nhiêu tia mắt thù hằn; một thân cây lụi dùng làm gậy chống trên đường, một chút quế thơm phòng vệ những khi bệnh hoạn, lỡ mang vào tận trong nhà thì chẳng khác gì đã dẫn theo loài ma quỷ, khuấy lên bao nhiêu căm hờn...
Tôi đã nghĩ nhiều về điều ấy qua khá nhiều đêm thức ngủ chập chờn. Nhưng lòng nhiệt nồng của tuổi thanh niên khiến tôi hoài nghi phong tục có thể cưỡng lại ý thức tò mò lồng trong sức mạnh dục tình. Từ đấy, tôi cố học tập tiếng nói đường rừng. Không biết những người theo đuổi lý tưởng cao siêu khi học tiếng của nước ngoài thì phải chăm chỉ ra sao, chứ tôi thì chỉ vì chút mục đích xin ngủ một đêm mà đã hết lòng ra công đèn sách. Bạn hữu không biết thâm ý của tôi, đều khen tôi có ý thức “nghiên cứu văn hóa miền Thượng”, còn tôi, tuy đã tự hiểu rõ ràng, vẫn cho rằng mình đang chuẩn bị “tham khảo giá trị nhân bản ở trong phong tục của các chủng tộc đồng bào...”
Nhiều lần, nhân dịp anh em lên tiếp xúc trên buôn, tôi muốn đi theo để mong gặp lại cô gái hôm nào, nhưng vẫn không sao đi được, vì bận nhiều công việc khác. Thế rồi, y như mọi lòng ham muốn và mọi đợi chờ trên cõi đời này đều cũng có dịp toại nguyện, một hôm, vào độ cuối năm, chúng tôi được lệnh lên buôn tổ chức đêm vui.
Buôn trông gần gũi nhưng khi đến nơi thì trời tối mịt, mặc dù tôi đã khuyến khích mọi người lên sớm để cho “đồng bào” khỏi phải nhọc lòng chờ đợi.
Một số anh em liên lạc đã lên từ trưa bố trí công việc. Toàn buôn nhóm họp đông đủ chung quanh một đống lửa to bốc cháy ngùn ngụt giữa vạt đất lễ, chiếu sáng một vùng rộng lớn, soi rõ khuôn mặt từng người. Trong khi anh em xếp đặt các màn ca kịch thì tôi len lỏi đi tìm con người bên suối hôm xưa. Khuôn mặt tròn trịa thơ ngây của nàng nổi bật giữa các cô gái nên tôi không phải mất công lùng kiếm. Tôi lại gần nàng, nhìn nàng một phút, cố tình cho nàng có đủ thì giờ để nhận ra tôi. Thấy nàng cứ mãi ngây nhìn, tôi hỏi:
- Có nhớ tôi không?
Nàng bỗng mỉm cười, gật đầu. Nhưng cặp mắt nàng vẫn cứ giương nhìn, tỏ vẻ không hiểu. Tôi bèn hỏi tiếp:
- Xin lỗi... tên là gì à?
Nàng cười:
- Y Sao...
- Y Sao! Tên hay quá há!
Tôi đứng yên, loay hoay lục lọi trong óc tìm những tiếng gì thích hợp để ghép thành câu nói chuyện cùng nàng. Nhưng một hồi chiêng vang lên. Đêm vui bắt đầu. Suốt mấy giờ liền tôi vẫn không quên thỉnh thoảng đưa mắt tìm nàng và thấy nàng vẫn ngồi y một chỗ, vẫn cười hồn nhiên, long lanh cặp mắt ngời trong ánh lửa. Tôi cố đóng trọn vai trò của mình, lòng không được vui vì nôn nao sợ những gì toan tính từ lâu đêm nay không thực hiện được. Đến khi mãn cuộc, ngọn lửa đã tàn chỉ còn trơ lại một đống than hồng to lớn. Thay vội quần áo, tôi chạy đi tìm Y Sao. Nàng cùng một số chị em xúm xít bên lửa, tíu ta tíu tít đun nước, nướng bắp. Ánh than hừng hực tỏa sáng lên người các cô gái Thượng ướt đẫm mồ hôi, trông có vẻ gì cổ quái lạ lùng. Y Sao nhanh nhẹn bỏ bắp trên lớp than hồng trải rộng và nàng dùng tay thoăn thoắt lật trở nhịp nhàng từng trái, gan lì thành thạo một cách khác thường. Tôi lại gần nàng, kêu lên:
- Y Sao! Dùng cây gắp chứ. Nóng tay lắm kìa!
Nàng ngẩng lên cười rồi lại cúi xuống rất nhanh, tiếp tục công việc và đáp:
- Không có nóng đâu.
Muốn chứng thực thêm lời nói của mình, lần này nàng dừng tay lại rất lâu trên từng trái bắp, trước khi lật trở cho nó chín đều. Rồi nàng chồm sang bên cạnh, đưa hai bàn tay nhỏ nhắn của mình nhắc lấy nồi nước đang sôi sùng sục trên một bếp lửa ngùn ngụt, đặt xuống một bên, rồi lại đặt lên như cũ, giữa những lưỡi lửa dữ dằn như muốn nuốt lấy tay nàng. Tôi kinh ngạc đứng yên tưởng mình chứng kiến những trò biến hóa của bà phù thủy. Cuối cùng, tôi lại buồn rầu nghĩ rằng da thịt chai lì như vậy phỏng nàng còn biết xúc cảm là gì!
Lát sau, tôi lại tự trách mình quá lo xa và rồi vui vẻ ngồi xuống bên nàng:
- Y Sao!
- Gì à?
- Xem kịch thế nào?
- Hay lắm.
- Thế ai hay hơn hết đấy?
- Ai cũng hay cả.
- À...
Tôi lại ngồi im, không biết mình phải nhập đề thế nào. Sau cùng tôi hỏi một cách lúng túng:
- Y Sao này...
- Gì à?
- Nướng bắp để làm gì thế?
- Để ăn...
- Cho tôi ăn nhé?
- Ừ, cho các anh ăn.
- Nhưng cho tôi thật nhiều nhé?
- Ừ, đói thì ăn nhiều. Có đói lắm không?
- Đói lắm, nhưng này...
- Gì à?
- Tôi mến Y Sao lắm.
Nàng cười vui vẻ:
- Y Sao cũng mến các anh lắm.
Con đàng gần đến, nếu dừng bước lại thì hóa xa xôi, tôi bèn đánh bạo nói tiếp:
- Đêm nay tôi ngủ nhà Y Sao nhé?
Y Sao gật đầu.
- Cuôi ba dùm nhé?
Y Sao lại gật, mỉm cười tự nhiên, cúi xuống nướng bắp.
Thế là nàng chịu, Cuôi ba dùm moi măn [2] với tôi rồi! Không ngờ câu chuyện dễ dàng như vậy. Nhiều khi ta chạy hàng chục vòng tròn vô ích chung quanh chỗ ngồi dọn sẵn từ lâu.
Suốt buổi tiệc bắp vui vẻ thân mật, tôi làm bộ điệu rất là uể oải, đợi khi giải tán ra về bèn báo cáo trong người khó ở xin được ngủ lại trên buôn. Anh em ai cũng ân cần khuyên tôi ngủ lại để mà giữ gìn sức khỏe. Có người cho rằng tôi vốn nhiệt tâm đối với văn hóa miền Thượng, ngủ lại một đêm cũng là dịp tốt để nâng cao trình độ ít nhiều.
Nằm bên bếp lửa chờ đợi Y Sao, tôi cẩn thận bôi trên mũi nhiều dầu cù là, nghĩ rằng mỗi dân tộc đều có mùi riêng mà chỉ tiếp xúc vội vàng về mặt vật chất không đủ tạo nên hòa hợp dễ dàng. Một lát, Y Sao từ một gian nhà bên cạnh bước ra, miệng nở nụ cười tươi vui khác thường. Nàng đã thay chiếc cà tiu mới tinh còn hôi nồng mùi lá nhuộm, và mặc một chiếc áo chẽn may rất đơn giản bằng thứ vải thô điểm những sọc chỉ xanh đỏ còn tươi nguyên màu, có lẽ là áo dùng trong dịp lễ. Nàng trải xuống sàn ghép bằng những ống lồ ô đập dẹp một tấm chiếu dày dệt bằng các thứ dây sợi lấy trong các vỏ cây rừng và bảo tôi nằm. Xong, nàng nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên, kê vào một chiếc gối mây thắt rất công phu. Tôi nằm yên, ngoan ngoãn, mặc nàng sắp xếp, y như đứa bé nghe theo lời chị. Nhưng khi nàng lấy một tấm dồ rộng còn mới phủ lên mình tôi, thì tôi kêu lên:
- Y Sao ngủ với tôi chứ?
Nàng cười, gật đầu.
- Thế tôi không thích đắp đâu.
- Khuya lạnh lắm mà. Đắp đi, đắp đi.
Nàng nói dịu dàng, có vẻ như lời nài nỉ.
Tôi đáp:
- Ngủ với Y Sao, tôi không thấy lạnh.
Rồi tôi gỡ tấm dồ ra.
Nàng lại ôn tồn:
- Đắp đi.
Rồi nàng lại kéo dồ để đắp cho tôi.
- Y Sao chưa đi ngủ à?
- Ngủ chứ. Có đói cái bụng không đấy?
- Không đói. Chỉ ưng ngủ với Y Sao đó thôi.
- Có khát nước không?
- Không khát, chỉ ưng ngủ với Y Sao đó thôi.
- Hút thuốc lá chứ?
- Hút thuốc không thích bằng nằm ngủ với Y Sao.
Những ngày sống giữa núi rừng tôi đã tìm thấy trong cái thú tút xà reo [3] một nguồn an ủi lớn lao. Đó là lãng quên, vừa là tưởng nhớ, đó là ít nhiều hơi ấm trong cảnh lạnh lùng, ít nhiều khuấy động giữa chốn vắng vẻ... nhưng bây giờ đây khói thuốc làm sao quyến rũ được tôi.
Y Sao loay hoay sửa soạn bếp lửa. Nàng tém gọn lại rồi rút một mớ củi khô thêm vào cho lửa sáng hồng rực rỡ hơn lên. Hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh của mối nhiệt tình nung nấu trong tôi.
Bây giờ, có lẽ đêm đã về khuya. Qua khung cửa hẹp tôi thấy bên ngoài tối đen dày đặc mênh mông, thỉnh thoảng lập lòe điểm sáng của bầy đom đóm. Tôi tưởng nghe trong yên lặng âm thầm núi rừng xao xuyến trỗi dậy gom góp muôn ngàn sinh lực biến đổi sự sống để cho ngày mai dưới ánh mặt trời muôn cành thêm lá tươi non, muôn vật thêm màu lông mới.
Gia đình Y Sao có lẽ ngủ yên từ lâu. Ban nãy khi nàng chưa đến, tôi thấy hai người hiện ra ở phía cuối nhà, một bà cụ già, một người trai trẻ, ý hẳn là mẹ và anh của nàng - cả hai nhìn tôi gật chào, cười rất thân mật rồi biến mất sau tấm liếp.
Tôi muốn bảo với Y Sao hát cho tôi nghe, như tôi đã từng được nghe nàng hát hôm nào, để cho đêm vui thực sự hoàn toàn. Nhưng biết rõ mình không đủ bình tĩnh chờ đợi bất cứ một sự kéo dài nào nữa, tôi hối thúc nàng:
- Khuya rồi, Y Sao!
Y Sao gật đầu:
- Ừ, khuya rồi, ngủ đi.
Và nàng nhanh nhẹn nằm xuống bên tôi.
Bây giờ tôi chỉ còn nghe quả tim của tôi liên hồi đập trong lồng ngực và hơi thở tôi gấp rút, nặng nề. Đầu óc vần vũ những mớ cảm giác rối loạn, tôi không biết rõ mình đang nghĩ ngợi những gì. Tôi thoáng nhớ lại những quyển tiểu thuyết mô tả tâm trạng của người đàn ông khi nằm cạnh người đàn bà và tôi nhận thấy không có quyển nào nói đúng tâm trạng của tôi lúc này.
Từ khi Y Sao nằm xuống bên cạnh thì tôi bàng hoàng nằm yên giây lâu, không chút cử động. Sau cùng, định thần trở lại, tôi mới thấy rõ cái vẻ kỳ dị của việc tôi làm. Nhưng các công trình nghiên cứu, tổ chức, vận động của tôi lâu nay không phải để được nằm yên bên cạnh một cô gái Thượng. Nếu chỉ có thế thì tôi nên lựa bất cứ một khúc gỗ nào thật tốt ngoài rừng đem về ôm ngủ có lẽ yên ổn hơn nhiều!
Tôi bèn bỏ tay qua người Y Sao, kéo nhẹ cho nàng xích lại thêm gần:
- Y Sao...
- Gì à?
- Tôi thương Y Sao nhiều lắm.
- Y Sao cũng thương các anh nhiều lắm.
- Sao lại các anh? Nhiều thế?
Y Sao vẫn đáp nhẹ nhàng:
- Ừ, nhiều lắm.
- Y Sao chẳng hiểu gì cả! Tôi bảo Y Sao... chỉ thương lấy một mình tôi.
Y Sao giương mắt ngạc nhiên:
- Sao thế?
Tôi làm thinh, không biết trả lời cách nào cho Y Sao hiểu tình yêu là sự ích kỷ riêng của hai người. Nhưng tôi chợt nghĩ giữa tôi và nàng chưa hề có gì chứng tỏ là tình yêu thì làm sao nói cho nàng hiểu được những điều đơn giản mà phức tạp ấy? Vả lại, tôi không thông thạo tiếng nói của nàng, trình bày những điều khuất khúc tâm tình là việc khó khăn. Mới biết học nhiều ở trường mà thiếu một môn tiếng Thượng cũng có hại thực. Sau cùng, bắt chước ông bà từ đời thái cổ, tôi dùng bàn tay thông ngôn tình ý của mình.
Bắt đầu tôi thử vuốt ve đôi má Y Sao. Y Sao mỉm cười hết sức dịu dàng. Tôi hạ lần tay đặt trên ngực nàng. Tôi nghe tim nàng đập mạnh, người nàng tỏa ra hơi nóng khác thường. Khi bàn tay tôi không còn giữ đúng lễ độ con người bình tĩnh, thì Y Sao nắm chặt lấy và nàng kêu trong hơi thở:
- Đừng thế!
Rồi nàng kéo tay tôi xuống, đặt nó cẩn thận ở trên mình tôi và còn giữ chặt như thế rất lâu, ý muốn tập luyện cho nó chịu quen tinh thần kỷ luật. Sau cùng, nàng bảo:
- Ngủ đi.
Thở dài, tôi đáp:
- Không ngủ được đâu.
- Sao thế?
- Nằm bên Y Sao, tôi không ngủ được.
Nàng nhìn tôi sửng sốt:
- Thế à?
- Thực đấy.
Nàng trỗi ngay dậy, có vẻ hơi buồn:
- Y Sao đi ngủ chỗ khác.
Tôi kéo nàng lại:
- Y Sao đi ngủ chỗ khác thì tôi càng không ngủ được.
- Chẳng hiểu.
- Gì mà chẳng hiểu? Y Sao hãy nằm xuống đi.
Y Sao ngoan ngoãn nằm xuống. Tôi vuốt má nàng.
- Thương Y Sao lắm.
- Y Sao thương các anh lắm.
- Cứ thế! Không thương tôi à?
- Thương chứ. Thương nhiều lắm đấy.
- Y Sao làm vợ tôi đêm nay nhé?
- Chẳng hiểu.
Tôi nghĩ: “Trời ơi! Gì mà chẳng hiểu, chẳng hiểu! Ngốc đến thế này thì thôi!” Và bèn đổi giọng nài nỉ:
- Tôi mở cái cà tiu nhé?
- Đừng!
- Không cho thì tôi chết đấy.
- Chẳng có chết đâu.
- Ghét Y Sao lắm.
Y Sao không nói. Mặt nàng đọng lại trong dáng trầm ngâm khó hiểu. Thấy dùng văn hóa chẳng ăn thua gì, tôi quyết định dùng quân sự. Tôi vỗ về nàng, rồi thừa dịp nắm cà tiu của nàng và giằng mạnh xuống. Lập tức, người đàn bà co lại như bị điện truyền và nàng xô mạnh người tôi, kêu lên hốt hoảng:
- Không được!
Tôi chồm người tới, cố giằng kéo nàng lại gần, nhưng nàng đã ngồi ngay dậy, xếp hai đùi lại và co hai tay trong tư thế phòng vệ. Trong ánh lửa đêm, tôi thấy mắt nàng long lên sòng sọc, miệng nàng mím chặt, cương quyết lạ lùng.
Những ý nồng nhiệt trong tôi phút chốc đã tiêu tan hết. Nhưng lòng tự ái vội vàng thế vào chỗ trống, khuyến khích tôi đừng bỏ cuộc. Tôi liền sán lại ôm choàng lấy nàng siết chặt trong đôi cánh tay hung hãn cố làm ra vẻ tha thiết yêu đương. Để trợ lực sự chiếm đoạt, tôi bèn phát triển ý thức tò mò bằng cách khuyên mình cố gắng đến cùng để đo xem sức phản ứng của cô gái Thượng có thể chịu đựng đến mức độ nào mới phải đầu hàng. Hình như một thứ mặc cảm tự tôn của kẻ sống ở miền xuôi tự hào văn minh hơn dân rừng núi đã củng cố thêm cho tôi ôm chặt lấy nàng. Y Sao chuyển hết sức mình cố đẩy tôi ra một cách tuyệt vọng, nhưng không kêu cứu lời nào, hình như nàng phải nhận lấy trách nhiệm đối với chính nàng cho đến phút cuối. Tôi hổn hển bảo:
- Y Sao nghe lời tôi đi.
Nàng đáp phều phào:
- Không đâu, không đâu, không đâu...

Nhưng nàng lả người, mềm hẳn cả sức kháng cự. Tôi nới vòng tay, đặt nàng nằm xuống, vừa toan cúi xuống mình nàng thì nhanh như con sóc rừng, Y Sao đã lộn người lại, nhào tới phía trước. Tôi thấy nàng đứng thẳng dậy, rút vội trên sàn chiếc dáo, quỳ xuống chĩa mũi nhọn hoắt về phía ngực tôi, trợn trừng cặp mắt nói như tiếng rít:
- Đừng bắt Y Sao làm xấu cái buôn... Y Sao không quen, không biết anh đâu!
Bây giờ nàng không phải là Y Sao dịu dàng bên suối hôm nào, cũng không phải là Y Sao hiền lành ban tối vừa qua. Đây là Y Sao uy nghi của cảnh núi rừng hùng vĩ, Y Sao dõng dạc của những phong tục ngàn đời giữ vững lấy sự tồn tại con người giữa lòng thiên nhiên hiểm độc. Sự chống đối của nàng không phải là sự phản ứng của một người đối với một người, mà chính là sự bênh vực của nhiều con người tập trung trong cá nhân nàng. Thấp thoáng sau nàng Y Sao im lặng, hung dữ như một vị thần bảo vệ, có cả cuộc sống âm thầm dai dẳng của nhiều dân buôn, và cả màu xanh tươi thắm của núi rừng trùng điệp.
Nàng cứ ngồi yên như thế hồi lâu, sắc diện dần dần dịu lại. Tôi ngồi thẳng dậy, cố nói bình tĩnh với nàng:
- Y Sao có giận tôi không?
- Không có giận đâu.
- Y Sao giận đấy.
- Không giận đâu mà.
- Không phá Y Sao nữa đâu. Ngủ với tôi, nhé?
Rồi muốn cho nàng yên tâm, tôi quờ tay lấy que củi bẻ đôi đưa lại cho nàng:
- Tôi đã thề rồi.
Y Sao lại nở nụ cười hiền dịu, nhẹ nhàng dựng chiếc giáo nhọn nơi liếp rồi nàng ngoan ngoãn nằm xuống cạnh tôi, kéo lấy tấm dồ phủ lên người tôi. Một lát, tôi ngủ thiếp đi.
Không biết ngủ được bao lâu thì tôi nghe lạnh, giật mình tỉnh giấc. Tôi thấy Y Sao đang cúi lom khom thổi trên đống lửa sắp tàn. Ngọn lửa từ từ sáng lại, gieo tỏa hơi ấm khắp nhà. Nàng thêm củi vào rồi nhẹ nhàng, rón rén như sợ kinh động giấc ngủ của tôi đi lấy tấm liếp che cửa để ngăn hơi lạnh rừng khuya ồ ạt ùa vào. Xong, nàng lại rón rén, nhẹ nhàng đi lại bên tôi. Tôi vờ ngủ yên. Y Sao sửa lại tấm dồ cho tôi, vuốt trên tóc tôi, vỗ nhẹ lưng tôi y như người mẹ, người chị săn sóc giấc ngủ cho con em mình. Cử chỉ âu yếm của nàng thực là vụng về nhưng rất tự nhiên làm cho lòng tôi rưng rưng cảm động. Rồi nàng kéo trải một mí tấm dồ ra sàn, nằm đè người lên, vòng một tay qua ôm lấy mình tôi. Tôi nằm trong một lớp vải bọc kín, một đầu có người của nàng chèn giữ, một đầu có bàn tay nàng bó lấy. Tin ở lời thề, Y Sao vẫn phải luôn luôn phòng vệ cho danh dự nàng!
Tôi nằm yên, tâm hồn trở lại bình tĩnh. Nhìn cô gái Thượng xinh xắn đang nằm bên tôi, nhỏ bé hơn tôi rất nhiều nhưng cố ấp ủ lấy tôi bằng một tấm lòng bộ lạc rộng lớn, tự nhiên tôi thấy xấu hổ. Sự hối hận này của tôi chẳng tốt đẹp gì, đây chỉ là phản ứng để hòng vớt vát thể giá sau khi thất bại, một cách che đậy những sự tầm thường, trơ trẽn của mình, nhưng tôi thấy mình trong giây phút này vẫn còn hiểu được phần nào Y Sao là cả một sự an ủi. Bây giờ Y Sao là hiện thân sự chiến thắng của phong tục đối với bản năng, hiện thân sức mạnh giáo hóa tập thể đối với sức mạnh hoành hành của con người ích kỷ. Trong khi tôi ép Y Sao phải chiều theo sự thõa mãn nhất thời và cố vẽ vời gọi là thương yêu thì Y Sao vẫn cương quyết bảo vệ lấy danh dự nàng. Và nàng “chẳng hiểu” không phải là nàng ngu ngốc. Bởi vì điều tôi xem chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là một sự tò mò khoác ở trên mình bộ lông da thú nhưng đối với nàng lại là tất cả, là danh dự, là cuộc đời, là nếp sống tinh thần, là tập quán cổ truyền.
Một lát, Y Sao chừng đã ngủ say nhưng nàng vẫn còn ôm giữ lấy tôi, cánh tay vừa nói lên ý chở che, vừa nói lên sự đề phòng. Đợi cho hơi thở của nàng trở lại điều hòa, tôi khẽ trở mình gỡ nhẹ tay nàng, cẩn thận lật ngược mảnh dồ mà tôi đang đắp phủ lên mình nàng. Y Sao nằm gọn ở trong tấm vải. Tôi bỏ tay qua, ôm trở lại nàng, như ôm núi rừng bao la cô đọng trong một thân xác nhỏ bé, và thấy rõ rệt từ trong đáy lòng nỗi niềm vui sướng của người yêu thương núi rừng, yêu thương vì có niềm tin...
Khi tôi thức giấc thì trên người tôi lại phủ tấm dồ, và ở bên mình không thấy Y Sao. Bên ngoài trời đã sáng rõ. Có lẽ nàng đi xuống suối lấy nước. Tôi vội ngồi dậy, gỡ liếp che cửa. Ánh sáng ùa vào tưng bừng. Núi rừng ngồn ngộn khoe khoang sắc lá tươi non, chim chóc phô màu lông mới trong buổi bình minh dạt dào sức sống của một khung cảnh thiên nhiên vĩ đại.
Một thời gian sau, chúng tôi được lệnh lên đường. Anh em rủ nhau lên buôn từ giã đồng bào. Chúng tôi tìm đến Y Sao, gặp nàng đang giã gạo ở cuối nhà. Thấy chúng tôi, nàng buông chày chạy ra mừng rỡ kêu lên:
- Đến rồi!
Tôi gọi:
- Y Sao ơi!
- Gì à?
- Tối nay tôi ngủ lại nhé?
- Ừ, ngủ lại buôn đi.
- Y Sao! Cuôi ba dùm với tôi một đêm nữa nhé?
- Ừ, một đêm nữa đấy.
- Cuôi ba dùm ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa nhé?
- Ừ, ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa đấy.
Nàng gật đầu lia lịa trả lời, vừa nhoẻn miệng cười rất vui.
- Y Sao ơi!
- Gì à...
- Cám ơn Y Sao, chúng tôi nói đùa đấy mà. Hôm nay chúng tôi lên chào đồng bào, lên chào Y Sao, sắp sửa đi rồi...
Nàng như kêu lên:
- Đi à?
Rồi nàng đứng yên như thế rất lâu.
- Y Sao ở lại cho mạnh giỏi nhé!
Y Sao ngập ngừng:
- Bao giờ các anh về lại cái buôn?
- Không biết bao giờ, không biết bao giờ, Y Sao à... Nhưng chúng tôi không quên đồng bào, không quên Y Sao, không quên cái rừng, cái núi của chúng ta đâu.
- Y Sao nhớ hết các anh, nhớ lắm lắm mà.
Khi rời khỏi buôn, chúng tôi gặp nàng đứng đợi ở lưng chừng dốc. Tôi nắm tay nàng:
- Đi nhé! Y Sao!
Nàng gật đầu, nhoẻn cười, nhưng trên đôi mi long lanh những giọt nước mắt. Nụ cười và giọt lệ, đó là tấm lòng đưa tiễn của Y Sao.
1964
(Viết lại một kỷ niệm của bạn L.T.N, thanh niên xung phong thời chống Pháp)
[1] Ngủ đoàn kết.
[2] Ngủ thân ái một đêm.
[3] Hút thuốc.
Con ma học trò
Ma quỷ tìm đến gặp ông Cửu Hiền vào lúc đêm khuya, khi ông mất ngủ, ngồi dậy uống một tách trà. Trăng đã ngả hẳn về tây, chiếu màu ánh sáng nhợt nhạt qua khe cửa sổ khép hờ. Một ngọn gió lạnh từ đâu thổi lại rạt rào, lay chuyển chòm tre đầu ngõ, gởi đến nơi ông đang ngồi một mùi oi nồng sót lại từ chiều của lớp đất gò vừa bén một trận mưa dông ngắn ngủi. Ông Cửu nhăn mũi, tưởng nghe một mùi mồ hôi ẩm mốc trên một tấm áo quên giặt nhiều ngày.
Khi ông đứng lên, vặn nhỏ ngọn đèn định lại giường nằm, bỗng thoáng thấy một bóng người lướt nhẹ bên mình. Hơi nồng vẳng nhẹ rồi tan. Ông không kịp nhận rõ được tất cả sự ẩn hiện ấy, tưởng mình trong lúc mệt mỏi có những rối loạn tâm thần. Nhưng vừa sờ soạng bước lại gần giường, ông thấy bóng người lướt qua, cọ vào tay phải của ông rồi vượt tới trước, vòng lại, cọ vào tay trái. Ông Cửu quay hẳn ra sau, không thấy gì hết. Một hơi lạnh lẽo của chốn mồ hoang phảng phất mùi nồng ẩm mốc bây giờ như tràn lan cả gian phòng. Tự nhiên ông Cửu run rẩy, loạng choạng tiến lại phía giường. Ông muốn kêu lên, nhưng hai hàm răng tê cứng không mở ra được. Vừa ngã xuống chiếu, ông có cảm giác như thấy một cái bóng người đang nằm nhổm dậy nhìn ông, nham nhở nụ cười quái gở rồi khuôn mặt ấy lớn dần đến độ nhòe tan, biến vào bóng tối. Ông Cửu nằm yên, giương mắt thao láo trân trân nhìn lên nóc màn tưởng nghe trong đêm nhiều tiếng xôn xao từ đâu vẳng lại mỗi lúc một rõ. Trong những vang động mơ hồ như có tiếng cười, tiếng khóc, những tiếng rên rỉ oán hờn.
Qua đêm thứ hai, ông Cửu giật mình vào lúc nửa khuya, cảm thấy đau nhức như có ai đang trói chặt chân mình. Ông gượng ngồi dậy, ngơ ngác nhìn quanh không thấy một ai, nhưng khi nằm xuống nghe một bàn tay lạnh buốt đè nặng lên trán và ấn đầu ông xuống chiếu mỗi lúc một mạnh. Trong cơn vật vã đuối liệt, ông có cảm tưởng như bàn tay kia lần xuống cổ họng của ông và bóp thật mạnh, khiến ông giẫy giụa kêu lên một cách tuyệt vọng. Giữa lúc mê tỉnh chập chờn, mơ hồ ông nghe nhiều người nhốn nháo lùng chạy quanh nhà, những tiếng sàn sạt kéo lết ở trên mái ngói, những đồ chén bát loảng xoảng, rơi vỡ tứ tung do một bàn tay hung hăng phá phách.
Sự phá phách ấy mỗi đêm một tăng khiến ông Cửu Hiền như muốn điên loạn. Ông gầy rạc hẳn, đôi mắt hõm sâu, dáng đi lạc lõng như người mất trí. Mỗi lần xô nhẹ cánh cửa ông nghe tiếng rít căm hờn sau đấy, và lúc ngồi xuống, đứng lên, luôn luôn có một bóng người im lìm nhại theo điệu bộ của ông với một dáng điệu ủ rũ hoặc đang sôi sục giữa cơn thịnh nộ. Ông Cửu dần dần sợ mọi tiếng động, mọi bóng dáng người, kể cả hình bóng của ông.
Người phù thủy đầu tiên là ông Hộ Liệu, được mời đến xua ma quỷ, đã cúng ba đêm liên tiếp và giết hết ba con gà lấy huyết bôi vào cột nhà. Trong suốt thời gian thầy ê a đọc phù chú, ma quỷ dừng hẳn hoạt động. Nhưng khi thầy bước ra về, ngay đêm hôm ấy, những sự phá phách càng mạnh hơn lên. Ông Cửu tưởng chừng căn nhà như muốn sụp đổ và các gốc cột bắt đầu lung lay, nhảy múa liên hồi. Mùi hôi nồng ẩm lan đầy và một bàn tay sù sì, lạnh ngắt từ đâu xen vào tay áo, cổ áo của ông như muốn tìm đúng mạch sống để siết thật chặt. Ông Cửu mời thầy phù thủy thứ hai, ông Tư Ngãi, ở tận trên làng Đồng Thượng xa xôi. Thầy đến xem vết máu gà đã khô trên cột và các bùa ếm ở bốn góc nhà, cười khẩy nhiều lần ra vẻ hết sức khinh bỉ. Vợ chồng ông Cửu, đắn đo một lát, mới dám thưa lời:
- Chẳng hay phép cúng của ông Hộ Liệu không thiêng sao thầy?
Ông Tư Ngãi nhíu mắt, làm thinh giây lâu, rồi mới cất giọng khàn khàn trả lời:
- Trong chỗ đồng nghiệp với nhau, lẽ nào tôi lại đi nói anh ta dốt nát hay sao? Ông bà hiểu giùm, dù cho anh ta chẳng biết cóc khô gì hết, tôi cũng không nỡ chỉ trích.
Và ông làm thinh không chịu nói thêm gì nữa để khỏi mang tiếng nói xấu người bạn đồng nghiệp, sau khi đã cho vợ chồng khổ chủ hiểu rằng Hộ Liệu vừa rất dốt nát, vừa không hiểu biết cóc khô gì cả. Ông Tư Ngãi cho rửa sạch hết máu gà và truyền giết con chó mực lớn nhất của ông Cửu Hiền lấy huyết bôi vào chỗ ấy. Ông Cửu rất thương con chó khôn ngoan nhưng chỉ tiếc thầm trong ruột. Con chó mỗi đêm thường nằm đầu ngõ sủa vọng về nơi nghĩa địa xa xôi, canh chừng giấc ngủ của ông, và khi ma quỷ lục đục phá phách, nó thường chạy rảo quanh nhà tru lên từng hồi ghê rợn như muốn xua đuổi oan hồn quấy nhiễu nơi ăn chốn ở của ông. Máu của con mực bôi lên đỏ sẫm trên cột và ở chân tường. Ông Tư còn lấy chất máu vẽ bùa trên những miếng thiếc dựng ở nhiều nơi trong nhà, ông bắt lập đàn cúng tế hết sức công phu và không quên dặn mua hai lít rượu để phun vài ngụm vào các mền chiếu - trừ tà - còn lại bao nhiêu ông dùng lai rai đưa tiễn vào trong bao tử suốt mấy ngày liền.
Trong một tuần lễ có ông Tư Ngãi trong nhà, ma quỷ im hơi, lặng tiếng. Ông Tư lộ vẻ đắc thắng rõ rệt, ra vào, lên xuống một cách hiên ngang, không ngớt đòi rượu và đòi thức nhắm. Ông bảo:
- Ma quỷ là giống không bị đau ốm bao giờ cho nên chúng mạnh khỏe lắm. Nếu mình không nhậu, làm sao mà đối phó được?
Nhưng tối hôm ấy, ông Tư sửa soạn hành lý để sáng về sớm thì bỗng ma quỷ hiện lên. Ban đầu có tiếng loảng xoảng ở trên bàn thờ và đồ tam sự, ngũ sự nhào lăn xuống đất lổng chổng. Cả nhà Ông Cửu choàng tỉnh, hướng về ông Tư cầu cứu. Ông Tư vội vàng rút cái khăn ấn, hối hả thắp mấy cây hương gài lên mái tóc, đứng ở giữa nhà bắt quyết. Nhưng sự hiện diện của ông Tư Ngãi gần như không làm ma quỷ mảy may xúc động. Tiếng cười lạnh lẽo, tiếng rít khô khan vẫn cứ văng vẳng quanh nhà, tiếng kéo sàn sạt ở trên mái ngói vẫn còn tiếp diễn, tiếng khua lổn cổn, lạc cạc trong các kho lúa vẫn không chịu dừng, mỗi lần sự phá phách mỗi gia tăng cường độ. Người ta có cảm tưởng rằng ma quỷ có vẻ khinh thường các vị pháp sư rõ rệt, và sự đình chỉ hoạt động trong mấy thời gian vừa qua chỉ là giai đoạn nghỉ ngơi của chúng mà thôi.
Ông Tư Ngãi cuốn gói ra về như một chiến tướng bại trận. Sau đó, còn đôi vị pháp sư nổi danh khác lại được mời đến, nhưng không vị nào có thể đàn áp nổi giống ma quỷ lộng hành trong nhà ông Cửu.
Giữa lúc gần tuyệt vọng ấy, may thay, còn có một người.
Đó là một vị pháp sư du học nhiều năm ở tại nước ngoài, theo lời của thầy tự giới thiệu mình. Ông đã qua Xiêm, qua Miên, qua Lào, qua cả Ấn Độ nghiên cứu pháp thuật, làm như là mấy nước đó độc quyền về môn bắt ma, trừ quỷ và chỉ chuyên môn về một món ấy mà thôi. Để kỷ niệm những năm du học vất vả, ông lấy biệt hiệu là “Ba Da Ka Lu Tu Na”, một cái biệt hiệu mà khi nói lên người ta thấy sự ngân nga của Lào, của Xiêm, và của Ấn Độ. Nhưng muốn cho hợp thời hơn, ông Ba Da... còn để một bộ râu Tây - đúng hơn là râu Ăng lê - cốt để tăng thêm sự quan trọng của nghề nghiệp mình. Đối với bà Cửu thì vị pháp sư có râu hay không có râu cũng chẳng quan hệ gì lắm, bởi lẽ ma quỷ có thừa lông lá đầy mình, đâu có kiêng nể một đôi chòm lông bé nhỏ ở trên môi mép, nhưng với ông Cửu thì bộ râu ấy thật đáng kính trọng, cụ thể phải thêm rượu, thịt vào các bữa ăn. Ông Ba... - từ nay xin gọi vắn tắt như thế, miễn là vẫn giữ nguyên sự thành kính với người - ngay từ hôm đầu đã tỏ ra một bản lĩnh cao cường. Suốt đêm, ông ta không ngủ, thỉnh thoảng lâm râm khấn niệm như đang cầu khẩn một sức thiêng liêng độ trì, thỉnh thoảng lại nói lảm nhảm như đang trò chuyện với kẻ khuất mặt. Sáng ngày, với một dáng điệu ưu tư, ông bảo khổ chủ:
- Tôi đã gặp oan hồn rồi.
Ông Cửu giật mình, kêu lên:
- Gặp rồi? Gặp hồi nào?
Ông Ba chậm rãi trả lời:
- Hồi khuya.
- Nó là hạng nào?
Ông Ba nghiêm nghị:
- Là ma, là quỷ. Nhưng vốn tiền thân là một học trò.
Ông Cửu cau mặt:
- Tôi có quen biết với hạng học trò nào đâu? Nhưng sao ma quỷ học trò mà lại phá phách quá vậy?
Ông Ba quắc mắt:
- Cụ lầm... Trong các loài ma, loài quỷ xưa nay, chỉ có ma quỷ học trò là đáng sợ nhất. Hãy nghĩ mà xem, người ta ai cũng vì sự sinh kế ở đời mà hóa hiền lành nhu nhược, chỉ có một loại hạng người được sống lành lặn mà không bận tâm về chuyện áo cơm, do đó không hiểu cuộc đời, dễ thành nông nổi, là hạng học trò. Một khi họ hóa thành ma, thành quỷ, thì họ không biết kiêng sợ gì cả. Nhưng khốn, tên ma học trò phá phách ở đây lại là một học trò nghèo có mối nợ nần từ trước với cụ, cho nên xem y còn định báo oán lâu dài...
Ông Cửu làm thinh, vân vê bộ râu, lục lọi ở dĩ vãng cố tìm bóng dáng một người học trò. Hai người cùng ngồi đối diện rất lâu, không ai mở miệng nói một lời nào. Ở ngoài, gió thổi rạt rào qua các bờ tre, có tiếng chim kêu rất nhỏ mơ hồ như tiếng nhắc thầm vẳng lại từ một không gian xa vắng. Bỗng nhiên ông Cửu giật mình, tái mặt:
- Một học trò nghèo... tôi nhớ ra rồi.
Ông đưa bàn tay gầy guộc, lẩy bẩy vớ lấy bình rượu đặt trên tủ trà, rót vội vào chén khiến rượu tạt cả ra ngoài mặt chiếu. Ông đưa hai tay bưng chén rượu lên, không ngăn được sự xúc động và nốc một hơi cạn sạch.
Ông Ba chăm chú theo dõi khổ chủ, rồi bảo:
- Cụ không cần nói với tôi chuyện ấy làm gì. Tôi đã biết rồi...
Ông Cửu kêu lên:
- Biết rồi?... Hồn ma đã nói cho thầy biết rồi?...
Ông Ba gật đầu. Ông Cửu có vẻ lo lắng:
- Tôi không chắc gì ma đã nói thật...

- Chính vậy, ma cũng nói dối như thường. Trong nhiều năm trời tôi đã tiếp xúc ma quỷ, tôi thấy chúng có gần đủ tật xấu như người. Có lẽ chúng còn tệ hơn người nhiều. Nhưng cụ đừng lo, tôi biết phân tích lời thật lẽ dối, ma quỷ không lừa tôi được. Nỗi khổ mà hồi nhỏ cụ đã gây cho người học trò thật là quá sức lớn lao khiến y phải giã từ đời, bỏ cả tương lai hứa hẹn, bỏ cả tình yêu tươi đẹp, bỏ hết, bỏ hết. Ngày nay, y đã vượt được bao nhiêu trở ngại ở dưới cõi âm về đây đòi lại món nợ ngày xưa. Đó là một món nợ máu...
- Nó định làm gì?
- Đẩy cụ vào một cái chết thê thảm, cái chết lần mòn...
chết cả gia đình, dòng họ...
Ông Cửu lặng điếng giây lâu, mới nói:
- Không có cách gì trừ được nó sao?
- Nó không cần nghe ai nữa.
- Hay nhờ hồn ma các thầy dạy nó ngày xưa can thiệp?
Học trò chắc phải biết nghe lời thầy.
Ông Ba lắc đầu:
- Bây giờ, biết những ma thầy ở đâu mà tìm kiếm được? Tôi chắc mấy ông thầy dạy đều bị nhốt dưới địa ngục cả rồi... Vả lại... việc làm của nó là vì lẽ phải, không ai mà can thiệp được.
- Còn thầy đành chịu thua sao?
Ông Ba đáp gọn:
- Chịu thua. Nhưng nếu cụ chấp nhận cho điều kiện sau đây, tôi cũng thử liều một nước cuối cùng.
- Thầy hãy nói đi.
- Chia nửa gia tài...
- Trời ơi! Nửa phần gia tài?
- Thế là mất ít đó cụ... Không thì cụ sẽ mất hết, cả người lẫn của. Còn một điều kiện sau đây rất là cần thiết: cụ phải làm giấy nhường lại cho tôi tất cả gia tài càng sớm càng hay, nhưng để khỏi điều ngờ vực cụ cứ giữ mảnh giấy đó. Chừng nào xong việc, sẽ giao cho tôi cũng được. Xin cụ đừng tưởng là tôi tham lam. Tôi quyết cùng ma giao đấu một phen sống mái, nếu tôi không hưởng gia tài của cụ thì ma sẽ không đời nào tranh chấp với tôi... Đã dọ thử ý nó rồi...
- Dọ như thế nào?
- Tôi tỏ lòng muốn đấu phép với nó, nó cười bảo rằng: “Tôi có can dự gì đến ông đâu mà bày ra sự xung đột cho thêm rắc rối. Tôi chỉ thèm cái mạng sống của thằng...”
- Của tôi...?
- Của cụ, chính thế.
Ông Cửu suy nghĩ suốt ngày hôm đó, không biết quyết định ra sao. Đến chiều, thấy bóng đêm đã đem màu đen tối nhá nhem phủ lên vạn vật và nghe gió lạnh từ xa thổi về rạt rào qua các chòm tre trước ngõ như lời than oán căm hờn, ông bỗng nhận rõ tất cả ý nghĩa quái gở của sự giàu sang mà ông không ngừng chạy đuổi gần trọn cuộc đời. Ông rút mảnh giấy, trịnh trọng mời vị pháp sư lại gần, chính thức chia đôi cho ông “Ba Da Ka Lu Tu Na” tất cả những gì ông có, tất nhiên không kể đứa con và người vợ già.
Ngay đêm hôm ấy, ông Ba tổ chức giao đấu để quyết diệt loài ma quỷ.
Ông bảo mọi người ngủ sớm và đem nhiều đạo bùa linh chôn bốn góc nhà. Ông đã cho tìm mỡ chó đổ vào bảy chiếc đĩa đất làm đèn, đặt sẵn quanh nhà, cắt đặt một số gia nhân đợi hễ khi nào nghe ông hô xướng thì phải nhất tề đốt lên cho sáng. Ngoài ra, ông còn đem một bình nhỏ đựng chất bột xám bốc mùi hăng hắc rưới nhẹ thành một lối đi ra vườn và còn vẽ nhiều hình thù kỳ dị trên khắp mặt đất.
Gia đình ông Cửu tuy đi ngủ sớm nhưng không ai nhắm được mắt. Nửa đêm, họ nghe một tiếng cười dài rất đỗi lạnh lùng vẳng lên ở trên nóc nhà và một tiếng rít rùng rợn tiếp theo. Một lát, nghe tiếng huỳnh huỵch trên đất, tiếng thở hào hển, tiếng xô, tiếng đẩy phát ra từ sự giằng co quyết liệt. Những tiếng động ấy kéo dài không biết bao lâu, cuối cùng chỉ còn những tiếng thở gấp và giọng rên rỉ vẳng lại mỗi lúc mỗi yếu rồi tắt lịm hẳn. Gia nhân ông Cửu đợi hoài không nghe tiếng hiệu thắp đèn, nên cứ đợi mãi và ngủ gục trên mấy chiếc đĩa đất lúc nào không hay. Vợ chồng khổ chủ yên trí pháp sư toàn thắng, nhiều lần định ngồi hẳn dậy coi thử cớ sự ra sao nhưng không có lệnh ông Ba đành phải nằm chặt trên giường. Mờ sáng, họ thấy ông Ba nằm yên trên đất như một đống thịt mềm dẻo. Lay mãi ông mới dần dần tỉnh dậy, cố gắng đứng lên rồi lại té xuống. Người nhà khiêng ông lên giường thấy mình mẩy ông tím bầm, hai bên khóe môi tứa máu đông thành hai vệt đen sì. Đến trưa, ông Ba mới ngồi dậy được. Ông phều phào nói:
- Nếu tôi không đem tất cả các món bí truyền đối phó thì hóa kiếp rồi. Gớm thật! Tên này bản lĩnh cao cường tột bực. Tôi đã chơi thử ma Ấn, ma Xiêm, đủ loại đủ cỡ mà chưa gặp một hạng nào đánh hiểm thế này.
Ông Cửu lo lắng:
- Thế lỡ tối nay nó đến thì sao?
Ông Ba trả lời mệt nhọc:
- Thì chết... Nhưng nó có bảo tôi trả gia tài cho ông và rời gấp khỏi nhà này. Tôi xin triển hạn năm ngày cho lại sức đã.
- Nó bằng lòng không?
- Tên này vốn có ăn học nên đối xử khá. Nó đã bằng lòng. Từ đây đến năm hôm nữa, tôi chắc nó không có mặt nơi đây.
- Bây giờ phải liệu thế nào?
- Để tôi nghỉ khỏe vài hôm rồi lo liệu cách đối phó.
Ông Ba nằm vật ra giường mà thở hổn hển. Suốt hai ngày liền ông chỉ uống sữa, đôi mắt nhắm nghiền, thỉnh thoảng trằn trọc qua lại có vẻ mệt nhọc. Đến ngày thứ ba ông mới tỉnh hẳn, đứng lên đi lại trong nhà. Ông mở tráp, lấy một lá bùa hộ mạng đeo cổ, rồi cầm chiếc gậy phòng thân chào hai vợ chồng ông Cửu:
- Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi, chỉ có ma quỷ mới loại trừ được ma quỷ. Tôi đi trễ lắm độ chừng hai ngày là tôi trở về, ông bà đừng ngại. Tôi sẽ tìm một đối thủ của nó, và gây một trận thư hùng để tiêu diệt nó mới xong.
Đúng hai ngày, ông Ba chống gậy trở về. Ông nói:
- Đáng lẽ tôi còn ở lại thêm vài ngày nữa nhưng sợ ông bà chờ đợi.
Ông Cửu vội hỏi:
- Có kế gì chưa?
- Có rồi. Tên học trò này mới chỉ thuộc về loại ma vừa lên hạng quỷ, nhưng chưa thật sự là quỷ thâm niên. Tôi đã dò khắp các nơi hiểm hóc may mắn gặp được một loài ác quỷ, một thứ đại tinh hiện đang phá phách gia đình ông Hương Lý Bỉnh trên xã Tứ Hải. Đáng lẽ tôi phải thử sức với nó một phen nhưng tôi chưa được mạnh lắm, và phải ở thêm lại một đêm nữa, e nỗi ông bà sốt ruột ở nhà.
- Bây giờ phải làm thế nào?
- Tôi đã có cách.
Suốt ngày hôm sau, ông Ba bố trí một cái võ đài đặc biệt ở phía sau vườn. Ông ếm thật kỹ các ngõ sau nhà, sai đốt mỡ chó bốn góc và bôi huyết trâu vào các chân cột. Ông dùng hình nhân trấn đóng quanh vườn và trên chóp nóc ngôi nhà năm gian lợp ngói của ông Cửu Hiền, ông cho hai vị thiên sứ - thắt bằng lụa điều cầm hai thanh kiếm - trấn giữ. Trên mặt đất, trên nền tường đều có vẽ hình bát quái trận đồ, chằng chịt mê lộ, u cung để cho hồn ma, vía quỷ không biết lối nào mà đặt chân tới. Cuối cùng, ở ngay trong góc võ đài ông dựng hai cái hình nhân phỏng đúng theo hình của ông và ông Cửu Hiền. Ông bảo ông Cửu:
- Tôi đã ghi dấu của tên đại tinh đại yêu tác quái trên nhà ông Hương Lý Bỉnh, rồi đem dấu của ma quỷ ở đây xáo trộn trên ấy, cốt gây một sự khiêu khích và dùng ám hiệu dẫn nó xuống đây. Đêm nay thế nào cũng có một trận quyết liệt.
Cả nhà hồi hộp chờ đợi như mong một sự giải thoát cuối cùng. Chuyến này không được thành công thì cầm bằng như chịu chết. Đợi cho bóng tối tràn đầy khu vườn, ông Ba một mình ra ngồi trong một bụi rậm sau khi cẩn thận gài kỹ bên mình gần mười đạo bùa. Gia đình ông Cửu nằm yên thao thức, lo âu, lắng nghe tiếng động âm thầm quanh nhà và cứ hình dung ra những hoạt động quái đản của giống yêu ma.
Nửa khuya, vẫn không có động tĩnh gì. Đang nằm trằn trọc, ông Cửu bỗng nghe ông Ba gõ cửa gấp rút. Lập tức ông choàng dậy liền, mở cửa, ông Ba hấp tấp chạy vào. Ông Ba không giấu được sự vui mừng cố đè nén lại:
- Trời ơi!
- Sao đó? Sao đó? Sao đó?
- Chúng gặp nhau rồi.
- Đánh nhau dữ chưa?
- Chẳng đánh khỉ khô gì hết.
- Úy cha mẹ ơi! Làm sao mình sống cho nổi?
- Đừng lo. Ai ngờ con tinh ở trên Tứ Hải là con quỷ cái...
- Chết cha! Quỷ cái thế thì dữ lắm?
- Nhưng con quỷ này trước kia vốn là người yêu của thằng học trò phá phách nhà ông. Hai đứa lấy không được nhau nên cùng nhau chết, bây giờ gặp nhau tình cờ chúng mừng rú lên ôm quấn lấy nhau như sợi dây neo. Ban đầu, tôi tưởng chúng sẽ một còn một mất ai ngờ sau đó thấy cả hai đứa ra ngồi ở góc võ đài tỉ tê tâm sự, tôi mới ngã ngửa.
Ông Cửu lo lắng:
- Nguy lắm, rồi chúng hiệp sức hại mình, làm sao đối phó cho đặng?
Ông Ba cười xòa trong bóng tối dày, vỗ vai ông Cửu:
- Đừng lo! Tôi đã bảo ông bọn ma quỷ này thuộc loại học trò, vốn quen mơ mộng, bây giờ đã sụp trong hố ái tình thì chúng chết nghẹt trong đó chứ còn phá phách gì nữa! Rồi xem, chúng còn nỉ non tâm sự, chúng còn hò hẹn gặp gỡ, rồi nhớ rồi thương, rồi sầu rồi mộng, thế là sinh con đẻ cháu, lo mệt một đời chứ còn hung hăng sao nổi?
Rồi ông nói tiếp, bằng một giọng trầm:
- Ông chẳng thấy sao, xưa nay muốn đẩy cho một xã hội sớm đi vào chỗ suy thoái thì cách tốt nhất là làm cho đám thanh niên tê liệt, mê muội dần đi bằng lối cổ võ, gieo rắc ái tình liên tục, qua những tiếng nhạc, lời ca, qua các sách báo và bằng mọi thứ gợi cảm có thể tạo được. Dìm chúng xuống dưới bể tình thì chúng chết chìm, chết nghẹt hết thôi.
Nói xong, ông Ba yên lặng dắt tay ông Cửu rón rén cùng ra sau vườn. Ông Ba dán lên trán ông Cửu một đạo bùa và cả hai ông cùng vào trong một bụi cây ngồi nhìn hai con ma trẻ đang quấn vào nhau không chịu buông rời.
Một lát, ông Ba dắt tay ông Cửu rón rén trở vào.
Ông nói:
- Để yên cho chúng yêu nhau, chúng sẽ quên hết sự đời. Tôi cam đoan mười ăn một với ông là chúng ngồi đây cho đến gà gáy mới đi, và cho đến già chúng không phá phách gì nữa.
Ông Ba nói chẳng sai lời. Ba tháng đã qua không còn thấy bóng ma quỷ gì nữa. Một năm sau đó, nhà ông Cửu Hiền vẫn được yên ổn như thường. Ông Cửu vui lòng chia đôi gia sản và ông “Ba Da Ka Lu Tu Na” hể hả nhận lấy món tiền khổng lồ, sau khi không ngớt ca ngợi tình yêu là thứ quyền lực có đủ khả năng vật ngã mọi loài ma quỷ và khiến người ta quên hết mọi sự quan trọng trên đời.
1971
T.L. tháng 10.1999
Báo Thế hệ trẻ, số 20, tháng 12.1999
Vũ Hạnh
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chương XIII thuyền-trưởng bất đắc dĩ TÔI yên trí tôi chỉ xuống trình-diện tại một chiếc tàu nào là được tuyển-mộ ngay. Vì thế, sau khi tới...