Bến nước Ngũ Bồ 1
CẢNH I
SỬ LIỆU
Sau khi đánh thẳng được đôi ba trận, xét thấy khí thế của mình còn yếu, Lê Lợi
rút quân về núi Chí Linh, chỉnh đốn binh mã.
Một mặt, ông sai người đi liên lạc với đám khởi nghĩa trong nước: Phan Liêu ở
Nghệ An, Lê Ngã ở Lạng Sơn, Trịnh Công Trương và Nguyễn Đặc ở gần Đông Đô. Mặt
khác, ông phái người em họ, và cũng là một tráng sĩ, Lê Liêm vượt sông sang
Chiêm Thành, để lôi kéo một số nghĩa sĩ Việt còn ẩn náu ở bên đó từ khi Hồ Quý
Ly thất trận, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của vua Chiêm Trà Toàn. Trong khi
đi đường, Lê Liêm đã phải hạ thủ một số quân Minh để thoát hiểm, rồi ruổi nhanh
đến Ngũ Bồ giang, con sông chia đôi biên giới Chiêm Việt. Lê Liêm vào chờ đò
sang sông trong quán nước Lão Đồ, một ông chài nghĩa khí vẫn chuyên đưa đón
những người vì quốc sự qua về Bến Ngũ Bồ giang.
Không may, viên Thám binh người Việt theo giặc Minh là Đặng Ích lần theo dấu
vết, định vây bắt.
Lão Đồ và con gái ông là Thị Trinh tìm cách che chở và đánh lạc hướng tên Việt
gian này, cuối cùng đã đưa được Lê Liêm sang sông.
Nhưng khi người tráng sĩ họ Lê buộc cương bên gốc cây trước quán ở miền quan
tái này, thì đồng thời cũng bắt đầu tấn kịch bi tráng giữa một khách tuấn kiệt
hào hoa và một trang giai nhân tuyệt sắc.
NHÂN VẬT
LÊ LIÊM: Em họ Lê Lợi, khoảng 27 – 28 tuổi
THỊ TRINH: Con gái Lão Đồ, 20 tuổi
LÃO ĐỒ: Ông lái đò yêu nước, trên sáu mươi tuổi
TRẦN BẠCH: Con trai cả Lão Đồ, khoảng 27–28 tuổi
ĐẶNG ÍCH: Thám binh người Việt theo quân Minh
LÍNH MINH
CẢNH I
Không gian: Quán rượu bên sông Ngũ Bồ
Thời gian: Một buổi chiều nắng quái
Quán rượu lẻ loi bên sông. Con đê chạy sau quán dài tăm tắp. Bên phải là phía
bến, bên trái là đường quan. Trong quán, một chõng tre, một ghế dài. Trên chõng
vài ba vò rượu sành lớn, nút rơm đậy kín chất rượu vừa lên men, một chồng bát
đàn, ít thức hoa quả của một thứ cây biên tái để làm đồ nhắm đưa cay.
Trên vách, một con mã tấu bao mo treo lủng lắng. Quán có lối vào nhà trong,
vách ngăn phên nứa, cửa ra vào và một cửa sổ nhỏ.
Trước quán, quấn quýt dàn thiên lý đương độ mãn khai, Một gốc cây cằn xế mé
phải, cành lá thưa thớt đìu hiu. Lau lách vi vu bốn bề sau trước.
(Gió thổi lộng, ào ào xô lau lách ven sông. Ánh chiều đỏ quạch thấp thoáng
buông trên mặt đê cao, rơi rớt trên mặt quán vắng lợp thuần một thứ cỏ bồ vàng
nhạt, lốm đốm rêu xanh)
THỊ TRINH –(Vừa ra vừa hát)
Ai về Lạc Thủy? Ai lại Tây Đô?
Ai qua Hàm Tử? Ai đáp Bồ Cô?
Ai ngược đèo Tam Điệp?
Ai ghé bến Ngũ Bồ?
Ai ra nhắn với ai vô.
Nơi đây gió Bắc mưa Hồ mấy tao,
Nơi đây tay gối làm dao,
Ngủ trong tủi nhục thức vào hờn căm,
Hát ngao mà hết tháng năm,
Chiêm bao lót nửa chiếu nằm mà say,
(Rũ một tấm lụa trắng phơi cạnh dàn thiên lý)
Mộng đời trắng cả đôi tay,
Sầu lên vi vút ngàn mày tràng giang,
Nhắn ai tìm lối qua ngang,
Đem
tình đất nước trao sang xứ người
Nhắn
ai mơ chuyện cuộc đời,
Mây
nhàu quan tái một trời tâm tư,
Thưa
rằng thép nát son hư,
Ngày
đi sao cũng được như ngày về
Thưa
rằng trâm ước quạt đề,
Chớ
say Chiêm quốc quên thề Việt Nam...
(Tiếng
nhạc ngựa xa xa)
Ai
ngoài dặm cỏ
Giờ
đây rong ruổi một mình?
Tiếng
chi như mõ dồn thác đổ
Ai
tiễn đưa nhau mà có trường đình?
(Tiếng
nhạc ngựa rõ dần)
Nắng
lồng nhạc ngựa lung linh,
Phải
chăng khúc hát đăng trình viễn phương
(Tiếng
vó ngựa gần lại)
Âm ba
rờn rợn lạ thường,
Phải
chăng vó ngựa ghê đường quan san?
(Tiếng
nhạc và vó ngựa im bặt)
Nhưng
sao bằn bặt tiếng vàng?
Nhạc
im điệu nhạc, chiều tan giáng chiều!
Cây
tà nhạt bóng cô liêu,
Quạnh
đơn lối biếc, tàn xiêu ngõ hồng!
(Bâng
khuâng)
Có gì
đâu?
Có gì
đâu! Gió thu không
Ru
tình nức nở triều sông Ngũ Bồ,
Có gì
đâu! Nắng vàng xô,
Gội
hương mái cỏ bồng khô bàng hoàng,
Có gì
đâu! Tiếng đêm sang,
Trắng
mùa cổ độ, cư tang xứ lòng...
(Chứa
chan tâm sự)
Có gì
đâu! Cứ mà mong!
Hỡi
người tâm tưởng về trong mơ hồ!
Dừng
đây nghe sóng Ngũ bồ!
Dừng
đây uống cạn dăm vò rượu đau!
Mênh
mông tiếng hát ngàn câu,
Hoài
công giặt lụa cho nhau một đời,
Có
con người đẹp tuyệt vời,
Cây
ngàn lạc nẻo, cỏ khơi lặn vòng...
(Lê
Liêm từ lối đường quan ra, dừng lại ngoài quán lắng nghe. Thị Trinh không để ý,
tiếp tục hát)
Quán
nghèo ngăn ngắt gió đồng,
Đưa
người mấy độ qua sông chưa đành,
Chèo
nghiêng thức trắng năm canh.
Ơi
người tráng sĩ áo xanh ngựa hồng!
Hoa
thưa cài mái tóc bồng,
Đợi
bao đêm nữa cho không thấy người?
Trời
heo áo mỏng nhất đời,
Chiều
chiều giặt lụa đem phơi một mình...
(Vào)
LÊ
LIÊM – (Định vào quán) Ô hay! Quán không người!
THỊ
TRINH–(Ra) Xin quý khách dung tình!
Không
kịp đón...
LÊ
LIÊM –Nương tử còn phơi lụa,
Và
đương hát...
THỊ
TRINH – Xin nhận lời trách quở.
Gặp
lúc buồn nên hát nhảm cho vui.
Quý
khách đi từ vạn dặm xa xôi,
Cần
dùng rượu hơn cần nghe tiếng hát!
LÊ
LIÊM – E hai thứ đều cần...
THỊ
TRINH –(Nâng vò) Đây là ly rượu chát,
Cất
bằng hoa và men lá biên khu,
Xin
mời người thưởng thức chút công phu
LÊ
LIÊM – Chút công phu!
Người
cất rượu và người dong chèo đợi
Bên
bến nước, mặc gió lùa tóc rối,
Mặc
sương buông đầm giá ướt đôi vai,
Đợi
một người!
Biết
người đó là ai?
Một
tráng sĩ?
Có
phải không nương tử?
(Cười
vang)
Nhưng
hận quá! Tôi chỉ là khách lữ,
Thèm
VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
Muốn
qua đò liệu có được hay không?
THỊ
TRINH- (ỡm ờ)
Thưa
rằng được và thưa rằng không được.
Vì
nghiêm lệnh...
LÊ
LIÊM - Của những quân xâm lược?
Lệnh
ra sao?
THỊ
TRINH (Cảnh giác) Lệnh Vương Phúc tướng quân,
Triệt
hết giang thuyền, câu hãm ngư dân,
Chăng
lưới bắt những người sang Chiêm quốc.
LÊ
LIÊM – Nghĩa là bắt những người vì đất nước,
Vì
giang sơn đã xách kiếm lên đường,
Cưỡi
ngọn phong ba, đạp sóng trùng dương,
Lấy
chính nghĩa để thắng phường bạo ngược,
Cứu
lê thứ ra khỏi vòng lửa nước,
Thu
sơn hà một mối lại trong tay.
(Cảm
khái)
Thế
ra bao tiếng hát lúc vừa đây
Là
hoài cảm...
THỊ
TRINH−(Vẻ bí ẩn) Mà cũng là hoài vọng,
Là kỳ
ẩn nhưng cũng là kỳ mộng,
Quý
khách bận tâm tìm hiểu làm chi?
Rượu
nghiêng vò rót cạn bóng chiều đi,
Người
nâng bát cho ấm lòng... (rót rượu mời)
LÊ
LIÊM - (Đỡ bát) Nương tử!
(Uống
cạn, rồi tự rót lấy uống)
Rượu
nhắp mãi không khuây lòng sầu xứ,
Uống
làm chi?
Nhưng
không uống không đành!
Ta
rót một mình, ta cạn một mình,
Say
chưa bén dài cô đơn chót vót,
Ta
đối mặt ta, ta mời ta rót,
Cá
kình nghê hớp sóng lớn vào lòng,
Bao
nhiêu vò ắp nữa cũng là không!
(Chứa
chan tâm sự)
Rượu
nào cho mặt lên hồng?
Men
nào thoa dịu nỗi lòng đắng cay?
Tái
tê rượu ướt bàn tay,
Ngùi say mà hóa cuồng
say lạ đời!
(Vỗ kiếm hát một mình)
Ai rằng mật là ngọt?
Ai rằng rượu là say?
Sải tre mà mật đắng?
Rượu vò mà chua cay!
Hoàng hôn chìm đáy bát,
Bóng nhỏ cánh chim bay..
Hun hút đường biên tái,
Anh hùng một tiếng
suông.
Trắng đôi tay sự nghiệp,
Mặt nào về quê hương?
Thế cùng ngồi độc ẩm,
Thơ nào giải nguy cơ?
Sao mà Chiêm mà Việt?
Ngăn ngắt cỏ đôi bờ.
Bước chân đi một bước,
Hẹn mãi chẳng về không,
Làm sao làm sao nhỉ?
Say rồi quên cả ngông.
Dọc ngang càng thêm
ngán,
Thấp thao mưa ngày đông,
Tắt trên chiếu bạc bao
nhiêu nến,
Tắt ở lòng ta ngọn cuối
cùng...
(Tràn đầy phẫn hận
thương cảm)
Sông xanh núi đỏ vẫy
vùng,
Kiếm run hồn thép, ngựa
chùng tay cương,
Chừ đây trời mất mười
phương,
Chừ đây sợ cả mùi hương
giang hồ...
(Tiếng vó ngựa từ xa
chạy lại dừng trước quán. Lính Minh chạy ra, rút trong người ra một tờ cáo thị
lớn, trên vẽ hình một tráng sĩ áo lam, kèm theo những dòng chữ ngắn. Gã dán cáo
thị lên thân cây trước quán, rồi chạy trở lại, hối hả phóng ngựa đi. Thị Trinh
lén bước tới trước cáo thị)
THỊ TRINH−(đọc)
Đây tên Lê Liêm
Theo phường bạo nghịch,
Can tội hành thích
Bộ tướng Minh Triều
Mệnh lệnh dõi theo
Khắp trong quốc thổ,
Ai biết cáo tố,
Tưởng lệ bạc vàng,
Tiền lĩnh vạn quan,
Bổ làm tri huyện,
Ai ngầm giấu diếm,
Tội xử tru di.
Thừa lệnh thông tri,
Yết niêm cáo thị,
Treo hình Lê thị,
Dấu tích biệt thường,
Dân chúng tỏ tường
Mặt tên quốc phạm.
Minh triều chuẩn giám,
Đệ nhất bộ quân,
Quân pháp vô thân,
Tướng quân Phương Chính.
THỊ TRINH – (Giận dữ)
Lại cáo thị! Lại yết
niêm!
Bao giờ buông tay! Hỡi
lũ cường quyền!
Tình đời cát bụi đảo
điên,
Chủ về ngôi khách, khách
lên chủ nhà,
Đất băng dào dạt phong
ba,
Ngổn ngang chiến địa sơn
hà vì đâu?
Mối oan cừu đào mãi chỉ
thêm sâu!
(Ngắm kỹ hình vẽ trên
cáo thị, giật mình)
Trời! Lạ quá!
Dung nhan người quốc
phạm
Sao lại giống...
Cũng núi xây vừng trán,
Cũng mây ngàn vương khóe
mắt xa khơi,
Cũng cỏ pha màu áo nhuộm
da trời,
Giống vô kể!
Đúng rồi!
Không có lẽ!
(Quay lại gần Lê Liêm)
Thưa quý khách!
LÊ LIÊM – (Giơ tay ngăn)
Xin bước giùm nhè nhẹ!
Nương tử ơi, ta đương
uống máu người!
Khoái say ném bát vang
cười,
Nghiêng nghe vỡ cái sầu
đời mà điên!
(Ném bát rượu, cười vang
như điên)
THỊ TRINH – Rượu xong
quý khách băng miền?
LÊ LIÊM – Vượt sang
Chiêm quốc.
THỊ TRINH – Nhưng thuyền
không sang.
Và đây là Ngũ Bồ giang,
Đường chia biên giới...
LÊ LIÊM— Phải sang kỳ
cùng.
Dù cho lưới bủa mịt
mùng,
Chết thà một chết, lùi
không chịu lùi!
THỊ TRINH – Nhưng thưa
quý khách quên rồi,
Sông sâu nước lớn mà
người tay không?
LÊ LIÊM – Ngàn muôn lối
tắt đường vòng,
Lẽ đâu chưa tới đã cùng
hay sao?
Há say làm khách tiêu
dao?
Khoanh tay làm kẻ thua
cao nước cờ?
THỊ TRINH - (Lững lờ)
Trập trùng Chiêm Việt đôi bờ
Cắm sào vẫn có người chờ
nước trong.
LÊ LIÊM - Nghĩa là vẫn
có người chở khách sang sông?
Nương tử ơi, hãy mách
tôi người ấy.
Giúp nhau vượt sóng muôn
trùng.
Mai ngày bên xứ lạ.
Một bay bổng cánh hồng
Cao sâu ơn tri ngộ,
Xin ghi mãi không cùng.
Người ấy là ai, nương
tử?
THỊ TRINH – Tiếc quá!
Quý khách lại chỉ là
khách lữ,
Thèm VÔ CÙNG và khát
vọng MÊNH MÔNG,
Mà người lái đò khờ
khạo,
Lại là kẻ có lòng.
Chỉ chở những ai là
tráng sĩ,
Chí lớn như núi sông,
Nước loạn cắp gươm vùng
dậy,
Ra đi dẹp hết cuồng
ngông.
LÊ LIÊM – Nhưng người ấy
là ai, nương tử?
THỊ TRINH – Tiếc quá!
Quý khách vẫn chỉ là
khách lữ,
Thèm VÔ CÙNG và khát
vọng MÊNH MÔNG,
Mà người lái đò can đảm.
Bản tính lại viển vông
Chỉ chở những ai là quốc
phạm.
LÊ LIÊM – Thật hay
không?
Nếu chỉ chở những ai là
quốc phạm,
Vì thân thế hay..
THỊ TRINH – Thưa vì quốc
nạn,
Phất cờ lên đầu ngọn gậy
hưng binh,
Đường bôn ba đem chí khí
tung hoành,
Thời chưa lại, cờ thiêng
còn đợi gió,
Phiêu dạt bờ trăng, lênh
đênh bến cỏ,
Đốc gươm vàng loáng
ngược máu cừu nhân,
Bốn phương trời in dấu
ngựa vết chân,
Hiện đương bị quân thù
theo dõi bắt.
LÊ LIÊM-(Giật mình, nắm
đốc kiếm)
Bị quân thù theo dõi!
Nàng là ai?
THỊ TRINH-(Mỉm cười)
Chốn giang đầu heo hắt,
Tôi là cô bán rượu chát
quen nghề,
Và là người đã đọc hết
bài vè
Dán trước quán.
Nên vội vào mách lẻo!
(Chỉ ra gốc cây ngoài
quán)
LÊ LIÊM–Tờ cáo thị giọng
ngu dân khôn khéo.
THỊ TRINH–Và vẽ hình quý
khách,
LÊ LIÊM−(Đến trước gốc
cây) Vẽ hình ta!
Chốn sơn cùng thủy tận
chúng không tha
Ngăn vó ngựa, bắt ta
ngừng tuốt kiếm!
(Tuốt kiếm dóc tờ cáo
thị rớt xuống, đạp chân lên)
Đây số phận của kẻ đòi
ngự chiếm
Trên lòng ta bằng độc ác
tham tàn,
Trên muôn dân gieo thống
khổ lầm than:
Im sao được!
Gớm thay loài cẩu trệ!
Sống trên máu, nghênh
ngang trên huyết lệ!
Còn nỏ mồm rao quốc phạm
Lê Liêm:
Ha ha! Quốc phạm Lê
Liêm!
THỊ TRINH−Quốc phạm Lê
Liêm,
Hay tráng sĩ Lê Liêm!
Buổi non nước ngửa
nghiêng,
Thời cỏ cây tán loạn,
Ai tráng sĩ mà không là
quốc phạm?
Ai giai nhân mà chẳng
hóa vong nhân?
Ai hiền lương mà tránh
khỏi cát lầm?
Ai trinh tiết mà thoát
vòng ô trọc?
Nát vỡ ngọc vàng, nhàu
tan gấm vóc,
Nước mắt chan hòa mái cỏ
cung vi.
Tráng sĩ ơi! Người căm
giận làm chi?
LÊ LIÊM–Nhưng nàng là
ai?
THỊ TRINH–Tôi theo
phường bạo nghịch!
LÊ LIÊM−Quân xâm lược?
THỊ TRINH–Người rừng sâu
thảo hịch,
Luận tội quân Minh. khởi
nghĩa Lam Sơn.
LÊ LIÊM–Thật vậy chăng?
Xin nói rõ nguồn cơn,
Và giúp được cách nào?
THỊ TRINH– Thưa tráng
sĩ,
Quán rượu dựng nơi đây
là dụng ý
Làm trạm đưa người qua
Chiêm quốc chiêu binh.
LÊ LIÊM – Thế nhưng
nương tử là ai?
THỊ TRINH – Dạ, Thị
Trinh,
Con chủ quán người lái
đò yêu nước.
LÊ LIÊM−Vậy cụ đâu?
THỊ TRINH - Người sang
Chiêm từ trước,
Đón anh tôi là Trần Bạch
trở về,
Nội chiều nay khi trăng
nở ven đê,
Đò sẽ lại buông sào trên
bến cũ.
LÊ LIÊM – Để lại đón
những người...
THỊ TRINH - Như khách
lữ,
Tráng sĩ và quốc phạm
cộng là ba!
Người bình tâm khoan nỗi
nhớ đường xa
LÊ LIÊM – Xin nương tử
hiểu cho lòng kẻ sĩ,
Mới gặp gỡ nên giữ tình
giữ ý,
Lại sỗ sàng vì nghi hoặc
vu vơ,
Mượn bát rượu mồi giả
đận say sưa,
Vay thuật ngữ đóng vai
người quẫn trí,
Bởi thiên hạ hay chọn
lầm tri kỷ,
Nên nhìn đời không lấy
thực làm mơ.
(Mơ màng theo một viễn
ảnh xa xôi)
Vạt áo xanh từ độ lộng
phương bờ,
Mơ ước dựng một ngày mai
sán lạn,
Trên đổ vỡ, trên hoang
tàn ly tán,
Vang khúc hoàn ca, rợp
bóng tinh kỳ,
Xéo xác thù quằn quại
dưới chân đi,
Chuyển nhịp bước trên
vùng xây khói hận,
Đoàn chiến mã đã từng
xông trăm trận,
Vỗ yên lên buông tiếng
nổ giao phong,
Lửa gầm vang rung dậy
nhịp loa đồng,
Miệng thét vẳng khua làm
chiêng rửa hận,
Đoàn chiến mã đã từng
xông trăm trận,
Có hai chân thay làm
ngựa ô phi,
Một lòng son để dựng cả
thành trì,
Những chiến sĩ vùng đôi
tay gân guốc,
Mắt ngạo nghễ và gươm
trần sáng tuốt,
Từng trăm phen máu nhuộm
đỏ sa trường,
Những anh hùng chưa
trắng nợ mười phương,
Giẫm gót xuống, núi lở
thành biển cả.
Lũ Phương Chính mộng
viễn chinh tan rã,
Bọn Vương Thông chờ
triều phủ ngập mồ,
Khối binh hùng ngang dọc
chật Đông đô,
Sức vô địch khiến thù
không ngóc nổi.
Bờ bến ngự ầm một khuya
lửa dội,
Dòng đường trôi muôn
vành nón thiên thần,
Giữa kinh thành chợt
thức một mùa xuân,
Hoa chiến thắng rực trời
bông nở mạnh.
(Quay sang Thị Trinh,
giọng thiết tha)
Nương tử ơi!
Nàng hãy chấp cho chim
bằng đôi cánh,
Làm nước nguồn để dẫn
lối trăng đi!
THỊ TRINH– Thưa rằng
thanh sắc đương thì,
Bẽ bàng kỳ lại hẹn kỳ
cho oan,
Chim bay có nhớ hàn
giang?
Trăng soi có nhớ thác
ngàn bơ vơ?
LÊ LIÊM - Người xưa có
một bài thơ
Niềm riêng gửi ý bây giờ
xin dâng:
(Ngâm thơ Đường)
Biên địa oanh nhi chắn
nẻo đường,
Thơ mưa dòng lạnh bút
lều sương,
Trăng nhoè dáng kiếm câu
tâm sự,
Gió tạt hình hoa khúc
đoạn trường,
Sự nghiệp chưa tròn thân
kiếm mã.
Tơ duyên đành gác hội
uyên ương,
Tao phùng nửa kiếp là
tao loạn,
Một bước ly hoài mấy vấn
vương.
THỊ TRINH – Người xưa
gieo nửa vần thương,
Hay hèn xin nối một
chương họa vần,
Bọt bèo vốn dĩ là thân,
Quê mùa đến cả lời ngân
ngỡ ngàng:
(Họa thơ)
Chiều đơn quán lẻ ngẩn
ngơ đường,
Ải quạnh sầu đan lớp gió
sương,
Ai chỉ bút nghiên đau
thế sự,
Mà riêng kim chỉ não can
trường.
Kề thanh dạ liền bên
thanh hợp,
Nối tiếng uyên liền lại
tiếng ương,
Lòng ngỏ then cài chênh
gió lọt,
Thâu canh gối mộng nhặt
trăng vương.
LÊ LIÊM – Lĩnh ý thơ và
không dám coi thường,
Khi nương tử đã gửi lòng
tin tưởng.
Tấm chân ý xin tỏ bằng
chân lượng,
Mong được phép qua sông?
(Tiếng gà gáy vào canh)
Tiếng gà đã vào canh!
Đêm ngả huyền và trăng
sắp treo xanh!
THỊ TRINH – Dạ, Tráng sĩ
sẽ vừa lòng toại ý,
(Tiếng ngựa hí)
Nhưng khoan!
Tiếng ngựa nào lộng hí?
Liệu dấu vết người có lộ
hay không?
Mà quân thù..
LÊ LIÊM – Đó là chiếc
ngựa hồng
THỊ TRINH – Của tráng
sĩ?
LÊ LIÊM – Buộc ở ngoài
gốc liễu,
Trước cổ tự chữ đề:
Giang thần miếu,
Ở gần đây...
THỊ TRINH – A! Khi vó
ngựa im đường
Lúc chiều tà, là người
đã dừng cương,
Đi chân đất tới quán này
hỏi rượu.
Tôi nhớ ra rồi!
(Có bóng người thấp
thoáng trên đê)
LÊ LIÊM – Bóng ai lồng
trăng chiếu,
Đổ dài trên mặt đê dầy?
Bước chân chập chừng lảo
đảo,
Đương tiến lại gần đây?
THỊ TRINH – Tráng sĩ hãy
quay về cổ miếu,
Tránh bất ngờ và đợi tạm
phút giây,
Còn để mặc tôi đối phó!
LÊ LIÊM (Vỗ đốc kiếm)
Nương tử!
Lưỡi kiếm sắc có ngại gì
nguy khó!
Xin nhường bước cho tiểu
sinh!
THỊ TRINH - Người bạo
động ích chi?
Khi bốn bề điệp điệp mấy
trùng vi,
Như kiến cỏ giặc chia
quân chiếm đóng?
(Dịu dàng ý tứ)
Người có xót kẻ buông
mành đợi bóng,
Thì hãy vì đại nghĩa kíp
rời chân,
Và bảo tồn nhất nhất lấy
tôn thân,
Thân thế trọng cũng như
non nước trọng.
Trăng rõ lắm rồi!
LÊ LIÊM- (Vòng tay) Tạ
tình nàng cao rộng!
Tôi đi đây!
(Vào nhanh)
THỊ TRINH – Bóng người
đã lại gần!
(Vào khuất)
(Trần Bạch từ trên mặt
đê xuống, bóng đổ về phía trước, bước chân loạng choạng ngả nghiêng)
TRẦN BẠCH – Rượu bồ đào
say ríu cả đôi chân,
Đầu không uống mà đầu
quay đáo để!
(Vào quán, nhấc vò rượu
lên lắc, mở nút ghé mắt nhìn)
Anh rượu ơi! Anh có còn
không thế?
(Dốc ngược vò rượu)
Hết tỉ rồi! Hết thật!
(Lắc đầu chán ngán, ném
vò lăn lông lốc)
THỊ TRINH- (Ra) Anh đã
về!
TRẦN BẠCH – Anh về nhà
nếm lại chút men quê,
Em coi thử rượu có còn
hay hết?
Có câu chuyện thật buồn
cười muốn chết,
Cạn dăm vò rồi anh kể em
nghe....
THỊ TRINH– Anh ra đi độ
ấy mới sang hè,
Đầu tường ngỏ đương lập
lòe lửa lựu,
Bấm đốt tay một năm tròn
không thiếu,
Một năm tròn vắng bặt
hết tăm hơi,
Đau đáu cha già mong nhớ
khôn nguôi,
Lại lo lắng ngày đêm vì
quốc sự,
Tóc bạc trắng những canh
dài không ngủ,
Thân héo mòn trong rượu
uống thay cơm,
Hết hoàng hôn rồi lại
đến hoàng hôn,
Trên bến nước Ngũ Bồ
giang hiu hắt,
Cha trông ngóng đã mỏi
mòn đôi mắt,
Bãi sông khuya mù mịt
bóng hình anh,
Cha choàng vai tấm áo
khoác mong manh,
Vượt sóng sang Chiêm tay
chèo tay lái,
Tìm anh về…..
TRẦN BẠCH (Ngăn lại) Từ
từ cô em gái!
Khoan kể đường dài!
Hãy tìm hộ cho anh!
Rượu trốn đâu mà vò ngửa
tênh hênh?
Bát há miệng khô như kỳ
đại hạn?
THỊ TRINH – Rượu bán hết
cho khách rồi!
TRẦN BẠCH – Rõ chán!
Biết thế liều ở quách
lại bên Chiêm,
Rượu Chiêm thành thả cửa
uống liên miên,
Men nồng ấm thú hơn là
rượu tiến,
Thuần mà đậm, thơm mà
không dị biến,
Tục mà lại hay, mạnh mẽ
ung dung,
Say ly bì, gác hết
chuyện non sông,
Quên năm tháng, mặc ai
lo ai liệu..
(Như trong mơ)
Gái Chiêm quốc đẹp như
trong mộng triệu,
Ánh dung quang mờ nhạt
cả làn gương,
Mỗi bước hài đưa một
điệu Nghê thưởng,
Tình muôn thuở vang hình
trên vách đá...
(Mê loạn)
Ôi! Cuồng hỉ khi cung
đàn giục giã,
Trong cánh tay ngà hóa
rắn quấn quanh,
Chết giữa trời hoa đất
rượu mong manh,
Hay gục ngã khoảng đêm
sầu thế hệ...
(Lảo đảo muốn ngã, vội
ôm lấy cột quán)
THỊ TRINH – Anh sang
Chiêm nếu chỉ vì như thế
Vì sênh ca, vì nhã nhạc
mê người
Vì rượu ngon, vì nhan
sắc gái Hời,
Có sang nữa cũng chỉ là
uổng phí!
TRẦN BẠCH- (Cười khà
khà, vung tay)
Em có biết bao oai hùng
nghĩa sĩ.
Bao đường đường hào kiệt
đã lừng danh,
Khi sang Chiêm cũng
chẳng khác gì anh?
(ôm vò rượu không, vỗ
vào vai vò)
Cả chí lớn đong chưa đầy
hồ rượu,
Đổi trăm họ lấy một
nhành liễu yếu,
Đắm hồn trai trong đôi
tiếng cười vo
Huống chi anh! Con một
lão lái đò!
Giữ sao được! Mà giữ làm
chi nữa!
Rượu nốc kỳ cho tim gan
bốc lửa!
Đàn rung lên! (Giơ tay
vẫy vẫy)
Người đẹp đất Hời ơi!
Hãy chờ ta!...
(Loạng choạng bước đi,
ngã ngồi giữa sân khấu, tay vẫn khư khư ôm chặt vò rượu)
THỊ TRINH - Anh Bạch!
Anh quá mải mê chơi,
Quên mất cả lời cha già
căn dặn,
Phụ cả ý của tiền nhân
gửi gắm
Của người con mang tủi
lớn non sông,
Rửa sạch hận thù quốc
phá gia vong.
Anh nghĩ lại!...
TRẦN BẠCH – Anh nghĩ
rồi, em ạ.
Rỗi hơi lo trước mối lo
thiên hạ,
Tội gì không vui trước
cái vui chung!
Một đời người được mấy
dịp lung tung?
Sách có chữ rằng: “Chơi
là lãi đấy!"
Quân tử sất phu ngàn xưa
đều vậy,
Nên gặp cha, anh đã nói
hết lời.
THỊ TRINH - Cha bảo sao?
TRẦN BẠCH – Chà! Ông lão
dở hơi!
Chưa chi đã đánh phủ đầu
ngay trước,
Rồi sấp ngửa lôi anh về
bằng được,
Không cho ngừng một phút
lại bên Chiêm. -
THỊ TRINH – Hiện cha
đâu?
TRẦN BẠCH – Đương hì hục
dìm thuyền
Ngoài bãi sóng.
THỊ TRINH (lo lắng) Cha
dìm thuyền xuống cát?.
TRẦN BẠCH - Và bẻ gẫy cả
mái chèo tan nát,
Thề từ nay..
THỊ TRINH - Cha bẻ gẫy
mái chèo? Thề sao anh?
TRẦN BẠCH – Sẽ đốt quán
cháy vèo.
Tìm nghề khác kiếm lần
hồi hai bữa,
Quyết không chở người
sang Chiêm quốc nữa,
Vì người đi mà chẳng có
người về.
Ông cụ già tuy lẩn thẩn
chân quê,
Mà hăng máu hơn cả người
trai tráng.
Nghĩ cũng giận mà nghĩ
thì cũng hoảng.
Lát nữa về em liệu ý cha
xem,
Can giúp cho anh....
THỊ TRINH - Anh giúp cho
em,
ra ngoài bến can cha
TRẦN BẠCH – Đừng xui
dại! Can làm chi?
THỊ TRINH – Xin cha cầm
thuyền lại!
Giữ lấy mái chèo!
TRẦN BẠCH - (Không hiểu)
Thật rắc rối to!
THỊ TRINH – Vì đêm nay
sẽ có khách qua đò, Khi trăng rụng...
TRẦN BẠCH – (xua tay)
Chớ vuốt râu ông kễnh!
THỊ TRINH – Nhưng khách
là người...
TRẦN BẠCH - Dù có là ông
thánh!
Cũng khó mà lay chuyển
nổi lòng cha!
THỊ TRINH – Nhưng khách
là người...
TRẦN BẠCH – (Gật gù mỉa
mai) Rất lỗi lạc tài ba!
Tuấn kiệt, siêu quần,
kiêu kỳ, dũng mãnh!
Sang đất lạ với hai vai
sứ mệnh,
Vai quẩy rượu tăm, vai
gánh phấn son,
Chuyện phong hoa, thay
câu chuyện nước non,
Cơn say rũ đổ cơn say đế
bá!
(Cười nhạo báng)
Thế hắn chui đâu?
THỊ TRINH – (Bất mãn)
Anh khoan lời nói quá,
TRẦN BẠCH - Ờ thì thôi!
Thế ông tướng ấy đâu?
THỊ TRINH – Chờ ở ngoài
Giang thần miếu từ lâu,
Đợi đêm ngả trăng tan
vành...
TRẦN BẠCH − (Xua tay)
Mặc hết!
Rượu cái đã, rồi quyết
gì hãy quyết,
Làm gì hãy làm, không
rượu không xuôi.
THỊ TRINH – Anh không đi
e lỡ hẹn...
TRẦN BẠCH - Đành thôi!
Rượu trên hết!
THỊ TRINH - (Suy nghĩ
nhanh)
Hay anh chờ giây phút!
Để em chạy đi mua! (Cầm
lấy vò rượu không)
TRẦN BẠCH - Nhanh chân
một chút! Và lấy đầy vò!
THỊ TRINH – Anh giữ kín
việc này,
Kẻo không rồi lại vạ gió
tai bay!
Em đi gấp!
TRẦN BẠCH – Đúng! Không
nhạt mồm quá lắm!
(Thị Trinh mang vò bỏ
vào nhanh)
(Trần Bạch lục lọi lại
các vò rượu)
TRẦN BẠCH – Chà! chà!
Ông khách này cũng là
tay nghiện nặng,
Bao nhiêu vò mà hết sạch
sành sanh,
Vớ được nhau đấu bát một
vài canh,
Thì mới phân rõ được tài
cao thấp.
Thật đáng tiếc!
(Đặng Ích ra, theo sau
có tên lính Minh)
ĐẶNG ÍCH – Tiếc đầu còn
hay mất?
Hay tiếc sợi giây treo
cổ trên cành?
TRẦN BẠCH – (Hoảng sợ)
Dạ, dạ...
ĐẶNG ÍCH – Tiếc ruột gan
chưa bị gươm phanh
Làm ba khúc quăng thây
giữa lộ?
TRẦN BẠCH - Ối (Ngã quỵ
xuống)
ĐẶNG ÍCH – Đứng lên! Trả
lời ta cho rõ:
Lão Đồ đâu?
TRẦN BẠCH - (Đứng dậy
chắp tay) Dạ, thưa Đặng đại nhân,
Cha tôi đi mua rượu nẻo
giang tân,
Sắp trở lại...
ĐẶNG ÍCH – Ta muốn ngươi
nói thực ;
Khoảng Thân Dậu có ai
người áo lục,
Cưỡi ngựa hồng vào hỏi
lối sang sông?
TRẦN BẠCH – Ngài để tôi
cố nhớ!
Quả là không
Không ai cả! Không ai
vào trong quán!
Người đó làm chi?
ĐẶNG ÍCH - Một tên quốc
phạm!
TRẦN BẠCH – Một tên quốc
phạm?
ĐẶNG ÍCH – Đại trọng
phạm quốc gia!
Nó trốn đâu, ngươi hãy
chỉ cho ta!
Hay ngươi muốn xếp vào
hàng kẻ nghịch?
TRẦN BẠCH – Thưa đại
nhân...
ĐẶNG ÍCH – Đừng dài lời
vô ích!
Nói đi xem! Ta không
muốn chờ lâu!
Vì gươm vàng đương thèm
máu đầu lâu!
TRẦN BẠCH – Dạ, thưa
Đặng đại nhân...
ĐẶNG ÍCH – Thưa gửi mãi!
TRẦN BẠCH – Quả từ sớm
không có ai qua lại,
Dạ chân thành xin cứ
thực tường khai,
Ngài giết tha, đành cam
chịu dám nài.
ĐẶNG ÍCH – Ngươi chối
cãi nghĩa là ngươi muốn chết!
Ta nghe rõ vó ngựa đè lá
xiết,
Cuốn gió dường vun vút
réo ngàn xanh,
Băng về đây từ lúc nắng
lên cành.
(Ra hiệu cho lính Minh
vào khám xét trong quán không thấy gì, Đặng Ích rút gươm, tên lính Minh nhanh
nhẹn bẻ quặt tay Trần Bạch)
ĐẶNG ÍCH - Ngươi phải
chết!
(Trần Bạch mắt dán vào
nậm rượu đeo lủng lẳng bên mình Đặng Ích)
TRẦN BẠCH - (Liếm môi)
Xin cho say mà chết!
Chết mà say!
(Đặng Ích nhìn theo mắt
Trần Bạch, mỉm cười, tra gươm vào vỏ)
ĐẶNG ÍCH – À hà! Ta vui
lòng cho hết!
(Cởi nậm rượu ở thắt
lưng ra)
Ngươi muốn rượu chăng?
(Đưa nậm rượu dử Trần
Bạch, rồi rụt ngay lại)
Nhưng ta có một lời
Rượu ta ngon ngàn lạng
cũng khôn vời,
Ngươi hứa trước rồi ta
ban cả nậm.
(Đưa lên môi nhấp)
Chà! ngon tuyệt!
Mới kề môi đã thấm!
Ngươi ngửi xem! (Đưa qua
mũi Trần Bạch)
TRẦN BẠCH −(Hít vội,
liếm mép) Ngon thật!
ĐẶNG ÍCH - Đúng hay
không?
Ngươi hứa đi rồi ta sẽ
thưởng công!
TRẦN BẠCH – Hứa gì được,
thưa ngài?
ĐẶNG ÍCH – Bắt tên áo
lục
Đã trốn đến quán này vừa
kịp lúc.
Nộp cho ta để ta nộp
quân Minh,
Rồi mai ngày cũng bổng
lộc hiển vinh.
Cũng quyền lực như Thám
binh Đặng Ích.
Rượu muôn hộc sẽ tha hồ
thỏa thích.
Bạc đầy kho sẽ mặc sức
tiêu pha.
Rồi quan hầu, rồi tì
thiếp kiêu sa,
Xe trăm ngựa, ruộng ngàn
khoanh đắc ý,
Áo khanh tướng choàng
vai người dũng sĩ,
Rạng mặt công hầu phấn
điểm son tô,
Ta với ngươi thủng thỉnh
bước sông hồ,
Giang tay rộng khoát non
sông thiên hạ,
Hơn là làm con lão lái
đò!
(Quàng vai Trần Bạch)
TRẦN BẠCH Dạ, dạ.
ĐẶNG ÍCH – Ngươi giấu
tên phiến loạn ấy đâu?
Nói đi rồi ta chuốc rượu
mừng nhau!
(Tu trước một hơi khoái
trá)
TRẦN BẠCH - (Liếm môi
chép miệng)
Thưa đại nhân, nếu đúng
là hậu ý,
Xin dăm hớp cho Bạch này
sáng trí.
May có nhớ ra chăng..
ĐẶNG ÍCH – (Đưa nậm
rượu) Ngươi quả biết điều!
Đây uống đi và uống rõ
thực nhiều,
Say cho đã rồi nói cho
ta biết!
(Trần Bạch tu rượu đốc
thôi)
TRẦN BẠCH – Khà! Khà!
Hay! Hay! Hay tuyệt!
Sướng khoái vô cùng!
Vui không kể xiết!
Ai cười ta? Ai khinh ta?
Cơn men dốc tận giang
hà,
Say rồi bạo chúa cũng là
thằng say!
(Lại uống liên tục)
Thế mà nhịn trong từ lúc
về đây,
Lão khách ấy làm cho
mình mừng hụt,
Vét nhẵn nhụi mọi vò rồi
bỏ cút!
ĐẶNG ÍCH - Khách là ai?
TRẦN BẠCH – Hà! một bợm
rượu không quen,
Chưa gặp bao giờ và mù
mịt họ tên!
ĐẶNG ÍCH – Mặc áo màu
gì?
TRẦN BẠCH – Liễu xanh
hay cỏ lục?
Đỏ hoa đào hay vàng tươi
đóa cúc?
Tùy ý ngài...
ĐẶNG ÍCH – Ngươi lảm
nhảm như điên.
Hiện nó đâu?
TRẦN BẠCH – Ở ngoài
Giang thần miếu chờ thuyền,
Lúc trăng rụng sẽ vượt
sang Chiêm quốc.
ĐẶNG ÍCH – (Túm ngực
Trần Bạch)
Đồ vô dụng! Sao ngươi
không nói trước?
Đúng nó rồi!
TRẦN BẠCH – Tên quốc
phạm?
Càng hay!
Ngài buông ra! Tôi chưa
đến độ say,
Chân còn vững...
ĐẶNG ÍCH – Nhưng đầu
ngươi không vững!
Hãy liệu hồn!
(Đẩy ngã Trần Bạch, rồi
vẫy tên lính Minh cùng chạy vào)
TRẦN BẠCH (Lóp ngóp bò
dậy)
Làm cho mình cụt hứng!
Môi đang mềm... (Nhìn
nậm rượu lăn lốc) Rõ hoài của hay chưa...
Rượu chan hòa trên mặt
đất như mưa...
(Nhặt nậm rượu lên và
tiếc rẻ lấy tay chấm rượu trên đất, quẹt lên miệng)
Say rồi lại bảo rằng
chưa,
Chưa say mà lại dám thưa
say rồi!
Rượu ngon ta uống vô
hồi,
Đất nghiêng trời ngả, ta
ngồi bình yên.
(Thị Trinh và Lão Đồ ra,
vừa đi vừa nói chuyện, tay Lão Đồ cầm lưỡi mác)
THỊ TRINH - Con nhìn rõ,
không thể nào lầm được
LÃO ĐỒ – Đúng Đặng Ích?
THỊ TRINH – Đúng là tên
bán nước,
Theo giặc Minh để loè
nạt dân lành,
Áo đại hồng phấp phới
rặng cây xanh,
Ngựa dấy bụi trên đường
mòn lối quán.
Đi tiếp cận tên lính hầu
áo xám,
Mỏ chim mồi mặt cú vọ
sánh đôi.
LÃO ĐỒ — Ta mau chân!
Cha đoán chắc vừa rồi
Chúng đến quán để tìm Lê
tráng sĩ.
(Vào quán, thấy Trần
Bạch hãy còn ngất ngưởng say)
Đồ ăn hại! Mày vẫn còn
túy lúy,
Chưa cất nổi đầu từ
Chiêm Quốc về đây!
(Giằng nậm rượu ném đi)
Ném ngay đi!
TRẦN BẠCH – Xin cha hãy
nương tay!
THỊ TRINH – (Nhặt nậm
rượu lên) Nậm rượu lạ!
(Với Trần Bạch)
Anh lấy đâu ra thế?
TRẦN BẠCH – Có người bán
cho anh...
THỊ TRINH - Không có lẽ!
Rượu quanh vùng đều hết
tự hôm qua.
Khắp các hàng đều cất
tại nhà ta!
(Nhìn kỹ nậm rượu) Anh
nói dối, vì đây là dấu tích
Trên mình nậm, tên gian
hùng Đặng Ích
Khắc rành rành!
LÃO ĐỒ – (Giật mình giật
lấy cái nậm)
Uống cả rượu gian hùng!
Đến thế thì thôi!
TRẦN BẠCH − (Cúi đầu)
Cha mở lượng khoan hồng!
Hắn mời mãi, con chối từ
không tiện.
LÃO ĐỒ - Nó thuê rượu
moi gan mày hỏi chuyện,
Rượu uống rồi mày không
dễ làm lơ!
THỊ TRINH – Chuyện những
gì anh?
TRẦN BẠCH - (Nói bừa)
Toàn đạo lý văn thơ!
Luận Đường Tống và ngâm
Tương tiến tửu!
Tiền hậu Xích Bích, Tỳ
bà hành điệu,
Trường hận ca cùng Quy
khứ lai từ,
Rượu rồi thơ, thơ rồi
rượu lu bù,
Bàn sang cả Nam Hoa cùng
Đạo đức,
Bát quái, Thiên hào, Hà
đồ, Thái cực,
Lão tử, Trang sinh...
THỊ TRINH – Anh thật
viển vông!
Mất thì giờ và hoài phí
cả công.
Em chỉ sợ anh quá say lỡ
miệng,
Nói hở ra...
LÃO ĐỒ – Mày quanh co
lấp liếm!
Có đời nào tên Đặng Ích
kiêu kỳ,
Từ Đông đô mò mẫm tới
biên thùy,
Vượt ngàn dặm để tặng
mày rượu quý?
Để bình thơ và bàn suông
đạo lý?
Nếu không là một mưu
chước thăm dò,
Lùng bắt người tráng sĩ
sắp qua đò,
Nên dùng rượu dử cho mày
mắc bẫy!
Mày đáp nó sao?
TRẦN BẠCH – Con đáp là
không thấy!
LÃO ĐỒ – Đến phút này mà
còn nói dối ta!
Mày xưng rồi!
TRẦN BẠCH – Nhưng nó dọa
không tha,
Nếu không chỉ cho một
tên quốc phạm.
Dưới lưỡi kiếm gai ghê,
lòng hoảng loạn,
Con đành liều mách đến
miếu Giang thần...
THỊ TRINH - (Bàng hoàng)
Trời! Nơi mà Lê tráng sĩ náu thân!
Anh đã giết mất một
người yêu nước!
TRẦN BẠCH – Tính mạng
anh, anh phải cần lo trước
Cũng như em không nên
chết thay anh,
Và anh chết vì một kẻ vô
danh,
Khi cái chết không nghĩa
gì hệ trọng,
Không tiết liệt đoan
trinh...
LÃO ĐỒ – (Tức giận) Thôi
câm họng!
Mày biết làm sao người
đó là ai?
So với mày, một đứa vô
tài,
Như nấm đất bên núi cao
vòi vọi,
Như đêm tối trước ánh
dương chói lọi,
Loài cỏ hèn bò dưới ngọn
thâm u,
Giống cáo ngày nương
bóng cả mãnh sư...
(Thở dài sườn sượt)
Càng suy nghĩ lại càng
thêm ngao ngán,
Dạy cứu nước hóa dậy con
làm phản!
TRẦN BẠCH - Con làm chi?
LÃO ĐỒ— Tội mày đã tầy
đình,
Gục mặt theo phường úy
tử tham sinh,
Cúi đầu xuống cam sống
bề trâu ngựa.
Con làm chi?
Mày dọn đường mở cửa,
Đón gót thù về giày đạp
non sông,
Phá miếu đường, làm điếm
nhục tổ tông,
Đưa dân tộc bước vào
vòng nô thuộc.
Con làm chi?
Mày tiếp tay giặc nước,
Bắt bớ người hiền, chém
giết lương dân,
Áp dụng nơi đây bạo sách
nhà Tần,
Dùng ngược chính, chôn
học trò đốt sách.
Con làm chi?
Mày thọc gươm vào nách
Trang anh hùng cứu nước
của nhà Lê,
Tài đức trùm cao sông
núi đôi bề,
(Cảm xúc bùi ngùi)
Người mà ta vẫn ước ao
gặp mặt.
Mà năm tháng gối chèo
không nhắm mắt,
Một đời ta đón tại quán
biên thùy,
Từ Lam Sơn lắng nhạc
ngựa đưa về,
Trong mộng tưởng vạt
khinh cừu phấp phới.
Ta mỗi lúc ngỡ rằng
người đã tới,
Quay mũi đò, mỗi lúc lại
hoàn không.
Thế mà nay người tới để
sang sông,
Ta lại lỡ!
Ôi! muôn vàn chua xót!
Con làm chi?
(Giở khóc giở cười)
TRẦN BẠCH - Nhưng việc
này đã trót!
Cha hơi đâu mà thở vắn
than dài,
Già đời người lận đận
kiếp ông chài,
Trung với dũng! Có ai
thèm đoái hỏi!
Thân hèn hạ đắm chìm
trong bóng tối,
Như trăm nghìn thân hèn
hạ trong vòng
Mất hay còn, sống chết
nghĩa không?
Hão tuốt cả!
LÃO ĐỒ – (Quắc mắt) Tội
chém đầu như thế,
Còn há miệng thở những
lời cẩu trệ,
Xéo ngay đi, cho khỏi
bẩn mắt ta!
Không mác này...
TRẦN BẠCH - Con khẩn
khoản xin cha
Nguôi căm giận và thư
tâm suy nghĩ...
LÃO ĐỒ - Quân khốn kiếp!
THỊ TRINH - Kìa cha!
LÃO ĐỒ – (Xông lại đánh)
Để mày thêm di lụy!
THỊ TRINH – Xin cha hãy
khoan tay! (Giữ tay Lão Đồ)
TRẦN BẠCH – Em hãy cứu
anh! (Ôm đầu chạy nhanh)
THỊ TRINH – Cha ơi!
(Giằng co)
LÃO ĐỒ - Nghịch tử!
(Chém lưỡi mác vào cây cụt)
(Tắt đèn)
CẢNH II
Thời gian: Chiều
hôm sau
Không gian: Như
cảnh
(Lão Đồ ngồi uống rượu
và hát một mình. Giọng hát buồn bã, cảm khái, hoài vọng. Thỉnh thoảng lão đứng
dậy, đi quanh, lấy mái chèo gõ nhịp vào cột quán hoặc vào gốc cây cụt).
LÃO ĐỒ – Mưa xuân chưa
về (chừ) lửa hè vội tắt,
Hơi thu chưa qua (chừ)
gió đông đã sang,
Đào lên ngôi mấy độ
(chừ) sen tạ mầu xanh ngó,
Cúc tàn xao xác cánh
(chừ) ngô đồng lơ thơ lá vàng,
Ngày xanh bóng ngựa,
Tóc trắng pha phôi,
Ôm bầu u uất,
Nuốt hận chờ thời,
Nước mắt đẫm năm canh
(chừ) đau niềm nước mất,
Nhịn nói hóa thành câm
(chừ) lấy thảm làm vui,
Đoái bốn phương ngàn,
Một mình thui thủi,
Ta lại với ta (chừ)
Bụng thời lép,
Thân thời trần,
Đuốc công danh mặc ai
bận soi đường lớn,
Ngõ gió riêng dành mái
cỏ âm âm.
Nhịp chèo khua đêm loạn,
Tiễn mãi người đi.
Ai biết chi (chừ)
Thuở tóc xanh còn vương
dài trán rộng,
Đường trần chìm nổi,
thân thế chơi vơi,
Trải mấy tà huy đứng bền
lều vắng,
Ngõ Việt đường Chiêm một
ngả chia đôi,
Trời vút sông dài, trăng
gầy, thuyền nhỏ,
Ai hay đâu nào ta dám
phụ người.
Hỡi ôi! Còn có bao giờ
nữa,
Người trở về đây chuốc
chén rượu mời?
Bởi vì chưng lối sang
Hời đã khép,
Bởi vì chưng đã khép lối
sang Hời...
Buồn tanh giở khóc giở
cười,
Say rồi đòi tỉnh, tỉnh
rồi thèm say,
Ngủ vùi đầu gối cánh
tay,
Nằm mơ nhân sự, nếm cay
thế tình...
(Ngâm thơ Đường)
Bốn mặt sơn hà loạn
chiến chinh,
Tuổi già việc nước nhẽ
vô tình?
Biên cương hồn vọng về
thôn ấp.
Ải Bắc sầu lên ngút đế
kinh
Đã mượn mái chèo làm
giáo sắc,
Lại mang gan óc kết tinh
binh.
Trượng phu chí khí ai
người biết?
Rằng dại rằng điên có
một mình!
(Cầm mái chèo lên)
Đây mái chèo đưa người
khách đăng trình,
Bao đêm vợi ta cần cù
gọt sửa,
Người thôi lại, còn để
làm chi nữa!
Cho bận lòng
(Định bẻ gẫy mái chèo)
THỊ TRINH – (Ra giữ lại)
Xin cha hãy khoan tay!
LÃO ĐỒ – Có chuyện chi
con hãy nói cha hay?
THỊ TRINH – Con vừa ra ở
ngoài phường Xuân Lộng,
Nghe người kháo quân
Minh đương náo động,
Vì biết tin Lê tráng sĩ
qua sông,
Chúng tung ra trăm tướng
tá binh hùng,
Và trên dưới hàng mấy
ngàn quân mã,
Kéo thẳng đến miếu Giang
thần tầm nã,
Từ đêm qua tới suốt sáng
hôm nay,
Một cánh chim khôn lọt
khỏi vòng vây..
LÃO ĐỒ – Chắc Đặng Ích?
THỊ TRINH – Và có thêm
anh Bạch.
LÃO ĐỒ - Cả nó nữa?
THỊ TRINH – Hai người đi
sát nách
Cùng xông vào trong miếu
bắt Lê Liêm,
LÃO ĐỒ - Lũ súc sinh!
THỊ TRINH – Trời còn tựa
người hiền,
LÃO ĐỒ– Người trốn
thoát?
THỊ TRINH - Người bỏ đi
từ trước,
Miếu trầm mặc uy nghiêm
bên sóng nước,
Tượng linh thần vò võ
đứng hoang liêu,
Gốc liễu cô đơn ngưng
đọng nắng chiều,
Lau lách vọng rì rào
niềm hiu quạnh,
Gió lồng lộng khắp bốn
bề vắng lạnh,
Không hành tung, không
bóng dáng một ai.
LÃO ĐỒ (Mừng rỡ) Vậy
giặc tính sao?
THỊ TRINH - Chúng lặng
lẽ rút lui.
LÃO ĐỒ– Rút lui hết?
THỊ TRINH - Toàn quân
bộ.
LÃO ĐỒ – (Ngẫm nghĩ) Có
thể
Chúng tương kế để rồi
tựu kế.
Lê tráng sĩ đâu?
THỊ TRINH - Con chưa
được gặp người,
Có lẽ quẩn quanh đâu đó
mà thôi.
LÃO ĐỒ – Người thoát
hiểm! (phấn chấn )
Nghiệp nhà Lê còn vững,
Và vận nước tuy gặp hồi
điêu đứng,
Nhưng cơ đồ không làm
bước suy vong,
Đã thuận lòng người trời
cũng góp công,
Mừng khôn xiết!..
THỊ TRINH - Nhưng còn e
một nỗi
Không khôn khéo thì rồi
đây sớm tối,
Sẽ sa vào vòng lưới
chúng như chơi.
Phải mau tìm sao cho
thấy được người,
Đưa kíp sang Chiêm, trọn
lời ước hẹn.
LÃO ĐỒ – Con yên lòng.
Mái chèo còn nguyên vẹn,
Thuyền vẫn buông sào
trên bến Ngũ Bồ,
Đợi trang anh hùng khét
tiếng thành đô.
Vượt biên giới đem binh
về rửa nhục,
Phá ngục tù, bẻ ngọn cờ
khuất phục.
Đuổi thù, sát nịnh, diệt
ác, trừ gian,
Loài tỳ hưu nghe vỡ mật
kinh hoàng,
Giống sâu kiến sợ nép
mình khiếp vía,
Cha con ta hãy chia tìm
mấy phía,
Cha bắt đầu lên mạn Bắc
thăm dò,
Con xuống Nam...
THỊ TRINH – Canh cánh
nỗi âu lo,
Bao bất trắc..
LÃO ĐỒ - Vậy cha đi kẻo
muộn,
(Định vào)
THỊ TRINH - Hiện thế
giặc như triều dâng nước cuộn,
Cha lưu tâm kẻo tai vách
mạch rừng,
Tin loan truyền chúng
khảo xét không ngừng
Khắp mọi chốn tình nghi
là giấu giếm
Những tài liệu binh cơ
và khởi biến
Của Lê vương từ thuở mới
ra quân,
Không cho ai phải trái
nửa lời phân,
Giết không kể cả trẻ già
trai gái,
Con trộm nghĩ việc quốc
gia trọng đại,
Há nên vì điều nhỏ nhặt
chấp nê
Nào đại cương, nào tiểu
tiết đôi bề,
Cần tính trước...
LÃO ĐỒ - (Hiểu ý) Con
khuyên cha đốt hịch?
THỊ TRINH - Ta phải hủy
cho không còn tang tích.
LÃO ĐỒ - Bao công lao
cha cẩn trọng giữ gìn,
(Lắc đầu) Không! Con
ơi,...
THỊ TRINH - Con chỉ sợ
mua phiền,
Nếu muôn một...
LÃO ĐỒ – Hịch này là chí
bảo,
Do chính Nguyễn Trãi tự
tay bút thảo,
Từ núi Lam truyền đi
khắp dân gian,
Từng chữ từng lời gọi kẻ
trung can,
Hãy vì nước kíp đứng lên
giết giặc.
Không thể được!
THỊ TRINH - Việc chi mà
thắc mắc!
Lòng cha ngay là đủ...
LÃO ĐỒ – Đủ làm sao?
Trọn một đời cha ngửa
mặt lên cao,
Không hổ thẹn với đôi
vừng nhật nguyệt,
Không mang tiếng là ươn
hèn sợ chết.
Cha thà làm vong quỷ Ngũ
Bồ giang,
Còn hơn là đốt hịch để
quy hàng!
Con chớ nói thêm!
THỊ TRINH - (Quỳ xuống)
Xin cha miễn thứ.
Tha tội chết cho thường
tình nhi nữ,
Quá yếu hèn vì lo lắng
không đâu,
Vì thương cha...
LÃO ĐỒ — Con hãy đứng
lên mau!
Cha đâu chấp!
(Tiếng vó ngựa xa xa) Vó
ngựa nào gấp gấp?
THỊ TRINH - (Đứng lên)
Đương ruổi bước dậm dài?
Hay sóng dập?
Hay lau xô?
LÃO ĐỒ — Cũng có thể
giặc Minh
Đương săn người?
Cha ra ngóng tình hình,
Con trông quán, chờ tin
cha quay lại!
(Vào nhanh)
(Thị Trinh xếp đặt lại
vò, bát trên chõng, vẻ bâng khuâng xa vắng)
THỊ TRINH – Mật đã ngọt
mà thiếu người nâng sải,
Rượu thơm rồi, chàng
chẳng lại cùng em,
Gió lùa lạnh ngắt áo
xiêm,
Ngày đơn, quán lẻ vô
duyên lạ thường,
Người đi trắng toát bụi
đường,
Ngựa phi có vướng mộng
hường nơi đây?
(Bắt một chiếc lá vàng
sót lại trên cây trước quán bay vào)
Lá vàng khóc xuống đôi
tay,
Hay là lá rụng khóc ngày
biệt ly
Nhớ thương đầm ướt hàng
mi,
Đường xa dõi tới chàng
đi phương nào?
Tay ai lấp loáng gươm
đao?
Máu ai đầm nhuộm chiến
bào đỏ tươi.
Có một chiều sương lạnh
nhất đời,
Lửa ngàn rung tiếng, gió
bay hơi,
Người xa như thể chia
tay hẳn,
Gượng nảy đường tơ, rỏ
nụ cười,
Chiều nay, người ạ, hết
rồi đây,
Hương hả men nồng, vị
nhạt say,
Khóc hết lời vui, cười
cạn lệ,
Nghe sầu mưa gió giữa
bàn tay.
Bão ở lòng em, bão rất
nhiều,
Đọc qua lời mắt, tiếng
tay kêu,
Bao nhiêu hò hẹn, bao
nhiêu nữa,
Ngắn ngủi như không ở
một chiều?
Em tìm trong rượu một dư
thanh,
Vẽ vội trong hoa một xếp
cành,
Chỉ có đôi điều không
nói được
Trời ơi! Buồn nhất buổi
tan canh!
Tỉa mãi dò lan, tưới mãi
hồng,
Nhị gầy vắng vẻ bốc đêm
không,
Em chăm ướp mãi tình em
ủ,
Thương nhớ không đi
chiếm mãi lòng?
Em tin con nước hết kỳ
vơi,
Mây đứng im cao, gió
lặng trời,
Tin chắc đò xưa về bến
cũ,
Và ngong ngóng đợi
chuyến đò xuôi.
Văng vẳng lời trong cát
bụi mờ,
Đợi anh em nhé! Ngàn mai
trơ!
Đợi anh có ngựa dong về
ngủ
Lỏng lẻo tay cương, rộng
rãi cờ.
Chàng lại về đây có một
mình,
Trả xong chung hận, bỏ
chung tình,
Yêu em chàng bảo vì em
đẹp,
Nên bụi binh đao vẩn
thái bình.
Bây giờ êm hết cả rồi
đây,
Lửa tắt thành yên loạn
tháng ngày,
Nghỉ tạm đôi giờ cho lại
sức,
Về lòng em ngủ rõ là
say...
(Vẻ cầu khẩn)
Cầu trời cho dậu heo
may
Cho chim khô cánh, cho
cây rung cành
Cầu trời cho bụi lên
xanh,
Người ung dung lối, thù
quanh quẩn đường,
Ghềnh hoang nắng đọng
sầu vương
Ta là danh kỹ Tầm dương
thuở nào,
Thuyền trăng thổn thức
cầm tao,
Đợi người viễn khách ghé
vào bên khoang...
ĐẶNG ÍCH – (Ra, cười
vang)
Tiếng ngân nga như thể
tiếng chuông vàng!
Hay! Hay tuyệt!
THỊ TRINH - (lo lắng)
Ngài quá lời khen ngợi.
Mải bâng quơ không biết
ngài đã tới,
Xin thứ tình...
ĐẶNG ÍCH – (lại cười
vang) Người đẹp chửa nên lời,
Ta đã coi như tội được
tha rồi,
Hà tất còn phải ân cần
thưa gửi!
THỊ TRINH – Đa tạ đại
nhân!
ĐẶNG ÍCH – Nàng mau hãy
nói:
Cho ta tường câu chuyện
xẩy đêm qua.
THỊ TRINH – Dạ chuyện
chi?
ĐẶNG ÍCH - Chuyện đồn
khắp gần xa
Nàng chưa biết?.
Hoàng Công Khanh
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét