Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2024

Bến nước Ngũ Bồ 1

Bến nước Ngũ Bồ 1

CẢNH I
SỬ LIỆU

Sau khi đánh thẳng được đôi ba trận, xét thấy khí thế của mình còn yếu, Lê Lợi rút quân về núi Chí Linh, chỉnh đốn binh mã.
Một mặt, ông sai người đi liên lạc với đám khởi nghĩa trong nước: Phan Liêu ở Nghệ An, Lê Ngã ở Lạng Sơn, Trịnh Công Trương và Nguyễn Đặc ở gần Đông Đô. Mặt khác, ông phái người em họ, và cũng là một tráng sĩ, Lê Liêm vượt sông sang Chiêm Thành, để lôi kéo một số nghĩa sĩ Việt còn ẩn náu ở bên đó từ khi Hồ Quý Ly thất trận, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của vua Chiêm Trà Toàn. Trong khi đi đường, Lê Liêm đã phải hạ thủ một số quân Minh để thoát hiểm, rồi ruổi nhanh đến Ngũ Bồ giang, con sông chia đôi biên giới Chiêm Việt. Lê Liêm vào chờ đò sang sông trong quán nước Lão Đồ, một ông chài nghĩa khí vẫn chuyên đưa đón những người vì quốc sự qua về Bến Ngũ Bồ giang.
Không may, viên Thám binh người Việt theo giặc Minh là Đặng Ích lần theo dấu vết, định vây bắt.
Lão Đồ và con gái ông là Thị Trinh tìm cách che chở và đánh lạc hướng tên Việt gian này, cuối cùng đã đưa được Lê Liêm sang sông.
Nhưng khi người tráng sĩ họ Lê buộc cương bên gốc cây trước quán ở miền quan tái này, thì đồng thời cũng bắt đầu tấn kịch bi tráng giữa một khách tuấn kiệt hào hoa và một trang giai nhân tuyệt sắc.
NHÂN VẬT​
LÊ LIÊM: Em họ Lê Lợi, khoảng 27 – 28 tuổi
THỊ TRINH: Con gái Lão Đồ, 20 tuổi
LÃO ĐỒ: Ông lái đò yêu nước, trên sáu mươi tuổi
TRẦN BẠCH: Con trai cả Lão Đồ, khoảng 27–28 tuổi
ĐẶNG ÍCH: Thám binh người Việt theo quân Minh
LÍNH MINH
CẢNH I​
Không gian: Quán rượu bên sông Ngũ Bồ
Thời gian: Một buổi chiều nắng quái
Quán rượu lẻ loi bên sông. Con đê chạy sau quán dài tăm tắp. Bên phải là phía bến, bên trái là đường quan. Trong quán, một chõng tre, một ghế dài. Trên chõng vài ba vò rượu sành lớn, nút rơm đậy kín chất rượu vừa lên men, một chồng bát đàn, ít thức hoa quả của một thứ cây biên tái để làm đồ nhắm đưa cay.
Trên vách, một con mã tấu bao mo treo lủng lắng. Quán có lối vào nhà trong, vách ngăn phên nứa, cửa ra vào và một cửa sổ nhỏ.
Trước quán, quấn quýt dàn thiên lý đương độ mãn khai, Một gốc cây cằn xế mé phải, cành lá thưa thớt đìu hiu. Lau lách vi vu bốn bề sau trước.
(Gió thổi lộng, ào ào xô lau lách ven sông. Ánh chiều đỏ quạch thấp thoáng buông trên mặt đê cao, rơi rớt trên mặt quán vắng lợp thuần một thứ cỏ bồ vàng nhạt, lốm đốm rêu xanh)
THỊ TRINH –(Vừa ra vừa hát)
Ai về Lạc Thủy? Ai lại Tây Đô?
Ai qua Hàm Tử? Ai đáp Bồ Cô?
Ai ngược đèo Tam Điệp?
Ai ghé bến Ngũ Bồ?
Ai ra nhắn với ai vô.
Nơi đây gió Bắc mưa Hồ mấy tao,
Nơi đây tay gối làm dao,
Ngủ trong tủi nhục thức vào hờn căm,
Hát ngao mà hết tháng năm,
Chiêm bao lót nửa chiếu nằm mà say,
(Rũ một tấm lụa trắng phơi cạnh dàn thiên lý)
Mộng đời trắng cả đôi tay,
Sầu lên vi vút ngàn mày tràng giang,

Nhắn ai tìm lối qua ngang,
Đem tình đất nước trao sang xứ người
Nhắn ai mơ chuyện cuộc đời,
Mây nhàu quan tái một trời tâm tư,
Thưa rằng thép nát son hư,
Ngày đi sao cũng được như ngày về
Thưa rằng trâm ước quạt đề,
Chớ say Chiêm quốc quên thề Việt Nam...
(Tiếng nhạc ngựa xa xa)
Ai ngoài dặm cỏ
Giờ đây rong ruổi một mình?
Tiếng chi như mõ dồn thác đổ
Ai tiễn đưa nhau mà có trường đình?
(Tiếng nhạc ngựa rõ dần)
Nắng lồng nhạc ngựa lung linh,
Phải chăng khúc hát đăng trình viễn phương
(Tiếng vó ngựa gần lại)
Âm ba rờn rợn lạ thường,
Phải chăng vó ngựa ghê đường quan san?
(Tiếng nhạc và vó ngựa im bặt)
Nhưng sao bằn bặt tiếng vàng?
Nhạc im điệu nhạc, chiều tan giáng chiều!
Cây tà nhạt bóng cô liêu,
Quạnh đơn lối biếc, tàn xiêu ngõ hồng!
(Bâng khuâng)
Có gì đâu?
Có gì đâu! Gió thu không
Ru tình nức nở triều sông Ngũ Bồ,
Có gì đâu! Nắng vàng xô,
Gội hương mái cỏ bồng khô bàng hoàng,
Có gì đâu! Tiếng đêm sang,
Trắng mùa cổ độ, cư tang xứ lòng...
(Chứa chan tâm sự)
Có gì đâu! Cứ mà mong!
Hỡi người tâm tưởng về trong mơ hồ!
Dừng đây nghe sóng Ngũ bồ!
Dừng đây uống cạn dăm vò rượu đau!
Mênh mông tiếng hát ngàn câu,
Hoài công giặt lụa cho nhau một đời,
Có con người đẹp tuyệt vời,
Cây ngàn lạc nẻo, cỏ khơi lặn vòng...
(Lê Liêm từ lối đường quan ra, dừng lại ngoài quán lắng nghe. Thị Trinh không để ý, tiếp tục hát)
Quán nghèo ngăn ngắt gió đồng,
Đưa người mấy độ qua sông chưa đành,
Chèo nghiêng thức trắng năm canh.
Ơi người tráng sĩ áo xanh ngựa hồng!
Hoa thưa cài mái tóc bồng,
Đợi bao đêm nữa cho không thấy người?
Trời heo áo mỏng nhất đời,
Chiều chiều giặt lụa đem phơi một mình...
(Vào)
LÊ LIÊM – (Định vào quán) Ô hay! Quán không người!
THỊ TRINH–(Ra) Xin quý khách dung tình!
Không kịp đón...
LÊ LIÊM –Nương tử còn phơi lụa,
Và đương hát...
THỊ TRINH – Xin nhận lời trách quở.
Gặp lúc buồn nên hát nhảm cho vui.
Quý khách đi từ vạn dặm xa xôi,
Cần dùng rượu hơn cần nghe tiếng hát!
LÊ LIÊM – E hai thứ đều cần...
THỊ TRINH –(Nâng vò) Đây là ly rượu chát,
Cất bằng hoa và men lá biên khu,
Xin mời người thưởng thức chút công phu
LÊ LIÊM – Chút công phu!
Người cất rượu và người dong chèo đợi
Bên bến nước, mặc gió lùa tóc rối,
Mặc sương buông đầm giá ướt đôi vai,
Đợi một người!
Biết người đó là ai?​
Một tráng sĩ?
Có phải không nương tử?​
(Cười vang)
Nhưng hận quá! Tôi chỉ là khách lữ,
Thèm VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
Muốn qua đò liệu có được hay không?
THỊ TRINH- (ỡm ờ)
Thưa rằng được và thưa rằng không được.
Vì nghiêm lệnh...
LÊ LIÊM - Của những quân xâm lược?
Lệnh ra sao?
THỊ TRINH (Cảnh giác) Lệnh Vương Phúc tướng quân,
Triệt hết giang thuyền, câu hãm ngư dân,
Chăng lưới bắt những người sang Chiêm quốc.
LÊ LIÊM – Nghĩa là bắt những người vì đất nước,
Vì giang sơn đã xách kiếm lên đường,
Cưỡi ngọn phong ba, đạp sóng trùng dương,
Lấy chính nghĩa để thắng phường bạo ngược,
Cứu lê thứ ra khỏi vòng lửa nước,
Thu sơn hà một mối lại trong tay.
(Cảm khái)
Thế ra bao tiếng hát lúc vừa đây
Là hoài cảm...
THỊ TRINH−(Vẻ bí ẩn) Mà cũng là hoài vọng,
Là kỳ ẩn nhưng cũng là kỳ mộng,
Quý khách bận tâm tìm hiểu làm chi?
Rượu nghiêng vò rót cạn bóng chiều đi,
Người nâng bát cho ấm lòng... (rót rượu mời)
LÊ LIÊM - (Đỡ bát) Nương tử!
(Uống cạn, rồi tự rót lấy uống)
Rượu nhắp mãi không khuây lòng sầu xứ,
Uống làm chi?
Nhưng không uống không đành!​
Ta rót một mình, ta cạn một mình,
Say chưa bén dài cô đơn chót vót,
Ta đối mặt ta, ta mời ta rót,
Cá kình nghê hớp sóng lớn vào lòng,
Bao nhiêu vò ắp nữa cũng là không!
(Chứa chan tâm sự)
Rượu nào cho mặt lên hồng?
Men nào thoa dịu nỗi lòng đắng cay?
Tái tê rượu ướt bàn tay,
Ngùi say mà hóa cuồng say lạ đời!
(Vỗ kiếm hát một mình)
Ai rằng mật là ngọt?
Ai rằng rượu là say?
Sải tre mà mật đắng?
Rượu vò mà chua cay!
Hoàng hôn chìm đáy bát,
Bóng nhỏ cánh chim bay..
Hun hút đường biên tái,
Anh hùng một tiếng suông.
Trắng đôi tay sự nghiệp,
Mặt nào về quê hương?
Thế cùng ngồi độc ẩm,
Thơ nào giải nguy cơ?
Sao mà Chiêm mà Việt?
Ngăn ngắt cỏ đôi bờ.
Bước chân đi một bước,
Hẹn mãi chẳng về không,
Làm sao làm sao nhỉ?
Say rồi quên cả ngông.
Dọc ngang càng thêm ngán,
Thấp thao mưa ngày đông,
Tắt trên chiếu bạc bao nhiêu nến,
Tắt ở lòng ta ngọn cuối cùng...
(Tràn đầy phẫn hận thương cảm)
Sông xanh núi đỏ vẫy vùng,
Kiếm run hồn thép, ngựa chùng tay cương,
Chừ đây trời mất mười phương,
Chừ đây sợ cả mùi hương giang hồ...
(Tiếng vó ngựa từ xa chạy lại dừng trước quán. Lính Minh chạy ra, rút trong người ra một tờ cáo thị lớn, trên vẽ hình một tráng sĩ áo lam, kèm theo những dòng chữ ngắn. Gã dán cáo thị lên thân cây trước quán, rồi chạy trở lại, hối hả phóng ngựa đi. Thị Trinh lén bước tới trước cáo thị)
THỊ TRINH−(đọc)
Đây tên Lê Liêm
Theo phường bạo nghịch,
Can tội hành thích
Bộ tướng Minh Triều
Mệnh lệnh dõi theo
Khắp trong quốc thổ,
Ai biết cáo tố,
Tưởng lệ bạc vàng,
Tiền lĩnh vạn quan,
Bổ làm tri huyện,
Ai ngầm giấu diếm,
Tội xử tru di.
Thừa lệnh thông tri,
Yết niêm cáo thị,
Treo hình Lê thị,
Dấu tích biệt thường,
Dân chúng tỏ tường
Mặt tên quốc phạm.
Minh triều chuẩn giám,
Đệ nhất bộ quân,
Quân pháp vô thân,
Tướng quân Phương Chính.
THỊ TRINH – (Giận dữ)
Lại cáo thị! Lại yết niêm!
Bao giờ buông tay! Hỡi lũ cường quyền!
Tình đời cát bụi đảo điên,
Chủ về ngôi khách, khách lên chủ nhà,
Đất băng dào dạt phong ba,
Ngổn ngang chiến địa sơn hà vì đâu?
Mối oan cừu đào mãi chỉ thêm sâu!
(Ngắm kỹ hình vẽ trên cáo thị, giật mình)
Trời! Lạ quá!
Dung nhan người quốc phạm​
Sao lại giống...
Cũng núi xây vừng trán,​
Cũng mây ngàn vương khóe mắt xa khơi,
Cũng cỏ pha màu áo nhuộm da trời,
Giống vô kể!
Đúng rồi!
Không có lẽ!
(Quay lại gần Lê Liêm)
Thưa quý khách!
LÊ LIÊM – (Giơ tay ngăn) Xin bước giùm nhè nhẹ!
Nương tử ơi, ta đương uống máu người!
Khoái say ném bát vang cười,
Nghiêng nghe vỡ cái sầu đời mà điên!
(Ném bát rượu, cười vang như điên)
THỊ TRINH – Rượu xong quý khách băng miền?
LÊ LIÊM – Vượt sang Chiêm quốc.
THỊ TRINH – Nhưng thuyền không sang.
Và đây là Ngũ Bồ giang,
Đường chia biên giới...
LÊ LIÊM— Phải sang kỳ cùng.
Dù cho lưới bủa mịt mùng,
Chết thà một chết, lùi không chịu lùi!
THỊ TRINH – Nhưng thưa quý khách quên rồi,
Sông sâu nước lớn mà người tay không?
LÊ LIÊM – Ngàn muôn lối tắt đường vòng,
Lẽ đâu chưa tới đã cùng hay sao?
Há say làm khách tiêu dao?
Khoanh tay làm kẻ thua cao nước cờ?
THỊ TRINH - (Lững lờ) Trập trùng Chiêm Việt đôi bờ
Cắm sào vẫn có người chờ nước trong.
LÊ LIÊM - Nghĩa là vẫn có người chở khách sang sông?
Nương tử ơi, hãy mách tôi người ấy.

Giúp nhau vượt sóng muôn trùng.
Mai ngày bên xứ lạ.
Một bay bổng cánh hồng
Cao sâu ơn tri ngộ,
Xin ghi mãi không cùng.
Người ấy là ai, nương tử?
THỊ TRINH – Tiếc quá!
Quý khách lại chỉ là khách lữ,
Thèm VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
Mà người lái đò khờ khạo,
Lại là kẻ có lòng.
Chỉ chở những ai là tráng sĩ,
Chí lớn như núi sông,
Nước loạn cắp gươm vùng dậy,
Ra đi dẹp hết cuồng ngông.
LÊ LIÊM – Nhưng người ấy là ai, nương tử?
THỊ TRINH – Tiếc quá!
Quý khách vẫn chỉ là khách lữ,
Thèm VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
Mà người lái đò can đảm.
Bản tính lại viển vông
Chỉ chở những ai là quốc phạm.
LÊ LIÊM – Thật hay không?
Nếu chỉ chở những ai là quốc phạm,
Vì thân thế hay..
THỊ TRINH – Thưa vì quốc nạn,
Phất cờ lên đầu ngọn gậy hưng binh,
Đường bôn ba đem chí khí tung hoành,
Thời chưa lại, cờ thiêng còn đợi gió,
Phiêu dạt bờ trăng, lênh đênh bến cỏ,
Đốc gươm vàng loáng ngược máu cừu nhân,
Bốn phương trời in dấu ngựa vết chân,
Hiện đương bị quân thù theo dõi bắt.
LÊ LIÊM-(Giật mình, nắm đốc kiếm)
Bị quân thù theo dõi!
Nàng là ai?
THỊ TRINH-(Mỉm cười)
Chốn giang đầu heo hắt,
Tôi là cô bán rượu chát quen nghề,
Và là người đã đọc hết bài vè
Dán trước quán.
Nên vội vào mách lẻo!​
(Chỉ ra gốc cây ngoài quán)
LÊ LIÊM–Tờ cáo thị giọng ngu dân khôn khéo.
THỊ TRINH–Và vẽ hình quý khách,
LÊ LIÊM−(Đến trước gốc cây) Vẽ hình ta!
Chốn sơn cùng thủy tận chúng không tha
Ngăn vó ngựa, bắt ta ngừng tuốt kiếm!
(Tuốt kiếm dóc tờ cáo thị rớt xuống, đạp chân lên)
Đây số phận của kẻ đòi ngự chiếm
Trên lòng ta bằng độc ác tham tàn,
Trên muôn dân gieo thống khổ lầm than:
Im sao được!
Gớm thay loài cẩu trệ!​
Sống trên máu, nghênh ngang trên huyết lệ!
Còn nỏ mồm rao quốc phạm Lê Liêm:
Ha ha! Quốc phạm Lê Liêm!
THỊ TRINH−Quốc phạm Lê Liêm,
Hay tráng sĩ Lê Liêm!
Buổi non nước ngửa nghiêng,
Thời cỏ cây tán loạn,
Ai tráng sĩ mà không là quốc phạm?
Ai giai nhân mà chẳng hóa vong nhân?
Ai hiền lương mà tránh khỏi cát lầm?
Ai trinh tiết mà thoát vòng ô trọc?
Nát vỡ ngọc vàng, nhàu tan gấm vóc,
Nước mắt chan hòa mái cỏ cung vi.
Tráng sĩ ơi! Người căm giận làm chi?
LÊ LIÊM–Nhưng nàng là ai?
THỊ TRINH–Tôi theo phường bạo nghịch!
LÊ LIÊM−Quân xâm lược?
THỊ TRINH–Người rừng sâu thảo hịch,
Luận tội quân Minh. khởi nghĩa Lam Sơn.
LÊ LIÊM–Thật vậy chăng?
Xin nói rõ nguồn cơn,
Và giúp được cách nào?
THỊ TRINH– Thưa tráng sĩ,
Quán rượu dựng nơi đây là dụng ý
Làm trạm đưa người qua Chiêm quốc chiêu binh.
LÊ LIÊM – Thế nhưng nương tử là ai?
THỊ TRINH – Dạ, Thị Trinh,
Con chủ quán người lái đò yêu nước.
LÊ LIÊM−Vậy cụ đâu?
THỊ TRINH - Người sang Chiêm từ trước,
Đón anh tôi là Trần Bạch trở về,
Nội chiều nay khi trăng nở ven đê,
Đò sẽ lại buông sào trên bến cũ.
LÊ LIÊM – Để lại đón những người...
THỊ TRINH - Như khách lữ,
Tráng sĩ và quốc phạm cộng là ba!
Người bình tâm khoan nỗi nhớ đường xa
LÊ LIÊM – Xin nương tử hiểu cho lòng kẻ sĩ,
Mới gặp gỡ nên giữ tình giữ ý,
Lại sỗ sàng vì nghi hoặc vu vơ,
Mượn bát rượu mồi giả đận say sưa,
Vay thuật ngữ đóng vai người quẫn trí,
Bởi thiên hạ hay chọn lầm tri kỷ,
Nên nhìn đời không lấy thực làm mơ.
(Mơ màng theo một viễn ảnh xa xôi)
Vạt áo xanh từ độ lộng phương bờ,
Mơ ước dựng một ngày mai sán lạn,
Trên đổ vỡ, trên hoang tàn ly tán,
Vang khúc hoàn ca, rợp bóng tinh kỳ,
Xéo xác thù quằn quại dưới chân đi,
Chuyển nhịp bước trên vùng xây khói hận,
Đoàn chiến mã đã từng xông trăm trận,
Vỗ yên lên buông tiếng nổ giao phong,
Lửa gầm vang rung dậy nhịp loa đồng,
Miệng thét vẳng khua làm chiêng rửa hận,
Đoàn chiến mã đã từng xông trăm trận,
Có hai chân thay làm ngựa ô phi,
Một lòng son để dựng cả thành trì,
Những chiến sĩ vùng đôi tay gân guốc,
Mắt ngạo nghễ và gươm trần sáng tuốt,
Từng trăm phen máu nhuộm đỏ sa trường,
Những anh hùng chưa trắng nợ mười phương,
Giẫm gót xuống, núi lở thành biển cả.
Lũ Phương Chính mộng viễn chinh tan rã,
Bọn Vương Thông chờ triều phủ ngập mồ,
Khối binh hùng ngang dọc chật Đông đô,
Sức vô địch khiến thù không ngóc nổi.
Bờ bến ngự ầm một khuya lửa dội,
Dòng đường trôi muôn vành nón thiên thần,
Giữa kinh thành chợt thức một mùa xuân,
Hoa chiến thắng rực trời bông nở mạnh.
(Quay sang Thị Trinh, giọng thiết tha)
Nương tử ơi!
Nàng hãy chấp cho chim bằng đôi cánh,
Làm nước nguồn để dẫn lối trăng đi!
THỊ TRINH– Thưa rằng thanh sắc đương thì,
Bẽ bàng kỳ lại hẹn kỳ cho oan,
Chim bay có nhớ hàn giang?
Trăng soi có nhớ thác ngàn bơ vơ?
LÊ LIÊM - Người xưa có một bài thơ
Niềm riêng gửi ý bây giờ xin dâng:
(Ngâm thơ Đường)
Biên địa oanh nhi chắn nẻo đường,
Thơ mưa dòng lạnh bút lều sương,
Trăng nhoè dáng kiếm câu tâm sự,
Gió tạt hình hoa khúc đoạn trường,
Sự nghiệp chưa tròn thân kiếm mã.
Tơ duyên đành gác hội uyên ương,
Tao phùng nửa kiếp là tao loạn,
Một bước ly hoài mấy vấn vương.
THỊ TRINH – Người xưa gieo nửa vần thương,
Hay hèn xin nối một chương họa vần,
Bọt bèo vốn dĩ là thân,
Quê mùa đến cả lời ngân ngỡ ngàng:
(Họa thơ)
Chiều đơn quán lẻ ngẩn ngơ đường,
Ải quạnh sầu đan lớp gió sương,
Ai chỉ bút nghiên đau thế sự,
Mà riêng kim chỉ não can trường.
Kề thanh dạ liền bên thanh hợp,
Nối tiếng uyên liền lại tiếng ương,
Lòng ngỏ then cài chênh gió lọt,
Thâu canh gối mộng nhặt trăng vương.
LÊ LIÊM – Lĩnh ý thơ và không dám coi thường,
Khi nương tử đã gửi lòng tin tưởng.
Tấm chân ý xin tỏ bằng chân lượng,
Mong được phép qua sông?
(Tiếng gà gáy vào canh)
Tiếng gà đã vào canh!​
Đêm ngả huyền và trăng sắp treo xanh!
THỊ TRINH – Dạ, Tráng sĩ sẽ vừa lòng toại ý,
(Tiếng ngựa hí)
Nhưng khoan!
Tiếng ngựa nào lộng hí?​
Liệu dấu vết người có lộ hay không?
Mà quân thù..
LÊ LIÊM – Đó là chiếc ngựa hồng
THỊ TRINH – Của tráng sĩ?
LÊ LIÊM – Buộc ở ngoài gốc liễu,
Trước cổ tự chữ đề: Giang thần miếu,
Ở gần đây...
THỊ TRINH – A! Khi vó ngựa im đường
Lúc chiều tà, là người đã dừng cương,
Đi chân đất tới quán này hỏi rượu.
Tôi nhớ ra rồi!
(Có bóng người thấp thoáng trên đê)
LÊ LIÊM – Bóng ai lồng trăng chiếu,
Đổ dài trên mặt đê dầy?
Bước chân chập chừng lảo đảo,
Đương tiến lại gần đây?
THỊ TRINH – Tráng sĩ hãy quay về cổ miếu,
Tránh bất ngờ và đợi tạm phút giây,
Còn để mặc tôi đối phó!
LÊ LIÊM (Vỗ đốc kiếm) Nương tử!
Lưỡi kiếm sắc có ngại gì nguy khó!
Xin nhường bước cho tiểu sinh!
THỊ TRINH - Người bạo động ích chi?
Khi bốn bề điệp điệp mấy trùng vi,
Như kiến cỏ giặc chia quân chiếm đóng?
(Dịu dàng ý tứ)
Người có xót kẻ buông mành đợi bóng,
Thì hãy vì đại nghĩa kíp rời chân,
Và bảo tồn nhất nhất lấy tôn thân,
Thân thế trọng cũng như non nước trọng.
Trăng rõ lắm rồi!
LÊ LIÊM- (Vòng tay) Tạ tình nàng cao rộng!
Tôi đi đây!
(Vào nhanh)
THỊ TRINH – Bóng người đã lại gần!
(Vào khuất)
(Trần Bạch từ trên mặt đê xuống, bóng đổ về phía trước, bước chân loạng choạng ngả nghiêng)
TRẦN BẠCH – Rượu bồ đào say ríu cả đôi chân,
Đầu không uống mà đầu quay đáo để!
(Vào quán, nhấc vò rượu lên lắc, mở nút ghé mắt nhìn)
Anh rượu ơi! Anh có còn không thế?
(Dốc ngược vò rượu)
Hết tỉ rồi! Hết thật!
(Lắc đầu chán ngán, ném vò lăn lông lốc)
THỊ TRINH- (Ra) Anh đã về!
TRẦN BẠCH – Anh về nhà nếm lại chút men quê,
Em coi thử rượu có còn hay hết?
Có câu chuyện thật buồn cười muốn chết,
Cạn dăm vò rồi anh kể em nghe....
THỊ TRINH– Anh ra đi độ ấy mới sang hè,
Đầu tường ngỏ đương lập lòe lửa lựu,
Bấm đốt tay một năm tròn không thiếu,
Một năm tròn vắng bặt hết tăm hơi,
Đau đáu cha già mong nhớ khôn nguôi,
Lại lo lắng ngày đêm vì quốc sự,
Tóc bạc trắng những canh dài không ngủ,
Thân héo mòn trong rượu uống thay cơm,
Hết hoàng hôn rồi lại đến hoàng hôn,
Trên bến nước Ngũ Bồ giang hiu hắt,
Cha trông ngóng đã mỏi mòn đôi mắt,
Bãi sông khuya mù mịt bóng hình anh,
Cha choàng vai tấm áo khoác mong manh,
Vượt sóng sang Chiêm tay chèo tay lái,
Tìm anh về…..
TRẦN BẠCH (Ngăn lại) Từ từ cô em gái!

Khoan kể đường dài!
Hãy tìm hộ cho anh!​
Rượu trốn đâu mà vò ngửa tênh hênh?
Bát há miệng khô như kỳ đại hạn?
THỊ TRINH – Rượu bán hết cho khách rồi!
TRẦN BẠCH – Rõ chán!
Biết thế liều ở quách lại bên Chiêm,
Rượu Chiêm thành thả cửa uống liên miên,
Men nồng ấm thú hơn là rượu tiến,
Thuần mà đậm, thơm mà không dị biến,
Tục mà lại hay, mạnh mẽ ung dung,
Say ly bì, gác hết chuyện non sông,
Quên năm tháng, mặc ai lo ai liệu..
(Như trong mơ)
Gái Chiêm quốc đẹp như trong mộng triệu,
Ánh dung quang mờ nhạt cả làn gương,
Mỗi bước hài đưa một điệu Nghê thưởng,
Tình muôn thuở vang hình trên vách đá...
(Mê loạn)
Ôi! Cuồng hỉ khi cung đàn giục giã,
Trong cánh tay ngà hóa rắn quấn quanh,
Chết giữa trời hoa đất rượu mong manh,
Hay gục ngã khoảng đêm sầu thế hệ...
(Lảo đảo muốn ngã, vội ôm lấy cột quán)
THỊ TRINH – Anh sang Chiêm nếu chỉ vì như thế
Vì sênh ca, vì nhã nhạc mê người
Vì rượu ngon, vì nhan sắc gái Hời,
Có sang nữa cũng chỉ là uổng phí!
TRẦN BẠCH- (Cười khà khà, vung tay)
Em có biết bao oai hùng nghĩa sĩ.
Bao đường đường hào kiệt đã lừng danh,
Khi sang Chiêm cũng chẳng khác gì anh?
(ôm vò rượu không, vỗ vào vai vò)
Cả chí lớn đong chưa đầy hồ rượu,
Đổi trăm họ lấy một nhành liễu yếu,

Đắm hồn trai trong đôi tiếng cười vo
Huống chi anh! Con một lão lái đò!
Giữ sao được! Mà giữ làm chi nữa!
Rượu nốc kỳ cho tim gan bốc lửa!
Đàn rung lên! (Giơ tay vẫy vẫy)
Người đẹp đất Hời ơi!
Hãy chờ ta!...
(Loạng choạng bước đi, ngã ngồi giữa sân khấu, tay vẫn khư khư ôm chặt vò rượu)
THỊ TRINH - Anh Bạch! Anh quá mải mê chơi,
Quên mất cả lời cha già căn dặn,
Phụ cả ý của tiền nhân gửi gắm
Của người con mang tủi lớn non sông,
Rửa sạch hận thù quốc phá gia vong.
Anh nghĩ lại!...
TRẦN BẠCH – Anh nghĩ rồi, em ạ.
Rỗi hơi lo trước mối lo thiên hạ,
Tội gì không vui trước cái vui chung!
Một đời người được mấy dịp lung tung?
Sách có chữ rằng: “Chơi là lãi đấy!"
Quân tử sất phu ngàn xưa đều vậy,
Nên gặp cha, anh đã nói hết lời.
THỊ TRINH - Cha bảo sao?
TRẦN BẠCH – Chà! Ông lão dở hơi!
Chưa chi đã đánh phủ đầu ngay trước,
Rồi sấp ngửa lôi anh về bằng được,
Không cho ngừng một phút lại bên Chiêm. -
THỊ TRINH – Hiện cha đâu?
TRẦN BẠCH – Đương hì hục dìm thuyền
Ngoài bãi sóng.
THỊ TRINH (lo lắng) Cha dìm thuyền xuống cát?.
TRẦN BẠCH - Và bẻ gẫy cả mái chèo tan nát,
Thề từ nay..
THỊ TRINH - Cha bẻ gẫy mái chèo? Thề sao anh?

TRẦN BẠCH – Sẽ đốt quán cháy vèo.
Tìm nghề khác kiếm lần hồi hai bữa,
Quyết không chở người sang Chiêm quốc nữa,
Vì người đi mà chẳng có người về.
Ông cụ già tuy lẩn thẩn chân quê,
Mà hăng máu hơn cả người trai tráng.
Nghĩ cũng giận mà nghĩ thì cũng hoảng.
Lát nữa về em liệu ý cha xem,
Can giúp cho anh....
THỊ TRINH - Anh giúp cho em,
ra ngoài bến can cha
TRẦN BẠCH – Đừng xui dại! Can làm chi?
THỊ TRINH – Xin cha cầm thuyền lại!
Giữ lấy mái chèo!
TRẦN BẠCH - (Không hiểu) Thật rắc rối to!
THỊ TRINH – Vì đêm nay sẽ có khách qua đò, Khi trăng rụng...
TRẦN BẠCH – (xua tay) Chớ vuốt râu ông kễnh!
THỊ TRINH – Nhưng khách là người...
TRẦN BẠCH - Dù có là ông thánh!
Cũng khó mà lay chuyển nổi lòng cha!
THỊ TRINH – Nhưng khách là người...
TRẦN BẠCH – (Gật gù mỉa mai) Rất lỗi lạc tài ba!
Tuấn kiệt, siêu quần, kiêu kỳ, dũng mãnh!
Sang đất lạ với hai vai sứ mệnh,
Vai quẩy rượu tăm, vai gánh phấn son,

Chuyện phong hoa, thay câu chuyện nước non,
Cơn say rũ đổ cơn say đế bá!
(Cười nhạo báng)
Thế hắn chui đâu?
THỊ TRINH – (Bất mãn) Anh khoan lời nói quá,
TRẦN BẠCH - Ờ thì thôi!
Thế ông tướng ấy đâu?
THỊ TRINH – Chờ ở ngoài Giang thần miếu từ lâu,
Đợi đêm ngả trăng tan vành...
TRẦN BẠCH − (Xua tay) Mặc hết!
Rượu cái đã, rồi quyết gì hãy quyết,
Làm gì hãy làm, không rượu không xuôi.
THỊ TRINH – Anh không đi e lỡ hẹn...
TRẦN BẠCH - Đành thôi!
Rượu trên hết!
THỊ TRINH - (Suy nghĩ nhanh)
Hay anh chờ giây phút!
Để em chạy đi mua! (Cầm lấy vò rượu không)
TRẦN BẠCH - Nhanh chân một chút! Và lấy đầy vò!
THỊ TRINH – Anh giữ kín việc này,
Kẻo không rồi lại vạ gió tai bay!
Em đi gấp!
TRẦN BẠCH – Đúng! Không nhạt mồm quá lắm!
(Thị Trinh mang vò bỏ vào nhanh)
(Trần Bạch lục lọi lại các vò rượu)
TRẦN BẠCH – Chà! chà!
Ông khách này cũng là tay nghiện nặng,
Bao nhiêu vò mà hết sạch sành sanh,
Vớ được nhau đấu bát một vài canh,
Thì mới phân rõ được tài cao thấp.
Thật đáng tiếc!
(Đặng Ích ra, theo sau có tên lính Minh)
ĐẶNG ÍCH – Tiếc đầu còn hay mất?
Hay tiếc sợi giây treo cổ trên cành?
TRẦN BẠCH – (Hoảng sợ) Dạ, dạ...
ĐẶNG ÍCH – Tiếc ruột gan chưa bị gươm phanh
Làm ba khúc quăng thây giữa lộ?
TRẦN BẠCH - Ối (Ngã quỵ xuống)

ĐẶNG ÍCH – Đứng lên! Trả lời ta cho rõ:
Lão Đồ đâu?
TRẦN BẠCH - (Đứng dậy chắp tay) Dạ, thưa Đặng đại nhân,
Cha tôi đi mua rượu nẻo giang tân,
Sắp trở lại...
ĐẶNG ÍCH – Ta muốn ngươi nói thực ;
Khoảng Thân Dậu có ai người áo lục,
Cưỡi ngựa hồng vào hỏi lối sang sông?
TRẦN BẠCH – Ngài để tôi cố nhớ!
Quả là không​
Không ai cả! Không ai vào trong quán!
Người đó làm chi?
ĐẶNG ÍCH - Một tên quốc phạm!
TRẦN BẠCH – Một tên quốc phạm?
ĐẶNG ÍCH – Đại trọng phạm quốc gia!
Nó trốn đâu, ngươi hãy chỉ cho ta!
Hay ngươi muốn xếp vào hàng kẻ nghịch?
TRẦN BẠCH – Thưa đại nhân...
ĐẶNG ÍCH – Đừng dài lời vô ích!
Nói đi xem! Ta không muốn chờ lâu!
Vì gươm vàng đương thèm máu đầu lâu!
TRẦN BẠCH – Dạ, thưa Đặng đại nhân...
ĐẶNG ÍCH – Thưa gửi mãi!
TRẦN BẠCH – Quả từ sớm không có ai qua lại,
Dạ chân thành xin cứ thực tường khai,
Ngài giết tha, đành cam chịu dám nài.
ĐẶNG ÍCH – Ngươi chối cãi nghĩa là ngươi muốn chết!
Ta nghe rõ vó ngựa đè lá xiết,
Cuốn gió dường vun vút réo ngàn xanh,
Băng về đây từ lúc nắng lên cành.
(Ra hiệu cho lính Minh vào khám xét trong quán không thấy gì, Đặng Ích rút gươm, tên lính Minh nhanh nhẹn bẻ quặt tay Trần Bạch)
ĐẶNG ÍCH - Ngươi phải chết!
(Trần Bạch mắt dán vào nậm rượu đeo lủng lẳng bên mình Đặng Ích)
TRẦN BẠCH - (Liếm môi) Xin cho say mà chết!
Chết mà say!
(Đặng Ích nhìn theo mắt Trần Bạch, mỉm cười, tra gươm vào vỏ)
ĐẶNG ÍCH – À hà! Ta vui lòng cho hết!
(Cởi nậm rượu ở thắt lưng ra)
Ngươi muốn rượu chăng?
(Đưa nậm rượu dử Trần Bạch, rồi rụt ngay lại)
Nhưng ta có một lời​
Rượu ta ngon ngàn lạng cũng khôn vời,
Ngươi hứa trước rồi ta ban cả nậm.
(Đưa lên môi nhấp)
Chà! ngon tuyệt!
Mới kề môi đã thấm!​
Ngươi ngửi xem! (Đưa qua mũi Trần Bạch)
TRẦN BẠCH −(Hít vội, liếm mép) Ngon thật!
ĐẶNG ÍCH - Đúng hay không?

Ngươi hứa đi rồi ta sẽ thưởng công!
TRẦN BẠCH – Hứa gì được, thưa ngài?
ĐẶNG ÍCH – Bắt tên áo lục
Đã trốn đến quán này vừa kịp lúc.
Nộp cho ta để ta nộp quân Minh,
Rồi mai ngày cũng bổng lộc hiển vinh.
Cũng quyền lực như Thám binh Đặng Ích.
Rượu muôn hộc sẽ tha hồ thỏa thích.
Bạc đầy kho sẽ mặc sức tiêu pha.
Rồi quan hầu, rồi tì thiếp kiêu sa,
Xe trăm ngựa, ruộng ngàn khoanh đắc ý,
Áo khanh tướng choàng vai người dũng sĩ,
Rạng mặt công hầu phấn điểm son tô,
Ta với ngươi thủng thỉnh bước sông hồ,
Giang tay rộng khoát non sông thiên hạ,
Hơn là làm con lão lái đò!
(Quàng vai Trần Bạch)
TRẦN BẠCH Dạ, dạ.
ĐẶNG ÍCH – Ngươi giấu tên phiến loạn ấy đâu?
Nói đi rồi ta chuốc rượu mừng nhau!
(Tu trước một hơi khoái trá)
TRẦN BẠCH - (Liếm môi chép miệng)
Thưa đại nhân, nếu đúng là hậu ý,
Xin dăm hớp cho Bạch này sáng trí.
May có nhớ ra chăng..
ĐẶNG ÍCH – (Đưa nậm rượu) Ngươi quả biết điều!
Đây uống đi và uống rõ thực nhiều,
Say cho đã rồi nói cho ta biết!
(Trần Bạch tu rượu đốc thôi)
TRẦN BẠCH – Khà! Khà!
Hay! Hay! Hay tuyệt!
Sướng khoái vô cùng!
Vui không kể xiết!
Ai cười ta? Ai khinh ta?
Cơn men dốc tận giang hà,
Say rồi bạo chúa cũng là thằng say!
(Lại uống liên tục)
Thế mà nhịn trong từ lúc về đây,
Lão khách ấy làm cho mình mừng hụt,
Vét nhẵn nhụi mọi vò rồi bỏ cút!
ĐẶNG ÍCH - Khách là ai?
TRẦN BẠCH – Hà! một bợm rượu không quen,
Chưa gặp bao giờ và mù mịt họ tên!
ĐẶNG ÍCH – Mặc áo màu gì?
TRẦN BẠCH – Liễu xanh hay cỏ lục?
Đỏ hoa đào hay vàng tươi đóa cúc?
Tùy ý ngài...

ĐẶNG ÍCH – Ngươi lảm nhảm như điên.
Hiện nó đâu?
TRẦN BẠCH – Ở ngoài Giang thần miếu chờ thuyền,
Lúc trăng rụng sẽ vượt sang Chiêm quốc.
ĐẶNG ÍCH – (Túm ngực Trần Bạch)
Đồ vô dụng! Sao ngươi không nói trước?
Đúng nó rồi!
TRẦN BẠCH – Tên quốc phạm?
Càng hay!​
Ngài buông ra! Tôi chưa đến độ say,
Chân còn vững...
ĐẶNG ÍCH – Nhưng đầu ngươi không vững!
Hãy liệu hồn!
(Đẩy ngã Trần Bạch, rồi vẫy tên lính Minh cùng chạy vào)
TRẦN BẠCH (Lóp ngóp bò dậy)
Làm cho mình cụt hứng!
Môi đang mềm... (Nhìn nậm rượu lăn lốc) Rõ hoài của hay chưa...
Rượu chan hòa trên mặt đất như mưa...
(Nhặt nậm rượu lên và tiếc rẻ lấy tay chấm rượu trên đất, quẹt lên miệng)
Say rồi lại bảo rằng chưa,
Chưa say mà lại dám thưa say rồi!
Rượu ngon ta uống vô hồi,
Đất nghiêng trời ngả, ta ngồi bình yên.
(Thị Trinh và Lão Đồ ra, vừa đi vừa nói chuyện, tay Lão Đồ cầm lưỡi mác)
THỊ TRINH - Con nhìn rõ, không thể nào lầm được
LÃO ĐỒ – Đúng Đặng Ích?
THỊ TRINH – Đúng là tên bán nước,
Theo giặc Minh để loè nạt dân lành,
Áo đại hồng phấp phới rặng cây xanh,
Ngựa dấy bụi trên đường mòn lối quán.
Đi tiếp cận tên lính hầu áo xám,
Mỏ chim mồi mặt cú vọ sánh đôi.
LÃO ĐỒ — Ta mau chân! Cha đoán chắc vừa rồi
Chúng đến quán để tìm Lê tráng sĩ.
(Vào quán, thấy Trần Bạch hãy còn ngất ngưởng say)
Đồ ăn hại! Mày vẫn còn túy lúy,
Chưa cất nổi đầu từ Chiêm Quốc về đây!
(Giằng nậm rượu ném đi)
Ném ngay đi!
TRẦN BẠCH – Xin cha hãy nương tay!
THỊ TRINH – (Nhặt nậm rượu lên) Nậm rượu lạ!
(Với Trần Bạch)
Anh lấy đâu ra thế?
TRẦN BẠCH – Có người bán cho anh...
THỊ TRINH - Không có lẽ!
Rượu quanh vùng đều hết tự hôm qua.
Khắp các hàng đều cất tại nhà ta!
(Nhìn kỹ nậm rượu) Anh nói dối, vì đây là dấu tích
Trên mình nậm, tên gian hùng Đặng Ích
Khắc rành rành!
LÃO ĐỒ – (Giật mình giật lấy cái nậm)
Uống cả rượu gian hùng!
Đến thế thì thôi!
TRẦN BẠCH − (Cúi đầu) Cha mở lượng khoan hồng!
Hắn mời mãi, con chối từ không tiện.
LÃO ĐỒ - Nó thuê rượu moi gan mày hỏi chuyện,
Rượu uống rồi mày không dễ làm lơ!
THỊ TRINH – Chuyện những gì anh?
TRẦN BẠCH - (Nói bừa) Toàn đạo lý văn thơ!
Luận Đường Tống và ngâm Tương tiến tửu!
Tiền hậu Xích Bích, Tỳ bà hành điệu,
Trường hận ca cùng Quy khứ lai từ,
Rượu rồi thơ, thơ rồi rượu lu bù,
Bàn sang cả Nam Hoa cùng Đạo đức,
Bát quái, Thiên hào, Hà đồ, Thái cực,
Lão tử, Trang sinh...
THỊ TRINH – Anh thật viển vông!
Mất thì giờ và hoài phí cả công.
Em chỉ sợ anh quá say lỡ miệng,
Nói hở ra...
LÃO ĐỒ – Mày quanh co lấp liếm!
Có đời nào tên Đặng Ích kiêu kỳ,
Từ Đông đô mò mẫm tới biên thùy,
Vượt ngàn dặm để tặng mày rượu quý?
Để bình thơ và bàn suông đạo lý?
Nếu không là một mưu chước thăm dò,
Lùng bắt người tráng sĩ sắp qua đò,
Nên dùng rượu dử cho mày mắc bẫy!
Mày đáp nó sao?
TRẦN BẠCH – Con đáp là không thấy!
LÃO ĐỒ – Đến phút này mà còn nói dối ta!
Mày xưng rồi!
TRẦN BẠCH – Nhưng nó dọa không tha,
Nếu không chỉ cho một tên quốc phạm.
Dưới lưỡi kiếm gai ghê, lòng hoảng loạn,

Con đành liều mách đến miếu Giang thần...
THỊ TRINH - (Bàng hoàng) Trời! Nơi mà Lê tráng sĩ náu thân!
Anh đã giết mất một người yêu nước!
TRẦN BẠCH – Tính mạng anh, anh phải cần lo trước
Cũng như em không nên chết thay anh,
Và anh chết vì một kẻ vô danh,
Khi cái chết không nghĩa gì hệ trọng,
Không tiết liệt đoan trinh...
LÃO ĐỒ – (Tức giận) Thôi câm họng!
Mày biết làm sao người đó là ai?
So với mày, một đứa vô tài,
Như nấm đất bên núi cao vòi vọi,
Như đêm tối trước ánh dương chói lọi,
Loài cỏ hèn bò dưới ngọn thâm u,
Giống cáo ngày nương bóng cả mãnh sư...
(Thở dài sườn sượt)
Càng suy nghĩ lại càng thêm ngao ngán,
Dạy cứu nước hóa dậy con làm phản!
TRẦN BẠCH - Con làm chi?
LÃO ĐỒ— Tội mày đã tầy đình,
Gục mặt theo phường úy tử tham sinh,
Cúi đầu xuống cam sống bề trâu ngựa.
Con làm chi?
Mày dọn đường mở cửa,​
Đón gót thù về giày đạp non sông,
Phá miếu đường, làm điếm nhục tổ tông,
Đưa dân tộc bước vào vòng nô thuộc.
Con làm chi?
Mày tiếp tay giặc nước,​
Bắt bớ người hiền, chém giết lương dân,
Áp dụng nơi đây bạo sách nhà Tần,
Dùng ngược chính, chôn học trò đốt sách.
Con làm chi?
Mày thọc gươm vào nách​
Trang anh hùng cứu nước của nhà Lê,
Tài đức trùm cao sông núi đôi bề,
(Cảm xúc bùi ngùi)
Người mà ta vẫn ước ao gặp mặt.
Mà năm tháng gối chèo không nhắm mắt,
Một đời ta đón tại quán biên thùy,
Từ Lam Sơn lắng nhạc ngựa đưa về,
Trong mộng tưởng vạt khinh cừu phấp phới.
Ta mỗi lúc ngỡ rằng người đã tới,
Quay mũi đò, mỗi lúc lại hoàn không.
Thế mà nay người tới để sang sông,
Ta lại lỡ!
Ôi! muôn vàn chua xót!​
Con làm chi?
(Giở khóc giở cười)
TRẦN BẠCH - Nhưng việc này đã trót!
Cha hơi đâu mà thở vắn than dài,
Già đời người lận đận kiếp ông chài,
Trung với dũng! Có ai thèm đoái hỏi!
Thân hèn hạ đắm chìm trong bóng tối,
Như trăm nghìn thân hèn hạ trong vòng
Mất hay còn, sống chết nghĩa không?
Hão tuốt cả!
LÃO ĐỒ – (Quắc mắt) Tội chém đầu như thế,
Còn há miệng thở những lời cẩu trệ,
Xéo ngay đi, cho khỏi bẩn mắt ta!
Không mác này...
TRẦN BẠCH - Con khẩn khoản xin cha
Nguôi căm giận và thư tâm suy nghĩ...
LÃO ĐỒ - Quân khốn kiếp!
THỊ TRINH - Kìa cha!

LÃO ĐỒ – (Xông lại đánh) Để mày thêm di lụy!
THỊ TRINH – Xin cha hãy khoan tay! (Giữ tay Lão Đồ)
TRẦN BẠCH – Em hãy cứu anh! (Ôm đầu chạy nhanh)
THỊ TRINH – Cha ơi! (Giằng co)
LÃO ĐỒ - Nghịch tử! (Chém lưỡi mác vào cây cụt)
(Tắt đèn)​
CẢNH II
Thời gian: Chiều hôm sau
Không gian: Như cảnh
(Lão Đồ ngồi uống rượu và hát một mình. Giọng hát buồn bã, cảm khái, hoài vọng. Thỉnh thoảng lão đứng dậy, đi quanh, lấy mái chèo gõ nhịp vào cột quán hoặc vào gốc cây cụt).
LÃO ĐỒ – Mưa xuân chưa về (chừ) lửa hè vội tắt,
Hơi thu chưa qua (chừ) gió đông đã sang,
Đào lên ngôi mấy độ (chừ) sen tạ mầu xanh ngó,
Cúc tàn xao xác cánh (chừ) ngô đồng lơ thơ lá vàng,
Ngày xanh bóng ngựa,
Tóc trắng pha phôi,
Ôm bầu u uất,
Nuốt hận chờ thời,
Nước mắt đẫm năm canh (chừ) đau niềm nước mất,
Nhịn nói hóa thành câm (chừ) lấy thảm làm vui,
Đoái bốn phương ngàn,
Một mình thui thủi,
Ta lại với ta (chừ)
Bụng thời lép,
Thân thời trần,
Đuốc công danh mặc ai bận soi đường lớn,
Ngõ gió riêng dành mái cỏ âm âm.
Nhịp chèo khua đêm loạn,
Tiễn mãi người đi.
Ai biết chi (chừ)
Thuở tóc xanh còn vương dài trán rộng,
Đường trần chìm nổi, thân thế chơi vơi,
Trải mấy tà huy đứng bền lều vắng,
Ngõ Việt đường Chiêm một ngả chia đôi,
Trời vút sông dài, trăng gầy, thuyền nhỏ,
Ai hay đâu nào ta dám phụ người.
Hỡi ôi! Còn có bao giờ nữa,
Người trở về đây chuốc chén rượu mời?
Bởi vì chưng lối sang Hời đã khép,
Bởi vì chưng đã khép lối sang Hời...
Buồn tanh giở khóc giở cười,
Say rồi đòi tỉnh, tỉnh rồi thèm say,
Ngủ vùi đầu gối cánh tay,
Nằm mơ nhân sự, nếm cay thế tình...
(Ngâm thơ Đường)
Bốn mặt sơn hà loạn chiến chinh,
Tuổi già việc nước nhẽ vô tình?
Biên cương hồn vọng về thôn ấp.
Ải Bắc sầu lên ngút đế kinh
Đã mượn mái chèo làm giáo sắc,
Lại mang gan óc kết tinh binh.
Trượng phu chí khí ai người biết?
Rằng dại rằng điên có một mình!
(Cầm mái chèo lên)
Đây mái chèo đưa người khách đăng trình,
Bao đêm vợi ta cần cù gọt sửa,
Người thôi lại, còn để làm chi nữa!
Cho bận lòng
(Định bẻ gẫy mái chèo)
THỊ TRINH – (Ra giữ lại) Xin cha hãy khoan tay!
LÃO ĐỒ – Có chuyện chi con hãy nói cha hay?
THỊ TRINH – Con vừa ra ở ngoài phường Xuân Lộng,
Nghe người kháo quân Minh đương náo động,
Vì biết tin Lê tráng sĩ qua sông,
Chúng tung ra trăm tướng tá binh hùng,
Và trên dưới hàng mấy ngàn quân mã,
Kéo thẳng đến miếu Giang thần tầm nã,
Từ đêm qua tới suốt sáng hôm nay,
Một cánh chim khôn lọt khỏi vòng vây..
LÃO ĐỒ – Chắc Đặng Ích?
THỊ TRINH – Và có thêm anh Bạch.
LÃO ĐỒ - Cả nó nữa?
THỊ TRINH – Hai người đi sát nách
Cùng xông vào trong miếu bắt Lê Liêm,
LÃO ĐỒ - Lũ súc sinh!
THỊ TRINH – Trời còn tựa người hiền,
LÃO ĐỒ– Người trốn thoát?
THỊ TRINH - Người bỏ đi từ trước,
Miếu trầm mặc uy nghiêm bên sóng nước,
Tượng linh thần vò võ đứng hoang liêu,
Gốc liễu cô đơn ngưng đọng nắng chiều,
Lau lách vọng rì rào niềm hiu quạnh,
Gió lồng lộng khắp bốn bề vắng lạnh,
Không hành tung, không bóng dáng một ai.
LÃO ĐỒ (Mừng rỡ) Vậy giặc tính sao?
THỊ TRINH - Chúng lặng lẽ rút lui.
LÃO ĐỒ– Rút lui hết?
THỊ TRINH - Toàn quân bộ.

LÃO ĐỒ – (Ngẫm nghĩ) Có thể
Chúng tương kế để rồi tựu kế.
Lê tráng sĩ đâu?
THỊ TRINH - Con chưa được gặp người,
Có lẽ quẩn quanh đâu đó mà thôi.
LÃO ĐỒ – Người thoát hiểm! (phấn chấn )
Nghiệp nhà Lê còn vững,​
Và vận nước tuy gặp hồi điêu đứng,
Nhưng cơ đồ không làm bước suy vong,
Đã thuận lòng người trời cũng góp công,
Mừng khôn xiết!..
THỊ TRINH - Nhưng còn e một nỗi
Không khôn khéo thì rồi đây sớm tối,
Sẽ sa vào vòng lưới chúng như chơi.
Phải mau tìm sao cho thấy được người,
Đưa kíp sang Chiêm, trọn lời ước hẹn.
LÃO ĐỒ – Con yên lòng.
Mái chèo còn nguyên vẹn,
Thuyền vẫn buông sào trên bến Ngũ Bồ,
Đợi trang anh hùng khét tiếng thành đô.
Vượt biên giới đem binh về rửa nhục,
Phá ngục tù, bẻ ngọn cờ khuất phục.
Đuổi thù, sát nịnh, diệt ác, trừ gian,
Loài tỳ hưu nghe vỡ mật kinh hoàng,
Giống sâu kiến sợ nép mình khiếp vía,
Cha con ta hãy chia tìm mấy phía,
Cha bắt đầu lên mạn Bắc thăm dò,
Con xuống Nam...
THỊ TRINH – Canh cánh nỗi âu lo,
Bao bất trắc..
LÃO ĐỒ - Vậy cha đi kẻo muộn,
(Định vào)

THỊ TRINH - Hiện thế giặc như triều dâng nước cuộn,
Cha lưu tâm kẻo tai vách mạch rừng,
Tin loan truyền chúng khảo xét không ngừng
Khắp mọi chốn tình nghi là giấu giếm
Những tài liệu binh cơ và khởi biến
Của Lê vương từ thuở mới ra quân,
Không cho ai phải trái nửa lời phân,
Giết không kể cả trẻ già trai gái,
Con trộm nghĩ việc quốc gia trọng đại,
Há nên vì điều nhỏ nhặt chấp nê
Nào đại cương, nào tiểu tiết đôi bề,
Cần tính trước...
LÃO ĐỒ - (Hiểu ý) Con khuyên cha đốt hịch?
THỊ TRINH - Ta phải hủy cho không còn tang tích.
LÃO ĐỒ - Bao công lao cha cẩn trọng giữ gìn,
(Lắc đầu) Không! Con ơi,...
THỊ TRINH - Con chỉ sợ mua phiền,
Nếu muôn một...
LÃO ĐỒ – Hịch này là chí bảo,
Do chính Nguyễn Trãi tự tay bút thảo,
Từ núi Lam truyền đi khắp dân gian,
Từng chữ từng lời gọi kẻ trung can,
Hãy vì nước kíp đứng lên giết giặc.
Không thể được!
THỊ TRINH - Việc chi mà thắc mắc!
Lòng cha ngay là đủ...
LÃO ĐỒ – Đủ làm sao?
Trọn một đời cha ngửa mặt lên cao,
Không hổ thẹn với đôi vừng nhật nguyệt,
Không mang tiếng là ươn hèn sợ chết.
Cha thà làm vong quỷ Ngũ Bồ giang,
Còn hơn là đốt hịch để quy hàng!
Con chớ nói thêm!
THỊ TRINH - (Quỳ xuống) Xin cha miễn thứ.
Tha tội chết cho thường tình nhi nữ,
Quá yếu hèn vì lo lắng không đâu,
Vì thương cha...
LÃO ĐỒ — Con hãy đứng lên mau!
Cha đâu chấp!
(Tiếng vó ngựa xa xa) Vó ngựa nào gấp gấp?
THỊ TRINH - (Đứng lên)
Đương ruổi bước dậm dài?
Hay sóng dập?​
Hay lau xô?
LÃO ĐỒ — Cũng có thể giặc Minh
Đương săn người?
Cha ra ngóng tình hình,​
Con trông quán, chờ tin cha quay lại!
(Vào nhanh)
(Thị Trinh xếp đặt lại vò, bát trên chõng, vẻ bâng khuâng xa vắng)
THỊ TRINH – Mật đã ngọt mà thiếu người nâng sải,
Rượu thơm rồi, chàng chẳng lại cùng em,

Gió lùa lạnh ngắt áo xiêm,​
Ngày đơn, quán lẻ vô duyên lạ thường,
Người đi trắng toát bụi đường,​
Ngựa phi có vướng mộng hường nơi đây?
(Bắt một chiếc lá vàng sót lại trên cây trước quán bay vào)
Lá vàng khóc xuống đôi tay,​
Hay là lá rụng khóc ngày biệt ly
Nhớ thương đầm ướt hàng mi,​
Đường xa dõi tới chàng đi phương nào?
Tay ai lấp loáng gươm đao?​
Máu ai đầm nhuộm chiến bào đỏ tươi.
Có một chiều sương lạnh nhất đời,
Lửa ngàn rung tiếng, gió bay hơi,
Người xa như thể chia tay hẳn,
Gượng nảy đường tơ, rỏ nụ cười,
Chiều nay, người ạ, hết rồi đây,
Hương hả men nồng, vị nhạt say,
Khóc hết lời vui, cười cạn lệ,
Nghe sầu mưa gió giữa bàn tay.
Bão ở lòng em, bão rất nhiều,
Đọc qua lời mắt, tiếng tay kêu,
Bao nhiêu hò hẹn, bao nhiêu nữa,
Ngắn ngủi như không ở một chiều?
Em tìm trong rượu một dư thanh,
Vẽ vội trong hoa một xếp cành,
Chỉ có đôi điều không nói được
Trời ơi! Buồn nhất buổi tan canh!
Tỉa mãi dò lan, tưới mãi hồng,
Nhị gầy vắng vẻ bốc đêm không,
Em chăm ướp mãi tình em ủ,
Thương nhớ không đi chiếm mãi lòng?
Em tin con nước hết kỳ vơi,
Mây đứng im cao, gió lặng trời,
Tin chắc đò xưa về bến cũ,
Và ngong ngóng đợi chuyến đò xuôi.
Văng vẳng lời trong cát bụi mờ,
Đợi anh em nhé! Ngàn mai trơ!
Đợi anh có ngựa dong về ngủ
Lỏng lẻo tay cương, rộng rãi cờ.

Chàng lại về đây có một mình,
Trả xong chung hận, bỏ chung tình,
Yêu em chàng bảo vì em đẹp,
Nên bụi binh đao vẩn thái bình.
Bây giờ êm hết cả rồi đây,
Lửa tắt thành yên loạn tháng ngày,
Nghỉ tạm đôi giờ cho lại sức,
Về lòng em ngủ rõ là say...
(Vẻ cầu khẩn)
Cầu trời cho dậu heo may​
Cho chim khô cánh, cho cây rung cành
Cầu trời cho bụi lên xanh,​
Người ung dung lối, thù quanh quẩn đường,
Ghềnh hoang nắng đọng sầu vương​
Ta là danh kỹ Tầm dương thuở nào,
Thuyền trăng thổn thức cầm tao,​
Đợi người viễn khách ghé vào bên khoang...
ĐẶNG ÍCH – (Ra, cười vang)
Tiếng ngân nga như thể tiếng chuông vàng!
Hay! Hay tuyệt!
THỊ TRINH - (lo lắng) Ngài quá lời khen ngợi.
Mải bâng quơ không biết ngài đã tới,
Xin thứ tình...
ĐẶNG ÍCH – (lại cười vang) Người đẹp chửa nên lời,
Ta đã coi như tội được tha rồi,
Hà tất còn phải ân cần thưa gửi!
THỊ TRINH – Đa tạ đại nhân!
ĐẶNG ÍCH – Nàng mau hãy nói:
Cho ta tường câu chuyện xẩy đêm qua.
THỊ TRINH – Dạ chuyện chi?
ĐẶNG ÍCH - Chuyện đồn khắp gần xa
Nàng chưa biết?.
Hoàng Công Khanh
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chương XIII thuyền-trưởng bất đắc dĩ TÔI yên trí tôi chỉ xuống trình-diện tại một chiếc tàu nào là được tuyển-mộ ngay. Vì thế, sau khi tới...