Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

Vợ nhặt 2

Vợ nhặt 2

Con chó xấu xí
Nó là một con chó xấu xí! Xấu đến nỗi trong nhà chẳng ai buồn đặt cho nó một cái tên. Nó không được là tôtô, kiki, cũng chẳng là quýt, là cún, là gì gì cả. Gọi nó người ta chỉ việc “êu, êu...” như gọi bất cứ một con chó nào là nó đến. Mãi đến lúc nó chết, đại khi nhắc đến, vợ tôi mới gọi nó bằng cái tên nghe rất đỗi thương yêu: “Con Mực nhà ta... Ngày Tây nhảy dù Việt Bắc, con Mực nhà ta... Ngày con Hiền mới chập chững biết đi, con Mực nhà ta...”
Khốn nạn, cái “con Mực nhà ta” ấy, thực ra từ lúc mua, đến lúc chết, nó phải chịu sự ghét bỏ, hắt hủi của mọi người trong nhà tôi y như đứa trẻ, con một người làm lẽ thứ năm, thứ bảy trong một gia đình giàu có, đông con mà bố mẹ chết rồi phải ở với anh, chị con bà cả vậy.
Ngày ấy con bé đầu lòng của tôi chưa đầy tuổi tôi, vợ tôi cần có một con chó nhép để cho nó “dọn”. Cái trò đàn bà hay tham rẻ, chỉ tính đến chuyện được việc. Nhà tôi mua nó đâu có ba hào chỉ.
Tôi bực mình lắm. Cứ thoáng trông thấy nó, tôi đã lộn ruột lên rồi. “Chó gầy khổ mắt người nuôi!” Ừ thì trong lúc kháng chiến này cũng chẳng nên kén chọn, cầu kỳ đến những giống chó đồ, chó kiểu làm gì, nhưng đã nuôi cái của giống má trong nhà, ít ra cũng phải sạch mắt thì mới coi được. Đằng này, con chó nhà tôi mua, nom nó thảm hại quá.
Nó không còn thể gọi là con chó được nữa. Nó bằng cái nắm đấm thế này, vừa bé, vừa lường, còm dóm như con chuột trù ốm ấy. Nhất là những hôm đang lạnh bỗng dưng trở nắng, con chó nhà tôi ra sân ngồi sưởi thì, giời đất cha mẹ ơi, không còn thể sao khươm được. Bẩn mắt quá! Nó ngồi gù gù ngoài bóng nắng như anh nghiện thiếu thuốc.
Cái mặt gục xuống, rớt rãi chảy ra, hai con mắt ướt nhoèn hai cục nhử trắng nhã. Cái lưng khòm khòm nổi lên từng đốt, từng đốt xương sống. Cái con chó khốn khổ ấy nó không còn đủ cả lông để che kín thân thể nữa. Lông nó lường ăn rụng từng đám lơ phơ, nham nhở và đỏ bẻm như đám cỏ ấy. Da lưng, da bụng, da cổ trật ra sần sùi, cóc cáy, đến cả cái đuôi cũng không đủ lông. Đuôi nó thun lủn một mẩu xám xịt như đuôi con chuột cống già.
Dưới ánh nắng mùa hanh rát ràn rạt, lớp da răn rúm bọc ngoài cái thân hình gầy gùa, lủng củng những xương của nó, lúc lúc lại thấy rùng lên. Nó khẽ rên ư ử một cách sung sướng và thê thảm...
Tôi bảo nhà tôi đem mà vứt mẹ nó đi, không có cho ai thì cho. Nhà tôi chỉ cười:
- Cho là thế nào? Để tăng gia đấy.
Nhà tôi cũng biết chót mua phải con chó xấu quá, nên mỗi bạn tôi kỳ kèo chỉ cười, nói quấy quá cho xong lần. Còn con chó thì hình như nó cũng biết thân phận nó, biết tôi ghét nó, mỗi lần thấy bóng tôi từ xa, cu cậu đã lui lủi lỉnh đi chỗ khác. Nó cúi gằm mặt xuống, mắt lấm lét nhìn trộm, cái đuôi thun lủn một mẩu thịt cháy thì khẽ ngoáy ngoáy mừng nịnh. Tôi càng ghét.
Cho mãi đến hôm có Đặng ở đoàn kịch của tỉnh đi qua tạt vào thăm, con chó ấy mới được yên thân với số phận Đặng quyết định cho nó và, từ đấy tôi cũng thôi không kỳ kèo nhà tôi nữa.
Đặng là một tay bợm rượu. Anh em bạn chơi vẫn gọi anh ta là Đặng cồn. Người anh ta lúc nào nom cũng ủ dột. Mặt trắng bự, mắt ướt nhoèn, lưng gù, cặp kính trắng thõng xuống đến cánh mũi. Cái miệng chảy thễu ra lúc nào cũng thấy đánh tóp ta, tóp tép như cóc thèm muỗi. Thường khi cả ngày chẳng thấy anh ta nói một câu, ấy hễ mà ngồi vào mâm rượu là cả người anh ta bỗng tỉnh táo, linh hoạt và cái khuôn mặt bệch bạc, rụng hết lông mày của anh phút chốc rạng rỡ hẳn lên. Lúc ấy sao mà anh ta nói chuyện có duyên đến thế! Anh gọi chó là “hươu thềm”, là “nàng thơ của cụ Lỗ Trí Thâm”. Chó vàng anh gọi là “ka ki”, chó đen anh gọi là “nhung Thượng Hải”. Những con chó thui nhoáng mỡ treo lủng lắng trước quán hàng anh gọi là “leo coóc” v.v...
Hôm Đặng vào chơi tôi, con chó ấy đang ngồi phơi nắng ở giữa sân. Cũng như mọi bận, vừa thấy động bóng người, cu cậu đã lử khử đứng dậy, cúi đầu lặng lẽ lui lủi xuống bếp. Nhưng mà Đặng đã nhìn thấy nó rồi. Anh ta tiếng rằng hấp him, cặp bà lời nhưng lắm cái lại tinh ra phết. Vừa thoáng thấy con nhãi nhép ấy, anh ta bỗng reo lên:
- A ha, nhà này vừa sắm được của quý!
Nhà tôi ngồi trong bếp nhìn ra chưa hiểu nhà mình sắm được cái của quý gì, Đặng đã ngồi sà xuống đất, nheo mắt khẽ gọi:
- U, chậc, chậc chậc!...
Tiếng gọi nghe thật dịu dàng, âu yếm. Con chó đứng lại lưỡng lự, nghi ngờ. Từ ngày về nhà này có bao giờ nó được nghe cái tiếng gọi thương yêu đến như thế.
- U, chậc chậc chậc!...
Con chó sướng quá, ngoáy tít cái đuôi trụi, dặt dẹo trên bốn cái khoeo gày quay trở lại. Đến gần Đặng, nó nằm rạp xuống, thè lưỡi ra liếm liếm, và khẽ rít lên ư ử.
Đặng cúi xuống nghiêng nghé cặp kính nhìn con chó hồi lâu, anh gật gù, tấm tắc khen:
- Hay! Hay lắm! Sáng kiến của bà Hiền phải không?
Nhà tôi thấy Đặng chú ý đến con chó mình mua một cách đặc biệt như vậy cũng hởi lòng hởi dạ. Nhà tôi cười bảo anh ta:
- Vâng tôi mua đấy anh ạ. Thế mà nhà tôi cứ bảo đem cho...
- Cho là thế nào! - Đặng trợn mắt lên cướp lời - Chị cứ để đấy cho tôi. Ba tháng nữa tôi giở lại, được vô khối là việc.
Đặng nháy tôi một cái, làm dáng điệu đang thủ một cái chầy sau lưng, miệng ngọt ngào gọi “êu, chậc...” rồi thình lình anh trợn mắt, mím môi bổ xuống không khí một cái thật mạnh:
- A lê hấp! Cho một chầy, chị biết chửa?
Đặng cười ré lên một hồi ròn khanh khách. Con chó dưới chân Đặng cồn giật thót người, cúp đuôi chạy vút đi. Đặng càng cười đắc ý.
Đi với Đặng cồn còn có Nhược Dự. Bận nào Đặng đến nhà tôi, Nhược Dự cũng đi theo. Anh ta là người khó hiểu, khôn ngoan và kín đáo. Ngồi nói chuyện với anh ta khó mà biết được ý thật của anh ta như thế nào. Bao giờ anh ta cũng nói theo ý của người khác và nếu gặp một ý nào đối chọi lại lập tức anh ta rụt lại ngay. Lúc nào anh ta cũng khoác bên ngoài cái vẻ lờ mờ, rụt rè như một người lạc lõng, hiểu rất ít về thời cục.
Hồi mới chạy lên trên này, Nhược Dự còn để cái đầu trọc. Cái đầu sinh ra từ ngày còn Nhật chưa có dịp chuyển sang đầu thường, nhưng chỉ mấy tháng sau tóc anh đã mọc rất dài, không những thế anh còn để cả bộ râu dài lượt mượt như một ông cụ nữa. Bộ râu lạc lõng trên cái mặt non choẹt, trắng nhẫy nom như râu đóng kịch. Có bộ râu ấy, anh có thể rền rĩ, than thở với mấy ông xã đội trưởng rằng mình già yếu không thể đi canh gác, hay đi phá đường được; hoặc từ chối một vài việc gì đấy mà ủy ban muốn nhờ anh ta giúp đỡ. Trước ngày, Nhược Dự cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm lá, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo, quen thuộc, rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ Mỹ ký. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa, mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn.
Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cả già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi, đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bếp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn luẩn quẩn, mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia... Trước mặt người lạ, họ đối đãi, nói năng với nhau hoa mỹ, kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai!
Người như vậy, kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dự trước kia có viết văn, cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ, băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc, vì anh ta nặng gánh gia đình, vì anh ta bệnh tật, đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm.
Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ, không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cập kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh khó chịu, tức tối ngấm ngầm, có khi phải tủi hổ.
Mỗi lần Đặng có việc đi qua tạt vào chơi, vợ chồng Nhược Dự rất mừng. Trong số bè bạn ngày trước chỉ có Đá Đặng là chịu chuyện được vợ chồng nhà này. Nhược Dự vớ được Đặng như người chết đuối vớ được cọc. Mỗi lần gặp nhau lại rượu. Trên mâm rượu “tha hương ngộ cố”... ít ra anh ta cũng nói được đại ba câu cảm khái vụn, ngâm ngợi một vài bài thơ than thở cho thân, cho thì. Có lần rượu vào anh ta rũ xuống mà khóc.
Hôm Nhược Dự theo Đặng đến nhà tôi chơi, thấy Đặng có ý kiến về con chó ghẻ như vậy, anh ta liền “bốc” ngay. Anh ta ca tụng các món thịt cầy, ca tụng cái đạo của những ai biết thưởng thức thịt cầy, cuối cùng anh ta hẹn ba tháng nữa, Đặng trở lại sẽ hội ẩm một chầu thịt cầy có thể gọi là “phanh dương, tể ngựu...”
- Cô hai nhà moa sẽ đội sang một cái quả sơn đầy bím với hai cây rượu đặt thật trứ danh. Các toa sẽ thưởng thức của bà cả nhà moa món giò chó, món thịt chó hầm cách thủy, món thịt chó hấp... à, các toa đã được nghe bà cả nhà moa ngâm “Hồ trường” chưa? Này “en” mà ngà ngà mấy chén vào, ngâm “Hồ trường” thì lạ lùng hết sức... Buồn mà thấm vô cùng...
Thực tình trong lúc này, tôi chẳng thấy hay ho gì những cái trò ấy. Nhưng thôi, con chó như thế, nó cũng yên với cái phận của nó rồi. Tôi cũng thôi không còn phải băn khoăn, kỳ kèo, ca thán gì về nó nữa. Trong những ngày chờ đợi nó béo, lớn lên, tôi như đã quên nó, coi như không có nó trong gia đình. Đôi lần gặp Đặng, anh ta có nhắc nhở, tôi mới nhớ ra và trả lời một cách mù mờ rằng: con chó ấy có dễ nó cũng kha khá lên rồi. Thật ra tôi có biết bây giờ con chó nó gầy, béo ra sao đâu. Một phần vì độ ấy cơ quan tôi đã chuyển sâu vào rừng, tôi ít khi về nhà; một phần vì con chó ấy cứ thoáng thấy bóng tôi, nó đã lui lủi lỉnh đi, nằm bẹp ở xó xỉnh nào rồi.
Một buổi chiều, tôi vừa ở cơ quan ra thì gặp Đặng khoác ba lô, chống cái gậy hèo khật khưỡng đi tới. Thấy tôi, anh ta mừng quá, phì cả hơi rượu vào mũi tôi, nói choang choang giữa rừng:
- À, mày... Thằng Hiền! Thế nào, to chưa? To rồi chứ còn gì?
Tôi đứng ngây ra không hiểu Đặng hỏi tôi cái gì to chửa. Anh ta phì cười, phát đen đét vào vai tôi:
- Bố khỉ, bố đần!... Con chó ốm nhà mày ấy, to chửa? Khử được rồi chứ còn gì?
Tôi gật đầu cười “à à...”. Ra cái tay bợm rượu này không lúc nào nó quên được con chó!
- Tao đã bảo vợ chồng nhà Nhược Dự rồi. Hai chai bố trong suốt như nước suối...
Anh nháy tôi một cái, ngấp ngó cặp kính thõng xuống tận mũi, nhìn tôi:
- Kể ra vợ chồng chúng nó cũng có khí... nhạt đấy. Mặc mẹ, được việc cho mình thì thôi, hả?
Anh ta cười khá lên một dịp ròn tan.
- Chủ nhật hả! Chủ nhật này mày về, ta làm một chầu văn hóa cao!
Đặng bắt tay tôi, hỉ hả chống gậy lên đường.
Nhưng sự đời có mấy khi chiều những ý muốn đã định trước. Đặng vừa đi hôm trước thì hôm sau có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, rồi có tin giặc từ Bắc Giang đánh lên, Bắc Ninh đánh sang. Lối Kim Tràng, cầu Xim, Cầu Đồng; bên núi Hia, núi Đót; dưới chợ Lữ, bến Lủi, bến Phà, đâu đâu cũng có giặc cả rồi. Người các mạn dưới đánh trâu, bò, bồng bế, gồng gánh chạy giặc dạt lên đen kín cả ngoài cánh đồng.
Cơ quan tôi đã chuẩn bị từ trước, vừa có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, lập tức chuyển sâu thêm nữa vào rừng, sang một địa điểm tỉnh khác. Tôi được anh em đồng ý cho về thu xếp gia đình rồi sẽ theo cơ quan sau. Anh em ai cũng biết cảnh nhà tôi neo bấn, chỉ có một mình vợ tôi với đứa con gái nhỏ, lại ở vào giữa vùng giặc đang đánh lên, một mình vợ tôi sẽ không biết xoay xỏa như thế nào trong cái tình thế khó khăn, bối rối ấy được. Tôi về chuyến ấy, có ý định sẽ đưa gia đình theo cơ quan, ở một trại ấp hẻo lánh nào đấy cách cơ quan tôi chừng độ dăm bảy cây số cho tiện sự đi về thăm nom.
Con chó của tôi như thế không thể “làm một chầu văn hóa cao” như Đặng hẹn nữa, và cái số phận của nó cũng vì cuộc chạy giặc ấy mà thay đổi.
Đêm ấy tôi từ cơ quan về đến nhà thì vợ con tôi đã chạy cả rồi. Hàng ấp cũng không còn nhà nào ở lại. Xóm ngõ vắng tanh, súng giặc nghe rền từng chập. Nghe rõ tiếng liên thanh ùng ục và, từng phát súng trường lẻ tẻ rít vào không khí.
Tôi biết vợ con tôi đã chạy vào đồng Kĩnh. Từ mấy tháng nay, mỗi bận tôi về nhà, hay viết thư về cho nhà, tôi đều căn dặn vợ tôi lúc nào cũng phải hết sức gọn gàng, phòng giặc đánh lên, hoặc nhảy dù là có thể bế con chạy ngay được. Trường hợp tôi chưa về kịp, mẹ con hãy chạy vào nhà cụ bếp Móm trong đồng Kĩnh làm chỗ liên lạc, tôi sẽ về đón.

Ở trong ấy gần rừng, hẻo lánh dễ chạy, mà cụ bếp Móm lại là chỗ đi lại quen biết từ trước, nhỡ xảy gặp khó khăn có thể nhờ cậy được.
Tôi đảo về qua nhà, đi vẩn vơ ngoài cái sân bỏ vắng mấy lượt, rồi cắm đầu đi thẳng vào đồng Kĩnh. Bấy giờ đã khuya lắm. Đêm tối vẫn rùng rùng bóng người, bóng trâu bò chạy giặc. Người ở vùng dưới chạy lên đây, người ở đây lại chạy mãi vào những mạn ven rừng. Trong các búi cây, bờ ruộng, khe suối, rệ đồi, trong các lều quán ven đường, chỗ nào cũng thấy nhan nhản những người. Chỗ nào cũng nghe tiếng trẻ khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, chửi rủa. Ruột gan tôi càng rối lên.
Vào đến nhà cụ bếp Móm, tôi giục nhà tôi thổi cơm ăn, chuẩn bị đi ngay đêm nay. Bây giờ tôi mới chợt nghĩ đến con chó. Tôi thấy nó vương vướng. Đem nó theo gia đình lức này thật chẳng được tích sự gì, rất phiền, mà rất có thể nguy hiểm. Mà bỏ nó lại thì... thật ra trong lòng tôi cũng áy náy. Trong cái lúc chạy giặc này, trong cái lúc con người ta đang phấn đấu giành lấy sự sống, sự đoàn tụ, yên vui, phải bỏ lại bất cứ một vật gì đã có trong gia đình mình cũng đều thấy xót xa như phải bỏ lại một con người và có cảm giác như đấy là một cuộc chia ly phũ phàng giữa cái sống và cái chết.
Con chó ấy, từ trước vẫn sợ tôi, thoáng thấy bóng tôi là tránh cho thật xa, đêm nay hình như nó cũng thấy có những cái gì khác hẳn, cái gì như là tan nát, thấy tôi về, nó mừng quá, nó quên cả cái thói quen sợ tôi của nó, nó chạy bổ ra với tôi, mừng rối rít. Nó quấn lấy tôi, dều dễu theo tôi, nằm phục dưới chân tôi mà hít hít, ngửi ngửi rên lên những tiếng ư ử sung sướng, thân thiết. Thì ra những lúc gian nguy, chẳng những con người, đến con vật cũng quên hết những ghét bỏ, hiềm khích cũ mà gần gũi, thương yêu nhau, thấy cần phải nương tựa vào nhau mà sống. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự không biết đối xử với con chó này như thế nào, bỏ nó lại, hay là mang nó đi?...
Người chạy giặc vẫn kéo lên mỗi lúc một đông. Có tốp tiếp tục đi mãi vào trong mạn rừng, có tốp nghỉ lại ở đây. Cái túp nhà ông cụ bếp Móm chặt nèn những người. Trong số những người mới đến tôi thấy có cả ba vợ chồng Nhược Dự, tôi mừng quá, chạy ra hỏi tin giặc. Nhược Dự với cô vợ hai không nói gì. Đêm nay anh ta thay đổi hẳn, gặp tôi anh ta cũng chẳng thấy nhích lên được một nét vui nào. Anh ta chỉ lầm lầm cái mặt và thở dài. Sự lo lắng, chán nản, oán trách hiện lên đầy mặt. Anh ta đối với tôi lúc này lại như có vẻ hờ hững, khó chịu. Trái lại chị vợ cả lại nói rất nhiều, cặp môi ăn trầu thuốc thâm đen của chị cuốn lên. Chị nói bằng mắt, bằng tay, bằng nét mặt, bằng tất cả cái sắc sảo của một tay buôn lọc lõi. Có lúc chị nói liên liến một hồi như cái máy khâu đạp cố rồi đột nhiên ngừng lại, đưa mắt dò la đánh giá người nghe, có lúc chị nói khoan thai thẽ thọt như thể giọng mẹ chồng ngồi kể xấu nàng dâu. Có lúc chị giả giọng ba bốn người trò chuyện đối đáp với nhau. Chị vừa nói vừa cười ròn khanh khách. Kể chuyện giặc đánh lên, giặc đốt làng mà giọng chị nghe văn hoa, hồ hởi như chuyện vừa kiếm được món hời.
- Tại anh Nhược Dự đấy, kêu là chiều tối rồi, nó không lên nữa, để sáng sớm mai hẵng chạy còn kịp chán. Thế mà ai ngờ nó đi đêm anh ạ. Nó đốt cái quán ở đình Bùi của tôi rồi. Tiếc quá.
- Nó lên đình Bùi rồi chị?
Chị bổ cái mặt chị vào mặt tôi:
- Chả có hai lần đình Bùi! Nó đến Nhã Nam rồi anh ạ. Thật cả là một sự điêu linh. Cũng chỉ tại mấy bố du kích nhà ta thôi anh ạ. Súng ống chẳng có, có mấy khẩu súng kíp còm cũng đậm đọp bắn nó. Nó mấy cáu, nó mấy đốt cho. Nó đốt đình Bùi, đốt Cao Thượng, bây giờ nó đang đốt Nhã Nam đấy. Vợ chồng tôi vừa chạy giặc, vừa ngoảnh lại nhìn ngọn lửa quân xâm lăng tàn bạo nó đốt nhà, đốt cửa của đồng bào mà trái tim của vợ chồng tôi tưởng chừng như sắp sửa tan vỡ ra từng mảnh... hé, hé, hé...
Chị ngửa cổ, bưng miệng cười khé lên. Mặt anh chồng cứ nhăn như bị. Nhược Dự vốn là người kín đáo, giữ gìn, có điều gì hậm hực, không được như ý, anh ta chỉ hậm hực riêng với mình, hoặc quá lắm thì anh hậm hực với hai bà vợ của anh. Cái lối văn hoa giả khôn, giả dại của bà vợ anh, thường ngày làm cho cái cửa hàng bún riêu của vợ chồng anh đông khách, người ta ngồi ăn hàng và xem một người ăn nói lạ tai như vậy cũng thấy hay hay, nhưng hôm nay, nghe vợ nói năng như vậy Nhược Dự ta khổ tâm quá, khổ tâm lắm. Anh khổ tâm không phải cái lối nói ba hoa, giả dối của vợ mà có lẽ anh khổ tâm vì bà vợ của anh không biết giữ mồm giữ miệng, nói những điều mà anh chỉ dám nói trong cổ họng. Anh ta vội hỏi tôi một câu, có ý lái khéo câu chuyện sang hướng khác:
- Lâu nay toa có sáng tác được cái gì mới không?
Hình như thấy câu nói của mình lạc lõng không hợp với tình thế lúc này, anh ta hỏi thêm:
- Lâu nay toa có gặp Đặng không? Toa có biết lúy chạy đâu không?
Tôi chưa kịp trả lời, Nhược Dự đã quay ra nói gì nho nhỏ với bà cả. Hình như anh không cần thiết câu trả lời của tôi cho lắm. Tình hình lúc ấy đột nhiên lại thấy lộn xộn. Người ở ngoài chạy dồn vào, người ở đây lại nhốn nháo kéo nhau đi. Tin người tản cư nghe mỗi lúc một khác, những tin không biết từ đâu truyền đi rất nhanh. Lúc có tin giặc đã đến Nhã Nam, lúc có tin giặc ở Thái Nguyên đánh sâu vào rừng lùng các cơ quan, lúc lại có tin giặc ở Thái Nguyên đốt phá Thác Huống, Đá Gân. Mạn Vĩnh Yên, Phúc Yên cũng có tin giặc vào đến chân Tam Đảo. Con đường tôi và vợ con tôi phải đi qua đêm nay cũng có tin giặc đánh đến nơi rồi. Đằng nào cũng phải vượt thôi!
- Này mình ạ... - Tôi nhìn nhà tôi đắn đo một lúc. - Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy, tôi nghĩ không thể đem nó đi được đâu.
-Sao, mình bảo gì cơ?
Nhà tôi ngồi nắm nắm cơm bằng chiếc khăn tay trên mặt cái sàng, ngẩng lên nhìn tôi sửng sốt. Tôi ngập ngừng nói thêm:
- Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy không thể đem nó đi theo mình đêm nay được đâu.
- Sao lại không đem nó đi được! Mình nói tôi chẳng hiểu ra sao cả.
Nhà tôi cau mặt lại một cách khó chịu:
- Nuôi nó ngần ấy ngày giời, gặp lúc như thế này lại định bỏ nó! Mình nghĩ thế nào, lại tính thế? Chả thà là thịt nó đi như anh Đặng nói lại đi một nhẽ.
Tôi nín lặng chẳng biết nói với nhà tôi như thế nào, trong lòng thật cũng thấy hổ thẹn với những ý nghĩ của mình. Ngoài kia, ba bốn đám lửa đốt làng, đốt phố rừng rực trong đêm tối. Những đám lửa nom gần lắm rồi.
Tôi càng nôn nao, bối rối, tôi nói với nhà tôi như dỗ dành, như phân trần:
- Có phải rằng tôi muốn để lại nó đâu, nhưng mà giặc thì nó đánh đến nơi rồi, xung quanh mình chỗ nào đành nhẽ là phải gửi nó lại... Sau này giặc yên, về ta lại đem nó về...
Nhà tôi cắm cúi nắm nắm cơm không trả lời. Nắm xong, nhà tôi lẳng lặng thu xếp, bỏ vào quang gánh, rồi đi vào trong nhà. Nét mặt nhà tôi lúc ấy nom lầm lì và buồn bã vô cùng. Lát sau nhà tôi và cụ bếp Móm từ trong nhà đi ra. Ông lão bước nhanh về phía tôi, xăm xắm:
- Thôi được, hai bác không đem được nó đi thì để lại, tôi trông nom cho, anh em mình, lo gì. À hà, con chó này đang ngon thịt đây...
“Quái thật, làm sao ai nhìn đến con chó cũng nghĩ đến chuyện thịt?” Tôi thấy hơi khó chịu. Ông lão chắp hai tay sau đít, cười gật gật ngắm nghía con chó. Chừng như con chó ấy nó cũng thấy có điều gì khác ý, nó vội rúc vào chân tôi liếm liếm, ngửi ngửi, hai chân nó đập đập vào chân tôi, ngoáy đuôi mừng mừng.
Nhà tôi chẳng nói chẳng rằng, một tay cầm cái xích, một tay nắm gáy lôi tuột nó ra, xích nghiến lại. Con chó giật mình, hoảng quá nó chồm lên và càng cố lăn vào chân tôi, trốn tránh, giẫy giụa, kêu ăng ẳng.
Ông cụ bếp vui tính thấy thế cứ nhe bộ lợi ra cười kha khá, còn nhà tôi thì hai mắt càu cạu, môi mím chặt lôi xềnh xệch con chó ra một cách phũ phàng. Nhà tôi buộc nó vào gốc mít gần đấy. Con chó lăn lộn trong cái xích căng thẳng, cái xích vít cổ nó lại, nó cố nhoai về phía tôi mà không được, nó tru lên từng hồi. Trong ánh lửa cháy bập bùng ở bếp hắt ra, tôi thấy mắt nó có hai đốm lửa nhỏ tí. Hai đốm lửa ấy nhìn vào tôi oán trách, cầu khẩn lúc lại thấy như thù hằn, giận dữ. Tôi cúi mặt xuống, không dám nhìn vào con chó ấy nữa. Khốn nạn thân nó, bây giờ chắc nó biết chủ nó bỏ nó. “Thôi, để chuyến này chạy giặc về, tao sẽ nuôi mày, tao không dám phụ mày, tao không thịt mày nữa đâu”...
Nhà tôi đã thu xếp quang gánh, đồ đạc xong. Đứa con gái nhỏ của chúng tôi ngồi gọn bên một thúng, xung quanh nó quây chăn, tã cho ấm, phía trên che một cái chiếu cuộn khum khum như cái mái lều. Một bên là nồi niêu bát đĩa, tương muối và các thức cần dùng khác. Bây giờ nhà tôi mới cầm một bọc gạo vừa mới san ở trong bị ra, đi đến trước mặt cụ bếp Móm:
- Thôi, chúng cháu đi đây...
Nước mắt nhà tôi bỗng giàn ra, nhà tôi đứng im trước mặt cụ bếp nghẹn ngào không nói được. Tiếng con chó vẫn kêu ăng ẳng và, tiếng cái xích căng ra xoắn vào thân cây mít lục cục.
- Cháu... gửi lại cụ một ít gạo đây, nhờ cụ trông nom nó giúp cháu... Sau này thiếu đủ như thế nào, về cháu sẽ xin thưa lại với cụ...
- Được! Được! Chỗ tôi với hai bác ấy mà.
Ông cụ bếp cười, xua xua tay, gạt đi.
Nhà tôi khẽ chào ông cụ, bước vội về phía quang gánh. Tôi cũng đứng dậy khoác ba lô, ôm bọc chăn màn chào cụ bếp, bước theo nhà tôi. Từng chặp súng máy nổ rền ngoài đêm tối. Và, đám lửa đốt làng, đốt phố ở mé Cao Thượng càng khuya nom càng rừng rực ngất trời.
Bao giờ cho giặc rút? Bao giờ cho vợ con tôi được sống yên ổn dưới một mái nhà? Tôi thèm một cái mái nhà...
“Ắng!... Ắng! Ắng!...” Tiếng con chó lồng lộn, cuống quít đằng sau bước chân tôi. Nó như gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách. Tôi lẳng lặng bước qua chỗ vợ chồng Nhược Dự đang đứng. Rõ ràng anh ta biết tôi đi nhưng lại lờ đi như không nhìn thấy.
Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cả nói với chồng:
- Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ.
Và tiếng anh chồng dấm dẳn:
- Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!...
Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi.
Đêm “thu đông” lạnh buốt. Rải rắc trong những búi sim, mua rậm, bóng những người chạy giặc nằm ngả ngốn, chụm đầu vào nhau nói chuyện rì rầm. Trâu bò hàng đàn sồn sột gậm cỏ thầm trong tối.
Tiếng con chó tự trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một “Ắng!... Ắng! Ắng!...”. Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu...”.
Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.
Hai tháng sau tôi về. Giặc rút lâu rồi. Cuộc tấn công rầm rộ của chúng nó ngày ấy ai ngờ lại là cuộc đánh tháo cho đám quân mắc nghẽn ở giữa rừng già trong thị xã Bắc Cạn. Chúng nó tràn lên đâu trong vòng chỉ có nửa tháng thì rút hết. Vợ con tôi cũng đã dọn về nhà cả rồi.
Dọc đường từ cơ quan về thăm gia đình hôm ấy tôi rất vui. Bao nhiêu nỗi vui dồn đến chen chúc rộn ràng trong ý nghĩ. Mấy tháng ở cơ quan, ngày lại ngày trông ra chỉ thấy cây già và núi thẳm bưng bít xung quanh, bây giờ về xuôi, tôi lại được thấy trời rộng, sông dài và những cánh đồng bát ngát. Tôi lại sắp được gặp vợ, gặp con tôi.
Mỗi bước chân, bao nhiêu vui sướng. Nhưng mà tôi đã quên mất con chó khốn khổ ấy. Nhà tôi thấy tôi về, mừng quá cũng không kịp nhắc đến nó. Sau một trận giặc đánh lên, cái sống cái chết kề bên bây giờ mới được đoàn tụ, ai mà còn kịp nghĩ đến một con chó xấu xí!
Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng cồn từ đầu ngõ đi vào, bấy giờ tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:
- À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à?
Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy ngày giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.
- Nó chết rồi!... - Nhà tôi nói khe khẽ.
- Chết rồi? Làm sao mà chết được?...
Tôi trố mắt lên hỏi lại. Nhà tôi cúi mặt xuống, thở dài:
- Nó chết thương lắm cơ mình ạ. Không phải nó chết trong cụ bếp Móm đâu. Nó về nhà ta nó chết đấy.
Nhà tôi ngừng lại, cắn môi chớp chớp hai mắt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi đứng dậy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mời anh rồi mới tiếp tục câu chuyện.
Chao ôi! Con chó xấu xí ấy, của tôi! Con chó từ lúc mua, đến lúc chết không được một lần vuốt ve! Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá. Từ hôm vợ chồng tôi gửi lại nó cho ông cụ bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. Nó chỉ kêu. Nó kêu suốt ngày, suốt đêm. Một đêm, ông cụ bếp không thấy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích đi đâu mất rồi.
Hôm nghe tin giặc rút, ở trong khe đồn Khau Vắt dọn về, nhà tôi tạt vào nhà cụ bếp Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy nữa. Lúc ấy nhà tôi cũng yên trí là con chó mất rồi. Chắc chắn nó sẽ lạc vào một trại ấp nào đấy và người ta làm thịt nó.
Nhưng khi nhà tôi về đến nhà. Bà con xóm giềng vừa chạy sang láo quáo thăm hỏi thì, ở ngoài vườn sau, có mấy tiếng chó hú lên thảm thương và ghê rợn.
Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn một dúm xương da xộc xệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã dụi bên này, dụi bên kia. Rồi nó không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê đần về phía nhà tôi.
Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là còn ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm vào tay chủ. Khốn nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết.
Tôi tối sầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỷ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu?
Đặng vẫn ngồi im. Từ lúc đến, đến lúc nghe xong câu chuyện, Đặng vẫn ngồi im. Hình như câu chuyện con chó ấy của nhà tôi kể làm anh có điều gì áy náy, nghĩ ngợi.
- Này, lâu nay cậu có được tin gì về vợ chồng Nhược Dự không?
Lúc lâu sau Đặng chợt ngẩng lên nhìn tôi hỏi. Cặp môi mỏng dính của anh kéo xệch một bên lên thành một nụ cười. Anh tự trả lời câu anh vừa hỏi:
- Nó dinh tê rồi! Nghe nói vào trong ấy nó viết báo, viết truyện chửi kháng chiến, chửi bọn mình đểu lắm.
Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Cái im lặng trang nghiêm ghẻ lạnh, thật khó chịu.
Anh chàng hiệp sĩ gỗ
Những năm cách đây rất xa, xa lắm.
Ở thị trấn Bến Cam, mỗi năm cứ đến ngày gần Tết người ta lại thấy ông lão già ấy. Không ai biết quê quán ông lão ở đâu, họ tên ông lão là gì. Nhưng mỗi năm vào dịp Tết người ta lại thấy ông lão đẩy cái xe bánh gỗ lọc khọc đến, ăn mấy phiên chợ Tết, qua Giêng, ngày rộng tháng dài lại đẩy cái xe bánh gỗ lọc khọc đi...
Cũng chẳng ai để ý hỏi xem ông lão đi đâu? Đến những vùng sơn cùng thủy tận nào? Chỉ biết cuối năm người ta lại thấy ông lão.
... Một buổi sáng đẹp trời nào đó, sương mù và nắng sớm bay rực rỡ ưên mặt sông. Gồng gánh, hàng họ từ trên các ngả đường kĩu kịt gánh về, và thuyền bè dưới bến đổ lên những kiện hàng, những bồ, những sọt, cam, bưởi, nấm hương, mộc nhĩ... Cả cái thị trấn nhỏ bé ấy đang tấp nập mua bán, mọi người bỗng nghe tiếng thanh la từ phía sau mấy lớp đồi núi ngổn ngang trước mặt nổi lên.
“Phe è... èng!... Phè è... èng!... Phèeng!...”
Tiếng thanh la mỗi lúc một gần, rồi ông già hiện ra trên đầu dốc Đỏ. Ông lão đẩy cái xe hăm hở đi xuống. “Phèeng! Phèng! Phèng!...” Cái xe lọc khọc nghiêng ngả lăn giữa hai dãy bàng trụi lá, vào phố.
Trẻ con không biết từ những ngõ ngách nào đã thấy tuốn ra đầy đường, nhông nhông chạy theo ông lão mà reo hò.
- A ha!... Ra mà xem! Múa rối! Múa rối đã về chúng mày ơi!...
- Cụ ơi!... A ha ha! Cụ múa rối ơi! Vẫn có anh chàng hiệp sĩ đấy chứ?...
Ông lão vừa đẩy xe vừa gật gật đầu cười với đám trẻ con chạy theo. Đó là một ông già cao lớn, khỏe mạnh, có nước da đỏ cháy như đồng hun và bộ râu bạc trắng bay lòa xòa trước ngực. Ông lão vận chiếc áo bông cũ, buộc ra ngoài một sợi dây chuối ngang bụng cho gọn. Chiếc nón mất vành thì tụt xuống, lắc lư đằng sau gáy. Ông lão bước từng bước dài, hăm hở, vững chãi trên hai cái bàn chân to sù sì dính đầy đất bụi.
Ông lão ấy làm nghề múa rối rong. Trong con mắt trẻ con ở cái thị trấn nhỏ này, chúng nó cho ông lão là một người kỳ dị. Một tay giang hồ lão luyện, biết nhiều, hiểu nhiều, có nhiều tài lạ.
Và, cái xe ọp ẹp ông lão vẫn đẩy ấy là một thứ thế giới bí mật của những con rối bằng gỗ.
Ông cụ già, cái xe gỗ, và đám trẻ con đã dừng lại dưới một gốc cây thông trước cổng chợ. Tiếng thanh la lại khua ánh ỏi lên một hồi nữa rồi im hẳn.
Bây giờ ông lão mới quay ra, rút cái khăn vải vàng ố vẫn vắt trên vai xuống, lau mặt, lau cổ, toét miệng cười với đám trẻ con.
- E hèm! Xem nhá! Năm nay nhiều tích mới lắm. Đám cưới chuột, cô công chúa ăn vụng phải đòn, thằng Quậy ngồi gốc cây đa, anh chàng đánh hổ, ối chà chà lý thú lắm!
Đám trẻ con đứng xung quanh ngẩn mặt ra nghe toét miệng cười theo.
Cuộc biểu diễn bắt đầu. Ông lão dẫn các tích trò xong chui vào trong cái hòm gỗ ngồi. Tiếng đàn sáo tức thì bay ra réo rắt, một lúc, hai cánh màn nhiễu đỏ ở một bên thùng xe từ từ cuốn lên.
Trong cái hòm gỗ ọp ẹp ấy bỗng hiện ra những cảnh hoa cỏ, núi sông rực rỡ. Có những cụ già chống gậy lụ khụ đi lại. Có những em bé nhảy múa tung tăng. Có người đi cày, có người dạy học. Có rắn biết nói, có yêu ma hiện thành người đánh lừa những kẻ qua đường.
Ở trong cái hòm gỗ, ông già lúc bấy giờ bỗng như người bị ốp đồng, ông lão không còn biết gì đến xung quanh nữa. Giữa cái đám chợ đương lúc ồn ào mua bán, giành giật nhau miếng sống với tất cả những mánh khóe lọc lừa gian dối của con buôn, ông lão không nghe thấy gì hết. Tất cả tâm lực của ông dồn vào những con rối. Mặt ông co vào, giãn ra, răn rúm một cách khổ sở đau đớn, như người đang bị kìm cặp, và hai con mắt thì long lên, sáng quắc.
Ông lão hát, ông lão đánh đàn thổi sáo. Ông lão làm tiếng gió thổi, suối reo. Ông lão cười. Ông lão khóc.
Một mình ông lão nói đủ các loại tiếng người. Tiếng kẻ gian tham, tiếng người trung hậu, tiếng ông già, tiếng em nhỏ. Tiếng rên xiết của người nghèo khổ, cũng như tiếng nanh ác của những kẻ giết người... Ông lão lúc bấy giờ như một vị chúa tể của loài rối, có nhiều phép lạ sai khiến chúng nó hoạt động, đi đứng, nói cười, vui buồn, yêu ghét... theo ý muốn của mình bằng mười đầu ngón tay ảo thuật có buộc những sợi dây chỉ nhỏ. Ông lão biến những hình người bằng gỗ ấy thành những con người có linh hồn như những con người sống thực.
Đám trẻ con ngồi xem cứ mê tít đi. Các em không còn thấy là diễn trò nữa. Trước mặt các em đó là những cảnh đời đang biến đổi dồn dập làm các em hồi hộp, lo lắng, mong đợi... Mỗi tích các em thấy mỗi lạ, mỗi con rối có một tính cách đặc biệt riêng làm các em phải ghi nhớ!
Nhưng trong tất cả các con rối của ông lão, có một con được trẻ con thị trấn Bến Cam yêu thích, mến phục nhất. Các em đã biết nó từ mấy năm trước và luôn luôn nhắc đến. Ấy là con rối chuyên đóng vai hiệp sĩ cứu đời.
Con rối ấy rất đẹp. Hình dáng giống như hình dáng những trang anh hùng, nghĩa sĩ trong các truyện cổ của Trung Quốc. Mặt trắng, môi đỏ, cằm vuông, mắt xếch. Đầu đội mũ võ sinh màu nguyệt bạch, sau gáy đeo đại vòng kim tuyến phủ, mình bận chiến bào lụa màu lục anh vũ, lưng thắt dây văn võ màu xanh, chân dận ủng tía. Trên vai lúc nào cũng dắt một thanh bảo kiếm, có thắt dải lụa hồng ở chuôi. Nó đi đứng oai nghiêm, nói năng dõng dạc, rõ ra là một trang thiếu niên anh tuấn.
Mỗi lần anh chàng hiệp sĩ ấy hiện ra trên sân khấu, vung cái thanh gươm báu ấy lên thì bao nhiêu sự bất công, ngang trái ở trên đời đều được san bằng hết. Người ngay lành được cứu giúp, đứa hung ác phải trừng trị.
Sau buổi diễn trò hôm ấy, trẻ con thị trấn Bến Cam nhớ mãi tích Anh chàng hiệp sĩ đánh hổ cứu một em bé lên rừng hái thuốc cho mẹ. Các em đặt cho anh ta đủ các thứ tên mà các em mến phục. Có em gọi anh là Võ Tòng đả hổ, có em gọi là Báo tử đầu Lâm Xung, là Phương Thế Ngọc, Tiêu Đại Bàng, Nhất Chi Mai... Lại có những em về nhà lấy củi hì hụi đẽo một thanh kiếm gỗ mơ ước trở thành một trang anh hùng hiệp sĩ kiểu như Anh chàng hiệp sĩ bằng gỗ của ông lão làm nghề múa rối rong ấy...
II.
Nhưng chuyện Anh chàng hiệp sĩ gỗ không phải chỉ có thế, nó còn nhiều điều bí ẩn không thể ai biết được. Các em nhỏ ở thị trấn Bến Cam không biết đã đành, mà ngay cả đến ông lão múa rối là người sinh ra nó cũng không thể ai biết được. Đó là cuộc sống và những tâm sự riêng của con rối hiệp sĩ ấy.
Mỗi đêm, khi những tiếng động của cuộc sống loài người lắng xuống, ông lão múa rối sau một ngày làm việc mệt nhọc đã uống hết một cút rượu, nằm ôm đầu ngáy như sấm trong một góc buồng trọ tồi tàn ngoài bến sông.

Giờ này là của những con chuột rúc rích trong các khe tường kiếm ăn. Giun dế ti tỉ tìm nhau than thở dưới những búi cỏ...
Bóng tối đã bò ra trùm lên mọi vật tấm màn đen bí mật của mình. Trong thanh vắng, những vật ban ngày không có linh hồn bỗng như sống dậy, hoạt động âm thầm trong cái thế giới riêng biệt của chúng nó. Mấy cây đa trên cái bờ đê cao như vui mừng hơn, chúng nó vươn dài những cành lá ra, khoác vai nhau thủ thỉ kể lại những chuyện đời xửa, đời xưa của khúc sông này. Mặt sông thì yên lặng suy nghĩ, lúc tối lúc sáng, mỗi bận có một trận gió thổi qua lại thở “à” lên một tiếng não nùng.
Ở trong góc cái hòm xe của ông già múa rối, anh chàng hiệp sĩ bằng gỗ lúc bấy giờ đã được ông lão treo cẩn thận lên một cái đinh sắt. Trông nó lủng lẳng như người bị treo cổ, các bạn xung quanh nó đều được treo lên như thế cả. Loài rối treo lên như vậy lại là lúc được nghỉ ngơi, thanh thản.
Đêm khuya, trong cái thùng gỗ tịch mịch, những con rối treo lơ lửng trên những chiếc đinh. Mùi băng phiến thơm hắc từ xó tối tỏa ra, đuổi mấy con gián hung dữ tìm mồi chạy lạo xạo bên ngoài những khe ván hở.
Một trận gió đêm thoảng qua, bay lọt vào khẽ lay động những con rối. Chúng nó chợt rùng mình bàng hoàng tỉnh dậy và bắt đầu sống theo cái đời sống riêng của loài rối.
Mụ ba giai gầy rạc ngáp một tiếng thật dài lên tiếng. Đêm nào mụ cũng nói trước tiên. Mụ ngoác cái mồm rộng ra đến tận mang tai xoe xóe như lúc cãi nhau:
- Thế nào các người! Tết nhất năm nay tôi phải réo nợ những nhà ai? Ai thuê tôi đi réo nợ chứ hả? Hả...
- Nợ nan cái đếch gì! Thối chửa. - Anh cả kiết bĩu môi lầu bầu bảo mụ ba giai - Ở trong cái hòm rối này anh đếch nào nợ anh nào mà nhặng cả lên. Không biết đường thối!...
Cô công chúa khăn vàng mau miệng vội gạt đi. Cô ta bàn nên quay về việc chuẩn bị tổ chức ngày tết cho thật vui. Theo ý cô nên tổ chức theo hình thức mới, đàn sáo, múa hát cho vui. Ông lão say, mặt lúc nào cũng đỏ như gấc chín. Một tay vẫn cầm xâu thịt, một tay cầm bầu rượu, tức thì phản đối. Lão lắc đầu quầy quậy, kè nhè giọng rượu:
- Phải say! Tết nhất phải say túy lúy cung thang thì mấy thích.
Lão cất tiếng ồ ề ngâm:
“Nêu cao ư ư... pháo đỏ, bánh ứ ứ chưng xanh... ư ư... Thịt mỡ ứ... dưa a... hành, câu đối đỏ...”
Họ nhà rối chẳng ai buồn nghe lão, bởi vì mỗi người mỗi ý. Theo mẹ con bà lão gấu già thì ăn tết phải có mật ong. Chị chàng mãn tam thể lại thích ăn tết bằng chuột nhắt. Lão hổ xám tức mình gầm lên, lão gạt hết cả mọi ý kiến. Lão bảo tết năm nay lão phải xơi ít nhất là ba anh chàng bò mộng.
Thế là ồn cả lên, bò, lợn, hươu, thỏ nhao nhao phản đối lão hổ. Họ bảo hổ như thế là không tốt, là quân hung dữ. Bò vàng thì tức lắm, anh ta vừa run vừa cãi lại hổ.
Mấy bà gái góa chẳng nói gì, cứ thấy hai tay ôm má buồn rười rượi, cô tiểu thơ áo xanh lại trách móc anh chàng công tử bột là khô khan. Ở ngoài sân khấu thì mắt la mày lét, bây giờ lại làm bộ, lầm lầm cái mặt. “Thiếu cảm tình”!
Anh chàng hiệp sĩ gỗ vẫn âm thầm trong một góc tối: Đêm nay anh ta bỗng thấy lòng buồn một cách lạ lùng. Không phải vì sự quạnh vắng của đêm tối, cũng không phải vì các bạn anh cãi nhau. Chuyện cãi vã nhau như vậy, họ nhà rối của anh là chuyện rất thường vì thật ra, tiếng rằng cũng là rối cả đấy, nhưng có ai giống ai đâu. Họ mỗi người mang một hình thù, mỗi hình thù có một tính nết riêng. Vậy thì có điều gì đáng cho anh phải buồn? Anh tìm mãi không ra duyên cớ.
Mọi đêm, vào giờ này, trong khi các bạn anh cãi vã nhau thì anh nghĩ lại những việc anh đã làm trong một ngày đã qua. Anh nghĩ: ngày hôm ấy anh đã trừ được mấy tên gian ác, đuổi được mấy lần thú dữ. Anh đã cứu được bao nhiêu người gặp tai nạn hiểm nghèo. Anh còn lan man nghĩ đến những công việc ngày tới sẽ phải làm những gì nữa cho xứng đáng với những nét mặt, những ánh mắt, miệng cười của các bạn nhỏ đã xem anh.
Nhưng đêm nay, không hiểu vì lẽ gì, đầu óc anh chàng hiệp sĩ ấy vẩn lên những ý nghĩ vu vơ, day dứt trong người, những ý nghĩ làm anh bực dọc khó chịu, có lúc anh như muốn khóc, có lúc lại như muốn gào thét lên.
Xung quanh các bạn anh cãi nhau đến chán miệng đã quay ra ngủ cả rồi. Cô công chúa khăn vàng đầu ngoẹo sang một bên, hai tay buông thõng xuống, rũ rượi như một cái xác. Lão hổ xám vẫn ngồi mở hai mắt trừng trừng ra mà ngáy...
Ngoài sông sương xuống trắng xóa. Không biết anh gà nào ở dưới bến đang ráng sức gáy gọi ông mặt trời. Gần sáng rồi.
Anh chàng hiệp sĩ gỗ bỗng thấy rùng mình. Theo hơi gió từ ngoài sông thoảng vào, anh chợt nghe có tiếng người đang nức nở khóc trong bóng tối. Tiếng khóc xói vào mặt anh, kể lể những đau khổ, cùng cực của một ông lão ăn mày mù. Ông lão có một con chó vàng rất khôn. Ngày ngày con chó dắt ông lão đi khắp chợ ăn xin, đêm về hai “thầy trò” lại ôm nhau ngủ ở dưới gốc đa ngoài quán trọ.
Cuộc đời nghèo khổ đã cướp đi của ông lão hai con mắt. Ông lão chỉ còn trông vào con chó nuôi sống tuổi già. Vậy mà không biết đứa ác tâm nào lại đánh bả con chó của ông lão chết, cướp đi cái nguồn sống, và tình thương yêu cuối cùng của con người tàng tật ấy.
Người anh chàng hiệp sĩ bỗng sôi lên. Anh lại gặp cảnh bất công như anh vẫn gặp thường ngày trên sân khấu đây. Anh phải xông ra, đem hết tài lực của mình cứu giúp ông lão. Anh phải tìm kiếm bằng được đôi mắt chữa cho ông lão khỏi mù. Anh phải trừng trị kẻ đã cướp đi con chó khôn ngoan, chung thủy của ông lão.
Anh phải xông ra! Và anh xông ra đây!...
Trong người anh chàng hiệp sĩ ấy tức thì dội lên một nỗi đau buồn chưa từng thấy có trong đời.
Khốn nạn! Anh chỉ là một con múa rối. Xương cốt anh chẳng qua cũng chỉ là một mẩu gỗ. Anh cũng như con bò vàng, mẹ con bác gấu, hay cô tiểu thư áo xanh v.v... các bạn rối treo quanh đây. Anh có hơn gì ai, thanh gươm vẫn đeo rất oai nghiêm trên lưng bây giờ anh có rút ra được đâu. “Thanh gươm của mình, đeo trên lưng mình mà không rút ra được!” Chao ôi! Thì ra từ trước đến nay anh chỉ múa may quay cuồng được ở trong cái thùng gỗ mọt bé nhỏ này, và anh hùng hảo hán bằng mười đầu ngón tay điều khiển của ông lão làm nghề múa rối.
Anh chàng hiệp sĩ ấy thương thân quá. Anh muốn khóc, anh muốn khóc cho rõ thảm thiết. Nhưng, khốn nạn thân anh, đến một giọt nước mắt cũng không có ở một người gỗ như anh để mà chảy ra cho hợp với nỗi ai oán của lòng mình lúc này. Bên ngoài, tất cả những anh gà trống bỗng cùng thi nhau cong cổ réo ông lão mặt trời dậy. Dưới bến đã nghe tiếng người í ới gọi nhau, tiếng vo gạo sàn sạt. Bấy giờ ông lão mặt trời mới uể oải chống tay vào sườn núi ngồi lên.
Sáng rõ mặt người rồi...
Từ đêm nghe tiếng khóc của ông lão ăn mày mù lòa ấy, anh chàng hiệp sĩ gỗ bỗng sinh ra nghĩ ngợi. Tiếng khóc khơi ra trong cái đời sống tù hãm của anh những khát vọng kỳ lạ.
Anh muốn hóa thành người thực, và thanh gươm của anh thành một thanh gươm thực. Anh sẽ mang thanh gươm báu ấy ra khỏi cái hòm gỗ bé nhỏ này bước vào cuộc sống đầy khổ cực, bất công của xã hội bên ngoài kia. Anh sẽ vung thanh gươm ấy lên như khi anh vung gươm diễn trò trên sân khấu, san bằng mọi bất công, oan trái ở trên đời. Anh sẽ làm cho trên mặt đất này không còn có tiếng khóc thảm thiết như tiếng khóc của ông lão ăn mày mù mất chó. Những mơ ước viển vông ấy làm cho anh chàng hiệp sĩ ấy hăng hái, vui sướng, anh nuôi những ý nghĩ ấy trong lòng.
Mấy hôm nay anh chàng hiệp sĩ còn nhận ra ở dưới gốc cây đa đen ngòm và lạnh lẽo kia không phải chỉ có một ông lão ăn mày khóc. Ở đấy còn có nhiều tiếng khóc, tiếng rên rỉ, than thở khác nữa. Càng gần ngày giáp tết tiếng rên rỉ từ trong bóng tối cây đa đưa ra càng nhiều. Đó là những người ăn mày, những đứa trẻ vô thừa nhận, những người già ốm yếu không có con cái, cửa nhà; ban ngày lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn, ban đêm lại kéo nhau về nằm vạ nằm vật dưới bóng cây đa này.
Ý muốn hóa thành người thật lại càng nung nấu, day dứt trong người anh chàng hiệp sĩ gỗ.
Một đêm anh đem cái ý nghĩ ấy ra trình bày với các bạn trong họ nhà rối của anh. Anh nói với tất cả tấm lòng tha thiết chân thành của mình. Nhưng bạn rối lúc ấy đang mải cãi nhau về chuyện ngày Tết. Vẫn lại cô công chúa khăn vàng cãi nhau với ông lão say. Mẹ con bà gấu đòi ăn tết mật ong, chị chàng tam thể lại thích tết nhất phải có món thịt chuột, còn anh bò vàng thì run rẩy cãi lại lão hổ xám.
Anh chàng hiệp sĩ phải nói đến lần thứ ba, đám rối mới ngừng cãi nhau để nghe. Và, khi họ nghe thủng cái ý muốn của anh chàng hiệp sĩ rồi thì cả bọn đều lăn ra mà cười. Họ bảo anh ta là đồ dở hơi, đồ gàn, đồ điên... Cái thứ bằng một mẩu gỗ mọt ấy mà dám nghĩ đến chuyện làm người. Gã công tử bột chun mũi lại, mà cười:
- Này anh chàng hiệp sĩ của tôi ơi! Anh đừng tưởng rằng anh tài giỏi gì lắm đâu. Nhà em xin mời ông anh cứ thử bước ra ngoài kia, khỏi cái vòng thơm hắc của mùi băng phiến này xem, mấy cái thằng gián hung tợn ở ngoài ấy nó lại không leo ngay lên mặt anh mà nhấm hết cả hồ dán trên tóc, trên mũ, trên áo quần của anh ấy à. Hừ, tưởng bở!...
Anh chàng hiệp sĩ lặng thinh không nói. Họ không hiểu nổi anh thật. Làm sao mà những con gấu, con bò, lão say rượu với gã công tử bột... hiểu nổi tâm sự của một chàng hiệp sĩ!
Anh ngao ngán nhìn qua khe thùng gỗ thở dài.
Trong đêm tối, những ánh đèn đỏ úa đang lừ đừ qua lại dưới mấy cái xóm nghèo ngoài bến sông. Đêm nay là đêm ba mươi tết rồi, những ánh đèn ấy là những ánh đèn đi đòi nợ. Từ những ánh đèn quỷ quái ấy tiếng chửi bới cứ rú lên những tiếng nanh ác, sắc nhọn như mũi dao đâm vào da thịt. Và, ở dưới gốc cây đa tối, mỗi lần tiếng chửi rủa vẳng đến thì những tiếng than thở, rên rỉ, lại đưa ra thê thảm, ai oán hơn.
- Mẹ ơi!... Sao lại không ngủ ở nhà hả mẹ?
Có tiếng một em bé nào nói khe khẽ ở dưới gốc đa. Tiếng em thanh thanh, run rẩy như tiếng chim non:
- Thôi ngủ đi con. Đừng hỏi nữa, khổ mẹ lắm con ơi!...
- Cơ mà con rét lắm mẹ ạ.
Tiếng người mẹ lại thều thào vẳng lên:
- Đây, mẹ vẫn ôm con vào lòng đây. Mẹ đã cởi hết áo của mẹ ủ cho con rồi... Con ngủ đi chóng ngoan... Con tôi...
Một trận gió ào lên thổi bạt tiếng người mẹ đi. Đêm tối thăm thẳm, và lạnh buốt. Bóng những ngọn đèn nhập nhòe vẫn đi lại trong mấy cái xóm nghèo dưới bến. Các bạn rối đã quên hết những chuyện cãi nhau, ngủ im cả rồi. Ông lão múa rối, đêm nay không biết lang thang ở đâu vẫn chưa thấy về. Có lẽ ông lão buồn. Năm cùng tháng tận, một mình thân già tha phương cầu thực...
Tiếng em bé lại cất lên hỏi mẹ. Tiếng em nghe ngoan quá.
- Mẹ ơi! Bao giờ thì mẹ con ta được về nhà hả mẹ?
- Đến giao thừa con ạ. Năm mới về thì người ta không đòi nợ nữa...
À thì ra đó là hai mẹ con nhà ai đêm ba mươi tết trốn nợ ra đây. Anh chàng hiệp sĩ nghe mà tối sầm cả tâm trí. Sắp qua một năm rồi, anh càng bồn chồn, nóng ruột. Anh muốn thành người ngay. Anh phải là người thật, thanh gươm của anh phải là thanh gươm thật, anh mới thực sự giúp ích cho đời. Nhưng tiếng em bé ngoài gốc đa bỗng reo lên, cắt ngang ý nghĩ của anh chàng hiệp sĩ gỗ.
- Năm mới người ta không đòi nợ nữa à. A, thế thì thích quá mẹ nhỉ. Năm mới mẹ phải may áo mới cho con nhá. Mẹ gói cả bánh chưng nữa nhá, mẹ mua cả tranh tết nữa nhá. Con thích tranh lắm cơ.
Tiếng em bé trong sáng và vui tươi lạ lùng. Ngừng một lúc - chắc là em đang tưởng tượng cái năm mới đầy hạnh phúc của em - em tiếp:
- À mẹ này! Năm mới bố con có về không mẹ nhỉ? Những đứa bạn con, chúng nó cứ bảo: bố mày chết rồi. Chúng nó nói dối đấy mẹ ạ, không phải đâu, năm nay thế nào bố cũng về... bố về thì mẹ phải mua rượu cho bố uống nữa nhé!...
- Ừ, thôi ngủ đi con!
- Không, con không ngủ nữa. Con phải thức chờ năm mới chứ. Bao giờ năm mới hả mẹ?
- Chốc nữa, bao giờ có nhiều pháo nổ thì là năm mới.
- Thế ư? Thế thì sướng quá. Con sướng quá. Lạy giời pháo nổ mau lên! Pháo nổ mau lên, cho chóng đến năm mới...
Em bé bỗng nín bặt. Từ dưới bến sông, một ngọn đèn đỏ quạch lừ đừ đi lên.
- Người ta đến bắt nợ, mẹ ơi!...
- Im con.
Ngọn đèn lẳng lặng đi qua gốc đa, rồi rẽ vào trong nhà trọ của ông lão múa rối.
Anh chàng hiệp sĩ bỗng thấy một cái đầu người đàn bà thò vào trong thùng gỗ. Một tay mụ cầm ngọn đèn nhỏ giơ ra phía trước, một tay cầm cái quạt giấy che kín nửa mặt. Hai con mắt nhỏ sáng, hau háu lấc láo đảo nhìn quanh hòm xe. Mụ cất tiếng khàn khàn hỏi:
- Ngủ cả rồi à?... Có ai còn thức không?...
- Tôi. Tôi còn thức đây. - Anh chàng hiệp sĩ lên tiếng - Bà đến đòi nợ ai đấy? Bà nhầm nhà rồi.
- Không. Tao đi tìm thằng hiệp sĩ gỗ. Mày có biết nó đâu không?
- Tôi đây. Tôi là hiệp sĩ gỗ đây.
- À...
Mụ đàn bà giơ ngọn đèn soi lên mặt anh chàng hiệp sĩ gỗ, khẽ reo lên:
- Mày là hiệp sĩ... Anh là hiệp sĩ đấy.
- Vâng.
- Tôi đi tìm anh từ chập tối... Ai biết ông lão lại trọ mãi tận đây... Anh có biết đêm nay tôi tìm anh có việc gì không?...
Mụ yên lặng nhìn anh chàng hiệp sĩ, những nếp răn ở đuôi hai con mắt nheo lại. Mụ cười:
- Mày thì biết thế nào được, tao là bà tiên đây. Cuối năm tao xuống trần gian để giúp đỡ muôn loài. Tao biết mày vẫn thích thành người. Cho nên hôm nay tao đến đây phù phép cho mày thành người thật.
Anh chàng hiệp sĩ bàng hoàng cả người. Anh không biết trả lời thế nào. Sự việc đến với anh đột ngột quá, anh bối rối, ngờ vực. Anh không dám tin lời mụ già nói là thật. Mụ già ấy lại hỏi:
- Thế nào mày nói lên chứ. Mày có... anh có muốn làm người không? Ta là bà tiên thật đây mà, ta không nói dối đâu.
- Bà là bà tiên thật ư?...
Anh chàng hiệp sĩ gỗ khe khẽ hỏi lại, giọng anh run lên vì cảm động.
- Thưa bà tiên, vâng, từ lâu tôi vẫn ao ước thành người...
- Thế thì ta sẽ cho anh thành người. Ta sẽ cho cả thanh gươm gỗ của anh thành thanh gươm thật. Một thanh gươm quý chém sắt như bùn, chém rụng đầu người không kịp dây máu. Ha ha anh sẽ ở với ta. Ta sẽ cho anh một con ngựa hồng. Anh cưỡi con ngựa hồng, đeo thanh gươm báu đi suốt dọc hai bờ con sông thị trấn này: chỗ nào có vườn cam, vườn quýt ấy là của ta, anh sẽ thu về cho ta. Anh muốn bạc vàng, có bạc vàng, anh muốn có châu báu được châu báu...
- Không! Không, thưa bà... - Anh chàng hiệp sĩ vội ngắt lời mụ già - Tôi muốn làm người không phải để cưỡi ngựa hồng, đeo gươm quý, không phải để có được nhiều bạc vàng, châu báu. Bà tiên ơi! Bà hãy quay đầu lại nhìn ra gốc cây đa ngoài kia mà coi... Đấy! Ở trong cái hốc tối như miệng một cái cửa ngục ấy đêm đêm tiếng rền rỉ, khóc than đưa ra ai oán, thê thảm lắm. Ở dưới có ông già mù cả hai mắt, có những người què quặt, đói rét, có bà mẹ trốn nợ đêm ba mươi, phải cởi trần lấy áo ủ cho con, và đứa con thì chờ tết để được về nhà, được ăn bánh, chơi tranh và mặc áo mới... Bà ơi! Bà tiên ơi... Tôi làm người, tôi sẽ mang thanh gươm của tôi đi, tôi sẽ diệt trừ hết những quân cường bạo, những đứa gian tham. Tôi sẽ diệt trừ chúng nó như ông lão chủ tôi diệt trừ những con gián, con mọt ghê tởm làm hại loài rối chúng tôi. Bà tiên ơi! Tôi muốn rằng trên mặt đất sẽ không còn có người mù lòa tàn tật, không còn có tiếng than vãn, khóc lóc. Không có người ốm, không có người chết. Trẻ em có áo mới mặc ngày tết, người già mùa rét có chăn đắp, mẹ con được thương yêu nhau ở dưới mái nhà ấm cúng của mình... Thưa bà tôi sẽ...
Anh chàng hiệp sĩ gỗ nói rất say sưa. Anh nói với tất cả những mong mỏi, khao khát bấy lâu của lòng mình. Còn mụ già lại rũ xuống mà cười, mụ cười khành khạch, khành khạch.
Dứt cơn cười, mụ nhìn anh chàng hiệp sĩ lắc lắc cái đầu, có vẻ thương hại:
- Mày!... Mày, cái thứ bằng một mẩu gỗ mọt ấy cũng dám có những ý nghĩ ngông cuồng đến thế ư?... Nhưng thôi cũng được. Tao cũng cho mày làm người. Ui chao ơi! Sao cái bọn trẻ ranh chúng mày đứa nào cũng giống nhau thế. Đứa nào cũng mơ tưởng những là thế này thế nọ... Rồi đấy! Mày sẽ biết. Tao cũng cầu giời khấn phật mong cho mày giữ được những lời mày nói... Thôi bây giờ thì tao hóa cho mày thành người thật biết không. Nhưng mày phải hứa với tao, mày phải thề trước mặt tao rằng thành người rồi, việc trước tiên là mày phải giết một người...
- Phải giết một người?
- Ừ. Phải giết một đứa con gái.
Mụ già nhìn chằm chặp vào mặt anh hiệp sĩ. Hai mắt mụ nhỏ lại, trong suốt.
- Thưa bà, vì sao tôi lại phải giết người?
- Vì sao à? - Mụ già hỏi lại - Vì... vì có giết một người thì tao mới lấy hồn nó cho mày được. Nếu không mày chỉ sống được đến gà gáy thứ nhất mày sẽ trở lại kiếp gỗ. Vì tao là bà tiên. Mày nhớ tao là tiên chứ? Tao thấy đứa con gái ấy là một đứa gian ngoan ghê gớm. Nó đã giết mẹ nó đấy, cho nên phải trừng trị nó. Thế nào? Mày có dám giết nó không?
Mụ cười khẩy:
- Tao nghe mày nói làm người, mày sẽ mang thanh gươm của mày đi làm những cái gì gì ghê gớm lắm, thế mà giết một đứa con gái cũng không dám kia à?... Thôi, đây này. Một đằng làm người thật, và một đằng làm người giả, người gỗ thì...
- Thưa bà... - Anh chàng hiệp sĩ vội lắp bắp hỏi -Thưa bà đứa con gái ấy nó giết mẹ nó?...
- Ừ. Nó giết mẹ nó. Nó còn đang định giết cả em nó nữa kia đấy.
- Nó định giết cả em nó nữa?... Vâng. Tôi xin nhận.
- Thế thì mày phải thề trước mặt tao, mày thề đi. Mày phải thề rằng nếu mày không giết đứa con gái ấy thì sấm sét sẽ đánh chết mày. Mày sẽ lại trở về kiếp gỗ, muôn đời nghìn kiếp chỉ là một khúc gỗ mọt. Mày thề đi!
- Vâng. Tôi xin thề như vậy.
Mụ già gật gù cái đầu, mụ đặt cây đèn lên nóc hòm xe, nhắc anh chàng hiệp sĩ gỗ ấy ra khỏi cái đinh sắt, giơ lên. Tay kia mụ cầm chiếc quạt phẩy nhẹ vào mặt anh ba cái liền. Một luồng gió thơm ngát bay ra, tức thì hai con mắt khô cứng vẫn mở trân trân của anh chàng hiệp sĩ nhấp nháy, đảo qua đảo lại, môi mấp máy, và hai cánh mũi phập phồng thở ra những làn hơi ấm. Chân tay anh đã biết cựa quậy.
Mụ già đặt anh hiệp sĩ đứng xuống đất. Anh lảo đảo trên đôi chân còn run rẩy của mình. Từ đất bỗng chuyển lên một sức mới, anh rùng mình vươn lên, thở ra một tiếng thật dài, biến thành một người bằng xương bằng thịt cao lớn, vững chãi. Mụ già cầm lấy tay chàng hiệp sĩ kéo đi. Mụ nói như ra lệnh:
- Thôi, đi theo ta, mau!... 
III.
Mạ già ấy không phải là bà tiên. Mụ chính là một con mẹ phù thủy tai ác, nanh độc khét tiếng ở vùng này. Trong cái khu vực cây cối um tùm như rừng mụ ở, ít lâu nay lúc nào người ta cũng thấy có tiếng người kêu khóc thảm thiết đưa ra. Không ai biết mụ làm gì trong ấy, cũng không ai dám tò mò lại gần xem. Người ta sợ mụ thù, sợ như sợ một con rắn độc.
Từ lâu, mụ phù thủy vẫn có ý định giết một cô gái con chồng để chiếm đoạt gia tài. Mỗi năm mùa xuân đến, cô gái nhớn lên thêm một tuổi, thì cái ý nghĩ giết con chồng lại càng quyết liệt thêm trong người mụ. Mụ đã sai một người vú già đánh thuốc độc cho cô gái ấy chết. Nhưng người vú già trung hậu đã không giết cô, bà lão báo cái tin ghê gớm ấy cho cô biết, và trốn đi. Từ đấy, mụ phù thủy giam cô gái vào cái lẫm thóc ở cuối vườn. Những tiếng kêu khóc thảm thiết mà người ta vẫn nghe thấy chính là tiếng khóc của cô gái tội nghiệp ấy.

Đêm nay là đêm ba mươi tết rồi, chỉ còn có một lúc nữa thì bắt đầu một năm mới. Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu tin tưởng của bao nhiêu con người trên mặt đất này đều đặt ra trong cái phút thiêng liêng ấy. Ở trong lẫm thóc, cô gái cũng thôi không khóc nữa. Cô khóc đã nhiều rồi, nước mắt không thể cứu cô ra khỏi chốn này. Và trong bóng tối chờ đợi của đêm giao thừa, cô bỗng nảy ra nhiều ý nghĩ lạ lùng. Cô nghĩ rằng: trong mênh mông của đất trời, mùa xuân đang lần lần bước tới. Mùa xuân đến sẽ mang lại hạnh phúc cho muôn loài. Cây cối khô cằn sẽ đâm chồi nẩy lộc. Hoa nở, chim hót, bướm bay và người người vui mừng hớn hở đón mùa xuân vào cuộc đời của mình. Mùa xuân đến hạnh phúc tràn đầy như vậy, cô không thể chết héo trong cái lẫm thóc tối tăm, lạnh lẽo này được. Cô nghĩ, có lẽ lúc ấy sẽ có người đến để cứu cô. Một bà tiên nhiều phép nhiệm màu. Một ông Bụt... - Ngày xưa, trong truyện Tấm Cám, Bụt đã hiện lên cứu cô Tấm vì bị mẹ ghẻ hành hạ, thì cảnh cô bây giờ Bụt cũng hiện lên cứu cô ra khỏi chốn này - một ông Bụt hiền từ, chống gậy tầm sích đến với cô, làm sáng rực cả lẫm thóc. Cô sẽ quỳ xuống dưới chân Bụt kể lể hết nỗi oan khổ của mình. Bụt sẽ dịu dàng nói: “Con ơi! Ta đã biết hết nỗi khổ của con rồi. Đêm nay ta đến cứu con đây”. Và Bụt chống mạnh cây gậy tầm sích xuống đất, tức thì muôn đạo hào quang từ cây gậy thần phát ra phá tan cả cái lẫm thóc vẫn giam hãm cô.
Cô gái bỗng hốt hoảng vùng dậy. Từ phía cửa, không biết vì sao, khóa và xích bỗng rơi xuống loảng toảng, rồi cánh cửa bật tung ra. Ánh sáng từ ngoài rọi vào trong cái lẫm thóc tối. Trong ánh sáng của cây đèn, bóng một người hiện ra. Không phải là một bà tiên, cũng không phải là Bụt, mà là một chàng trai trẻ mắt sáng như sao, mũi thẳng, cằm vuông. Đầu đội khăn võ sinh màu nguyệt bạch, mình bận chiến bào lục anh vũ, chân đi ủng tía. Trên lưng cài một thanh kiếm có thắt dải lụa hồng bay phơ phất.
Trong cái cảnh tăm tối ở đây, những áo quần màu sắc ấy, rỡ ràng hẳn lên.
Cô gái sững sờ nhìn chàng trai trẻ cầm cây đèn đĩnh đạc bước vào, cô bàng hoàng tưởng như đang ở một giấc mộng đẹp đẽ nào. Người đời làm gì có người ăn mặc rực rỡ, kỳ lạ như thế kia. Đi đứng oai nghiêm đĩnh đạc như thế kia. Có lẽ đây là người mà tiên, Bụt cho xuống cứu mình? Cô vội sửa lại mái tóc chạy ra đón.
- Anh! Anh là ai?
- Tôi là hiệp sĩ.
- Anh là hiệp sĩ? Trời ơi...
Trong lòng cô gái bỗng sáng rực lên những niềm vui tin.
- Anh là hiệp sĩ? Có phải anh đến cứu tôi đấy không?
- Không, tôi đến giết cô.
Mặt anh chàng hiệp sĩ nghiêm lại. Anh nói rành rọt từng tiếng.
- Không! Không! Tôi không thể tin được anh lại giết tôi.
Anh chàng hiệp sĩ đặt cây đèn lên bệ, rút thanh gươm ra, tiến lên một bước, dằn giọng:
- Vì sao cô lại tin tôi không giết cô? Có phải rắn rết ở trong lòng cô đang hiện ra trong những lời nói khôn ngoan ấy không?
- Không! Không phải thế đâu. Tôi không thể nào tin anh lại giết tôi được vì rằng tôi trông anh...
Người con gái ngước mắt lên nhìn chằm chằm vào anh chàng hiệp sĩ. Hai mắt cô gái to và đen láy. Hai con mắt ấy bỗng vụt sáng lên, như chợt nhận thấy một điều gì vui sướng. Cô vội chạy lại gần anh chàng hiệp sĩ, mừng rỡ nói:
-Tôi trông anh quen lắm... Phải rồi, tôi quen anh đã chín mười năm nay, từ hồi tôi hãy còn để chỏm. Tôi trông anh giống như một con rối của ông lão múa rối rong, cứ đến cuối năm lại về đây diễn trò. Một con rối chuyên đóng vai hiệp sĩ cứu đời. Anh cũng là hiệp sĩ. Đây này, cái khăn đội cũng màu nguyệt bạch. Cũng áo chiến bào lục, đôi ủng tía. Và, thanh gươm. Thanh gươm cũng có dải lụa hồng buộc ở chuôi, như thanh gươm anh đang cầm ở tay kia. Trời ơi! Sao anh giống con rối ấy thế. Từ bé xem múa rối, tôi đã yêu thích, mến phục con rối ấy lắm. Thật là một con rối anh hùng, mỗi khi nó vung thanh gươm của nó lên thì mọi sự bất công, ngang trái đều được san bằng, người ngay thẳng trung hậu được giúp đỡ, đứa hung ác, gian tham phải trị tội. Tôi chưa từng thấy con rối ấy giết người hiền lành ngay thẳng bao giờ. Vì vậy tôi không thể nào tin anh lại giết tôi. Anh hiệp sĩ ơi!... Tôi không thể nào tin được.
Anh chàng hiệp sĩ thấy bối rối. Những lời nói chân thành của cô gái làm xúc động lòng anh. Trong óc anh bỗng hiện lên rất nhanh quãng đời còn làm con rối của anh khi trước. Anh nhớ từng tích, từng việc rất rõ. Anh nhớ anh đã giết những loại gian ác, hùm beo, yêu quái; và anh đã cứu được bao nhiêu cô bé, bao nhiêu ông già, bao nhiêu chú thỏ hiền lành ngây thơ... Giọng nói và nét mặt còn trẻ măng của cô gái đứng trước mặt anh kia, không phải là giọng nói và nét mặt kẻ có tội. Những đứa có tội thì tội ác đeo trên mặt nó. Nó không thể giấu được. Đúng rồi, trong quãng đời còn làm con rối, anh chưa giết một người nào như thế này.
Thanh gươm anh đã giơ lên, bỗng lại từ từ hạ xuống. Anh hỏi cô gái:
- Nhưng sao có người lại nói với tôi rằng cô đã giết người.
- Có người bảo rằng tôi giết người?
Hai mắt cô gái tròn lên, kinh sợ.
- Phải, một bà tiên bảo tôi rằng cô đã giết mẹ. Cô còn định giết cả em cô nữa.
- Tôi mà giết mẹ tôi? Trời ơi! Sao lại có chuyện lạ như vậy? Một bà tiên bảo anh?... Thôi, thôi anh nhầm rồi. Anh mắc lừa rồi. Không phải là tiên đâu. Mẹ ghẻ tôi đấy...
Nước mắt người con gái tràn ra chảy ròng ròng trên má. Anh chàng hiệp sĩ bỗng rùng mình, có một cảm giác rất lạ. Một cảm giác mà khi là gỗ anh không thấy. Một cảm giác làm anh bồi hồi, lo lắng đang chạy rồn rập trong lồng ngực anh. Anh trông thấy nước mắt. Lần đầu tiên anh trông thấy nước mắt, mà lại là nước mắt của một cô gái ngây thơ, hiền hậu chảy ra. Anh thấy hình như yếu đuối, hình như những ý chí chiến đấu trong người bấy lâu bị hụt đi. Anh bỗng quát lên để trấn áp lòng mình:
- Mẹ ghẻ cô?...
- Vâng, mẹ ghẻ tôi. Bà ấy là một mụ phù thủy. Bà ấy vẫn có cái quạt phép che nửa mặt... Bà ấy đã giết mẹ tôi, và còn đang định giết tôi để chiếm đoạt cái gia tài này... Anh hiệp sĩ ơi! Anh có biết vì sao tôi bị giam hãm ở đây không? Anh thử nghĩ xem ở cảnh đời này, một người làm nên tội ác, có bao giờ giữa đêm ba mươi tết này lại bị giam cầm trong cái lẫm thóc bỏ hoang tăm tối này không?
Anh chàng hiệp sĩ nín lặng, cúi đầu suy nghĩ. Những lời cô gái nói, anh thấy là có lý. Phải rồi, những kẻ làm nên tội ác nhất định không ở cái chốn tối tăm tồi tàn này, cũng như những người rên rỉ ở dưới gốc đa trước nhà anh trọ, những người ấy nhất định không làm nên tội ác.
Vậy thì anh nên xử trí thế nào? Nên giết, hay nên tha cho cô gái? Chao ôi! Việc của người đời, anh mới bước chân vào, sao lắm nỗi éo le, khó hiểu làm vậy? Bỗng anh quay người chạy vút ra ngoài bóng tối. Ở trong một cái miếu nhỏ gần đấy, mụ phù thủy đang ngồi thu mình dưới ngọn đèn xanh như hạt đỗ. Nghe tiếng chân người thình thịch đi ra, mụ đằng hắng hỏi:
- Xong rồi chứ?
Anh chàng hiệp sĩ đã đứng trước mặt mụ phù thủy, anh nói:
-Tôi không thể giết người con gái ấy được!
- Vì sao không giết?
Mụ vặn to ngọn đèn lên, nhìn anh chàng hiệp sĩ một cách dữ tợn.
- Tôi không giết, vì tôi không thể nghe lời một mụ phù thủy độc ác...
Mặt mụ phù thủy tức thì xám đen lại, rồi trắng bệch ra. Hai con mắt mụ xanh lè chiếu thẳng vào mắt anh chàng hiệp sĩ. Mụ nhìn anh rất lâu, bỗng mụ cười lên khành khạch, khành khạch. Mụ cười nghe như hai miếng xương khô cọ vào nhau.
- Mày không giết nó? Mày còn nhớ những lời mày thề trước mặt tao chứ?
Mặt mụ sắt lại và tất cả những nếp răn đều co rúm vào nhau như miếng vỏ cây khô.
- Phải, tao là phù thủy đây. Một con mụ phù thủy độc ác giết người đây. Ừ, phải rồi. Tao mượn tay mày giết nó đấy! Mày có giết nó không? Nếu mày không giết nó tao sẽ bắt mày trở về kiếp gỗ. Mày sẽ mục nát ra ngay ở trong cái miếu này, mày không về nổi cái hòm gỗ của mày mà múa may quay cuồng nữa đâu!
Tiếng mụ phù thủy nanh ác, tàn nhẫn. Mụ không cần giấu diếm việc mụ làm. Mụ nhận mụ là đứa gian ác. Anh chàng hiệp sĩ rùng mình. Đầu óc anh quằn lên những ý nghĩ đen tối, không dứt khoát. Bên tai anh vẫn nghe văng vẳng tiếng khóc của ông lão mất chó. Tiếng mẹ con em bé trốn nợ trong gốc đa. Anh giết cô gái hay trở về kiếp gỗ?
- Mày ngu dại lắm. Mày tưởng mày không giết thì con bé ấy nó sống được à? Mày không giết thì đứa khác giết. Tao giết, nó cũng phải chết. Còn mày, mày làm được cái gì lúc ấy? Mày cũng đã tự chết tám đời rồi, mày là khúc gỗ mục, biết chưa?
Mụ bỗng thở hắt ra một tiếng dài ngao ngán:
- Chao ôi! Tao vẫn tưởng mày là đứa chí khí kia đấy. Ai ngờ chỉ vì một đứa con gái mà mày bỏ lão ăn mày mất chó, mày bỏ mẹ con cái đứa trốn nợ, mày bỏ hết cả chí khí của mày.
Mụ ngừng lại nhìn anh chàng hiệp sĩ một giây, lại tiếp. Giọng mụ bỗng dịu hẳn xuống, khuyên lơn, ve vuốt:
- Mày tưởng rằng con bé ấy đã khổ sở lắm hay sao! Ở trên đời này những đứa như nó kể có hàng trăm hàng nghìn. Mày phải có can đảm bỏ qua cái khổ này đi, thì mới cứu được hàng trăm hàng ngàn cái khổ khác. Thôi vào đi! Vào giết nó đi! Tao đợi ngoài này...
Anh chàng hiệp sĩ càng bối rối, sợ hãi. Anh biết đấy là những lời ma quái cám dỗ, vậy mà dường như anh không cưỡng lại được, dường như có lý. Anh biết rằng mình không trấn tĩnh nổi lòng mình nữa rồi. Tiếng mụ phù thủy bỗng quát lên:
- Vào! Đi vào! Chần chừ gì nữa!...
Tiếng quát đàn áp tinh thần anh chàng hiệp sĩ. Anh như bị đẩy đi bởi một áp lực ma quái. Anh đi thất thểu vào trong cái lẫm thóc. Hai mắt đỏ ngầu ngầu. Anh nắm lấy tay cô gái, nghiến răng rút thanh kiếm ra.
Cô gái bỗng quỳ xuống, khóc rưng rức:
- Vâng, tôi xin chết. Tôi xin vui lòng chết dưới lưỡi gươm của anh. Ở trong này tôi đã nghe hết những lời mẹ ghẻ tôi nói với anh rồi. Thì ra anh chính là con rối mà tôi mến phục từ hồi còn bé. Anh hiệp sĩ ơi! Anh muốn làm người để cứu giúp những người nghèo khổ, hoạn nạn, như anh đã từng cứu giúp ở trong hòm múa rối khi xưa. Vâng, tôi xin vui lòng chết, để anh sống, anh làm những việc lớn lao, đẹp đẽ mà tôi thường mơ ước. Anh chém tôi đi! Vâng. Anh chém tôi đi...
Anh chàng hiệp sĩ bỗng thở dài buông thõng tay xuống. Anh xấu hổ. Anh thấy anh không xứng đáng với tấm lòng tin cậy, cao cả của cô gái. Trong một lúc anh vụt nghĩ đến những con mắt của những người bạn trẻ vẫn xem anh diễn trò ở các chợ. Những con mắt lay láy, tin cậy, mến phục anh. Những con mắt ấy nếu chúng nhìn thấy anh vung gươm lên giết cô gái trong trắng, hiền hậu này thì sẽ như thế nào? Những con mắt mãi mãi dõi theo việc làm của anh. Đầu óc anh chàng hiệp sĩ bỗng vụt sáng lên một cách kỳ lạ. Anh cúi xuống, nâng cô gái dậy:
- Tôi không thể giết cô được. Thanh gươm của tôi chỉ để cứu người ngay thẳng trung hậu. Đêm nay tôi sẽ đưa cô ra khỏi cái lẫm thóc tối tăm này...
- Không! Anh hiệp sĩ ơi! Anh đưa tôi ra khỏi cái lẫm thóc này sao được. Mụ phù thủy sẽ thu hồn anh.
- Mụ không thể thu được hồn tôi. Tôi chỉ mất hồn khi tôi làm những điều trái với lương tâm tôi... Thôi ta ra khỏi chốn này, mùa xuân đang chờ chúng ta ở ngoài kia.
Anh chàng hiệp sĩ cầm tay cô gái dắt ra khỏi lẫm thóc. Tiếng pháo giao thừa bỗng nổ ran lên. Rồi tiếng trống động thổ ở các đền, các chùa cũng ầm ầm nổi theo.
Trong tiếng pháo, tiếng trống, tiếng mụ phù thủy rống rít lên:
- Thằng hiệp sĩ kia! Thằng vong ơn bội nghĩa kia! Mày dám phản tao à? Mày phải chết!
Mụ xòe cái quạt đánh phạch:
- Tao sẽ thu hồn mày vào trong cái quạt này.
Anh chàng hiệp sĩ cũng rút gươm, tiến lên. Anh nhìn thẳng vào mặt mụ phù thủy dõng dạc nói:
- Thanh gươm này chưa bao giờ biết sợ những lời dọa nạt của những kẻ gian ác.
Mụ phù thủy cười gằn, mụ giơ chiếc quạt phẩy nhẹ một cái. Một luồng gió bay ra thổi vào mặt anh chàng hiệp sĩ lạnh buốt.
Anh chàng hiệp sĩ vung gươm lên đón đỡ. Nhưng hơi gió từ cái quạt thổi ra mỗi lúc một dữ dội. Tiếng gió cứ rít lên quấn lấy người anh chàng hiệp sĩ. Anh bỗng rùng mình, tiếng mụ phù thủy vừa cất lên quái gở:
- Ba hồn bảy vía thằng hiệp sĩ ở đâu thì về mà chịu tô ộ ội!... Về ngay... Ba hồn bảy vía...
Mặt anh chàng hiệp sĩ tối sầm lại. Tay chân anh bủn rủn. Anh thấy hình như sức sống trong người anh bị rút đi. Và anh ngã khuỵu xuống, một bên chân anh liệt hẳn, giá lạnh, bấm không biết đau nữa. Hình như nó đã thành gỗ rồi.
Anh chàng hiệp sĩ gỗ hốt hoảng vùng đứng lên, nhưng anh lại ngã khuỵu xuống. Đúng cái chân anh thành gỗ rồi.
Mụ phù thủy đã tiến lại gần anh. Mụ vẫn hú lên những tiếng hú ghê rợn:
- Ba hồn bảy vía thằng hiệp sĩ... Ở đâu thì về mà chịu tội..., nhá á á...
Người anh chàng hiệp sĩ như nhẹ đi, mệt mỏi rã rời, anh đỡ gạt luống cuống. Thôi con mụ phù thủy sắp hại anh rồi. Anh sắp lại trở về kiếp gỗ và chết mục trên miếng đất này.
Xung quanh tiếng pháo mừng đón mùa xuân vẫn nổ liên tiếp. Tiếng pháo như không bao giờ ngừng. Anh chàng hiệp sĩ bỗng nhớ lại những lúc anh đánh nhau với kẻ thù ở trong cái hòm gỗ trước kia. Anh nhớ lại những tiếng hát của ông lão múa rối khuyên lơn, khích lệ anh những khi anh chán nản, yếu đuối: “Khi ta thấy tình thần ta yếu đuối, thì chính sự yếu đuối ấy sẽ đè chết ta; vượt qua được, ta sẽ thắng được quân thù...”
Mụ phù thủy đã đứng trước mặt anh chàng hiệp sĩ, mụ trỏ ngược cái giáo quạt vào mặt anh, nheo một bên mắt cười:
- Mày thử đứng lên tao xem nào. Mày không đứng lên được nữa đâu. Chân mày thành gỗ rồi. Hừ, trứng chọi sao lại được với đá! Tao chỉ phẩy nhẹ một cái nữa thì cả người mày trở về kiếp gỗ, thanh gươm mày đang cầm ở tay kia cũng thành gỗ nốt.
Mụ ngừng lại, nhìn anh dằn giọng:
- Nhưng tao cũng rộng phép cho mày nghĩ lại. Nếu mày quay gươm giết con bé khốn kiếp kia, thì tao sẽ tha cho mày.
- Tha cho tao à? Ha ha ha ha...
Anh chàng hiệp sĩ cười lớn. Lòng khinh thị và căm tức làm anh bật cười. Tiếng cười đầu tiên của một con rối bằng gỗ đã thành người. Tiếng cười của một con người thực có mặt ở cuộc đời. Tiếng cười cứ rung lên sang sảng như tiếng nhạc đồng, và làm sáng sủa cả cái không khí u uất ghê rợn lúc bấy giờ. Tiếng cười tự đáy lòng anh chàng hiệp sĩ phát ra, chuyển cho anh một sức sống mới, tan biến mọi sự yếu đuối đang đè trĩu trên người anh.
Con mẹ phù thủy bỗng lùi lại, lùi lại... Tiếng cười đuổi theo làm mụ hoảng sợ. Mụ đã từng giết nhiều người. Mụ chưa thấy một người nào như vậy. Trước cái chết mụ chỉ thấy người ta khóc lóc van xin. Anh chàng hiệp sĩ này đứng trước cái chết lại cười. Thật là ghê rợn đối với con mẹ phù thủy.
“Thắng được sự yếu đuối, ta sẽ thắng được quân thù”. Tiếng cười đã thắng được sự yếu đuối trong người anh chàng hiệp sĩ. Anh hét lên một tiếng, chuyển hết gân cốt vung gươm, đứng dậy. Những chỗ tê bại trên người anh vụt biến đi. Anh vũ động thanh gươm cuốn lên, lấp loáng như một cơn lốc. Anh đã dùng đến những đường gươm bí hiểm nhất mà trước kia chỉ khi nào đánh nhau với yêu ma, hổ báo anh mới dùng đến.
Trong tiếng pháo giao thừa và tiếng trống động thổ như tiếng trống trận, một đường gươm loáng lên như một ánh chớp cắt ngang những ý muốn độc ác của con mụ phù thủy. Cả người mụ đổ xuống.
Xung quanh tiếng pháo vẫn nổ ran trong các xóm làng, ấp trại. Lẫn có cả tiếng gà kéc ke gáy gọi ông mặt trời năm mới...
Một buổi sáng đầu năm, mưa phùn bay trắng trên thị trấn Bến Cam. Trên con đường đỏ sẫm lầy lội, ông lão múa rối rong ung dung đẩy cái xe bánh gỗ cọt kẹt từ trong phố đi ra.
Mấy đứa trẻ đang đánh đáo trong lều chợ nhìn ra trông thấy, chúng nó cùng reo lên, à à chạy ra đón. Một đứa cong cổ gọi:
- Cụ ơi! Cụ múa rối ơi! Cụ đã đi đấy à?
Ông lão múa rối ngửng mặt lên, toét miệng cười:
- Phải đi chứ! Ở đây mãi ai nuôi? Hì...
- Này cụ ơi! Cháu hỏi...
Ông lão dừng xe lại, và đám trẻ con tíu tít vây xung quanh.
- Cháu hỏi, sao mấy hôm hội chùa diễn trò rối không tích nào có anh hiệp sĩ?
- Anh ấy đâu? Anh ấy đâu hở cụ?
Đám trẻ con nhao nhao tranh nhau hỏi.
- Anh hiệp sĩ ấy à... Anh hiệp sĩ thì thì để sang năm làm con khác các cháu nhá. Sang năm làm một anh mới rõ thật đẹp...
- Sao lại làm anh mới? Làm mới còn kể gì nữa, chúng cháu không thích. Thế anh ấy đâu? Cụ bỏ anh ấy đâu rồi?...
Bị hỏi dồn, ông lão đâm ra lúng túng. Ông lão chặc lưỡi nói liều:
- Chậc, anh ấy hóa thành người rồi.
- Thành người à?
Đám trẻ con tròn cả miệng, cả mắt kêu lên:
- Thế anh ấy có đem thanh gươm đi không?
- Có chứ. Có đem thanh gươm đi chứ.
- Thích nhỉ. Tao gặp anh ấy tao đi theo ngay.
Lũ trẻ xuýt xoa. Ông lão múa rối lại đẩy cái xe đi. Cái xe cút kít in trên đường đất đỏ hai vệt bánh xe sâu hoẳm. Đám trẻ con đứng nhìn theo hút bóng ông lão đẩy cái xe trên con đường xa tít trước mặt.
Trước mắt các em lại hiện lên bóng dáng hùng dũng của anh chàng hiệp sĩ gỗ đầu đội mũ võ sinh màu nguyệt bạch, mình bận chiến bào lụa màu lục anh vũ, lưng thắt dây văn võ màu xanh, chân giậm ủng tía, trên lưng cài một thanh kiếm phơ phất dải lụa hồng.
Ông Cản Ngũ
Năm ấy hội vật đền Đô vào đám to, tiếng đồn bay dậy khắp mọi miền xứ Bắc, chính vì có tin ông Cản Ngũ về phá giải. Các sân vật, các tay đô vật, những người ham thích xem vật, đâu đâu cũng nghe bàn bạc, sôi nổi về ông Cản Ngũ.
Cản Ngũ là cản ngũ tỉnh. Năm tỉnh đường ngoài xứ Bắc, ông là vô địch. Vì vậy ông Cản Ngũ còn có tên là ông Cản Bắc.
Năm ấy ông Cản Ngũ đã đứng tuổi rồi. Người ta xì xào bảo nhau rằng ông là một ông tướng thân cận của quan Tán Bãi Sậy lâu nay vân giả dạng đi vật, chu du khắp chốn thiên hạ để tuyển mộ những người tài, mạnh, nghĩa khí, kết làm anh em đồng sinh, đồng tử, xung vào đội nghĩa binh đánh giặc, cứu nước.
Từ hôm có tin ông Cản Ngũ về phá giải hội vật đền Đô, nhà cụ Cả Lẫm ở thôn Đình Tràng ngày nào cũng dập dìu ba bốn chục người khách lạ. Họ toàn những tay đô lão luyện, anh tài của các sân vật nổi tiếng quanh vùng đến hội tụ, bàn bạc cách đối phó với ông Cản Ngũ.

Ai cũng biết, người vào vật đầu tiên với ông Cản Ngũ nhất định là Quắm Đen rồi. Sức mạnh và tài đởm của Quắm Đen không còn phải bàn gì nữa. Mấy năm liền Quắm Đen vẫn chiếm giải nhất ở vùng này. Các đô đều vì nể. Quắm Đen to trùi trũi như con trâu mộng. Anh ta khỏe lắm. Gánh lúa của anh bao giờ cũng to, nhiều gấp đôi ba lần người khác. Anh có thể vật suốt ngày không biết mệt. Anh là học trò yêu của cụ Cả Lẫm, được cụ truyền dạy cho nhiều thế đánh bí truyền và những đức tính cần thiết của một người đô vật đàn anh khi giao đấu với những địch thủ lợi hại.
Thế nhưng, Quắm Đen thua ông Cản Ngũ thì ai sẽ vào “theo keo”? Cái khó của các ông đô vật vùng này là chỗ ấy.
Mấy gian nhà khách, mấy ngày đêm liền, lúc nào cũng nghe ồm ồm tiếng bàn cãi. Các tay đô vừa uống rượu, vừa nói. Mặt người nào cũng đỏ phừng phừng. Người nào nom cũng to lớn dữ tợn.
Những lúc bí quá, đã có người bàn đến nước cố cùng là, nếu Quắm Đen bị ông Cản Ngũ đánh ngã thì tất cả các đô trong hàng tỉnh, mỗi anh một chiếc đòn gánh mấu liền cứ thế xông vào mà đánh. Đánh cho bàn dân thiên hạ không thể xem thường đô vật tỉnh Bắc được. Đánh cho ông Cản Ngũ cũng phải kiềng mặt.
Cái ý xằng bậy ấy bị cụ Cả Lẫm nghiêm khắc gạt bỏ đi ngay. Cụ bảo rằng: ông Cản Ngũ không phải là người dễ đánh! Mà gia dĩ có đánh được người ta, cũng không hay ho gì, đẹp đẽ gì cho các sân vật tỉnh mình.
Tý Trâu là con trai út cụ Cả Lẫm. Mấy hôm nay, nhà đông khách, chàng ta được bố phân cho các việc lặt vặt, nước nôi, điếu đóm. Suốt ngày chàng ta chỉ quanh quẩn trên nhà khách hóng chuyện.
Tuy chưa được tập luyện thực sự, nhưng xem các bác, các chú “tắm vật” hàng ngày, Tý Trâu học được khối miếng. Tý Trâu vật rất giỏi, rất khỏe. Tất cả bọn chăn trâu đều bị nó vật ngã. Nó vật ngã cả bò, vật ngã cả trâu, làm gì không vật ngã ông Cản Ngũ! Nó nghĩ bụng, đến hôm này ra sới không ai dám vào theo keo nó sẽ vào vật ông Cản Ngũ cho mà xem. Phục thì phục quý thì quý, nhưng lúc này ông Cản Ngũ là đối thủ của tỉnh mình thì cũng phải vật ngã ông ấy một keo cái đã.
Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Ai ai cũng náo nức muốn được xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau, quây kín quanh sới vật; nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần đấy xem cho rõ.
Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đó rực. Các đô trong tỉnh cởi trần, đóng khố ngồi hai bên sới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đậu trắng, cạp điều. Ông ngồi một mình một chiếu; người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt, nhác trông không khác gì tượng hai ông tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn màu xanh lục giữ tóc, mình trần, đóng khố bao khăn vát. Ông ngồi ung dung ăn trầu uống nước, nói chuyện với mấy ông đàn anh trong dân xã các ông đô sở tại.
Sau những keo vật thờ múa lộn thật đẹp mắt và sau những keo “khảo lèo” những đô khố bẹ; Quắm Đen bước ra sới, xốc lại mảnh khố nhiễu xanh, tiến lên thềm tam quan đền, giơ bàn tay thô, vụng vuốt dài lên mấy vuông nhiễu giải nhất, miệng cười rất tươi.
Đó là dấu hiệu riêng của các đô trước khi vào đấu. Dấu hiệu tỏ ra cho mọi người biết, giải này mình vào phá và sẽ thuộc về mình. Nó là dấu hiệu thách thức, quyết đánh.
Ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa sới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm.
Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hóa khôn lường.
Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt. Cứ nghĩ tưởng Cản Ngũ thì phải thế nào chứ, đánh chác thế kia. “Chẹp!” Chán quá. Ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên.
Người xem bốn phía xung quanh reo ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khỏe bằng voi thì cũng phải ngã.
Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. Ông đứng như cây trồng giữa sới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi chân ông Cản Ngũ lên. Cái chân tựa như bằng cây cột sắt chứ không phải là chân người nữa.
Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy.
Các đô ngồi quanh sới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. Người ta đánh mình, co không bằng đánh với một đứa trẻ con! Quắm Đen, một tay đô tài mạnh bậc nhất trong hàng tỉnh mà còn bị đánh thua như vạy thì còn ai là người theo keo đánh nổi được ông Cản Ngũ? Họ đều cắn chặt môi lại mà thở dài.
Buổi tối hôm ấy, trong mấy gian nhà khách nhà cụ Cả Lẫm lại ồn ồn tiếng các đô bàn cãi. Tiếng bàn cãi cùng lúc càng xô xát, dữ tợn.
Một ông đô già móm mém đứng lên, xin nói. Ông lão nói nhỏ nhẻ, đà đận như một ông quan viên, đứng nói giữa ngày hội làng.
- Thưa... có đông anh em các đô hàng tỉnh, tôi xin có một đôi nhời...
Ông lão ngừng lại, đằng hắng một tiếng.
- Ông Cản Ngũ tuy thị là tay đô kỳ tài thật. Nhưng tài là tài ở đâu kia, ở ta đây không phải là không có người đánh được ông ấy. Nhất định là đánh được ạ. Tôi xin cam đoan với các chư vị hàng đô ta như thế.
Ông lão túm tỉm, móm mém liếc nhìn mọi người. Cánh đô trẻ sốt ruột giục ầm ầm:
- Ai? Nhưng mà ai mới được chứ?
- Ai thì cụ cứ nói toạc móng heo ra! Tôi xin hỏi: ai đánh nổi ông Cản Ngũ nào?
Ông cụ đô móm hể hả đưa một bàn tay ra chặn người vừa nói:
- Ấy, ấy... Thong thả, cứ để thong thả cái đã nào... Việc này tuy thị cũng dễ thôi, nhưng lại cũng rất ư là khó khăn cơ đấy...
Một tay đô nóng nảy đứng phắt lên, gạt đi:
- Thôi, chúng tôi biết rồi. Đánh ngã ông Cản Ngũ tỉnh này phi tay cụ Cả Lẫm ra, còn ai vào đây nữa!
- Đúng! Đúng! Ngoài cụ Cả Lẫm ra không còn ai đánh nổi ông Cản Ngũ! Chúng tôi đã nghĩ ngay từ hôm có tin ông Cản Ngũ về phá giải rồi kia. Nhưng thực tình chúng tôi cũng ngại. Không biết cụ Cả Lẫm có nhận lời không?
Cụ Cả Lẫm tủm tỉm cười, lắc đầu nói nước đôi với mọi người:
- Tôi bây giờ như con trâu đã về già rồi, biết rằng gân cốt có còn được như trước nữa không?
Nói vậy nhưng cụ Cả Lẫm cũng đã nghĩ như mọi người. Trong hàng tỉnh, ngoài cụ ra, không còn ai có thể địch lại với ông Cản Ngũ được. Keo vật đánh ngã Quắm Đen khi chiều cụ càng thấy rõ điều ấy.
Cụ Cả Lẫm trước kia vốn là một tay đô mà các đô thời ấy đều gọi là ông trạng vật. Cụ đã từng đánh ngã hàng loạt các ông đô được xếp vào hàng đô ngự. Cụ có những ngón bí truyền như “tiện xương”, “rút gáy”, “chặt chân voi” v.v... là những miếng vật đến con cháu trong nhà, cụ cũng không muốn truyền lại, sợ tổn âm đức về sau. Tuy đã hơn mười năm không ra sới, tiếng tăm cụ vẫn lẫy lừng, các đô trong tỉnh đều kính nể, coi cụ như bậc thầy. Keo vật cuối cùng trong đời; cụ đánh ngã một ông đô già. Ông lão cũng là một tay đô tài mạnh lẫy lừng một thời, chỉ vì thanh danh của sân vật mình mà phải ra sới.
Đánh ngã ông đô già keo vật ấy, về nhà không hiểu sao cụ Cả Lẫm thấy trong lòng áy náy không yên, vừa thương thương, vừa tội tội. Từ đấy cụ không ra sới vật nữa. Nhưng lúc này, cái cảnh ngộ của cụ có khác gì cảnh người đô già cụ đánh ngã trước kia? Quắm Đen, anh học trò yêu của cụ đã bị ông Cản Ngũ đánh ngã rồi. Cụ không ra sới thì tai tiếng; còn hàng huyện hàng tỉnh. Mà ra sới thì... “Lưỡng hổ tương tranh”. Hai con hổ dữ tranh tài, một sống, một mái...
Vả nữa, ông Cản Ngũ vốn là một ông tướng nghĩa binh dưới cờ quan Tán, mượn danh đi vật để thu phục nhân tâm, lo toan việc nước. Đối với một người như thế, sự thắng bại, mất còn trong một keo vật, phỏng có nên chăng?
Đêm ấy khách khứa trong nhà ngủ yên đã lâu, cụ Cả Lẫm vẫn chắp hai tay sau lưng, đi lại một mình băn khoăn nghĩ ngợi dưới bóng trăng. Keo vật ông Cản Ngũ đánh ngã Quắm Đen vẫn không thể xóa khỏi được trong ý nghĩ của ông cụ. Nó là một keo vật lạ lắm, không thể coi là một keo vật bình thường được. Tư cách người đô vật đàn anh như ông Cản Ngũ, sao có thể nỡ đánh ngã một anh đô mới trỗi như Quắm Đen một cách tầm thường, bỉ thử như thế được. Nó là cách muốn làm nhục nhau!
Không, trong ý tứ keo vật này tất có điều gì bí ẩn đây. Ông Cản Ngũ về tỉnh này, nhất định không lạ gì cụ Cả Lẫm. Keo vật này là keo vật khiêu khích đây. Keo vật thách thức, keo vật gọi Cả Lẫm ra sới thi tài đây.
Đã là một người đô vật, không ai có thể từ chối sự thách thức như vậy được. Trong người ông cụ Cả Lẫm lại rạo rực bầu máu nóng của một anh đô tài ba và dày dạn, lọc lõi. Một ông đô, đã ra đến sới chỉ có quật ngã địch thủ.
Mặt trăng đã ngả chênh chếch về phía tây, ông cụ Cả Lẫm lẳng lặng đi ra vườn sau, thử lại gân sức. Cụ tiến lại bên bụi chuối, giơ một bàn tay chặt liền mấy cái, những cây chuối, bị tiện đại ra, đổ rạp xuống. Ông lão đứng tần ngần ngắm những cây chuối gãy một lúc, rồi lững thững đi lại phía những chiếc cối đá đại, thủng trôn vẫn dùng làm cối đập lúa để ở góc vườn. Ông lão xỏ vào mỗi bên tay một cái cối đá, thong thả đi quanh vườn cây. Ông lão đi như thế đủ ba vòng, rồi ung dung trở vào nhà đi nghỉ.
Nhưng, ông cụ Cả Lẫm vừa đi khỏi thì, từ trong một bụi cây tối, Tý Trâu đã chạy vút ra. Nó cũng chạy đến bên một bụi chuối, cũng giơ tay hăm hở chặt liền một lúc hàng chục cây chuối đổ xuống. Nó cũng xỏ cối đá vào hai cánh tay, mắm môi mắm lợi, cắm cổ chạy quanh vườn hàng chục lượt.
Từ lúc Quắm Đen bị ông Cản Ngũ đánh ngã, Tý Trâu cũng bồn chồn không yên. Nó cũng thấy uất ức, xấu hổ và lo lắng cho sân vật của vùng mình.
Đêm ấy cu cậu lục sục không sao ngủ được. Cứ chợp mắt đi, đã thấy vật nhau với ông Cản Ngũ...
Hôm nay là ngày giã đám rồi. Sau Quắm Đen vẫn chưa có người vào vật với ông Cản Ngũ. Chỉ còn từ giờ đến chiều là các sân vật tỉnh Bắc mất giải. Dưới mái tam quan, các bô lão, các ông quan viên, quan đám, các ông đô sở tại, chạy vào chạy ra thờ thẫn. Hội đám nhạt thếch. Trống vật thập thùng rời rạc, cầm chừng. Thôi, giải vật năm nay cầm chắc về tay người ngoài rồi.
Ông đô già cầm trịch đã đứng lên sửa soạn đánh một hồi ba tiếng trống hạ giải thì, một ông già từ ngoài sới, rẽ đám đông bước vào.
Cụ Cả Lẫm! Cả sới vật cùng reo lên. Các ông quan đám, quan viên, các ông chức dịch trong xã đều đứng cả dậy. Đúng là keo vật mà tất cả mọi người đang chờ đợi.
Cụ Cả Lẫm hôm nay nom oai phong, lẫm liệt như một lão tướng sắp ra trận. Ông cụ đứng giữa sới, râu tóc bạc phơ, mình trần, đóng một cái khố bao nhồi trấu bằng vóc vàng, xung quanh vắt hai tấm nhiễu xanh và nhiễu đỏ lòa xòa đến gối. Cả người ông lão chắc nịch, xù xì, gân guốc như một gốc đa cổ thụ.
Lên đài xong, hai ông đô già vào “bá tay tư”. Chỉ mới vào “bá tay tư” [1] thôi, cả sới bỗng đều như ngộp thở trước cuộc giao tranh sắp tới. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, ông Cản Ngũ đánh rất dè dặt. Hai ông đô vừa đánh vừa thăm dò ý tứ của nhau. Họ không bỏ sót ở nhau từng cử động nhỏ nào. Họ đề phòng nhau từng cái liếc mắt, cái rùng mình...
Tiếng trống vật bỗng dồn lên, càng lúc càng dồn lên mạnh mẽ. Keo vật đang từ thế thăm dò, dè dặt bỗng chuyển sang những thế đánh quyết liệt. Dồn lên, du xuống, quay tít quanh sới. Thực ra đấy vẫn chỉ là đánh để thăm dò. Chưa bên nào dám đánh đến hết miếng đánh của mình, vừa đánh vừa giữ thế thủ.
Cụ Cả Lẫm quả là một tay đô lão luyện, dầy dạn. Bao nhiêu đòn ông Cản Ngũ đánh sang, ông cụ đều đỡ gạt, tránh né, gỡ thoát một cách hết sức nhẹ nhàng. Cụ vẫn chưa đánh trả ông Cản Ngũ một đòn nào. Đột nhiên, cụ Cả Lẫm bỗng chao người đi, khuỵu một bên gối xuống, cả người cụ như một con thoi lao vút qua nách ông Cản Ngũ gánh lên. Nhưng ông Cản Ngũ đã kịp lùi lại một bước, thót người lại, vòng hai cánh tay to khỏe như hai con trăn đất, khóa chặt lấy gáy, lấy lưng ông cụ Cả Lẫm, lắc mạnh...
Keo vật đã đến lúc hư, thực khôn lường. Cả hai ông đô đều trổ hết tài nghề ra để hạ nhau. Bốn bề chỉ nghe tiếng trống dồn dập, tiếng chân hai ông đô tranh tài dỗ thình thịch trên mặt sới. Hai ông đô cứ thế xoắn chặt lấy nhau, quần nhau, xoay như chong chóng. Cả sới ngồi xem đều lặng đi trước một cuộc tranh tài ghê gớm từ xưa chưa từng thấy.
Bỗng có một người nào đó hét lên:
- Ông Cản Ngũ bị rồi!
Cả sới vật tức thì xao động, nhốn nháo. Ông Cản Ngũ đã bị năm đầu ngón tay cứng như năm cái vuốt của cụ Cả Lẫm quặp chặt lấy xương quai xanh.
Đó là một miếng vật bí truyền. Khi mà cụ Cả Lẫm đã hạ đến miếng “móc quai xanh” ấy thì kẻ địch chỉ: một là thua, hai là gẫy quai xanh mà chết. Miếng vật các đô mới chỉ được nghe cụ nói lúc vui chuyện, chưa được xem cụ đánh bao giờ.
Toàn thân ông Cản Ngũ đã run lên bần bật. Mặt ông lúc đỏ tía lên, lúc lại tái nhợt đi, đại chân mềm oặt. Lúc này, hai con mắt cụ Cả Lẫm sáng quắc như hai ngọn lửa chiếu thẳng vào mặt ông Cản Ngũ. Cụ đẩy ông ra xa, cụ kéo xích ông lại gần, cụ thong thả dắt ông đi từng bước diễu quanh sới. Ông Cản Ngũ hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển theo ý muốn của cụ Cả Lẫm.
Cả sới tưởng chừng như không ai dám thở mạnh nữa. Ai cũng thấy rõ nếu ông Cản Ngũ cưỡng lại sẽ bị gãy xương ngay.
Chỉ có các tay đô trong tỉnh xem ra người nào cũng sướng. Mặt mũi người nào cũng rạng rỡ, phớn phở hẳn lên. Ông cụ đô móm không ăn được trầu, nhưng cũng mang sẵn một phong từ nhà, lúc này mới mở ra, đưa truyền mời mỗi ông đô một miếng. Ông lão tủm tỉm, móm mém, nói nhỏ với mấy ông đô ngồi bên cạnh:
- Cụ Cả nhà mình, tuy thị cũng là tay thâm nho đáo để. Hôm trước ông Cản Ngũ xách Quắm Đen như con nhái, thì hôm nay ông cụ dắt ông Cản Ngũ khác gì xỏ sẹo dắt con trâu... Đô vật tỉnh Bắc Ninh chứ có phải...
Chợt thoáng vừa có cái gì khác lạ xảy ra. Có những tiếng reo hò và tiếng dùi đập vào tang trống cắc cắc... Cái gì lạnh toát vừa chạy suốt sống lưng ông lão đô già móm mém. Ông Cản Ngũ vừa ngã đổ người xuống ngực cụ Cả Lẫm. Và, như một tia chớp, ông đã thoát khỏi năm đầu ngón tay ghê gớm của cụ Cả Lẫm, xuất kỳ bất ý “sang sườn” đánh một miếng “gồng vai” đội lên.
Ông lão đô móm không còn kịp nói hết câu nữa. Không còn tin ở mắt, ở tai mình nữa. Keo vật đã chuyển bại thành thắng như ở trong một cơn mê.
Cụ Cả Lẫm lảo đảo bước ra khỏi sới. Mấy tay đô đàn em vội chạy vội theo. Không ai nói được một lời nào. Keo vật cụ Cả Lẫm thua đau quá. Cầm bát nước bà hàng đưa cho mà ông lão không thể sao nuốt đi được. Nó cũng giống như keo vật cụ đánh ngã người ta cách đây mười mấy năm về trước. Giống quá! Giống quá!... Ông cụ lắc đầu thở dài sườn sượt.
Trời đã xế chiều. Trống vật nghe vẫn còn rộn rã. Quái lạ, còn ai vào đánh với ông Cản Ngũ nữa nhỉ? Một tay đô từ xa hấp tấp chạy lại. Anh ta vừa thở, vừa nói:
- Thưa cụ, thằng Tý Trâu...
Cụ Cả Lẫm đặt vội bát nước xuống chõng hỏi lại:
- Sao? Thằng Tý Trâu làm sao, bác?
- Thưa cụ... Thằng Tý Trâu đang vật với ông Cản Ngũ.
- Chết thôi! Con cái nhà, ra sới mau lên thôi bác! Quên cả nỗi buồn bực, uất ức, cụ Cả Lẫm lật đật chạy theo anh đô vật ra sới.
Trên sới vật, Tý Trâu đang giao đấu với ông Cản Ngũ. Nó đánh rất hăng. Đúng là con nhà nòi, có tài, có sức và gan dạ. Nó bám riết lấy ông Cản Ngũ đánh liên tiếp hết miếng này qua miếng khác. Nhìn miếng nó đánh hóc hiểm đến các ông đô ngồi xem bên ngoài cũng lấy làm lạ. Ông Cản Ngũ chỉ lùi, tránh, đỡ, gạt, ông không có ý đánh ngã thằng bé.
Từ lúc biết Tý Trâu là con trai cụ Cả Lẫm và đánh với nó vài nhịp trống, ông Cản Ngũ bỗng yêu quý thằng bé đến lạ lùng. Trong đời đô vật, ông chưa thấy tay đô nào quyết đánh bại địch thủ dũng mãnh như thế. Có lúc ông đã thử bóp gân, xương cho đến tái người đi, nhưng vừa buông ra, nó đã lăn xả vào đánh liền. Có lúc ông đánh dồn dập năm, bảy miếng liền; nó vẫn tỉnh táo chống lại không hề nao núng. Càng đánh, ông càng thấy yêu, ông có ý muốn thu phục thằng bé.
Cụ Cả Lẫm đứng ngoài theo dõi keo vật, ông lão đã thấy rõ hết cái ý ấy của ông Cản Ngũ. Nước mắt ông lão bỗng trào ra, cảm kích vô cùng. Ngay giữa keo vật đang đánh giở, ông lão xông vào giữa sới xin cho được ngừng lại và bắt Tý Trâu nhận ông Cản Ngũ là thầy học. Ông Cản Ngũ sung sướng nắm chặt lấy tay ông đô già, nhận lời.
Đêm ấy, trong nhà cụ Cả Lẫm vẫn đông đủ khắp mặt các tay đô vật trong tỉnh. Bình thường những lần mất giải về tay người, và sau những keo vật như Quắm Đen, cụ Cả Lẫm bị đánh ngã, thế nào cũng xảy ra những cuộc xô xát. Có khi đến đổ máu. Nếu không xông vào giữa sới đánh nhau thì, cũng tìm cách đón đường, chặn lối không cho đối thủ của mình về. Cái cảnh thua đau như chiều nay, ai còn mặt mũi, lòng dạ nào mà hội họp, mà ăn uống!
Thế nhưng cụ Cả Lẫm đã có lời mời. Hôm nay ông Cản Ngũ ở lại chơi nhà cụ, ý cụ muốn có mặt đông đủ anh em hàng đô trong tỉnh. Họ nể lòng quá, phải ở lại. Những người đô vật to lớn, ngang tàng nhưng lại rất biết phục thiện các bậc đàn anh; và nữa, đối với một ông đô tài mạnh, lẫy lừng như ông Cản Ngũ, trên sới vật họ coi là đối thủ, là thù địch, thực ra trong lòng họ vẫn rất lấy làm hâm mộ.
Trong ánh sáng của những ngọn đuốc nhựa trám cháy rừng rực cắm quanh nhà, các ông đô ăn uống, nói năng từ tốn, chậm rãi. Hôm nay, nom họ rất hiền, chất phác, thuần hậu như những ông thợ cày.
Rượu được vài tuần, ông Cản Ngũ chắp hai tay vào nhau, từ từ đứng lên. Ông hướng ra bốn phía các ông đô ngồi quanh, ngập ngừng lên tiếng:
- Thưa... Các bạn hàng đô... tôi xin có vài lời...
Tất cả mọi người đều ngừng đũa, hướng về phía ông Cản Ngũ.
-... Tôi đi vật cho đến nay, kể như gần hết một đời người rồi. Đông, Nam, Đoài, Bắc không thiếu đâu tôi không có mặt. Gần hết đời người rồi tôi mới thấy được buổi hôm nay. Thật là một sự hạnh ngộ quý hóa vô cùng...
Ông Cản Ngũ mím chặt môi lại, cúi đầu xuống. Đôi vai to lớn của ông rung lên. Lúc lâu ông mới lại ngửng lên nói tiếp:
- Các bạn hàng đô ở đây không những đã không coi tôi như thù địch, mà còn đãi tôi vào hàng khách quý, thân thiết như một người đô cùng trong một sân vật mình. Điều ấy thật là hiếm có. Điều ấy khiến tôi phải bộc bạch trước các bạn hàng đô tỉnh nhà về keo vật hôm nay.
Ông ngừng lại, nhìn vào cụ Cả Lẫm rất lâu.
- Keo vật tôi với cụ giao đấu lúc ban chiều thật khó hiểu quá. Tôi không bao giờ dám nghĩ rằng mình có thể thoát được năm ngón tay cứng như thép ấy của cụ. Lúc ở ngoài sới, còn đang say đấu, thực tình tôi chửa thấy được điều ấy. Về đây, càng nghĩ tôi càng lấy làm lạ. Một ông đô vật dày dạn, lỗi lạc như cụ, không khi nào để tôi thoát khỏi miếng vật hiểm nghèo ấy một cách dễ dàng quá như thế được... Đúng là cụ tha cho tôi keo vật ấy. Đúng là cụ không muốn đánh tôi gẫy xương, không muốn tôi thành một người tàn phế. Đã được coi như người thân trong nhà, trước có đông anh em hàng đô hôm nay, tôi muốn hỏi cụ cho rõ điều ấy?
Tất cả các mâm rượu đều xôn xao cả lên. Không ai ngờ keo vật lại là như thế. Người ta ngạc nhiên, khó hiểu. Vì sao ông cụ lại không đánh ông Cản Ngũ nhỉ? Có đúng thật là cụ Cả Lẫm đã tha cho ông Cản Ngũ không?
Cụ Cả Lẫm vẫn ngồi im trước mâm rượu. Những lời ông Cản Ngũ nói đúng vào ruột gan ông lão. Đúng là keo vật đến lúc cụ phải đánh đến miếng “móc quai xanh” thì ông cụ có phân vân, suy nghĩ. Người đô vật khi phải đánh đến những miếng hiểm độc đã là hạ sách rồi. Đấy là nước cùng, của một anh tầm thường, xấu chơi. Huống chi, ông Cản Ngũ tiếng là đi vật, nhưng ông lại là một ông tướng nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì dân, vì nước được không? Chính lúc cụ Cả Lẫm còn đang phân vân bhư thế, thì chợt đã thấy mình bị ông Cản Ngũ đánh ngã rồi.
Lúc sau, cụ Cả Lẫm mới đứng lên từ tạ. Ông lão có vẻ miễn cưỡng mà phải nói:
-... Keo vật được, thua đã định ở ngoài sới rồi. Đúng ra cũng chả nên nhắc lại làm gì. Nhưng ông bác đã hỏi, thì tôi phải xin thưa...
Ông lão ngập ngừng một lúc, rồi tiếp:
- Tôi cứ nghĩ rằng, đã là người đô vật mình, dù ở đâu, ở xứ Đông hay ở xứ Đoài, xứ Nam hay xứ Bắc, ở đâu cũng là người dân Việt ta cả. Cũng là máu đỏ da vàng với nhau; trong cái buổi còn đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn, thua một keo vật mà đánh một người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành một người tàn phế, bỏ đi được không? Được như vậy, có thể gọi là được, được không?...
Tất cả mọi người đều ngồi lặng đi. Có một cái gì to lớn, thiêng liêng lắm đang choán lấy hồn những ông đô vật.
Quắm Đen ngồi dưới ngọn đuốc đang cháy rừng rực, anh ta cúi gằm mặt xuống. Từ hôm bị ông Cản Ngũ đánh ngã không thấy Quắm Đen hé răng nói một lời nào. Anh ta vẫn ngầm nuôi cái ý phục thù. Lúc này, nghe những lời cụ Cả Lẫm nói, anh ta bỗng thấy xấu hổ...
Ngay đêm ấy, Quắm Đen đến gặp cụ Cả Lẫm, xin cụ nói cho anh được cùng Tý Trâu theo ông Cản Ngũ...
Mấy hôm sau, Tý Trâu, Quắm Đen theo ông Cản Ngũ xuôi về vùng Văn Giang, Gia Bình. Cụ Cả Lẫm tiễn chân đến tận bến Sải. Ông lão đứng trên bờ nhìn theo mấy thầy trò ông Cản Ngũ qua sông một lúc rồi mới quay về. Từ dưới cũng không thấy cụ nói với ai rằng họ đi đâu...
Mãi mấy năm về sau mới có người nghe tin Tý Trâu và Quắm Đen ở trong đội nghĩa quân của ông Tán Thuật đánh Tây, nhiều mưu mẹo và gan dạ lắm.
Chú thích:
[1] Bá tay tư: Một tay vít gáy, tay kia nắm cánh hoặc bá vai. Trước khi đánh các đô đều vào bá tay tư để dò xét sức lực nhau.
Đôi chim thành
Cái tiếng quần chim của Trưởng Thuận ăn khao “liên tam trúng” [1] nức cả hàng phủ. Thật là một thành tích vẻ vang chưa từng có.
Nhân vào ngày không có hội nào, các tay ăn chơi sành sỏi đến chơi nhà ông Trưởng rất đông. Họ cười nói xôn xao cả năm gian nhà khách. Ai cũng tỏ ý bất mãn về quần chim của ông Trưởng bị đánh hỏng ở hội Đại Đình hôm vừa qua.
Trưởng Thuận phân trần:
- Các ông tính: hôm ấy vừa gió to vừa xấu trời, cả hàng phủ không ai dám mở; thế mà tôi mở đấy, các ông ạ. Vì tôi tin ở tông chim này, càng gió to bay càng hay.
Ai lại gió to là thế, mà đàn quả, chết [2], đẹp quá. Vừa tròn trặn, vừa đông đen. Chẳng vòng việc gì cả, cứ dựng con chim mà ngoi ngoi lên.
Vừa nói, ông vừa giơ ngược bàn tay lên lắc lắc, tả dáng điệu con chim đang bay. Uống một hụm nước chè, ông nói tiếp:
- Từ trung đến thượng ở thăng bằng giữa sới, không qua có tội gì có thể đánh được. Mãi đến lúc đàn chim “vần thượng” [3] cơ chừng gió to quá nên có một con bật ra bằng chiếc quạt này này. Tôi đã chắc mẩm họ đánh “trung chính, thượng tiểu tùy” [4] lấy giải. Có phải không các ông? Thế mà rồi họ đánh “đại tùy” [5], bỏ đấy có ức không?
Hương Thi rít một hơi thuốc lào, nói vội trong khói đặc:
- Thế sao ông không hỏi cho ra nhẽ?
- Có! Tôi vào tận trịch trong tôi bảo: “Các ông cầm trịch thế thì còn nhầm lắm. Chim bay như thế mà các ông nỡ đang tâm đánh ‘đại tùy’ được! Tôi chỉ sợ gió này ‘trung khứ’ [6] đánh ‘đại biên’ [7] cho người ta lấy giải thôi”. Thế mà y như rằng đấy, các ông ạ.
Ngay lúc ấy có tiếng nói ngoài sân vọng vào:
- Thì lão vẫn khen Trưởng Thuận chơi sành rồi mà.
Thì ra cụ Tú bên Trang Liệt sang chơi. Tuy tuổi tác, nhưng cụ vẫn còn tráng kiện. Cặp mắt vẫn tinh anh dưới hàng mi dài. Nước da hồng hào càng làm tôn bộ râu trắng muốt phất phơ trước ngực. Một tay chống gậy trúc, một tay cầm quạt thước che nắng, xúng xính trong chiếc áo lụa trắng dài, cụ trông có phong độ một vị tiên.
Trưởng Thuận chạy ra hiên, đon đả:
- Nắng nôi thế này, cụ cũng chịu khó sang chơi.
Cụ Tú vuốt râu cười khanh khách:
- Có hề gì. Nhân thằng chánh Quyền nhà tôi bảo bên ông có quần chim hay, nên muốn sang xem.
Ông Trưởng cười nhũn nhặn:
- Xin rước cụ vào trong nhà nghỉ ngơi cho mát đã.
Sau một tuần nước chè tàu mới pha, Trưởng Thuận bắt vào đôi chim:
- Đôi này thành đây, cụ ạ.
Cụ Tú thận trọng đỡ lấy con đực. Cầm gọn gàng trong tay, cụ nâng đầu con chim lên, nhìn mắt, nhìn mỏ, tấm tắc khen:
- Tinh lắm, mắt ướt thế này tinh lắm.
Rồi cụ sẽ sàng xòe cánh chim ra. Ngắm nghía hồi lâu mới đưa trả con đực, xem đến con cái. Khi xem xong cả đôi chim, cụ nở một nụ cười khoan khoái:
- Tinh! Trưởng Thuận tinh lắm! “Cào, bị” [8] ấy kháp với nhau không tách được.
Ngừng một chút, cụ nói tiếp:
- Phàm giả cái giống chim văn giàng [9] này, cứ con nào “cào” nhọn là bay cao, con nào “bị” to là đông đen. Nhưng mấy con được hoàn toàn cả cào lẫn bị. Cào thì “sơ, tràng” [10] mà đông đen thì lại không “vần thượng”. Đôi chân này được cả cào lẫn bị.
Rồi cụ quay lại hỏi Trưởng Thuận:
- Tông này ông Trưởng lấy ở đâu thế?
- Dạ, thưa cụ, của Đội Tùng ở Hạ Dương đấy ạ!
Cụ Tú kinh ngạc:
- Của Đội Tùng! Làm thế nào ông lại lấy được của hắn?
- Thưa cụ, cứ kể hồi còn mồ ma ông ta thì lấy thế nào được. Nhưng ông ta chết đi, con cháu không biết chơi, đem ra chợ bán. Ngày ấy tôi ngồi chơi ngoài cửa. Chợt có con bé xách lồng chim đi qua tôi gọi lại xem chơi, thấy đẹp hỏi mua, có bốn hào chỉ thôi mà. Hỏi nó là con cái nhà ai thì nó trả lời là cháu ông Đội Hạ Dương.
- Ô! May thế đấy!
Tư Khả dĩ (vì câu nào ông cũng đệm hai chữ “khả dĩ” vào nên người trong làng đặt cho ông cái tên ấy) nghe chừng nóng ruột, nhắc nhỏm:
- Khả dĩ đã trưa rồi đấy! Ông Trưởng mở chim cho, trên có cụ Tú, dưới có anh em chúng tôi thưởng thức.
Như chợt nghĩ ra, cụ Tú sốt sắng:
- Ừ phải đấy? Mở đi cho chúng tôi xem với.
Trưởng Thuận ngần ngại:
- Tôi cũng chẳng dám tiếc cụ với các ông làm gì. Nhưng hôm nay xấu trời lắm: vừa oi, vừa gió tây. Tôi e hơi giông.
Cửu Phúc chạy ra sân, ngửa mặt nhìn lên trời, nói vào:
- Đẹp trời lắm, ông Trưởng ạ. Vẩy tê tê thế này, cứ gọi là chọc cũng chả mưa được...
Ông Tư thủng thẳng chọc thêm:
- Khả dĩ được, được mà?
Mỗi người mỗi tiếng, không lẽ từ chối mãi, Trưởng Thuận đành gọi con:
- Cu Tạm đâu rồi?
Ở trong bếp chạy ra, cu Tạm thắt chiếc lưng xanh nhiễu điều - giải chim - lòng thòng quá đầu gối.
- Con xách lồng chim ra cầu bò để thầy mở cho các cụ xem.
Cu Tạm lại gần vựa thóc, xách chiếc lồng chim kiểu trái hồng sơn quang dầu đe ở bóng mát đi ra công, Trưởng Thuận thong thả theo sau.
Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu đấy, rồi mới quài tay ra sau lưng rút chiếc quạt giát cạp quần, se sẽ đập vào nan lông. Đàn chim xô về một phía. Đập mạnh thêm mấy chiếc nữa, ông mở bật nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vô phanh phách. Bỏ lồng đấy cho cu Tạm, ông tất tả ra về.
Trong sân, dưới bóng mấy cây na, cây bưởi, mỗi cụ một chiếc quạt xòe ra che mắt, nếu không có quạt thì úp hai bàn tay vào nhau, ngửa mặt lên trời, nhìn qua kẽ tay cho đỡ chói.
Trưởng Thuận vừa về đến sân mọi người đã khen:
- Ông Trưởng mở đàn chim lên “tươi” quá.
Đàn chim bay hãy còn thấp, lượn vòng quanh trên mắt mọi người. Có tiếng sáo trứng kêu vo vo, Hương Thi hỏi:
- Cái nào đóng sáo thế ông?
Vẫn nhìn chăm chăm vào đàn chim, Trưởng Thuận trả lời:
- Cái đực “rơi lạc phao” đấy ông ạ. Nó khỏe lắm, hôm nào cũng dẫn “tiên hành”. Tôi dò mãi đem đóng sáo vào mới thôi đấy.
Đàn chim bay đã “tít đuôi”. Rồi cứ cao dần... cao dần. Thỉnh thoảng có người khen:
- Đàn quả đẹp quá.
- Nó đánh cái vòng nghịch khéo không này!
- Còn là ăn nhiều giải, các ông ạ.
Họ ngồi ngửa mặt lên trời xem mê man, quên cả sức nóng thiêu người của trưa mùa hạ.
Đàn chim đã “vần thượng” bé bằng quả cau. Rồi bằng hột nhãn. Rồi chỉ còn thấp thoáng in trên những gợn mây trắng.
Cụ Tú hỏi:
- Đàn chim ở chỗ nào, các ông nhỉ?
Cửu Phúc vừa chỉ vừa nói:
- Thẳng chóp nhà lên cụ ạ. Nó vòng lại đằng cây bưởi, gần đám mây xanh xám ấy.
- Lão chịu, chả nhìn thấy gì cả.
- Khả dĩ cũng cao lắm rồi. Cụ chả nhìn thấy nữa, chỉ còn bằng hạt đậu xanh thôi mà.
Đàn chim chìm vào mây, mọi người mới chịu bỏ vào nghỉ ngơi trong nhà, một lát ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc một thấp thêm. Thỉnh thoảng lại có luồng gió tây tràn vào như lửa đốt. Ánh nắng chói, ở chỗ râm mà nhìn ra ghê cả mắt. Trưởng Thuận lấy chiếu treo vào sợi dây thép ngoài hiên che cho nóng đỡ hấp vào trong nhà. Cu Tạm vào tít mãi gậm giường thờ nằm cho mát.
Đột nhiên trời sầm tối lại. Mây đen từng lớp vần vũ từ phía đông tiến lên. Gió ở đâu ùa tới quét sạch cái không khí nặng nề khó thở đi. Bụi bốc mù đường, xoắn lại thành từng cơn lốc. Cây cối quằn quại rú thét lên.
Ông Trưởng đang thiu thiu ngủ trên võng, giật mình choàng dậy:
- Thôi chết? Cơn giông rồi. Đàn chim đến trôi mất.
Mưa lộp bộp lia mạnh xuống sân những hạt to bằng miệng chén. Hơi nóng bốc lên thành khói. Ông Trưởng như mê man:
- Cu Tạm đâu rồi!
Nó vẫn ngủ li bì trong gậm giường thờ. Ông gào to hơn:
- Thằng Tạm đâu rồi!
Mắt nhắm mắt mở, cu Tạm vùng trở dậy. Đầu cộc đánh chát vào hương án. Nó bưng đầu xoa xuýt chạy ra.
- Cất lồng đi chứ mưa để thế kia à?
Cu Tạm luống cuống chạy xuống bếp, lại luống cuống chạy ra nhà ngang.
- Ô hay, cái thằng này mê ngủ đấy à?
- Con tìm cái nón.
Ông Trưởng nghiến răng quất cho nó một chiếc giáo quạt:
- Tìm nón thì nó mục lồng đi chứ còn gì.
Trời mưa ào ào, như trút nước xuống, cống rãnh kêu ô ô. Trưởng Thuận hết ra lại vào, luôn mồm kêu:
- Khổ quá? Cả nể một tí mà trôi tiệt cả đàn chim. Gió lật lá thế kia, không khéo bão mất thôi.
Chiều tôi, ông Trưởng lên cơn sốt. Bà Trưởng đánh gió cho chồng, phàn nàn:
- Chim với chả cò. Đày nắng suốt ngày, không trách cảm được.
Trưởng Thuận lừ đừ sốt đã năm hôm nay. Xem chừng ông tiếc đàn chim lắm, nhất là đôi chim thành. Thỉnh thoảng ông lại gọi cu Tạm hỏi chim đã về được con nào chưa.
Qua đến ngày thứ sáu. Bà Trưởng đi chợ. Có mỗi mình cu Tạm ở nhà trông nom ấm thuốc. Nó ngồi ủ rũ ở đâu thềm, nheo mắt lại, ngán ngẩm nhìn ánh nắng ngoài sân. Trưa mùa hè im ắng và vắng vẻ. Chốc chốc lại có tiếng gà gáy trưa nghe đến là buồn. Chả bù mấy hôm nọ còn đàn chim, lúc nào cũng có tiếng gụ nhau, con bay lên, con bay xuống, sao mà nhà cửa vui vẻ thế!
Ý nghĩ của cu Tạm nhạt dần, chập chờn theo giấc ngủ. Bỗng nó mơ hồ nghe như có tiếng chim bay. Vun vút phanh phách, mỗi lúc một rõ. Nó tỉnh dậy, cố nhướng cặp mắt ngái ngủ nhìn ra sân. Một bóng... rồi hai bóng chao đi chao lại trên nền sân nắng. Nó chạy xồ ra. Đôi chim đã bay sà xuống nóc nhà. Cu Tạm mừng rỡ cuống quít, gọi:
- Thầy ơi? Đôi chim thành đã về!
Ông Trưởng đang rên hừ hừ, vùng trở dậy, run lẩy bẩy chạy ra sân, miệng hỏi:
- Đâu! Thật không?
Ông dụi mắt nhìn lên nóc nhà. Quả đôi chim quý báu của ông thật. Chúng nó đang há hốc mỏ ra thở; lông cánh phờ phạc, nom gầy tọp đi. Hai mắt sáng lên vì sung sướng. Cặp môi héo của ông nở một nụ cười:
- Tao biết tông chim này tinh lắm, mất thế nào được. Còn về nữa cho mà xem.
Cu Tạm bỗng giật mình kêu:
- Thôi chết, trào ấm thuốc rồi.
Ông Trưởng ngọt ngào:
- Mặc thuốc đấy. Hãy lấy thóc cho chim ăn đã, con.
Chú thích:
[1] Liên tam trúng: ba ngày ăn ba giải liền.
[2] Chết (chết chửa...): tiếng đệm trong khẩu ngữ vùng đồng bằng sông Hồng (B.T).
[3] Vần thượng: bay rất cao.
[4] Trung chính, thượng tiểu tùy: bay ở dưới thẳng ngay giàn sới, lên cao có một con lật ra đằng sau đàn không xa mấy.
[5] Đài tùy: một con lật ra đằng sau đàn rất xa.
[6] Trung khứ: bay hãy còn thấp đã bỏ về.
[7] Đại biên: bay chệch sới nhiều quá.
[8] Cào, bị: cào là lông cánh ở ngoài, bị là lông cánh ở gần nách chim.
[8] Chim văn giàng: chim bồ câu.
[10] Sơ: bay thưa; tràng: bay dài.
Chó săn
Từ hôm con Cộc bị bẫy “cò ke” mất, không phiên chợ Dầu nào, cả Nội không la cà suốt ngày ở dãy hàng chó. Giời nắng cũng như giời mưa, ông mê man chọn lọc với một lòng kiên nhẫn không bờ. Cả Nội mua lại bán, bán rồi lại mua kể có đến mươi mười lăm con chó, vẫn chưa vừa ý con nào. Con được vẻ này, hỏng vẻ nọ không đúng vào “đồ”. Có con nuôi ba, bốn tháng béo tốt hẳn hoi, không biết cả Nội nghĩ thế nào lại đem bán đi. Ông bảo: “Nuôi con chó nó có ra con chó mới bõ công!”.
Cả Nội đi săn từ năm mười bốn mười lăm tuổi đầu. Hồi còn mồ ma cụ đám Vui, buổi săn nào ông cũng vác dầm vác móc đi theo. Thế cho nên cả Nội nổi tiếng là tay chơi lão luyện, và bao giờ cũng chơi “cầu kỳ” theo những kinh nghiệm già dặn của ông.
Một hôm, nhân sang làng bên ăn cỗ, cả Nội để ý ngay đến con Vện của chủ nhà, vừa gây, vừa lường, la liếm khắp sân. Cái lối chạy “rẻo khoeo” có dáng luôn lỏi ấy, ông biết là con chó săn được. Cả Nội “chậc chậc” gọi con Vện lại, lia cho nó vài chiếc xương rồi ngây người ra ngắm. Thật từ ngày biết chơi chó đến giờ, ông chưa thấy con nào hoàn hảo như con này. Khó tính như ông, thế mà soi mói mãi cũng không tìm ra vẻ gì chê được.
- Kìa, lên đũa đi chứ ông cả. Nghĩ ngợi gì mà ngây người ra vậy?
- À hà! Không.
Mâm rượu tàn. Tiếng cười nói càng thêm ầm ỹ. Người nhà quê thổ lộ can tràng trong lúc này nhiều nhất. Cả Nội nói với chủ nhà:
- Này ông khán này! Tôi muốn phiền ông cái này nhá.
- Được ông cứ nói.
Cả Nội ngần ngừ một giây rồi nói:
- Muốn ông để cho con chó kia.
Khán Ích bông lơn:
- Cứ là một nén?
Dứt lời, ông cười ha hả.
- Vâng, ông anh có lòng để cho là quý rồi.
Cả Nội toan móc ví, khán Ích vội xua tay:
- Nói đùa đấy! Nén bạc là nén bạc, anh em là anh em. Có vẳng (phải) không, các ông?
Bao giờ cũng thế, những lúc say khán Ích cũng tỏ ra là người rộng rãi, coi thường đồng tiền và có tài ăn nói. Rút chiếc khăn mặt vắt vai bằng vuông vải to cáu bẩn lau mép, ông dặng hắng mấy tiếng rồi cảm khái luôn một hồi:
- Cái nghĩa rằng là anh em mình đã biết nhau như thế này, một con chó chứ đến mười con chó cũng không dám tiếc. Phần thứ nhất nghĩa là tôi không biết chơi, nuôi chó cũng cầm bằng phí cả cái con chó quý đi. Phần thứ hai nữa là ông cả tôi đây lại có lòng sở thích đến thời tôi đâu dám tiếc. Phần thứ ba nữa là anh em mình sống ở trên đời cần nhất phải lấy một sự giao thiệp với nhau làm đầu. Ờ, như ông cả tôi đây đem nó về. Sau này săn được cầy, tôi sang bên ấy đánh chén. Anh em thù tạc mới nhau, thế là tôi sướng cái bụng tôi rồi.
Mọi người đều say khướt, khật khù trả lời:
- Ông nói vẳng (phải), vẳng lắm lắm...
Thế là buổi chiều hôm ấy, cả Nội hỉ hả dắt chó ra về.
Con Vện đã gầy nhỏm gầy nhom, giơ xương sườn xương sống ra lại còn mắc bệnh lường. Lông rụng nham nhở, chỉ còn lơ phơ vài cụm; da sần sùi mốc thếch có chỗ ve cắn rớm cả máu. Dáng thấp lách chách, đi bên nọ dẻo bên kia. Nhất là những lúc chữa bệnh lường bị bôi mẻ với bánh đúc thiu đầy mình, nó lăn lộn, chu chéo kêu vì xót thì thật không còn thể sao khá ra được. Thế mà không hiểu nó có những ẩn tướng gì mà cả Nội quý nó thế. Đã có lần ông đánh cậu Khôi - con câu tự - ba chiếc roi mây quắn tỹ vì cậu đã đá con Vện một chiếc vì tội nó ăn vụng miếng chả. Cho nên cả nhà từ cô Hương, cô Sở, đến bà cả, ai ai cũng ra ý ghét con Vện. Bà dằn vặt ông:
- Bán cổ mẹ nó đi! Báu gì con chó ốm ấy.
Những lời bà nói ông không thèm để vào lỗ tai: “cái trò đàn bà biết gì”. Ông đã có mấy ông bạn hôm nào cũng đến ngắm nghía chó với con mắt thèm muốn và ganh tỵ làm ông nở nang từng khúc ruột. Nhiều lần có ông nói ra miệng:
- Sao ông cả may thế! Bơ phờ thế nào vớ ngay được con chó này. Mình thì chả gặp cho!
Cả Nội tươi cười, nói bông:
- Chuyện? Quý vật tầm quý nhân mà lại?
Cả đến khán Ích chả hiểu chó má ra sao cả cũng sang chơi luôn, và hay tẩn mẩn hỏi han cách chơi. Ông cũng muốn tập tành cho biết cái nghề săn. Theo ý ông, nhà cũng gọi là có mà không biết chơi bời cái gì cũng đụt.
- Này ông cả này! - Khán Ích hỏi - Chơi chó săn thế này có khó không nhỉ? Chứ con Vện này, thực tình tôi trông chả được vẻ gì cả.
Cả Nội chậm rãi:
- Kể ra cũng chẳng khó. Cần nhất phải đi săn nhiều mới hiểu được. Còn như chọn chó, thì đã có kiểu sẵn. Một con chó săn hoàn toàn phải như thế này: sườn dê, khoeo mãn, chân múi quýt, đít lồng bàn, mắt mê, mí sập, mũi ba ba, mõm phạt ống giầu, tai sim, đuôi vòi đàn hoặc tam phốc, lông kim sào và thấp ràn [1].
Khán Ích cười bỡ ngỡ:
- Khó thế thì làm sao biết được “sườn dê” với chả “khoeo mãn”? Sao cứ phải đúng kiểu vậy mới săn được?
- À trông mãi nó quen đi chứ. Còn như những kiểu ấy rất cần cho con chó săn cầy. Có “sườn dê” mới chịu luồn lỏi chui rúc. “Khoeo mãn” mới nhanh nhẩu rẻo rang. Mắt mê mới gan. Mí sập mới không sợ gai. Thấp ràn mới dễ chui. Nói cho cùng có những kiểu trên kia con chó mới dễ dàng xông xáo luồn lách trong bụi cây gai góc rậm rạp được.
- À, ra thế đấy. Cứ con nào đủ kiểu vậy là chó săn hay đấy!
- Như thế đã đủ sao được? Còn nhiều cái khác nữa. Chẳng hạn. con chó đã đủ kiểu rồi lại phải “khai tiền khai hậu” [2] mới rộng đất săn chứ.
- Rộng đất săn! Hì, thế nào là rộng đất săn ông nhỉ?
- Ông này hỏi lẩn thẩn quá.
- Chuyện! Không biết mà lại!
- Rộng đất săn là con chó dám bỏ chủ đi rất xa tìm hơi cầy. Mới bắt được “hơi gió” tìm ra “lũy ống”.
- Gớm, kỳ cầu quá nhỉ?
- Cũng chẳng kỳ cầu đâu. Rồi con Vện này “nổi” lên ông sẽ biết hết.
Chầm bạp ba tháng, con Vện khỏi lường, béo tốt ra. Lông mượt mà óng ả. Dáng dấp mạnh mẽ, nhanh nhẹn, không dặt dẹo như trước nữa.
Biết rằng đã có thể “vực” được rồi, cả Nội rút ở hồi nhà ra một chiếc đuôi cầy khô cắm vào thanh tre vót nhẵn nhụi. Xích chó ra một nơi; ông ra vườn quệt chiếc đuôi cầy khô xuống đất. Đi ngoằn ngoèo một quãng rồi cắm vào khe tường, và lấp đất ra ngoài. Đoạn, ông dắt con Vện ra; luôn miệng bắt nó tìm:
- Hẩy! Hẩy!... Hẩy! Hẩy! Tìm xem nào? Tìm xem nào?
Con Vện gằm đầu xuống, tung tăng chạy, mũi phì phò đánh hơi. Bỗng nó hít rất mạnh mấy lần, ấm ứ kêu, đuôi ngoáy tít.
Bắt gặp hơi cầy, nó chạy loạn ngoằn theo đường đuôi quệt khi nãy. Đến khe tường, chỗ giấu cái đuôi, con Vện hục hặc, ấm ẳng cắn ran. Hai chân trước bới tung đất lên. Cả Nội nở một nụ cười mãn nguyện chạy lại vuốt ve con chó.
Từ đấy, trong khu vườn cây ăn quả rườm rà, xanh um, hôm nào cả Nội cũng đem chó ra vực. Trước còn giấu chỗ dễ và gần, sau càng xa và hiểm hóc hơn. Có khi cách tường, cách ao, cách lũy. Bao giờ con Vện cũng tìm ra một cách mỹ mãn.
Một lần khán Ích sang chơi, cả Nội thử cho xem. Ông Khán khoái chí vỗ tay reo:
- Khá quá! Khá quá! Hôm nào đẹp giời, ta đi săn một chuyến xem sao.
Cả Nội lắc đầu:
- Đã săn thế nào được! Còn là vực chán. Với lại đến tháng Tám này mới bắt đầu vụ săn cơ mà! (ông lên giọng giảng giải): Giống cầy khôn lắm. Bao giờ cũng ở những lũy cao và dầy, mà ở ba hang: Một “hang quần” [3], một hang “sí” [4] và một “hang chính” chứ có phải độc một chỗ như mình giấu đuôi đâu.
- Thế thì biết hang nào chính mà đào?
- Chuyện, thế mới phải vực nữa.
Hôm sau, cả Nội không vực chó ở vườn. Ông đem con Vện ra lũy. Cứ “Hẩy! Hẩy!” mồm không sai chó tìm hơi.
Vực chó về tháng Sáu rất tốt. Vì cầy non cả hơi và xung quanh lũy nhiều nước cầy không đi ăn xa được, chó rất dễ tìm. Ngày nào cũng như ngày nào, đem chó ra đến lũy là cả Nội quát tháo, sai khiến như vị tướng điều khiển quân sĩ.
- Tìm xem nào! Tìm xem nào! “Trâm tra” xem nào! Quần hay sí! Cầy thì quát (sủa)! Cầy thì bới nào!
Còn con Vện đuôi ngoáy tít, mõm vục vào miệng hang hít lấy hít để. Cũng có khi bới nhầm phải “hang quần” hay “hang sí”. Những lúc ấy cả Nội đánh, mắng không cho bới.
Nhờ sự chăm chỉ và lối vực có phương pháp, hai tháng sau con Vện đã thành chó “phu”, săn tạm được.
Nhưng mãi đến vụ săn năm sau con Vện mới thành chó “lọc”. Một con chó “lọc” hoàn toàn có nhiều tài riêng, con khác không thể có được.
Bây giờ trong những bữa rượu thịt cầy, cả Nội thường lên mặt với bạn làng săn cái tài “vực” chó của mình:
- Con Vện ở tay tôi chứ ở tay người khác không thể hay thế được.
Thể nào cũng có một vài ông khen nịnh:
- Chuyện? Chim hay tại nó, chó hay tại người, mà lại!
Bọn họ năm người cả thẩy. Cả Nội, trương Quất, khán Ích, hai Cỏn và cu Dĩu - Dĩu đi theo để cho người lớn sai bảo việc vặt.
Ho đi từ mờ đất. Sáng tháng mười, sương còn bao phủ khắp nơi. Gió lạnh bén vào da căm căm rét. Mỗi người bỏm bẻm một miếng trầu cho ấm miệng. Họ nói cười vui vẻ, bàn soạn việc săn hôm nay.
Con Vện hồng hộc căng xích, nó muốn được tự do. Khán Ích ghìm sái cánh vẫn bị nó lôi lệch thếch. Ông bàn:
- Hay là ta thả nó ra, ông cả ạ.
- Ấy chớ? Thả bây giờ, chạy nhông phí sức.
Đến lũy làng Đại Sơn thì sáng rõ. Mặt trời nhô khỏi rặng tre gieo ánh nắng khắp đồng. Sương tan dần và không khí bớt lạnh. Ruộng trơ gốc rạ, lấp lánh sương mai. Từng đợt gió từ xa lùa tới. Cả lũy tre rung lên những tiếng lào xào. Bầu trời xanh ngát không qua một gợn mây, hứa hẹn một ngày tươi đẹp. Bây giờ giữa mùa săn và cầy đang độ béo.
Con Vện được thả, luồn lỏi trong lũy rậm, hục hặc đánh hơi. Lúc ấy người cũng lom khom tìm vết chân, vết mũi cầy [5] trên đất nhã bên lạch nước váng ngầu.
Vòng quanh hết lũy làng Đại Sơn sang lũy làng Dưỡng Mông vẫn không thấy vết cầy. Chợt khán Ích reo:
- A! Lốt chân đây rồi!
Mọi người vội vã chạy lại nhưng ai nấy đều chưng hửng.
- Có phải lốt chân cầy đâu! Đây là chân cáo.
Về trưa, trời nóng rát. Nắng hanh làm da mặt bứt rứt khó chịu.
Mọi người đã ngót dạ. Họ uể oải tìm kiếm. Bỗng con Vện hít mấy hơi dài, kêu ấm ứ. Đầu gằm xuống đất đuôi ngoáy tít lên, nó nhanh nhẩu chạy theo cái vệt vô hình của con cầy đi ăn đêm trước để lại.
Từng ấy cái miệng đều sung sướng reo lên:
- Cầy rồi!
Đột nhiên, con Vện đứng chừng lại, ngửi quanh ngửi quẩn ra ý hoài nghi. Một lúc lâu, nó chạy tọt sang bên kia lũy cắn vang.
- Thôi, lại “lũy ống” rồi! - Hai Cỏn nói.
Năm người vội vạch lũy sang. Một cái lũy khác nữa đâm thẳng vào cái lũy lúc nãy, người đi bên kia vô tình không biết (thế gọi là lũy ống). Con Vện ra công bới dưới bụi cúc tần rậm rạp. Những mảnh đất tung lên dưới hai bàn chân hoạt động của nó. Thấy chủ, con Vện ngửng đầu lên, hai mắt long lanh như khoe khoang, đuôi ve vẩy như chào đón, rồi thong dong lảng ra một chỗ, đứng thừ dưới bóng cây râm mát, hai mắt lim dim mỏi mệt nhìn nắng vàng, nhìn người hì hực đào. Lưỡi thè dài ra “hà hà” thở, nước rãi rỏ từng giọt theo nhịp bụng lên xuống.
Có kết quả rõ ràng, họ quên cả mệt, đói, mải miết đào, thay tay hết người nọ đến người kia. Trời tháng Mười mà mồ hôi vã ra ướt đầm hai vai áo. Sâu chừng một thước tây, hang ấy chia ra bốn chi [6].
Trương Quất nghỉ tay cầm nón quạt:
- Cho chó vào “trâm tra” [7] xem chi nào đi thôi.
Con Vện đang lơ mơ thì tiếng “Hẩy! Hẩy!” gọi làm nó giật mình, chạy lại:
- Hẩy! Hẩy! Trâm tra xem nào! Quần hay Sí nào! Cầy thì quát!
Mỗi lời cả Nội dứt con Vện lại hít mạnh một hơi.
- Cầy thì bới! Cầy thì quát nào!
Đến một “chi”, con Vện hít đi hít lại mấy lần. Chân bới, mõm sủa.
- Âu, âu, âu.
Cả Nội khoan khoái:
- Chi này rồi!
Mọi người lại thay nhau đào. Sâu chừng nửa thước tây nữa, có chỗ rộng thùng ra. Khán Ích nghi ngờ ngừng tay quay lại hỏi:
- Nhầm rồi ông trương ạ. Đến ổ rồi vẫn không có cầy.
Trương Quất cau mặt ra ý khó chịu cái tính đã không biết gì lại hay hỏi của khán Ích. Ông xẵng giọng:
- Chậc! Đã đến thế nào được ổ! Chỗ thùng là chỗ con cầy dùng để quay đầu ra lúc chui vào đấy. Bây giờ ông đào “bóp loa kèn” hộ đi.
Càng vào trong càng đào nhỏ dần, thuôn thuôn như cái phễu. Hai Cỏn thay khán Ích vì còn phải bắt cầy, ông bắt nhẹn và gọn lắm. Có tiếng lục đục bên trong. Đào thêm mấy lưỡi thuổng nữa, một cái đuôi trật ra ngoài. Nhanh như cắt, hai Cỏn bỏ thuổng, một tay nắm chân, còn tay nắm đuôi lần dần lên gáy. Giống cầy rất khôn, chọn chỗ ở hiểm hóc; nhưng rất dại khi người ta bắt. Nó sợ quá đến nỗi không dám quay lại cắn, cứ cắm đầu lôi miết, mong chạy thoát.
Cầm chắc chắn gọn gàng con vật trong tay, hai Cỏn lôi tuột ra. Con vật giãy giụa, chân đạp lung tung. Cái mõm dài há rộng lởm chởm những răng nhọn hoắt, kêu choe chóe. Trong lúc ấy trương Quất đã làm xong cái nẹp buộc cầy.
“Âu! Âu! Âu” Con Vện nằm dưới gốc duối hướng về phía mọi người cắn: “Âu! Âu! Âu”.
Khán Ích vui sướng rộn ràng. Lòng ông lúc ấy cũng múa lên như đuôi con chó gặp hơi cầy. Sự khoái chí bồng bột được phác rõ rệt trên nét mặt gần như đần độn của ông. Giằng mạnh ria mép xoắn đi một vòng, ông cười:
- Ay hầy! Lại cầy nữa ạ!
Không những con Vện rộng đất săn: tìm ra “lũy ống” bắt được hơi gió nó lại có biệt tài không con nào có nữa là tìm ra “hang cắm”. Chỗ nó nằm như thế có một cái hang ăn sầu thẳng xuống đất.
Con Vện lảng ra một chỗ. Mọi người đều trật nón xuống lạch múc nước đổ vào hang. Đất khô hút nhiều nước. Họ vẫn kiên nhẫn làm việc. Một lúc lâu, nước dềnh lên đầy miệng hang. Họ chăm chú nhìn. Một vài tia nước lăm tăm sủi. Chắc chắn dưới hang thế nào cũng có cầy, cả Nội bảo mọi người:
- Anh em im hơi lặng tiếng nấp cả vào bụi đi thôi. Ông khán với cu Dĩu thấy cầy lên chớ vồ, để mặc ông hai đấy.
Họ tản mác mỗi người một bụi. Con Vện cũng lặng lẽ nép bên cả Nội. Hai Cỏn đứng chân le chân vịt bên gốc duối, mắt đăm đăm nhìn miệng hang, mong đợi. Năm phút qua. Mười phút qua. Vẫn chưa thấy cầy lên. Hai Cỏn luôn luôn đổi dáng đứng cho đỡ mỏi.
Bỗng một cái đầu cầy nhô lên khỏi hang nước, e dè thận trọng nhìn xung quanh. Bốn bề vắng vẻ. Con vật thong thả bò lên. Khỏi miệng hang, nó nhắm mắt rũ lông. Nhẹ nhàng và nhanh nhẹn, hai Cỏn tóm trúng gáy, giơ bổng con vật lên, cười tự đắc:
- Tôi tính nó mới nhô lên đã hấp tấp vồ, mấy cũng trượt!
Rửa chân tay sạch sẽ, họ kéo nhau lên chợ Chè mỗi người đánh vài bát bún riêu no lòng rồi hỉ hả ra về.
Trên đường về khán Ích lấy làm vênh vang tự đắc có hai con cầy gánh trên vai, mỗi khi gặp người chỉ chỏ.
Trời đã về chiều. Gió bắt đầu lành lạnh. Phía tây dẫy núi Tam Đảo màu lam thẫm in rõ lên nền trời vàng gắt. Anh chiều như ngừng lại trước giờ phút sắp tàn... Bóng tối từ cánh đồng, trong lùm cây và các làng mạc dâng lên.
Câu chuyện của bọn cả Nội càng giòn giã, nở nang. Họ khoan khoái bước mau. Bữa rượu tiết cầy cứ chập chờn ám ảnh trong đầu khán Ích, làm ông cười nói to nhất. Con Vện lẽo đẽo theo sau, dáng mỏi mệt.
Bỗng nó đứng dừng lại. Ngẩng cao đầu lên, mũi phì phì đánh hơi, nó sủa vang lên mấy tiếng, rún mình nhảy ùm xuống ao, bơi sang bên kia lũy.
Cả Nội giật mình quay lại:
- Con Vện của tôi vừa bắt được cái hơi gió rồi, các ông ạ.
-Ta quay lại xem sao, còn sớm chán!
- Đích thị cầy ở trong chùa chứ không còn sai. Chó đang quát trong đó.
Họ theo con đường tắt nhỏ hẹp vào chùa. Đó là một ngôi chùa chơ vơ giữa cánh đồng xung quanh bao bọc bởi một lũy tre trống trải. Không có sư trụ trì nên cảnh càng đìu hiu, hoang vắng. Những cây muỗm sừng sững reo lá úa đầy sân rêu cỏ. Mái thì ngói sụt, tường thì long lở, ngổn ngang.
Qua sân chùa, bọn cả Nội nhằm chỗ có tiếng chó sủa tiến vào. Trong cái không khí vô cùng tĩnh mịch, dãy tượng La Hán sứt mẻ ngồi nghiêm trang trong bóng chiều nhờ nhờ tối như một thế giới nào không có ở dương gian. Bên ngoài, một vài tiếng quạ vang lên như điềm gở. Vẻ huyền bí rùng rợn. Không ai bảo ai, cả bọn đều đứng dừng lại một cách kính cẩn, sợ sệt. Con Vện vẫn sủa vang trong cuối rẫy như thúc giục. Muốn phá tan cái không khí tắc thở ấy. Trương Quất lên tiếng:
-Sà! Vào trong này các ông!
Dứt lời, ông mạnh bạo đi trước. Mọi người yên lòng lục tục theo sau.
Gian thờ Đức Ông cửa khép hờ như chờ đón. Lưỡng lự một chút, trương Quất tay phải nắm chắc chiếc thuổng tay trái quả quyết ẩy mạnh. Cánh cửa nặng nề quay rít lên một tiếng như tiếng nghiến răng. Tất cả ngần ấy cái miệng đều kêu rú lên. Một nỗi kinh khủng chạy râm ran khắp mọi người. Vứt cả thuổng, cả quắm, họ cắm đầu chạy té ra ngoài sân. Ai nấy, mắt mở trừng trừng mất tinh lạc, mặt tái mét, miệng thở không ra hơi, kêu ú ớ. Trời ơi! Thật rõ ràng cả ngần ấy người cùng trông thấy tượng Đức Ông trợn mắt lắc đầu, mà lắc rất mạnh trong bóng tối sâu, lạnh và ẩm mốc. Cái bộ mặt nanh ác ấy như giận dữ, như đe dọa bọn đi săn xấc láo.
Đứng một lúc lâu mới hoàn hồn, cả Nội lắp bắp:
- Ới dợi ơi là dợi ơi! Khiếp quá... Gọi chó về đi thôi, các ông ơi.
Khán Ích ra ý tiếc rẻ:
- Nhưng còn hai con cầy tôi vứt trong ấy làm thế nào lấy được?
- Cầy mấy chả cầy! Đã rụng rời nổ đốt cả người ra lại còn cứ cầy mãi!
Con Vện ở trong chùa, gọi thế nào cũng không ra. Bỗng cu Dĩu bật cười khanh khách. Cả Nội cau mặt bớp cho nó một chiếc:
- Cười! Cười cái gì?
Nó không im, liến láu:
- Cháu biết rồi, cháu biết tại làm sao ông Phật lại lắc đầu rồi. Độ trước cháu đi bắn chim với thằng cu Lạch, thằng cu Tiễu. Chúng cháu vào trong chùa chơi. Thằng cu Tiễu thấy ông Phật nứt cổ, đố thằng cu Lạch lên bẻ, thế là thằng cu Lạch lên bẻ đôi ngay đầu ông Phật ra.
Trương Quất lắc đầu le lỡi:
- Táo tợn thế thì thôi!
- Không, thằng cu Lạch đấy chứ có phải cháu đâu. Cháu đoán chắc là con cầy nó làm tổ trong bụng ông Phật. Bị chó bới, nó sợ chạy ngược trở lên, lục đục phạm phải cái que cắm ở bụng lên đầu ông Phật cho nên ông ấy mới lúc lắc cái đầu.
Khán Ích cười rộ:
- Ờ! Phải phải! Cu Dĩu nó nói nghe phải đấy các ông ạ. Ta vào bắt nốt, tội gì bỏ phí của.
Khán Ích đi trước, cu Dĩu ton tả theo sau, rồi trương Quất, hai Cỏn, cả Nội cũng vào nốt.
Đầu ông tượng đã rơi xuống bệ gạch, lăn lóc bên bát bình hương sứt mẻ. Cu Dĩu tự phụ:
- Đấy có phải cháu nói đúng không nào.
Chẳng ai buồn trả lời trẻ con. Xem ra mọi người có ý nản; khán Ích săm sắn, đốc thúc công việc. Ông sai cu Dĩu ra sân vơ ít lá khô vào đốt cho thêm sáng.
Ánh lửa bùng lên sáng rực cả gian chùa ẩm lạnh. Bóng ông tượng cụt đầu và bóng mọi người in chập chờn trên vách.
Cửa hang ngay dưới bệ gạch. Hai Cỏn ngồi nép một bên chờ cầy ra để bắt. Khán Ích trèo lên bệ cầm cái que cắm trên cổ ông Phật chọc lấy chọc để. Đã khá lâu cầy vẫn chưa ra. Trương Quất giục hai Cỏn:
- Ông hai xem có “mài” [8] không cho chắc chắn còn về chẳng muộn.
Hai Cỏn thò tay sờ cửa hang. Thì một cái đầu rắn thò dài ra phun phì phì định mổ. Con Vện nhảy bổ lại cứu. Nó nhe răng gừ gừ như muốn nhảy bổ vào con rắn. Con rắn ngừng lại. Thấy hai Cỏn đã thoát, con Vện cũng quay đầu định chạy. Tức thì con rắn nhoai dài mình ra, mổ trúng chân con Vện. Nó rú lên một tiếng thê thảm lăn ra giẫy giụa. Cả Nội hấp tấp ôm choàng lấy chó. Mọi người luống cuống tìm dây, tìm thuốc buộc vết thương.
Trong lúc ấy, con rắn nhẹ nhàng luồn qua kẽ tường nứt, thoát ra ngoài.
Con cầy cũng từ trong bệ gạch chui ra. Khán Ích kêu lên:
- Cầy! Cầy! Ông hai!
Không còn nể lời, cả Nội gắt:
- Cầy mấy chả cầy mãi. Mặc mẹ nó! Chết chó của người ta rồi đây này. Đã bảo thôi, cứ cố tình vào bắt. Thế có phải làm hại người ta không? Vỗ bao nhiêu lâu mới được con chó, bây giờ lấy gì mà thay con Vện được? Tôi tìm thế nào được con Vện thứ hai nữa, trời ơi là trời.
Cả Nội gục mặt vào lòng con chó mà khóc hu hu lên như vợ chết. Cả bọn đứng im.
Khán Ích cũng im như thóc.
Đống lá hết, không người tiếp. Ánh lửa tàn dần, còn thoi thóp vài ngọn không đủ chiếu sáng gian phòng u tối. Một cơn gió lạnh thoảng lọt vào, dăm tiếng lá khô lăn mình ngoài hiên vắng bật lên những tiếng lạt sạt khô rờn rợn.
Con Vện rên ư ử. Hai mắt lờ đờ nhìn cả Nội. Nọc rắn đã thấm vào tim phổi, nó rùng mình luôn mấy chiếc, duôi người ra, và chết lả trên tay chủ.
Chú thích:
[1] Thấp ràn: con chó dáng thấp.
[2] Khai tiền khai hậu: hai chân đằng trước và hai chân đằng sau cách nhau xa. Như thế tỏ ra con chó ngực rộng và đít to, khỏe.
[3] Hang quần: Hang con cầy dùng để rũ lông khi đi ăn đêm về cho bớt hơi.
[4] Hang sí: Hang con cầy dùng để chứa những chất thừa.
[5] Giống cầy ăn giun nên phải đi trên đất nhã, mũi sục xuống hút giun vì thế người đi săn phải tìm vết chân và mũi cầy. Mũi cầy giống như mũi lợn con, chân cầy vết dài có móng. Còn vết chân cáo ngắn và không có móng in trên đất nhã.
[6] Chi: ngách.
[7] Trâm tra: đánh hơi lại cho kỹ.
[8] Mài: hang cầy nào cũng vậy, ngoài miệng, phía trên cũng nhẫn thín vì con cầy chui ra chui vào luôn. Chỗ nhẵn ấy gọi là “mài”.
Kim Lân
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Người Đàn Bà Và Những Giấc Mơ Giới thiệu Trong một đêm, nàng bỗng mơ thấy mình trở thành một người đàn ông. Một người đàn ông thực thụ...