Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

Vợ nhặt 1

Vợ nhặt 1

Đứa con người vợ lẽ
Tư nằm dán mình trên giường. Đầu anh nặng trĩu trên chiếc gối bông cáu ghét. Mắt nhìn trân trân lên sàn nhà; lúc ấy anh không nghĩ ngợi gì. Hai tay nặng nề rời rạc, thỉnh thoảng lại cố gượng đập nhẹ xuống phản, để xua đuổi những nỗi tê tê buồn buồn chạy trong các ống xương. Anh xoay mình lại cho đỡ mỏi. Mắt se sẽ nhắm lại, và lắng nghe những cảm giác chạy trong người. Ruột anh xót như cào. Bụng hóp lại. Mặt phờ phạc. Anh thấy cáu kỉnh vẩn vơ, những muốn càu nhàu mấy tiếng. Tư đói quá đói lả người đi. Đã hai hôm nay rồi, anh chưa có hột cơm nào vào trong bụng. Đồng năm xu mẹ anh cho, anh tiêu phăng ngay từ hôm đầu, tưởng chiều thế nào mẹ cũng về; ai ngờ, bặt tin đi hai hôm. Hai hôm vật lộn với sự đói nó hành hạ, anh chỉ biết nằm lại ngồi, phờ phạc trong mấy gian nhà chật hẹp. Đã có lúc anh lục tung cả hòm xiểng, chum chĩnh trong buồng, ngoài nhà ra để tìm. Biết không có gì anh vẫn tìm, xem trong nhà có còn sót tí ngô đỗ nào chăng. Hình như lúc tìm tòi ấy, anh đỡ đói đi chút ít.
Thấy khát nước, Tư chống tay ngồi dậy. Anh chớp vội mấy cái và lim dim cặp mắt cho đỡ chói.
Nắng vàng gay gắt rọi xuống sân, hắt ánh vàng và mùi nồng nực vào mấy gian nhà ngói cổ. Tư uống từng ngụm nước nhỏ. Những dòng nước mát mẻ chạy đến đâu, anh biết đến đấy. Hai hôm nay, anh vẫn uống nước cầm hơi như thế.
Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên, Tư phải thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm; đi buôn - buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa. Vả lại dẫu rằng nghèo, nhưng mẹ anh rất khái, không muốn chịu tiếng nhờ ai. Bà đi khâu thuê vá mướn kiếm gạo về nuôi con. Nhiều khi không có việc làm, mẹ con đành chịu đói. Những hôm ấy, bà thường trốn tránh, bà rất sợ phải nhìn cảnh mẹ con đói khát. Muốn cho mẹ cất gánh nặng, đã nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, nhưng họ đều từ chối vì dạo này hàng ế. Họ hứa đến tháng tám này sẽ gọi anh làm. Bất đắc dĩ anh phải đóng vai ăn bám.
Tư nghĩ liên miên: anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống. Mắt nhắm lại, muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ dày. Chợt tiếng ông Cả gọi ngoài cổng ngõ, Tư vùng trở dậy, dạ lớn lên một tiếng, vội vã ra mở cửa.
Tư nhu nhú chào anh. Nhưng ông Cả không trả lời, ông bệ vệ bước vào. Khổ người phì nộn khác hẳn với vẻ gầy còm của Tư. Mặt ông tròn và ngắn, lúc nào cũng vui một cách vô tư lự. Nước da hồng hào, trắng nhễ trắng nhại, bóng loáng như bôi dầu. Ông vẫn tự phụ là có vẻ quan dạng lắm. Đi đâu, mặc dù là ông chủ hiệu vải vùng trên, ông cũng thắng bộ oai ra phết. Lúc nào cũng xách cái cặp phồng tướng trong toàn đựng quần áo hoặc quà bánh của con. Ông nghiêm nghị đảo mắt chung quanh nhà một lượt, sẽ cau mặt lại gắt:
- Nhà cửa bề bộn thế này thì thôi? Rỗi rãi ta cũng phải cất nhắc đôi chút chứ.
Ấy là ông gắt lấy oai đấy thôi. Thực ra ông cũng chẳng quan tâm gì đến nhà cửa. Chẳng có thế mà ở chợ trên về, ông chơi tổ tôm ờ nhà Quản Uyển, một nhà gá bạc, luôn hai hôm. Ông trật khăn quẳng lên bàn, rồi nằm thẳng rẵng trên tràng kỷ. Đầu ngửa lên xà nhà thở dài sườn sượt, ra dáng mệt nhọc lắm. Ông nói một mình.
- Mẹ kiếp, tổ tôm còm mà cũng thua ngót hai chục bạc, đen rấp đen rủi.
Ông ngáp thấp ngáp tháo một hồi, rồi ngủ lúc nào không biết.
Tư len lén quét nhà, khẽ xếp những đồ đạc bề bộn. Xong anh lỉnh xuống bếp ngồi cho đỡ mệt.
Trời đã về chiều, ánh nắng nhạt dần, lùi ra gần hết mặt sân. Mặt trời chếch là là xuống sau nhà, những cây cối ngả bóng trên mái. Thỉnh thoảng những bóng cây có giọt nắng rọi qua lại rung động lên vì gió. Mặt ao trong vườn gợn sóng, nổi giạt những váng ngầu về một góc. Trên cầu tre, một cô gái đang vo gạo, làm sóng sánh những ánh vàng của mặt trời rớt trên các đầu sóng. Mấy mái nhà tranh xám nhô ra khỏi bụi chuối lá óng như lụa, đang thong thả bốc khói. Những làn khói lặng lẽ bốc lên dật dờ bay theo gió, in trên nền trời xanh ngắt một nét nhẹ nhàng, thanh thoát. Cảnh đẹp như mỉa mai Tư. Anh ngồi phệt xuống đất, lưng dựa vào bức tường vàng sạm vì khói ám. Mặt lờ đờ nhìn làn khói xám vơ vẩn bốc lên trời. Tai nghe tiếng vo gạo sàn sạt trên rá ngoài cầu ao. Tâm trí anh xáo động lên, anh nghĩ đến bữa cơm nhà hàng xóm. Anh ngao ngán nhìn cái bếp lạnh lẽo của nhà, mấy ông đầu rau đen chũi, ngồi lặng lẽ như than thầm với nhau. Nước mắt anh trào ra âm thầm lăn trên gò má.
Trên nhà, ông Cả vùng thức dậy. Ông vươn vai, bẻ khục, vặn mình kêu răng rắc. Ông vừa ngáp vừa gọi:
- Tư ơi?
- Dạ.
- Thoáng cái là lỉnh. Thoáng cái là lỉnh thôi.
Tư gượng gạo đứng lên, lệt xệt bước lên trên nhà. Ông Cả vứt một hào ra bàn, dịu giọng:
- Đi mua một hào phở?
- Vâng.
- Đem bát nhà đi.
- Vâng.
Tư thất thểu lê bước. Tay bưng có bát phở mà mỏi rã rời. Khói bốc lên nghi ngút. Anh thèm quá. Trông những bánh tráng trắng phau mềm rẻo, ẩn hiện trong nước dùng váng sao, những miếng thịt bò mỏng tang xếp gọn ghẽ, những hành, mùi, hồ tiêu rắc lên trên, thơm ngào ngạt phả mãi vào mũi anh. Con tỳ con vị như thức dậy, bụng sôi sùng sục, vần lên chuyển xuống. Nước bọt cứ ứa mãi ra, anh ao ước được một bát.
Tư đặt bát phở lên bàn cho anh, rồi lặng lẽ ra ngoài thềm. Ông Cả vừa vừa cắm cáu gắt:
- Gớm! Phở! Ăn rẳng như đấm vào họng!
Tư se sẽ nuột nước bọt. Thật là mỉa mai. Ăn xong, buông đũa buông bát, ông Cả vội vã cắp cặp ra đi ông còn cay mấy hội bạch cược hôm qua.
Ông Cả đi rồi. Tư cũng chẳng buồn ra đóng cửa. Anh định đem bát ra chậu ngâm, nhưng lại thôi, là vì anh thấy còn đến lưng bát nước dùng ăn thừa. Lúc khác ai còn giữ lại làm gì? Nhưng lúc này... Tư đưa “bát phở” lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết? Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm, cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về nhà. Rồi mời anh:
- Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: anh ở đây ăn cơm nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé.
Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh “bát phở” ra sân. Tiếng bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và thấy tiêng tiếc. Tư thấy mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống.
Chiều tàn đã lâu. Cảnh vật thẫm lại. Gió khua lá lao xao. Những lùm cây đen thẫm lắc lư trên nền trời sẫm đục. Thân, một tay ôm gói bọc giấy báo, một tay đẩy mạnh cánh cửa. Một tiếng rít rền trong yên lặng. Anh xăm xăm bước, nhớn nhác nhìn vào mấy gian nhà tối om. Miệng lẩm bẩm:
- Quái sao nhà cửa để tối thế này?
Thân im bặt vì thấy mình nhỡ lời. Anh thong thả bước lên nhà. Đặt gói lên bàn, Tư vẫn nằm rũ trên thành kỷ không biết bạn đến, Thân lay bạn:
- Tư? Tư?
Tư thều thào:
- Thân đấy à?
- Ừ, Tư ngủ à?
Giọng Tư nhỏ, đầy mệt nhọc:
- Không... Thân vào tôi cũng biết... nhưng... mệt quá.
Thân ái ngại nhìn bạn trong bóng tối. Đoạn anh nói rất nhẹ nhàng:
- Tôi đem cho Tư ít hạt mít đây. Tư ăn đi.
Tư cảm động quá. Nước mắt chảy ròng ròng, anh nghẹn ngào:
- Thân tốt với tôi quá.
- Ồ? Anh.
Đôi bạn ngồi âm thầm trong bóng tối. Tiếng Tư nhai hạt mít trong im lặng. Tư chợt nghĩ đến mẹ, anh ngóc đầu bảo bạn:
- Thân cất đi cho tôi một nửa nhé.
Anh định tâm để dành cho mẹ. Thân ôn tồn:
- Ừ, còn nhiều anh ạ.
Tư lại nghĩ đến mình, đến tương lai. Một tương lai mờ mịt của đứa con vợ lẽ. Anh thôi não ruột.
- Gì thế anh?
- Không.
Hai người im lặng.
Đứa con người cô đầu
Chiều tắt đã lâu rồi. Trời vẫn còn bức bối, ai cũng sợ mấy gian nhà tối om hâm hấp nóng. Họ ra cả ngoài sân hóng gió. Tôi nằm một mình trên mui bể, mắt nhìn đăm đăm mấy ngôi sao lấp lánh trên khoảng không gian xa thẳm. Mặt trăng lưỡi liềm, lấp ló sau mấy tầu cau đen thẫm, tỏa xuống nhân gian một thứ ánh sáng mờ mờ. Mẹ tôi quạt phành phạch lên từng hơi.
- Trời với đất? Chẳng có tí gió nào.
Em tôi vẫn vui đùa với cái tuổi ngây thơ của nó. Từ trong nhà đi ra, nó nói:
- Ở trong nhà bước ra ngoài sân, ngã đánh oạch một cái...
Nó giả vờ ngã vào lòng mẹ tôi, liến láu tiếp:
- Ôi chao? Ôi chao? Trên giời lắm sao, dưới ao lắm cá, thiên hạ lắm người, đố ai đếm được mười ông sao. Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng...
Thế rồi líu lưỡi nói nhịu: sao sáng ra sang sáo, sáng sao ra sáo sang... Nó phá lên cười. Mẹ tôi âu yếm mắng:
- Thôi không đùa nữa? Mồ hôi mồ kê. Yên để quạt cho!
Nó nũng nịu:
- Không? Đẻ nói tài tài tài là. Đẻ nói cho con nghe đi... đi đẻ?
Bà cụ nhiều con gái, thong thả nói từ một đến mười, ông sao sáng với ông sáng sao bằng một giọng đều đều không vấp váp.
Em tôi vỗ tay reo hò:
- Đẻ tài quá! Đẻ tài quá!
Tiếng nó kéo dài trong không khí nặng nề của buổi tối mùa hạ. Bỗng có tiếng gọi. Nó vùng chạy ra mở cửa. Có tiếng hỏi:
- Anh Ứng có nhà không cô?
Tôi nhỏm dậy nói với ra:
- Có! Thạ đấy phải không? Vào trong này.
Thạ theo em tôi vào. Chào mẹ tôi rồi, y nhớn nhác tìm.
- Thạ! Đây kia mà!
Hắn chạy lại phía tôi:
- Ờ. Anh ở đây mà em không biết. Gớm, trời nóng quá nhỉ. Hôm nay em ngủ đây với anh nhé?
Tôi trả lời miễn cưỡng:
- Ừ, cũng được.
Dưới ánh sáng mờ mờ đêm trăng thượng tuần, tôi thấy hắn tiêu tụy quá. Quần áo xốc xếch bẩn thỉu. Cái đầu lâu không húi, tóc rù ra như tổ chim, chùm lấy khuôn mặt choắt cheo khắc khổ. Hai mắt lờ đờ thiếu ánh sáng, trái hẳn với cái mồm mỏng tang lém luốc.
Không phải tôi khinh hắn. Nhưng lúc ấy tôi thấy khó chịu và ngượng nghịu, có lẽ vì có mẹ tôi ở đấy. Không ai nói một lời. Không khí im lặng bao bọc chúng tôi một cách khó chịu. Cùng nằm với nhau, tôi thấy như xa cách với hắn lắm.
Tôi biết Thạ vào vụ hè mấy năm trước đây. Tôi hay sang trường tư của anh Thảo - bạn tôi, chơi. Thường thường, tôi vẫn dạy giúp anh mỗi khi anh nghỉ vì bệnh hen của anh cứ bất thường nổi lên.
Lần nào cũng vậy, chấm những bài luận quốc văn của Lương Danh Thạ, tôi không khỏi mỉm cười. Bất cứ tả cảnh gì hắn cũng mở bài bằng những câu: “Bình minh...” “Hoàng hôn...” hoặc “Mưa bay...”, “Lá rơi...”. Những câu văn học mót ở những cuốn tiểu thuyết võ hiệp ba xu. Có một hôm chấm bài hắn, tò mò giở đi mấy trang tôi chợt thấy một bài thơ chữ viết nắn nót. Tôi còn nhớ mang máng:
Sở Bình Vương ngồi yên trên mình ngựa
Đưa mắt buồn theo tới tận chân mây...
Đại khái tất cả những câu thơ hắn sửa đổi lại vài chữ. Dưới ký: Lương-Danh-Thạ dit Thái Dương Tử [1]. Thấy ngộ nghĩnh, tôi gọi hắn lên đưa bài thơ cóp nhặt kia ra hỏi:
- Bài thơ này của anh làm ra?
Hắn thẹn đỏ mặt ngập ngừng nói không ra lời. Tôi chậm rãi:
- Tôi nghe thơ anh hùng tráng và lưu loát lắm.
Hắn cúi gằm mặt xuống, tay vân vê khuy áo. Thấy mình ác quá, tôi đưa trả sách cho hắn về chỗ. Từ đấy hắn sum soe làm quen với tôi. Vì thế tôi mới biết hắn là con người cô đầu ở Mười Lăm Gian.
Không một lần nào gần tôi, hắn không khoe: “Em là con cháu cụ Lương Thế Vinh, cụ Lương Đắc Bằng, cụ Lương Quy Chính đấy anh ạ”. Và hứa hẹn: “Em sẽ viết một thiên phóng sự về cô đầu. Em sẽ đem những cái ‘truých’ của cô đầu, quan viên, thằng nhỏ, kép đàn ‘truých’ nhau phơi lên mặt giấy cho anh xem. Em sẽ lấy nhan đề là: Ca công phóng sự”.
Nhiều lúc tôi thấy khó chịu vì cái tính huênh hoang xốc nổi, nhưng cũng không tiện nói ra.
Thế rồi, bặt đi lâu lăm, dễ có đến hơn một năm tôi không gặp hắn đâu. Mỗi lần đi qua Mười Lăm Gian tôi vẫn thấy mẹ hắn mặt trát bự phấn, ngồi ủ rũ trước hiên chờ khách. Cho đến một chiều, như lệ thường đi rong phố, tôi gặp hắn ở trước một hiệu tạp hóa. Thấy tôi, hắn rối rít:
- Lâu lắm mới gặp anh! Lâu lắm mới gặp anh!
Hăn xúng xính trong bộ quần áo pyjama vải thâm đã bạc mâu. Tay hắn tôi thoáng thấy ánh nhẫn bạc. Cách ăn mặc và cử chỉ điệu đà của hắn làm tôi nghĩ đến anh kép hát của những ban đồng ấu thường về diễn ở đây.
Chợt nghĩ đến quần áo, tôi quay mình lại hỏi:
- Thế quần áo trước kia của Thạ đâu?...
- Em mất trộm. Nhà em mất trộm, anh ạ. Có bao nhiêu quần áo mất sạch.
Tôi hoài nghi. Vì hắn trả lời lúng túng. Vả đây với Mười Lăm Gian là bao xa mà một vụ trộm xảy ra tôi không biết? Tuy vậy, tôi cũng nói lấy lòng:
- Độ này vải cao, mất thế cũng khá tiền đấy nhỉ?
Nhưng trong thâm tâm tôi thấy bừng bực. Tôi nghiệm ra từ trước đến nay tôi hỏi hắn điều gì, hắn cũng trả lời quanh, không thật!
... Mấy ngọn cau đen thẫm in lên nền trời sáng đục. Tàu mềm lả là thế mà không hề lay động. Trời hôm nay như nín thở. Mẹ tôi quạt luôn tay. Em tôi ngủ đã lâu rồi. Tiếng võng bên hàng xóm kêu cót két.
Bỗng thấy tàu cau phe phẩy. Một cơn gió nhẹ thoảng qua. Mẹ tôi dừng tay quạt.
- Lạy giời, giời gió lên một tí...
Như họa theo lời mẹ tôi, gió dần dần thổi mạnh. Rồi ào ào trong lá cây. Thân cau lắc lư nghiêng ngả. Lá tre, lá găng không biết từ đâu bay rụng tấp tới xuống sân. Mây đen từ phía đông lừ lừ tiến lên, che khuất mặt trăng. Trời tối sẫm lại.
Mẹ tôi bế em tôi vào trong nhà. Đến thềm, bà quay ra dặn với:
- Ứng nhớ bắc máng, con nhá.
Gió lạnh đã quét sạch oi ả và nồng nực đi, để lại một khí trời mát mẻ dễ chịu. Mưa lộp bộp lia mạnh xuống mái nhà. Rồi ngừng... rồi lại mưa... Tia chớp thoáng qua vạch rõ những khe cửa. Mưa gió đã làm cho tôi bớt căng thẳng với Thạ hơn. Một luồng gió rít mạnh, thổi bật cánh cửa sổ. Khí lạnh ùa vào, tràn lên da thịt sởn gai. Một khung sáng mờ mờ hình chữ thật có giọc đen hiện ra. Bên ngoài bóng mấy tàu chuối quằn quại đập vào nhau phành phạch. Tôi vội đóng cửa sổ lại, với thêm chiếc chiếu trên sà nhà xuống đắp cho ấm. Mưa gió vẫn sầm sập. Chúng tôi vẫn chưa ai ngủ được. Tự nhiên cái gì xích Thạ nằm ai gần thêm. Hắn nói qua tiếng thở dài:
- Đời em khổ lắm, anh Ứng ạ.
Tôi biết hắn có tâm sự gì muốn nói nên im lặng.
- U em lại bước đi bước nữa!
Tiếng hắn nói ngụ một nỗi gì vừa thống khổ, vừa hờn giận. Chợt tôi cũng thở dài một tiếng khe khẽ, như nén xuống nỗi dày vò của hắn: “Lại bước đi bước nữa”. Trời! thật là mỉa mai chua chát. Thì ra mẹ hắn đã đi bước nữa nhiều lần. Im lặng một lúc khá lâu, lại nghe hắn cất tiếng kể tiếp bằng một giọng đều đều não nuột:
- Em nói thật đời em. Anh đừng khinh em nhé. Anh ạ, mẹ em là cô đầu chính tông. Ông bà ngoại em sinh được bốn người con gái làm cô đầu cả bốn. Trước khi lấy thầy em, mẹ em đã tằng tịu với một ông Lục sự; đẻ được một người con trai. Được ít lâu ông Lục ấy phải đổi đi xa. Xem chừng ông ta cũng không giàu có gì. Mẹ em bỏ thẳng cánh. Thầy em lấy mẹ em về; nhà có vợ cả. Vốn là người đanh đá lại cậy thế thầy em chiều chuộng, mẹ em lấn quyền hành hạ các anh con mẹ già em khổ lắm. Đấy là thời kỳ sung sướng nhất trong đời em. Em đi học đến lớp ba thì thầy em mất. Sẵn có ít vốn riêng, mẹ em trở lại nghề cũ; mở nhà hát cô đầu. Được vài năm cảnh nhà sa sút dần. Em phải thôi học về nhà làm thằng nhỏ. Anh ạ...
Tiếng hắn bị ngắt nghẹn lại. Im lặng một lát, hắn thở dài buồn bã kể tiếp:
- Anh ạ, em không thể nào ở nhà trông thấy mẹ em bị ôm ấp trong cánh tay những người đàn ông khác. Thế rồi em trốn nhà đi, theo một ban hát đồng ấu. Ngót một năm trời, em vẫn chưa biết hát, chỉ sắm những vai quân kiếc xì xằng thôi. Rồi em bị đuổi vì đánh nhau với thằng kép chính. Không còn bám víu vào đâu mà sống được nữa, em đành phải trở về với mẹ em, làm thằng nhỏ nhà cô đầu vậy. Từ ngày thầy em mất đi, mẹ em cải giá lần này vừa đúng ba bận. Mấy lần trước, người thì có vợ cả ác nghiệt, người không đủ tiền “bao”, mẹ em bỏ cả. Lần này chắc cha mẹ em yên thân lắm. Mẹ em lấy một ông phán đã có tuổi ở Bắc Kạn, giàu có lại hóa vợ. Ông ta nhất định không cho mẹ em đem em theo. Vì ông kiêng không muốn rước cái nợ vào người. Anh ạ, mẹ em đi đã hơn hai tháng nay rồi. Không biết sao vẫn chưa gửi tiền về cho em. Quần áo, em phải bán đi để trả tiền ăn, chứ có phải mất trộm như em nói với anh ban chiều đâu. Nếu mẹ em không gửi tiền về, em không biết làm thế nào mà sống được.
Nói đến đấy hắn gục đầu vào ngực tôi khóc nức nở. Tôi không biết an ủi thế nào trong lúc người ta vô cùng đau khổ này. Ngoài nhà đồng hồ thong thả điểm hai tiếng. Tôi đưa tay lên nhè nhẹ vuốt tóc hắn.
Bằng một giọng rất âu yếm, tôi bảo:
- Thôi, khuya rồi, ngủ đi?
Vì công việc hàng ngày, câu chuyện thương tâm trong đêm mưa gió không còn trở lại quấy rối trong óc tôi nữa.
Mãi đến một hôm, trời nắng chang chang...
Tôi phải đi rát vào vỉa hè cho có bóng mát. Lưng tôi ướt dẫm mồ hôi. Hai mi mắt nặng nề buông xuống, sợ ánh sáng. Mùi rác rưởi, mùi cống rãnh bay tản mác khắp các ngõ, ẩm thấp, nồng nực; mùi quen thuộc của một phố nghèo. Bỗng tiếng rao kem Nhật vang lên, rướn lên. Nghe quen quen, tôi quay lại. Thì ra Thạ.
Thoáng thấy tôi, hắn đội lệch cái mũ trắng rúm ró che mặt rồi quay ngoắt vào phố khác. Độ này hắn gầy quá. Quần áo rộng lùng bùng. Sợi đã bợt nên mặc dầu vá chằng vá đụp, áo nó vẫn rách tả tơi, để hở những miếng da đen sạm vì cháy nắng. Bóng cậu học trò xinh xẻo, trắng trẻo không còn ở hắn nữa.
Tôi bùi ngùi nhìn theo. Nhớ đến mẹ hắn hiện giờ đang yên thân no ấm, bỏ mặc đứa con bé dại, trơ vơ, tôi giận và buồn vẩn vơ.
- Kem! Kem ơ!
Tiếng rao kem từ cuối xóm thoảng vọng lại...
Chú thích:
[1] Đây là câu viết theo tiếng Pháp, tuy chỉ có duy nhất từ “dit” là tiếng Pháp, nghĩa là “gọi là”, “tức là” (B. T)
Người kép già
I. Chưa có việc làm, tôi thấy chán nản vô cùng. Những ngày nhàn rỗi đằng đẵng nối tiếp. Để khuây khỏa nỗi buồn thất nghiệp, tôi thường đến nhà các bạn chơi. Tôi hay đến Dụ nhất. Không phải tôi thân với anh hơn các bạn kia. Nhưng vì một lẽ khác. Vì ông Trạch. Người kép tuồng đã về già.
Ngày mới đến, tôi cũng không chú ý đến ông ta lắm. Con người gầy còm và xanh xao ấy, lúc nào cũng giữ một vẻ thầm kín và tư lự.
Dụ ghét ông ta lắm. Nói ra miệng, bằng giọng cay nghiệt:
- Ngày nào cũng phải cung 15 phân thuốc đấy. Mà chẳng được tích sự gì.
Như biết phận, ông chỉ thậm thụt trong gian buồng lụp sụp, ẩm thấp. Cứ tối đến lại leo lắt ánh đèn dầu lạc và tiếng “ro ro” rầu rĩ đưa ra.
Có một bận tôi đánh cờ với Dụ. Không hiểu vui sướng điều gì, có lẽ vì no phiện, ông Trạch hứng chí mần mấy câu tuồng cổ. Giọng ông khô khan nghe chán chường và rè rè như tiếng thuốc phiện chui qua nhĩ. Đang bực mình về nước bí, Dụ không còn nghĩ đến lựa lời. Anh gắt lên một câu rất trịch thượng.
- Gớm “cậu”! Làm gì mà ồn lên thế.
Tiếng “cậu” anh nói nhanh và nhỏ gần như không nghe rõ. Trên bộ mặt tái của ông thoáng qua một nét giận nhưng rồi lại bình thản ngay. Một lúc lâu ông mới cười khẩy một tiếng, không nói gì.
Người kép già ấy, mặt răn reo vì có tuổi, tái xanh vì giang hồ. Mắt lờ đờ vì khói thuốc phiện, vì bao đêm không ngủ. Nhưng tôi thấy ở ông ta một vẻ rất sắc sảo, cái sắc sảo của những con hát. Vậy mà con người từng trải ấy đã chịu thua kém nín nhịn một thằng cháu nhãi ranh.
Từ đấy những lúc vui lắm ông mới hát khe khẽ tay thẫn thờ gõ nhịp xuống phản. Còn thường thường ông nằm đườn ra, đầu gối lên chiếc ấm bì, tay vắt qua trán, chập chờn ngủ. Hoặc ngồi xếp bằng. Hai mắt ngao ngán nhìn vào một khoảng không, tư lự. Có lẽ óc ông lúc ấy đang đi trở ngược lại thời lừng lẫy, tưng bừng ánh sáng và âm nhạc thuở trước.
Xưa kia ông là một con hát nổi danh. Rạp nào đón được ông là một mối lợi lớn. Mỗi lần ông kép Trạch “thủ bản” trưng ra là người ta rồn rập đến xem rất đông. Những chủ rạp tranh nhau đón.
... Thế rồi, tuổi xuân qua, đem cả giọng hát trong trẻo của ông đi. Vả tuồng cổ cũng đến ngày không được ai chuộng nữa. Người ta đã bỏ rơi ông trong một xó nhà quê hẻo lánh, với bao nhiêu là thiếu thốn, là tủi cực. Đột nhiên tôi thấy thương con người thất thế. Người cùng cảnh - tôi cũng thất nghiệp. Tuy không bị ai hắt hủi song những lúc mẹ tôi buồn rầu nhìn qua đôi kính lão mà hỏi: “Con đã tìm được việc chưa?” Thì tôi thấy long se lại. Và một niềm bực dọc ray rứt ngấm ngầm trong tâm tôi. Tôi nghĩ đến cảnh nhà thiếu thốn.
Lân la làm quen, tôi được ông Trạch coi như bạn. Ông gần gấp ba tuổi tôi. Mỗi lần sang chơi, ông vui vẻ gọi tôi lại bên bàn đèn:
- Bác Triệu? Lại đây nói chuyện cho vui.
Ông có vẻ hợp tôi lắm. Bên bàn đèn thuốc phiện, tôi đi sâu mãi vào trong đời ông hơn. Cuộc đời khi trước ông lần lần kể lại. Ông vừa nói vừa khoa tay làm dáng điệu, mắt trợn trừng trợn trạc như khi ở sân khấu, theo thói quen của ông. Ông kể lại những chuyện oanh liệt khi xưa để trút bớt nỗi buồn bực đè nén trong lòng bấy lâu. Bằng một giọng hằn học ông thường nói:
- À sào! Có cái giả dại làm ngây đấy thôi. Chứ tôi còn hẹm cái nỗi gì ở đời này nữa, bác tính! Tôi đã sung sướng chán rồi. Giờ mình kiết nên hèn thế này thôi.
Cứ chập tối là tôi lần sang, nằm khểnh bên khay đèn hóng chuyện. Thấy thế Dụ thường giễu cợt:
-Thằng Triệu nó nghiện khói anh em ạ.
Tôi chỉ cười không nói gì.
Không ngờ ông bạn già tiều tụy của tôi đã có lần sang tận bên mẫu quốc phô diễn tài nghệ. Chuyện này ông kể lại cho tôi nghe, lúc đang đánh sái. Chợt ông ngửng lên, kiêu hãnh:
- Bác phải biết. Tôi đã có lần cùng anh em sang Tây hát rồi đấy nhé? (tiếng tây ông rằn mạnh). Năm ấy làng ta ba người được đi. Chánh hội Phùng là một, tôi là hai, Huyện Hốt là ba... Ấy, được Tri huyện về hát tuồng đấy.
Tôi cười ngạc nhiên:
- Hát tuồng mà được tri huyện?
- Ấy nó thế này? Sang bên ấy cứ hai ba tuần lễ mới đổi tích. Lần ấy, hát vở Đào Phi Phụng. Huyện Hốt năm bấy giờ mới độ mười ba, mười bốn, bầu bĩnh khôi ngô. Được sắm vai hoàng tử. Có một ông tây già đem lòng yêu quý. Xin hắn về làm con nuôi, cho ăn đi học. Về sau đỗ đạt được bổ Tri huyện mà!
Ông ngừng lại đưa chén sái lên miệng hà hơi. Đoạn, vê cho dài ra như con giun đen, bấm thành từng viên nhỏ. Ông thong thả nằm xuống người co như con tôm. Hút một chặp ba điếu mới đặt dọc tẩu xuống. Với tay lấy tích nước ngay đầu giường, tu một hụm. Ông xoay mình lại. Cặp mắt lim dim mơ màng. Tôi vẫn yên lặng chờ đợi. Bỗng ông thở một tiếng dài thườn thượt rồi nói tiếp:
- Anh em lớp ấy về, những người giải nghệ đều khá giả cả...
Ông đổi giọng chán chường:
- Nói bảo phụ tổ, chứ cái nghề này nó mạt lắm, bác ạ. Tôi đã mấy phen đứng chủ rạp hát. Trong tay kể có tiền nghìn. Vậy mà tay trắng lại hoàn tay trắng.
Bốn bề yên lặng. Một làn không khí nhạt nhẽo bao phủ chúng tôi. Bất giác, tôi quay lại nhìn cái bàn mộc trên để khám thờ tổ đã long sơn. Hai bên kê hai chiếc mặt nạ: ông Thiên, ông Địa. Trong ánh sáng tờ mờ của ngọn đèn dầu lạc, cái gì cũng có vẻ không hợp thời nữa, sắp chìm vào trong bóng tối của thời gian. Cái cảm giác này cũng giống như hôm nào, khi ông Trạch mở hòm khóa chuông khoe ảnh nhân tình - Tôi tò mò nhìn thấy mấy bộ râu đuôi ngựa mốc thếch, và dăm bộ áo tuồng cũ nát mà mùi hôi mốc xông lên.
Sự quen thuộc và thân mật cho tôi biết: mỗi ngày ông Trạch hút hết một cóng thuốc mười lăm phân. Đến lượt sái ba thì đủ nghiện.
Sau dần, tôi thấy rõ ràng nỗi túng thiếu của ông. Lắm hôm ông phải nướng diện lấy cao mới đủ. Người ông xọp đi, mặt phù lên, nước da vàng nhợt nhạt.
Bỗng bặt đi, tôi không thấy tiếng thuốc phiện rầu rĩ và ánh sáng vàng vọt trong buồng đưa ra nữa. Chỉ có tiếng vật mình vật mẩy và tiếng thở dài ảo não thay vào.
Một hôm ông Trạch gọi tôi. Nét mặt thảm hại, băn khoăn. Lúc lâu ông mới cất giọng lè nhè, kể lể:
- Chả nói giấu gì bác. Bà Trưởng - mẹ Dụ - không tư dùm tôi nữa. Mà tiền đẻ cháu gửi về thì không đủ.
Tôi bàn giúp:
- Hay là ông bắt bà nhà ta gửi thêm.
- Thế thì còn nói gì nữa. Nó khốn lắm cơ, bác ạ. Một mình đẻ cháu bóp chắt lắm mới đủ tiền nuôi các cháu. Gửi cho được đồng nào hay đồng ấy. Với lại nhờ vả thế này, tôi cũng đã xấu hổ lắm rồi. Nói ra sợ bác cười. Chứ không ai hiền lành thật thà như đẻ cháu.
Ông ngừng lại ho nhẹ mấy tiếng rồi buồn rầu kể tiếp:
- Tôi từ ngày theo nghệ tổ, đi đây đi đó đã nhiều, lấy vợ này thay vợ khác đã lắm. Tiền trăm bạc chục trong tay chi thường. Thế mà tịnh không gửi qua cho đẻ cháu lấy một xu hay một lá thư hỏi thăm. Đời tôi lúc bấy giờ tưởng như không có người vợ quê ấy nữa. Mê mải theo sở thích của mình, tôi bỏ lửng đẻ cháu ngót mười lăm năm trời, mười lăm năm trời, bác ạ?
Ông nghẹn ngào nói qua nước mắt:
- Còn đẻ cháu! Khốn nạn! Đẻ cháu có bao giờ tưởng chồng tệ bạc, suốt mấy mươi năm trời vẫn yên phận, thắt lưng buộc bụng tần tảo nuôi con... Mãi cho đến ngày già yếu, không đi hát được nữa, tôi mới trở lại với người vợ cũ. Đẻ cháu thấy tôi về cũng không ngạc nhiên, vẫn đon đả tươi cười, coi như chồng đi làm ăn xa, lâu lắm mới về mà thôi.
Ông ngừng lại thở hổn hển, thẫn thờ với chiếc khăn mặt nâu đen cáu, thấm nước mắt:
- Thế thì bác tính? Liệu tôi còn dám vác mặt lên ăn bám đẻ cháu cho nó đang tâm không?
Tôi cũng chẳng biết khuyên ông thế nào cho phải. Đành nín lặng. Còn ông thì có vẻ phân vân lưỡng lự. Một lúc lâu, ông mới hạ giọng thì thầm:
- Bác có tiền cho tôi giật tạm vài hào. Quả thật hai hôm nay chưa có thuốc.
À! Thì ra ông muốn hỏi vay tiền. Khốn nạn! Thảo nào ông phải kể lể dài dòng để lấy lòng thương của tôi. May lúc ấy tôi lại có đồng hai hào vội đưa cho ông “giật tạm”.
Một độ ông Trạch đi cả ngày không mấy lúc có nhà. Mới đầu tôi còn không biết đi đâu. Mãi sau, Dụ nói chuyện mới hay. Ông vẫn lang thang những nhà có bàn đến xin sái về nuốt. Năm thì mười họa, hôm nào có tiền, mới thấy ông mua được ít thuốc về. Ông nưng niu giấu diếm như sợ ai lấy. Đến bữa, ông mới thận trọng giở ra, nhúng đầu tăm vào mút, mút. Ông cười thảm hại bảo tôi:
- Thế này vừa đỡ tốn dầu vừa chóng đủ nghiện bác ạ.
II. Làng tôi, năm ấy vào đám không có tuồng. Không ngờ lại có cái may cho ông Trạch. “Làng đất tuồng không nhẽ đình đám bỏ tẻ ngắt”. Các cụ trong dân họp nhau lại lập một ban tuồng, đón ông Trạch dạy đàn em. Từ ngày ông lên chức “trùm”, ông có vẻ sung túc hẳn lên. Các cụ tai mặt, trong “hàng hội” ra vào luôn. Ông trùm rước bàn tĩnh ra nhà ngoài tiếp khách. Ban thờ tổ được ông chăm chút cẩn thận. Lúc nào cũng có mía hoặc kẹo trên đĩa cúng bên bát bình hương nghi ngút khói. Công việc xem ra thập phần hoàn hảo. Chỉ còn cổ động anh em trong làng tập nữa là xong. Việc này chừng khó khăn, ông trùm (mọi người đều gọi ông Trạch là trùm) thường tỏ vẻ lo âu. Ông hỏi tôi:
- Bác liệu xem có đông anh em tập không nào?
Tôi trả lời lấy lòng:
- Thế nào chẳng khá.
Im lặng suy nghĩ một lát, ông bàn tính:
- Hay là thế này! Bác giờ cũng rỗi rãi, ta tập chơi. Nhân thể rủ anh em cùng tập cho vui.
Tôi chẳng thích gì hát tuồng. Và biết các bạn mình cũng chẳng ai ưa. Nhưng không muốn làm cho ông thất vọng, tôi trả lời nước đôi!
- Vâng! Để rồi cháu hỏi chúng nó xem đã.
Ông khẩn khoản dặn đi dặn lại:
- Bác cố giúp hộ nhé?
Về sau hễ thấy tôi sang là ông đon đả mời mọc như khách quý. Mà lần nào cũng vậy, chỉ dăm ba câu chuyện “tào lao”! Ông hỏi ngay:
- Thế nào! Bác đã rủ đông anh em chưa?
Các bạn trong làng chẳng ai tập cả. Họ đều lắc đầu: “Tập tuồng! Cổ lắm! Không hợp thời nữa”. Nhưng tôi cũng trả lời để ông vui lòng:
- Cũng khá?
Ông trùm sung sướng lộ ra mặt. Ông ân cần mời tôi ăn một chiếc kẹo lạc. Ông dùng để “hãm” môi khi hút được vài điếu. Gọi nhã nhặn là thừa huệ tô. Ông nói liên miên, toàn chuyện tuồng cả.
Cặp môi thâm hoạt động lên:
- Nội vùng này tôi “cụp” vai Lưu Toàn Định trong vở Thất hiền quyền đấy bác ạ.
Ông ngừng lại rít một hơi thuốc lào. Tiếng lách tách reo ròn như vui sướng. Khói đặc ở mũi, ở mồm, cuồn cuộn bay ra, càng bốc lên cao càng mạnh và mờ nhạt. Ông thở mạnh một cách khoan khoái lên giọng thầy:
- Hát tuồng tiếng vậy mà khó đấy bác ạ. Có tập mới biết. Phải đủ, ái, ố, hỷ, nộ, ai, lạc mới thành một người kép hay.
- Khó thế, chúng tôi tập sao được?
- Ô! sao không tập được? Tôi mà bảo cho đến đầu đến đũa thì mấy chốc mà khá. (ông nịnh khéo) Không?... Bác tinh nhanh thế, tôi biết bác tập được mà!
- Cháu chỉ sợ lúc ra hát ngượng chết.
- Việc gì mà ngượng? Mình có hát nhà nghề đâu mà sợ. Đằng này mình chơi tài tử “a-ma-tơ” kia mà! Khi nào đình đám mới ra hát chơi mấy tối.
Ông hóm hỉnh liếc tôi:
- Cứ gọi là vô số gái cảm.
Đoạn ông cất tiếng cười kha khả.
Cách mấy hôm sau, đến ngày “thử hơi”. Hôm ấy ông trùm bận rộn suốt ngày. Phải mượn thêm một người làm đe sai bảo. Ông cho gọi tôi sang chơi. Hỏi những câu vẫn thường hỏi:
- Thế nào! Đã khá chưa? Thôi trăm sự nhờ bác cả.
Tôi trả lời cứng rắn:
- Được, cụ cứ tin ở tôi. Nhiều anh em tập mà.
Đâm lao phải theo lao, đến giờ tôi vẫn phải nói dối. Ông trùm giục rối rít:
- Thôi thế bác đi ngay hộ, bảo anh em đúng sáu giờ tối đến làm lễ tổ rồi ta “thử hơi”.
Tôi ra đến cửa, ông còn dặn với:
- Bác đi ngay hộ nhé... A, bác hãy lại xơi điếu thuốc lá đã.
Tôi cắm cổ đi, làm như không nghe tiếng.
Về nhà, tôi dặn mẹ tôi hễ có ai hỏi thì nói dối đi vắng. Hai ba lần ông trùm cho người nhà đến gọi, đều về không.
Chập tối tôi rủ mấy bạn nữa đi xem tập tuồng. Nhà Dụ mọi hôm đối với tôi lặng lẽ thân mật, tối ấy bỗng trở nên ồn ào, xa lạ, bóng người đứng xem lố nhố ngoài hiên, đen thẫm in cả lên bóng đèn “măng-sông” sáng lóa. Bên trong, trên hai dãy phản, các cụ “hàng hội” ngồi uống nước hút thuốc, nom rõ mồn một. Những bộ mặt hoan hỷ cười nói oang oang. Ông trùm ăn mặc chỉnh tề, lăng xăng chạy chỗ này chỗ khác. Trên mặt lộ vẻ lo âu. Chốc lại giục anh người làm:
- Anh sang gọi hộ lần nữa xem sao?
- Cháu đã hỏi mấy lần rồi, bà cụ đều bảo bác ấy đi vắng.
Ông trùm cau có gắt quẩn:
- Cái nhà bác Triệu thế thì còn ra cái gì nữa.
Một anh bạn lấy khuỷu tay huých tôi:
- Kìa lão trùm Trạch hỏi gì anh?
Tôi vội vàng bảo nhỏ hắn:
- Đừng nói to! Mặc ông ấy.
Bỗng cụ chánh hội - người đứng lập ra phường -đứng lên hướng ra ngoài, cất tiếng sang sảng:
- Làng ta là đất tuồng. Thế mà hội hè để tẻ ngắt. Sợ rằng hàng xứ người ta chê bai, nên các cụ bỏ tiền ra nuôi thầy dạy. Vậy anh em ai muốn tập cứ vào thử hơi.
Mọi người im lặng. Ông trùm nói thêm:
- Anh em cứ việc tập, không sợ phí tổn gì cả. Tiền nong đã có hàng hội bỏ ra.
Chùng chình một lát mới có năm, sáu người lớn và vài ba đứa trẻ độ mười bốn mười lăm ăn mặc lam lũ xin vào tập. Họ toàn là những người ngụ cư cả. Các cụ ồn ào bàn tán. Cụ thì bảo: Cứ cho tập, sau sẽ liệu. Cụ thì nhất định không bằng lòng cho dân “ngụ cư”. Hai tiếng ngụ cư các cụ nói bằng giọng vô cùng khinh bỉ. Ông trùm chán cảnh, rũ rượi ngồi một xó, hai mắt lờ đờ như tưởng lại những ngày túng thiếu. Rút lại phe các cụ không cho tập cứng lý hơn. Những người “ngụ cư” kia phải đuổi ra ngoài. Ông trùm đứng dậy cố vớt vát:
- Anh em trong làng vào tập đi chứ? Mấy khi đã có dịp may này.
Một anh trong bọn tôi lém lỉnh:
- Thưa cụ có đào không ạ?
- Có, hai cô kia.
Vừa nói, ông vừa vui vẻ chỉ hai cô con gái ngồi e lệ sau bóng tối cột nhà. Từ nãy vẫn không ai để ý. Nhìn kỹ thì té ra: một cô con ông Sáu Suyễn thịt lợn; và một cô con ông Quyền Run bán rau, ngày thường vẫn gánh hàng đi chợ, gầy gò và lem luốc. Tối ấy hai cô cũng đỏm dáng hơn ngày thường chút ít.
Chờ đã lâu, không thấy có ai, ông trùm xoay ra nói khích:
- Làng ta không ai dám tập à?
Vẫn anh bạn lúc nãy nói xen:
- Có! Có anh Triệu.
Ông trùm hấp tấp chạy lại phía chúng tôi, vồ vập hỏi:
- Đâu? Đâu? Bác Triệu đâu?
Tôi hốt hoảng bứt tay bạn, chạy vụt ra ngoài ngõ, lẩn vào trong bóng tối. Ông trùm đuổi theo tôi không kịp, đứng lại nguyền rủa:
- Thế có phải đồ chúng nó nhãi ranh không cơ chứ?
Tôi nghe rõ mồn một, vừa hối hận vừa thương ông và cái nghề của ông nữa.
Vợ nhặt
Trước kia mỗi chiều, cứ vào lúc chạng vạng mặt người [1] thì Tràng đi làm về. Hắn bước ngật ngưởng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư [2] vào trong bến.
Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lý thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ.
Trẻ con trong xóm, cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa cả ra vây lấy hắn, reo cười váng lên:
- A a a... Anh Tràng! Anh Tràng đã về chúng mày ơi!
- Anh Tràng ơi bế em mấy...
- Anh Tràng ơi đã uống rượu chưa?
- Anh Tràng ơi!...
Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc.
Nhưng độ này thì trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng nữa, chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng [3] vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu [4] lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.
Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm, nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.
Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:
- Anh Tràng ơi! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa - Chông vợ hài.
Tràng bật cười:
- Bố ranh!
Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo.
Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:
- Ai đấy nhỉ?... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ [5] có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
- Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc:
- Hay là vợ anh cu Tràng? Ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.
- Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?
Họ cùng nín lặng.
Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Người đàn bà càu nhàu câu gì trong miệng. Hắn quay lại hỏi:
- Gì hả?
- Không.
Hắn cũng càu nhàu:
- Làm gì mà họ khỏe nhìn thế không biết?
Hắn bỗng đứng dừng lại nhìn ngang nhìn ngửa.
- Này bác Tràng! Bác Tràng!...
Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng. Tràng lật đật quay lại.
- Về muộn mấy? Hắng vào chơi cái đã nào.
Tràng đứng lại thoái thác:
- Thôi ông để cho đến hôm khác.
Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bà hóm hỉnh:
- Cánh nào đấy?
- À hà... người quen. Thôi để hôm khác ông nhá.
Hắn quay ngoắt trở ra, lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn. Người đàn bà đã đi đến trước cái miếu cũ. Tràng gọi với:
- Ấy rẽ lối này cơ mà.
- Đằng này à?
- Ừ.
Hai người lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ. Con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. Ở đây vắng vẻ, thoải mái. Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà. Thị cũng không nói gì, hai con mắt tư lự [6] nhìn ra phía trước. Tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu xào xạc dưới bàn chân.
Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.
- Sắp đến chưa? - Người đàn bà chợt hỏi.
- Sắp.
- Nhà có ai không?
- Có một mình tôi mấy u.
Thị tủm tỉm cười:
- Đã một mình lại còn mấy u. Bé lắm đấy!
Hắn bật cười:
- À nhỉ.
Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe:
- Dầu tối thắp đây này.
- Sang nhỉ.
- Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi chả cần.
- Hoang nó vừa vừa chứ.
Hắn chặc lưỡi:
- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hí hí...
- Khỉ gió.
Thị phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại.
Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách.
Mấy con chó giật mình chạy thọt vào trong lũy thò mõm ra sủa váng lên. Tràng nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái:
- Mẹ bố chúng mày cắn gì thế!
- Vẫn chưa đến à?
- Còn chán.
- Khiếp.
Thị cau mặt lại, giẫy lên. Hắn phì ra cười, cúi xuống nhấc cành dong dấp cổng ra reo lên:
- Đây rồồ-ồi!...
Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười:
- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!
Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:
- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên...
Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sơ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên:
- Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!
Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... Ô sao nó lại buồn thế nhỉ?...”. Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào [7] đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng...
Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn [8] lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ! - Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu!
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu [9], hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn [10], nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng [11]. Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:
- Chặc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...
Tràng chợt đứng dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre long khong đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.
Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà:
- U đã về đấy!
Hắn lật đật chạy ra đón:
- Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.
Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:
- Có việc gì thế vậy?
- Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào.
Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Tràng tươi cười:
- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:
- U đã về ạ!
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.
Tràng nhắc mẹ:
- Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này [12] thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm [13] ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Tràng đứng ngoài thấy vậy, hắn bực mình quá hầm hầm bước vào trong nhà, đánh diêm đốt đèn. Thấy sáng, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên:
- Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ.
Bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Tràng làu bàu trong miệng: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!”
Tiếng bà cụ Tứ bên kia nói với sang:
- Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ.
- Vâng.
Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì. Ánh đèn vàng đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc [14] ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Người đàn bà bỗng thở dài. Tràng quay lại khẽ hỏi:
- Buồn à?
- Không.
- Gớm sao lúc này nói chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột.
Thị lườm hắn không trả lời. Hắn xích lại cười cười:
- Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi.
Thị giơ tay củng vào trán hắn:
- Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!
Hắn cười khì khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn. Trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ...
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên [15] ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước [16] vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn [17] như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn [18] thu dọn quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán [19] đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:

- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác.
À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
Chú thích:
[1] Lúc chạng vạng mặt người: lúc chiều muộn, nhìn không rõ mặt người.
[2] Ngụ cư: người quê ở nơi khác đến ngụ trú ngụ.
[3] Tàng: cũ.
[4] Đội chiếu: Lấy cái chiếu, cuộn lại, buộc túm một đầu, chụp lấy đầu và cuộn quanh người mà đi để chống rét. Đây là hình ảnh rất phổ biến ở miền Bắc nước ta thời kỳ có nạn đói khủng khiếp giết hại hơn hai triệu người vào mùa đông 1944 và mùa xuân 1945.
[5] Còn mồ ma ông cụ Tứ: lúc cụ Tứ còn sống.
[6] Tư lự: suy nghĩ và lo lắng.
[7] Chỉ tầm phơ tầm phào: chỉ nói chơi, nói đùa.
[8] Thóc Liên đoàn: Liên đoàn là một tổ chức chuyên thu mua thóc cho Nhật hồi trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
[9] Rích bố cu: tiền nhiều lắm (tiếng Pháp phát âm theo lối bình dân).
[10] Chợn: sợ.
[11] Đèo bòng: mang thêm, vướng bận thêm vào một cái gì khó gỡ ra được. “Vì cam cho quýt đèo bòng. Vì em nhan sắc nên lòng nhớ thương...” (Ca dao). “Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh” (Truyện Kiều).
[12] Tao đoạn này: thời buổi này, giai đoạn này.
[13] Đốt đống rấm: đốt cháy âm ỉ (thường là một đống trấu) cốt có khói để xua bớt tử khí.
[14] Hờ khóc: khóc to, vừa khóc vừa kể lể.
[15] Khươm mươi niên: rất lâu rồi.
[16] Cái ang nước: dụng cụ đựng nước bằng gốm, thân tròn, miệng rộng giống như cái vại.
[17] Chỏng lỏn: nói năng đanh đá, xấc xược; trái nghĩa với dịu dàng, lễ phép.
[18] Xăm xắn: mau mắn, hăng hái.
[19] Chè khoán: một thứ chè ngon nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vó, nấu nhuyễn và đặc, đổ ra đĩa và xắt thành từng miếng. Có lẽ đây là tiếng địa phương vùng quê tác giả (giống như chè kho ở nơi khác).
Làng
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn con ông Hai thu thủ que đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo... thì ông Hai vùng dậy, sang bên gian bác Thứ nói chuyện.
Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, nó cứ bực dọc làm sao ấy. Mà ông, thì ông không thích nghĩ ngợi như thế một tí nào. Ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ông cũng phải bày vẽ ra công việc gì để mà làm: đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp.
Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại ngồi nghe những tiếng rì rầm tính toán ấy, ruột gan ông cứ nóng lên như lửa đốt. Ông phải đi chơi cho khuây khỏa.
Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão hỏi ngay:
- Thế nào, hôm nay có gì khác không bác?
Không đợi trả lời, ông lão nói luôn:
- Này Đácgiăngliơ nó lại mới về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào. Còn là đi đi về về.
Hoặc:
- Báo Cứu Quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập Thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả chứ sống làm gì cho nhục. Mà có khi nào mình lại không Thống nhất, Độc lập được hả bác?
Rồi ông nói đến chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, chuyện Việt gian, chuyện thổ phỉ... những chuyện ông lượm được hồi trước, ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa? Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả.
Ông lão kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm:
- Cũng là học lỏm cả đấy thôi bác ạ... Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà.
Và cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hằng ngày đã nhạt rồi, thì ông xoay đến chuyện cái làng của ông.
Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa, trời gió tha hồ đi khắp đầu làng, cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất.
Ông Hai vẫn có tính khoe làng như thế xưa nay. Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên Tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết! Chết; tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà”.
Mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kỳ được. Ông mê man giảng giải cho họ: Cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giầy. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải. Cái ông đắp bằng xi-măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là... lấy kiểu tận xa lắm, đâu như tận bên chùa Đế Thích. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt cắm vào cái bầu rượu có đắp bốn con dơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia là máy thu lôi. Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong ấy.
- Chả nguyên là “Cụ tôi” phòng sau này nằm xuống bất hạnh sét có đánh phải cũng không việc gì mà. Xem! Trí lực của người ta có khiếp không?
Ông lão vừa nói vừa chăm chắm nhìn vào cái bộ mặt lì sì của người bà con họ bên ngoại dãn ra vì kinh ngạc ấy mà ông lão hả hê cả lòng. Ông thấy cái lăng ấy một phần như có ông.
Nhưng từ ngày khởi nghĩa thì người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa. Ông đã bảo ông thù nó cơ mà. Cái lăng ấy nó làm khổ ông, nó còn làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. Có người ốm, có người chết, có người làm mấy tháng trời không được một đồng công nào. Cái chân ông đi khập khiễng bây giờ cũng vì cái lăng ấy. Ông bị một chồng gạch đổ vào bại một bên hông.
Bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ hồi kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai. Mỗi lần hô động tác, anh huấn luyện viên lại phải đệm tiếng ạ... thườn thượt đằng sau: “Nghiêm ạ!... Nghỉ ạ... Vác súng lên vai ạ!...”
Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì làm công trình không để đâu hết. Ông lão kể rành rọt từng cái một. Cái thì đắp ở đầu xóm ba khu, cái thì xây ở Ngõ Mái, cái thì xẻ thông từ đầu phố trên đến tận đầu phố dưới. Cửa mạch nhà nào cũng đục, có thể đi suốt làng không phải ra đến đường cái.
Cũng có khi ông lão lại ngậm ngùi kể lại những chuyện ngày xửa ngày xưa nào không biết, ông bị bọn hương lý trong làng truất ngôi từ ngoại siêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán.
Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn trên chiếc chõng tre nhà bác Thư mà nói liên miên hết cái đường xóm kia tốt, cái giếng xóm kia trong với những chuyện đẩu chuyện đâu về cái làng của ông lão, làm như bác Thứ cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy lắm.
Thực ra ông lão chỉ nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái làng của ông chứ ông cũng chẳng chú ý gì đến người nghe có thích nghe lắm không. Đôi khi thấy mình mải nói quá, mà bác Thứ thì hình như lơ đễnh những đâu đâu. Ông lão lại nhắc:
- Cậu vẫn nghe đấy chứ?
Thì bác Thứ giật mình, trả lời vội vàng:
- Có! Có! Tôi vẫn nghe đây, ông kể nốt đi...
Thế thì ông lão lại kể.
Nhưng cũng có nhiều bận đang ngồi nói mải mê như vậy bỗng dưng ông ngắc lại, mặt ông thần ra, ông nghĩ ngợi một lúc lâu rồi thủ thỉ:
- Chuyến này bước chân ra đi... năm năm, ba năm hay mười lăm năm, không biết còn về được đến làng đến nước nữa không đây.
Ông lão im lặng thở dài:
- Nó chết một cái nhà tôi neo người quá, phải đi, chứ những như một mình tôi, thì tôi ở lại làng với anh em cơ đấy. Quê cha đất tổ một lúc đứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót hả bác?...
Thực tình ông Hai không muốn tản cư lên trên này một tí nào. Trong làng còn một số anh em ở lại, họ quây quần với nhau khoảng chừng năm, sáu nóc nhà giữa làng. Ngày ngày cùng anh em đi đào đường đắp ụ, công việc bề bộn, ông chẳng còn kịp nghĩ gì đến vợ con, nhà cửa nữa. Năm bảy lần bà Hai nhắn về thúc phải lên ngay, ông chỉ nhăn mặt kêu: “Công việc đang như lửa đốt đầu thế này đã lên thế nào được”.
Hôm bà Hai về đón, ông lão lại toan không đi. Ông nghĩ: Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ. Ông cha cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này mình lại đâm đầu bỏ đi còn ra thế nào nữa. Công việc là công việc chung chứ của riêng mình ai?
Ông lão bảo vợ:
- Tôi thì tôi không đi được đâu. Mẹ con mày trên ấy liệu bảo nhau xoay xỏa mà làm ăn. Ở nhà rồi tôi cũng cố cày cấy, thêm thắt vào tôi gửi lên cho, tản cư thì cũng phải thiếu thốn một tí chứ, lại như ngày trước thì có đâu.
Nhưng bà Hai khóc lóc, bà năn nỉ bắt ông phải đi, bà bảo:
- Thế ông định bỏ mẹ con tôi chết đói à? Ông phải lên trông nom chúng nó cho tôi còn xoay xỏa chứ.
Rồi bà khẩn khoản nói với mọi người, khẩn khoản nói với đồng chí thôn đội trưởng, mọi người đồng ý, để ông Hai đi. Ông Hai đành phải nghe theo. Ông buồn khổ lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Tình cảnh mẹ con chúng nó quả có gieo neo thật. Một nách ba đứa con dại, vốn liếng lại chẳng có, cứ nhong nhóng ôm con ở nhà thì lấy gì mà ăn? Nhà có người đàn ông nó như nhà có nóc ấy. Ông lên rồi làm thuê làm mướn thêm cặp vào cũng đỡ cực được ít nhiều.
“Thôi thì chẳng ở lại cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là kháng chiến”.
... Những ngày đầu ở trên này công việc không có, trong người ông lúc nào cũng bực bội. Ông ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm. Xin được miếng đất sau nhà, ông hậm hụi cuốc xới suốt ngày, vừa được mấy luống rau cải, bén chân thì đàn gà nhà chủ kéo ra vặt trụi tiệt. Ông lão cáu lắm. Không thể cáu được với ai ông quay ra cáu với vợ con. Hơi một tí là gắt, hơi một tí là chửi, lắm khi chuyện chẳng đâu vào đâu, ông cũng khởi ra to để gây sự. “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông giết, ông thì ông giết hết!”
Mỗi lần ông lão bước chân ra khỏi cái gian nhà tối thấp, bề bộn những bồ, bị, nồi niêu, và những dây quần áo ẩm sì, là mặt ông lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên. Sao mà ông lão sợ cái gian nhà ấy thế! Nhất là những buổi trưa im vắng, oi ả, có tiếng mụ chủ nhà nói nheo nhéo ở bên ngoài, thì ông lão không sao chịu được. Ông lão phải đi cho nó khuất.
Ông Hai chưa thấy người đàn bà nào lại tham lam, tinh quái như mụ ta. Người thì gầy đét như thanh củi khô. Cái miệng mỏng tèo tèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Không vào nhà thì thôi, động vào là nhòm. Mụ nhòm xó này một tí, nhòm xó kia một tí, rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên ngắm rồi đặt xuống, mụ mở thạp gạo ra xem, lại đậy vào, lục bồ moi chiếc áo ra ướm thử vào người, rồi ném trả. Hình như trong ý mụ, mụ nghĩ: Chúng mày ở nhà tao, thì những thứ của chúng mày cũng như của tao. Đồ ăn thức đựng của mụ, mụ cất kỹ đi. Con dao, cái chậu, bó củi của người ta mụ dùng tự nhiên, hồ đi cất mụ lại lôi ra. Không tìm thấy thì mụ nói móc, nói máy như chính mụ bị người ta hà hiếp. Đến cả cái ăn, cái uống mụ cũng giây phần vào. Có cái nồi nước giải mua để tăng gia một tí, mụ cũng lấy hết.
Trong nhà động có thứ gì mụ đã biết rồi. Không một hôm nào bà Hai ở quán về mụ không sấn đến vạch túi ra xem.
- Ái chà! Nhà này có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mới được.
Thế là đến chiều mụ sai con bưng bát đến xin. Mụ đẩy lưng thằng bé:
- Con cứ xuống mà xin, tội gì.
Có cái gì ăn, giấu mà mụ biết thì mụ đánh hơi. Mụ đứng giữa nhà, hếch cái mũi lên hít hít:
- Có cái gì mà thơm gớm, y như mùi bánh rán ấy anh em ạ. Mẹ kiếp nhà này nó giấu.
Cứ lâu lâu, mụ lại vay tiền. Lúc mua trầu vỏ, lúc mua diêm thuốc, mớ rau, con cá... Có đòi thì mụ thủng thẳng:
- Tớ trừ vào tiền thuê nhà đấy.
Mụ cười rất nhạt:
- Nói đùa đấy chứ, mai tớ cuốc mẻ sắn tớ bán tớ khắc trả.
Và mụ tiếp luôn:
- Này, nói thì bảo là tham, cái nhà ông Hai này, với bác Thứ bên kia ở, thật tớ đếch được cái gì, ở xóm dưới, cánh hàng xáo họ ở, họ nuôi lợn được vô khối là “khuẩn”. Nói thật, tớ cho ở nhờ chỉ chủ có mỗi cái “khuẩn” thôi...
Ngay từ dạo mới lên, ông Hai đã bực mình với mụ ấy lắm rồi. Nghe xóm giềng ở đây người ta nói, ông biết mụ không phải là người đứng đắn. Mụ lấy người chồng này là đời chồng thứ ba rồi; hai người trước, người thì người ta bỏ mụ, người thì mụ bỏ người ta. Tính nết lành chanh lành chói, chỉ bắt nạt chồng. Người chồng thì lại hiền lành quá, cả ngày cặm cụi làm. Vợ nói, có tức lắm thì cũng chỉ đỏ mặt lên văng tục văng giác mấy câu rồi thôi.
Ông Hai ghét mụ chủ lắm. Ông không muốn ở chung ở chạ với những người như thế. Năm lần bảy lượt ông bảo vợ dọn nhà đi nơi khác. Nhưng bà Hai cứ lần chần. Bà bảo:
- Biết rằng đâu hơn đâu, hay là lại quá tội. Trong làng ngoài phố nhà nào cũng ba bốn bếp tản cư cả. Có được chỗ chui ra chui vào thế này là may lắm rồi còn gì nữa.
Ông lão đành phải dùi dắng chờ vậy.
Buổi trưa hôm ấy ông Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng cho mẹ ra quán chưa thấy về. Hai đứa bé thì ông cắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại chẳng gà vặt hết.
Ông Hai hì hục vỡ một vạt đất rậm, ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, ông tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào những tháng đói sang năm. Có một mình, ông phải làm cố, hai vai ông mỏi rừ. Ông nằm vật trên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cuốc, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá... Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lăm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá.
Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo éo. Gian nhà càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. Ông lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vại nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây.
Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. Ông Hai giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không vào được.
Ông cất tiếng hỏi:
- Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?
Không để đứa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vớ lấy cái nón:
- Ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy.
Ông lão giơ tay chỉ lên nhà trên:
- Nó thì rút ruột ra biết chửa!
Dứt lời ông bước vội ra ngoài. Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảng bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả.
Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cung cúc lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười:
- Nắng này là bỏ mẹ chúng nó!
Có người bỡ ngỡ hỏi lại: “Chúng nó nào?” Thì ông lão bật cười, giơ tay trỏ về phía tiếng súng:
- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.
Dứt lời, ông lão lại đi, làm như đang bận nhiều công việc lắm. Cũng như mọi hôm, việc đầu tiên là ông vào phòng thông tin nghe đọc báo. Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức. Ông cũng đã có học được một khóa bình dân học vụ ở làng, cũng đã biết đọc, biết viết. Những chữ in khó nhận mặt chữ, ông đọc nó cứ bập bõm, câu được, câu chăng, mà chả lẽ cứ nghếch mãi cổ lên giữ chịt lấy tờ báo không cho người khác xem nữa? Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy.
Hôm nay may quá, vớ được một anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một. Cơ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy. Ông lão nghe chẳng sót một câu nào. Bao nhiêu là tin hay. Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên tháp Rùa. “Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!
Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc cần rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Ở đây những tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả dưới mấy gốc đa xù xì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ...
- Các ông các bà ở đâu ta lên đấy ạ?
Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời:
- Thưa ông chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả quá!
- Ở Gia Lâm lên ạ? Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được không bác?
- Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này nhiều.
- Thì vưỡn. Lúa dưới ta tốt nhiều chứ.
Ông lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu: “Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cầy cấy cứ cầy cấy, tản cư cứ tản cư... Hay đáo để”.
- Này, bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không?
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
- Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ.
Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:
- Nó... Nó vào chợ làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh:
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!
Cổ ông lão nghẹn ắng cả lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:
- Liệu có thật không hả bác? Hay là chỉ lại...
- Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè đỉnh đồng, vải vóc, lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.
Có người hỏi:
- Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?...
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
- Hà, nắng gớm! Về nào...
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con, tủi thân nước mắt ông lão cứ dàn ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu... Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!
Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhữ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!...
Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước... Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người mỗi phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?...
Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác. Bà bước từng bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi. Trẻ con cũng không đứa nào dám đòi quà. Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu, không ai dám cất tiếng lên nói, cả đến nhìn nhau họ cũng không dám nhìn nhau nữa.
Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo... Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.
- Này, thầy nó ạ.
Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.
- Thầy nó ngủ rồi à?
- Gì!
Ông lão khẽ nhúc nhích.
-Tôi thấy người ta đồn...
Ông lão gắt lên:
- Biết rồi!
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. Ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.
- Thế nhưng người ta đồn trên này người ta không chứa những người chợ Dầu nữa thầy nó ạ.
Nghe ngóng một chút, không thấy chồng trả lời, bà lão lại cúi xuống lầm bầm tính. Nét mặt bà lặng đi, chịu đựng và nhẫn nhục.
Bên gian bác Thứ đã ngủ từ lâu, chung quanh đều im lặng... Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng trong tiếng gió.
Ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhún ra, tưởng chừng như không cất lên được... Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ...
Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch. Ông lão nín thở, lắng tai nghe bên ngoài...
Bà Hai bỗng lại cất tiếng:
- Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã.
Ông Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, ông sít hai hàm răng lại mà nghiến:
- Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ.
Ông lão lại ngả mình nằm xuống, không nhúc nhích.
Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bác Thứ ông cũng không dám sang.
Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Ông ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông... là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!
Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích.
Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt ông lão. Thôi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ chui ra chui vào là may lắm rồi. Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết chuyện gì.
Ông thì ông muốn lặng đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ông yên đâu.
Sáng hôm nay lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà không biết đi đâu về, mụ đứng dạng háng ở ngoài sân nói chõ vào:
- Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?...
- Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này.
- Vâng bà để mặc em... A bà Hai này!...
Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật:
- Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ?... Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa.
Mụ chủ chép miệng, giọng ngọt xớt:
- Em cứ khó nghĩ quá... Ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy... Này, ở với nhau đang vui vẻ, ông bà dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ.
Bà Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, bà nói:
- Vâng... thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu...
Mụ chủ đi rồi, bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng dám nói với nhau câu gì.
Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?...
Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng... đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây...” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông.
Hay là quay về làng?...
Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay, về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ...
Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Ông lão nghĩ ngay đến mấy thằng kỳ lý chuyên môn khua khoét ngày trước lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi, trừ ngoại, tống ra khỏi làng...
Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à?
Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé. Con là con nhà ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- A, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa.
Anh em đồng chí biết cho bố con ông.
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đôi phần.
Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến chơi nhà ông Hai. Hẳn cũng là người làng chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ông Hai đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn. Ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà.
Ông Hai đi mãi đến sẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy... Vừa đến ngõ ông lão đã lên tiếng:
- Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào.
Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão rút vội cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn:
- Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái.
Dứt lời ông lão lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ.
Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô:
- Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác Thứ ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết... Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông Chủ tịch làng em vừa lên cải chính... Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải để cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai cũng mừng cho ông lão.
Đến cả mụ chủ nhà là người ông lão yên trí, nghe tin này thế nào mặt mụ cũng sa sầm xuống mà nói tức nói xóc, thì trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất sung sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt lên mà reo:
- A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy... Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu.
Mụ cười khi khí:
- Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn... mà ăn mừng đấy!...
Ông Hai gật gật:
- Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ...
Tối hôm ấy ông Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông.
Ông kể lại hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật...
Con Mã Mái
Mảnh sân đất nhỏ hẹp chạy dài trước ba gian nhà tranh lụp xụp. Bề ngang không đầy hai thước; bề dài chỉ đến tám bước chân là quá. Vậy mà Cả Chuẩn cũng cố bày biện cho nó ra vẻ một cái vườn cảnh. Giàn thiên lý, chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kỹ, sứt mẻ: hai chậu bạch ngọc và hai chậu nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ, đặt theo điển tích. Nào chùa, tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở; nào ngư, tiều, canh, độc; nào cầm, kỳ, thi, tửu; nào Bá Nha ngộ Tử Kỳ; nào Sào Phủ tẩy nhĩ... Tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài như thời Nghiêu Thuấn. Che tất cả hòn non bộ là một cái tán si. Gốc si xù xì, thân uốn éo theo một kiểu nhất định.
Mỗi lần có khách lạ, ông Cả không quên giảng giải kỹ lưỡng về chiếc bể này:
- Có người trả năm chục bạc rồi, tôi không bán đấy nhé. Những người sành này tôi gửi mua tận chợ Đồng Xuân ngoài Hà Nội, toàn sứ tàu cả; lại còn cây si này nữa. Ông thử để ý ngắm kỹ mà xem: kiểu long cuốn thủy đấy!... Này nhé, cái gốc là cái đầu vục xuống uống nước này. Hai vấu này là hai con mắt này. Cái thân uốn éo như hình con rồng cuộn khúc này. Cái tán ở trên xòe là cái đuôi này. Còn cây nhỏ dưới gốc là cây tử này. Chơi cây phải có mẫu, có tử mới không sái ông ạ.
Cả Chuẩn khoe khoang hòn non bộ cũng như ông vẫn thường khoe hai cây cau lợn cọ trồng hai bên vại sói trắng. Mấy khóm lan, hai chậu bạch trà hay bất cứ một thứ gì trong sân cảnh đều mang một lịch sử cầu kỳ, khó khăn.
Khi người ta là một nhà nho - mặc dầu không hay chữ - nhất lại là nhà nho kiết nữa, thì càng sính chơi cái thú thanh tao này. Cả Chuẩn cũng vậy. Ông chơi cây cảnh chẳng qua để đôi lúc rượu say, tức đời đem câu “danh lợi bất như nhàn” hay “bần thanh còn hơn phú trọc” ra mà an ủi mình và để lên mặt khinh đời, nghĩa là khinh mấy bác giàu có trong làng, mà ông cha là những hạng người keo bẩn, thô tục, không bao giờ hiểu biết được cái thú nhàn nhã như ông. Ông thường dè bỉu:
- Hứ! Sống ở trên đời mà bo bo đồng tiền, chẳng biết ăn chơi là cái gì, chết thì cũng hai tay buông xuôi, dễ mang được của đi chắc!
Rồi ông cất giọng sang sảng ngâm:
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp,
Trong thú yên hà mặc tỉnh say.
Chính ra, Cả Chuẩn cũng không tha thiết gì với cái vườn cảnh cho lắm. Sở dĩ có nó, chẳng qua vì ông rỗi rãi quá và cũng vì những lẽ trên kia. Thật tâm, ông chỉ thích gà chọi thôi.
Trong cái vườn cảnh bề bộn, nhỏ hẹp ấy, ông cố chen thêm vào một chuồng gà và hai chiếc bu thửa, cao lớn lênh khênh coi rất chướng mắt.
Cả Chuẩn mê thích gà chọi lắm. Suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ tờ mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường, ông đã để ý nghe xem hôm nay con Chuối gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy tiếng. Có được mạnh mẽ không? Ông mê đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả. Chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ con đầu tắt mặt tối, ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình. Thằng cu Trạm lớn rồi vẫn không được đi học. Phải ở nhà hầu hạ bố, nói là hầu hạ gà mới đúng. Lúc nào nó cũng la cà ở ngoài bờ ruộng bắt nhái, hoặc cào cào, châu chấu đem về cho gà ăn. Thằng bé đày nắng đen sạm hẳn đi.
Ông Cả để cu Trạm sống theo vết cũ của mình. Cũng như phần đông trai làng: lớn lên lấy vợ, rồi nhờ vợ sống một cuộc đời ỷ lại vô lo vô lự. Nếu nhờ trời khấm khá có đồng ra đồng vào một chút, ra hương chính, cai đám; hơn nữa, lý, phó tổng chưa biết chừng. Thế là danh phận chán rồi.
Hiện giờ, trong nhà có hai con gà đá được. Cả Chuẩn vẫn chưa vừa ý con nào. Cái Chuối chân vàng “chịu buộc bắt tảng” [1]. Dầu hay, mau đòn, nhưng phải cái đá nhẹ. Cái Bạch Nhạn “Cần lập trụ” [2] đòn nặng, gan lì, thì lại chậm chạp; mặt bành xe, dại đần lắm.
Cho nên Cả Chuẩn vẫn để ý tìm tòi một tông gà hay nuôi cho bõ công vần vỗ. Ông thường phàn nàn:
- Nuôi được con gà đi đám, công phu lắm, chứ có phải dễ đâu. Hạng táp nham thì vô thiên lủng ra đấy. Nhưng không bõ.
Một bận, ông sang Tư Méo bên Bính Hạ chơi. Gớm! Ông cứ mê lên về gà của hắn. Ông thuật lại với anh em bằng một giọng vô cùng thèm muốn:
- Chết! Chết! Chơi như người ta mới là chơi, chứ như mình ấy à! Một tay lão ta nuôi hai mươi nhăm con gà, ở trong một cái trại bát ngát. Mà con nào cũng như công như phượng ấy!
Cả Chuẩn còn sang bên Tư Méo bốn năm bận nữa. Ông mày mò muốn mua một con gà mái. Cho rằng: “Chó giống cha, gà giống mẹ”. Gà mẹ có hay, gà con mới đá được. Tư Méo có cái Mái Ô sô mặt tông siếc, ông mê thích quá: “Chân tay mặt mỏ ấy, nó đá như vũ như bão chứ chẳng không”.
Nhưng khẩn khoản thế nào, Tư Méo vẫn không bán, mà hỏi mượn về “đúc” một lứa, hắn cũng không cho. Càng thế, Cả Chuẩn càng mê mẩn con mái xồm. Ông nhất quyết phải chiếm cho kỳ được mới yên lòng, nhưng vẫn băn khoăn chưa tìm ra cách nào.
Một buổi tối, người hàng xóm ông mất gà. Mụ xắn váy quá đầu gối, dạo khắp ngõ trong, ngõ ngoài, quai xanh vành mỏ ra sa sả rủa đứa nào đã chấp chiếm con gà mái của mụ.
Nghe vậy, Cả Chuẩn bỗng nảy ra một ý kiến. Ông mỉm cười gật gù khoan khoái, lấy làm đắc sách lắm. Sáng hôm sau, mặc dầu trời lạnh, ông đã lọ mọ xuống xóm dưới vào nhà Cả Cúi chơi. Đôi bên thì thầm bàn tán với nhau có vẻ bí mật lắm. Lúc ra về, ông còn cặn kẽ dặn đi dặn lại:
- Thế nào anh cũng cố lưu tâm giúp tôi nhé!... Nhớ con gà đen và xồm mặt ấy. Tôi không để anh thiệt đâu.
Cả Cúi gật đầu:
- Được! Được! Con nhớ kỹ rồi, ông cứ yên tâm.
Thỉnh thoảng, Cả Cúi lại lên nhà Cả Chuẩn chơi. Có lần hắn còn ở lại uống rượu nữa. Ông cũng chẳng nề hà tai tiếng chơi bời với quân câu gà với làng nước nữa.
Nửa tháng sau. Một đêm tối trời. Cả Chuẩn đã đi nằm từ lâu. Ông đang mơ mơ màng màng đến con gà mái của Tư Méo. Chợt có tiếng Cả Cúi gõ cửa rất gấp, giọng nhỏ và có vẻ sợ sệt:
- Ông Cả ơi! Ông Cả! Ông Cả ơi! Ông Cả!
Đoán chắc thế nào cũng có kết quả tốt đẹp, Cả Chuẩn sướng rơn lên. Ông vùng trở dậy, hấp tấp không kịp thắp đèn, bước thấp bước cao ra mở cửa. Ông hổn hển hỏi bóng người trước mặt:
- Cúi đấy à? Thế nào?
Hắn lách người qua cửa ngõ hé mở, thì thào:
- Được rồi.
Ông Cả vội vã đi thắp đèn, rồi ngồi ngẩn người ra ngắm con gà nghiêng nghé trong ánh sáng vàng kệch, tần ngần chẳng nói chẳng rằng. Cả Cúi sốt ruột cất giọng lè nhè đói thuốc nhắc:
- Ông cho con xin... con về chẳng khuya.
Ông Cả giật mình tỉnh mộng:
- À, nhỉ!
Rồi cứ cầm cả gà trên tay đi vào buồng, nâng đầu vợ gọi:
- Này! Này! Đưa mượn tạm năm đồng.
Bà Cả oặn oại, ậm ờ, giọng khê nồng nặc:
- Bây giờ còn lấy tiền làm gì?
Ông phát bẳn:
- Có việc chứ còn làm gì nữa? Hỏi lẩn thẩn mãi!
Bà Cả đành phải đấu dịu. Bao giờ ông gắt, bà cũng phải đấu dịu như thế:
- Ở cái bao trong bồ hàng ấy. Lấy đúng năm đồng thôi nhé.
Trả tiền Cả Cúi, đưa hắn ra về rồi, ông Cả vẫn còn ngồi mê man ngắm gà đến mãi khuya.

Đêm ấy, Cả Chuẩn trằn trọc không sao ngủ được. Ông cứ nghĩ luẩn quẩn về con gà mới mua, và tưởng tượng đến bao nhiêu chiến công rực rỡ của đàn con nó sau này, mãi gần sáng, mới chợp đi được một lúc. Trong giấc mơ, ông chập chờn thấy toàn những gà là gà.
Hôm sau, ông đi khắp mặt làng chơi trong làng khoe mình mới mua được con gà mái ô đẹp lắm, của anh bán cúi gánh qua. Và nhân thể ông đặt luôn nó là cái Mái Củi Tạ.
Con Củi Tạ đá nặng đòn lắm. Ai xem cũng phải thán phục nó có đôi quản đẹp. Cả Chuẩn đã cho thử tài đến năm sáu bận. Không con nào chịu nổi nó đến ba hồ. Lần nào cũng chỉ hai hồ, hai hồ rưỡi đảo về là nó đánh con địch một đòn cứ biệng siệng như người say. Cho đến hết hồ thứ ba là phải chạy. Duy có con Mái Xám của phó Tiệm trên phố phủ, gan liền mới chịu được năm hồ, thì hôm sau ngã gục xuống chuồng lợn chết.
Độ rầy, con Củi Tạ mới đổi lông, óng ả, mượt mã và béo tốt ra. Cái mặt đỏ gay lên. Nó dạo hết nhà trước vườn sau, thẫn thờ gọi trống: “Coóc!... Coóc!... Coóc!... Coóc!... Coóc!...”.
Cả Chuẩn càng băn khoăn lo nghĩ. Từ ngày có con Củi Tạ, ông vẫn để ý tìm ở vùng này một con gà hay “đúc” [3] một lứa. Ông đem ý này bàn soạn với các bạn:
- Ở ta bây giờ, tôi xem không có một mái gà nào gọi là đá được để “rầy” con Mái Củi Tạ, các ông ạ.
- Thiếu gì? Cái Tía khuỳnh ba kỳ của đồ Thảo thế nào?
- Cái ấy đá thì có gì, ông bảo! Dễ cứ ăn ba kỳ là gà hay chắc? Chả cứ, ông ạ!
Hương Chế biểu đồng tình:
- Phải! Ông Cả nói phải, có cứ gì ăn giải là gà hay đâu. Chẳng qua là hợp “vở” [4] thì ăn thôi chứ khó gì. Chẳng hạn như gà mình chui, gặp phải con đấm, cứ mạng sườn nó thúc thì hỏi “ông” chui vào đâu? Chỉ ba hồ hương là “ông” sễ cánh buồm xuống, “ông” bước. Nếu biết kháp [5] ra, gặp con đè cần bắt tảng [6] thì ông đã lại tiền bỏ túi.
Con Tía khuỳnh chân sương [7] ông Tư vừa nói, có đòn gì? Tôi chả thấy nó đánh cần cáo bao giờ gọi là có. Độc vị “thông vỉa hai mang” [8], gặp phải con đấm hay, cu cậu đâm ra tháo chái. “Cần chạy vài nhì” [9] lắm khi còn đánh “sà leo” [10] ngã quật mình xuống đất như trời giáng nữa mới chết chứ.
Gà hay vùng này bây giờ tôi chỉ thấy có ba con thôi: Củi Tía Nồi của Tư Méo là một. Nó đá thì không phải bàn cãi nữa rồi. Cái Ô Chuốt gan liền tướng quân của lang Mão Đồng Kỵ là hai. Với lại cái Bịp Tầm đại [11] của đồ Đán bên Đình Bảng là ba. Thế thôi đấy. Còn ngoại giả tôi không còn ưng ý một con nào nữa.
Hương chế nói rất chí lý. Cả Chuẩn cũng nhận thấy thế. Vùng này xem ra chỉ có ba con gà ấy là xứng đáng rầy [12] cái Mái Củi Tạ thôi. Con Tía Nồi của Tư Méo thì ông Cả không dám màng đến rồi. Con Bịp được cái phủ đòn và cũng có cần cáo đấy. Nhưng ông ghét nó phải cái lớn quá. Chơi gà tầm đại ra đám khó kén được con “đồng cân đồng lạng” mà đá.
Cả Chuẩn nghĩ chán rồi. Ông nhất định lên Đồng Kỵ mượn cái Ô Chuốt. Con này tầm trung vừa chơi. Nó đá nhiều cần cáo lắm; lắm đòn đánh con địch kêu quang quác, bay vù ra ngoài sới. Khốn nỗi lang Mão không cho mượn. Cả Chuẩn cố nài nẫm khẩn khoản mãi. Nể lời quá, và là chỗ bạn bè thân thiết, lang Mão đành bàn khéo:
- Thật tình tôi không dám tiếc anh em đâu. Ở nhà tôi cũng đang cho rầy mái! Khó nghĩ quá! Hay là thế này. Ông đem con Củi Tạ để trên này đúc một thể?
Cả Chuẩn không bằng lòng. Ông cười gượng gạo bàn ra cách khác:
- Ừ! Thế cũng được. Nhưng mà... Nhưng mà... Hay thế này tiện hơn. Mỗi hôm tôi sai cháu nó đem lên đây. Ông cho cái Ô Chuốc đạp một lần, có nhẽ tiện hơn.
- Vâng! Thôi thế cũng được. Chỉ khí vất vả cậu em một tí.
Hôm ấy ra về, Cả Chuẩn nghĩ lung lắm. Ông tự nhủ: “Cho đem lên như thế này, ngộ nhỡ gặp Tư Méo thì sao”. Trí óc rối ren lên không biết bao nhiêu là ý định. Ông tìm cách này, cách nọ, chưa bề nào ổn cả. Không lẽ cho vào lồng rồi phủ giấy ra ngoài? Hay nhét vào cái bị? Ừ, nhét vào cái bị có nhẽ là tiện. “Nhưng lang Mão thấy mình giấu giấu, diếm diếm như vậy thì có phải lòi cái gian ra không?”.
Sau cùng, Cả Chuẩn chặc lưỡi quyết định như thế này: “Cứ đem tự nhiên. Nhưng phải đi vòng cánh đồng. Khí xa thực đấy. Nhưng thôi, chịu khó một tí vậy, cho chắc chắn”.
Thế là ngay hôm sau, cơm nước xong, cu Trạm lệch thệch ôm con gà vòng cánh đồng lên Đồng Kỵ lấy giống. Cứ ròng rã như thế hơn nửa tháng trời, cho đến ngày con Củi Tạ rạo rực tìm ổ mới thôi.
Rồi con Củi Tạ đẻ. Mỗi lần nghe nó “cục ta cục tác” hòa với hai con gà trống kêu inh nhà lên, ông Cả lại sung sướng rộn rã. Có bận, chừng chếnh choáng say, ông liếc bà, tủm tỉm nói lỡm:
- Đấy bà mày nghe xem. Có phải con gà mái kêu: “Vừa đau vừa rát! Vừa đau vừa rát!” thì con gà trống ờ đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai cũng thế!” không?
Dứt lời, ông cười ha hả.
Bà Cả nguýt chồng, nguẩy xuống nhà bếp, lẩm bẩm:
- Người đâu khổ là người! Vài ba hớp rượu vào là như trẻ con ấy.
Cả Chuẩn cũng chẳng để ý đến lời vợ: ông còn mải lấy thóc cho gà ăn và đi cất trứng cho cẩn thận. Chẳng nữa chuột tha hoặc rắn nuốt mất. Cái trứng nào ông cũng đánh số nhất, nhị, tam, tứ, thứ tự trước sau.
Thấm thoắt, con Củi Tạ đã ấp. Những lúc nó rời ổ đi ăn, uống, Cả Chuẩn lại vào nhòm xem ổ trứng thiếu đủ ra sao. Ông đoán cái nào tròn là nở ra con đực, cái nào dài là nở ra con mái. Và để ý từ màu sắc thay đổi, từ màu hồng hồng đổi dần sang màu xám. Những công việc tỉ mẩn không đâu ấy cũng đủ khiến ông vui thích mà bận rộn suốt ngày.
Ấp được hai mươi hôm thì nở. Hôm ấy, Cả Chuẩn ở luôn bên ổ săn sóc. Mỗi con gà ráo lông, ông lại bắt ra bấm cái mỏ chấu [13] đi. Việc ấy đối với ông quan hệ lắm. Chả thế mà trứng chưa nở hết, ông phải ngồi chờ quá nửa đêm vẫn chưa đi ngủ. Bà Cả thương chồng vất vả, mấy lần nhắc nhỏm:
- Thì mặc nó có được không? Việc gì mà thức cho mệt người!
Ông bực mình, gắt lên:
- Bà thì có biết cái gì nữa mà cũng cứ nói mãi! Không chờ bóc vỏ chấu về sau này đá độ vài ba hồ đã tuột mỏ của người ta đi à?
Vả lại ông cũng không muốn ngủ, cứ thích ngồi rù trong chăn bông bên ngọn đèn hút thuốc lào vặt và chú trọng nghe tiếng gà con chiêm chiếp, xao xác đến vui tai.
Lứa gà ấy của Cả Chuẩn chỉ để lại có hai con: một cái Ô Mã Mái và một cái “nảy nòi” Sám Miến Hồng. Đôi gà này mỗi con đều có một đặc biệt riêng. Ngay từ khi hãy còn lông tơ, con Sám Hồng đã bỏ đàn đi bới sâu ăn riêng một mình rất xa đàn. Còn con Mã Mái ăn no lại nằm chầu hẫu ngay mỏ mẹ, đúng với câu: “Thứ nhất ăn sâu, thứ nhì chầu mỏ”. Ông tin chắc thế nào đôi gà ấy cũng có tài xuất chúng.
Bảy, tám tháng sau, đôi gà ấy đã qua thời kỳ “bóc dò”; rồi gáy căng. Cả Chuẩn đem sửa sang cắt tai, cắt mào; và gọt lông ở bụng ở đùi cho dễ om bóp vần vỗ. Bây giờ, chúng có vẻ con nhà tướng lắm. Mỗi khi nhác thấy nhau là nghển cao cái đầu đỏ chót lên, “cục téc” một tiếng lớn. Rồi vỗ cánh phành phạch, cất tiếng gáy khiêu khích. Chúng nghiêng mình đứng kình, dữ tợn nhìn nhau và bước lên những bước đi đĩnh đạc, chắc chắn, quả quyết cùng nhau một trận thư hùng. Ông Cả phải nhốt riêng mỗi con một nơi.
Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh một đòn. Con Ô Mã Mái tảng dày, mí trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào. Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diều hâu. Mình củ đậu [14], đuôi lá vả, tỏ ra có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai hàng vẩy một song song chạy từ kheo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy cáo, lợi hại lắm. Nó chuyên “hầu dọc” [15] rất nhiều cần, cáo [16]. Ai cũng phải chịu là con gà hay.
Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản đầy vẩy “khâu dao” [17], chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là hai ngón “thái” [18] vênh vênh kỳ quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mười hai trận đá. Sám Hồng khét tiếng là con gà kỳ tài. Đến nỗi vần khấu mỏ [19] lấy giẻ quấn chân lại, nó còn “buông” [20] một đòn khiến con Mã Mái giãy lên đành đạch.
Từ đấy táng kệch, không ai còn dám cho gà vần với nó nữa. Vì thế, con Sầm Hồng chưa bao giờ đá đến quá hồ rưỡi. Cả Chuẩn vẫn sợ sau này, ra hội, nó không đủ hơi, nên ông đành phải cho vần lồng với con Mã Mái vậy.
Sầy - khách - lai ngoài Hà Nội về đã trả con Sám Hồng tới năm chục bạc. Nhưng Cả Chuẩn nhất định không bán. Ông cười chậm rãi:
- Vâng! Cứ kể ra năm chục thời cũng to đấy! Nhưng cái lòng thích với cái công phu nuôi nó thì nhiều chứ! Ai lại đem bán đi!
Thường thường, Cả Chuẩn vẫn ngâm câu: “Chân chì mắt ếch đếch sợ ai. Quán ngắn đùi dài đá chẳng sai” tả cái gan góc của con Mã Mái và câu: “Đầu công, mình cốc, cánh vỏ chai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai” tả cái gọn gàng nhanh nhẹn của con Sám Miến Hồng.
Bỗng một hôm tiết trời đổi khác. Gió heo may lạnh lẽo vi vút từng cơn. Cả Chuẩn sổ suýt nói tiếng đằng tai. Ông thấy trơn trởn người; gây gấy sốt, da nổi gai ốc lên. Cái đĩ Biểu cũng ươn người, quấy mẹ suốt đêm. Ông Cả cất giọng ngàn ngạt bảo vợ:
-Trở trời đây mà! Khí tiết này độc lắm đấy, bà nó ạ.
Sáng hôm sau, Cả Chuẩn nằm nghe đôi gà gáy, thấy kém mọi ngày đến mươi mười lăm tiếng và giọng không được mạnh mẽ, xói vào tai như trước.
Ông sợ hãi vùng trở dậy. Quên cả mình còn đang ngúng nguẩy, mặc gió lạnh, ông hấp tập chạy ra chuồng gà, ông còn rên rẩm làm nũng vợ.
Đôi gà hôm nay mất hết vẻ hùng dũng. Chúng xù lông ra, rụt đầu vào, thu gọn trong đôi vai cánh nhô lên. Mắt nhắm nghiền, cái mỏ se sẽ vẩy. Thấy động, chúng giật mình te hé cặp mắt đỏ đục nhìn ra, rồi lại từ từ nhắm lại.
Cả Chuẩn như mê sảng, chạy hết đầu hồi bên nọ lại sang đầu hồi bên kia sờ nắn gà. Cuối cùng, ông ngồi thần ra bên bu úp con Sám Hồng. Hai tay ôm má, nâng cái đầu hoa râm rũ rượi. Ông chép miệng nói qua tiếng thở dài ảo não:
- Ôi chào ôi! Nuôi với nấng.
Con Mã Mái vốn có sức, không đến nỗi nào. Con Sám Hồng thật hết gỡ. Mới có một đêm mà thịt nhão rào rào, nhẹ thọp hẳn đi. Cái diều đầy cơm không tiêu, rắn chắc. Da dẻ xám ngoẹt và lạnh ngắt. Đờm vướng trong cuống họng, nó khò khè thở. Chốc chốc bị tắc hơi, nó lại vẩy mạnh cái mỏ kêu “quéc” lên một tiếng lớn.
Cả ngày hôm ấy, ruột gan Cả Chuẩn rối bời lên để chạy thuốc cho hai con gà. Đứng không yên, ngồi không yên. Ai mách lối nào ông cũng làm. Giã gừng cho uống, nướng tỏi cho ăn, xoa dầu Nhị Thiên Đường, đốt bồ kết, xương truật, thôi thì đủ thứ. Trong đời ông, từ cha sinh mẹ đẻ đến vợ con đầu gối tay ấp, ông chưa phải hầu hạ ai khổ sở lo lắng đến như thế này. Cả Chuẩn như mất hồn, trông người sút hẳn đi, phờ phạc, xanh xao. Suốt đêm không ngủ, hai mắt cứ chang chang; và đôi tai rất thính nghe không sót một tiếng quéc nào của hai con gà quý báu theo gió lạnh đưa vào.
Thế rồi con Sám Miến Hồng chết rũ ngay đêm hôm thứ hai. Cái mỏ há rộng, đờm rãi xộc cả ra mũi. Một đàn kiến nhỏ tung tăng ở đó kiếm mồi. Cả Chuẩn lặng người đi. Ông trân trân nhìn gà. Nét mặt trơ trơ như chẳng hề mảy may buồn tiếc. Có lẽ ông biết trước số phận con gà ấy rồi. Ông thở dài, từ từ nhấc xác con vật lên ngắm nghía một hồi lâu. Nửa cười nửa mếu, ông nghiến răng cay đắng:
- Rõ công cốc!...
Dứt lời, ông ném phịch xác con gà quý báu xuống đất, đoạn vỗ tay phủi bụi, thong thả đi lên nhà trên, cất tiếng gọi:
- Cu Trạm đâu rồi!... Vứt cổ nó ra cầu Bò đi cho ông.
Thằng bé ngơ ngẩn hỏi:
- Vứt gì cơ ạ?
Ông chỉ con Sám Hồng, trợn mắt nghiến răng, quát:
- Mù à? Vứt đi. Hỏi mãi!... Hỏi mãi!...
Từ hôm đó, Cả Chuẩn sinh ra khó tính và nóng nảy. Hơi một tí là thét lác inh hàng xóm lên. Thằng cu Trạm sợ len lét không dám dàn mặt bố. Nó lỉnh đi chơi suốt ngày.
Con Mã Mái bỏ dài, ông cũng chẳng thiết trông nom. Con Bạch Nhạn và con Chuối cũ, một người em họ và Tư Chuyên mỗi người bắt một. Giá cái Ô Mã Mái khỏe khoắn ra thì cũng chẳng còn. Ai cũng như ai, tưởng thế nào nó chẳng chết! Thế mà trái lại, Ô Mã Mái cứ tỉnh dần, rồi khỏe khoắn bằng cũ. Trong nhà bây giờ không còn con gà nào, cái kiêu hùng của Mã Mãi càng nổi bật lên. Lúc nào nó cũng nghênh ngang đi sóng đôi với một cái cần đỏ chót vươn cao lên đôi cánh phệnh phạng, nhô lên thụt xuống theo bước đi, trông đặc du côn.
Rồi con mẹ nó ấp. Ô Mã Mái sinh ra chơi bời lêu lổng, đi lang thang hết nhà này, nhà khác trong xóm. Đến đâu là đánh bạt gà trống ở đấy để chiếm những con mái tơ giống Ri, giống Pha bé bằng nửa làm vợ. Chán rồi, nó lại đi và đánh nhau như thế mãi... mãi... Lúc nào nó cũng lén lút ở bờ tre, bờ giậu hay bên những đống rơm ve gái. Bộ lông mỡ màng đen láy của nó xơ xác và đỏ kệch ra.
Từ ngày con Sám Hồng chết, Cả Chuẩn chẳng còn thiết nhìn nhõ gì đến gà qué nữa, thì cái vườn cảnh lại được ông săn sóc đến luôn. Cái vườn cảnh có lẽ chỉ để giải buồn cho những người sính là nhà nho trong lúc chán chường thất vọng bất cứ vì lẽ gì.
Một buổi chiều kia, rượu đã ngà ngà, Cả Chuẩn tha thẩn bên vườn cảnh ngắm hòn non bộ, tỉa vài chiếc lá lan, nắn lại cành si cho đúng kiểu. Chốc chốc lại khe khẽ ngâm một vài câu thơ cổ, giọng trầm trầm như len lỏi trong đám lá xanh thì thầm với bóng chiều tàn tạ. Một vẻ buồn cổ kính vương trên nét mặt ưu tư.
Bỗng tiếng gọi choang choang của Tư Chuyên bên hàng xóm phá tan sự tĩnh mịch, êm ả, thơ mộng ấy:
- Ông Cả! Thế này có chết không...
Vừa nói ông vừa giơ con Bạch Nhạn, rũ rượi trên tay cho Cả Chuẩn xem:
- Ông có cho nhốt cái Mã Mái lại không. Hôm nay nó sang đá hỏng cái Bạch Nhạn này rồi.
Cả Chuẩn thong thả hỏi:
- Sao? Chạy à?
- Nào đã chạy ở đâu. Thế này: tôi đi thăm đồng vắng, hai con ở nhà đánh nhau, mãi lúc về mới biết. Bắt ra thì con Bạch Nhạn gãy cần và tuột mỏ.
- À! Hỏng thì thịt! Làm chết gì! Nếu phải gà hay thì đã đánh được con Mã Mái. Ấy, tôi vẫn bỏ dài cho rầy mái hoang đấy.
- Chớ! Chớ! Ông không biết, chớ cái Mã Mái nó đánh như vũ bão ấy. Tôi dám nối quyết rằng cả vùng này từ con Chuối của lang Mão đến con Bịp của đồ Đản, không con nào ăn đứt được nó.
- Đành thế! Nhưng nói cho cùng: hay mấy thì hay cũng không thể bằng cái Sám Miến Hồng được.
- Chuyện! Bì thế nào được với con Sám Miến Hồng. Con Sám Miến Hồng nó là thần gà, thánh gà, đâu có phải gà thường.
Tư Chuyên hắn nói rất phải: con Mã Mái cũng không phải gà thường thật. Cả Chuẩn nhủ thầm: “Giả thử không có con Sám Hồng, xem mình có quý nó không nào?” Càng nghĩ, ông càng thấy hối vì đã bỏ phí cho con Mã Mái rầy mái hoang, không chịu săn sóc.
Hôm sau, xem xét gà, thì tai hại, con Mã Mái bị kén mép và gãy hết cả lông cánh. Cả Chuẩn cắn cảu gắt mình:
- Thế này còn đá đấm gì nữa!
Cả ngày hôm ấy, hai bố con loay hoay cấy cánh cho Mã Mái. Cu Trạm ôm gà, Cả Chuẩn khâu những lông cánh tích được vào những cuống lông gãy. Ông cẩn thận chọn lọc lông vế nào phải hợp vế ấy. Khâu xong, chấm vào chỗ chỉ vàng một ít sơn sống, ông đắc ý mỉm cười:
- Thôi, thế là tha hồ mà chắc!
Còn cái kén ở mép, Cả Chuẩn đã mổ mấy lần mà không khỏi. Sau cùng, ông đành mặc nó vậy. Và lại, cho đá thử mấy trận, Mã Mái vẫn không sao. Thế là ông đặt cho nó danh hiệu Ô Kén Mép.
Dăm tháng nữa thì hội Nhân Thọ. Cả Chuẩn ra công vần vỗ cho Ô Kén Mép. Cứ cách nửa tháng, ông đem đến nhà Hương Chế vần khâu mỏ một lần. Lối vần này không hại gà. Một miếng da khâu tròn, lồng vào mỏ, hơi rộng một chút cho dễ thở. Có hai sợi dây buộc lên mào. Cứ thế, mỗi bên không thể mổ nhau được để đá. Con nọ chen con kia, thỉnh thoảng có buông được đòn nào thì buông thôi.
Trước còn cho vần ba bốn hồ, sau dần năm, sáu hồ, rồi bảy tám hồ. Mỗi bận vần xong, ông lại đem giã nghệ hòa với ngải cứu và một ít củ tam thất đun sôi với nước giải om bóp khắp thân thể. Thịt Mã Mái sắt lại và da dày lên. Dăm bữa nửa tháng, ông lại cho nó ăn một bữa lươn sống. Ăn cái này khỏe gà lắm.
Các tay chơi gà sành sỏi trong làng, đều tin chắc chắn con Mã Mái ra hội chỉ có phần ăn với hòa chứ không thể nào thua được.
Cu Trạm ăn mặc chỉnh tề, sắp sửa phải ôm gà đi hội. Chiếc khăn xếp mốc điểm thêm vài chỗ gián nhấm lốm đốm trắng của bố thải cho rộng sụp xuống gần lông mày, như nuốt bộ mặt choắt chéo, đen sạm. Cái áo dài vải thâm ngắn cẫng, đỏ kệch, may từ năm lên mười. Và chiếc quần vải to hẹp ống, xoăn xoe mặc cao quá bụng chân. Tất cả bộ y phục đầu Ngô mình Sở, cũn cỡn đó làm cho nó thêm ngớ ngẩn.
Nghĩ đến việc được đi hội, cu Trạm lại vui sướng rộn ràng. Nó nóng lòng sốt ruột vì mấy ông khách. “Chuyện đâu mà lắm thế! Đến bực!”. Nó đi thung thăng ngoài thềm, chán rồi ra dựa vào bu gà, bần thần ngắm con Mã Mái.
Khách mỗi lúc một thêm đông. Gian nhà vừa lụp xụp vừa chật chội bộn lên những người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao, ầm ĩ. Ánh sáng cửa giữa lọt qua giàn thiên lý xum xuê hắt vào xanh ngắt. Ngọn đèn ăn thuốc bé nhỏ tù mù không đủ làm cho gian nhà sáng sủa lên chút nào. Người nhà quê vẫn quen sống với sự tối tăm như thế.
Vừa uống nước, Hương Chế vừa hỏi:
- Ông Cả đã xem xét gà cẩn thận rồi chứ?
- Đã.
- Thôi, ta đi thôi chứ?
- Hãy thong thả, còn sớm chán. Để kiểm lại tiền đã nào. Ông Tư năm đồng này. Ông Hương mười hai đồng. Ông Đồ mấy nhỉ?... À tám đồng. Tôi mười hai đồng này. Còn ai nữa.
Thơ Bỉnh vội vã:
- Ấy, còn tôi sáu đồng với chú Tư Vo nó bốn đồng nữa.
Cả Chuẩn lẩm nhẩm một lúc, rồi thong thả gói tiền, cẩn thận bỏ vào túi, giao hẹn:
- Thế vị chi là bốn mươi nhăm đồng cả thảy. Sau này đánh chác thế nào, ta sẽ lại tính.
Giữa lúc đó, có tiếng xe tay đỗ ngoài cổng ngõ. Hai người khách ăn mặc sang trọng bước xuống, một người mặc ta, một người mặc tây. Họ thong thả đi vào. Đến thềm, người mặc ta cất tiếng gióng giả:
- Thế nào? Ông Cả năm nay có mấy cái ra hội?
Cả Chuẩn trông ra, vội vàng đứng dậy vồn vã:
- A! Ông Hương! Một cái thôi, ông ạ.
Người mặc tây đi sau hấp tấp tiến lên hỏi:
- Sao? Sao lại có một?
- Ồ! Lại cả ông Sầy nữa này! Có một, chứ còn sao nữa? Cái Sám Miến Hồng chết toi rồi.
Sầy sửng sốt kêu:
- Ôi trời ôi! Chết toi à? Hoài của! Ngày ấy đã bảo ông để cho tôi thì không để.
Cả Chuẩn cười:
- Chết thì thôi, chứ để thế nào được? Mời hai ông vào trong nhà xơi nước đã.
Hương Thân khôi hài:
- Mặc nước với nôi ấy. Bắt gà xem cái đã.
Cả Chuẩn vội bắt con Ô Mã Mái lại. Vừa nhấc gà lên, Hương Thân đã tấm tắc khen.
- Ái chà! Da thịt rắn đanh này thì phải biết là vần vỗ kỹ càng.
Rồi ông cẩn thận xem cấn, xem tảng, xem mắt; rồi xem đến mỏ.
Hương Thân kinh hoàng hỏi:
- Ô, thôi! Chết! Có kén mép hở, ông Cả?
Cả Chuẩn chậm rãi:
- Vâng! Nhưng chả hề gì ông ạ. Đá thử mãi rồi.
Sầy họa theo:
- Chân ấy nó vụt thì mấy con chịu nổi ba hồ mà lo!
- Đành rằng thế. Nhưng giá vô bệnh tật vẫn hơn.
Dứt lời, ông lại cúi xuống nâng quản xem, thận trọng ngắm nghía từng li từng tí. Cả mặt trước, lẫn đằng sau quản. Một lúc lâu, ông mới thở nhẹ ra ý tiếc rẻ:
- Ác, thì có đòn ác lắm đấy. Chỉ phải ở hàng vẩy độ [21] có chiếc “chung thân đái tật”.
Đồ Thảo lên mặt biết nhiều sách nho bắt bẻ:
- Ông nói vậy thôi, chứ biết đích làm sao được? Ông Đào Công chi phú ngày xưa chỉ làm có Mã Kinh và Khuyển Kinh. Có làm Kê Kinh bao giờ đâu?
Hương Thân tủm tỉm trả lời:
- Không! Kinh nghiệm nhiều, nó quen đi chứ, cứ quen xem mắt gà như các ông, ai cũng bảo con nào đồng tử nhỏ là gan. Như thế là nhầm. Tôi đã nuôi nhiều, tôi biết: mắt con gà nào cũng vậy, sáng ngày ra đồng tử to, càng về trưa đồng tử càng nhỏ dần, nhỏ dần rồi chỉ còn bằng một cái chấm đen. Đến chiều lại to. Thế thì các ông bảo tin làm sao được đồng tử nhỏ là gan... Có cứ gì đâu, trăm nghìn lối xem, mỗi người mỗi khác.
Sầy cười lên hềnh hệch:
- Ồ! Thật à, ông Hương? Nếu thế thì y như cách xem giờ bằng mắt mèo của các báo đã đăng. Thần tình nhỉ!
- Chậc! Mắt mèo thế nào thì tôi không biết. Chớ mắt gà, nghiệm ra, hễ cứ râm trời thì đồng tử to mà càng nắng thì đồng tử càng bé. Có thế thôi!
Cả Chuẩn ôn tồn bảo mọi người:
- Ông Hương nói đúng đấy. Cái Mã Mái này thật bệnh tật suốt đời thật. Ngày còn bóc dò thì ốm mốc; khỏi ốm mốc lại bị trận ốm giây “thập tử nhất sinh”. Đến lúc khỏi chết giây; thì đâm ra kén mép, chữa thế nào cũng không khỏi.
Rồi như chợt nhớ ra, ông tươi cười bông lơn:
- Ô chết chửa! Mải chuyện gà quá, quên cả uống nước.
Mọi người cất tiếng vui vẻ, kéo nhau vào cả trong nhà. Sau tuần nước, câu chuyện càng thêm giòn giã, nở nang. Hương Thân tấm tắc khen:
- Đẹp! Trông sướng cả mắt.
Sầy trợn trừng trợn trạc:
- Đã thấm đâu. Con Sám Miến Hồng mới thích chứ. Nó đá mười hai con mất mắt trong mười hai trận đá. Chính tôi đã được xem một lần. Chết! Nó đã cứ vun vút “liên chi thanh nguyệt chi công”. Nhắc chân lên là thành cần cáo. Đầu công thon thon lé đòn rất tài... Chao bên này!... Chao bên này!... (vừa nói Sầy vừa dựng hai canh tay lên chao bên nọ, bên kia giả làm cổ gà) cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt! Coi sướng lạ!
- Hoài của, thế mà chết mất.
Tư Chuyên từ nãy vẫn ngồi lì xì không nói, nghe chừng đã nóng ruột ruột, nhắc nhỏm:
- Dễ thường trưa rồi đấy.
Cả Chuẩn sai cu Trạm cầm gà đi trước. Hương Thân lại gần thân mật hỏi:
- Cánh nhà định đánh bao nhiêu đấy?
- Độ năm chục đổ về thôi, ông ạ.
- Thế nào cũng cho chúng tôi ké với nhé. Đem con gà đi hội, ta phải đánh to to một chút, mới bõ công vần vỗ ông ạ.
Thế là cả bọn lục tục kéo đi.
Dưới mái đình những chiếc giải gà buộc lòng thòng. Ba chiếc giải: nhất, nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá. Năm nay rất nhiều gà. Nhưng con thì nhỏ quá, con thì to quá. Hạng bằng trang [22] thì lại hơn xương [23], hơn cựa. Kháp gà phải thận trọng cân nhắc suy bì từng li từng tí. “Hơn một cái lông không chọi” cơ mà!
Cả hội xem ra chỉ có con Hoa Mơ của bác nhà quê ôm khư khư trên tay ngồi thu hình một xó đình là “đồng cân đồng lạng”. Nhưng ngữ ấy còn làm gì ra nhiều tiền mà chơi. Vả lại Hương Thân, Cả Chuẩn cũng đã so sánh chán rồi. Chân tay mặt mỏ cái gà ấy cũng không phải vừa. Tuy rằng không có đòn linh [24] bằng Mã Mái, nhưng lại hơn ở cái không có kén mép. Vì thế các ông cũng chẳng thiết.
Họ chán nản ra hàng trầu nước làm vài khói giải buồn. Tư Méo cũng ngồi đấy, ông đon đả hỏi:
- Thế nào cái Mã Mái ông Cả định cho đá với cái nào chưa?
Cả Chuẩn ngửa cổ, thở khói thuốc lào, lắc đầu:
- Chưa, ông ạ. Có mỗi cái Hoa Mơ xem ra cũng lợi hại lắm. Mà gà của tôi thì kén mép.
Hương Thân nói xen:
- Chả chơi được với nó!
Tư Méo xích lại gần thì thầm:
- Được! Đá được mà! Cái gà ấy ở Trung Mầu tôi biết. Nó thì hay lắm đấy. Nhưng gặp phải anh chàng không biết chơi cho đi với gà già “vỡ” rồi [25]. Chỉ đánh đến hồ thứ ba là chạy. Các ông có đá cho tôi ké ít nhiều với.
Cả Chuẩn, Hương Thân sung sướng reo khẽ:
- Thật à?
Thế là họ đem Mã Mái sát với Hoa Mơ. Gã nhà quê không dám cho gà đá. Nhất định kêu con Mã Mái to hơn, tuy rằng đôi gà rất bằng phân, về sau, Lý Khản Trang Liệt phát bực mình gắt:
- Sợ gì mà sợ! Cái nhà bác này! Ta đánh cái kén mép của họ.
Gã nhà quê e dè:
- Đành rằng thế! “Cơ mờ” cháu không có tiền.
Lý Khản cười kha khá. Chừng ông say. Ông hùng hổ nói:
- Bác đánh bao nhiêu thì đánh. Còn mặc tôi. Bao nhiêu cũng cân.
Đôi bên thỏa thuận đem gà vào sở tại, xin đánh giải nhất. Mỗi bên cược năm chục bạc. Còn sau này gọi thêm.
Hai ông chủ kê đem gà ra sới. Mọi người xúm đông quây vòng quanh bên ngoài vạch vôi. Hương Thân cầm con Mã Mái. Ông bắt gà, thả gà, chữa gà khéo léo và nhiều mánh lới có tiếng.
Hết giao vào díu [26], Hoa Mơ đánh Mã Mái một đòn cong hẳn cần lại, quay liệng đi nửa vòng, Lý Khản gọi liền:
- Mười đồng ăn tám Hoa Mơ đây.
Sầy giơ tay:
- Bắt!
Hai người vừa trao tiền cho nhau xong, Mã Mái trả một đòn hầu dọc, Hoa Mơ ngằn ra, và tiếp thêm mấy chiếc nữa.
Sầy sung sướng reo:
- Tin!... Tin!... Mã Mái năm đồng nữa! Ai bắt không?
Đôi gà cùng lọt quản, mau đòn nên sát phạt nhau dữ lăm. Người xem đều xuýt xoa khen là “kỳ phùng địch thủ”. Mới nửa hồ đầu mà quản con nào con ấy như trát máu.
Những lúc thả gà, Hương Thân đã để ý bao giờ Mã Mái cũng buông trước một đòn. Cho nên ông thả “lơi” cho đúng tầm chân đá. Người ta thận trọng từng đòn một, trong lúc ăn thua này.
Đôi gà vẫn tranh hùng trả đòn nhau kịch liệt, xô đi đẩy lại sát vào vòng người. Hai ông chủ kê bắt gà của mình ra. Họ xoa nắn chà xát đùi vế và cho uống dấp giọng một tí nước, thấm vào khăn mặt cho tỉnh táo. Rồi cùng lừa lừa xem lối thả của người kia thế nào. Lý Khản cũng sợ cái đòn buông của Mã Mái. Ông đặt giúi Hoa Mơ vào sát. Nhanh nhẹn, Hương Thân nhắc lùi gà mình về phía sau. Được thế rộng, đúng “võ”, con Mã Mái buông liền. Hoa Mơ bị đòn rung chuyển cả người, mấp máy cả đuôi tôm. Mã Mái tiếp liền. Nó đánh một đòn rất nặng. Cái đòn di truyền của mẹ nó - con Mái Củi Tạ - khiến Hoa Mơ hoang mang, biệng siệng như say. Chân thấp, chân cao tấp tểnh và bối rối quay “tháo chái” [27].
Lập tức, gã nhà quê lúc nãy ôm phắt gà lên nhất định kêu quản con Mã Mái bôi thuốc độc, nếu không, sao vừa mới thả vào, gà của hắn đã hoa mắt như thế được?
Sầy sừng sộ:
- Anh định cãi bây phỏng? Anh định cãi bây phỏng?
Cả Chuẩn đứng giang tay, phân bua với công chúng:
- Các ông đứng quanh đây thử xem xem! Hai con vẫn ở đây, nào đã đi đâu xa mà bảo cho thuốc với cho men được? Chẳng qua là cái đòn nó như thế. Vậy xin phép các ông hàng hội cho chúng tôi vào lấy giải.
Gã nhà quê nhất định không nghe. Đôi bên cãi nhau ồn ào. Mấy ông sở tại phải ra dàn xếp khéo với Cả Chuẩn:
- Thôi ông ạ! Ta lại cứ cho vào đánh. Gà của mình hay vẫn được. Phải cái người họ quê mùa không biết gì.
Hương Thân cười nhạt:
- Không biết gì! Không biết gì ăn người! Không biết gì đời! Ông bảo bao giờ cái Mã Mái lại đánh được một đòn như thế?
- Thôi! Xin các ông. Chơi vui với nhau ấy mà!
Bàn đi tính lại một lúc lâu nữa, Cả Chuẩn mới bằng lòng. Ông nói với mọi người:
- Tôi chơi thế này là chơi “lép vế” đấy.
Đến lúc cho gà vào đánh, mọi người đều kinh ngạc thấy Tư Méo cầm, thả con Hoa Mơ. Ông cười nháy Hương Thân chống thẹn:
- Gớm! Chơi với bời! Ai lại thả “nhà nghề” thế bao giờ! Mình đành phải cầm giúp Lý Khản vậy.
Hương Thân giận tím mặt. Bây giờ mới vỡ nhẽ. Thì ra con Hoa Mơ của Tư Méo. Hắn mưu mô quỷ quyệt cho gã nhà quê cầm rồi lại để Lý Khản vờ đánh tiền. Gớm thật. Hương Thân cười khẩy:
- Hừ! Bây giờ ông Tư mới chịu “ra mặt”. Màu mãi.
Đồ Thảo thâm hiểm, nói xa xôi:
- Vừa rồi có đám cháy ở đàng kia các ông ạ.
Ông có ý nói xỏ: “Cháy nhà mới ra mặt chuột”. Tư Méo gằm mặt không dám nói gì.
Mấy viên thiết đả con Hoa Mơ ăn trong lúc nhếu nháo đã ngấm. Nó đã lại người, tỉnh táo mạnh mẽ như trước. Hương Thân thấy hơi lo lo. Tuy rằng Mã Mái hơn đòn một chút, nhưng cái lối đòn cũng đã “hầu dọc” và “khóa mỏ” ấy rất nguy hiểm cho cái kén mép.
Quả như Hương Thân đoán thật. Sang hồ tư, Mã Mái bị vỡ kén, máu chảy rất nhiều, và kém dần dần.
Tư Méo tủm tỉm nói khích:
- Nào đã chắc mèo nào cắn mỉu nào.
Hương Thân cười gằn, nhắc lại:
- Thật đấy, đã chắc mèo nào cắn mỉu nào. Chỉ một đòn lấy giải là thường.
Nói cứng vậy, chứ thật ra Mã Mái nao núng lắm rồi.
Cuối hồ năm, cái kén cương lên đau quá, mổ không được chắc để đá nữa. Đầu Mã Mái dại đi, sưng vù, mọng lên những máu, chúi vào hai đùi Hoa Mơ tránh đòn.
Đồng tiền liền với ruột. Hương Thân chẳng còn nghĩ đến bẩn thỉu, mỗi lần bắt gà ra chữa, ông cho mồm vào hút máu, hút mũi cho nhẹ bớt mặt.
Hồ sáu, hồ bảy, Hoa Mơ đánh toàn đòn riêng [28]. Nó nhắc đầu “trao chuông” đánh như gõ vào tảng Mã Mái. Mỗi lần bị đòn, Mã Mái lại lao đao, ngật ngưỡng cái cổ, mổ vu vơ rồi lả dần... lả dần, gục đầu xuống đất. Mỏ tóp tép, máu ở kén chảy ròng ròng đỏ lòm cả sới. Những người đi xem xì xào bàn tán:
- Con Mã Mái ai ngờ bị “ba chân” các ông nhỉ!
Cả Chuẩn thương gà, nói khó với Tư Méo:
- Này, ông Tư này! Xin thua năm phân đấy.
- Thôi, cứ đá cho đến “kỳ tẩu kỳ tử”.
Hương Thân bĩu môi:
- Ăn lắm mấy! Cặp này hòa cho mà xem. Nếu chạy, con Mã Mái đã chạy rồi. Tôi dám chắc...
Ông vội ngừng bặt và Mã Mái bị một đòn ngã ngửa ra đằng sau. Biệng siệng, giật lùi... giật lùi... Những người đánh con Hoa Mơ reo:
- A chạy! Chạy rồi!
Và mở một đường chờ đón. Con Hoa Mơ được thể đá tiếp dồn dập, thốc tháo. Bỗng con Mã Mái cáu tiết phóng liền một đòn. Hoa Mơ rụt hẳn đầu lại, ngây mặt ra, đuôi phập phổng, người chuyển rung rung. Hăng máu, Mã Mái ngoặp lấy hầu Hoa Mơ đá liền hai chiếc nữa. Hoa Mơ há mỏ kêu “quác” một tiếng lớn, ngã chúi xuống, nằm thẳng cẳng, chân cánh giãy lên đành đạch. Một lúc lâu rồi yếu dần... dần... Máu ở mũi, ở mồm xỏe ra chan hòa.
Cu Trạm lách qua vòng người chạy ra gọi Đồ Thào khoe rối rít trong khi ông này tưởng Mã Mái thua mười mươi, chán nản ra ngồi hàng nước chẳng buồn nhìn nhỏi đến gà nữa.
- A! Ha! Ha! Ông Đồ ơi! Con Hoa Mơ bị gà nhà đánh chết rồi, ông Đồ ạ.
Đồ Thảo không kịp uống bát nước mới rót, hấp tấp chạy lại sới gà, lắp bắp hỏi:
- Thật không? Thật không?
Vòng người xô hẹp lại. Cả Chuẩn, Sầy vội gạt ra ngoài nói:
- Các ông dẹp xa xa ra một tí, chẳng nữa người ta lại ôm gà lên kêu chúng tôi bỏ thuốc độc.
Con Hoa Mơ bị đánh chết thật. Mà Mã Mái cũng hết gân, không đá được nữa. Nó chỉ lấy chân cào cào, bới bới.
Tư Méo chịu thua. Mặt tái mét, ông run rẩy nhấc gà lên. Hương Thân mát mẻ:
- Đã chắc mèo nào cắn mỉu nào, ông Tư nhỉ!
Tư Méo tức tối, cười nhạt:
- Hừ! Chúng mình còn gặp gỡ nhau nhiều. Đã vội gì...
Hương Thân cười ha hả không trả lời. Ông ôm Mã Mái vào lấy giải.
Chú thích:
[1] Chịu buộc bắt tảng: chui qua bụng, đợi con địch lên mổ vào đầu rồi đá.
[2] Cần lập trụ: cổ to rất cứng, đánh bao giờ cũng đứng thẳng.
[3] Đúc: cho đạp mái, lấy gà con.
[4] Vở: lối đánh.
[5] Kháp: gán, ghép.
[6] Tảng: đầu phía trên.
[7] Chân sương: chân trắng.
[8] Thông vỉa: chui qua cánh rồi ngoái cổ lại mổ đầu mà đá. Hai mang: hai bên cùng thuận.
[9] Cần: cổ. Chạy vài nhì: là thấp đầu nữa với chúi đòn.
[10] Sà leo: ngoái cổ lại mổ đá lung tung. Con nào bị đè nhiều tức quá cũng đá sà leo. Đá như thế bao giờ cũng quật mình xuống đất.
[11] Tầm đại: sức rất to.
[12] Rầy mái: đạp mái.
[13] Mỏ chấu: con gà mới nở, đầu mỏ có một cái chấm nổi lên bằng hạt tấm tức là mỏ chấu.
[14] Mình củ đậu: tròn mà to, trái với mình “công” thon.
[15] Hầu dọc: mổ vào yết hầu, đá thẳng vào cổ.
[16] Cần: đá con địch cong cổ, gãy cổ tức là đòn cần. Cáo: đá con địch kêu quang quác lên, hoặc mang liệng siệng, có khi bay vù hẳn lên, lức là đòn cáo.
[17] Vẩy khâu dao: tức là chiếc vẩy chạy từ mặt quản bên này sang mặt quản bên kia.
[18] Ngón thái: ngón chân đằng sau.
[19] Khấu mỏ: bịt mỏ.
[20] Buông: không cần mổ mà đá.
[21] Vẩy độ: hàng vẩy phía sau quản, thẳng với cựa.
[22] Bằng trang: bằng nhau.
[23] Hơn xương: già hơn.
[24] Đòn linh: đòn linh thiêng, rất tài và rất bất thình lình.
[25] Vỡ: hỏng, đánh một lát chờn đòn, rồi chạy theo thói quen.
[26] Giao: đứng xa đá phóng. Díu: vào gần sát nhau mà đá.
[27] Tháo chái: quay ngược đầu đi một vòng.
[28] Đòn riêng: lối đòn sở trường của một con nào. Khi địch bị kém thế, giơ ra đá một mình, con kia không trả lại đòn được.
Kim Lân
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Con Quỷ Nhỏ Trong Tôi Phần 1 Chiều tối làm được bài thơ đầu tiên Đêm tôi mơ thấy một giấc mơ kỳ diệu. Tôi đang đi trên một cánh đồ...