Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2024

Tiếng rền của núi 1

Tiếng rền của núi 1

CHƯƠNG I
1. Tiếng Rền Của Núi
Singo Ogata khẽ nhíu mày, miệng hơi trễ và đắm chìm trong suy tư. Ở ngoài nhìn vào thấy ông có vẻ buồn rầu hơn là đăm chiêu.
Anh con trai Suychi từ cha mình như vậy, nhưng không lấy làm bận tâm vì ông Singo vẫn thường có những tâm trạng tương tự. Suychi hiểu rằng ông già đang cố gắng nhớ lại chuyện gì đó.
Thấy ông già lột mũ đặt lên đầu gối. Suychi lẳng lặng đón lấy và cất nó lại giá.
- À này... Gì nhỉ? - Ông Singo tìm lời một cách khó khăn. - Cái cô người làm mới bỏ đi đấy, tên là gì nhỉ?
- Kaio.
- Ờ, phải rồi, Kaio. Cô ra đi lúc nào vậy?
- Thứ năm tuần trước. Được năm ngày rồi.
- Năm ngày... Cô ta mới đi được năm ngày mà ta đã chẳng còn nhớ mặt mũi cô. Thật đáng sợ quá!
Tất nhiên là ông già quá cường điệu, Suychi thầm bảo.
- Anh có biết Kaio nói gì với ba trước hôm ra đi không? - Singo nói tiếp. - Hôm đó ba định đi dạo một chút nên mới xỏ đôi dép vào và nhìn thấy ở chân mình có một vết đau. Lúc ấy cô ta kêu lên:
- Thưa tiên sinh chính trực, chân ngài mọc chai rồi kìa.
Lời cô ấy nói làm ba cảm động. Việc quai dép làm phồng chân thì đã hẳn rồi, nhưng giọng nói cô ấy mới xao xuyến làm sao. Ba vẫn nghĩ là cô định nói "Thưa tiên sinh đáng kính" nhưng lại nói nhầm thành ra "tiên sinh chính trực", song bây giờ ba mới vỡ lẽ chữ "đích thực" cô muốn nói về vết chai. Vậy là lẽ ra chẳng có gì phải xúc động cả. Kaio có một lối phát âm lạ quá và nó đã làm ba hiểu lầm. Ờ... bây giờ thì rõ rồi. Này, anh hãy thử nói: "Thưa tiên sinh chính trực, chân ngài mọc chai kìa" xem?
- Thưa tiên sinh chính trực, chân ngài mọc chai kìa.
- Còn bây giờ thử nói: "Thưa tiên sinh, đích thực là chân ngài mọc chai kìa?"
- Thưa tiên sinh, đích thực là chân ngài mọc chai kìa.
- Ừ phải rồi. Cách nhấn giọng đã làm ba nhầm.
Singo sinh trưởng ở nông thôn và ông không tự tin rằng mình có thể phát âm đúng giọng Tokyo. Còn Suychi thì từ nhỏ đã sống ở Tokyo.
- Vậy mà ba cứ tưởng là từ "chính trực" dành cho mình. Cô gái đã tiễn ba ra tận cửa và cúi mình chào. Ba nhớ được câu nói về chuyện mọc chai ở chân, thế mà tên cô ấy và cả nét mặt lẫn hình dáng thì không làm sao nhớ nổi. Kaio ở nhà ta có đến nửa năm ấy nhỉ?
- Vâng.
Singo quên rất nhiều, song Suychi đã quen và không bận tâm đến việc an ủi ông nữa.
Chính Singo cũng đã quen dần, nhưng dù sao ông vẫn ta sợ hãi. Mỗi khi vắt óc mà chẳng nhớ ra được điều gì, ông thường rơi vào một cơn đa cảm.
Và lần này cũng vậy. Có người ở đã sống trong nhà cả sáu tháng trời, vậy mà trong ký ức của ông chỉ phục hồi được có mỗi câu chuyện ở ngưỡng cửa.
Với ý nghĩ đó, Singo cảm thấy cuộc sống đang từ từ rời bỏ ông.
2. Bà Yasuco vợ ông năm nay sáu mươi ba tuổi. Bà lớn hơn chồng một tuổi.
Vợ chồng ông có hai người con. Fusaco là con gái lớn. Cô có hai đứa con gái nhỏ. Bà Yasuco trẻ khá lâu. Không ai có thể ngờ rằng bà lớn tuổi hơn chồng. Chẳng phải vì Singo trông già hơn tuổi. Chỉ đơn giản là theo lệ thường thì trong gia đình người vợ phải trẻ hơn chồng, vì thế việc Yasuco trông vẫn trẻ được coi là chuyện tự nhiên. Mặc dù vóc người nhỏ, nhưng bà khá mập và chắc.
Khó mà nói được rằng Yasuco đẹp. Lúc còn trẻ, sự chênh lệch tuổi tác giữa hai người lộ rõ và bà không thích thò mặt ra ngoài cùng với chồng.
Singo không rõ từ lúc nào vợ ông bắt đầu không còn trông già hơn ông nữa. Có lẽ đó là lúc bà đã ngoài năm mươi. Theo lẽ thường thì phụ nữ vẫn già nhanh hơn, nhưng ở vợ chồng ông thì ngược lại.
Đêm nay Singo thấy trong người khó chịu, không ngủ được. Ông bật ngọn đèn ở đầu giường và lay vợ để bà khỏi ngáy. Mỗi khi trong người khó ở, cái cảm giác động chạm với da thịt già nua của Yasuco làm ông thấy ghê ghê.
Trời nóng và ngột ngạt đến không thể chịu nổi. Singo dậy và mở một cánh cửa sổ ở hàng hiên. Thế rồi ông quỳ xuống cạnh đó.
Một đêm sáng trăng.
Từ ngoài vườn vẳng vào tiếng ve sầu. Singo không ngờ rằng tiếng ve lại có thể râm ran đến như vậy. Phải chăng là chúng đang ngủ mơ những ác mộng, ông thầm nghĩ. Đêm trăng này đối với ông hun hút vô bờ bến.
Tháng tám vừa mới bắt đầu, vậy mà các loài côn trùng mùa thu đã lên tiếng.
Singo nghe có tiếng động nhẹ nào đó. Hình như sương đang rơi trên cành lá.
Sau đó ông nghe thấy tiếng núi rền. Trời không gió. Trăng gần rằm sáng rõ, nhưng qua màn đêm ẩm ướt, hình dáng quả núi phía sau nhà nhòa nhạt, mờ ảo và hoàn toàn bất động. Cả ngàn lá cây trên hàng hiên cũng không hề lay động.
Thỉnh thoảng ban đêm tiếng ầm ào của sóng biển cũng vang vọng đến tận chốn thâm sơn cùng cốc này.
Singo bỗng chợt nghĩ hay là ông vừa nghe tiếng biển. Nhưng không - đây rõ ràng là tiếng núi.
Nó giống như tiếng gió xa, nhưng có thể ví với tiếng rền rĩ trầm vang từ sâu trong lòng đất vọng ra. Singo cảm thấy như đó là tiếng rền từ trong chính bản thân mình hoặc bị ù tai, vì thế ông lắc mạnh đầu.
Tiếng rền biến mất.
Đến lúc ấy Singo mới cảm thấy sợ. Biết đâu đó chẳng là dấu hiệu thần chết sắp gọi ông?
3. Quả núi đã rền lên, như thể có một con quỷ vừa bay qua đầu nó.
Sườn núi gập ghềnh, hiện lên trong bóng đêm nhòa nhạt giống như một bức tường đen. Trông nó nhỏ nhoi, như có thể thu gọn vào mảnh vườn của Singo vậy. Những vì sao run rẩy trên những rặng cây mọc chon von đỉnh núi.
Singo sập cửa sổ lại và chợt nhớ đến một câu chuyện kỳ lạ.
Trước đây mười hôm ông có chờ một người quen trong một phòng trà mới mở. Người ông đợi không tới, cả các nữ tiếp viên cũng đến muộn.
- Sao ngài không tháo cravát? - Người nữ tiếp viên duy nhất có mặt trong quán hỏi Singo. - Trời nóng bức quá.
Singo gật đầu và để cho cô gái tháo cravát giúp ông. Sau đó cô gái bắt đầu kể cho ông nghe chuyện đời mình.
Trước đó hai tháng, thiếu chút nữa cô đã tự kết liễu cuộc đời cùng với một anh thợ mộc (cũng là người làm cho quán trà này).
Đúng vào lúc hai người chuẩn bị uống thuốc độc, cô gái bỗng hoài nghi vào tác dụng của liều thuốc.
Thuốc đủ mạnh, anh con trai khẳng định, song cô không tin.
- Ai đã chỉ định thuốc này thế? - Cô gái hỏi người yêu. - Anh nói đi! Biết đâu họ chơi xỏ, đưa liều thuốc nhẹ, khiến chúng ta phải đau đớn thì sao? Anh lấy thuốc của bác sĩ nào, ở hiệu thuốc nào vậy? Anh không muốn nói hả? Nực cười quá? Chúng ta thề cùng chết với nhau vậy mà ngay cả chuyện như thế anh cũng không chịu nói...
Sau đó cô đòi phải xác định lại tác dụng của liều thuốc rồi mới tự tử "Chuyện khôi hài biết chừng nào!" thiếu chút nữa thì Singo đã buột miệng như vậy.
Giờ đây Singo bỗng nhớ câu chuyện đó, khi đang đóng cửa lại. Ông đi nằm và quyết định không đánh thức vợ dậy để kể cho bà nghe về nỗi khiếp sợ do tiếng rền của núi xâm chiếm lòng ông.
Hai cha con Singo cùng làm việc trong một hãng. Ngoài công việc chuyên môn, anh con trai còn phải đảm nhiệm thêm vai trò "nhắc nhở" cho cha mình.
Ở nhà thì hai người phụ nữ - bà Yasuco và Kikuco, vợ của Suychi - thực hiện nhiệm vụ đó. Như vậy là ba người trong gia đình phải lo lấp những chỗ trống trong trí nhớ của người còn lại.
Một hôm, vào cuối giờ làm việc, Suychi vào phòng giấy của cha, nhặt đại một cuốn sách từ trên giá và lật qua loa.
- Xem này! - Anh kêu lên và lại bên bàn cô thư ký của Singo để cho cô xem một đoạn viết gì đó.
- Cái gì vậy? - Singo hỏi và mỉm cười.
- Chuyện Paris ạ. Đây là hồi ký về một chuyến du hành sang Tây Âu.
Singo thừa hiểu Suychi không quan tâm đến trang sách. Anh ta chỉ tìm cớ để hẹn hò với cô thư ký.
Trên đường về nhà Singo mới sực nhớ lẽ ra ông phải về cùng với Suychi. Xe buýt đông nghẹt và Singo quyết định đi bộ. Người chủ hiệu mời chào và Singo bước vào. Thấy có món trai tươi ông quyết định mua mấy con về nhà. Khi người chủ tiệm hỏi lấy bao nhiêu thì Singo lưỡng lự.
- Ờ thì... lấy ba con xem! Phải rồi, ba con lớn nhất ấy.
- Xong ngay ạ. Chúng tôi làm xong liền đây.
Hai cha con người bán hàng dùng loại dao làm bếp lớn để nạy thịt trai. Những tiếng cọ sắc nhọn của dao vào vỏ trai làm Singo rùng mình. Sau đó họ rửa sạch thịt trai và đem thái nhỏ trên một tấm thớt lớn. Xong xuôi, người chủ tiệm chia chỗ thịt trai ra làm ba và nhồi lại vào ba cái vỏ của nó.
Bất giác Singo bỗng để ý đến một việc, thoạt nhìn thì thấy nhỏ nhặt: thịt của ba con trai đã lẫn lộn cả với nhau và chẳng còn biết thịt con nào để bỏ vào vỏ con nào nữa.
Ở nhà có bốn người, nhưng Singo chỉ mua có ba con trai. Bởi ông biết rằng Suychi sẽ không về nhà ăn tối và vô tình ông đã loại anh ta ra khỏi danh sách. Có điều ông chẳng nghĩ được ra rằng như vậy ông sẽ đặt con dâu Kikuco vào một tình thế bất tiện.
4. Thật hiếm khi Singo mua hải sản về nhà, nhưng cả vợ ông lẫn con dâu đều không tỏ vẻ ngạc nhiên. Có thể là họ muốn che giấu tình cảm của mình khi thấy ông trở về một mình, không có Suychi.
Singo đưa gói đồ ăn cho Kikuco và đi theo cô vào bếp. Thấy trong bồn rửa có sò và tôm, ông ngán ngẩm kêu lên:
- Thế này thì tôi đi mua mấy con trai làm gì kia chứ? Bây giờ rồi sẽ ra sao: sò với trai đều cùng một vị cả!
- Nhà mình có thể mở hàng ăn hải sản được đấy! - Kikuco cười nói và cái đầu lưỡi hồng hồng của cô thoáng hiện ra. - Để con xem nhé. Trai thì cứ để nguyên cả vỏ luộc lên. Tôm thì đem nướng, còn sò thì rán vậy. Con sẽ chạy đi mua nấm, còn ba hái giúp con ít rau thơm ngoài vườn.
- Ừ được rồi.
Kikuco đặt lên bàn bếp hai con trai.
- Có ba con cơ mà! - Singo ngạc nhiên hỏi.
- À con thứ ba ạ? Con nghĩ ông bà răng yếu, chắc chỉ ăn được một con thôi...
Bà Yasuco cúi mặt xuống và cười thầm.
- Con nói gì vậy?... - Singo ngạc nhiên. - "ông bà?" Làm như là chúng ta đã có cháu nội trong nhà rồi vậy?
- Con xin lỗi! - Kikuco nhanh nhẹn vọt đi để lấy nốt con trai thứ ba.
- Này ông, con bé nó nói phải đấy, tôi với ông chia nhau một phần là được rồi. - Bà Yasuco can.
Những lời của cô con dâu nói thực đúng chỗ, đã tránh cho ông cái khó xử vì chỉ mua có ba suất ăn. Kikuco quả là nhạy cảm và khéo léo. Có thể là cô đã nghĩ đến cách khác để dành phần cho Suychi như cô sẽ không ăn, hoặc ăn chung một phần với bà Yasuco...
- Chỉ có ba con trai cả thảy thôi à? - Bà Yasuco hỏi. Bà hoàn toàn không nhạy cảm về sự đồng điệu. - Sao ông chỉ mua có ba trong khi nhà ta những bốn người?
- Ba con là đủ rồi, Suychi sẽ không về đâu.
Yasuco nhếch mép cười cay đắng, Kikuco không để lộ tình cảm của mình, mà cô cũng không hỏi Suychi đi đâu.
Kikuco vốn là con thứ tám trong một gia đình đông con. Các anh chị của cô đều đã có vợ có chồng và họ đã có một đàn con. Singo vẫn ngạc nhiên vì sự mắn con của gia đình nhà Kikuco. Còn Kikuco thì vẫn thường trách bố chồng chẳng nhớ được tên các anh chị của cô.
Như mọi đứa con út khác, Kikuco lớn lên trong sự nâng niu chiều chuộng của gia đình. Điều đó làm cho cô quen thói nhõng nhẽo.
Trong điệu bộ ngúng nguẩy đôi vai của Kikuco, Singo nhận thấy có một vẻ gì đó rất đáng yêu, thoáng một nét đỏm dáng ngây thơ, trong trắng.
Thân hình cân đối của Kikuco gợi cho Singo nhớ đến người chị gái của vợ ông. Hồi trẻ Singo đã từng yêu mê mệt chị gái của Yasuco. Chị đã mất sớm, để lại mấy đứa con nhỏ với người chồng đẹp trai. Yasuco đã dọn đến ở nhà người chị gái quá cố để săn sóc lũ cháu côi cút. Cô đã làm việc xả thân với niềm hy vọng thầm kín là sẽ thay thế được bà chị. Một mặt cô say mê người anh rể, mặt khác - cô ngưỡng mộ người chị gái quá cố. Chị xinh đẹp đến nỗi không ai ngờ được là hai chị em cùng một mẹ. Đối với Yasuco, hồi ấy, chị gái và anh rể cô là những con người của thế giới thần tiên.
Yasuco đã hy sinh bản thân mình cho anh rể và các cháu, nhưng người anh rể dường như không đoái nghĩ đến tình cảm ấy.
Khi hiểu rõ câu chuyện, Singo đã lấy Yasuco.
Từ đó tới nay đã hơn ba mươi năm và Singo chưa bao giờ nghĩ là mình đã sai lầm. Một cuộc hôn nhân lâu bền không phụ thuộc vào việc nó được bắt đầu như thế nào. Có điều suốt ngần ấy năm hai vợ chồng đều giữ những kỉ niệm về người chị gái ở trong tim. Họ không nhắc đến chị, nhưng không một phút nào quên chị ấy cả.
Kể từ ngày Kikuco về làm dâu trong nhà này, những kỉ niệm cũ của Singo lại bùng cháy, song nỗi đau thì không còn dữ dội như trước nữa.
Mới lấy vợ được chưa đầy hai năm mà Suychi đã có nhân tình.
Đối với Singo thì điều đó không thể nào hiểu nổi. Khác với người cha đã lớn lên ở nông thôn, cậu con trai không có vẻ gì là xúc động trước tình yêu và sự say mê. Chưa khi nào anh tỏ ra đau khổ, Singo đoán rằng hiện tại Suychi đang dan díu với một người phụ nữ dễ dãi nào đó hoặc thậm chí có thể là với một gái điếm mạt hạng. Anh ta vẫn mời các nữ nhân viên ở hãng đi nhảy, cách đó chỉ cốt đánh lạc hướng ông bố. Dù là thế nào đi nữa thì chắc gì nhân tình của Suychi đã trẻ trung và thanh khiết như Kikuco. Có cái gì đó khiến Singo cho rằng con dâu ông vẫn chưa hay biết gì về chuyện ngoại tình của Suychi. "Hình như mọi chuyện vẫn ổn cả, bất chấp mấy con sò khốn khổ", ông thầm nhủ.
5. Ở sân ga Tokyo, Suychi lẹ làng nhảy lên tàu rồi giữ một chỗ cho Singo lên sau.
Sau khi đưa ông già ngồi vào chỗ, Suychi móc túi lấy ra cho ông tờ báo và đôi kính. Singo cũng có mang kính nhưng hay quên nên ông đưa cho Suychi mang thêm một đôi để dự phòng.
Suychi nghiêng về phía cha nói:
- Tanizaki mới bảo con là có một cô bạn của cô ấy đang tìm việc làm. Con đã nhờ cô hỏi giùm xem cô kia có muốn đến giúp việc cho nhà mình không.
- Vậy hả? Thế để bạn của Tanizaki làm trong nhà mình con nghĩ là không nguy hiểm sao?
- Sao lại nguy hiểm?
- Nó có thể biết chuyện gì đó rồi đem nói lại cho Kikuco.
- Sao ba nghĩ vậy? Đâu có chuyện gì.
- Ờ thì ba cũng cần hiểu rõ là đưa ai vào nhà mình chứ! - Singo chấm dứt câu chuyện và chăm chú vào tờ báo.
Lúc xuống tàu ở ga Kamakura, Suychi bỗng hỏi:
- Cô Tanizaki đã nói gì với ba về con phải không?
- Chẳng nói gì cả, dường như anh bảo cô ấy phải giữ mồm giữ miệng.
- Sao? Ba nói cái gì vậy? Con mà có chuyện gì với thư ký của ba chẳng hóa làm ba thành trò cười cho cả hãng sao?
- Thế đấy, liệu làm sao cho Kikuco khỏi biết chuyện.
- Có nghĩa là Tanizaki đã mách lẻo với ba? - Suychi tiếp tục gặng hỏi. Anh có vẻ không có ý định giấu giếm.
- Chẳng hiểu sao nó còn nhận lời đi chơi với mày khi biết mày có nhân tình?
- Thì... chắc là vì ghen.
- Khiếp quá!
- Con sẽ chấm dứt ạ.
- Tôi hết hiểu nổi anh. Hy vọng là anh sẽ kể hết cho tôi biết.
- Con sẽ kể, nhưng để con giải quyết xong đã.
- Đừng có để chuyện đến tai Kikuco.
- Sợ là cô ấybiết rồi cũng nên.
- Ra thế đấy...
Suốt tối hôm Singo ở trong một tâm trạng hết sức khó chịu.
Ăn tối xong ông rời khỏi bàn, không nói lời nào và đi về phòng mình; Kikuco đem dưa hấu đến cho ông. Bà Yasuco nhắc cô lấy thêm chút muối.
- Kikuco gọi ông mấy lần là có dưa mà ông không nghe sao? Bà hỏi Singo.
- Tôi chẳng nghe thấy gì cả. - Singo đáp. - Hình như gần đây tai tôi có chuyện gì thì phải. Hôm qua, khi tôi mở cửa sổ cho mát thì nghe thấy tiếng rền của quả núi sau nhà. Còn bà thì ngáy thôi là ngáy!
Hai người đàn bà ngoảnh nhìn về phía núi.
- Núi rền được sao? - Kikuco thốt lên. - Mà hình như có lần mẹ đã kể cho con nghe một chuyện như vậy? Hình như là chị gái của mẹ trước khi chết cũng có nghe tiếng núi rền thì phải...
Singo choáng người như bị sét đánh. Ông không thể tha thứ cho mình vì đã quên chuyện đó. Làm sao mà ông lại chẳng nhớ ra khi nghe tiếng núi rền kia chứ? Thật hết sức lạ lùng!
Kikuco dường như đến lúc này mới hiểu mình vừa làm gì. Cô ngồi lặng đi, đôi vai đẹp hay ngúng nguẩy trơ như đá.
CHƯƠNG II
Tiếng Ve Kêu
Fusaco về, mang theo hai đứa con. Đứa lớn lên bốn, còn đứa nhỏ chưa đầy tuổi.
- Bao giờ thì có đứa thứ ba nữa đây? - Singo hỏi giữa chừng câu chuyện.
- Lần trước ba cũng đã hỏi con như vậy! - Fusaco đáp lại. - Còn cô Kikuco nhà này vẫn chưa định có con ư?
Câu nói của chị ta không hề có ẩn ý, nhưng nét mặt của Kikuco lúc đang nhìn đứa bé bỗng đờ ra.
- Đặt con bé nằm xuống đi. - Singo xen vào.
- Kunico chứ không phải là "con bé". - Fusaco nói. - Chính ba đã đặt tên cho cháu mà bây giờ ba lại gọi là "con bé"?
Dường như chỉ mình Singo nhận từ sự thay đổi trong nét mặt Kikuco. Tuy nhiên, ông không để lộ ý nghĩ của mình và quay ra chơi với đứa cháu đang thích thú giãy đạp lung tung.
Fusaco lục khăn gói lấy đồ rồi cùng Satoco, đứa con gái lớn, đi vào nhà tắm.
- Tôi thấy con bé con này nó dễ tính và biết nghe lời hơn chị nó đấy! - Bà Yasuco nói với chồng.
- Chắc tại vì bố mẹ nó lục đục với nhau nên ảnh hưởng lên tính cách của Satoco đó thôi. - Singo đáp. - Vợ chồng nó bắt đầu cãi cọ nhau ngay sau khi sinh Satoco mà, phải không?
- Chẳng lẽ một đứa trẻ bốn tuổi có thể hiểu được những chuyện như thế sao?
- Sao không? Những chuyện ấy ảnh hưởng đến đứa bé lắm...
- Nào, mợ cháu mình đi chơi nhé? - Kikuco bế đứa nhỏ lên nói nựng và bồng cháu đi ra khỏi phòng.
Bà Yasuco đứng bật dậy, chạy đến chỗ khăn gói của con gái và móc cái ví của chị ta ra.
- Này, bà làm cái gì vậy? - Singo khẽ cảnh cáo - Để cái bóp xuống ngay! Bà có nghe tôi nói gì không?
- Nhưng tại sao cơ chứ, nếu tôi có thể được biết? - Yasuco hỏi lại tỉnh bơ.
- Để nó lại chỗ cũ đi! Bà không hiểu mình đang làm gì ư? - Singo nhắc lại và tay ông run lên.
- Chẳng lẽ tôi lại đi ăn cắp của nó à?
- Còn tệ hơn ăn cắp nữa.
Bà Yasuco bỏ lại cái bóp và ngồi xuống bên tay nải của Fusaco.
- Tôi muốn xem tiền bạc của con gái mình ra sao thì có gì là xấu nào? Ông thử nói coi! Biết đâu nó chẳng có lấy một xu để mua kẹo cho con cũng nên. Tôi chỉ muốn xem tình trạng của nó ra sao, vậy thôi.
Singo nhìn bà hằn học. Sau đó một phút, Fusaco từ nhà tắm đi ra.

- Này con, tao vừa định bảo để xem trong bóp mày có tiền bạc nhiều ít thế nào mà ba mày la tao quá. - Bà Yasuco nói luôn khi vừa thấy chị ta. - Nếu tôi đã làm gì không phải thì thôi, xin lỗi vậy.
- Xì, "Nếu tôi đã làm gì không phải". - Singo đay lại. Lời phân trần của vợ đã làm ông nổi giận.
Sau đó, ông cố trấn an mình bằng cái ý nghĩ rằng hành vi của vợ ông là rất bình thường trong quan hệ của người mẹ đối với con gái, nhưng ông không sao trấn tĩnh được. Dường như nỗi mệt mỏi của năm tháng đã trào ra từ nơi nào đó thật sâu và đã nhấn chìm ông.
Fusaco nhìn chăm chăm vào khuôn mặt phẫn nộ của Singo. Chị sững sờ không phải vì hành vi của bà mẹ, mà là vì phản ứng của ông bố.
- Thì đấy, mẹ muốn xem gì thì cứ xem đi. - Cuối cùng chị ta kêu lên đầy vẻ khiêu khích và quẳng cái bóp vào lòng bà Yasuco.
Singo lại càng nổi giận hơn nữa. Bà Yasuco không động đến cái bóp.
- Aikhara nghĩ rằng nếu không có tiền con chẳng dám bỏ nhà đi. - Fusaco nói tiếp. - Mẹ cứ việc xem, dù sao bóp cũng rỗng không.
Vừa lúc ấy Kikuco dắt đứa bé chập chững bước vào. Fusaco đón lấy con và cởi áo cho nó bú. Chị có khuôn mặt xấu, nhưng thân hình thì đẹp. Đôi vú lớn căng sữa, cứng chắc.
- Thế còn Suychi đâu rồi? Hôm nay chủ nhật cơ mà? - Fusaco bỗng hỏi. Hẳn là chị muốn làm dịu tình hình.
2
Khi Singo về đến cổng nhà, ông bỗng ngước lên và nhìn từ những cây hoa hướng dương bên hàng rào nhà bên cạnh. Ông trở lui mấy bước, đến sát bên dưới những bông hoa đang trĩu xuống trên cánh cổng.
Sau lưng Singo, cô bé hàng xóm vừa về tới. Ông tránh lối cho cô bé và lẩm bẩm:
- Những bông hoa to quá. Thật là một kỳ quan!
Cô bé mỉm cười bẽn lẽn:
- Đó là vì nhà cháu tỉa bớt, chỉ để mỗi nhánh một bông thôi.
- À ra vậy! Hoa mới to đến thế!
Singo nhìn những cây hướng dương của mấy nhà xung quanh.
Trên các nhánh đều có vài ba bông hoa nhưng chúng chỉ nhỏ bằng nửa những bông hoa bên rào nhà hàng xóm, ông đang định trước về nhà, chợt nghe tiếng Kikuco reo lên:
- Ba!
Cô bước đến sau lưng ông, trong túi xách chìa ra những mầm giá non.
- Con chào ba, ba ngắm hoa hướng dương ư? - Kikuco hỏi han ân cần, nhưng hẳn là cô để tâm đến việc Singo đi làm về một mình, không có Suychi hơn là đến chuyện mấy bông hoa.
- Một kỳ quan thật sự con ạ. - Singo nói - Giống như đầu người khống lồ, phải không?
Sự so sánh hoàn toàn không có chủ định. Nói ra điều đó rồi Singo mới chợt cảm thấy cái sức mạnh không ngờ của những bông hoa to lớn nọ. Và cả sự hoàn thiện tuyệt đối trong cách sắp xếp của những búp, đài, nhị ở đó nữa. Những lá nhỏ ở cuống hoa tạo thành một vương miện. Mọi thứ ở đây xen chặt vào nhau nhưng không hề tạo ra cảm giác lộn xộn. Chúng toát ra một vẻ hài hòa, êm ả.
Chúng tỏa ra một sức mạnh không ai ngờ tới.
Những bông hướng dương lớn hơn đầu người. Có thể là sự hoàn hảo tuyệt vời của chúng đã gợi ra ở Singo một mối liên tưởng đến bộ óc. Trong cái sức mạnh hoang phí ấy của thiên nhiên, ông phát hiện ra biểu tượng của lòng dũng cảm. Ông không biết những bông hoa hướng dương là đực hay cái, nhưng ông có cảm giác rằng chính ở trong chúng tiềm tàng sinh lực của dương tính.
Sánh bước cùng Kikuco về nhà, Singo tự hỏi phải chăng những ý nghĩ kỳ lạ sinh ra trong đầu ông là do sự có mặt của cô.
- Gần đây, ba thấy đầu óc mụ mẫm quá. Chắc hẳn là vì thế mà mấy cái hoa hướng dương đã gợi ba nghĩ đến đầu người. Chà... ba muốn đầu mình được hoàn hảo như thế biết bao nhiêu? Lúc trên tàu về đây ba đã thử tưởng tượng xem nếu có thể tháo cái đầu để đem đi lau dầu hay sửa chữa thì tuyệt biết chừng nào. Riêng cái đầu thôi. Cắt nó ra, (kể nghe thì cũng khiếp đấy!), đưa nó đến một bệnh viện. "Làm ơn sửa giùm cái này?", sẽ nói với người ta như vậy. Việc còn lại thì họ sẽ lo. Rửa óc, căn chỉnh, chữa lại chỗ hỏng...Trong thời gian đó, độ vài ba ngày hoặc một tuần, thân xác ta được ngủ thật là sâu. Chẳng phải thức giấc, cũng chẳng phải khổ sở vì những ác mộng.
Trên mặt Kikuco thoáng hiện một nét u ám.
- Có lẽ là ba mệt mỏi rồi. - Cô nói chỉ đủ nghe thấy.
- Thì đúng thế rồi. Hôm nay, ở sở ba tiếp một người khách và lấy thuốc lá ra hút. Ba châm một điếu, hút một hơi rồi đặt vào cái gạt tàn, xong lại châm điếu thứ hai, hút một hơi rồi lại bỏ vào gạt tàn. Một lúc sau nhìn lại, thì ra trong cái gạt tàn có ba điếu thuốc còn dài nguyên đang bốc khói. Lúc ấy thật là khó xử quá.
Khi còn ở trên tàu quả thực Singo có nghĩ về cái thú của việc tháo đầu ra đem tu bổ, nhưng ông còn bị cám dỗ hơn bởi việc thân thể được ngủ sâu - giấc ngủ tuyệt vời của thân xác được giải phóng khỏi đầu óc. Còn gì trên đời có thể thú hơn? Quả là ông đã mệt mỏi quá mất rồi.
- Sao ba không đi nghỉ hè? - Kikuco hỏi.
- Ba cũng tính đi Camicochi. Chẳng thế thì cũng không ở đâu nhận sửa óc cơ mà! Có điều là Fusaco vừa về đến nhà. Ba ở lại sẽ tốt hơn cho nó, phải không?
- Ôi, con ganh với chị biết bao vì có một người cha tốt như vậy? - Kikuco thốt lên.
Trong giọng nói của cô, Singo nhận thấy những xáo động của tâm hồn. "Chẳng hiểu mình có hy vọng là khi nói huyên thuyên với nó về những chuyện không đầu không đuôi như thế này có làm cho nó quên đi việc Suychi không về hay không nhỉ? - ông thầm hỏi, có lẽ là không, nhưng ai mà biết được. Thế rồi ông hỏi thẳng:
- Cái câu con vừa nói ấy là để chế nhạo đấy à?
Kikuco giật mình.
- Hãy xem Fusaco nó ra nông nỗi nào rồi hãy bảo rằng ta là người cha tốt. - Singo nói tiếp.
Kikuco thực sự bối rối. Mặt cô đỏ lựng tận mang tai.
- Nhưng ba đâu có lỗi gì về việc đó. - Cô khẽ đáp và trong giọng nói của cô, Singo nhận thấy một ý muốn an ủi đối với ông.
3
Đêm đêm ve sầu từ cây anh đào ngoài vườn lại bay vào nhà.
Singo bước ra vườn và đến dưới gốc cây. Tiếng ve vang lên ong ong từ khắp mọi phía. Ông kinh ngạc không chỉ bởi tiếng ve kêu mà còn vì số lượng của chúng nữa. Liên tục có những con ve tách khỏi cây và bay vào trong không trung. Những đám mây vùn vụt trôi về phía đông. Mặc dù dự báo thời tiết nói. Ngày tai họa 1 năm nay sẽ không có bão, nhưng Singo vẫn có linh cảm rằng đến đêm sẽ có gió lớn, mưa to và trở lạnh.
- Có chuyện gì thế ba? - Tiếng Kikuco vang lên ở sau lưng ông. - Ve kêu dữ quá làm con nghĩ hay là có chuyện gì xảy ra...
- Ừ không biết đằng nào mà lần. Người ta vẫn còn nói rằng vịt với ngỗng lắm mồm, nhưng ve cũng chẳng kém.
Kikuco săm soi một chiếc kim có xâu chỉ và đáp:
- Con không nói về chuyện con nào lắm mồm đâu, có điều tiếng ve kêu nghe có vẻ khác thường. Nó lanh lảnh như thể sợ cái gì.
- Ba cũng không để ý nữa. - Singo đáp và nhìn vào trong nhà, nơi mấy người đàn bà đang túm tụm để may quần áo cho hai đứa trẻ.
- Satoco vẫn còn chơi ve phải không? - ông hỏi tiếp.
Kikuco khẽ gật đầu. Vốn là đứa trẻ "thành thị" nên lúc đầu Satoco rất sợ ve. Để nó khỏi sợ, Fusaco đã cắt cánh ve đi cho con chơi. Từ đó, hễ bắt được ve là con bé chạy đi tìm kéo để cắt cánh.
Việc đó đã làm bà Yasuco khiếp sợ và kêu rên rằng hồi nhỏ Fusaco đâu có tàn nhẫn, nhưng chồng cô đã làm cô thành ra như vậy. Bà Yasuco thậm chí còn suýt ngất xỉu khi nhìn thấy lũ kiến lửa tha những xác ve cụt cánh. Vốn dĩ bà không phải là loại người dễ xúc động vì những chuyện như vậy, cho nên phản ứng của bà làm Singo kinh ngạc. Hẳn là việc Yasuco ghê sợ đã xuất phát từ những linh cảm u ám nào đó ở bà. Vấn đề hoàn toàn không phải ở mấy con ve.
Fusaco kể lể đủ chuyện với mẹ, song không hề nhắc đến chuyện khi nào sẽ ra đi - nghĩa là chị ta vẫn chưa có đủ can đảm để nói về cái chính yếu nhất. Là người cha, Singo cho rằng mình có bổn phận khuyên bảo con gái. Tuy nhiên, vì Fusaco đã có gia đình nên việc can thiệp ở đây cũng rất tế nhị. Còn việc để mẹ con chị ở lại cũng chẳng đơn giản chút nào. Vì thế Singo cứ lần lữa mãi với quyết định của mình, làm như mọi việc tự nó sẽ có thể thu xếp được.
Một lần trong bữa ăn, Fusaco bỗng buột ra:
- Ba quý cô Kikuco quá, phải không cả nhà?
- Dĩ nhiên là ông quý nó. - Bà Yasuco trả lời. - Và cả ta nữa, nếu mày muốn biết, ta cũng hết sức quý nó. Hơn nữa, Kikuco cũng cư xử rất lễ độ đối với chúng ta.
Mặc dù câu nói của Fusaco có tính chất khẳng định, nhưng bà Yasuco thấy cần phải trả lời cô. Bà có vẻ đùa giỡn, song hẳn là bà muốn đặt con gái vào đúng chỗ. Trong giọng nói của bà bộc lộ mối thiện cảm đối với người con dâu hạnh phúc và ác cảm đối với người con gái bất hạnh.
Singo cũng có những cảm nghĩ tương tự và ông thấy khổ tâm khi nghe chính Fusaco nói ra điều đó. Đối với ông, Kikuco như một ô cửa sổ mà qua đó ông nhìn ra ngoài cuộc đời từ trong ngôi nhà buồn tẻ của mình. Các con đẻ của ông - máu và thịt của ông, thì lại không được như ông hằng mong muốn. Cái quan trọng nhất là chúng không có khả năng sống được như chính bản thân chúng muốn và điều đó đã khiến cho gánh nặng của mối quan hệ máu mủ trở nên không chịu đựng nổi. Người con dâu trẻ đã làm niềm an ủi duy nhất đối với Singo. Tình thương yêu dành cho cô là một tia sáng trong sự cô đơn buồn khổ của ông, thông qua nó, ông muốn làm cho cuộc sống của chính mình được tốt han.
Mấy lời nói của Fusaco đã động chạm đến bí mật nhỏ ấy của Singo.
Chú thích:
1 Ngày thứ 210 của năm ở Nhật (tính từ đầu mùa xuân, tức là khoảng mồng một tháng chín) được coi là ngày tai họa, vì vào dịp đó thường xảy ra bão lụt hoặc các thiên tai khác.
CHƯƠNG III
Vừng Hồng Ở Chân Mây
1
Trái với các dự báo thời tiết, vào đêm trước của ngày tai họa vẫn xảy ra một cơn bão.
- Hôm nay tôi hy vọng là anh sẽ về sớm. - Singo nhắc nhở Suychi vào cuối ngày làm việc.
Ayco Tanizaki, thư ký của Singo giúp ông sửa soạn rồi ra về cùng cha con Singo. Trong chiếc áo mưa trong suốt, bộ ngực nhỏ của Ayco trông lại càng nhỏ.
Về gần đến cổng nhà, qua tiếng mưa gió ào ào Singo Suychi nghe thấy bài hát "Những ngày hội Paris". Kikuco đang mở một bài hát của Liz Goti.
- Cô nàng nhà ta không có vẻ sợ lắm thì phải! - Suychi nói.
Giông tố vẫn gào thét, còn máy hát thì mở hết cỡ nên Kikuco không nghe!'tiếng cha con Singo vào nhà.
- Chà, mưa mới khiếp chứ? Giày tôi ướt hết cả. - Suychi càu nhàu trong khi cởi giày ở phòng đệm.
- A, ba và anh đã về! - Kikuco reo lên. Mặt cô thật rạng rỡ.
Bài hát đã hết. Kikuco mở lại đĩa và mang những quần áo ướt ra ngoài.
- Em có biết là cả phố đều nghe thấy không? - Suychi cảnh cáo. - Hình như em chả bận tâm gì đến việc đang có bão thì phải.
- Chính vì thế mà em mở nhạc. Em sợ chết khiếp đi được. Em lo cho anh với ba quá, đến nỗi chẳng ngồi yên được.
Suychi thích các bài hát Pháp nên anh đã mua cho vợ cả một đĩa hát. Suychi biết tiếng Pháp, còn Kikuco thì không, nhưng cô rất thông minh nên chỉ sau mấy bài học phát âm cô đã hát theo các bài trong đĩa khá thành công. Kikuco có một tập đĩa các bài hát ru con của toàn thế giới do các bạn cô tặng vào ngày cưới. Cô rất thích nghe các bài hát ấy và thường hay khe khẽ hát theo khi xung quanh không có ai. Mỗi khi thấy cảnh ấy, trái tim Singo như muốn chảy tan ra vì trìu mến. Theo ông, những bài hát ru là một lời ngợi ca cao nhất đối với phái nữ.
- Hay là để tôi chuẩn bị sẵn một bài dành cho lúc chết nhỉ? - Một lần ông đã nói với Kikuco như thế. - Tôi sẽ ra đi không cần đến lời cầu nguyện, nếu như có tiếng hát ru.
Lúc ấy Singo nói đùa, nhưng mắt ông đầy lệ.
2
Bữa ăn chiều trôi qua trong ánh nến vì mất điện. Gió lùa qua khe cửa làm những ngọn nến mỏng manh bị tắt mấy lần. Qua tiếng gió gào, nghe vọng đến cả tiếng gầm của biển như muốn làm tăng thêm nỗi khủng khiếp.
Mỗi lần ngôi nhà rung chuyển vì gió bão, bà Yasuco lại lần tìm bao diêm và lắc lắc như để trấn an Singo và cả chính bản thân mình. Sau đó, bà nắm lấy tay ông.
- Ôi, không biết mọi cái có còn nguyên không nhỉ?
- Đương nhiên là còn nguyên rồi. Mà nếu có bay mất cái gì thì ta cũng đuổi theo kịp.
- Ở chỗ Fusaco chẳng hiểu mọi chuyện ra sao?
- Chỗ Fusaco à? Chắc cũng chẳng có gì đáng sợ. Cái gì có thể xảy ra với trận gió này được chứ? Hẳn là vợ chồng nó đã đi nằm như mọi cặp vợ chồng bình thường khác thôi.
Im lặng một lúc rồi Yasuco lại nói:
- Dù sao thì ở đó cũng có hai đứa trẻ. Không như chúng ta ở đây đâu, - Mà bà cụ bên ấy lại không đi được cơ chứ...
- Đấy ông thấy chưa? Nếu có chuyện gì thì Aikhara phải cõng bà cụ mà chạy...Thật nghĩ mà rầu lòng.
Singo hơi buồn cười vì nghe từ từ "rầu lòng" từ miệng của người vợ sáu mươi ba tuổi và ông bỗng cảm thấy day dứt vì cảnh ngộ của con gái.
- Bà thì cũng không dịu dàng lắm với Fusaco dạo nó đến chơi vừa qua. Tôi cảm thấy nó ra đi có vẻ tuyệt vọng.
- Ông không thấy là tại ông đã truyền tình cảm của mình sang cho tôi sao? Tại vì ông chỉ nghĩ đến Kikuco đó thôi.
- Làm gì có chuyện. Bà nói vớ vẩn rồi.
- Không vớ vẩn đâu. Thời gian gần đây ông không yêu thương Fusaco. Trong đầu ông chỉ biết có Suychi. Và ông sẽ không thay đổi. Hiện thời ông biết nó có nhân tình, nhưng ông không nói nó câu nào và ông trở nên dịu dàng hơn với Kikuco. Chuyện đó theo tôi là tàn nhẫn, ông có hiểu không? Con bé không dám lộ sự ghen tuông, sợ làm ông buồn khổ. Tất cả những chuyện đó đã làm tôi rầu rĩ. Sao cái cơn bão chết tiệt này không cuốn quách chúng ta đi cho rảnh...
Singo phát hoảng và ông chỉ lẩm bẩm một câu "bão" để đáp lại những lời nói giận dữ của vợ mình.
- Thì bão chứ còn sao nữa. - Bà Yasuco nói tiếp. - Mà cái con Fusaco cũng chẳng vừa đâu. Nó đang đợi để tôi với ông cho nó ly dị đây.
- Đến nước cơ à? Vợ chồng nó đã đi đến chỗ hết chịu nổi nhau rồi hay sao?
- Đến rồi hay chưa đến thì cũng thế cả. Sợ nhất là tôi phải nhìn thấy cái vẻ mặt chua chát của ông khi nó trút lên vai ông hai đứa nhỏ để ông chăm sóc.
- Bà thì cũng chẳng vui vẻ gì khi mẹ con nó ở đây.
- Đó là tại con Kikuco mà ông quá nâng niu. Nhưng dù không có Kikuco thì tôi cũng đủ khó chịu rồi. Thú thật là nhiều lúc con bé chỉ cần nói một lời hay làm một cái gì đấy là tôi thấy thư thái nhẹ nhõm hẳn. Còn với Fusaco thì gánh nặng lại càng nặng hơn. Nó không còn được như trước đây nữa. Tôi hiểu rõ là tôi đang nói chuyện về con đẻ của mình, nhưng tôi không tài nào nói khác được. Thật đáng sợ quá! Lại còn thêm ảnh hưởng của ông nữa chứ!
- Bà còn khó ưa hơn cả Fusaco.
- Tôi nói giỡn thôi, ông đừng giận, dù sao tôi cũng là mẹ nó và ông, ông cũng là cha con Fusaco, đúng không?
- Tôi không phản đối việc cho nó về ở đây, nếu bà muốn. - Singo quả quyết tuyên bố. Sau đó, dường như chợt nhớ ra điều gì, ông hỏi thêm: - Còn tấm khăn mà Fusaco dùng để gói đồ lần vừa rồi, tôi nhớ đã thấy ở đâu rồi thì phải?
- Thì mình đã dùng để gói tấm gương cho nó hồi trước đó.
- Ra thế đấy! - Tôi giật mình khi thấy nó tha cái tay nải ấy. Có phải là nó không có vali đâu.
- Ừ nhưng mà vali thì nặng. Một nách hai đứa con... Vả lại nó cũng chả thiết gì đến hình thức.
- Thì ít ra nó cũng phải biết ngượng với Kikuco chứ? Còn tấm khăn... tôi đã dùng để gói đồ đi theo mình khi chúng ta lấy nhau đấy.
- Vậy ư?
- Nó là của chị gái tôi để lại. Khi đi lấy chồng, chị ấy đã dùng nó để gói một cây cảnh của cha chúng tôi tặng. Sau khi chị ấy mất, người ta đem nó trả lại cho tôi...
Những kỷ niệm cũ lại choán ngộp tâm tưởng Singo. Trong một góc khuất nào đó của tâm trí, bỗng lóe lên ý nghĩ rằng, phải chăng đến tận bây giờ, ba mươi năm sau khi lấy Yasuco, nỗi khát vọng từ thời trai trẻ đối với người chị gái của bà vẫn còn cắn xé trái tim ông như một vết thương cũ.
Vừa ngủ thiếp đi sau hơn một giờ trằn trọc, Singo bỗng choàng tỉnh vì một tiếng động mạnh.
- Cái gì thế nhỉ? - ông kêu lên.
Từ phía hành lang tối om vang lên tiếng Kikuco:
- Ba tỉnh rồi đấy ạ? Chắc là một tấm tôn lợp đền thờ bay xuống mái nhà.
3
Bão đã làm tốc hết cả mái tôn của ngôi đền cạnh nhà. Nhiều tấm rơi vào vườn nhà Singo và sáng hôm sau người thủ tự đã đến nhặt lại.
Xe lửa tuyến Yocosuca vẫn chạy và Singo lên tàu để đi làm.
- Mọi sự ra sao? Cô có ngủ được không? - ông hỏi cô thư ký khi cô bưng trà lại cho ông.
- Tôi không chợp mắt nổi ạ. - Ayco đáp và bắt đầu kể cho Singo nghe lúc đi trên tàu cô đã thấy những chuyện khủng khiếp như thế nào.
- Dạo này Suychi có mời cô đi chơi nữa không?
- Không ạ.
- Chắc là cô có biết người tình của nó?
Ayco bối rối.
- Một vũ nữ ư? - Singo gặng hỏi.
Im lặng.
- Có lớn tuổi không? - ông tiếp tục.
- Lớn tuổi không ư? Thì lớn hơn so với vợ anh ất.
- Và chắc là đẹp?
- Vâng, cũng đẹp. - Ayco ngập ngừng nhưng rồi nói tiếp: - Chỉ có điều là cô ta có cái giọng khàn kinh khủng. Nghe như là hai giọng nói lẫn vào nhau. Thế mà Suychi lại cho là gợi dục.
Cô ta định nói thêm nhưng Singo không muốn nghe nữa. Ông cảm thấy xấu hổ, nếu như câu chuyện tiếp thêm vài câu nữa là bộ mặt thật của cả Ayco lẫn người đàn bà kia sẽ phơi bày ra trước mắt ông. Cô thư ký thấy ông giận dữ bèn im lặng.
Chiều hôm đó Suychi ra về cùng với ông bố. Ăn tối xong cả nhà đi xem bộ phim quay vở diễn Noh, đầu đề là "Kanjincho". Ba diễn viên chính đóng trong vở này: Cosinp, Utzacmon và Kikuguro đều đã chết cả.
Thành phố sáng lấp lánh tắm mình trong ánh trăng.
Singo ngước nhìn lên bầu trời. Mặt trăng dường như nằm trong một ngọn lửa. Những đám mây hình thù quái dị gợi nghĩ đến những lưỡi lửa mà người ta vẫn dùng để thể hiện thần lửa Fudo. Mặt trăng hơi khuyết dịch chuyển về phía đông, nơi vừng hồng trên những đám mây, khuôn mặt rạng rỡ của chị Hằng bị mây phủ một tấm voan trong suốt. Bầu trời đêm sau cơn bão thăm thẳm như một vực sâu không đáy.
Tất cả hàng quán đã đóng cửa và thành phố chìm trong im lặng sầu tư của ban đêm.
- Đêm qua tôi không ngủ được, vì thế tôi sẽ đi nằm ngay. - Singo nói khi về đến nhà. Ông cảm nhận thấy cái giá lạnh của cô đơn và thấy khao khát một chút ấm áp của tình người.
Dường như cuối cùng thì cái khoảnh khắc quyết định của đời ông cũng đã đến: một quyết định nào đấy đang tiến lại đầy vẻ uy quyền và tấn công vào ý thức của ông.
CHƯƠNG IV
Quẳ Hạt Dẻ
1
- A, cây gbinco 1 đã đâm chồi! - Kikuco reo lên.
- Bây giờ con mới thấy ư? - Singo ngạc nhiên nói. - Còn ta thì đã ngắm nó từ mấy hôm nay rồi.
- Đó là vì ba luôn ngồi quay mặt về phía cây hoa.
Năm tháng trôi qua, trong nhà mỗi người đều chọn cho mình một chỗ cố định bên bàn ăn dưới bếp. Singo ngồi hướng về phía đông. Bên trái ông, nhìn về phía Bắc là chỗ của bà Yasuco, bên phải là chỗ của Suychi, Kikuco ngồi đối diện với bố chồng và nhìn về hướng tây. Như thế là hai ông bà già được ngồi những chỗ tốt nhất, từ đó có thể ngắm khu vườn trải ra phía đông và phía nam.
Hơn nữa như vậy thì tiện cho Kikuco và bà Yasuco đứng lên ngồi xuống dọn dẹp các thức trong bữa ăn.
Dù Kikuco có ngồi quay lưng về phía cây gbinco đi nữa thì Singo cũng vẫn thấy việc cô không nhận ra cây đã đâm chồi là không bình thường. Ông lo ngại điều gì đang diễn ra trong tâm hồn cô gái.
- Thôi được. - Singo hỏi vặn. - Nhưng hàng ngày con vẫn quét dọn hiên nhà và mở cửa trông ra vườn kia mà. Vậy thì tại sao con lại không nhận ra điều đó?
- Đúng là con vẫn đi ra ngoài luôn và mở cửa thật, nhưng...
- Đó, thấy chưa? Đấy là chưa nói đến việc hàng ngày, từ cổng vườn vào nhà, con cũng nhìn thấy cái cây đó. Hay là con cúi đầu đi, đắm chìm trong suy tư?
- Kìa, ba nói gì vậy? - Kikuco xấu hổ khẽ nguẩy đôi vai đẹp. - Thôi, từ giờ trở đi con sẽ cố phát hiện và ghi nhớ những gì mà ba để ý vậy.
Trong suốt cuộc đời Singo, chưa có người đàn bà nào yêu thương ông đến mức muốn để tâm đến tất cả những gì khêu gợi sự chú ý của ông.
- Trong cây gbinco ẩn chứa một sức mạnh kỳ lạ mà ở cây anh đào không có. - Singo nhận xét. - Thực sự thì phải cần đến một sức mạnh như thế nào cho một cái cây già cỗi để nó có thể đâm chồi lần nữa vào giữa mùa thu?
Trong bếp vọng ra tiếng nước chảy. Lát sau có tiếng bà Yasuco gọi gì đó, nhưng tiếng nước chảy mạnh làm Singo nghe không rõ.
- Bà nói gì vậy? - Đến lượt ông hét gọi bà.
- Mẹ con bảo là cỏ xa trục đã trổ bông.
- Chà...chà.
Yasuco lại réo lên trong bếp.
- Nào, thôi đi - Singo giận dữ quát. - Chẳng còn nghe thấy gì cả.
- Để con dịch cho. - Kikuco vừa nói vừa cố nhịn cười. - Mẹ con bảo là đêm qua nằm mơ thấy ngôi nhà ở quê bị đổ.
- Hừm...
Cuối cùng Yasuco cũng khóa vòi nước và gọi Kikuco:
- Đem cắm mấy bó hoa này vào bình đi con. Mẹ thấy đẹp quá nên hái vào.
- Để con đưa cho ba ngắm cái đã. - Kikuco nói và ôm vào một bó lớn cỏ xa trục và cỏ tóc tiên nở hoa.
Bà Yasuco đem vào phòng một chiếc bình gốm Sigaraki và nói:
- Cả thu hải đường ở nhà bên cạnh cũng nở rồi. Đẹp hết chỗ nói.
Singo bỗng nhớ đến những bông hướng dương của nhà hàng xóm. Bão đã tàn phá những cây hoa tuyệt vời ấy. Những bông hoa bị gió dứt đứt nằm lăn lóc trong bụi như những đầu người bị chặt. Mấy thân cây cụt đầu vẫn còn lô nhô bên vòm cổng. Trên mình chúng không còn lấy một chiếc lá.
Mỗi lần đi qua, Singo lại giẫm phải nhành hoa gãy, nhưng ông cố gắng để không nhìn chúng.
2
Ngôi nhà đổ nát trong giấc mơ của bà Yasuco chính là ngôi nhà chôn nhau cắt rốn của bà. Kể từ ngày cha mẹ bà chết đi, không còn ai sống ở đó. Khi còn sống, cha của Yasuco đã có ý định để lại ngôi nhà cho bà. Hẳn là ông đã tính cho cô con gái lớn xinh đẹp có nhiều người theo đuổi đi làm dâu ở nơi khác. Sau khi cô này chết, thấy Yasuco đến ở với các cháu và anh rể để chăm sóc họ, ông già đã xúc động sâu sắc và rất lo lắng cho số phận của cô con gái út. Cũng chẳng có gì lạ nếu ông cảm thấy có lỗi, vì chính cảnh ngộ gia đình đã đưa Yasuco đến nước ấy. Vì thế mà khi Yasuco lấy Singo, cha của bà đã vô cùng sung sướng.
Mẹ Yasuco chết trước và khi cha mất bà được thừa kế ngôi nhà với một khoảng rừng hiện đang được những người bà con ở quê trông nom.
Ở đó họ đã phải chặt hết cây trong cánh rừng để lấy tiền đóng thuế. Từ nhiều năm nay, Yasuco không thu lợi được gì từ món tài sản thừa tự, nhưng cũng không phải chi phí gì cho nó. Trong thời gian chiến tranh, nhiều người tản cư về vùng quê và có người hỏi mua ngôi nhà, song Yasuco không nỡ chia tay với nó. Và Singo cũng không ép bà bán.
Trong ngôi nhà ấy, Singo và Yasuco đã nên vợ nên chồng. Cha của Yasuco muốn đám cưới của cô con gái duy nhất còn lại diễn ra ở ngay dưới mái nhà của ông.
Một trái hạt dẻ đã rụng đúng vào lúc cặp tân hôn đang trao nhau ly rượu cưới. Quả dẻ nơi trúng một hòn đá và văng xuống suối. Việc đó diễn ra thật khác thường khiến Singo suýt la lên vì kinh ngạc.
Những người có mặt trong đám cưới không ai nhận thấy gì.
Ngay sau ngày cưới, Singo đã lần ra suối để tìm hạt dẻ. Tìm được nó, ông đã định mang về cho Yasuco, nhưng rốt cuộc lại từ bỏ ý định. Sau đó, ông đã vùi hạt dẻ vào trong đám cỏ um tùm bên bờ suối.
Singo không nói gì với ai, bởi vì ông ngại người anh rể. Nếu anh ta không có ở đó, hẳn ông đã kể cho tất cả mọi người nghe về chuyện trái dẻ rụng. Singo cảm thấy có lỗi, vì sau khi người chị của Yasuco đã lấy chồng, ông vẫn còn khao khát nhớ nhung chị ta, và giờ đây khi chị ta đã thành người thiên cổ, ông lại lấy đi người em gái. Vậy là, dù thế này hay thế khác, ông cũng đã xâm phạm đến sự bình yên của người anh rể.
Đối với Yasuco, tình thế còn thảm hại hơn. Ai cũng biết là, người anh rể vì không nhận thấy tình cảm thực của bà, đã để bà ở trong nhà như một con ở tận tụy.
Người anh rể đẹp trai, đẹp hơn hẳn so với chàng tân lang Singo. Chính Singo cũng hiểu điều đó, thậm chí ông còn thấy trên đầu anh ta tỏa hào quang. Đối với Yasuco thì vợ chồng bà chị đã hẳn là thần tượng. Chấp nhận lấy bà, Singo đã phải cam chịu thân phận của một kẻ không đọ được với họ. Và cái khoảng trống kia - câu chuyện về trái hạt dẻ không được nói ra - mãi mãi còn đó giữa hai người.
Vài ba ngày sau khi Yasuco nằm mơ thấy ngôi nhà bị đổ, bà nhận được một bức điện tín, mấy người bà con ở quê báo tin Fusaco và hai đứa trẻ đã về ở đó.
Liệu có phải giấc mộng của tôi báo trước chuyện này không? - Yasuco nôn nóng hỏi và chìa cho Singo xem bức điện khi ông đi làm về. - Hừm, thì ra là nó về quê. - Singo nói. - Chỉ có điều là tôi không hiểu vì sao nó lại về đó?

"Nhưng ít ra thì cũng không có nguy cơ nó sẽ kết liễu cuộc đời nữa". Ông thầm nghĩ.
- Chắc nó sợ Aikhara sẽ tìm ra nó ở đâu rồi đến đón về.
- Thế có tin tức gì về thằng đó không?
- Không.
- Nếu vậy thì giữa chúng nó đã chấm dứt rồi. Fusaco đem theo con, bỏ đi, mà thằng kia cũng không thèm tìm kiếm?
- Có thể là nó nghĩ mẹ con Fusaco về đây chăng?
- Không. Bà muốn nói gì thì nói, nhưng chuyện chúng nó thế là hết rồi.
- Tuy vậy tôi vẫn không hiểu vì sao nó lại về quê.
- Theo suy luận như thế thì lẽ ra nó phải về đây.
- "Phải về đây"! Ông nói điều đó mới thờ ơ làm sao. Sự thực chúng ta cần phải hiểu rõ bất hạnh đến thế nào một khi quay về ngôi nhà ruột thịt của mình cũng không được. Nó là con cái trong nhà, vậy mà chúng ta đã đẩy nó đến chỗ nào! Tim tôi nứt ra thành từng mảnh đây này.
Singo nhíu mày và bắt đầu thay quần áo.
- Trước tiên bà hãy bảo tôi, cái áo kimono của tôi ở đâu đã.
Kikuco liền đưa lại cho ông chiếc kimono và cầm lấy bộ y phục, lặng lẽ đi ra.
Yasuco ngồi cúi đầu một lúc rồi nhìn về phía cửa, nơi Kikuco mới đi ra, nói:
- Cũng chả có gì lạ là nó lại bỏ đi. Chẳng lẽ cha mẹ phải chịu trách nhiệm suốt đời về cuộc sống riêng của con cái hay sao?
- Ông nói vậy vì ông không hiểu phụ nữ... Mọi cái nó khác hẳn kia, khi người đàn bà đau khổ.
- Suychi hôm nay cũng chưa thấy đâu. Sao cha con ông không chịu về cùng với nhau? Ông toàn đi làm về một mình, còn con Kikuco mừng rỡ với ông. Chuyện đó đúng hay không?
Singo không trả lời.
- Thế ông không định bàn bạc gì với Suychi về việc của Fusaco.
- Để tôi bảo nó đón chị nó về đây.
- Fusaco sẽ chẳng thích Suychi đến. Thằng đó toàn nhạo báng nó thôi.
- Bây giờ không phải là lúc nói chuyện vớ vẩn. Suychi sẽ lên đường vào thứ bảy này, thế thôi.
- Tôi hình dung ra trong con mắt những người ở làng thì chúng ta ra sao rồi. Thật đáng xấu hổ! Chả bao giờ về quê cả, cắt đứt quan hệ họ hàng, thế rồi đùng một cái, Fusaco là đứa không biết họ hàng là thế nào, lại mò về đây?
- Nó có thể về ở nhà ai được nhỉ?
- Hẳn là nó sẽ ở ngôi nhà cũ... Đâu có thể ở mãi chỗ bà dì tôi được?
Đối với Singo cái ý nghĩ khó chịu nhất là Fusaco lại bỏ về ngôi nhà mà Yasuco đã nằm chiêm bao bị đổ?
3
Ngày thứ bảy, hai cha con Singo cùng ra khỏi nhà. Trước khi ra tàu đi về quê, Suychi ghé vào phòng làm việc của bố. Ở đó anh ta gửi cô thư ký cất giùm chiếc dù rồi quay sang bảo Singo:
- Con đã lỡ mời Ayco đi nhảy tối nay.
Sau đó Suychi xách cặp và đi khỏi. Ayco chạy theo ra cửa, nhưng rồi lại quay vào. Trong động tác của cô, Singo nhận thấy một vẻ gì đó rất phụ nữ và ông thấy vui vui.
- Tiếc quá hả? Hứa đi chơi với người ta rồi lại bỏ đi mất. - Singo nói.
- Gần đây tôi cũng không còn tin nhiều vào những lời hứa lắm.
- Còn cô nhân tình của Suychi có đến chỗ khiêu vũ không?
- Không, không bao giờ.
Đối với Singo, việc ông và gia đình không biết gì về người tình của Suychi trong khi cô thư ký của ông lại biết, thật khó mà giải thích. Trước mặt Ayco thì điều đó đối với ông lại càng khó hơn nữa.
Thoạt nhìn thì Ayco có vẻ nhẹ dạ và hời hợt, nhưng phút này đây cô như một tấm màn bí ẩn của chính cuộc sống.
- Suychi giới thiệu cô ta với cô à? - Singo hỏi tiếp.
- Cũng không hẳn như vậy...
- Tôi chả hiểu ra sao cả. Có lẽ nó định làm cô ghen chăng?
Ayco nhún vai.
- Tôi không phải là vật cản đối với họ.
Singo hiểu rằng cô hoàn toàn không thờ ơ với Suychi và thực sự cô có ghen tuông.
- Cũng không phải là dở nếu cô là vật cản của họ. - ông nói.
- Sao ngài lại nói thế ạ? - Ayco cười và cúi mặt xuống. Sau đó, cô nói thêm. - Mà ả kia lúc ấy cũng đâu có đi một mình.
- Sao kia? Cô ta cũng có người khác nữa à?
- Không phải người tình, mà là một phụ nữ. Đó là người cùng sống một nhà với ả ta.
- Nhà thuê ư?
- Không, một cái nhà riêng. Nhỏ, nhưng rất dễ ưa.
- Cô muốn nói rằng cô đã đến đó?
- Vâng. - Ayco đáp vừa đủ nghe.
- Nhà ấy ở đâu? - Singo hỏi đường đột.
- Tôi không nói đâu ạ. - Ayco lắp bắp và mặt cô biến sắc.
Singo im lặng, cuối cùng Ayco tự nói:
- Ở khu Honggo, gần trường Đại học Tổng hợp ấy. Người đàn bà ở cùng với ả kia là một người rất đẹp và hết sức dễ thương.
Dường như việc nói ra những phẩm chất siêu việt của người đàn bà kia giúp cho Ayco tự thanh minh với chính bản thân mình vậy.
Singo không thể giải thích nổi điều đó, tuy nhiên ông cho rằng, thông qua việc ca ngợi người kia, cô ta muốn tấn công trực diện vào ả nhân tình của Suychi.
Người phục vụ mang vào mây bức thư. Ayco cầm lấy và đưa lại cho Singo.
- Đấy, lại đám ma. - ông đọc một bức và làu bàu. - Một việc chẳng đáng ưa chút nào! Lần này là Toriama ư? Chà... có sự gì xảy ra với vợ ông ta chăng?
Cô thư ký đã quen với việc Singo tự nói một mình, nên để kệ ông. Singo bảo cô, vẻ xao lãng:
- Chiều nay tôi không đi nhảy với cô được. Có một đám ma. Người chết này bị vợ con hành hạ suốt, kể từ khi ông ta gặp vận hạn. Bà vợ thậm chí không cho ông ta ăn. Con cái cũng đứng về phía bà mẹ để hành hạ bố. Con người khốn khổ không dám ở nhà, ông ta lang thang đây đó, đợi cho đến lúc vợ con đi nghỉ rồi mới dám mò về.
- Tại sao lại thế ạ?
- Thì nó thế đấy. Khi tuổi tác đã đến cái giới hạn của nó rồi thì thật đáng sợ.
- Có thể là do lỗi tại ông ta?
- Bậy nào. Ông ta là một quan chức cao cấp của nhà nước, sau đó chuyển về làm ở một hãng tư nhân. Ở đây viết là tang lễ được cử hành ở nhà chùa - như vậy là ông ấy giàu có. Hồi là viên chức, ông hết sức mực thước.
- Và có chăm lo đến gia đình, tôi nghĩ thế?
- Tất nhiên.
- Nếu vậy thì tôi không hiểu nổi ạ.
- Vì cô còn trẻ. Có biết bao nhiêu người đàn ông đàng hoàng, ở cái tuổi năm mươi, sáu mươi tối tối lại lang thang khắp các ngõ phố, chỉ vì ở nhà thì sợ vợ.
Singo cố gắng nhớ lại nét mặt Toriama nhưng vô ích. Ông tự hỏi phải chăng ông ta chết ở nhà?
4
Singo đã nghĩ rằng, ở đám tang, thế nào ông cũng gặp lại những người đồng học cũ, vì thế khi thắp nén nhang cầu nguyện cho vong hồn người chết xong, ông ra đứng trước cửa chùa. Nhưng ông đã không gặp người quen nào cả. Hẳn là ông đến quá muộn.
Lúc cúi chào bà quả phụ, Singo thoáng nghĩ rằng Toriama đã ốm liệt giường và chết trên giường bệnh, bởi mái tóc nhuộm của bà vợ ông ta đã bạc màu ở gốc tóc và chưa được nhuộm lại. Trong khi nói lời chia buồn với gia quyến người quá cố, Singo đã quên bẵng đi mất là lúc còn sống, Toriama là nạn nhân của vợ mình. Mãi đến lúc cúi mình vái trước quan tài, ông mới sực nhớ ra điều đó và thấy rùng mình. Không phải vì sự hồi tưởng về mối quan hệ trong gia đình người bạn, mà vì sự đãng trí của bản thân ông. Số bạn bè cũ biết rõ vợ chồng Toriama còn rất ít. Trước đây, không ai trong bọn họ nhìn nhận vấn đề của Toriama một cách nghiêm túc cả, thậm chí trong những buổi tụ họp có người còn đùa cợt và thêm thắt phóng đại lên nữa. Giờ đây, Singo bỗng nghĩ rằng, sự thực vợ chồng Toriama cũng chẳng hề suy xét đến việc tại sao bà vợ lại dày vò ông chồng, và tại sao ông ta lại cam chịu như vậy.
Toriama đã chui xuống mồ mà chẳng được giác ngộ, còn với bà vợ thì mọi chuyện đã trôi qua. Không còn Toriama, câu chuyện của vợ chồng họ đã đi vào dĩ vãng.
Bức ảnh trên quan tài được chụp khi Toriama còn là một quan chức nhà nước. Khuôn mặt hiền lành của ông ta thành ra quá trẻ so với bà vợ góa đang đứng bên linh cữu. Người ngoài hẳn sẽ nghĩ rằng bà vợ là một nạn nhân trong gia đình và đã già trước tuổi vì vất vả.
Nếu có ai hỏi thăm việc gia đình Singo lúc ấy, hẳn là ông sẽ trả lời: "Ồ nhà tôi thì cũng tàm tạm, chỉ có điều gia đình riêng của cả con trai lẫn con gái đều trục trặc thế nào ấy".
Ông bỗng thấy muốn được chia sẻ với ai đó nỗi lo lắng của mình. Ông muốn được hỏi ý kiến người khác về những điều như: "Cuộc sống của con người ta có thể gọi là mĩ mãn được không, nếu con cái người ta có gia đình riêng hạnh phúc?", hoặc: "Cha mẹ có trách nhiệm tới đâu đối với cuộc sống riêng của con cái?" Những ý nghĩ của Singo cứ ùa ra và ông lẩm bẩm thành lời những điều ông nghĩ.
5
Khi Singo đi dự tang lễ trở về, đã có hai người khách đợi ông ở hãng. Ông bảo cô thư ký rót cho ông chút rượu Whisky vào tách trà để giúp cho trí óc được tỉnh táo.
Tiễn khách ra về, Singo bảo Ayco:
- Cô dẫn tôi đến nhà tình nhân của Suychi!
Cô thư ký hết sức kinh ngạc. Lúc đầu cô tỏ vẻ phản đối, nhưng rồi cô đành phải phục tùng.
- Ngài định làm gì nếu tôi đưa ngài đến đó? - Cô hỏi bằng một giọng đúng mực nhưng lạnh nhạt và xa lạ.
- Không làm gì bất tiện cho cô đâu.
Trong xe taxi, Ayco ngồi im lặng. Singo thấy khó xử vì đã buộc cô ta phải đi, ông ta xấu hổ vì cả con trai lẫn bản thân mình.
- Tôi nghĩ ngài nên nói chuyện với cô bạn của ả kia. - Cuối cùng Ayco lên tiếng. - Nếu ngài muốn, tôi sẽ gọi cô ta đến hãng!
- Tôi cũng không biết nữa... - Singo lưỡng lự trả lời.
- Khi đến đằng ấy, Suychi uống rượu say sưa và hóa điên khùng. Anh ta la hét và bắt cô bạn phải hát. Ẳ tình nhân thì khóc. Mà đã khóc thì, theo tôi, ả không hờ hững với Suychi đâu.
Họ xuống xe ở trước cửa trường Đại học Tổng hợp và rẽ vào một phố nhỏ.
- Nếu con trai ngài biết chuyện thì tôi sẽ không dám thò mặt đến hãng nữa. - Ayco nói khẽ. - Chắc tôi sẽ phải bỏ việc.
Singo rùng mình. Ayco đứng lại và bảo:
- Ngài hãy đi dọc theo bức tường đá kia. Nhà thứ tư là nhà của ả ta đấy. Tôi không thể đi thêm được nữa, vì họ sẽ nhìn thấy tôi.
- Nếu thế thì ta bỏ cuộc vậy. Hóa ra tôi làm khổ cô quá!
- Sao? Ngài đến tận đây để rồi... Ngài làm việc đó vì sự yên ấm của gia đình mình kia mà? Đừng có bỏ cuộc chứ! Trong lời nói khích ấy của Ayco, Singo nhận thấy một vẻ độc địa.
Ngôi nhà thứ tư với tấm biển đề "Ikeda" trông bé nhỏ, cũ kỹ và không được lành mạnh. Cửa vào tối tăm, cửa sổ đóng kín. Trong nhà không có một tiếng động.
Singo bỏ đi và cảm thấy kiệt sức. Con trai ông đã sống một cuộc đời nào ở sau bức tường này? Không, ông thì chưa được chuẩn bị để sục vào đó mà không báo trước.
Khi về đến nhà, Singo lảng tránh cái nhìn của Kikuco. Ông thấy mệt rũ và đi nằm sớm. Ông nghĩ miên man đến sự vất vả mà Kikuco sẽ phải gánh vác khi mẹ con Fusaco đến. "Vợ chồng Suychi sẽ phải ra ở riêng", ông thầm bảo.
 Chú thích:
1 Một loại cây lớn hạt trần, thường được trồng để làm cảnh.
CHƯƠNG V
Giấc Mơ Về Đẳo Vắng
1
"Ta đã già rồi, mà vẫn chưa trèo lên đỉnh Phú Sĩ". Singo lẩm bẩm một mình trong phòng làm việc. Những lời ấy nảy ra trong đầu óc ông hoàn toàn ngẫu nhiên nhưng đầy ấn tượng, khiến ông phải nói ra miệng. Có lẽ nguyên do là vì đêm qua ông thấy vịnh Matsusima.
Kể cũng lạ là Singo đã nằm mơ thấy Matsusima, vì chưa bao giờ ông tới đó cả. Ông chỉ còn nhớ từng đoạn của giấc mơ, riêng màu xanh của biển và những rặng thông trên những hòn đảo ở đó thì đã in sâu vào ký ức ông, khiến ông hoàn toàn tin chắc rằng mình đã nằm mơ tư Matsusima.
Ông đã ôm trong tay một người đàn bà. Họ lẩn trốn những người cùng đi dưới bóng một cây thông. Người đàn bà còn rất trẻ, gần như một cô gái vậy. Riêng bản thân khi đó ông không xác định được là mình bao nhiêu tuổi. Có lẽ là vẫn còn trẻ, vì ông còn cùng cô gái chạy nhảy nhanh nhẹn giữa những cây thông. Ông đã ôm cô gái theo cách của một người trẻ tuổi. Ở cái tuổi sáu mươi hai mà lại mơ thấy mình đang tuổi hai mươi - chính đó là điều lạ nhất của giấc mơ.
Chiếc xuồng máy chở hai người đến đảo chạy xa dần. Một người đàn bà nào đó trên xuồng cứ vẫy họ mãi bằng một chiếc khăn tay trắng. Chỉ có Singo cùng cô gái trẻ còn lại trên hòn đảo nhỏ, nhưng họ không hề thấy sợ.
Ông đã thức giấc với hình ảnh chiếc khăn tay trắng vẫy vẫy trên mặt biển xanh rờn. Nhân dạng của cô gái cùng cảm giác về sự va chạm đã phai mờ. Trong ký ức Singo chỉ còn lại phong cảnh đầy màu sắc của hòn đảo vắng. Ông cũng không hiểu vì sao mình lại tin chắc vùng đó là vịnh Matsusima.
Sáng hôm sau Singo định hỏi vợ con xem những giấc mơ đầy màu sắc có phải là triệu chứng suy nhược thần kinh hay không, nhưng rồi lại thôi, ông thấy khó chịu vì đã mơ ôm đàn bà.
Ngồi trong văn phòng, Singo bỗng cảm thấy rằng, nếu ông hiểu ra người đàn bà trong giấc mơ là ai thì toàn bộ mọi chuyện sẽ được sáng tỏ. Ông hút thuốc và cố suy nghĩ, nhưng vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa. Đó là ông Sutzumoto.
- Xin chào. Tôi cứ nghĩ rằng anh chưa tới cơ đây. - Sutzumoto nói và bỏ mũ treo lên móc.
Singo nhìn cái đầu hói của ông ta và thấy buồn cười.
- Có việc gì mà anh chịu khó đến sớm vậy? - Ông hỏi và cố nhịn cười.
- Thì chuyện anh chàng Mitzuta mới bị chết một cách điên dở ấy.
- À - à. Người nhà ông ấy có gửi biếu trà cho tôi sau tang lễ và tôi đâm ra nghiện cái thứ trà ấy.
- Tôi ghen với hắn ta về cái chết đây.
- Hừm... Anh cũng béo và hói, chắc cũng có cơ được như thế!
- Chỉ có điều tôi không bị huyết áp cao. Còn Mitzuta dám ngủ một mình...
Mitzuta đã chết ở khách sạn trong khi an dưỡng - một cái chết "điện" như bạn bè của ông ta bình phẩm. Đối với Singo, việc các ông bạn ngoài sáu mươi tuổi của mình nói lóng kiểu sinh viên như hồi họ học chung ở trường đại học là một bằng chứng về sự quá quẫn của tuổi già. Giờ đây họ vẫn còn gọi nhau bằng những biệt hiệu thân mật nhảm nhí. Mitzuta đã từng đùa cợt về cái chết của Toriama, còn bây giờ thì chính ông ta đã phải chia sẻ cái số phận.
- Hôm nọ chị vợ anh có đến chỗ tôi, - Sutzumoto bắt đầu nói vào việc, - và đề nghị tôi về chuyện này đây...
Ông ta đặt lên bàn hai bọc vải và nói tiếp:
- Mặt nạ đấy. Mặt nạ để diễn Noh. Chị đề nghị tôi mua. Và tôi đem đến cho anh xem.
- Tôi chẳng hiểu gì về mặt nạ. Cũng như về ba kỳ quan của Nhật Bản ấy. Tôi chỉ biết là chúng có ở Nhật. Nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy cả.
Sutzumoto mở lớp vải bọc rồi lấy từ trong hộp đựng ra những chiếc mặt nạ.
- Đây là một chiếc "Djido", còn đây là chiếc "Casiki". Cả hai đều là mặt nạ trẻ con.
Singo cầm chiếc "Casiki" lên và ngắm nghía.
- Hình chiếc lá cây gbinco, anh có thấy không? - Sutzumoto nói. - Nghĩa là để diễn tả một cậu bé chưa đến tuổi thành niên. Còn có cả lúm đồng tiền ở má nữa đây.
- Trông sống động quá nhỉ...
Sutzumoto giảng giải cho Singo rằng nếu chiếc mặt nạ Noh hơi nghiêng xuống dưới, sắc thái của nó sẽ có vẻ buồn rầu, còn nếu nó ngước lên trên thì sẽ có một sắc diện vui sướng.
- Việc quay sang phải hay sang trái, - ông ta nói tiếp, - thì sẽ thể hiện "chấp nhận" hoặc "chấm dứt".
- Tôi thấy nó giống ai nhỉ? - Singo lẩm bẩm. - Thật khó mà tin rằng đấy là bộ mặt của trẻ con.
- Thời xưa trẻ con phát triển sớm hơn bây giờ. Anh cứ xem kỹ và sẽ thấy đó là mặt nạ trẻ con. Đặc biệt chiếc "Djido" thể hiện một tư tưởng đẹp đẽ nào đó, dường như là tuổi thơ vĩnh viễn thì phải.
Singo lật qua lật lại chiếc "Djido" để kiểm nghiệm lời nói của Sutzumoto.
- Thế nào, anh sẽ lấy chứ? - Sutzumoto hỏi.
Singo đặt chiếc mặt nạ lên bàn và bảo:
- Họ đã mời anh mua kia mà?
- Đúng vậy, nhưng tôi đã mua hai chiếc rồi. Cả thảy có năm chiếc. Tôi lấy hai cái mặt nạ phụ nữ. Unno lấy một chiếc và hai cái còn lại này để dành cho anh đấy.
- Anh khôn lỏi lắm. Có mấy cái mặt nạ phụ nữ thì anh lấy trước, còn thừa mới dành cho người khác hả?
- Thế anh định lấy cái mặt nạ phụ nữ à?
- Có ý nghĩ quái gì nữa một khi đã không còn nữa rồi.
- Nếu anh muốn tôi sẽ để cho anh. Như vậy tôi khỏi phải tốn tiền. Anh biết Mitzuta chết trong hoàn cảnh nào rồi đấy...Tôi lấy tội nghiệp bà vợ hắn ta nên không nỡ từ chối. Bà ta giải thích cho tôi là hai chiếc trẻ con này có giá trị hơn mấy chiếc phụ nữ kia. Anh không thấy bị mơn trớn bởi cái ý tưởng về tuổi thơ vĩnh cửu hay sao?
- Mitzuta đã khuất núi, Toriaman, người vẫn ngồi ngắm lũ mặt nạ cả ngày cũng đã đi trước cả Mitzuta. Như vậy là, nói tóm lại, mấy cái mặt nạ của anh cũng không làm tôi thấy dễ chịu lắm đâu.
- Thôi được! - Sutzumoto nói và đứng dậy. - Tôi đi đây. Tôi để lại mấy cái mặt nạ cho anh xem chán đi và nếu không thích thì đưa cho người khác.
- Vấn đề không phải ở chỗ tôi có thích hay không. Tôi vốn chẳng hiểu gì về mặt nạ cả, và nếu như tôi đi giữ rịt lấy mấy chiếc trứ danh như thế này thì chẳng hóa ra là tôi tước mất cuộc sống của chúng trong thế giới Noh hay sao?
- Về việc đó anh không phải lo.
- Còn giá cả thì thế nào nhỉ?
- À, đây tôi đã sợ quên nên bảo bà ta viết giá tiền vào đây này...
Sutzumoto đi khỏi và Ayco liền lại bên bàn Singo.
- Rất đẹp, phải không? - Singo hỏi.
Cô gái im lặng gật đầu.
- Cô thử đeo vào một cái xem sao. Đây cái này này...
- Ô, thế thì kỳ quá... mà tôi lại không mặc kimono nữa. - Ayco chống chế, nhưng Singo đã đưa mặt nạ cho cô.
Ayco đeo mặt nạ vào và quay đi quay lại.
- Hoan hô, tuyệt lắm! - Singo bất giác kêu lên.
Chiếc mặt nạ sống động hẳn lên với mỗi cử động. Nhìn Ayco trong bộ váy nhung dài với mái tóc bồng xõa xuống hai bên chiếc mặt nạ, Singo bỗng thấy cô hấp dẫn một cách kỳ lạ và ông ngồi sững người như bị thôi miên.
Sau đó, ngay lập tức Singo bảo Ayco đi mua cho ông cuốn sách về mặt nạ Noh.
2
Trên cả hai chiếc mặt nạ đều có viết tên nghệ nhân chế tạo ra nó. Theo tài liệu tra cứu thì chúng thuộc đời Muromachi 1. Ngay một người không chuyên như Singo cũng có thể xác định được đây là những tác phẩm nghệ thuật chính cống.
- Gớm, trông khiếp quá! - Yasuco kêu lên khi Singo chìa mấy chiếc mặt nạ cho bà xem lúc ông về tới nhà.
Kikuco chỉ cười và khuyên bà nên đeo kính để ngắm. Sau khi ngắm nghía hồi lâu, bà lại quả quyết tuyên bố:
- Trông ghê quá, ông ạ! Tôi thấy nó giống như đầu người bị chặt.
Singo vừa giảng giải cho Yasuco vừa ngắm nghía lại chiếc Djido. Nó không hẳn ra mặt con gái mà cũng không ra mặt con trai, tuy vậy đôi lông mày vắt cong gợi cho Singo nghĩ đến một cô gái nhỏ. Khuôn mặt rạng rỡ của cô bé bỗng trở nên mềm mại trong đôi mắt già nua của ông. Đưa sát chiếc mặt nạ vào tận mắt, giờ đây ông thấy nó đang sống và mỉm cười tươi tắn.
Thiếu chút nữa Singo đã hét lên. Trước mặt ông, một cô bé con đang mỉm cười - một nụ cười duyên dáng thuần khiết. Trong hai lỗ mắt rỗng bỗng hiện lên đôi con ngươi đen nhánh. Đôi môi đỏ thắm động đậy. Cặp mắt đen đang nhìn thẳng vào ông, còn đôi môi chúm lại. Singo suýt nữa thì hôn lên gương mặt, nhưng ông quay đi và thở dài. Ông tránh xa khỏi chiếc mặt nạ và cảm thấy mọi cái đều giả dối. Một lúc lâu sau ông còn ngồi thở nặng nhọc, gấp gáp.
Singo có cảm tưởng rằng ông đã chui sâu vào trong chiếc mặt nạ, ở đâu đó gần chỗ cái miệng, nơi đôi môi cô hé mở giống như một nụ hoa để lộ hàm răng trắng như tuyết. Nhìn mặt nạ Noh gần sát tận mắt hẳn là một điều kỳ lạ. Vị tất nghệ nhân sáng tạo ra nó đã nhằm mục đích như vậy. Nhìn gần mặt nạ có vẻ sống động hơn là nhìn từ khoảng cách giữa khán giả và sân khấu. Singo có cảm giác rằng ông đã giải đoán được tình cảm bí ẩn của nghệ nhân cổ. Ông sẵn sàng thề rằng, trong một khoảnh khắc của đời mình, ông đã cảm nhận được thứ tình yêu bị cấm đoán của trời đất.
Singo tự hỏi phải chăng những cơn bộc phát tình cảm khó hiểu xảy ra nối tiếp ở trong ông - đầu tiên là việc ôm người đàn bà ở trong mơ, sau đó là phút xuất thần khi nhìn Ayco biểu diễn mặt nạ và cuối cùng là việc suýt hôn cái mặt nạ - chẳng là dấu hiệu của một cái gì đó đang trên đường lay chuyển toàn bộ nền móng của nhà ông?
3
Sáng 29 tháng 12, lúc đang rửa mặt, Singo nhìn thấy con chó Teru cùng lũ con mới đẻ. Trước đây mấy tháng, con chó không biết từ đâu đến tá túc dưới tầng hầm của căn buồng dành cho người ở.
Kikuco quả quyết là nó đẻ bốn con, nhưng Singo lại thấy những năm con chó con đang nằm phơi nắng.
Hẳn là con chó muốn đưa lũ con ra khỏi nhà trước khi con người ngủ dậy và giờ đây nó cho con bú thanh thản dưới ánh nắng mặt trời. Lũ chó con có vẻ cố tận hưởng cái hạnh phúc được chơi đùa thoải mái, không bị làm phiền bởi con người. Singo mỉm cười trước cảnh tượng dễ thương. Đã là cuối tháng mười hai, nhưng mặt trời Kamakura 2 vẫn ấm áp như trong tiết thu sớm vậy.
Một con chó con màu đen - con bú dai nhất - đã bị văng ra khỏi mình con mẹ, khi mẹ nó đứng dậy và chạy dọc xuống bãi bên chân đồi. Singo lặng đi vì sợ, nhưng con chó đã bò dậy như không có chuyện gì và vừa đi vừa hít hít đất xung quanh. "Vậy là sao nhỉ?" Singo ngạc nhiên nghĩ bụng: ông có cảm giác là đã nhìn thấy con chó ở đâu rồi. Suy nghĩ một lúc ông chợt nhớ ra: "À, phải, ở trong tranh của Sotatsu." 3 Hồi đó, khi thấy bức tranh con chó vẽ bằng mực tàu của Sotatsu, Singo đã cho rằng con vật được cách điệu quá. Còn giờ đây, khi nhìn hình ảnh sống thì ông mới thấy khâm phục bức vẽ. Bất chợt Singo lại nhớ đến mấy chiếc mặt nạ. Tác giả của chiếc Casiki là người cùng thời với Sotatsu.
Singo bỗng tự hỏi phải chăng là con chó con của Teru đã hóa thành con chó trong tranh Sotatsu và chiếc mặt nạ Djido thì biến thành một cô gái nhỏ, hay là trước mắt ông đang diễn ra một phép màu làm cô bé hóa thành mặt nạ, còn con chó hiện hình trên bức tranh của Sotatsu?
Khi bà Yasuco và Kikuco từ chỗ rửa mặt đi ra thì Singo gọi lại để chỉ cho xem đàn chó con.
- Thế còn con mẹ đâu rồi? - Bà Yasuco hỏi.
- Không biết nó chui vào chỗ nào? - Singo ngạc nhiên hỏi lại. - Vừa thấy nó rứt lũ con ra và biến đâu mất!
- Chắc Teru phải đi kiếm thức ăn. - Kikuco nói. - Hàng xóm chung quanh rất ngạc nhiên vì sự khôn ngoan của nó. Hóa ra là chị chàng biết rõ nhà nào ăn cơm vào lúc mấy giờ và đến quanh quẩn ở đấy.
- Vậy ư? - Singo ngạc nhiên thốt lên. Ông những tưởng một khi nhà ông cho chó ăn hai lần mỗi ngày thì nó không còn phải đi kiếm ăn ở ngoài nữa.
- Cứ gặp con là mọi người lại hỏi thăm về đặc tính của Teru. Còn khi ba đi làm rồi, trẻ con kéo đến xin con cho xem lũ chó con.
- Ồ phải rồi! - Bà Yasuco kêu lên. - Có một bà hàng xóm bảo tôi là, một khi có súc vật đến làm tổ trong nhà, thì nhà sắp có trẻ con.
- Vậy nhà ta sắp có thêm trẻ con rồi phải không?
- Kìa, mẹ nói gì vậy? - Kikuco đỏ mặt và kéo tay áo bà.
- Nghĩa là người ta xét người và chó chung hết à? - Singo nói đùa để gỡ bí cho tình thế. Những lời của vợ ông nói ra hết sức vụng về.
Kikuco ngước nhìn lên và bảo:
- Ông Amamia rất quan tâm đến Teru. Ông cụ đã hỏi xin nó về nuôi đấy, làm con không biết trả lời ra sao cả...
- Thì chúng ta có thể cho ông ấy lắm chứ! - Singo nói. - Teru cũng như là vật nuôi của nhà ta rồi cho nên Amamia mới đến hỏi.
- Vậy để con chạy đi bảo ông cụ nhé - Kikuco kêu lên và biến mất.
Thực ra cô chỉ kiếm cớ để đi khỏi. Singo không nhìn theo Kikuco. Ông đứng lặng nhìn con chó nhỏ. Bất đồ ánh mắt ông bắt gặp một bông hoa cúc gai rụng dưới cửa sổ. Cánh hoa đã rụng hết, nhưng cuống vẫn còn tươi.
- Cúc gai là một giống hoa giỏi chịu đựng đến đáng khâm phục. - Singo thốt lên.
Chú Thích:
1 Từ năm 1338 - 1573.
2 Kamakura: Thành phố không xa Tokyo, đã từng là thủ đô nước Nhật (từ 1192 - 1333) nơi gia đình Singo Ogata cư trú.
3 Danh họa Nhật đầu thế kỷ XVII, nổi tiếng với những tranh vẽ trên quạt.
CHƯƠNG VI
Anh Đào Mùa Đông
1
Trời bắt đầu mưa ngay từ buổi chiều hôm tất niên và ngày đầu năm mới là một ngày mưa dầm. Kể từ năm nay bắt đầu áp dụng cách tính tuổi theo lối châu Âu 1 như vậy là Singo được sáu mươi mốt tuổi, còn Yasuco thì sáu mươi hai.
Thường thì mồng một Tết gia đình Ogata dậy muộn, song năm nay Singo thức giấc khá sớm vì tiếng chân chạy huỳnh huỵch ngay trước cửa phòng ông của con bé Satoco. Nằm trong giường, Singo nghe có tiếng Kikuco dụ con bé xuống bếp - hẳn là cô muốn ông khỏi mất giấc ngủ - và tiếng Fusaco quát con.
- Chà, Fusaco vẫn còn nằm ườn để con nghịch phá. - Bà Yasuco vừa làu bàu vừa ngáp. - Đã lâu quá rồi tôi chưa bị trẻ con đánh thức vào sáng mồng một Tết bao giờ.
- Thì từ giờ trở đi bà sẽ được đánh thức hàng ngày.
- À - à, chưa chắc đâu. Satoco thấy cái hành lang lạ nên giỡn nghịch vài bữa là sẽ chán thôi. Còn cái chuyện tuổi ấy mà, cứ nghĩ đến là tôi lại thấy kỳ quá... Tôi thấy mình sáu mươi tư hay sáu mươi hai thì cũng thế cả. Ở cái tuổi này mà bớt đi được một năm thì cũng chẳng ích lợi gì.
Từ ngoài vọng vào tiếng Fusaco quát con, Singo nhắm nghiền mắt lại.
- Ôi, lúc mình coi nó thì nó có chịu chơi đâu. - Yasuco than thở. - Trước mặt mọi người con bé cứ rúm lại và bám lấy váy mẹ nó thôi.
Dường như giữa hai ông bà, người này cố tìm thấy ở người kia bằng chứng về tình cảm đối với đứa cháu ngoại. Chí ít thì Singo cũng suy diễn rằng vợ ông đang khổ sở để biết liệu ông có yêu quý con bé Satoco không. Nói cho thật công tâm thì ông không thấy trong lòng tràn đầy thứ tình cảm ấm áp mà người ông thường có đối với cháu mình. Có thể là quả thực ông yêu thương con cháu Satoco chưa đủ.
2
Cuộc hôn nhân không mấy hạnh phúc của Fusaco đã để lại dấu ấn trên Satoco. Nhiều lúc Singo cảm thấy khó chịu trước số phận kém may mắn của con gái mình, bởi vì ông bất lực trong việc giúp đỡ. Lẽ dĩ nhiên là các bậc cha mẹ không giúp được gì nhiều trong cuộc sống riêng của con gái, song việc Fusaco bất lực trong chuyện tự giải quyết lấy công việc của mình đã làm cho Singo choáng váng.
Hồi mùa thu Fusaco đã bỏ nhà đi và thay vì về chỗ cha mẹ, chị ta lại lần về quê ngoại. Sau khi Singo cho Suychi đi đón mấy mẹ con về ở Kamakura được mấy bữa, Fusaco tuyên bố đi gặp chồng để giải quyết dứt điểm mọi việc.
Mặc dù ông bà Ogata can ngăn, chị ta vẫn mang con bỏ đi rồi bặt tăm luôn. Thế rồi đúng vào hôm trước Tết, Fusaco bất ngờ trở về Bà Yasuco vô cùng cay đắng thấy con gái lại phải bỏ chồng ra đi ngay giữa dịp năm hết Tết đến. Trong cơn tuyệt vọng bà đã lớn tiếng lục vấn con gái và lên án anh con rể tệ bạc.
- Con tự ý bỏ đi đấy! - Fusaco nức nở nói qua hàng nước mắt.
- Á - à thế thì lại là chuyện khác. Thôi được, chúng ta xem như là mày về ăn Tết. Bỏ lỗi cho ta vì ta đã quá lời. Còn bây giờ thì hãy quên mọi chuyện đi - ra Tết còn khối thì giờ để nói.
Sáng mồng một Tết, Fusaco là người dậy cuối cùng. Cả nhà đã ngồi vào bàn mà còn nghe chị ta rửa mặt, súc miệng trong nhà tắm.
- Nào, bố con mình uống một chén đi, trong khi chờ đợi. - Singo đề nghị và rót rượu sa ke vào chén. - Tóc ba bạc nhiều quá rồi kìa!
- Thì bạc chứ sao nữa. Ở tuổi tôi bây giờ mỗi ngày lại có thêm vài sợi tóc bạc. Nhiều khi tóc bạc đi ngay trước mắt, nhìn thấy được.
Thế là cả nhà nhìn lên tóc Singo. Kikuco nhìn với một vẻ mặt hết sức nghiêm trang. Trong tay, cô ẵm đứa con nhỏ của Fusaco.
2
Hai cha con Singo uống với nhau chén rượu năm mới, còn bà Yasuco ngồi cùng để tiếp chuyện.
Suychi ít khi uống ở nhà, nhưng hôm nay hẳn là vì trời mưa đã làm hỏng mọi kế hoạch nên anh ta ngồi uống hết chén này đến chén khác. Cũng vì đã uống quá đà nên anh chàng chẳng còn biết chừng mực gì nữa, bất chấp sự có mặt của ông bố!
- Kikuco, mang cam lại đây! - Bà Yasuco gọi. - Và con cũng lại đây ngồi luôn đi, vì ta chả biết nói gì với hai gã say lì lợm này!
Kikuco mang cam lại và nhìn Suychi.
- Chỉ có điều là ba đâu có uống nhiều. - Cô nói lững lờ.
- Thì tôi uống, vì tôi mải nghĩ ngợi về cuộc đời của ba. - Suychi lèm bèm.
- Về cuộc đời tôi? - Singo ngạc nhiên hỏi.
- Không, cũng không hẳn thế. Đại thể là đời ba có được thành công hay là thất bại...
- Biết nói thế nào được? - Singo ngập ngừng đáp. - Một vấn đề như thế... nói về miếng ăn ngày nay thì cũng được gần như hồi trước chiến tranh rồi đấy. Hiểu theo nghĩa đó thì anh có thể gọi đời ba là thành công được.
- Ba vừa nói là cái ăn hả? - Suychi hỏi lại.
- Chứ gì nữa. Đó, ta đã sống được đến hôm nay để đón năm mới với món ansua 2 và món đặc sản cá rán với trứng. Đối với ta thế là đủ. Trong khi đó khối người đã lụn bại như anh biết đấy!
- Cái đó thì đúng rồi, con đâu có cãi.
- Nhưng cuộc đời của một người cha có được mĩ mãn hay không, còn tùy thuộc vào việc con cái ông ta có xây dựng được cuộc sống riêng hạnh phúc hay không nữa. Mà ta thì chưa thể hiện được về chuyện đó.
- Ba nghĩ là như vậy à?
- Nào, cha con ông thôi đi cho.- Bà Yasuco can thiệp. - Các người định bắt đầu năm mới thế đây à? Hãy nhớ là Fusaco nó đang ở đây đây!
Có tiếng cửa ngoài đường mở - đó là cô thư ký Ayco Tanizaki đến chúc mừng năm mới. Ayco không chịu vào nhà, cô đứng ở phòng đệm và cúi chào rất thấp khi trông thấy Singo.
- Vô cùng cảm động vì cô đã đến chơi trong tiết trời mưa gió thế này. - Singo nói. - Mời cô vào trong nhà cho ấm đã!
- Xin đa tạ ngài. - Ayco cương quyết từ chối.
Singo nhìn cô thư ký và cố đoán xem vì lý do gì mà cô lại đội mưa gió đến như vậy - để kêu ca hay để thông báo một tin quan trọng? Nhưng dù thế này hay thế khác, cô cũng đã hành động một cách can đảm!
- Nếu vậy để tôi vào thay quần áo rồi ta cùng đi chúc Tết vậy. Năm nào tôi cũng đi được vài nhà, hoặc ít nhất cũng phải đến chỗ ngài Itakura, cựu chủ tịch của hãng.
Chuyến tàu đi Iocoxuca vắng ngắt. Mưa tạt vào kính cửa. Singo nhìn mưa và trong lòng thấy vui vì Ayco đến thăm ông.
- Năm nào cô cũng đến chúc Tết chúng tôi vào ngày mồng một đấy nhỉ? - Singo nói.
- Quả có vậy ạ? - Ayco đáp và ngập ngừng một lúc rồi thốt ra. - Tôi những muốn ngài cho phép tôi đến thăm ngài cả sau khi tôi đã thôi việc?
- Lúc ấy thì cô đã có chồng con và chắc gì đến được nữa... Nhưng có chuyện gì vậy? Cô muốn nói với tôi điều gì phải không?
- Tôi muốn xin ngài cho tôi thôi việc. - Ayco nói bằng một giọng rất lạ.
Singo không biết trả lời ra sao, mặc dù ông cũng đã có chuẩn bị tinh thần.
- Nhưng tôi đến thăm ngài hôm nay không phải để nói về chuyện ấy. - Ayco kết luận một cách trang nghiêm khác thường đối với tuổi của cô. - Xin để dịp khác tôi sẽ thưa chuyện với ngài sau.
- Thì ra là thế! - Singo lẩm bẩm. Tâm trạng vui vẻ của ông đã tiêu tan.
Cô gái này đã làm việc với ông ba năm trời, cô luôn ở sát bên ông, vậy mà giờ đây ông thấy cô xa lạ hẳn. Cũng chẳng phải là ông chú ý đặc biệt gì đến cô - cô chỉ là thư ký của ông và chấm hết.
Nhưng dù sao ông cũng muốn can ngăn cô, thuyết phục cô. Song nghĩ cho cùng thì cô chẳng phải là nô lệ của ông.
- Chắc tôi chính là nguyên nhân khiến cô xin nghỉ việc phải không? Tôi đã bắt cô dẫn tôi đến căn nhà đó và cô đã phải trải qua những sự khó chịu ghê gớm. Tôi hình dung ra được cô khó chịu như thế nào khi cùng làm trong một hãng với Suychi.
- Xin thú thực là tôi hết sức khó chịu. - Ayco thẳng thắn đáp. - Nhưng sau đó tôi đã nghĩ lại và kết luận rằng, ở địa vị ngài, mọi người cha đều hành động như vậy. Tôi cũng thấy được rằng mình hoàn toàn sai trái. Khi anh ta mời tôi đi nhảy, tôi đã mừng muốn chết! Thậm chí tôi còn cùng anh ta đến chơi nhà cô ả kia nữa chứ...Hư hỏng đến như vậy.
- Nói thế có hơi quá không?
- Nhưng quả thực là tôi đã trở nên tồi tệ quá! - Ayco nói và nhắm mắt lại một cách thảm hại. - Nếu ngài cho tôi nghỉ việc, tôi sẽ tìm cách bảo cô ả kia để cho con trai ngài được yên. Chỉ có như vậy tôi mới trả ơn ngài được.
Singo thất kinh và cảm thấy bị xúc phạm.
- Dù sao thì tôi cũng không có quyền yêu cầu ở cô một việc như vậy, ông nói.
- Ngài không cần phải yêu cầu đâu. Tôi sẽ tự nguyện làm việc đó, và như vậy, tôi sẽ có thể trả ơn ngài về những gì ngài đã làm cho tôi.
Lời tuyên bố to tát từ cái miệng nhỏ bé của Ayco lại làm cho vết thương trong lòng Singo đau nhói, và thiếu chút nữa ông đã bảo cô ta đừng có nhúng mũi vào công việc của người khác.
Riêng Ayco thì đang có vẻ phấn khích vì cái ý nguyện tự giác của mình.
- Tôi không sao hiểu nổi Suychi. - Cô tuyên bố. - Vợ đẹp như thế! Ngài có biết không, thấy anh sa đà với ả kia, tôi cũng khó chịu, nhưng không khi nào tôi cảm tử ghen với Kikuco, cho dù cô có được Suychi yêu chết mê chết mệt đi chăng nữa!
Ngừng một chút, cô nói thêm:
- Cũng có thể là đàn ông không yêu những người đàn bà không làm cho kẻ tình địch phải ghen tuông chăng?
Singo cười cay đắng.
- Suychi còn hay chê Kikuco là non nớt nữa. - Ayco nói tiếp - "Nó vẫn còn trẻ con và vì thế được ông già tôi thương", anh ấy bảo thế.
- Cái đồ ngu ngốc. - Singo buột miệng. Ông cảm thấy người run lên vì tức giận.
Ayco bối rối im lặng. Singo hiểu con trai ông muốn ám chỉ tư chất đàn bà của Kikuco. Chẳng lẽ anh ta lại đi tìm một thứ gái điếm ở người vợ trẻ của mình? Điều đó hẳn phải là một sự vô giáo dục ghê gớm, một sự băng hoại tinh thần khủng khiếp.
Singo bỗng hiểu ra rằng con trai ông là một kẻ tàn nhẫn đến cùng cực. Cả Ayco lẫn tình nhân của anh ta cũng đều là những kẻ tàn nhẫn.
Chẳng lẽ Suychi không hiểu được rằng Kikuco là một con người thuần khiết đến mức nào? Trước mắt Singo hiện lên hình ảnh khuôn mặt trắng xanh, tinh tế của cô - khuôn mặt còn mang vẻ non dại của một đứa con út, được lớn lên giữa sự nâng niu chiều chuộng của gia đình. Singo cũng biết rằng việc căm ghét đứa con đẻ của mình vì chuyện vợ con của nó là không tự nhiên lắm, nhưng ông không thể vượt qua nổi tình cảm của mình. Ở trong sâu thẳm của đời ông đang lặng lờ trôi một mạch nước ngầm - cái dòng đời dị thường đã đưa ông đến cuộc hôn nhân với Yasuco sau cái chết của người chị gái, người đàn bà mà ông khao khát. Mà có thể sự dị thường - cái điều trái với tự nhiên không sao giải thích được - lâu nay lại được ngầm giúp thêm bởi sự gần gũi với Kikuco?
Kikuco đã cố kiềm chế sự ghen tuông khi Suychi ngoại tình.
Nhưng dù sao thì cũng chính sự tàn nhẫn và đồi bại của anh ta đã đánh thức người đàn bà ở trong cô.
Singo im lặng và tuyệt vọng tìm cách dập tắt sự phẫn nộ và nỗi đau buồn trong lòng mình. Cạnh ông, Ayco cũng im lặng.
4
Mới giữa tháng một mà cây anh đào trong vườn khách sạn Atami đã nở đầy hoa.
Người ta giải thích cho Singo rằng đó là giống anh đào mùa đông, dù vậy ông vẫn cứ có cảm giác là đã rơi vào mùa xuân của một thế giới xa lạ nào khác.
Singo đến khách sạn này để chuẩn bị cuộc chiêu đãi của hãng sẽ mở tại đây vào ngày hôm sau. Công việc chẳng có gì nhiều và ông ngồi ở hàng hiên ngắm cảnh cho đến khi những đám mây đen từ phía lũng núi Jicoku tà tà kéo đến. Hai chiếc đồng hồ của Singo - một bỏ túi và một đeo tay - chỉ hai giờ khác nhau. Chúng không bao giờ chạy khớp nhau cả và điều đó làm ông khó chịu. "Nếu vậy sao ông không dùng một chiếc thôi?", bà Yasuco đã bảo ông. Đương nhiên là bà có lý, nhưng thói quen vẫn là thói quen.
Trời có giông và mưa trút xuống xối xả. Điện bị cắt nên Singo đi ngủ sớm. Khi ông choàng tỉnh, từ phía vườn vẳng lại tiếng chó tru.
Trong phòng rất ngột và Singo thở khó nhọc. Ông có cảm giác sẽ thổ huyết. Trước đây nhiều năm chuyện đó đã có lần xảy ra, nhưng không bao giờ lặp lại nữa. "Không phải trong ngực đâu. Dạ dày ta khó chịu đấy", Singo lẩm bao ông xoa bóp trên trán và cổ.
Lẫn trong tiếng gào rú của giông tố có một thứ tiếng ầm ì rất nặng. Hẳn đó là tiếng xe lửa chạy qua đường hầm Tana, - Singo thầm nghĩ. Tiếng ầm ì kéo dài rất lâu, trong khi lẽ ra chỉ mất vài phút là tàu phải qua hết đường hầm. Singo sẵn sàng thề rằng ông nghe thấy cả tiếng tàu bắt đầu vào đường hầm từ phía bên kia núi.
Chẳng lẽ ông lại có thể nghe tiếng tàu chạy ở cách bảy kilomet, tận phía Canani?
Singo cảm nhận được sự có mặt của con tàu ở trong đường hầm, như thể tàu chạy ở ngay trong đầu ông vậy. Ông cảm thấy rõ nó đang đi qua từng kilomet ra sao. Và ông thở ra nhẹ nhõm khi điều đó kết thúc. Chuyện này thật khó hiểu và Singo định bụng hôm sau sẽ hỏi lại cho ra nhẽ. Mãi lâu sau ông vẫn còn nằm thao thức.
- Singo-o, Singo-o, - trong cơn mơ màng ông bỗng nghe thấy tiếng ai gọi.
Chỉ có người chị gái của Yasuco mới có thể gọi tên ông theo lối nói kéo dài như vậy. Ông tỉnh hẳn, người lâng lâng vì một cảm giác ngọt ngào.
- Singo-o, Singo-o!
Tiếng gọi vọng lên ngay bên dưới cửa sổ phòng Singo và như lùi dần về phía vườn khách sạn. Ông mở choàng mắt, bật dậy, mở cửa sổ. Con suối nhỏ vẫn chảy róc rách phía sau khách sạn giờ đây réo ầm ầm. Từ bên ngoài vẳng vào tiếng trẻ con la hét. Buổi sớm mai trong vắt, ánh nắng mùa đông rạng soi ấm áp.
Singo nhoài hẳn người lên thành cửa sổ và đưa mắt nhìn kỹ bụi trúc rậm rạp bên bờ suối.
Chú thích:
1 Tức là tuổi được tính kể từ ngày sinh, chứ không tính luôn cả chín tháng nằm trong bụng mẹ theo tuổi "tuổi mụ" vốn vẫn được áp dụng ở Nhật.
2 Ansua: mọt món ăn mà người Nhật thường chỉ ăn vào dịp Tết.
CHƯƠNG VII
Nước Buổi Sớm
1
Vào bữa cơm sáng mồng một Tết, Suychi nhận xét là tóc ông bạc rất nhanh, thậm chí mắt nhìn từ được. Singo bảo rằng đó là vì ông nhớ đến Kitamoto.
Là bạn cũ của Singo, Kitamoto thuộc loại người bị vận may phụ bạc. Trong chiến tranh ông đã mất ba người con, còn bản thân ông là một nhân viên kỹ thuật - thì bị mất việc làm khi xí nghiệp của ông chuyển sang phục vụ chiến tranh.
- Lão ta đã hóa dở rồi? - Một người bạn cũ của Singo đã nói về Kitamoto như vậy trong một dịp gặp gỡ. - Không có việc gì làm nên lão suốt ngày nhổ tóc bạc để giết thì giờ. Người nhà không để ý lắm đến việc đó vì cũng muốn cho lão được thoải mái. Nhưng dần dà Kitamoto không rời cái gương ra nữa - lão muốn nhổ kỳ hết tóc bạc, nhưng nhổ sợi này thì sợi khác lại mọc ra... Cứ thế suốt ngày lão đứng trước gương. Mỗi khi phải rời gương ra để đi đâu ít phút là lão nóng nảy, vội vã để mau trở lại.
- Nếu vậy thì ông hói trọi rồi chứ? - Singo cố nén cười hỏi.
- Đây không phải chuyện cười đâu, - ông bạn đáp. - Còn về việc hói thì đã hẳn: trên đầu lão không còn một sợi tóc.
- Thế vợ ông ta chỉ đứng nhìn mà không hề ngăn chồng mình ư?
Bạn ông không đáp, làm như không cần phải trả lời một câu hỏi như vậy. Sau đó Singo lại hỏi:
- Chắc ông ấy đau đớn lắm?
- Vì nhổ tóc ấy hả? Không, không đau đâu. Lão cố nhổ cẩn thận từng sợi tóc bạc mà. Nhưng tất nhiên là sau cả quá trình ấy, da đầu bị viêm tấy lên và mọi sự động chạm dù rất nhẹ cũng gây đau đớn. Đầu lão nóng rát như thể bị bỏng. Sau đó, người ta đã đưa Kitamoto vào nhà thương điên và ở đó lão đã nhổ nốt những sợi tóc bạc cuối cùng của mình. Thật kinh khủng phải không? Một hành vi kém sáng suốt đến như vậy. Lão chẳng muốn già và cố gắng làm cho tuổi thanh xuân trở lại. Cũng không ai biết khi bắt đầu nhổ tóc thì Kitamoto đã điên rồi, hay vì quá ham mê việc giữ cho đầu không có tóc bạc mà lão hóa điên?
- Và kết quả là ông ấy cũng qua khỏi chứ?
- Phải, Kitamoto đã qua khỏi. Ở đây, đã xảy ra một điều kỳ diệu. Trên cái đầu trọc hoàn toàn của lão ta đã mọc lên vài đám tóc đen.
- Làm gì có chuyện đó? - Singo bật cười, nói.
- Tôi nói thật với anh mà! - Ông bạn trả lời hết sức nghiêm trang. - Những người điên họ không có tuổi. Nếu tôi với anh giờ mà lại mất trí, thì có thể chúng ta sẽ trẻ ra.
Ông ta liếc nhìn tóc Singo và nói thêm:
- Anh thì còn có cơ hội, nhưng với tôi thì đã muộn rồi.
Thực tế là đầu ông ta đã hói.
- Hay là để tôi thử? - Singo làu bàu.
- Anh cứ thử đi, nhưng tôi không tin là anh sẽ có đủ hào hứng đế nhổ kỳ sạch tóc.
- Và tôi cũng thấy thế. Vả lại, tóc bạc không làm tôi e ngại. Tôi không có ước vọng đem lại cho mình mái tóc đen bằng cái giá của sự mất trí.
- Anh nói thế vì mọi sự ở chỗ anh đều ổn thỏa, vì anh đã bơi qua được bể khổ của con người.
- Cũng không hẳn thế đâu, nhưng thôi... Lẽ ra là anh nên khuyên Kitamoto nhuộm tóc thay vì nhổ tóc bạc.
- Nhuộm tóc chỉ là sự lừa dối. Nếu chúng ta rơi vào vòng cám dỗ của sự lừa bịp thì sẽ chẳng bao giờ biết đến cái phép lạ như đã xảy ra với Kitamoto đâu, anh hiểu không?
- Nhưng mặc dù có phép lạ, ông ta vẫn chết, đúng không?
- Anh có đi dự lễ tang lão ta à?
- Không, vì mãi sau chiến tranh tôi mới biết. Nhưng dù lúc đó có biết thì cũng chưa chắc đã đi được. Dạo Tokyo đang bị ném bom dữ dội nhất.
- Pha-ải... mà các phép màu thì ngắn ngủi lắm. Đó: Kitamoto nhổ hết sạch tóc bạc, chiến đấu với tuổi già. Đời anh cũng chẳng dài thêm được chỉ vì tóc của anh đen lại. Mà có khi ngược lại là đằng khác. Biết đâu tóc đen mọc lên chẳng làm tiêu tán hết cả nguyên khí và rút ngắn đời anh? Nhưng dù sao tôi cũng nghĩ là sự rồ dại tuyệt vọng của Kitamoto không phải là không có một chút liên quan nào đến hai chúng ta đâu. - Ông bạn kết luận và lắc đầu.
Singo không tin hoàn toàn câu chuyện. Ông có cảm giác là bạn mình hơi phóng đại. "Ồ, ta quên không hỏi lúc Kitamoto chết thì tóc của ông ta thế nào, đen hay trắng?", ông thầm nghĩ và thấy buồn cười. Ông cũng nhận thấy trong cách nói của người bạn có một chút mỉa mai đối với Kitamoto. Một người già đã kể bằng một giọng giễu cợt và không phải là không tàn nhẫn về cái chết của một người già khác, điều đó để lại trong tâm hồn của Singo một dư vị không mấy dễ chịu.
Hai người bạn cũ của Singo - Mitzuta và Kitamoto - đã qua đời trong những hoàn cảnh kỳ lạ. Mitzuta thì chết đột ngột trong một khách sạn ở nơi an dưỡng bên cạnh người vợ trẻ. Sau đó Singo buộc phải mua lại những chiếc mặt nạ Noh của ông ta. Còn vì Kitamoto thì Singo đã phải nhận Ayco Tanizaki làm thư ký.
Đó là vào một ngày đẹp trời, cô ta xuất hiện ở phòng giấy của ông và trình bức thư giới thiệu của con gái Kitamoto. Ayco và con gái Kitamoto là chỗ bạn học, nhưng dù vậy Singo cũng lấy làm lạ là cô con gái của người bạn cũ mà ông chưa gặp bao giờ lại yêu cầu ông một việc như vậy. Ngay cả Ayco cũng cho biết là hai cô chỉ vừa mới gặp lại nhau kể từ lúc xảy ra chiến tranh tới giờ. Singo đã kết luận rằng cả hai cô đều không nghiêm túc. Ông không thấy có nghĩa vụ phải thỏa mãn đề nghị nêu trên trong bức thư, dù vậy ông vẫn nhận Ayco vào làm.
Từ đó tới nay đã ba năm trôi qua và Singo lấy làm lạ là, Ayco đã giữ kín mọi chuyện được lâu như vậy. Ngoài việc đi nhảy với Suychi ra, trong suốt thời gian ấy cô ta còn tới chơi nhà tình nhân của anh ta nữa. Và một lần kia cô đã dẫn cả Singo tới đó.
Dường như giờ đây cô đã chán ngấy tất cả. Singo luôn cho rằng tính tình Ayco hời hợt, nhưng mãi sau khi cô nghỉ việc rồi ông mới hiểu rằng cô cũng không thiếu lòng tốt và đức tính cao thượng.
2
- Hôm nay ba dậy sớm quá vậy! - Kikuco thốt lên khi thấy Singo hiện ra sau lưng cô bên bồn rửa mặt.
Trong bồn nước mà Kikuco đang tháo đi, Singo thấy có mấy giọt máu. Bất chợt ông liên tưởng đến lần thổ huyết cách đây vài năm của mình. "Hay là Kikuco cũng...?", ông hoảng sợ nghĩ. Nhưng vấn đề đã được làm sáng tỏ là cô chỉ bị chảy máu cam.
Kikuco bịt mũi bằng chiếc khăn tay.
- Ngẩng đầu lên và dựa lưng vào tường! - Singo kêu lên và vỗ vỗ nhẹ vào lưng cô.
- Không sao đâu mà ba. Con xin lỗi vì thế này... - Kikuco nói và trong khi đó một dòng máu đỏ chảy dọc theo cánh tay cô.
Kikuco nhắm mắt và im lặng. Khuôn mặt tái xanh của cô còn mang rõ dấu ấn của tuổi thơ trong trắng, Singo nhìn thấy một cái sẹo nhỏ trên trán cô dưới mái tóc lòa xòa.
- Cứ để đó và đi tắm đi. - Singo ra lệnh khi thấy mũi Kikuco đã chảy hết máu và cô đang định rửa cái bồn sứ.
Ông xối cho nước chảy và định gọi vợ để bà săn sóc Kikuco, nhưng lại thôi vì nghĩ rằng chắc gì Kikuco đã muốn để mẹ chồng thấy cảnh cô đau đớn. Máu mũi cô đã phun ra thành vòi, mà Singo thấy như nỗi đau khổ trào ra từ trong lòng cô.
Trong khi Singo còn đang nghĩ ngợi bên bồn rửa mặt, Kikuco đi ngang qua với một xẻng than đang cháy đỏ để cho vào lò sưởi.
Singo bỗng giật mình khi sực nhớ ra là Fusaco cũng đang ở đây.
Chị ta ngủ trong phòng bên cạnh với hai đứa bé.
Lẽ ra ông phải đánh thức Fusaco dậy để giúp Kikuco. Thật kỳ lạ là nói chung Singo không nhớ gì đến con gái mình.
Lúc nghỉ trưa, Singo dẫn Suychi đi ăn ở một tiệm cơm Tây gần chỗ làm việc.
- Anh có biết là Kikuco có cái sẹo trên trán chứ? - ông hỏi.
- Vâng, biết.
- Vết sẹo do cặp forcep đấy. Tôi không chắc có phải đó là dấu vết của một ca đẻ khó hay không, nhưng vết sẹo nổi hẳn lên mỗi khi Kikuco bị đau.
- Ba nói về chuyện sáng nay?
- Chứ gì nữa.
- Mỗi khi cô ấy xanh mét, vết sẹo lại nổi rõ.
- Mà hình như đêm qua nó không ngủ thì phải?
Suychi nhíu mày, sau đó anh nói:
- Ba không cần quá chú ý đến một người ngoài như vậy đâu, ba ạ.
- Ai là người ngoài? Vợ anh ấy hả?
- Thì chính là về chuyện đó đấy. Ba không cần phải quá chú ý đến vợ của con trai mình thế đâu.
- Anh định nói gì?
Suychi không đáp.
3
Ayco và một người đàn bà đợi Singo trong phòng khách. Ayco đứng lên khi thấy ông vào.
- Xin ngài thứ lỗi vì đã lâu tôi không lại thăm ngài. Bữa nay trời mới ấm lên... - Cô ta nói vài câu xã giao.
- Phải, đã lâu rồi... Mấy tháng rồi còn gì? - Singo đáp và nhận thấy Ayco mập ra.
- Đây là chị Ikeda. - Ayco giới thiệu. - Trước đây tôi đã có nói với ngài về chị.
- Rất hân hạnh. Tôi là Ogata.
Singo không thể bắt mình cảm ơn Ayco về sự quan tâm của cô đối với Suychi, theo như phép lịch sự đòi hỏi.
- Chị Ikeda không muốn gặp ngài. - Ayco nói tiếp. - Tôi đã gần như phải dùng vũ lực để đưa chị ấy tới đây đấy.
- Vậy ư? Ta sẽ nói chuyện tại đây, hay các chị muốn đi đến một chỗ nào đó?
- Nếu ngài hỏi tôi thì tôi thấy ở đây cũng được. - Người đàn bà tên Ikeda đáp.
Singo cảm thấy bối rối. Ông đã quên lời Ayco nói trước đây và bị bất ngờ về cuộc gặp này. Kể cũng lạ là mấy tháng sau khi thôi việc, cô ta lại nhớ thực hiện lời hứa cũ.
- Ayco cứ ép quá nên tôi buộc phải đến. - Ikida mở đầu không lấy gì làm thân thiện. - Đã nhiều lần tôi bảo Kinu là phải cắt đứt với Suychi. Tôi cũng có nghĩ là nếu gặp ngài, cha của Suychi, thì tôi có thể giúp được gì đó.
- Tôi hiểu chị.
- Ayco là người có công trạng trong chuyện này, hơn nữa cô ấy thông cảm với vợ Suychi.
- Kikuco là một người vợ tuyệt vời. - Ayco xen vào.
Cô cũng nói điều đó cả trước mặt Kinu, nhưng thời nay ít có người đàn bà nào chịu bỏ tình lang của mình chỉ vì anh ta có một người vợ tuyệt vời. Song Kinu thì tuyên bố rằng sẽ chỉ chịu trả chồng người khác về cho vợ anh ta nếu người ta trả lại chồng cho cô ấy. Chồng Kinu đã hy sinh ngoài mặt trận: "Miễn sao người ta trả chồng tôi lại cho tôi, tôi sẽ để cho anh ấy tha hồ muốn làm gì thì làm", Kinu bảo thế. Những người đàn bà mất chồng trong chiến tranh sẵn lòng đồng tình với cô ấy. "Chúng ta đã đau khổ biết chừng nào khi tiễn các anh đi vào chỗ chết. - Kinu nói. - Ở chỗ tôi, Suychi không có nguy cơ bị giết hay bị thương gì hết. Tôi sẽ trả anh về với vợ con nguyên vẹn, khỏe mạnh".
Singo mỉm cười buồn bã.
- Kinu còn bảo rằng dù sao thì vợ Suychi cũng không bị mất chồng ngoài mặt trận. - Ikeda nói tiếp. - Khi Kinu cùng với Suychi uống rượu say rồi thì cô còn bắt anh ta về nói lại với vợ rằng cô ta còn chưa biết thế nào là đợi chờ chồng từ mặt trận trở về đâu...Chồng tôi cũng hy sinh trong chiến tranh. Ngài không thấy rằng trong tình yêu của một người vợ góa do chiến tranh có một cái gì đấy xấu xa hay sao?
- Chị định nói đến điều gì?
- Đàn ông, trong đó có cả Suychi, khi uống rượu vào đều trở thành súc vật. Anh ta hết sức thô bạo đối với Kinu, bắt cô phải hát. Kinu thì không chịu hát, nên tôi, vì không muốn ầm ĩ, đã phải hát thay cô. Nếu không làm cho anh ta yên, chúng tôi sẽ gặp rắc rối với hàng xóm. Lúc đầu tôi cảm thấy bị hạ nhục, nhưng rồi tôi đi đến kết luận, rằng không phải rượu, mà chính là chiến tranh đã làm cho Suychi trở thành như vậy. Có thể là khi ở ngoài mặt trận, anh ta đã tiêu khiển như thế với phụ nữ. Nhìn anh ta nổi loạn mà tôi hình dung ra chồng mình. Tôi thấy đau nhói khi tưởng tượng mình là người đàn bà mà có chồng cũng đã giải trí ngoài mặt trận như thế. Thế là tôi òa khóc và bắt đầu hát những bài hát tục tĩu. Tôi những muốn tin rằng chồng mình là một ngoại lệ... Từ đó tới nay, mỗi khi Suychi bắt tôi hát, Kinu lại cùng khóc với tôi.
Singo hoàn toàn ủ dột. Ông thấy khổ sở phải nghe người đàn bà kia nói.
- Vậy nên chấm dứt câu chuyện ấy đi thì sẽ tốt hơn cho cả hai chị, đúng thế không? - Singo đề nghị.
- Ngài nói phải, Kinu cũng đã nói rằng nếu còn tiếp tục như vậy cô sẽ gục ngã. Nhưng riêng tôi thì tôi thấy là Kinu còn sợ. Cô ấy sợ là việc chia tay với Suychi sẽ đẩy cô ấy đến chỗ sụp đổ. Người đàn bà...
- Không có gì đáng sợ đâu! - Ayco xen vào.
- Miễn sao là cô không mất việc. - Ikeda nói tiếp và trỏ vào bộ y phục của mình. - Cái này là do Kinu may cho tôi đấy. Cô ấy là người thợ cắt giỏi thứ nhì ở trong tiệm may. Người ta đánh giá cô ấy rất cao. Và thế nên tôi tin rằng Kinu không phải là gánh nặng về mặt tài chính đối với Suychi đâu.
- Ở đây không phải là vấn đề tiền. - Singo tức giận nói.
- Tôi vẫn nói với Kinu một điều mỗi khi Suychi đối xử thô bạo với cô, - Ikeda kết luận, - đó là anh ta đã bị thương khi trở về nhà. Một người lính với vết thương ở trong tim.
Sau đó chị ta ngẩng lên và hỏi:
- Vợ chồng Suychi không thể ra ở riêng được ư? Tôi vẫn nghĩ, là nếu họ ra ở riêng thì Suychi sẽ cắt đứt với Kinu...
- Tôi không biết. Để xem đã. - Singo buông một câu sống sượng.
Ông tức giận vì người đàn bà kia đã dây vào chuyện nhà ông, nhưng ở một chừng mực nào đó ông không thể không đồng ý với chị ta.
4
Singo không yêu cầu Ikeda một điều gì, cũng như chẳng có gì để nói với chị ta. Ông chỉ nghe chị ta nói.
Đối với Ikeda thì cuộc viếng thăm này hẳn là vô bổ. Đối với Singo thì lẽ ra nó sẽ bổ ích hơn nếu ông không rơi vào cảnh thất thế của kẻ phải cầu xin. Tuy vậy, chị ta cũng đã kể cho ông biết nhiều chuyện. Có lẽ là để thanh minh cho Kinu, nhưng cũng không hoàn toàn chỉ vì thế.
Singo nghĩ rằng đúng ra ông phải biết ơn cả Ikeda lẫn Ayco.
Dường như lòng kiêu hãnh của ông đã bị tổn thương rất lớn.
Ông về đến nhà lúc mười một giờ tối. Suychi vẫn còn chưa thấy đâu, Fusaco đang cho con bú.
Sau khi hỏi han Fusaco về mấy đứa cháu, Singo nói khẽ với bà Yasuco:
- Có lẽ phải cho vợ chồng Suychi ra ở riêng.
- Cũng được... Nhất là nếu Fusaco ở lại đây với chúng ta.
- Con sẽ đi thôi, mẹ ạ, nếu là vì con. - Fusaco tiến lại nói. - Con sẽ đi thuê nhà. Có phải con phải làm việc đó chăng?
- Câu chuyện của chúng ta không liên quan gì đến mày. - Singo gầm lên.
- Liên quan chứ sao lại không? Liên quan nhiều là khác. Khi Aikhara bảo thẳng vào mặt con rằng sở dĩ con như vậy là bởi vì cha không thương yêu con thì con đã uất suýt chết. Đó là sự sỉ nhục lớn nhất trong đời con.
- Thôi, bình tĩnh lại đi! - Singo nói. - Cô đã ba mươi tuổi rồi, không còn bé bỏng gì nữa đâu mà làm những trò hờn dỗi!
Fusaco choàng vạt áo kimono lên bộ ngực căng sữa của mình và đáp lại:
- Con không thể trấn tĩnh được vì con không có chỗ nào để tá túc cả, bố có hiểu không?
Singo mệt mỏi đứng dậy.
- Nào, bà lão, ta đi ngủ thôi. - ông nói.
CHƯƠNG VIII
Tiếng Gọi Trong Đêm
1
Singo choàng tỉnh vì một tiếng động lạ. Ông không thể phân biệt được đó là tiếng chó tru hay tiếng người rền rĩ. Thoạt đầu ông đã nghĩ rằng con Teru hú lên trong cơn hấp hối. Nếu nó bị ai đánh thuốc độc thì cũng chẳng có gì là lạ.
Tim Singo đập đổ hồi. Ông có cảm giác chỉ sau chút nữa ông sẽ bị đứng tim. Nhưng khi tỉnh táo hẳn, ông nhận ra không phải tiếng chó tru, mà là tiếng người kêu. Tiếng kêu ấy trầm đục, khàn khàn như thể người kêu bị bóp cổ. Hẳn là kẻ đang kêu ở trong cảnh nguy hiểm chết người.
- Kico-o-o, kico-o-o! - Tiếng kêu đầy đau đớn, giọng lạc hẳn đi.
- Kico-o-o, kico-o-o!
Có lẽ kẻ bất hạnh muốn nghe 1 lời tuyên án của kẻ giết mình?
Sau đó Singo nghe thấy tiếng người dội vào cánh cửa. Ông nhún vai và ngồi dậy trên giường.
- Kico-o-o, kico-o-o.
Lần này thì Singo nghe ra là tiếng Suychi gọi Kikuco. Lưỡi anh ta đã líu lại và nuốt mất âm tiết thứ hai của cái tên.
Singo bủn rủn chân tay, ông nằm gục xuống thường và thấy ngộp thở. Sau khi lấy lại hơi, ông định mở cửa, nhưng rồi ông chợt nghĩ rằng tốt nhất là đứng dậy. Suychi gọi vợ mình bằng một giọng đầy tình cảm và sầu muộn, giọng của một kẻ đã bị mất hết mọi thứ trên đời này. Đó là tiếng gào của một đứa trẻ mất mẹ trong cơn đau đớn và tuyệt vọng, tiếng gào của sự khiếp sợ đầy vẻ chết chóc, âm thanh phát ra từ trong sâu thẳm của nỗi sợ. Phơi bày cả linh hồn mình ra đó, Suychi đã gọi Kikuco và cầu xin một sự khoan dung.
Hẳn là anh ta sợ cô không nghe thấy nên kêu bằng cái giọng ngọt ngào đã lạc đi vì rượu, như thể khi đang chìa tay xin bố thí, như thể khi đang quỳ trước mặt cô.
- Kico-o-o, kico-o-o! Sự tuyệt vọng của Suychi lan sang cả Singo. Chưa khi nào trong đời ông gọi Yasuco bằng cái giọng tràn đầy thứ tình yêu tuyệt vọng đến như vậy. Có thể là vì ông chưa biết đến nỗi tuyệt vọng mà Suychi từng trải qua trên các bãi chiến trường.
- Kico-o-o, kico-o-o!
Singo bật ngọn đèn ngủ ở đầu giường. Đồng hồ chỉ hai rưỡi sáng.
Hẳn là Suychi đã trở về bằng chuyến tàu cuối cùng lúc một giờ. Có cái gì đó trong tiếng gọi của anh ta mách bảo rằng anh ta đã đoạn tuyệt với mối tình của người đàn bà ở Tokyo.
Có tiếng Kikuco đi ra cửa. Singo thở dài nhẹ nhõm và tắt đèn đi.
"Con tha thứ cho nó nhé, được chứ'", ông thầm nói với Kikuco trong tâm tưởng.
Hẳn là Kikuco dìu Suychi vào nhà, sau đó có tiếng hai người ngã huỵch trên sàn nhà bếp.
- Ngồi yên. - Tiếng Kikuco nói. - Đặt chân lên đầu gối em đây...thế! Mỗi khi uống rượu, chân mình lại sưng lên này.
Hình như cô đang cởi giúp giày cho Suychi. Vậy là cô đã tha thứ cho anh ta. Có thể là như một người vợ, Kikuco thậm chí còn lấy làm vừa lòng vì thỉnh thoảng cũng có dịp để tha thứ cho Suychi. Hoặc cũng có thể là cô đã nghe thấu được trong tiếng kêu của anh ta? Dù thế nào thì Kikuco cũng là một người vợ tốt, cô đã xử sự đầy thiện chí với người chồng say rượu từ chỗ tình nhân của anh ta trở về.
2
Vợ chồng Suychi đã ngủ yên, nhưng Singo không sao ngủ lại được ông nằm thao thức và suy nghĩ miên man.
Có thể là vì đa cảm mà ông thấy tiếng kêu của Suychi có vẻ khác lạ và tội nghiệp như vậy. Biết đâu ông đã chẳng lầm vì giọng của Suychi chỉ lạc đi một cách hết sức bình thường vì say rượu, hoặc nữa anh ta giả say để giấu giếm sự thấp hèn của mình?
Ông đã tha thứ cho anh ta chính vì giọng kêu. Có lẽ cả Kikuco cũng vậy. Câu chuyện xảy ra thật bỉ ổi - gã khốn uống cho say ở chỗ ả tình nhân rồi về nằm vật ra trước cửa nhà mình.
Kikuco, nạn nhân của Suychi, lại chính là người đã tha thứ những lỗi lầm của anh ta. Cô mới hai mươi tuổi và sẽ còn phải tha thứ như thế đến bao giờ?
Hôn nhân vốn giống như một kẽ nứt nguy hiểm, có thể hút hết mọi xấu xa mà vợ chồng người ta vẫn gây ra khi sống với nhau.
"Vết nứt của đời sống vợ chồng", Singo lẩm bẩm thành tiếng trong khi nghĩ rằng, người đàn ông và người đàn bà cần phải chịu đựng những cái xấu của nhau và năm tháng trôi đi, càng ngày họ càng đào sâu thêm kẽ nứt của đời sống vợ chồng. Bởi vì người đàn bà chỉ nhận thức được bản thân mình qua sự xung đột với những thói xấu của người chồng.
Singo xoa xoa đôi mí mắt sưng húp và bỗng nhớ lại giấc mơ mà tiếng kêu của Suychi đã làm gián đoạn. Ông đã nằm mơ thấy một câu chuyện tình trong trắng của hai đứa trẻ. Cô gái mới có mười bốn tuổi và đã phải nạo thai. Singo nhớ rất rõ những lời người ta nói về câu chuyện đó: "Từ giờ trở đi cô đã thành một nữ thánh!"
Không nghi ngờ gì là giấc mơ của ông liên quan đến một bài báo được đăng trong số báo buổi chiều.
"Một cô bé đẻ sinh đôi" - Dưới cái đầu đề giật gân, bài báo đã trình bày những số liệu đáng lo ngại về những vụ phá thai của các cô gái vị thành niên, trong đó có một cô học sinh mười bốn tuổi học lớp tám Kitatsugra đẻ sinh đôi. Cả người mẹ và hai đứa trẻ đều khỏe mạnh và người mẹ đã tiếp tục cắp sách đến trường. Gia đình của cô ta không hề biết gì về việc cô mang thai. Một nữ sinh khác đã có thai với một bạn học cùng lớp. Khi cha mẹ hai bên bắt cô gái phá thai, thì cậu con trai đã tuyên hố. "Chúng con không hề đùa giỡn. Chúng con sẽ lấy nhau".
Bài báo đã gây ấn tượng mạnh đối với Singo và kết quả là ông nằm mơ thấy câu chuyện tình mà trong đó cô gái phá thai. Có điều là trong câu chuyện tình ông không thấy có gì là xấu xa đồi bại.
Đó là mẩu chuyện kỳ lạ về một mối tình trong trắng và cô gái đã trở thành một vị thánh. Cú sốc vì bài báo ở ông đã biến thành một câu chuyện đẹp. Có thể vì trong mơ ông đã cứu được cô gái và cả chính bản thân mình.
Singo tự hỏi phải chăng lòng nhân ái của ông chỉ bùng lên trong những giấc mơ? Và thế là ông rơi vào một cơn đa sầu đa cảm. Chắc hẳn hơi thở của tuổi thanh xuân đã trôi qua vừa mang lại cho ông giấc mơ kỳ diệu về mối tình trong trắng. Có thể là vì thế, trong một tâm trạng kích động, ông đã cảm nhận được tình yêu và vẻ thống thiết trong tiếng kêu khốn khổ của Suychi.
3
Con tàu lao nhanh qua bình nguyên Kitamakura. Kikuco nhìn ra bên ngoài và thốt lên đầy vẻ ngạc nhiên:
- A, hoa mai đã nở!
Khu vườn mai ở Kitamakura nằm ngay bên đường sắt. Những cánh mai trắng đã xòe cánh và trông không được tinh khiết dưới ánh mặt trời ấm áp.
- Thì ở vườn nhà ta mai cũng nở rồi. - Singo nói, nhưng liền đó ông nhớ ra là ở nhà ông chỉ có một hai cây và cảnh tượng lộng lẫy như ở đây thì lần đầu tiên Kikuco mới được thấy.
Ít khi Kikuco ra khỏi nhà, trừ khi đi chợ loanh quanh. Hôm nay cô cùng đi với Singo để đến thăm người bạn nằm bệnh viện ở Honggo 2. Tình nhân của Suychi cũng ở gần đó nên điều này khiến Singo hơi lo ngại.
Dọc đường Singo định hỏi xem con dâu đã có thai chưa, nhưng rồi ông lại thôi. Nếu bà Yasuco biết Kikuco đến thăm bạn ở khoa sản phụ, hẳn là bà đã bảo cô nhân tiện khám bệnh luôn. Đã mấy lần bà nhắc nhở cô về chuyện con cái và Singo nhận thấy những cuộc nói chuyện không lấy gì làm dễ chịu đối với Kikuco. Nếu Kikuco đã có thai, thì điều đó hẳn là nhờ ả tình nhân của Suychi, kẻ đã đánh thức người đàn bà ở trong cô. Một ý nghĩ thật đáng kinh tởm, nhưng rất con người.
Khi tàu vào ga Totsuca, Singo ngập ngừng nói:
- Kikuco, con này, từ lâu ta đã nghĩ... Mà vợ chồng các con có muốn ra ở riêng không?
Kikuco nhìn ông. Cô chờ ông nói tiếp. Sau đó cô hỏi một cách khổ sở:
- Và sao kia, ba? Vì Fusaco trở về ư?
- Không, Fusaco không dính dáng gì đến chuyện này cả. Ta cũng hình dung được con sẽ vất vả thế nào với cái con quỷ sứ ấy dưới một mái nhà, nhưng Fusaco sẽ không ở lại với chúng ta lâu đâu, kể cả khi nó ly dị với Aikhara. Vấn đề ở đây chỉ liên quan đến việc vợ chồng con thôi. Con không nghĩ là như thế sẽ tốt hơn cho vợ chồng con hay sao?
- Không ạ. Ba đã tốt với con như thế. Con chỉ muốn được ở gần ba. Không hiểu ba có tưởng tượng được con thấy cô đơn thế nào khi thiếu ba không...
- Con vỗ về ta đó thôi.
- Không mà. Ba đã chiều con nhiều. Con đã quen được chiều từ bé. Con từ thích được sống ở gần ba.
- Ta hiểu vì sao ta lại cưng chiều con và đối với ta, con cũng là niềm an ủi. Ta sẽ cô độc nếu các con tách ra ở riêng. Nhưng con cũng thấy Suychi nó làm gì rồi đấy, mà ta thì chưa lần nào nói chuyện với con về vấn đề ấy cả. Sống bên một người cha vô tích sự và bất lực như ta, có ích lợi gì hả con? Vì thế mà ta nghĩ rằng, nếu các con sống riêng ra, có thể các con sẽ đi đến một quyết định sáng suốt nào đó.
- Không phải như vậy đâu ba! Con vẫn hiểu là dù không nói gì nhưng ba vẫn thông cảm với con và buồn lòng về chuyện của con. Và đó chính là điều đã giúp con sống. - Kikuco xúc động nói, trong đôi mắt to của cô long lanh những giọt lệ. - Nếu chúng con chỉ có hai người, con sẽ thấy sợ. Con không hiểu con sẽ có thể chịu đựng nổi khi phải đợi chờ anh ấy hay không... hẳn là con sẽ thấy cô đơn ghê gớm, buồn và sợ hãi.
- Ừ con phải một mình đợi chờ nó... Nhưng chuyện này đâu phải để nói trên tàu! Tuy vậy, con cứ suy nghĩ đi.
Dường như Kikuco lo sợ thực sự vì đôi vai cô cứ run lên.
Singo tiễn cô đến tận nơi bằng xe taxi. Ông chỉ bỏ đi sau khi chắc chắn rằng cô đã vào bệnh viện. Biết đâu ả tình nhân của Suychi lại chẳng đột ngột xuất hiện?...
Chú thích:
1 Kiko theo tiếng Nhật có nghĩa là "Tôi muốn nghe".
2 Quận thuộc Tokyo, nơi có trường Đại học Tổng hợp.
CHƯƠNG IX
Tiếng Chuông Mùa Xuân
1
Người ta kỷ niệm 700 năm kinh đô Phật giáo ở Kamakura vào mùa hoa anh đào nở. Suốt ngày tiếng chuông chùa gióng giả không ngớt.
Singo lúc nghe thấy tiếng chuông lúc không, ông phải căng hết thính giác của mình ra. Kikuco thì nghe thấy cả, dù cô đang ở đâu và làm gì trong nhà.
- Đó, chuông đánh đó? - Singo kêu lên.
- Dào ôi, ông nghe được một cái là mừng rú lên. - Bà Yasuco làu bàu. - Mấy nhà sư hẳn là mệt lả người vì đánh chuông suốt ngày này qua ngày khác như vậy!
- Không đâu mẹ ạ, các nhà sư không đánh chuông, mà khách đi lễ đánh đấy ạ. Cứ gióng một tiếng chuông là được thưởng mười yên.
- Kikuco giảng giải.
- Bày đặt khôn gớm nhỉ! - Singo thốt lên ngạc nhiên.
- Họ gióng chuông để cầu siêu cho người chết. Các chùa còn lập cả kế hoạch nữa cơ: bao nhiêu người đến xem lễ và gióng chuông...
- Con vừa bảo kế hoạch ấy hả? - Singo hỏi lại và cảm thấy sặc sụa vì buồn cười.
- Trong tiếng chuông chùa có một cái gì đó thật là buồn thảm! - Kikuco nói. - Con thấy rùng mình lên ấy.
Điều đó làm Singo ngạc nhiên, bởi vì ông đã nghĩ là được ngồi ngắm hoa đào nở và nghe tiếng chuông chùa trong một ngày tĩnh mịch như ngày này thì thật thú vị và thư thái biết bao nhiêu.
- Thế còn ngày lễ 700 năm này là thế nào nhỉ? - Bà Yasuco hỏi.. - Người thì bảo là kỷ niệm Đức Phật Tổ, kẻ thì lại bảo là kỷ niệm đấng Nichiren.
Singo và Kikuco không trả lời được.
- Thế báo chí không viết gì về chuyện đó hả mẹ? - Kikuco hỏi.
- Hình như cũng có đây. - Yasuco đáp và đưa một xấp báo cho con dâu. - Tôi cũng có thấy viết gì đó về ngày lễ, nhưng câu chuyện về cặp vợ chồng già bỏ nhà ra đi đã gây ấn tượng quá mạnh làm tôi quên hết mọi cái khác. Một nhà từ thiện lớn, Phó chủ tịch Hội đua thuyền Nhật Bản, nguyên Chủ tịch hãng sản xuất thuyền buồm, sáu mươi chín tuổi. Còn bà vợ thì sáu mươi tám...
- Nhưng điều gì đã gây ấn tượng đối với bà? - Singo hỏi.
- Ông ta để lại một bức thư trăng trối như sau: "Chúng tôi không muốn đạt đến cái tình trạng đáng ghét của tuổi già, khi mà người ta chỉ còn đếm từng ngày và bị thế giới và mọi người quên lãng. Hai chúng tôi không muôn sống đến lúc đó. Chúng tôi rất thông cảm với Tử tước Tacaghi 1. Con người ta cần phải ra đi, trong lúc còn được yêu mến. Vì thế chúng tôi rời bỏ thế giới này trong tình thương yêu của gia đình và của vô vàn bạn hữu cùng các bậc đồng nghiệp, đồng niên". Đó là bức thư họ để lại cho con gái. Còn cho các cháu thì họ viết thế này: "Cũng sắp đến ngày nước Nhật được hoàn toàn độc lập, song con đường tới tương lai vẫn còn đen tối lắm. Nên những người trẻ tuổi từng biết đến nỗi khủng khiếp của chiến tranh nay thực sự muốn hòa bình, họ cần phải đi theo tư tưởng của Gandhi vốn phủ nhận việc sử dụng bạo lực. Chúng tôi đã sống quá lâu và trở nên bất lực trong việc dẫn dắt người khác và cả bản thân mình đi theo con đường mà chúng tôi cho là duy nhất đúng. Cố sống đến cái "tuổi đáng ghét" có nghĩa là chúng tôi sẽ xóa bỏ hết cuộc sống đã qua cho tới phút này. Chúng tôi muốn được nhớ đến trong ký ức của các cháu như một người ông và một người bà tốt".
Đọc đến đó Yasuco im lặng, Singo ngoảnh mặt đi và chăm chú nhìn những cây anh đào ở ngoài vườn.
- Họ đã bỏ nhà ra đi, sau đó có ghé lại chỗ người chị gái của ông chồng ở Osaca rồi từ đó biệt tăm. - Bà Yasuco nói thêm, mắt không rời tờ báo.
- Thế còn bà vợ có để lại lời vĩnh biệt không? - Singo hỏi.
- Cái gì cơ? Bà vợ ấy à? - Yasuco ngạc nhiên hỏi lại.
- Thì bà vợ chứ gì nữa! Một khi hai người đã định cùng chết, thì việc mỗi người đều trăng trối lại cũng là tự nhiên thôi. Bà thử tưởng tượng nếu tôi với bà mà định chấm dứt cuộc đời thì bà cũng muốn để lại vài lời chứ?
- Tôi chẳng cần trăng trối gì cả. - Yasuco đáp nhanh. - Chỉ có bọn trẻ khi định tự tử là cả anh cả nàng đều viết thư tuyệt mệnh để lại thôi. Bởi vì họ muốn kể cho người biết là lúc còn sống họ đã bị chia duyên rẽ thúy như thế nào. Còn tôi thì có gì mà muốn nói đến mức ấy! Khi người ta đã là vợ chồng của nhau, thì chỉ cần người chồng để lại thư tuyệt mệnh là đủ.
- Quả thực bà nghĩ thế à?
- Đó ông xem, nếu tôi muốn chết một mình thì mọi cái sẽ khác hẳn.
- Trong tâm hồn bà sẽ dồn tích lại vô vàn đau khổ đắng cay chứ gì?
- Chẳng phải là cũng thế cả hay sao? Tôi đã quá nhiều tuổi để...
Singo cười xòa cắt ngang:
- Thôi, tôi hiểu rồi. Đó là lời tuyên ngôn của một bà lão còn lâu mới đến lúc chết, mà cũng chẳng định làm chuyện đó. Thế còn con thì sao, Kikuco?
- Con ấy ư? - Kikuco hỏi lại một cách do dự.
- Giả sử như con với Suychi định tự sát thì con có muốn để lại thư tuyệt mệnh không?
Nói đến đó Singo hiểu ngay là lẽ ra không được hỏi như vậy.
- Con không biết nữa. Có thể là nếu xảy ra việc như vậy thì... - Kikuco đáp và ngước nhìn ông bằng đôi mắt to long lanh nước mắt. - Nhưng con có cảm giác là con sẽ muốn để lại vài lời cho ba.
Yasuco thì chưa hề mảy may nghĩ đến cái chết, Singo thầm nghĩ, song Kikuco thì dường như không xa lắm với ý nghĩ đó. Singo đã tưởng Kikuco sẽ òa lên khóc, nhưng cô đã đứng lên và bỏ ra ngoài.
Như vậy là người ta cho rằng, nếu hai vợ chồng định chấm dứt cuộc đời thì chỉ cần người chồng để lại thư tuyệt mệnh là đủ. Phải chăng người đàn bà ủy thác cho chồng mình làm hộ việc đó, hay bà ta coi mình cùng làm một với người chồng? Câu hỏi làm Singo day dứt mãi.
Cũng có thể người vợ của ông chủ tịch hãng kia không có ý định kết liễu cuộc đời, song bà đã theo chồng một cách không hối tiếc. Quả là rất lạ, rất lạ...
Rồi ở đây người vợ của chính Singo cũng đã tuyên bố rằng nếu họ quyết định tự sát thì bà sẽ không để lại lời trăng trối. Sẽ chỉ cần đến lời của ông là đủ.
Người đàn bà tự nguyện theo chồng đi đến cái chết. Đôi lúc cũng xảy ra ngược lại, song thường thì người vợ vẫn theo chồng. Đặc biệt là trong trường hợp của Singo, một người vợ như thế đang ngồi ở đây ngay sát cạnh ông.
- Ông quá cưng con bé nên động một tí là nó khóc đấy! - Bà Yasuco nhận xét. - Và tuy cưng chiều nó, nhưng ông chả chịu đả động gì về chuyện chính yếu nhất. Cả đối với Fusaco cũng vậy.
Singo lặng thinh ngắm nhìn cây anh đào nở đầy hoa. Những cánh hoa đầy đặn và lộng lẫy bồng bềnh trôi trong sắc trời chiều xanh ngắt. Cả đường nét lẫn màu sắc của vòm tán không hề gợi nghĩ đến sức mạnh, nhưng cây hoa dường như vẫn choán hết cả bầu trời. Nó đang ở vào giai đoạn nảy nở rực rỡ nhất, và khó có thể tin rằng một vẻ huy hoàng dường ấy lại sắp sửa mất đi. Những chiếc lá sắc trắng từ trên cành rụng xuống lả tả và phủ lên mặt đất xung quanh gốc cây như một tấm thảm.
- Khi ta nghe nói đến một người trẻ tuổi từ giã cuộc đời, ta thấy dửng dưng. Nhưng nếu đó là một người già thì ta thấy đau nhói trong tim. - Bà Yasuco trầm ngâm nói. - "Con người ta cần phải ra đi lúc còn được yêu mến" Chà... Còn báo hôm qua có viết chuyện một ông già sáu mươi mốt tuổi đưa đứa cháu mười bảy tuổi bị bại liệt từ quê lên Tokyo để nằm nhà thương làm phúc. Ông già đã cõng thằng bé đi vòng vòng để cho nó xem thành phố. Thằng bé nhất định không chịu vào nhà thương và cuối cùng ông cụ đã xiết cổ nó bằng một chiếc khăn.
- Vậy ư?
Singo thờ ơ nói cho qua chuyện và ông nhớ lại mình đã xúc động thế nào khi đọc bài báo về các vụ nạo thai ở những thiếu nữ, và rồi ban đêm ông đã nằm mơ thấy chuyện ấy. Hai vợ chồng ông thật khác nhau biết chừng nào!
2
Singo dẫn Fusaco và con bé Satoco đi xem đám rước lễ.
Khi ba người đang đi trên đường phố chính dẫn đến chỗ tượng Phật thì Singo bỗng để ý đến một cây sơn trà lùn ở trước cửa một kiốt bán thuốc lá. Ông ghé lại mua thuốc và ngắm cây hoa. Những cánh hoa kép hơi quăn trông rất đẹp.
Người chủ quán giảng giải cho Singo rằng giống cây cảnh hoa kép không phải là sự lạ và ông ta có trồng được một cây sơn trà duy nhất có hoa đơn bình thường. Sau đó, ông ta dẫn ông Singo vào mảnh vườn phía sau kiốt. Cây sơn trà cảnh tí hon đã khá lâu năm có vòm lá xum xuê trông rất gợi cảm.
- Tôi phải ngắt bớt nụ hoa đi! - Chủ nhân giải thích. - Vì nếu không thì cây sẽ kiệt sức.
Sau đó ông ta giảng giải về cách trồng cây cảnh và về tình hình chơi cây cảnh ở Kamakura.
- Rất cảm ơn ông. - Singo nói khi chia tay. - Tôi ghen với ông đấy!
- Tôi chưa tạo được những kiệt tác đâu, thưa ngài. Trong vườn tôi chỉ có cây sơn trà này là quý hơn cả. Khi ta chăm cây hoa đó, ta cảm thấy có trách nhiệm nặng nề để giữ cho nó không bị khô hay xổ dáng. Đại loại là việc này cũng như một thứ thuốc chống bệnh lười nhác...
- Fusaco, con có nhớ cái dạo bỏ trốn về quê năm ngoái không? - Singo hỏi khi cha con ông tiếp tục đi trên đường phố.
- Con có bỏ trốn đâu! - Fusaco cãi lại.
- Trong khu nhà cũ ở đó có còn cây cảnh nữa không?
- Con không để ý.
- Vậy là con không để ý hả...Dễ đã bốn mươi năm trôi qua rồi! Hồi ấy ông cụ đã trồng những cây cảnh đó, ông ngoại con. Mà mẹ con thì cũng hơi vụng một chút nên ông cụ toàn phải bảo bác con giúp. Bác con thì thật là đẹp! Con sẽ không tin mẹ và bác là hai chị em nữa cơ. Ngay giờ đây ta vẫn còn thấy rõ bác ấy mặc khuông đen và mái tóc xõa xuống trán, như đang ở trước mắt vậy...Sáng sáng bác ấy dậy từ lúc trời còn chưa tỏ để dọn tuyết trên các chậu hoa. Ở Sinano trời rất lạnh và miệng bác thở ra hơi trắng...Thứ hơi trắng từng phảng phất mùi hương tươi mát của trinh nữ.
Fusaco thuộc một thế hệ khác, những mẩu chuyện của ông bố không làm chị thấy xao xuyến và Singo đắm chìm vào trong những kỷ niệm của riêng mình.
- Cây sơn trà vừa rồi dễ đến ba mươi tuổi. - Singo lẩm bẩm.
Quả tình ông thấy cây hoa đã lâu năm. Phải cần bao nhiêu thời gian để cho một cây cảnh tí xíu có được một vòm lá trông mạnh mẽ và hùng vĩ đến như vậy?
3
Khi ba ông con đến gần ngôi chùa, đoàn rước lễ của các chú tiểu đã diễu trên con đường lát đá phiến, hai bên trồng cây, phía trước pho tượng Phật lớn. Các chú bé hẳn đã đi được một đoạn đường dài, một số chú hoàn toàn kiệt sức.
Fusaco bế con lên tay để nó xem cho rõ. Cô bé Satoco nhìn chằm chặp như bị thôi miên vào các tấm áo thụng nhiều màu rực rỡ của các chú tiểu trong đám rước.
Singo từng nghe nói ở chùa này có một tảng đá, trên đó có khắc bài thơ của nữ sĩ Akico Yosano. Mấy ông còn rời khỏi đám rước để đi tìm tảng đá.
- Đây rồi, quả thật là ở đây đề "Sakiamuni..." đây này! - Singo nói.
Ông rất kinh ngạc khi thấy Fusaco không biết bài thơ nổi tiếng đến như vậy.
Akico Yosano đã viết ở đây:
"Kamakura rạng danh với tượng Quán âm Bồ tát và Phật Thích ca lộng lẫy tự ngàn xưa." Chỉ có điều là ở đây không phải tượng Phật Thích ca mà là tượng Phật Adiđà. - Singo giải thích, - Sau này nhà thơ đã biết mình nhầm nên đã sửa lại bài thơ, song bản cũ đã quá nổi tiếng mất rồi nên cứ được lan truyền. Có lẽ việc thay chữ Phật Adiđà vào đây sẽ làm câu thơ hỏng mất vần điệu, nên rốt cuộc người ta vẫn tạc vào đây theo bản trước kia. Trên tảng đá này, ngay trước mắt chúng ta đã ghi tạc một sự sai lầm.
Cách đó một chút, ở một chỗ được quây rèm, người ta bán thứ trà lễ ở ngoài trời, dưới ánh nắng, nước trà có một màu sắc lạ. Con bé Satoco kêu trà đắng và đòi uống nước.
- Con muốn uống nước! Đi mẹ, uống nước!...Satoco kêu váng lên, mắt vẫn không rời các bé gái thuộc đội múa đang ngồi nghỉ trước mặt nó.
Các vũ nữ nhỏ tuổi mặc kimono ngày hội nhiều màu rực rỡ với tay áo dài đến tận đất, mặt mũi trang điểm rất đậm. Phía sau lưng các em có mấy cây đào nở đầy hoa. Những cánh hoa bị chìm đi bởi màu sắc rực rỡ của những tấm áo, trông có vẻ nhợt nhạt và không có sức sống.
- Con muốn kimono-o, mẹ! Kimono-o! - Satoco lại réo lên.
Fusaco đứng dậy, nắm tay con và đưa nó ra ngoài, nhưng con bé vẫn ngoái nhìn chòng chọc vào những tấm áo và không ngừng kêu khóc.
- Ông ngoại đã hứa mua cho con kimono vào ngày lễ "Ba - năm - bẩy" 2 tới rồi đấy. - Fusaco nói đầy vẻ khiêu khích. - Khổ thân con bé cho đến giờ vẫn chưa được mặc kimono. Nó chỉ mới được mặc thứ kimono mùa hè chắp nối...
Khi đến một kiốt, Singo hỏi xin nước, Satoco uống liền một hơi hết hai cốc đầy.
Mấy ông cháu đã đi xa ngôi chùa và gần về đến nhà thì từ phía sau họ, một bé gái mặc tấm kimono nhiều màu sắc giống như của đội múa đi vượt lên. Cô bé đi cùng với mẹ. Singo bỗng chợt có cảm giác là có sự gì đó sắp xảy ra và ông nắm lấy vai Satoco, nhưng đã muộn.
- Kimono-o! - Satoco hét lên và túm lấy ống tay áo của cô bé kia.
- Thả ra! - Cô bé kêu lên, nhưng nó vấp phải tay áo và ngã xuống đường.
Singo kinh hoàng nhắm nghiền mắt lại.
Cô bé sẽ bị chiếc xe đang chạy tới cán chết, ông thoáng nghĩ.
Ông nghe thấy tiếng mình thét lên và cảm thấy rằng rất nhiều người khác cũng kêu thét lên.
Tiếng phanh xe hơi rít lên và chiếc xe đã đứng khựng lại kịp. Ba bốn người tách ra khỏi đám đông đang lặng đi vì sợ hãi và lao bổ đến chỗ cô bé. Cô bé bật dậy, túm lấy váy mẹ và lúc đó mới kêu thét lên lanh lảnh.
- Ôi, may quá, thoát rồi! - Có tiếng ai đó nói. - May là phanh xe tốt thật... Một chiếc xe đáng tiền.
- Nếu đó mà lại là thứ xe tòng tọc thì con bé đi đời rồi! - Tiếng ai đó nói thêm.
Satoco sợ chết khiếp. Mắt nó lộn ngược như thể lên cơn động kinh.
Fusaco cúi lạy và xin lỗi người mẹ đứa trẻ. Chị hỏi han xem cô bé có bị đau không và áo có bị rách không. Người mẹ kia chỉ đứng lặng người và nhìn lơ đãng đi đâu đó. Cuối cùng cô bé cũng nín khóc. Mặt nó nhòe nhoẹt son phấn, nhưng đôi mắt nhỏ sáng lóng lánh như thể vừa được rửa sạch.
Singo không nói một lời nào cho đến khi về tới nhà. Từ xa ông đã nghe tiếng đứa cháu nhỏ ở nhà khóc. Có cả tiếng Kikuco đang hát ru nó. Satoco òa lên khóc, có thể là vì nó nghe thấy em mình khóc hoặc là vì nó cảm thấy đã về đến chỗ an toàn.
Fusaco vạch áo ra, đón lấy đứa nhỏ từ tay Kikuco và cho nó bú:
- Xem này, xem này, cả người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh. Nhìn đây, mồ hôi chảy thành dòng xuống khe ngực tôi này...
Singo ngoảnh mặt đi nhìn bức tranh của Rocan 3 treo trên tường. Bức "Bão tố ở trên đời" ấy Singo đã mua được khi tác phẩm của Rocan đang còn rẻ, song ông hơi ngờ rằng nó không phải là nguyên bản. Một người bạn đã bảo ông như vậy, còn bản thân ông không am hiểu mấy.
- Chúng tôi vừa đi xem hòn đá của Akico. - Singo nói với con dâu. - Bài thơ trên đó được tạc theo nét chữ của nhà thơ và mang tựa đề là "Sakiamuni" 4.
- Thế ạ?
4
Ăn tối xong, Singo đi ra phố. Ông đi vòng qua một lượt các xưởng may kimono và các cửa hàng đồ cũ.
Ông không tìm được món đồ thích hợp cho Satoco.
Ông thấy lòng mình nặng trĩu. Trong đầu ông lởn vởn những dự cảm u ám.
Có thể nào một bé gái nhỏ mà lại đòi tấm áo đẹp của một đứa bé khác một cách dữ dằn như thế được? Có lẽ lòng ganh tị và tính tham lam ở Satoco được thể hiện mạnh hơn những trẻ khác cùng tuổi? Dù thế nào thì đối với Singo, hành vi vừa rồi của nó trên đường phố cũng là hết sức điên rồ.
Không lẽ Yasuco lại chỉ may áo cho cháu bằng vải cắt ra từ những tấm kimono cũ của mình? Biết đâu Fusaco chẳng nói điêu ngoa? Những lời nói của cô khá là nanh nọc. Mà Fusaco muốn ông mua kimono hay là váy đầm cho cháu nhỉ?
"Ta quên rồi"', Singo lẩm bẩm.
Ông bỗng nghĩ là nếu hai vợ chồng ông quan tâm nhiều hơn đến con gái mình thì nó đã không xấu tính như vậy và hẳn là nó sẽ làm vui lòng ông bà với một đứa cháu dễ thương. Cảm giác có lỗi làm Singo thấy chân nặng như chì.
"Tôi đã biết mọi cái thế nào trước khi tôi được sinh ra, vì thế tôi không được may mắn có cha mẹ để mà yêu quý. Tôi không có cha mẹ, vì thế tôi không có cả con để nó yêu quý tôi".
Đó là những lời trong một vở Noh. Có điều những lời ấy chẳng giúp ông được gì.
"Đức Phật trước đã ra đi, còn đức Phật mới vẫn chưa tới. Tôi được sinh ra trong giấc mơ, tôi biết coi cái gì là thực bây giờ? Tôi đã may mắn được hóa kiếp thành người, điều mà vốn khó lắm thay"
Phải chăng sự hằn học và hung hăng mà Satoco thể hiện khi xông vào đứa trẻ mặc áo đẹp nọ là được di truyền từ người mẹ? Hay là từ người cha? Nếu là từ người mẹ thì Fusaco đã được thừa hưởng từ ai? Từ ông, hay từ Yasuco?
Nếu trước đây ông lấy người chị của Yasuco, hẳn là sẽ không có những đứa con như Fusaco hay đứa cháu như Satoco. Kể cũng thật bất ngờ, song Singo bỗng nhiên cảm thấy một nỗi khát vọng không sao kiềm chế nổi về một người đàn bà đã khuất bóng từ lâu, đến độ ông muốn được lao vào trong cánh tay người ấy.
Khi ông về đến nhà, Fusaco đã ôm con ngủ. Ông không nói với vợ và con dâu là ông vừa đi tìm mua kimono cho cháu. Fusaco hình như cũng không kể gì về chuyện xảy ra.
Singo đi về phòng mình. Lát sau Kikuco đem than bỏ vào hỏa lò cho ông.
- Ngồi xuống đây với ba một lúc đi con. - Singo đề nghị.
- Đợi con một chút nhé! - Kikuco đáp và biến đi để trở lại với một cái khay trên có một bình trà và mấy bông hoa.
- Hoa gì đây? - Singo hỏi và cầm một bông lên. - Trông như hoa chuông thì phải.
- Người ta bảo con là hoa huệ đen đấy ba ạ.
- Hoa huệ đen ư?
- Vâng. Cô bạn dạy con học trà đạo bảo thế. - Kikuco giải thích, đoạn lấy từ trong cái tủ ngăn ra một bình cắm hoa nhỏ.
- Thì ra là huệ đen! - Singo ngạc nhiên nói.
- Cô ấy kể với con là vào buổi lễ tưởng niệm ngày mất của Rikyu được tổ chức ở nhà bảo tàng, người giáo viên của trường Ensu có cắm một kiểu hoa gồm hai thứ huệ đen và trà trắng trong một cái bình bằng đồng thau cổ thắt. Sự kết hợp ấy mới tài tình đến kinh ngạc!
- Chà - chà!...
Singo thán phục ngắm nhìn những bông hoa huệ.
- Hôm làm lễ kỷ niệm, cô bạn con kể tuyết rơi đến hai mươi phân ấy. - Kikuco nói tiếp. - Lúc đó là tiết lập xuân, là lúc mà hoa huệ đen trông đẹp hơn cả. Chúng mọc ở tận trong núi kia, trên cao lắm!
- Màu của nó giống màu sắc sơn trà, phải không?
- Vâng. - Kikuco đáp và cho nước vào bình. - Cô bạn còn kể với con là năm nay có trình diễn những bài thơ làm trước khi chết của Rikyu và cả thanh kiếm mà ông đã dùng để tự sát.
- Úi chà! Con vừa bảo cô bạn con là gì nhỉ? Giáo viên dạy trà đạo phải không?
- Vâng ạ. Cô ấy góa chồng trong chiến tranh... Hồi trước cô ấy học hành chăm chỉ lắm nên bây giờ cũng có ích.
- Hoa huệ nhỏ hơn hoa chuông hay sao nhỉ?
- Dạ, chắc vậy.
- Lúc đầu thì tưởng nó là màu đen, nhưng thực ra là màu tím thẫm có pha sắc đỏ thắm rất đặc biệt, để mai ban ngày ta xem kỹ lại đã.
- Ồ đưa ra ánh nắng thì nó sẽ mất màu thực của mình đi và thành ra màu tím gần như trong suốt có lẫn sắc đỏ ba ạ.
Kikuco đặt bình hoa lên chiếc bàn con.
- Mấy chiếc mặt nạ cũng ở trong ngăn tủ mà lúc nãy con lấy lọ hoa...- Singo nói. - Đưa giùm chúng ra đây cho ba!
Ông đặt chiếc "Djido" lên.
- Cái này là một tư tưởng tốt đẹp. Nó là biểu tượng của tuổi xuân vĩnh viễn. Ta đã nói điều đó với con chưa nhỉ?
- Chưa ạ.
- Con có nhớ Tanizaki, cô gái trước đây làm ở chỗ ba không? Ba từng bắt cô ta đeo chiếc mặt nạ này. Và thật kỳ lạ, là cô lại trở nên hết sức hấp dẫn, khiến ba phải sững sờ.
Kikuco đeo chiếc mặt nạ vào.
- Buộc dây ở phía đằng sau phải không ạ? - cô hỏi.
Singo nhớ lại hôm mang mặt nạ về nhà, ông đã suýt hôn lên đôi môi đỏ thắm của chiếc Djido.
"Sống trong bưng bít chưa phải là đáng sợ, nếu hoa vẫn nở trong trái tim người..."
Và đó cũng là lời trong một vở Noh.
Singo thấy không đủ sức để nhìn Kikuco đang quay đi quay lại cái biểu tượng làm choáng váng đầu óc của tuổi xuân vĩnh cửu ấy.
Chiếc mặt nạ che gần hết cằm Kikuco và từ chỗ cằm lộ ra hai hàng nước mắt chảy dài xuống cổ cô. Những giọt lệ cứ nhỏ xuống, nhỏ xuống...
- Kikuco, nói cho ta biết, có phải hôm nay con gặp cô bạn của mình, là để hỏi ý kiến về việc con định dạy trà đạo, nếu con phải chia ly với Suychi, đúng không? - Singo nói.
Chiếc mặt nạ gật gật. - Nếu chúng con có phải chia tay, con vẫn muốn được ở lại đây với ba. Và con sẽ dạy học ở đây.
Những lời ấy phát ra từ dưới chiếc mặt nạ, nhưng rất rõ ràng.
Có tiếng con bé Satoco khóc. Từ phía vườn vẳng lại tiếng chó sủa.
Trong cả tiếng khóc của đứa trẻ lẫn tiếng sủa của chó, Singo cảm thấy có điềm dữ. Còn Kikuco thì hình như đang lắng nghe xem, có phải Suychi, kẻ đã bỏ nhà đến chỗ tình nhân ngay cả ngày hôm nay, một ngày chủ nhật đang về không?
Chú thích:
1 Nhân vật lừng danh trong hoàng tộc Nhật Bản đã bỏ nhà ra đi để tìm đến cái chết vào năm 1948, vì không chịu chấp nhận ý nghĩ về sự sụp đổ của giới quý tộc thượng lưu Nhật sau chiến tranh.
2 Tức là ngày 16 tháng 11, các trẻ lên ba, năm, bảy tuổi được mặc kimono mới đến chùa lễ Phật.
3 Rocan (1758 - 1831), thi sĩ đồng thời là nhà tu hành Nhật Bản.
4 Sakiamuni: Thích ca mâu ni, một trong hai tên gọi của Phật tổ Như Lai
CHƯƠNG X
Nhà Của Chim Ó
1
Cả mùa đông lẫn mùa hè, cứ đúng sáu giờ, tiếng chuông của ngôi đền sau nhà lại vang lên. Mỗi khi nghe thấy nó, Singo lại tự bảo là mình đã tỉnh giấc sớm quá.
Sáu giờ vào mùa đông quả là quá sớm, song ít có khi nào đã thức dậy rồi mà Singo lại yên trí nằm thêm được nữa, khi ấy ông thường ra mở thùng như để lấy báo.
Kể từ khi nhà không còn người giúp việc, sáng ra Kikuco phải làm hết việc nhà.
- Ba đã dậy đấy à? Thật là sớm quá!... - Cô vẫn thường nói với Singo như vậy mỗi sáng. Còn ông thì làu bàu vẻ có lỗi:
- Ờ, ba sẽ nằm thêm một lúc nữa.
- Vâng, thế là tốt nhất đấy, vì con vẫn chưa chuẩn bị xong nước nóng...
Cứ nghe thấy tiếng cô mỗi sớm ngủ dậy là tâm hồn ông lại ấm áp hẳn lên vì cảm nhận thấy sự có mặt của con người.
Đã là giữa tháng năm, một buổi sáng, khi thức giấc, Singo nghe thấy tiếng chim Ó kêu.
"Nó lại đến đây rồi"' ông lẩm bẩm và lắng tai nghe.
Hình như con chim lượn vài vòng trên mái nhà rồi bay về phía biển.
Singo trở dậy, rửa mặt đánh răng rồi ra cửa dõi nhìn lên bầu trời. Con chim đã khuất dạng, tiếng kêu của nó như một giọng trẻ con thánh thót đã xuyên qua không trung và tan vào trong cái lồng của bầu trời.
- Kikuco, con có nghe thấy tiếng chim Ó của chúng ta kêu không?
Singo gọi về phía bếp, nơi Kikuco đang dỡ món cơm nóng bốc khói nghi ngút vào một cái tô lớn bằng gỗ.
- Không ạ. Con mải nghĩ quá nên chẳng nghe thấy gì hết. - Kikuco trả lời.
- Nó lại về với chúng ta đấy.
- Ôi hay quá!
Một khi con Ó đã về đây, thì lũ chim sâu cũng bay về.
- Vâng, cả quạ nữa.
- Quạ ấy ư? - Singo hỏi lại và bật cười vì cái ý nghĩ rằng một khi đã nhận chim Ó là "của nhà ông" thì lũ quạ cũng là "của nhà ông" luôn. Thì ra nhà của chúng ta không chỉ là chỗ ở của người, mà còn là của chim chóc.
- Sắp tới còn có cả rận và muỗi nữa đấy ạ.
- Ối chà, nào thôi đi! Nhà ta làm gì có rận với muỗi? Hơn nữa, những giống ấy không hoạt động vào mùa đông.
Kikuco nhìn bố chồng và mỉm cười hỏi:
- Dịp này cả con rắn cũng sẽ bò ra, phải không ạ?
- Cái con rắn bự đã làm con hết hồn ấy hả?
- Vâng.
- Ồ nó là chủ nhân ở nơi đây.
Có một lần - đó là vào mùa hè năm ngoái - khi đi chợ về, Kikuco trông thấy ở trước cửa bếp, phía ra vườn, một con rắn ráo to tướng... Cô lao vọt vào nhà, người run bắn lên vì sợ. Nghe tiếng hét của cô, con Teru chạy xổ đến sủa như điên, đầu cúi thấp sẵn sàng ngoạm con rắn. Nó định lao tới mấy lần nhưng rồi đều chùn lại.
Con rắn ngóc đầu lên, phóng cái lưỡi đỏ ra rồi không thèm nhìn con chó, nó trườn đi dọc theo ngưỡng cửa bếp ra vườn. Theo lời của Kikuco thì con rắn dài gấp đôi ngưỡng cửa, nghĩa là khoảng hai mét và to hơn cổ tay cô.
Trước sự hoảng sợ của Kikuco, bà Yasuco giảng giải tỉnh như không:
- Nó là chủ nhân của chốn này và đã sống ở đây từ rất lâu trước khi con về làm dâu trong nhà kia.
- Nếu lúc ấy con Teru cắn nó thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ?
- Chẳng có chuyện gì xảy ra hết. Teru sẽ thua thôi. Con rắn ráo mà quấn lấy nó thì... Có điều con chó cũng biết cái gì sẽ giáng xuống đầu nó và vì thế nó chỉ sủa thôi.
Song Kikuco thì sợ chết khiếp và rất lâu sau cô không dám bén mảng đến trước cửa bếp mà chỉ ra vào qua cửa chính. Cái ý nghĩ rằng có một giống vật ngoằn ngoèo to lớn như vậy ẩn náu đâu đó trên trần hoặc dưới sàn nhà làm cô ăn ngủ không yên.
Hẳn là con rắn ráo ấy sống ở trên đời và hiếm khi thấy nó xuất hiện ở trong vườn.
Khu vực phía sau nhà không phải của gia đình Ogata. Chính Singo cũng không hiểu nó thuộc quyền sở hữu của ai nữa. Một triền dốc gồ ghề từ chân đồi kéo dài đến mảnh vườn. Đối với các giống vật thì mảnh vườn là một phần kéo dài tự nhiên của triền dốc và các giống cây cỏ trên đồi mọc lan cả xuống vườn.
- Đó, nó đã trở lại rồi! - Singo lẩm bẩm rồi lắng nghe và kêu lên mừng rỡ. - Kikuco, con Ó đang về đây!
- Vâng, bây giờ thì con nghe thấy rồi, - Kikuco đáp và ngước nhìn lên.
Những tiếng kêu xao xác của chim Ó ngân vang trong không trung.
- Chắc nó đã tìm được mồi và trở về tổ đây. - Kikuco nói.
- Hay là ta để cá cho nó ăn nhỉ?
- Chó sẽ ngửi thấy và ăn mất ngay thôi ạ.
- Nhưng ta để lên cao chứ!
Kể cả năm ngoái và năm kia cũng vậy, mỗi khi Singo thức dậy mà nghe thấy tiếng Ó kêu là tim ông tràn đầy một tình cảm trìu mến. Có vẻ là những thành viên khác trong nhà cũng có một tình cảm tương tự. Dù là thế nào đi nữa thì tất cả đều gọi con chim là "chim của chúng ta".
Có điều là Singo không biết chắc chỉ có một con chim hay là một đôi, ông có cảm giác là trước đây nhiều năm, ông đã từng thấy một cặp Ó lượn trên đầu nhà mình.
Singo cũng không tin là năm nào ông cũng nghe tiếng của cùng một con Ó ấy cả. Biết đâu các thế hệ chim chẳng nối tiếp nhau?
Chẳng có gì lạ nếu những chim già chết đi và giờ đây con cái của chúng đang kêu vang phía trên ngôi nhà.
Ông đặc biệt thích thú với cái ý nghĩ rằng những con chim cũ năm ngoái đã chết và mọi người trong nhà không biết chuyện đó, khi mắt nhắm mắt mở thức dậy nghe thấy tiếng Ó kêu thì lại cứ nghĩ rằng đó là con chim Ó "của họ".
Ở Kamukura có rất nhiều đồi, vì thế thật khó mà giải thích được vì sao chim Ó lại chọn đúng quả đồi nhà Singo.
"Tôi đã gặp được cái khó gặp đến như vậy, tôi đã nghe được cái khó nghe đến như vậy" Có thể là ở đây sự việc cũng như thế trong chuyện con chim ó.
Một khi con chim đã chọn nhà của họ để làm tổ, thì đối với họ tiếng hót của nó là hay nhất.
2
Trong nhà chỉ có Singo và Kikuco dậy sớm nên sáng nào hai cha con cũng trò chuyện với nhau được một lúc, còn với Suychi thì Singo chỉ có dịp nói chuyện những khi họ ngẫu nhiên cùng đi một chuyến tàu.
Mỗi khi tàu chạy qua chiếc cầu sắt và ở phía xa hiện lên cánh rừng nhỏ Ikegami, Singo lại thầm bảo: "À, ta đã gần đến rồi". Ông đã có thói quen ngắm cảnh khu rừng từ trên con tàu đi Tokyo.
Chính vì thế mà Singo không hiểu nổi, vì sao đã nhiều năm qua lại nơi này, mà mãi đến gần đây ông mới phát hiện ra hai cây thông. Chúng cao vượt hẳn những cây khác. Ngọn của cây này hướng về phía cây kia, dường như muốn chạm hẳn vào nhau, còn cành của chúng len lẫn như thể sẵn sàng ôm lấy nhau.
Đó là hai cây thông cao nhất của cánh rừng mà lẽ ra Singo phải để ý đến chúng từ trước. Giờ đây thì chúng thu hút toàn bộ sự chú ý của ông.
Sáng nay cảnh vật rừng mờ mịt qua màn mưa xối xả.
- Suychi! - Singo quay sang hỏi con trai. - Kikuco nó làm sao vậy?
- Đâu có sao ạ? - Suychi đáp, mặt vẫn cắm vào tờ báo.
- Có chuyện gì vậy? - Singo hỏi lại ôn tồn.
- Thấy cô ấy kêu là bị đau đầu.
- Thế hả? Vậy mà mẹ anh cho tôi biết là hôm qua nó đi Tokyo. Mãi đến xẩm tối nó mới về và đi nằm ngay. Trông nó khác lắm nên mẹ anh lo là có chuyện gì xảy ra với nó ở Tokyo. Tối qua nó bỏ cả ăn, và khi anh về đến nhà lúc chín giờ thì nó òa lên khóc, phải không? Tuy nó cố giấu, nhưng tôi với mẹ anh vẫn nghe thấy.
- Vài ngày nữa vợ con sẽ khỏi thôi ạ. Chẳng có gì nghiêm trọng đâu.
- Chắc không? Nếu chỉ vì đau đầu thì hẳn Kikuco đã không khóc nghe đến não lòng như vậy. Mà sáng nay hình như nó cũng khóc đấy.
- Vâng.
- Chị anh giận vì khi mang đồ ăn sáng vào cho Kikuco thì nó lại ngoảnh mặt đi. Và thế nên tôi mới hỏi anh, thực sự chuyện gì đã xảy ra?
- Hình như tất thảy những ai sống trong nhà này đều chú ý đến Kikuco thì phải! - Suychi đáp lại và liếc nhìn cha mình. - Nói cho cùng thì cô ấy cũng có khi đau ốm chứ, phải không ạ?
- Hừ, thế căn bệnh của nó tên là gì vậy? - Singo giận dữ căn vặn.
- Nạo thai, - Suychi rít lên qua kẽ răng.
Singo giật mình và nhìn đăm đăm vào hàng ghế trước mặt. Ở đó có hai người lính Mỹ đang ngồi. Sau đó ông lại tiếp tục cuộc nói chuyện với con trai, trong lòng tin chắc rằng những người Mỹ kia không hiểu một tiếng Nhật nào cả.
- Nó đã đi đến chỗ bác sĩ à? - Singo hạ giọng hỏi.
- Vâng. - Suychi đáp và gập tờ báo lại.
- Và lại trở về ngay trong ngày ư?
- Vâng.
- Tại sao? Ý anh như vậy hả?
- Không ạ, tự cô đã quyết định như vậy. Cô không cho ai nói vào một lời nào.
- Kikuco ấy hả? Anh nói láo?
- Con nói thật mà.
- Nhưng vì sao mới được chứ? Điều gì đã khiến vợ anh làm như vậy?
Suychi im lặng.
- Anh không nghĩ là lỗi của anh sao?
- Có thể. Nhưng cô ấy đã tuyên bố là ngay thời điểm này cô sẽ không đẻ dù bất cứ lẽ gì.
- Anh có thể ngăn nó, nếu anh muốn.
- Lần này thì chưa chắc.
- "Lần này" là nghĩa thế nào?
- Ba thừa hiểu là thế nào rồi. Nói vắn tắt thì Kikuco không muốn có con trong khi con đang...ở trong tình trạng thế này.
- Trong khi anh còn chưa cắt đứt với cô ả kia chứ gì?
- Vâng, đúng thế.
- Cái "Vâng, đúng thế" là nghĩa lý thế nào hả?
Singo nói mà cảm thấy giận dữ đến nghẹt thở:
- Đối với Kikuco, điều đó ngang bằng với tự sát, mày có hiểu không? Nó đã hủy hoại bản thân mình, chứ không phải là thể hiện một sự cố chấp ngu ngốc nào hết.
Suychi chột dạ vì những lời nói gay gắt của ông bố.
- Mày đã giết chết tinh thần của nó và nói theo nghĩa nào đó thì với nó thế là hết.
- Có điều tinh thần của cô ấy, nếu ba muốn biết, thì vẫn còn mạnh mẽ đấy.
- Thì chẳng lẽ nó không phải là đàn bà? Là vợ của mày? Nếu mày thể hiện lấy một chút dịu dàng, quan tâm, Kikuco hẳn đã vui mừng sinh con, mày chưa rõ hay sao? Nó sẽ không thèm để tâm đến việc mày có nhân tình nữa kia?
- Vấn đề là ở chỗ cô ấy lại quan tâm cơ chứ!
- Kikuco biết rất rõ là mẹ anh mong chờ có cháu nội. Và chính vì thế mà nó cảm thấy có lỗi vì mãi vẫn chưa có con. Vậy mà nó đã bỏ đi đứa bé mà nó thành tâm mong đợi, và đó cũng chỉ vì anh đã chà đạp tâm hồn nó.
- Nhưng đâu có phải hoàn toàn như vậy ạ... Chung quy cũng chỉ tại cô ấy quá xét nét chấp nhặt mà thôi.
- Chấp nhặt ư?
- Cô ấy bảo là sẽ lấy làm khó chịu khi phải sinh con trong một tình cảnh như vậy...
- Hừm...
Chuyện đó thì đã là vấn đề riêng của vợ chồng họ rồi và Singo bắt đầu thấy không chắc là Suychi có xúc phạm vợ và làm cho cô ta ghê tởm đến mức ấy nữa hay không. Tuy nhiên ông vẫn tuyên bố.
- Tôi không thể tin được điều đó. Dù là vợ anh có nói gì và làm gì, thì đó cũng không phải là Kikuco thực nữa. Còn người chồng một khi đã đi đến chỗ thắc mắc là vợ mình chấp nhặt hay quỷ quái gì đấy, thì điều đó cũng chỉ chứng minh rằng anh ta hầu như không yêu vợ. Có người chồng bình thường nào mà lại đi xem trọng những sự làm mình làm mẩy của vợ mình cơ chứ? - Nới đến đây Singo thấy không còn vững tin như trước. - Tôi cũng không hiểu mẹ anh sẽ nói gì nếu biết được là vừa để mất một đứa cháu nội nữa đây...
- Ồ ít ra mẹ con cũng yên tâm là Kikuco có thể sinh nở được.
- Cái gì? Anh có thể đảm bảo được là giờ đây nó vẫn còn giữ được khả năng ấy hả?
- Đảm bảo chứ ạ, tất nhiên.
- Chỉ những kẻ không biết sợ Trời Phật và không có lấy một chút tình yêu đối với mọi người mới có thể ăn nói như vậy. - Nói thế kể cũng hơi quá, nhưng mà thôi... Thực ra mọi cái đơn giản hơn rất nhiều.
- Ngược lại, chẳng đơn giản một chút nào hết. Hãy thử nghĩ và sẽ hiểu. Nếu đơn giản đến như thế thì Kikuco đã không đau khổ.
- Thì chính con, nếu đặt ra câu hỏi, con cũng muốn có con. Nhưng con không chắc là trong tình trạng thế này lại có thể sinh ra được một đứa con bình thường.
- Tôi không biết tình trạng của anh thế nào, song tình trạng của Kikuco thì chẳng làm sao cả. Chỉ có anh là lúc nào cũng ở trong tình trạng tồi tệ mà thôi. Kikuco là một con người khác thế. Anh không mẩy may nghĩ đến việc tránh cho phải ghen tuông và vì thế nó mới bỏ đứa con đi đó. Và chắc là cũng không chỉ có thế thôi đâu!
Suychi sửng sốt nhìn cha.
- Mày cứ thử từ chỗ cái con nhân tình của mày bò về mà say khướt như một con lợn rồi gác đôi giầy bẩn thỉu lên cho Kikuco nó cởi một lần nữa...
3
Trong ngày hôm đó, Singo có việc phải ghé vào nhà băng và mời người bạn là viên chức ở đấy đi ăn trưa. Họ ngồi với nhau ở nhà hàng cho đến hai rưỡi chiều. Sau đó, Singo gọi điện cho hãng và về thẳng nhà.
Kikuco đang ngồi ở ngoài hiên với đứa cháu nhỏ trong lòng.
Nhìn thấy Singo, cô tỏ vẻ ngạc nhiên và định đứng dậy.
- Cứ ngồi yên, ngồi yên! - Singo nói. - Sao con không nằm nghỉ? Chẳng phải là con nằm thì sẽ tốt hơn sao?
- Vâng. Con định cho cháu bé hóng gió một chút thôi...
- Thế Fusaco đâu?
- Chị ấy đến bưu điện cùng với Satoco ạ.
- Nó có việc gì ở đấy đâu nhỉ? Bỏ con bé ở nhà mà đi được...
- Nào, đợi mợ một chút nghe con! - Kikuco nói với đứa bé. - Bây giờ mình sẽ mang quần áo lại cho ông ngoại thay nhé.
- Không cần. Con cứ lo cho nó đi. - Singo bảo cô.
Kikuco ngước nhìn ông với khuôn mặt tươi cười. Giữa đôi môi của cô hiện lên hàm răng đều sít. Cô đặt đứa bé xuống sàn để thay đồ lót cho nó. Con bé co ngay hai chân lên và đưa tay nắm. Nó cử động chân thành thạo hơn là tay.
Trên trời có một máy bây Mỹ bay ngang qua. Giật mình vì tiếng gầm, đứa bé nhìn chăm chăm lên quả núi sau nhà. Không nhìn thấy chiếc máy bay đâu, nhưng cái bóng khổng lồ của nó lướt nhanh trên sườn núi. Có thể đứa bé cũng nhìn thấy cái bóng. Trong đôi mắt thơ ngây của nó ánh lên nỗi ngạc nhiên làm Singo giật mình.
Nó còn chưa có khái niệm thế nào là những trận ném bom đâu.
- Hiện giờ đã có nhiều trẻ sinh ra sau chiến tranh. - Singo nói và nhìn vào mắt đứa cháu, ánh ngạc nhiên trong đó đã tắt. - Chà, giá mà ta chụp được ảnh đôi mắt của nó nhỉ. Mà lại có in hình chiếc máy bay trong đó. Còn bức ảnh thứ hai sẽ là...Một đứa bé, thân thể tan nát vì bom đạn, ông định nói như vậy.
Chút xíu nữa ông đã buột ra, song ông dừng lại kịp vì nhớ ra là hôm qua Kikuco vừa phá thai. Thực ra thì trên trái đất có biết bao đứa trẻ giống như ở trong bức ảnh thứ hai Kikuco tay bế cháu, tay cầm mớ tã lót đi vào nhà tắm. Singo vào trong bếp. Liền sau đó bà Yasuco xuất hiện.
- Hôm nay ông về sớm nhỉ? - Bà ngạc nhiên thốt lên.
- Thế còn bà nãy giờ ở đâu?
- Tôi gội đầu. Trời mới hửng lên sau cơn mưa, thế là đầu tôi ngứa quá nên...
- Kikuco nó không nằm nghỉ à? - Singo hỏi khẽ.
- Thì nó mới dậy, nhưng mà... trông nó xanh mét ông nhỉ?
- Thế là mẹ con bà đẩy ngay cho nó con bé con đây hả?
- Lúc đầu con bé ngủ và Fusaco bế nó vào giường nhờ Kikuco trông giùm...
- Lẽ ra bà phải coi cháu.
- Thì phải rồi, nhưng tôi đã nói là con bé nó ngủ mà lại. Lúc nó dậy khóc thì tôi lại đang gội đầu. - Yasuco phân bua và đem kimono lại cho chồng.
Thấy Kikuco từ nhà tắm đi ra, Singo gọi:
- Kikuco, đem con bé lại đây nào.
Đứa bé được Kikuco dắt đi khi đến chỗ bà ngoại thì ôm lấy bà.
Yasuco bỏ bộ âu phục đang chải dở của chồng xuống và đón lấy cháu. Kikuco đem bộ đồ của Singo cất vào tủ quần áo và cô chậm chạp đóng cửa tủ lại với vẻ mặt đăm chiêu. Có thể cô đã nhìn thấy mình trong tấm gương gắn vào thành tủ.
- Kikuco, con nên nằm đi! - Singo khuyên.
- Vâng ạ. - Kikuco đáp và vai cô run lên rồi cứ quay lưng về phía cha mẹ chồng như thế cô lặng lẽ đi về phòng mình.
- Ông không thấy nó khác sao? - Bà Yasuco hơi nhíu mày hỏi chồng.
Singo không đáp.
- Nó không được khỏe, nhưng chẳng nói là bị làm sao. Nó không chịu nằm, trong khi đi thì không vững nữa. Tôi sợ là nó sẽ quỵ mất thôi. - Yasuco nói tiếp.
- Ừ, thì...
- Ông phải làm cái gì đó đối với chuyện của Suychi!
Singo gật đầu.
- Sao ông không nói chuyện thành thực với Kikuco đi? Tôi có thể đưa cháu đi chơi để cho hai bố con nói chuyện. À, bà cháu tôi đi đón mẹ nó, nhân tiện xem có gì mua cho bữa tối luôn thể. Ôi, mà Fusaco nó cũng trơ trọi một mình...
Yasuco ôm đứa bé đứng dậy. Singo hỏi:
- Có việc gì mà Fusaco phải đến bưu điện thế nhỉ?
Bà vợ giật mình quay lại.
- Tôi cũng lấy làm lạ... Có thể nó đi gởi thư cho Aikhara. Đã nửa năm nay chúng nó không sống với nhau rồi...
- Nếu chỉ để bỏ thư thì đâu có cần phải đi đến đó? Thùng thư cách nhà có hai bước chân mà!
- Có thể nó nghĩ rằng ở chỗ bưu cục thì đảm bảo hơn chăng? Chắc là khi nhớ đến Aikhara, nó không ngồi yên một chỗ được...
Singo mỉm cười cay đắng. Trong những lời của vợ ông có một chút lạc quan. Phải chăng sự lạc quan đã bắt rễ sâu trong tiềm thức của những người phụ nữ đã gìn giữ được gia đình cho tới lúc lớn tuổi?
Singo lấy tập báo của vợ và lật giở đại khái. Bất đồ một đầu đề thú vị đập vào mắt ông: "Đóa hoa sen hai nghìn năm nở".
"Vào mùa xuân năm ngoái, khi khai quật một di tích bên bờ con sông Camigava ở thành phố Chiba, người ta đã tìm thấy ba hạt giống hoa sen ở trong một chiếc thuyền nằm sâu trong lòng đất. Việc khảo cứu cho phép giả định rằng những hạt giống ấy là từ 2.000 năm về trước. Một giáo sư về thực vật học, chuyên gia về các loài sen, đã thành công trong việc cho các hạt giống ấy nảy mầm, mà sau đó ông đã cho trồng tại ba nơi khác nhau, trong đó có một mầm được trồng ở nhà của một người làm rượu ở Hatakemachi, một thành viên trong cuộc khai quật. Ông này đã thả mầm sen vào trong một cốc nước và cây hoa sen của ông đã ra hoa trước nhất. Được tin, vị giáo sư đã lập tức đến nơi và sung sướng vuốt ve bông hoa rồi nhắc đi nhắc lại: mó đã nở, nó đã nở!"
Dưới bài báo có đăng tấm ảnh của vị giáo sư - một người luống tuổi đeo kính có mái tóc bạc. Ông ta đang đỡ lấy cuống đóa hoa sen.
Singo ngắm bức ảnh một lát, rồi cầm tờ báo và đi gặp Kikuco.
Cô đang ở trong phòng của vợ chồng cô. Trên chiếc bàn thấp - một đồ vật trong số của hồi môn của Kikuco - có một xấp giấy trắng. Hẳn là cô định viết thư cho ai đó.
- Con từ trong người thế nào? - Singo hỏi và ngồi xuống cạnh bên. - Lẽ ra con không được dậy và đi khắp nhà thế đâu.
Kikuco mở mắt nhìn ông và định ngồi dậy, song ông đã ngăn lại:
- Con đã đọc bài báo nói về bông hoa sen nở sau hai nghìn năm chưa?
- Rồi ạ.
- Vậy là con đọc rồi hả? - Singo lầm bầm. - Giá mà con thổ lộ với chúng ta, thì đâu xảy ra như vậy... Lẽ ra con không nên trở về ngay hôm đó.
Kikuco lặng đi vì bất ngờ.
- Tháng trước, khi ta nói chuyện với con về việc con cái, con đã biết chưa?
Kikuco lắc đầu.
- Hừm... Suychi thì khẳng định là con làm như vậy vì quá chấp nhặt. - Singo bắt đầu nói nhưng thấy mắt Kikuco đầy lệ nên ông lảng đi. - Thế con có phải đi khám bệnh lại không?
- Có ạ, ngày mai. Con sẽ ghé lại, vậy thôi...
Hôm sau, khi đi làm về, Singo thấy vợ ông đang sốt ruột ngóng đợi ông.
- Kikuco đi về nhà cha mẹ đẻ rồi. - Bà Yasuco nói. - Họ mới báo lại là nó ốm và nằm ở bên ấy. Fusaco nghe điện thoại, ông bà bên kia thanh minh là Kikuco ghé qua nhà và thấy người không được khỏe nên nằm nghỉ lại, ông bà bên ấy hỏi chúng ta có gì phản đối nếu Kikuco ở lại vài ngày không.
- Vậy là vài ngày hả? - Singo trầm ngâm nói.
- Tôi đã bảo Fusaco trả lời là mai sẽ cho Suychi sang bên ấy xem tình trạng Kikuco thế nào. Liệu có phải vì thế mà hôm nay nó đi Tokyo không? Ông nghĩ thế nào?
- Cũng chẳng chỉ vì một chuyện đó.
- Nói thật là tôi không còn hiểu đang có chuyện gì xảy ra nữa đấy.
Singo cởi áo vét, nhướng cổ lên và tháo cravát.
- Nó vừa mới phá thai xong. - Ông nói sau một lát.
- Cái gì-ì? Yasuco co thót người lại. - Ông vừa bảo gì? Mà nó không hề nói gì với chúng ta ư? Không thể thế được? Kikuco à? Không, tôi không thể... Đám trẻ ngày nay rồi sẽ làm tôi chết mất thôi!
- Nhưng mà mẹ thì cũng mù mờ quá. - Fusaco lên tiếng và lại gần với đứa bé trong tay. - Con thì con hiểu ngay lập tức.
- Do đâu mà cô biết được? - Singo buột miệng hỏi.
- Con không thể nói chuyện với ba được, đại khái là có những chi tiết ở trong buồng vệ sinh và nói chung...
Singo sững người và không còn biết nói gì.
28/4/2011
Kawabata Yasunari
Dịch giả: Ngô Quý Quang
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú chuột La Hán

Chú chuột La Hán Ông Tư ngồi buồn như đang mất đi một người bạn. Từ ngày bỏ rượu niềm vui của ông chỉ quanh quẩn bên chú chuột nhỏ, bởi du...