Cảm thức hư không và nỗi cô đơn
bản thể trong thơ Trần Hoàng
Phố
Thơ Trần Hoàng Phố* là thơ của những khắc khoải nhân
sinh trôi từ cảm thức hư không đến nỗi cô đơn bản thể mà
khi tiếp nhận người đọc không khỏi trở trăn, đồng cảm trước những nghĩ suy
thành thực của thi nhân về cuộc đời, về phận số con người trong cuộc sống vốn
còn đầy những bất an…
1. Có những người cả đời làm thơ nhưng không bao giờ tạo cho
mình một cõi thơ riêng, làm nơi trú ngụ cho ngôi nhà hữu thể của thơ mình, vì
thế thơ của họ cũng nhạt nhòa theo năm tháng, chẳng để lại chút dư vị gì cho cuộc
đời. Bởi, thơ không phải là công cụ văn chương, phục vụ cho một hệ tư tưởng nào
mà thơ là chuyện của thế sự, với những khắc khoải nhân sinh trước nỗi đau về
thân phận con người. Thơ vì thế, là hiện thân của thế giới nội cảm được kết
tinh từ những rung động tế vi trong tâm hồn thi nhân kết thành những tinh tú
trong vũ trụ thi ca. Đến với thơ là đến với vũ trụ đầy bí ẩn được dệt nên từ những
mộng mị vô thường mà nếu không có con mắt “tinh đời” không thể hiểu và cảm được
thơ, vì thế cũng khó nhận ra chân lý nghệ thuật và chân lý đời sống trong thế
giới thi ca. Bởi, nói như Đông Hồ, “Thơ là mộng trong mộng. Mộng đã là khó bắt
gặp được huống còn là mộng trong mộng nữa, thì còn khó bắt gặp biết bao. Cuộc
thế dầu là thực thể vẫn là một thực thể mị thường. Hình bóng thơ không phải là
một thực thể. Như vậy, thơ còn mị thường hơn hình bóng mị thường”(1). Vì vậy,
không phải ngẫu nhiên trong lời ngõ tập thơ Quê quán tôi xưa (Nxb.
Thuận Hóa, 2002), nhà thơ Trần Hoàng Phố đã tự bach: “Một cơn “sốc” tâm hồn để
đi đến mười hai năm “diện bích”, Mười hai năm chiêm nghiệm những cõi mình đã sống,
đã mơ, đã nhớ. Những bể dâu của lịch sử và con người. Những bão táp cuộc đời,
những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng là những tiếng vọng chập chờn và
những hình bóng lung linh trên vách đá của tâm hồn thơ”.(2) Những suy niệm
về cuộc đời, về con người trong tương giao với thơ của Trần Hoàng Phố cũng là
điều mà Saint John Perse đã xác quyết: “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình
bị ràng buộc vào cuộc biến chuyển của lịch sử”.(3) Phải chăng, đây là những
căn tố hình thành nên cõi thơ mang dấu ấn riêng của Trần Hoàng Phố.
2. Sinh ra và lớn lên trên một đất nước có quá nhiều biến cố
lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc, cũng như phận số của biết bao người, lại
mang trong mình phẩm tính của một trí thức dấn thân theo tinh thần tư tưởng triết
học hiện sinh, Trần Hoàng Phố không thể “dửng dưng” đi “bên lề” những biến chuyển
của lịch sử dân tộc, mà nhà thơ là một chứng nhân như thi nhân đã xác quyết: “Chúng
ta sinh ra từ những đêm trong máu/ Bao âu lo cắn xé linh hồn/ Bao vật vã quay
cuồng định hướng/ Lòng ngưỡng mộ ta ngóng tới những bình minh rực rỡ/ Dâng cả lời
ca máu huyết mạch đời” (Tưởng niệm người thi sĩ). Nhưng rồi, cũng như bao lớp
người cùng thế hệ, khi nhận ra những điều mình thần tượng, tôn thờ cuối cùng
cũng chỉ là “ảo ảnh” được đắp xây bằng những ngụy tín và mọi danh vọng, lợi quyền
trong cuộc đời suy cho cùng chỉ là hư ảo: “Mắt khát vọng đóng đinh thánh giá/
Tro tàn đấy – hư không và vĩnh cửu” (Ánh mắt). Và cái cảm thức hư không nầy
chính là sự “đốn ngộ” của thi sĩ từ những nghiệm sinh trong dâu bể cuộc đời khi
nhận ra: “Gió vô thường thổi mênh mông/ Dồn ta đến tận hư không sông nầy/ Ngày
ngày mây tỉnh mây say/ Hóa thân mấy kiếp có xoay luân hồi” (Chiều tàn nghe tiếng
ca người xẩm mù bên sông cảm tác). Và từ đây, thơ Trần Hoàng Phố đã bước sang một
cõi khác, cái cõi mà thi nhân luôn đối diện với sự trống không: “Một mình/ ngồi
với/ trống không/ Bốn bề gió thổi/ mênh mông/ cõi người”. Thơ Trần Hoàng Phố,
vì thế, là thơ của một thi sĩ mà nói như Aimé Césaire: “đã từng qua lại giữa mộng
và thực, sáng tối, ẩn và hiện; trong cơn đảo lộn bất thần của nội tâm, y tìm kiếm
và nhận được một thứ ám hiệu, tiếng mật ước để hiểu ngầm mà giao ứng và đi tới
mãnh liệt”.(4) Cảm thức hư không, vì thế là nỗi niềm luôn ám ảnh hành
trình sáng tạo thơ Trần Hoàng Phố, thể hiện trên nhiều bình diện của cuộc nhân
sinh mà việc sử dụng từ hư không trong rất nhiều bài thơ của Trần
Hoàng Phố là một xác chứng.
Đọc tập thơ Quê quán tôi xưa, cảm thức hư không như
một dòng sông thơ trôi trong vô thức của những ám ảnh hư vô mà việc xuất hiện mười
lăm lần từ hư không ở các câu thơ như : “Hồ tình trong vắt thế
thôi/ mà em mắt biếc xanh ngời hư không” (Mây bay tan họp); “Chiếc cầu hư
không/ Tôi bắc qua đời/ Trong ngôi nhà trống/của linh hồn tôi (…) Chiếc cầu hư
không/ Bắc giữa trần gian” (Hư không và ngọn lửa); “Những tiếng nói của hư
không vĩnh cửu/ Như một nét lặng thầm/ Ngủ yên đi, ngủ yên đi/ Hỡi những
linh hồn phế tích” (Phế tích buồn); “Ngọn gió chiêm bao hỏi giữa đời/ Hỏi tôi
có lạnh hư không đó” (Thiên thu tôn nữ tím); “Trên ngọn thác hư
không trắng xóa/ Chỉ còn những đám mây hoang hoải” (Thiên đường giữa hai đầu
sống chết); “Gió vô thường thổi mênh mông/ dồn ta đến tận hư không sông
này” (Chiều tàn nghe tiếng ca người xẩm mù bên sông cảm tác); “ Phật thật Phật
không không/ Cúi đầu sư tụng niệm/ Kinh lạc miền hư không/ Chuông vọng tiếng
linh hồn (…) Cõi ngàn mây tịch diệt/ Mỗi sát na qua đời/ Trầm tư Phật mĩm cười/
Trăng hư không thanh thoát / Mắt sen bừng giác ngộ/ Chùa đời mất Phật
xưa/ Chùa lòng bóng Phật về/ Trăng hư không tịnh độ” (Lên núi thăm
chùa mất Phật); “ Trời xanh tận hư không/ Xanh vô cùng lòng mẹ/ Sông con
giòng bé dại/ Sao thấu lòng đại dương” (Mẹ); “Vợi vời mây nước chơi vơi/ Cõi
phù dung ấy bóng ngời hư không/ Chập chùng núi núi sông sông/ Tròng trành
bóng bóng linh hồn gương soi” (Bóng thiên cỗ lụy); “Cầu vồng cái chết/ Tím biếc hư
không/ Tiếc thương ngũ sắc/ Trần gian não nùng” (Cầu vồng ngũ sắc); “Chầm chậm
giọt hư không/ Chạm giọt xót thương lạnh lòng (…) Chầm chầm giọt vô
ngôn/ Chạm giọt hư không bàng hoàng” (Chầm chậm giọt mưa đất trời)…
đã cho ta cảm nhận rõ cái cõi hư không trong thơ Trần Hoàng Phố.
Đây cũng là điều ta bắt gặp ở tập thơ Cõi nhân gian lạ lẫm (Nxb.
Thuận Hóa, 2002), với chín lần dùng từ hư không mà sự hiện
hữu của cảm thức hư không trong mỗi bài thơ đều mang một sắc thái biểu
cảm riêng trong sự tiếp nhận của người đọc. Đó là cảm thức hư không trong
các bài thơ: “Không chịu hiểu – mùa thu – không chịu hiểu/ Sắc trời trong xanh
tuyệt hư không/ Không chịu hiểu – cõi nhân gian lạ lẫm/ Mắt trẻ thơ xanh
biếc lung linh / Mắt người già xa xăm trắc ẩn/ Hư không đấy – lật bàn
tay sinh tử (…) Mắt khát vọng đóng đinh thánh giá/ Tro tàn đấy- hư không và
vĩnh cửu (…) Tro tàn đấy- Hư không và Vĩnh cửu” (Ánh mắt); “Hư không như
trêu chọc!/ Cô đơn như mỉa mai/ Tôi làm gì ngày tháng/ Này nghẹn ngào trần ai!”
(Thiên cổ cõi quạnh hiu); “Tiếng kêu thinh lặng cõi đời/ Hư không gió
hú ngàn lời tử sinh” (Vuốt mặt thời gian); “Cõi trần gian mai sau/ Dẫu chỉ
còn hư không thinh lặng” (Gương mặt thời gian); “Than van như gió
linh hồn hấp hối/ Cõi đêm này là Hư không/ Hư không thẳm sâu”
(Bóng của cõi chết). Còn ở tập thơ Bóng của con nhân sư (Nxb. Thuận
Hóa, 2010) chỉ có ba lần dùng từ hư không ở các bài thơ:
“Này ta rót khổ đau vào hư không/ Cho tan biến cái nỗi buồn nhân gian vời
vợi” (Hương Xuân); “Ngọn gió thổi và những vì sao mới mọc/ Những tiếng nói của Hư
không vĩnh cửu” (Phế tích buồn); “Khi bóng con nhân sư/ Đã chìm dưới biển
trăng đêm/ Chỉ còn lời của hư không thinh lặng”. (Bóng của con nhân
sư). Nhưng sự hiện hữu của những từ hư không ở đây là những “mật ngữ”
được chiết xuất ra từ những “hư không thinh lặng” của cõi vô ngôn.
Không chỉ sử dụng từ “hư không”, mà cảm thức hư không trong
thơ Trần Hoàng Phố còn được thể hiện ở các từ có nét nghĩa tương đồng với từ hư
không như: sắc không, vô thường, phù du, hư ảo, mộng ảo, ảo mù, ảo
hư, ảo ảnh, (Quê quán tôi xưa); hư ảo, rỗng không, trống rỗng, ảo ảnh, vô
thường, (Cõi nhân gian lạ lẫm); hư ảo, vô thường, rỗng không, hư vô, ảo
ảnh (Bóng của con nhân sư)… Chính điều nầy đã cho thấy sự ám ảnh của cảm
thức hư không trong thơ Trần Hoàng Phố là một nỗi ám ảnh của vô thức
và tâm linh, chi phối sâu sắc thi giới thơ Trần Hoàng Phố. Vì vậy, có thể nói,
cảm thức hư không trong thơ Trần Hoàng Phố là một bình diện khác
trong cái nhìn về hiện thực cuộc sống được phản ánh trong thơ. Đó là một vùng
hiện thực thơ đầy ảo diệu, khác thường, kết tinh từ những trực cảm mang phẩm
tính thi sĩ riêng có của mỗi thi nhân mà nếu thiếu nó, thi ca sẽ không còn là
thi ca đích thực. Chính vùng hiện thực ảo diệu nầy đã chi phối cảm hứng sáng taọ
thơ của Trần Hoàng Phố, làm nên thế giới nghệ thuật thơ độc đáo, tạo những “dư
vang nghệ thuật” (từ của Trần Nhựt Tân) trong tâm cảm của người tiêp nhận.
3. Thi giới hư không trong thơ Trần Hoàng Phố là
thi giới của tâm tưởng với biểu hiện vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là một
“Chiếc cầu hư không/ Tôi bắc qua đời” (Hư không và ngọn lửa) để kiếm tìm
và lắng nghe “Những tiếng nói của hư không vĩnh cửu” trên “những linh hồn phế
tích” (Phế tích buồn) mà đối với thi nhân có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt vì những
phế tích ấy không chỉ là những gì còn lại của một quá khứ lịch sử xa mờ mà đối
với một người thuộc dòng “Hoàng tộc” như thi nhân nó chính là máu thịt, là linh
hồn của tiên tổ vẫn luôn hiện hữu trong tâm thức hậu thế. Qui luật của cuộc đời,
mọi hiện hữu cũng chỉ là hư không nhưng những phế tích nầy đối với thi nhân là
“tiếng nói của hư không vĩnh cửu”, một điều mới nghe, tưởng chừng rất
mâu thuẩn vì đã là hư không tại sao lại còn vĩnh cửu!?. Nhưng điều lạ lùng ấy lại
là một thực thể trong cuộc đời. Bởi, chỉ có hư không mới là vĩnh cửu còn mọi thứ
tồn tại ở đời không bao giờ là vĩnh cửu cho dẫu người ta có tham vọng muốn biến
nó thành “vĩnh cửu”. Cảm thức hư không trong thơ Trần Hoàng Phố nhiều
khi như muốn vượt thoát ra khỏi thế giới của tâm tưởng để đến với thế giới hiện
thực. Nhưng rồi, với phẩm tính của một thi sĩ đích thực, với chiều sâu văn hóa
và tư tưởng mà thi nhân đã tiếp nhận của nhân loại cả Đông lẫn Tây, nên cái
nhìn hiện thực trong thơ Trần Hoàng Phố vẫn là cái nhìn đầy thao thức của chiều
sâu tâm cảm dệt nên từ cõi thực và mơ. Đó là cảm thức “xanh ngời hư không”
trong đôi mắt em (Mây bay tan họp); là “ngọn thác hư không trắng xóa”
(Thiên đường giữa hai đầu sống chết); là những “hư không sông này” (Chiều
tàn nghe tiếng ca người xẩm mù bên sông cảm tác); là “Trăng hư không thanh
thoát Trăng hư không tịnh độ” (Lên núi thăm chùa mất Phật); là “Trời
xanh tận hư không/ Xanh vô cùng lòng mẹ” (Mẹ) Và đi đến tận cùng của sự
đan xen trong cảm thức hư không giữa mơ và thực đó là “Hư không gió hú
ngàn lời tử sinh” (Vuốt mặt thời gian); là “hư không thinh lặng” (Gương mặt
thời gian); là “Hư không thẳm sâu” (Bóng của cõi chết), một sự thẳm sâu của
cõi vô cùng. Suy niệm về hư không trong thơ Trần Hoàng Phố, vì thế là những hư
không mang tính triết luận của “im lặng hố thẳm” (từ dung của Phạm Công Thiện)
từ những tư tưởng triết học Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh, vốn là những tri
thức đã nhuần thấm trong tư tưởng thi nhân.
4. Bên cạnh cảm thức hư không, một chủ đề khác cũng luôn hiện
hữu trong thơ Trần Hoàng Phố là nỗi cô đơn bản thể. Có thể nói, trong thơ
Trần Hoàng Phố không chỉ có cõi mộng, cõi mơ, cõi hư không mà còn có cõi
cô đơn của thân phận lưu đày. Thế nên, trong tập thơ nào của Trần Hoàng Phố,
nỗi cô đơn cũng luôn hiển hiện và trở thành một niềm trăn trở với những truy vấn
về bản thể mang tâm thức hiện sinh : “Ai đem ta bỏ giữa đời/ Áo cơm thê
thiết trĩu đôi vai gầy/ Phách ta thân kiếp lưu đày/ Trắng tay trắng cả đắng cay
linh hồn” (Chiều tàn nghe tiếng ca người xẩm mù bên sông cảm tác), hay “Linh hồn
tôi đâu?/ Giữa cõi mênh mông” (Dò tìm chân như). Nỗi cô đơn và sự truy vấn về
cái tôi bản thể đã xuất hiện trong hầu hết các tập thơ của Trần Hoàng Phố với
những sắc màu suy tưởng khác nhau. Đó là sự cảm nhận về kiếp lưu đày của phận
người như một ốc đảo cô đơn của những ly tan trong tập thơ Quê quán tôi
xưa: “Xin hãy để lòng ta thương nhớ về cố quận/ Khi lòng ta từng quặn thắt giữa
muôn ngàn phân giải của ly tan/ Nơi mảnh mảnh linh hồn như những ốc đảo cô đơn”
(Bóng trần gian in rợn giữa sao khuya). Trong tập thơ Cõi nhân gian lạ lẫm,
cảm thức cô đơn được nhìn dưới nhiều dạng thức khác nhau và theo chiều hướng
tăng dần, đan kín tâm cảm thi nhân. Cảm thức cô đơn, vì thế đã hình thành một hệ
thống diễn ngôn thể hiện qua ký hiệu mang tính biểu tượng đa nghĩa giàu tính
triết luận. Đó là hình ảnh: “Mắt cô đơn nặng gánh đêm đen” (Ánh mắt); là hình ảnh
côi cút của “Một cõi như sân vườn cô đơn buổi sớm tinh sương” (Một cõi…); Hay
niềm thổn thức : “Nơi trái tim cô đơn của anh” (Mùa xuân trong mưa), để rồi:
“Trên những mái nhà thành phố/ Anh nếm thấy trắng xóa đại dương của cô đơn”
(Thành phố mưa và tôi). Song, cảm thức cô đơn trong cái nhìn của Trần Hoàng Phố
không chỉ đơn thuần là căn tính của phận người mà còn là phẩm tính của những
sinh thể trong tự nhiên. Thế nên nhìn ngôi tháp cổ “soi bóng giòng sông”, thi
nhân “bỗng thấy dáng cô đơn” (sáng mai xanh bóng chiều vàng) và trong chiều
sâu của tư duy triết luận, thi sĩ nhận ra “Nỗi cô đơn như/ Tiếng thạch
sùng gặm nhấm/ Thời gian” “Như con ruồi dính vào mạng nhện/ cuộn chặt cô
đơn” và “Vỗ về nỗi sầu muộn/ Lau khô những giọt lệ của đêm cô đơn” (Ở Sài
Gòn nghe tiếng hót của chim). Nỗi cô đơn trong thơ Trần Hoàng Phố là nỗi cô đơn
bản thể luôn hiện hữu trong tâm thức của thi nhân nên khi đối diện với chính
mình là lúc thi nhân sống trong tận cùng ám ảnh của cô đơn: “Tôi bước đi và
chìm trong mù sương/ Bóng của một cái bóng/ Tôi tan ra trong giá đông…/ Tôi đối
diện với chính mình” (Bóng của cái chết).
Thế nên, ở tập thơ Bóng của con nhân sư, nỗi cô đơn đã kết
tinh thành khát vọng đi tìm cái tôi bản thể của chính mình trong “giấc mơ của
những đêm thanh xuân (…) trên con đường sâu thẳm của linh hồn/ Anh tìm những
chiếc bóng của chính anh” (Mùa thu). Cảm thức cô đơn trong thơ Trần Hoàng Phố,
vì thế luôn gắn với những ưu lo về sự tồn sinh của thân phận, về sự mỏng manh,
vô thường của kiếp người: “Băng qua ốc đảo cô đơn mềm mại/ Chén đêm này đầy rỗng
không – mai sau là tro than cát bụi” (Chén đêm) hay: “Bầu trời vỡ toang như thể
nỗi cô đơn mưa” (Trái tim mưa) và “Anh nếm thấy trắng xóa đại dương của cô đơn”
(Thành phố, mưa và tôi). Có thể nói, cảm thức cô đơn trong thơ Trần Hoàng Phố
luôn gắn với những ly tan, với sự hủy diệt nên không gian và thời gian trong
cái nhìn của thi nhân luôn nhuốm màu sầu đau và bao giờ cũng có cảm
giác là khoảnh khắc tận cùng, là sự kết thúc trong hoàng hôn của
kiếp người: “Đêm với tiếng dội vang của cô đơn/ Bước chân ai lui tới không ngừng”
(Sấm truyền và lời hiến tế); “Nơi mảnh mảnh linh hồn như những ốc đảo cô đơn/
Giữa ly tan của hình hài vũ trụ/ Giữa cách chia của kiếp kiếp luân hồi” (Bóng
thời gian); “Uống ngụm nắng buồn/ chiều cô đơn/ thăm thẳm/ Như mắt người chết/
Bóng nhân gian đổ xuống/ hoàng hôn” (Tận cùng chiều); “Nỗi buồn phiêu linh/ Mù
sương ban mai/ Mùi sầu đông cô đơn lạnh giá/ mong manh”( Mùi sầu đông); “Đêm
cô đơn đớn đau/ Chúa thánh thần ở trên cao/ Rỗng không đang trở thành địa ngục/
Ngắm nhìn tôi” (…) “Một con người đơn độc rầu rầu/ Lặng nhìn mọi thứ náo nhiệt
gọi là cuộc đời/ Với sự diễu cợt buồn buồn/ Một cô đơn/ với nhiều nỗi đớn đau –
tôi (…) Chỉ còn/ Đêm cô đơn với đớn đau đang níu chặt/ Tôi/ Một trái tim
rỗng không” (Ngắm nhìn tôi); “Tiếng đàn mưa/ Hoang mạc thịt da cô đơn tịch lặng”
(Điệu luân vũ dịu dàng mưa); “Gió khóc than/ Trên những hòn đảo cô đơn/ Sóng vỗ
rợn bão bùng giông tố” ( Gió xuân thì)… Và xét về một phương diện nào đó, nỗi
cô đơn trong thơ Trần Hoàng Phố luôn gắn với cảm thức hư không, là một
phía khác nhằm biểu hiện của cảm thức hư không trong cái nhìn biện chứng
trước những được mất của kiếp người mà thi nhân đã cảm nhận từ sự nghiệm sinh của
chính mình.
5. Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong
thơ Trần Hoàng Phố, vì thế là sự hợp lưu của tư tưởng phương Đông và phương Tây
mà cụ thể là sự hợp lưu giữa triết học Phật giáo và triết học hiện sinh. Đây
cũng là hiện tượng phổ biến trong tư tưởng của những trí thức miền Nam giai đoạn
1954-1975 vốn được thụ hưởng một nền giáo dục mang triết lý “dân tộc, nhân bản
và khai phóng” trên tinh thần đa nguyên nên mạnh dạn tiếp nhận nhiều tinh hoa ở
các khuynh hướng tư tưởng triết học của nhân loại. Điều này cũng được minh chứng
trong sáng tác của Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy
Vũ, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ,… và rất nhiều sáng tác khác của văn học miền
Nam (1954-1975). Vì vậy, cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong
thơ Trần Hoàng Phố không chỉ hiện hữu trong các từ hư không, cô đơn mà
còn biểu hiện ở các diễn ngôn mang tinh thần giao thoa của triết học Phật giáo
và chủ nghĩa hiện sinh như: lưu đày, hư vô, hư không, hư ảo, trống không,
vô thường, sắc không, phù vân, phù dung… Chính sự giao thoa nầy đã tạo cho
thơ Trần Hoàng Phố một hệ giá trị mới, vừa truyền thống, vừa hiện đại, vừa Đông
phương lại vừa Tây phương.
Thơ Trần Hoàng Phố luôn đi giữa hai bờ thực và mộng, hiện hữu
và hư vô, có và không. Hiện thực trong thơ Trần Hoàng Phố là hiện thực tâm
linh, hiện thực ảo diệu. Vì thế, thi giới thơ Trần Hoàng Phố có rất nhiều hình ảnh
của “giấc mơ”, của “chiêm bao”, của “mộng mị”, “huyền ảo” … điều nầy đã tạo cho
thơ Trần Hoàng Phố một trạng thái cảm xúc riêng, vốn là phẩm tính cần có của một
thi sĩ đích thực, Bởi, theo Trần Nhựt Tân, thơ “bao hàm những cái gì hư hư thực
thực, liêu trai, mộng mị, ảo huyền, kỳ diệu, mông lung, bất định …”.(5) Còn
theo Huỳnh Phan Anh, “Thơ là mộng ước. Trong mộng ước không còn cái hữu hạn. Mộng
ước là cơ hội để con người mơ màng vô hạn”(6). Đi tìm cảm thức hư không và
nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố là đi tìm một thế giới
thơ mà ở đó thực và mộng hòa quyền vào nhau để tạo nên một hiện thực thơ ảo diệu
mang sắc màu siêu thực đầy chất suy tưởng của “những giấc mơ đồng vọng ảo ảnh
khói sương của cõi thế chập chùng (…) Nhưng dẫu sao cũng còn một chữ “tâm” với
lòng thành xin ngỏ với đời”.(7) Đây là điều chia sẻ rất thành thực của Trần
Hoàng Phố về thơ mình, cũng là điều người đọc cảm nhận được khi đọc thơ Trần
Hoàng Phố. Và cho dẫu thơ Trần Hoàng Phố vẫn còn sử dụng một số từ khá xưa của
thơ ca truyền thống như: cố quận, phù hư, xa mù, hương cố nhân, tịch liêu,
cố cựu, ảo mù… không phù hợp lắm với khí quyển thơ ca đương đại, nên có phần
nào xa lạ với tầm đón đợi trong sự tiếp nhận của người đọc, nhất là những người
đọc trẻ. Nhưng những điều nầy, chúng ta có thể cảm thông với thi nhân vì những ảnh
hưởng có tính vô thức của khí quyển văn chương thời đại mà thi nhân đã sống, đã
gắn bó từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Nam trước 1975. Tuy thế,
trong thơ Trần Hoàng Phố vẫn còn những câu thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật
với những hình ảnh thơ có tính “lạ hóa” vừa truyền thống, lại vừa hiện đại, đem
đến cho người đọc những mỹ cảm văn chương khác thường, thú vị: “Đường về chiều
mõi quê mờ/ Bóng trâu chậm bước sừng mù hoàng hôn/ Chùa làng đâu bỗng giộng
chuông/ Tiếng trầm vang động rạ rơm cõi hồn” (Về làng chiều) ; “Giữa sấm
truyền/ và lời hiến tế/ Anh đóng chín chiếc đinh/ Vào nỗi đắng cay/ Anh đóng ước
mơ/ Vào cây thập giá/ Máu của nỗi buồn rõ xuống từng giọt/ Khắc khoải như tiếng
ai kêu trong đêm sa mạc” (Sấm truyền và lời hiến tế)… Không những thế, đây còn
là những câu thơ đầy tính nhân bản và tình tự dân tộc.
Thơ Trần Hoàng Phố là thơ của những khắc khoải nhân sinh trôi
từ cảm thức hư không đến nỗi cô đơn bản thể mà khi tiếp
nhận người đọc không khỏi trở trăn, đồng cảm trước những nghĩ suy thành thực
của thi nhân về cuộc đời, về phận số con người trong cuộc sống vốn còn đầy những
bất an. Bởi nói như P. Reverdy: “Nhà thơ gần như chỉ sống bằng cảm giác, hướng
lên ý tưởng, và rốt cuộc, chỉ bày tỏ những tâm tình…”.(8) Điều nầy không
chỉ đúng với cõi thơ mà còn đúng với con người thơ Trần Hoàng Phố, một thi sĩ đến
với cuộc đời bằng tất cả tấm lòng đầy thơ… Vì suy cho cùng, theo cảm quan của
Cyrian Norwid, một nhà thơ Ba lan: “Thế giới nầy rốt cuộc chỉ còn lại hai thứ,
chỉ hai thứ thôi: Thi ca và lòng nhân ái… không còn gì khác”.(9) Và “may
quá”, Trần Hoàng Phố đã phần nào tìm được cho mình hai thứ còn lại quí giá đó:
“Thi ca và Lòng nhân ái” như một sự chọn lựa hiện sinh, trong một thế giới luôn
ẩn chứa sự bất toàn, nhất là trong những ngày cả nhân loại đang “gồng mình” chống
chọi với thảm họa của đại dịch Covid…
Chú thích:
(1) Đông Hồ, “Xúc cảnh thành thi”, Văn, số 86 ra
ngày 15/7/67, tr.14
(2) Trần Hoàng Phố, Quê quán tôi xưa (Nxb. Thuận
Hóa, 2012, tr.1
(3) Đoàn Thêm, Quan niệm và sáng tác thơ, Viện Đại
học Huế, 1962, tr.105
(4), (8), (9) Đoàn Thêm, Quan niệm và sáng tác thơ,
Viện Đại học Huế, 1962, dẫn theo Trần Hoài Anh, Thơ quan niệm và cảm nhận,
Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2010, tr.270, tr. 279, tr. bìa 1
(5) Trần Nhựt Tân, Dư Vang nghệ thuật, Nxb Hạnh,
Sài Gòn, 1971, tr.79
(6) Huỳnh Phan Anh, “Tại sao những bài thơ tình
đó” , Văn, số 91 ra ngày 1/10/67, tr.93
(7) Trần Hoàng Phố, Cõi nhân gian lạ lẫm, Nxb.
Thuận Hóa, tr.1, 2
* Thơ trong bài là trích ở các tập thơ của Trần Hoàng Phố
(bút danh của PGS-TS. Bửu Nam, Giảng viên Đại học Sư Phạm Huế)
Xóm Đình An Nhơn, Gò Vấp, Sài Gòn, 12/5/2021
Trần Hoài Anh
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét