Nguyễn Đình Chiểu trong
giao lưu văn hóa quốc tế
Nhắc đến Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), ai cũng nhớ
ngay bài viết nổi tiếng của nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Nguyễn Đình
Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc in trên tạp chí Văn học tháng 7
năm 1963, khi ông khẳng định Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của văn chương nước
ta.
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có vị trí
danh dự, là một nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Triết lý văn hóa của
Nguyễn Đình Chiểu là triết lý nhân sinh. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu dường
như đã vượt qua tư tưởng Tống Nho chính thống. Tư tưởng Nho giáo của Nguyễn
Đình Chiểu đang trên quá trình Việt hóa – bình dân hóa một cách sâu sắc. Triết
lý ấy thể hiện trong bài Than đạo:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Nếu như truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên, một sáng tác đầu đời khi
vừa gặp trắc trở của số phận, nêu chuyện đạo lý con người, sống nhân
nghĩa: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình; thì truyện
thơ Nôm Dương Từ – Hà Mậu lại khuyến cáo con người nên tìm về
chính đạo, biết yêu cái chính, ghét cái tà, con người phải biết tu thân. Truyện
thơ Nôm Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh,
sáng tác những năm cuối đời vẫn đậm đà tư tưởng ấy của Nguyễn Đình Chiểu; đạo đức
của người thầy thuốc, tư tưởng yêu nước và nội dung y thuật đan cài với nhau.
Có thể thấy tư tưởng của nhà văn hóa Nguyễn Đình Chiểu ở các khía cạnh: đạo
nghĩa, làm việc nghĩa, tu thân (vỏ là Nho giáo mà lõi là phong cách sống của
người Việt Nam Bộ: thấy việc nghĩa không làm là đồ bỏ). Nguyễn Đình Chiểu là một
mẫu hình nhân cách văn hóa. Từ chối của Nguyễn Đình Chiểu trước đề nghị của
viên Tham biện tỉnh Bến Tre, Michel Ponchon năm 1883, không nhận tiền bạc, quà
tặng, không nhận lại ruộng vườn của ông ở Gia Định mà người Pháp chiếm đoạt qua
câu nói khảng khái trước Michel Ponchon “Đất vua không ai trả thì đất riêng của
tôi có sá gì”, là bằng chứng xác thực nhất về phẩm chất không màng danh lợi của
một nhân cách lớn. Ở phương diện công dân, biến cố đau thương của đất nước khi
bị xâm lược, khiến Nguyễn Đình Chiểu càng thể hiện rõ phẩm chất của một nhà văn
hóa lớn. Cả cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu sống theo triết lý này. Hành động trong
cuộc sống thường ngày của Nguyễn Đình Chiểu là công việc của một thầy giáo. Lựa
chọn nghề thầy giáo xuất hiện với các nhà nho ở Việt Nam khi không có khả năng
ra làm quan, hoặc thôi không làm quan, trở về làng. Nguyễn Đình Chiểu lựa chọn
nghề thầy giáo sau biến cố của cuộc đời. Ông ba lần đi chuyển nơi ở: từ quê mẹ
(nay là quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) đến quê vợ (nay là huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An), rồi về làng An Đức (nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Vì
thế, trường học của người thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu cũng thay đổi ba lần.
Thông thường, các nhà nho sử dụng nhà mình làm nơi dạy học. Trường của thầy
giáo mù lòa như Nguyễn Đình Chiểu, chắc cũng như trường của các nhà nho khác.
Cách dạy của các nhà nho là truyền khẩu, giảng bài từ sách. Học
trò ngồi ghi chép, hỏi, làm bài trong thời gian “Thập niên đăng hỏa” (Mười năm
đèn sách) hoặc lâu hơn. Học để đi thi, thi đỗ ra làm quan. Thầy giáo Nguyễn
Đình Chiểu dạy bằng trí nhớ của mình. Nội dung mà các nhà nho dạy học trò là nội
dung các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách kinh điển của Nho giáo ở thời nhà
Nguyễn (1802-1945). Nội dung các sách này thấm vào Nguyễn Đình Chiểu, bởi bắt đầu
đi học, ông học thầy đồ trong làng, mấy năm học gười thầy ở Huế mà tương truyền
là Thái phó, thì tri thức, văn hoá của Nguyễn Đình Chiểu là Nho giáo thời nhà
Nguyễn là đương nhiên.
Với Nguyễn Đình Chiểu, “Sau khi học vỡ lòng trong sách Minh
tâm bửu giám (Gương báu soi sáng cõi lòng), Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục
nghe thầy giảng dạy về “dưỡng khí”, “tập nghĩa” nhất là nghe thầy truyền đạt lại
cách giáo dục của thầy mình, xuất phát từ tâm tính tốt của người Gia Định “Trung
dũng khí tiết, trọng nghĩa, khinh tài” sẵn có, phát huy tâm tính ấy lên, cốt
là làm nhiều việc nghĩa để bồi dưỡng có hiệu quả khí phách trung dũng của học
sinh”(1). Người thầy giáo mù lòa dạy học trò ở Gia Định, ở Cần Giuộc, ở Bến Tre
hẳn dạy cho học trò những điều người thầy tâm huyết. Có hai nhân vật khá nổi tiếng
chắc chắn là học trò của người thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu: thứ nhất là Nguyễn
Thị Khuê (tức Sương Nguyệt Anh) (1864-1921), nhà thơ, nữ chủ bút (Tổng biên tập)
đầu tiên của báo chí Việt Nam; thứ hai là Nguyễn Đình Chiêm (1869-1935), làm
nghề đông y, ngoài sáng tác, dịch thơ, ông còn là tác giả tuồng… Nhiều người
dân vùng Ba Tri, Bến Tre hiện nay vẫn ghi nhớ ông nội, ông thân sinh của mình
là học trò của Nguyễn Đình Chiểu. Cả hai học trò Nguyễn Thị Khuê (tức Sương
Nguyệt Anh), Nguyễn Đình Chiêm của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu đều là những
nhân vật có đóng góp sâu sắc cho sự đổi mới của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cùng với việc mở trường dạy học, Nguyễn Đình Chiểu còn bốc
thuốc chữa bệnh. Từ năm 28 tuổi đến khi qua đời năm 67 tuổi, gần 40 năm Nguyễn
Đình Chiểu là thầy thuốc chữa bệnh cứu người. Với một thầy thuốc bình thường,
điều ấy đã là một đóng góp, nhưng với một thầy thuốc mù lòa như Nguyễn Đình Chiểu,
càng đáng ghi nhận. Tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ngư Tiều vấn
đáp nho y diễn ca) của ông gồm 3.642 câu thơ, trong đó phần lớn là thơ lục bát,
có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú… trích từ các sách thuốc đông y
Trung Quốc. Đây là một tác phẩm viết dưới hình thức thơ để dạy nghề làm thuốc
chữa bệnh, “nhằm chấn hưng y học cổ truyền, xây dựng một nghề y chân chính. Tác
giả – tức Nguyễn Đình Chiểu – đã lên án các việc làm bất chính hại đến tính mạng
con người”(2). Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cho rằng Ngư Tiều y thuật vấn đáp của
Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm khẳng định y đức học Việt Nam. “Về y đức học,
Nguyễn Đình Chiểu không ngừng lại ở chỗ săn sóc miễn phí cho người nghèo mà đi
xa hơn, quên mọi quyền lợi riêng tư,… Từ chối lễ vật quả là tốt, nhưng y đức học
Nguyễn Đình Chiểu bảo khi cần, phải chịu hy sinh thân thể mình”(3). Trong số
500 tác phẩm y học cổ truyền Việt Nam bằng Hán Nôm, Ngư Tiều y thuật vấn
đáp của Nguyễn Đình Chiểu có một vị thế xứng đáng. Y đức mà Nguyễn Đình
Chiểu chủ trương trong tác phẩm này, và thực hiện trong cuộc đời làm thầy thuốc
chữa bệnh cứu người:
Xưa rằng: Thầy thuốc học thông
Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh
Giúp người chẳng vụ tiếng danh
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghét tài
Sự uyên thông về y lý, tất cả những tâm huyết về nghề y và tấm
lòng đối với đất nước đã được thể hiện ở tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp,
một tác phẩm nổi tiếng dạy đạo cứu người và đạo làm người trong hoàn cảnh nước
không còn chủ quyền, người dân chịu cơ khổ. Từ triết lý văn hóa thể hiện trong
sáng tác văn chương đến hành động trong cuộc đời dạy học, làm thầy thuốc, ở
Nguyễn Đình Chiểu luôn có sự nhất quán.
Trong giao lưu, hội nhập văn hóa quốc tế, Nguyễn Đình Chiểu
cũng có vị trí xứng đáng. Năm 1864, Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng
Pháp: bắt đầu từ bản của G.Aubaret, sau đó có bản dịch của Janneau
(1873), Abel des Michels (1883), E.Bajot (1886), Nghiêm Liễn (1927), Dương
Quảng Hàm (1944), Lê Trọng Bổng (1997)… có ít nhất 7 bản tiếng Pháp. Năm
1895-1897, Eugene Gibelt, một người Pháp đã nhờ tác giả Lê Đức Trạch vẽ
minh họa truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên, với 1.200 bức tranh minh họa. Năm
1899, Eugene Gibelt đã tặng tác phẩm này cho Viện hàn lâm văn khắc và mỹ văn của
Pháp. Năm 2016, Viện Viễn đông Bác cổ Pháp đã cho xuất bản tác phẩm này bằng tiếng
Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Năm 1986, truyện thơ Lục Vân Tiên còn
được dịch ra tiếng Nhật với bản dịch của Giáo sư Takeuchi Yonosuke. Năm
2016, Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Anh với bản dịch của Éric
Rosencrantz. Với 3 thứ tiếng và 9 bản dịch, Lục Vân Tiên là tác phẩm
văn học Việt Nam được dịch ra ngoại ngữ nhiều thứ ba sau Truyện Kiều của
Nguyễn Du và Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhận xét về con người và tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, năm
1864, G.Aubaret cho rằng truyện thơ Lục Vân Tiên “chứa đựng những
tình cảm, những khát vọng chẳng mấy khi tìm thấy trong tinh thần Trung Quốc…
Trong quyển sách này, chúng tôi đã nhận ra những đặc điểm chính của một dân tộc,…
coi nó như là một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người, có cái ưu
điểm lớn là diễn tả được trung thực những tình cảm của cả một dân tộc”(4).Năm
1883, Abel des Michels cho rằng Lục Vân Tiên là một trong “những tập
truyện thơ thì có một giá trị lớn và người ta có thể nêu lên một số có thể xem
là những kiệt tác thật sự, rất độc đáo, mạnh mẽ và có duyên… quyển Lục Vân
Tiên, tập truyện thơ bình dân vào bậc nhất của xứ này”(5).
Năm 1972, N.Nikulin, Giaos sư của Liên Xô cũ, và Hoàng Giật Cầu,
người Trung Quốc, đã có các bài viết sắc sảo giới thiệu Nguyễn Đình Chiểu .
Năm 2013, Giáo sư Trịnh Văn Thảo (Cộng hòa Pháp) khẳng định:
“Nguyễn Đình Chiểu đã sống xứng đáng với nước với dân, xứng đáng là một trí thức
dấn thân, một bậc thức giả yêu nước thương dân dùng ngòi bút đấu tranh không mệt
mỏi. Ông là một tấm gương sáng ngời cho trí thức mọi thời đại, vì đâu phải trí
thức nào cũng dám dùng ngòi bút của mình để chở đạo trừ gian”(6).
Năm 2016, theo TS. Pascal Bourdeax (Trường Cao đẳng thực hành
Ephe của Cộng hòa Pháp): truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu là một tác phẩm giá trị, có một không hai; theo TS. Olivier Tessier (Viện
Viễn Đông bác cổ Pháp) truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng
vô cùng lớn trên mọi phương diện của đời sống cũng như nếp nghĩ của con người
Nam Bộ.
Năm 2021, nhà xuất bản của Đại học tổng hợp Viễn Đông (Liên
bang Nga) xuất bản cuốn sách Nguyễn Đình Chiểu bằng hai thứ tiếng Nga, Việt của
tác giả Nguyễn Chí Bền. Theo Tiến sĩ Ngữ văn A.Ia. Sokolovsky, Giáo sư Khoa
Châu Á Thái Bình Dương, Giám đốc Trung tâm Văn hóa và Giáo dục Việt Nam thuộc Đại
học Tổng hợp Liên bang Viễn Đông (FEFU), việc xuất bản cuốn sách Nguyễn Đình
Chiểu của tác giả Nguyễn Chí Bền giúp cho bạn đọc Nga hiểu biết về nhà thơ, nhà
văn hóa Nguyễn Đình Chiểu của Việt Nam.
Trong những tháng cuối năm 2021, Đại hội đồng UNESCO sẽ họp
thông qua nghị quyết đưa Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của Việt
Nam vào danh sách những danh nhân mà UNESCO và các quốc gia thành viên kỷ niệm
200 năm sinh, cùng một số danh nhân do các quốc gia khác đề nghị. Nếu quyết định
này được thông qua, sẽ thực sự là một tin vui với chúng ta. Hy vọng Nguyễn Đình
Chiểu sẽ là danh nhân thứ năm của Việt Nam được UNESCO vinh danh, sau Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh và Chu Văn An.
Chú thích:
(1) Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên
khảo và chú giải, Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, Nxb. Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr.48.
(2) Lê Trần Đức, bài Tìm hiểu Ngư Tiều y thuật vấn
đáp in trong tập Nguyễn Đình Chiểu, Sở Văn hóa và Thông tin, Hội Văn nghệ
Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre xuất bản, Bến Tre, 1984, tr. 65.
(3) Bài Y đức học Việt Nam trong Ngư Tiều y thuật vấn
đáp, in trong tập Nguyễn Đình Chiểu, Sở Văn hóa và Thông tin, Hội Văn nghệ Nguyễn
Đình Chiểu Bến Tre xuất bản, Bến Tre, 1984, tr. 147, 148.
(4) Bản in trên báo Châu Á, loại thứ 6, tập III, tháng
Giêng và tháng hai, (Paris 8-1-1864- bản dịch của Lê Xuân Ninh).
(5) Trích ở quyển Lục Vân Tiên, Nxb. Ernet Lerơux,
Paris, 1883 – bản dịch của Lê Xuân Ninh.
(6) Trả lời phỏng vấn của RFI, tạp chí Văn hóa ngày
5-7-2013.
28/6/2021
Nguyễn Chí Bền
Nguồn: Văn Nghệ số 26/2021
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét