Thi sĩ, người thiết lập một con đường ngôn ngữ, một
thế giới ngôn ngữ, dù để cho cái Đẹp (Mỹ), cho cái Thật (Chân), hay cho cái Tốt
(Thiện), thì thế giới ngôn ngữ đó bao giờ cũng in đậm nét sự tìm lại, nhớ lại,
khám phá trở lại cái thiên đường hài hòa đã mất, hay nói một cách triết học, in
đậm sự mong mỏi trở về Hữu thể, nỗi nhớ quê nhà Hữu thể (nostalgie de l'Etre).
Con người từ bao giờ, ít nhất là từ khi
sanh ra đời, đã bị cắt lìa với Hữu thể (Etre, Being, Sein), như đứa
bé phải cắt lìa cuống rốn để giã từ thai tạng, giã từ lòng mẹ. Hữu thể là chữ của
văn hóa Tây phương, còn trong ngữ cảnh Đông phương thì có thể gọi là Đạo, là Thể
tánh, là Pháp giới tánh, là tánh Không... Còn nói theo ngôn ngữ hiện đại chung
cho cả Tây lẫn Đông thì đó là Thực tại (ví dụ phẩm Nhập pháp giới của kinh Hoa
Nghiêm, Thomas Cleary dịch là Entry into the Realm of Reality), là cái Toàn thể,
cái đầu tiên và cuối cùng, cái Đời Sống viết hoa. Ra đời, nghĩa là từ giã thế
giới bản thể, cái hỗn mang đồng nhất để đến sống trong thế giới hiện tượng sai
biệt và vì sai biệt cho nên có thời gian, vô thường và cái chết.
Thi sĩ, người thiết lập một con đường ngôn ngữ, một
thế giới ngôn ngữ, dù để cho cái Đẹp (Mỹ), cho cái Thật (Chân), hay cho cái Tốt
(Thiện), thì thế giới ngôn ngữ đó bao giờ cũng in đậm nét sự tìm lại, nhớ lại,
khám phá trở lại cái thiên đường hài hòa đã mất, hay nói một cách triết học, in
đậm sự mong mỏi trở về Hữu thể, nỗi nhớ quê nhà Hữu thể (nostalgie de l'Etre).
Người ta thường trách các thi sĩ có giọng điệu buồn, luyến tiếc, ca thương cho những mất mát. Nhưng trách làm sao được, khi những người đầy tính xã hội, tính lý trí như Khổng Tử ở Đông phương và Karl Marx ở Tây phương cũng đi tìm tương lai của xã hội bằng sự hoài nhớ quá khứ. Một đằng là nhớ tưởng về đời Nghiêu Thuấn, một đằng ngầm ẩn một hoài nhớ Do Thái giáo về viễn tượng trời mới đất mới sau khi thế giới đã kinh qua những đảo lộn cách mạng. Nhưng biện chứng pháp là gì nếu không phải là sự lặp lại ở mức cao hơn cái ban đầu?
Người ta thường trách các thi sĩ có giọng điệu buồn, luyến tiếc, ca thương cho những mất mát. Nhưng trách làm sao được, khi những người đầy tính xã hội, tính lý trí như Khổng Tử ở Đông phương và Karl Marx ở Tây phương cũng đi tìm tương lai của xã hội bằng sự hoài nhớ quá khứ. Một đằng là nhớ tưởng về đời Nghiêu Thuấn, một đằng ngầm ẩn một hoài nhớ Do Thái giáo về viễn tượng trời mới đất mới sau khi thế giới đã kinh qua những đảo lộn cách mạng. Nhưng biện chứng pháp là gì nếu không phải là sự lặp lại ở mức cao hơn cái ban đầu?
Thi sĩ là sự hoài nhớ cái ban đầu (Cái thuở ban đầu
lưu luyến ấy. Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên). Thi sĩ là người nhớ lại Hữu thể qua
ngôn ngữ. Hữu thể là cái mà mình đã đánh mất, đã quên đâu đó từ lúc nào không
rõ. Phải chăng Hữu thể là cái tinh túy, là yếu tính (essence) của cuộc sống, của
hiện hữu (existence) ở trần gian này? Phải chăng Hữu thể là cái hiện hữu của hiện
hữu, cái đời sống của đời sống (existence de l'existence, existence vừa có
nghĩa là hiện hữu, vừa có nghĩa là đời sống)? Và nếu theo chủ nghĩa hiện thực
thì thi sĩ sẽ ở mức độ của mình thể hiện cái hiện thực của chủ nghĩa hiện thực
(la réalité du réalisme).
Thi sĩ là người tìm lại sự hài hòa của trời - đất -
người (Thiên - Địa - Nhân), tìm lại một vũ trụ hài hòa trước khi có cơn gió bụi:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Chinh phụ ngâm)
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Chinh phụ ngâm)
Không phải tình cờ mà tập thơ đầu tay và cảm thức đầu
đời của Chế Lan Viên có tên là Điêu tàn. Điêu tàn không phải chỉ là sự điêu tàn
cụ thể của vương quốc Chiêm. Điêu tàn là cái thế giới này so với cái vương quốc
lý tưởng luôn nằm trong tâm tưởng mà hình như mình đã từ bỏ, đã bị cắt lìa. So
với cõi “thiên tiên” của Văn Cao trong những bài hát Suối mơ, Bến xuân, Thiên
thai trong vắt thì ở đây quả là điêu tàn. So với cái “sơ nguyên tượng”, “sơ
nguyên mộng” (chữ của Bùi Giáng) thì đây quả là đất trích và thi sĩ là trích
tiên, tiên bị đày xuống thế gian:
Lên mù sương xuống mù sương
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều bay qua
Bể dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
(Áo xanh – Bùi Giáng)
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều bay qua
Bể dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
(Áo xanh – Bùi Giáng)
Con người nói chung và thi sĩ nói riêng, có ai mà
không “một lần lạc bước bước ra”, ra khỏi và nhớ mãi một “ngõ ban sơ”, một “mưa
nguồn”, một “màu hoa trên ngàn”:
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn.
(B.G)
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn.
(B.G)
Trong bài thơ viết về Đà Lạt, Bùi Giáng đã nói giùm
chúng ta một quê hương đích thật đã chìm đâu trong dâu biển trùng trùng:
Non nước ấy chìm đâu em có biết
Dựng bên trời để nhớ để quên đi
Màu nước chảy để dư vang chia biệt
Vọng miên man trường hận thở than gì.
“Ngày mở mắt ở đây” cũng là ngày mất mát “bờ bên kia” (bỉ ngạn, thuật ngữ PG):
Ngày mở mắt ngó trời xanh xa thế
Ở đây là màu đất cỏ xuân con
Hè nắng hạ với thu đông buồn thế
Với tình yêu em giữ mất hay còn.
(B.G)
Non nước ấy chìm đâu em có biết
Dựng bên trời để nhớ để quên đi
Màu nước chảy để dư vang chia biệt
Vọng miên man trường hận thở than gì.
“Ngày mở mắt ở đây” cũng là ngày mất mát “bờ bên kia” (bỉ ngạn, thuật ngữ PG):
Ngày mở mắt ngó trời xanh xa thế
Ở đây là màu đất cỏ xuân con
Hè nắng hạ với thu đông buồn thế
Với tình yêu em giữ mất hay còn.
(B.G)
Hàn Mặc Tử, trong tập thơ đầu tiên Gái quê, lúc ông
mới 23 tuổi, chưa bị bệnh tật hành hạ và cái chết réo gọi từng ngày, đang tuổi
thanh niên tài năng nở rộ và phơi phới tình yêu, chúng ta vẫn bắt gặp một nỗi
nhớ nhung mênh mông, một xao xuyến mông lung, một khắc khoải mơ hồ nào đó. Bài
thơ đăng lần đầu trên báo Sài Gòn Văn Chương được đặt tên là "Mong đợi",
về sau trong tập thơ đổi thành "Tình quê", và được phổ nhạc đã lâu:
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên ngừng lại
Dòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường đê mê...
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên ngừng lại
Dòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường đê mê...
Nhớ mong và xao xuyến, khắc khoải như chờ đợi một
cái gì không biết đã đánh mất ở đâu từ đâu, và mơ hồ mong gặp lại. Đây là sự nhớ
mong, xao xuyến, khắc khoải của chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa, lang thang
phiêu giạt đói khổ cả vật chất lẫn tinh thần, tuy không biết mình là đứa con một
trưởng giả giàu có, thân phận mình không phải nghèo nàn lang thang, nhưng đôi
lúc rảnh rang giữa cảnh “tình quê”, không khỏi bâng khuâng tự hỏi biết đâu mình
lại có một quê nhà ở đâu đó.
Thi sĩ là nỗi nhớ muôn kiếp, là bài sầu ca (élégie)
nhớ xứ mênh mông:
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tự thuở xưa tìm về
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu...
Đêm mơ lay ánh trăng tròn
Hồn xưa gởi tiếng thời gian, trống dồn.
(Chiều xưa - Huy Cận)
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tự thuở xưa tìm về
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu...
Đêm mơ lay ánh trăng tròn
Hồn xưa gởi tiếng thời gian, trống dồn.
(Chiều xưa - Huy Cận)
Nỗi nhớ mong, sầu xứ, xao xuyến, khắc khoải, bất an
này là một cảm thức mang tính hữu thể học (ontologie). Có nhớ mong, có bất an,
khắc khoải, thì phải có một cái gì đó: một cái gì đó chìm sâu đâu trong tiềm thức
để khơi gợi về một cái toàn thể, một cái hài hòa khiến cho ta có những cảm thức
này và để cho những cảm xúc ấy trở về và chấm dứt trong đó. Còn nếu không có Hữu
thể thì cũng phải có một cái gì đó cho mọi khắc khoải chấm dứt, dù đó là Hư vô
(le Néant), mà Hư vô hiểu một cách thô thiển là cái chết. Phải chăng, có sự bất
an của cái phần tử là bởi vì nó âm thầm cảm thấy một cái Toàn thể nào đó để giải
quyết cho nỗi bất an tự nền tảng hiện hữu của nó, và dù gì nó cũng phải tự giải
quyết nỗi bất an đó (Tập thể) bằng cách giải thể toàn bộ cơ cấu của những cái
đã tạo ra bất an (Tập đế) để chấm dứt hoàn toàn mọi bất an (Diệt đế) bằng một
con đường tự giải thoát (Đạo đế). Chẳng riêng gì thi sĩ, con người ai cũng phải
đi theo tiến trình này, dù có khi chỉ là theo cách của mình, khả năng của mình,
ảo vọng của mình.
Thi sĩ là người nhớ và tưởng, là kẻ si tình Hữu thể,
cái Toàn thể, cái Hài hòa xa xưa, cái Thiên Nhiên viết hoa, mà hình như mình đã
đánh mất hoặc có thể chưa bao giờ có nhưng rồi phải đạt đến. Cái đó có thể là
Em của Trịnh Công Sơn, một Em mà tất cả những cô gái trên đời này chỉ là cái cớ,
cái phản ảnh xa vời của cái Em vĩnh cửu, Em thiên thu. Ngay cả Diễm, một người
có thật, thì Diễm đó cũng phải là Diễm xưa, Diễm xa xưa, Diễm huyền thoại, Diễm
của ký ức, nghĩa là của một thời gian xa xôi thụt lùi đến tận vĩnh cửu thiên
thu. Và Diễm đó hay những ai đó được đồng hóa với vũ trụ, với thiên nhiên, với
trời đất vốn hài hòa từ nguyên thủy:
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao...
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du
(Diễm xưa)
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao...
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du
(Diễm xưa)
Chỉ một “đôi vai gầy guộc nhỏ” cũng làm cho nhạc sĩ
- nhạc sĩ là nhà thơ của âm thanh - mơ về “chốn xa xăm”:
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh hạc về chốn xa xăm...
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh hạc về chốn xa xăm...
Chỉ một thoáng em đi qua cũng đủ để “tôi tìm thấy
tôi”, để nghe “lời thiên thu gọi”, cũng đủ để “Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường”:
Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
Làm nhiều lá bay trên đường đi
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ
Ta nghe đời rất mênh mông
Trong chân người bước chầm chậm....
Dưới đường phố kia có người nhớ em
Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường.
Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
Làm nhiều lá bay trên đường đi
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ
Ta nghe đời rất mênh mông
Trong chân người bước chầm chậm....
Dưới đường phố kia có người nhớ em
Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường.
Nhưng dù có khi “Nghe lời thiên thu gọi”, có khi
mơ“ ta về đất rộng khói trời mênh mông”, thì tất cả cũng chỉ là nhớ và tưởng, bởi
vì “rừng xưa đã khép”. Vì “rừng xưa đã khép” nên “trong khi ta về lại nhớ ta
đi”, “nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa”. Rừng xưa đã khép từ khi cuộc đời làm
người trần thế mở ra. Đạo không còn là một vòng tròn vĩnh cửu toàn vẹn như các
họa sĩ Đông phương vẫn vẽ, đạo đã trở thành con đường gập ghềnh khổ ải cho thân
phận con người ra đi và trở về. Và khổ sở hơn, ra đi mà không đến và trở về mà
không tới.
Mở ra với thế giới này là “đã mất”, “đã lỡ”, đã “lạc
trời cao”, đã “không thành”, như bài thơ "Hư vô" và "Vĩnh viễn"
của Bùi Giáng:
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
Buổi trưa đi vào giữa dòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình...
Mở ra con đường nhân gian là “tự ấy không về nữa”, là mất mát suốt đời:
Hồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm.
(Hàn Mặc Tử)
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
Buổi trưa đi vào giữa dòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình...
Mở ra con đường nhân gian là “tự ấy không về nữa”, là mất mát suốt đời:
Hồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm.
(Hàn Mặc Tử)
Sứ mạng của thi sĩ là nhớ và tưởng. Nhưng nhớ và tưởng
bao giờ cũng là nhớ trở lại và tưởng trở lại. Nhớ (to recollect) và tưởng (to
reflect) đều bao gồm tiếp đầu ngữ (re, trở lại). Nhớ (recollect) còn có nghĩa
là gom góp (collect) trở lại (re). Gom lại một thế giới đã bị phân mảnh, để làm
hoàn nguyên thế giới. Cho nên con đường của thi sĩ là con đường trở lại, trở về.
Trở lại là hướng chung với Đông phương, chỉ nêu vài từ ngữ Phật giáo: Quy y (trở
về nương tựa), hồi quang phản chiếu (xoay trở lại ánh sáng để soi chiếu), hồi đầu
thị ngạn (quay đầu lại là bờ)... Lão Tử: “Đạo là ra đi, ra đi là đi xa, đi xa
là trở về”.
Con đường của thi sĩ là con đường hồi hương (Bùi
Giáng: Hỏi quê rằng biển xanh dâu, Hỏi tên rằng mộng ban đầu đã xa). Hồi hương
bằng ngôn ngữ và qua ngôn ngữ. Và thi ca là ngôn ngữ hồi hương. Nói cách khác,
thi ca là sự hồi hương, sự về nguồn của ngôn ngữ.
Thi sĩ là người phát ngôn cho con người về sự nhớ
và tưởng tối hậu của con người, về sự mất mát (do lãng quên) tối hậu của con
người. Trong nhớ tưởng của riêng mình, thi sĩ thiết lập một khu vườn (như
Tagore xem mình là Người làm vườn - đầu đề của một tập thơ của Tagore) của ngôn
ngữ, mời gọi Hữu thể về trú ngụ. Thi sĩ là người lập ra một thế giới ngôn ngữ
(lập ngôn). Nhưng lịch sử thi ca đã cho thấy nhiều, rất nhiều khu vườn ngôn ngữ
được lập ra nhưng linh hồn của thi ca, Hữu thể, không về để trú ngụ, hoặc là chỉ
ghé thoáng qua rồi ra đi biệt. Linh hồn của thi ca, hạc vàng Hữu thể chỉ thoáng
ghé qua đâu đó một lần trong lịch sử một đời người, rồi ra đi vĩnh viễn, để lại
lầu Hoàng hạc vẫn còn nằm đó trơ trụi, vắng không:
Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất
Hoàng hạc lầu đây mãi trống không
Hạc vàng một đi không về nữa
Ngàn năm mây trắng đuổi mênh mông
Sông tạnh Hán Dương cây lúp xúp
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh xa
Chiều xuống nào đâu quê xứ cũ
Khói sóng trên sông lạnh phiến sầu.
(Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu)
Hoàng hạc lầu đây mãi trống không
Hạc vàng một đi không về nữa
Ngàn năm mây trắng đuổi mênh mông
Sông tạnh Hán Dương cây lúp xúp
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh xa
Chiều xuống nào đâu quê xứ cũ
Khói sóng trên sông lạnh phiến sầu.
(Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu)
Thi sĩ là người lang thang tìm kiếm bằng ngôn ngữ,
bằng nhớ và tưởng của mình. Trên bước đường lang thang, những con đường không dẫn
về đâu ấy, đôi khi một bước chân như tình cờ trùng hợp với Con đường (Đạo). Những
khoảnh khắc ấy, người ta gọi là xuất thần (extase), có nghĩa là: “Ở bên ngoài
mình, ra khỏi mình, ra khỏi vị trí của mình” (ex: ra khỏi; stasis: vị trí). Đó
là trong một giây phút thoáng qua, nhớ tưởng bắt gặp đối tượng của mình, khoảng
cách thời gian không gian không còn nữa. Nhớ tưởng gặp lại, đối diện lại
(rencontrer: re (lại), encontrer (chạm mặt, đối diện) đối tượng bấy lâu nhớ tưởng.
Hay nói theo ngôn ngữ Phật giáo, đối tượng của nhớ tưởng không còn bị che khuất,
trở nên “hiện tiền” (hiện diện trước mặt).
Hàn Mặc Tử, nỗi ám ảnh của ông là Trăng, hầu như bài nào cũng có chữ Trăng. Trăng như thực tại tối hậu, trăng như sự giải thoát. Trong bài thơ "Trăng vàng trăng ngọc" (bài này có phổ nhạc), ông mở đầu, rồi ở giữa và chấm dứt (3 lần) chỉ bằng một câu:
Hàn Mặc Tử, nỗi ám ảnh của ông là Trăng, hầu như bài nào cũng có chữ Trăng. Trăng như thực tại tối hậu, trăng như sự giải thoát. Trong bài thơ "Trăng vàng trăng ngọc" (bài này có phổ nhạc), ông mở đầu, rồi ở giữa và chấm dứt (3 lần) chỉ bằng một câu:
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng.
Trong một giây phút xuất thần, ông đã thoáng thấy
con đường trở về. Nói theo ngôn ngữ TP - như một gợi ý, vì tinh túy của thi ca
thì không thể giải thích, chỉ có thể gợi ý - thì:
L'Etre (Trăng) est l’Etre (Hữu thể là Hữu thể). Hay: Hữu thể là (L'Etre est), hay dịch theo cách khác, Hữu thể đang là. Nói theo Đông phương, cái Hiện tiền đang hiện tiền. Hay: cái vốn có thì đang có, cái vốn hiện hữu thì vẫn đang hiện hữu. Nói một cách triết học, đó là cái Như thị, tánh Như, hay “Tất cả các pháp bổn lai thanh tịnh”...
L'Etre (Trăng) est l’Etre (Hữu thể là Hữu thể). Hay: Hữu thể là (L'Etre est), hay dịch theo cách khác, Hữu thể đang là. Nói theo Đông phương, cái Hiện tiền đang hiện tiền. Hay: cái vốn có thì đang có, cái vốn hiện hữu thì vẫn đang hiện hữu. Nói một cách triết học, đó là cái Như thị, tánh Như, hay “Tất cả các pháp bổn lai thanh tịnh”...
Sứ mạng của thi sĩ là nhớ và tưởng. Qua sự nhớ và
tưởng của những thi sĩ, họ đã giúp con người chúng ta đến đối diện với sự nhớ
tưởng tối hậu của mỗi người. Chính trong sự nhớ tưởng đó, con người được nâng cấp,
được sửa soạn hành trang, mà theo Phật giáo, đó là một phần của giai đoạn Tư
lương vị. Cho đến một lúc nào, bằng con đường chơn chánh (Bát chánh đạo) nó sẽ
gặp được đối tượng của sự nhớ tưởng. Gặp lại, đó là ý nghĩa của sự trở về.
Trở về với cái gì, gặp lại cái gì? Ở cấp độ hoàn
toàn của sự giải thoát, của sự về đến (Đệ bát địa, tương đương cấp độ A la hán
của Nam tông), kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa nói đến thật tánh như đối tượng của
sự trở về: “Thật tánh của mọi sự là chân thường, tánh Như, vượt khỏi tư tưởng”.
Và tại sao gọi con đường ấy là sự trở về, về nguồn,
về với thật tánh bổn nguyên? Một trong mười từ ngữ để gọi địa này là Đồng chơn
địa (Thomas Cleary dịch là “The stage of youth, because of innocence”, “địa của
sự trẻ trung, vì trong trắng vô nhiễm”. Nói theo ngôn ngữ Thiền, trở về với “bổn
lai diện mục”, khuôn mặt xưa nay của tất cả.
Sự phát triển của thi ca là sự phát triển của con
đường trở về. (Ngay cả khoa học vật lý cũng là đi trên con đường hoàn nguyên:
tìm lại bản chất tối sơ của vũ trụ là gì). Thi ca là con đường trở về của ngôn
ngữ. Và nói rộng ra, tất cả mọi loại nghệ thuật là con đường trở về của/bằng/qua/mọi
phương tiện nghệ thuật.
Nguyễn Thế Đăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét