Giữa dòng hiện sinh
Tiểu thuyết GIỮA DÒNG CHẢY LẠC,
của Nguyễn Danh Lam, Nxb Văn
Nghệ 2010
Giữa Dòng Chảy Lạc (GDCL) là câu chuyện của một gã
tâm thần đơn độc với tuổi già phía trước (tr.373). Vợ mới cưới được ba
tháng đã bỏ đi. Người bạn họa sĩ tâm giao cũng chết đột ngột không rõ nguồn
cơn. Người bạn thời sinh viên, sau tai nạn phải sống thực vật cũng đã ra đi. Mấy
lần đi xin việc rồi phải bỏ việc. Nhiều lần lên cơn điên hiện sinh tưởng đã
chia lìa cõi đời phù du này. Chỉ còn lại một con người đơn độc, bất lực, vô vọng,
không biết về đâu, không chốn nương thân (NO COUNTRY FOR OLD MEN. tr.375) giữa
dòng chảy cuộc đời.
Nếu tác phẩm chỉ là như thế, hẳn bạn đọc sẽ nghĩ đây là một
câu chuyện nặng đầu, khô khan và lạc lõng giữa những cuốn tiểu thuyết khác đầy
sex, đầy hoan lạc. Trái lại, ngòi bút Nguyễn Danh Lam (NDL) miêu tả tuyệt hay
chuyện tình của nhân vật Anh, dựng những cảnh đối thoại chàng và nàng sinh
động và trí tuệ đến không ngờ, thâm nhập rất sâu vào tâm thức nhân vật để phát
hiện những trạng thái hiện sinh mê cuồng. NDL cũng có những chi tiết miêu tả
chân thật đến độ sững sờ. Một giọng văn đôn hậu ấm áp và một cách viết hấp dẫn
đến những dòng cuối cùng.
Đọc GDCL, người đọc bị treo lửng lơ giữa nhiều tầng ý nghĩa,
mà chưa hẳn đã nhận ra rạch ròi ý nghĩa nào là thông điệp đích thực của tác phẩm.
Ý nghĩa hiện thực hay ý nghĩa tư tưởng. Lòng yêu thương hay thái độ phê
phán? Phải chăng GDCL là một thách thức về cách đọc? Chỉ điều này là rất thực:
Tiếng nói của NDL trong tác phẩm là tiếng nói tỉnh táo, trải nghiệm và rất hồn
hậu. NDL có khả năng nhìn xuyên qua nhiều thế giới, để đi đến tận
cùng của phận người, kiếp người, lạc lõng giữa dòng chảy khốc liệt ngoài kia,
những con người mà anh gọi là một “Lost Generation”, khi cái cũ đã qua mà
cái mới còn chưa tới.(1)
Những câu chuyện tình lãng mạn nhưng nhiều vị đắng
Anh là một người cô đơn nên chân thành tìm kiếm tình
yêu. Khi bất chợt gặp Cô trong công ty Bảo Hiểm lúc chờ phỏng vấn, Anh đã
tạo được sự tư tin trước mặt cô lúc có đám cháy làm mọi người hoảng loạn. Sau
đó Anh mong chờ mỏi mòn một tin nhắn, một cuộc gọi của Cô. Tất cả
bặt tăm, rồi đột nhiên Anh nhận tin nhắn của Cô, hẹn đi uống
café, rồi cùng đi chơi biển. Cuộc đi chơi với bao nhiêu hào hứng bỗng
khựng lại vì Cô đòi về. Sau đó lại mất tăm. Anh chạy theo Cô như
trong một cuộc chơi cút bắt. Lại mong chờ mỏi mòn, và rồi Cô lại
đến. Lần này Cô yêu cầu Anh chở ra ngoại thành chơi. Quả là một dịp
tuyệt vời để tỏ tình, để những quan hệ tình thân trở nên thắm thiết. Cô nằm
trên cỏ, hai người tâm tình. Chiều xuống, trước khi trở về thành phố, Cô
nói một lời làm anh hụt hẫng, Anh chỉ là bạn thôi. Cô lại biến mất.
May mà trong mobile còn tấm hình Anh chụp lén lúc cô nằm trên cỏ. Anh để
làm hình nền.
Cô mất tích. Anh trở lại cô đơn hơn bao giờ.
Khi đi đăng ký đi học tiếng Anh, Anh gặp một cô gái khác, xinh đẹp và
hơn anh về trình độ hội thoại. Lại mong chờ, đón đợi để được làm quen, Anh mua
tặng cô bô CD học tiếng Anh. Rồi bất ngờ, cô nhờ Anh chở về nhà. Cô
nói rõ gia cảnh khốn khó của mình. Cô đi học tiếng Anh là để mong
quen một người xuất cảnh đem cô theo. Một lần không tiện về nhà, cô
xin Anh chở cô về nhà Anh. Anh nghĩ đây sẽ là dịp thuận tiện
nhất để bày tỏ lòng mình. Nhà chỉ có hai người. Khi cô ngủ, Anh thức
bên cô để bảo vệ giấc ngủ của cô, có lúc không kềm được xúc động. Rồi Anh thiếp
đi. Khi Anh thức dậy, cô đã bỏ đi, đồng thời số phone của cô trong
máy Anh cũng bị xóa mất. Cô để lại một lá thư chia tay. Chúc Anh và
vợ hạnh phúc. Cô ngỡ hình nền cô gái trong mobile là người vợ của
Anh. Cô bỏ đi để lại một là thư chia tay. “Trái tim anh thắt nghẹn.
Yêu thương. Nuối tiếc. Ân hận. Dằn vặt. Tuyệt vọng… Mớ cảm xúc hỗn mang, nhào lộn…” (tr.179)
Anh bấm máy và gặp lại Cô (làm ở công ty bảo hiểm), hiện
Cô đang thất nghiệp và cô đơn. Anh đến nhà thăm cha mẹ cô, được sự đồng
ý của ông bà, Anh quyết định lấy cô. Ngày hẹn Anh đi lấy
thiệp cưới, cô lại bỏ đi chơi với bạn. Anh giận điên người nhưng nhẫn
nhịn. Đám cưới vẫn diễn ra vui vẻ với bao nhiêu hy vọng đổi đời. Nhưng thực tiễn
lại héo hắt vì tiền bà chị gửi mừng đám cưới, sau khi thanh toán mọi
khoản, còn lại anh phải bù đắp cho một người bạn bị tai nạn nằm viện. Trăng
mật diễn ra tẻ nhạt hiu hắt trong một nhà nghỉ nghèo ở biển. Những
ngày sau đó, Cô đi công tác hoài. Nhiều đêm không về nhà. Có gí đó bí mật về Cô mà
anh chưa biết. Cuộc sống căng thẳng và lạnh lẽo. Nhiều lần Cô từ chối
những đề nghị của Anh. Hôm kỷ niệm 3 tháng ngày cưới, Anh mua
quà chờ Cô về để tặng, nhưng Cô không về. Anh
tìm Cô ở cổng cơ quan. Có thấy bóng Cô nhưng rồi mất
hút. Anh phóng xe đuổi theo. Như một mật thám xem Cô đi
đâu, với ai. Anh biết điều ấy là tồi tệ, nhưng không thể khác. Rất
may Cô đi với một cô bạn tới một khách sạn. Khi Cô trở về, hai người
đối mặt nhau quyết liệt trước sự thật. Cô ra đi trong tan vỡ phũ phàng.”… anh cảm
thấy sự sống đang trôi ra khỏi mình, chầm chậm, như những giọt máu đang kiệt dần
trong huyết quản. Những giờ dài không uống, không ăn, nối nhau tan lìm lịm” (tr.324)
Anh nhận ra điều này: “Hai lá thư để lại.Hai người con
gái. Hai cung cách biến mất vô dấu tích, ngay cả đến số điện thoại của họ anh
cũng chẳng còn. Hai phiên bản chồng lên nhau, tạo nên một độ mờ nhòe khiến cả
hai càng gần với ảo giác “(tr.327) và cả Anh nữa, tất cả cũng chỉ
là một phiên bản những con người cô đơn, dở dang, vô vọng “Tất cả đều
lạc nẻo, càng cố trở về càng trôi xa hút, càng cố kiếm tìm càng hoài công mệt mỏi” (tr.304).
Hai cuộc tình mà anh tốn nhiều công sức theo đuổi, cuối cùng vuột khỏi tay anh,
dù anh cố sức đến kiệt lực, đến mỏi mòn để giữ. Điều gì làm Anh thất bại? Trong
tình yêu, Anh rất trân trọng Cô, rất cảm thông hiểu biết từng
tình huống cụ thể, Anh chịu nhận phần thiệt về mình. Cả hai
cô đều xinh đẹp, lịch lãm, tinh tế, và mạnh mẽ. Cả hai đều có lòng tự
trọng rất cao, thẳng thắn và chủ động trong tình yêu, trong sự định đoạt số phận
mình. Vậy mà họ phải chia tay nhau.
Bởi vì có độ kênh trong ý thức về tình yêu giữa Anh và
hai cô. Anh là người cô đơn, tìm đến Cô là để có người chia
sẻ, là để đổi đời, đổi số phận. Cô gái học Anh văn tìm đến Anh vì ngỡ Anh là
người sắp đi xuất cảnh, nhưng khi phát hiện ra trong mobile của anh có hình cô
gái, cô ngỡ là vợ anh, nên bỏ đi, đó là lẽ tất nhiên, cũng là tự trọng. Rõ ràng
giữa họ có sự ngộ nhận, và chưa hề có tình yêu. Cô gái chỉ muốn nương vào Anh để
thoát cảnh nghèo của gia đình. Với Cô (Bảo Hiểm), hai người đã có những
kỷ niệm đầy ấn tượng, đã hiểu biết nhau nhiều hơn, đã đi đến hôn nhân và chung
sống được 3 tháng, nhưng tại sao Cô ra đi. Cô đã trách anh thờ ơ,
không quan tâm đến cô. Còn Anh, mỏi mòn trông đợi ở Cô hạnh phúc
gia đình như anh hằng mong mỏi (có con), mong một cuộc sống đầm ấm như bao người,
nhưng Cô cứ bỏ nhà đi suốt. Anh hỏi thì Cô nói là
đi công tác hoặc bận việc công ty. Chỉ khi không còn cách nào che dấu, Cô mới
thú nhận với anh mình có tình yêu đồng tính với cô bạn gái cùng cơ quan. Họ đi
nhà nghỉ với nhau ngay trước ngày đám cưới và những ngày sau đám cưới. Có thể Anh đã
không giúp cô trở lại bản năng phụ nữ, để rồi Cô lại băng mình đi,
còn Anh thì xót xa thương cảm. Cả hai đều không có tình yêu. Đám cưới
của họ là do ước muốn thiết tha của hai gia đình. Dù Anh tha thiết
xin sống với cô như bạn, nhưng cô đã rũ bỏ sạch mọi quan hệ với Anh.
Dù sao đó cũng là lòng tự trọng đáng thương.
Cũng phải kể đến cuộc tình năm ngày của chị gái Anh với
anh rể. Anh rể về nước, quen chị năm ngày thế là thành vợ chồng.
Anh về nước để xả stress và hưởng thụ nhà hàng, rượu và gái, chẳng cần dấu diếm
cậu em vợ.
Tất cả những cuộc tình ấy hé lộ điều gì về thực trạng gia
đình Việt Nam hôm nay. Cái nghèo vẫn chi phối quay quắt. Tháng lương làm
thuê của Anh bèo bọt đến nỗi Anh không dám về nhà. Cô gái học
Anh văn chỉ mong tìm người xuất để thoát nghèo. Tuần trăng mật của Anh và
Cô (Bảo hiểm) hiu hắt thê lương trong nhà trọ rẻ tiền, chỉ vì Anh và
Cô cùng đang thất nghiệp. Tiền bà chị gửi cho thì đã nhẵn túi. Chủ nghĩa thực dụng
làm sụp đổ tất cả. Cô bảo Hiểm lấy Anh chỉ là để che dấu cái thực tại
đồng tính của mình trước mặt cha mẹ và mọi người. Vì thế, dù gia đình cha mẹ
cô, gia đình cha mẹ và chị của Anh, và cả Anh nữa, có khao khát
thế nào, vun đắp thế nào cũng chỉ là xây nhà trên cát. Tất cả đều thật đáng
thương trước sự phũ phàng của dòng đời hôm nay. Nó cứ băng về trước và hất ra
bên lề những con người cố giữ lấy những giá trị truyền thống, giá trị nhân bản.
Tiếng kêu cứu của tác phẩm là tiếng kêu thống thiết. Số phận của Anh và
cái chết của ông Họa Sĩ như một lời cảnh báo cho mọi gia đình, mọi
người trẻ về thực tại kiếm tìm hạnh phúc của họ. Tác giả không đưa ra lời giải
đáp, nhưng người đọc có thể hiểu được những gì tác giả gửi gắm trong những
trang văn nặng lòng của mình.
Có thể nói sức cuốn hút của GDCL là từ những cuộc tình được
miêu tả thật hấp dẫn này. Người đọc khát khao tìm biết xem diễn cuộc tình sẽ ra
sao. Điều bí mật luôn ở trước mặt họ. Rồi những kết thúc đột ngột làm sững sờ
và tiếc nuối. Ai cũng mong cho Anh và Cô tìm được hạnh phúc, bởi vì họ
thực tình tìm kiếm nhau, bởi họ rất tự trọng và giữ gìn nhân cách. Những cuộc đối
thoại của họ được viết rất tài năng, nó vừa tự nhiên như ngoài đời, nhưng lại
là những cuộc thách đố trí tuệ giữa hai con người. Tất cả đều được soi chiếu
qua óc quan sát tinh tế và giàu kinh nghiệm cuả Anh. Điều đáng quý là
trong tác phẩm này NDL không hề miêu tả sex, mặc dù anh có nhiều cơ hội để phơi
bày những hành vi giao cấu (như nhiều nhà văn trẻ khác đã làm để câu khách). Thế nhưng
truyện vẫn hấp dẫn. Người đọc không thể rời tay trước khi đọc hết dòng
cuối cùng của tập truyện. Kinh nghiệm khám phá và miêu tả thế giới
bên trong con người, khám phá ý thức về bản thể tạo sự hấp dẫn cho
tác phẩm, có thể sẽ là rất tốt cho cho sự thử nghiệm của các cây bút trẻ khác.
Một thế giới yêu thương rất mực
Người chị gái của Anh ở Mỹ là một hình ảnh của thế
giới ấy. Tất cả dành cho em, lo cho em. Ngoài tiền chị gửi về cho em ăn xài, chị
còn lo cho công việc của em, lo cho em lập gia đình. Chuyện gì khó khăn của em
chị cũng nhận lấy “để chị tính”. Anh lặng người. ”để chị tính”, với anh bà luôn
là vậy. Sống giữa cái đất nước ‘chẳng ai lo cho ai’, sự tự thân tồn tại đã trở
thành văn hóa, thành động lực xã hội, bà chị Anh vẫn thế, vắt kiệt sức mình để
lo cho những người thân” (tr.226). Dường như tình yêu thương của chị với em là
không vơi cạn. Tình yêu thương ấy bao trùm suốt tác phẩm, suốt đời em, cả khi
em đã lập gia đình và hứa không làm phiền chị.
Tình yêu thương của gia đình Cô (Bảo hiểm ) đối với
con gái và con rể (Anh) cũng thật sâu nặng và cảm động. Họ mong cho con hạnh
phúc, tuy vậy họ vẫn tôn trọng cá tính và cuộc sống riêng của con. Họ rất mừng
khi thấy con gái có nơi có chỗ, nhưng họ bất lực trước thực tại. NDL nói tiếng
nói chính thống về gia đình qua lời Ông bà già Cô nói với Anh:
- “Nó là con gái út, cá tính lại mạnh mẽ. Bao nhiêu người
quen, nó chẳng chịu người nào. Chẳng phải là con gái mình hư, nhưng bác chỉ sợ
nó theo cái mốt của xã hội bây giờ, nhiều cô chẳng muốn ràng buộc gia đình, cứ
thế tự sinh rồi tự nuôi. Giờ biết nó muốn đến với con, hai bác mừng lắm.
- Không - Ông cương quyết lắc đầu - Thời nào thì cũng phải
vậy. Tạo hóa đã quy định rồi. Người cha có phần của người cha, người mẹ có phần
của người mẹ. Có cha có mẹ đầy đủ mới tác động tốt đến tâm sinh lý đứa bằng, phát triển không tốt
về sau. Và chính xã hội sẽ phải gánh chịu sự mất cân bằng ấy. Mình muốn tự do
mà tước đi sự cân bằng của đứa trẻ, là mình ích kỷ. Bác không ủng hộ điều đó” (tr.193)
Khi cô bỏ đi chơi với bạn ngay trước ngày cưới, cả gia đình
hoảng loạn, anh cũng giận điên người. Mọi người sôi lên như trong vạc dầu lửa
bỏng. Rất dễ cáu gắt nặng lời, rất dễ tổn thương lòng tự trọng. Đó là tình huống
bẽ bàng cho cả cha mẹ cô dâu và chú rể. Tình huống có thể đẩy cao nghi ngờ
thành đổ vỡ. Phải chăng cô đi chơi với người tình lần cuối trước khi lấy chồng.
Vậy thì chẳng còn gì để mà níu kéo. Tàn nhẫn và xỉ nhục nhau đến thế sao. Nhưng
tình yêu thương đã vượt lên. Mẹ cô nói với anh những lời trĩu lòng thế này
- “Nó còn trẻ lắm, mới để xảy ra chuyện như thế này. Hai
bác mong con tha lỗi cho nó, cho hai bác! Rồi còn sau này nữa chứ… Thật khổ
quá, chẳng dạy nổi con…
Anh phải gắng cười, đặt tay lên tay bà:
- Hai bác đừng nghĩ ngợi gì cả. Cô ấy đi chơi lần cuối với bạn
bè, trước khi lấy chồng, để chia tay thời con gái cũng là phải thôi bác ạ” (tr.202)
Trong lời đối thoại ấy, không chỉ có lòng yêu thương sâu thẳm
của cha mẹ, mà có cả một nền văn hóa nhân bản hàng nghìn năm. Những con người
yêu thương chia sẻ nỗi buồn đau xé lòng bằng những lời dịu êm để nỗi đau đằm xuống.
Trong hành xử, họ lấy sự tương kính làm trọng. Họ thành thật nhận lỗi với nhau,
và cùng giữ gìn sao cho mọi chuyện đều tốt đẹp, có ý thức tránh gây ra những đổ
vỡ.
Hình ảnh bà mẹ già chăm sóc người con đang sống thực vật cũng
là một hình ảnh ấn tượng. Cô em gái người bạn nói với Anh: ”Trước đây
mẹ tôi lẫn lắm, nhưng chẳng hiểu sao từ ngày anh đổ xuống, cụ lại mạnh lên. Cụ
làm tất cả như cái máy. Có lẽ là nhờ thương ảnh quá “ (tr329)
Quả thực, rất ít cây bút trẻ hiểu và diễn đạt được cái đẹp
văn hóa, cái đẹp nhân văn của con người Việt Nam như thế. Những điều ấy
tạo nên chiều sâu giá trị của tác phẩm và ánh lên những màu sắc thẩm mỹ lấp
lánh trên nền những bóng tối, bất lực và vô vọng của dòng chảy hiện sinh NDL
cũng miêu tả tình quê hương thật lắng đọng. Ông hoạ sĩ bạn Anh, sau khi đã
xuất cảnh, không sống nổi trong sự cô đơn và bất lực ở nước ngoài, đã trở về Việt Nam và
nói với Anh những lời gan ruột thế này:
“… Có ly cà phê, điếu thuốc, hít thở không khí quê
nhà. Tao như tỉnh lại. Rớm nước mắt mày ạ“
- Em
hiểu
- Mày
không thể nào hiểu được! Chắc chắn không thể nào, nếu mày chưa trải qua những
ngày tháng vừa rồi như tao! Nghe một tiếng chó sủa cũng rơi nước mắt!
Ông rút một hơi thuốc, nhấp ngụm cà phê. Khoé mắt bắt đầu
tinh anh, hấp háy
- Sướng
lắm mày ơi. Đêm qua tao vừa nghe tiếng rao! Chỉ vì cái tiếng rao nửa khuya ấy
mà tao trở dậy. Nằm trên giường cũ mà cứ run lên từng chặp! Nhắc lại điều này
có vẻ cũ, nhưng sự thực nó là vậy.” (tr.342)
Ấy là những dòng miêu tả được tình quê hương sâu nặng và cụ
thể trong lòng lão họa sĩ. Lão đã trở về, tìm lại quán cà phê trước
đây, lần ra bờ sông và rồi gửi mình trên sông nước quê hương. Cả khi đã vào cõi hư vô, lão vẫn nói với Anh cái khát vọng được gửi mình nơi dòng sông
quê hương mênh mang, mát rượi. Có thể nói NDL đã viết được một bài thơ đẹp về
tình quê hương, dù rằng những chuyện anh viết, nhiều người đã kể. Quê hương
không phải là cái gì trừu tượng, mà là tiếng rao đêm, là ly cà phê quán cóc, là
những con người nghèo khó nghĩa tình, là cả cái không khí hít thở hàng ngày.
Nhiều người muốn đi nước ngoài để có cuộc sống sung túc hơn thoải mài hơn, điều
ấy cũng là bình thường trong thế giới toàn cầu hóa, thế nhưng khi hội nhập với
thế giới ta không được để mất đi cái bản sắc văn hóa của mình, và tình yêu quê
hương là một trong những bản sắc văn hóa Việt Nam cần giữ gìn. Trong GDCL, Nguyễn
Danh Lam, đã khẳng định được điều ấy.
Tình bạn cũng được NDL miêu tả thật cảm động. Với người bạn bị
tai nạn chấn thương sọ não phải sống đời thực vật, mỗi lần đến thăm,
nhìn bạn, Anh đau xót vô vàn. “Anh lại gần, nhìn vào
gương mặt gã bạn có phần ngổ ngáo xưa. Chỉ là một cái sọ đúng nghĩa, trên ấy phủ
qua một lớp da dính hai sợi lông mày và cặp mắt khép hờ, bất động tuyệt đối” (tr.331), Anh đứng
đó và chìm vào “trạng thái tê dại toàn thân”. Với ông họa sĩ già, sau khi về nước
sống đời cô độc với, Anh chứng kiến những giờ phút tàn tạ của ông. ”Nhưng
chuyện đáng buồn hơn cả là sự bi quan bắt đầu đẩy ông qua bên kia ranh giới của
bệ rạc. Cơ thể ông bay ra một thứ mùi ngày càng khó tả. Có những lần anh phải
lôi ông vào nhà tắm, mở vòi nước, xối và kỳ cọ cho ông như giặt một cái quần.
Ông ngồi thở phập phào, tấm lưng xanh rớt, sống lưng gồ lên, lủng củng dưới đám
bọt xà phòng. Anh có cảm giác nếu mình kỳ mạnh, những đám da ông sẽ tuột ra
thành từng mảng, như những bệt thịt từ một con cá hấp” (tr 350). Khi ông chết,
chỉ có mình Anh bên ông. Hỏa táng ông xong, Anh đem cái hũ tro cốt
của ông về nhà, hàng ngày đối ẩm với cái hũ tro ấy, nghe ông nói chuyện, và làm
theo mọi điều như ý nguyện của ông, như không hề có cách trở âm dương. Tình bạn
của Anh đã vượt qua cõi tử sinh. Miêu tả một tình bạn như thế là hiếm
có trong tác phẩm cuả những cây bút trẻ như NDL.
Có thể nói GDCL là một bài ca của yêu thương nặng lòng, yêu
thương vượt không gian thời gian, yêu thương vượt cả lẽ tử sinh ở đời.
Một cái nhìn rất sâu vào bản thể
Có hai con người trong nhân vật Anh. Con người xã hội của Anh,
một con người “vốn đầy mặc cảm sau vẻ bề ngoài cố tạo sự ngạo nghễ”, một sinh
viên đã tốt nghiệp Đại Học, đã sống lăn lộn với cuộc đời. Đó là một con người rất
tinh tế, khôn ngoan, chu tất, biết nhẫn nhịn, biết tự trọng và tôn trọng người
khác, lấy cái đẹp làm chuẩn mực ứng xử với mọi người. Những phẩm chất ấy bộc lộ
trong những đoạn đối thoại của anh với hai cô gái mà anh theo đuổi buổi đầu, những
trao đổi của anh với cha mẹ vợ, những chia sẻ của anh với lão hoạ sĩ. Đây là một
con người đằm thắm, nghĩa tình, tỉnh táo, có trình độ, có một bề dày văn hoá
truyền thống, nhưng cũng rất hiện đại..
Ông họa sĩ bị xe tông phải nằm viện. Anh đến thăm
không gặp. Khi Anh đến nhà thì ông đã đang ngồi vẽ. Ông kể lại tai nạn xe,
kể lại trải nghiệm cái chết. Ông bảo Anh, thời gian của ông chẳng còn, phải
tranh thủ vẽ. Anh bảo, nếu vì vậy mà bố vẽ thêm được nhiều thì
cũng tốt. Anh can ông khi ông đòi uống bia. Ông bảo:
- “Kệ,
nhiều khi mình cũng yếu đuối, phải vịn vô mấy thứ này
- Hình
như mày cũng đang gặp chuyện gì phải không?
- Con
xưa giờ vẫn thế. Có gì buồn, có gì vui?
- Mày
sống thế là nhạt. Chẳng còn gì tệ hơn một thằng sống nhạt.!
- Cũng
nhiều khi con muốn sống khác đi đấy chứ?
- Không
phải muốn mà hãy bắt tay vào. Khả năng mày không phải là không có. Cũng vì điều
đó mà tao chơi với mày đến ngày hôm nay. Tao hy vọng.
- Con
thấy ngổn ngang quá, chẳng biết bắt đầu lại từ đâu?
Ông họa sĩ đề nghị Anh đến ở và vẽ với ông. ”Anh thừ
người. Quả thật đây cũng là một lời đề nghị khá đúng lúc. Về khía cạnh thực tế,
anh đã hết tiền, hết sạch đồ ăn. Về tâm lý, anh cũng chẳng hơn gì ông, đang
trong những ngày u uất” (tr.72)
Đoạn đối thoại ngắn trên chỉ ra rằng, Anh hiểu rõ hoàn cảnh
của mình, hiểu rõ cả tâm tính của mình, biết phân tích và hành động theo nhận
thức mà lý trí mách bảo là đúng. Anh còn có cách trả lời ông hoạ sĩ rất khôn
ngoan khi ông nói khích: ”Mày sống thế là nhạt. Chẳng còn gì tệ hơn một
thằng sống nhạt”, rồi nhân đó tranh thủ ý kiến của ông: ”Con thấy ngổn
ngang quá, chẳng biết bắt đầu lại từ đâu? Quả thật ông họa sĩ đã vẽ ra cho
anh một phương cách.
Nhiều lần anh đã đứng dậy để quyết tâm bắt đầu một bước ngoặt
mới, chẳng hạn, việc anh lấy vợ, “Cuộc hôn nhân này sẽ là mốc giới cho những
thay đổi trong anh. Nếu không thay đổi, sẽ chẳng còn bước ngoặt nào khác để đổi
thay được nữa” (tr.277). Tuy nhiên, số phận Anh cứ trôi đi ngoài tầm tay
với.Tất cả đều bỏ Anh mà đi. Anh chẳng còn gì để mất. Nguyên nhân
số phận Anh đã được ông họa sĩ lý giải: ”Phần mày, vấn đề nằm ở chỗ,
mày quen nhận sự bao cấp của bà chị mày rồi. Cứ sống mãi như vậy, đến một hôm
mày đánh mất đi kỹ năng để vươn ra thế giới quanh mình” (tr.346). Một lần khác
ông nói rõ hơn: ”Cứ sống mãi bằng sự bao cấp, chẳng làm gì cả, rồi sau
này có muốn làm cũng chẳng làm nổi gì nữa đâu” (tr.34), “Cái thói ỷ lại, tủi
thân con nít đã ăn vào máu” (tr.151). Ông anh rể thì đốp thẳng vào mặt Anh: ”Đàn
ông con trai mà không có việc làm là hỏng”, ”Mày đừng tự ái, tao không chửi mày
đâu, anh em trong nhà mà. Nhưng tao muốn cho mày cái cần câu, chứ không cho mày
con cá”,”… mày cứ chơi hoài, đến lúc muốn chơi cũng chẳng có tiền mà chơi “ (tr.94)
Tôi ngờ rằng NDL không nói về con người xã hội của Anh,
vì trong đời thực, chẳng thể có một người như thế. Anh có bằng Đại Học, lại
khôn ngoan, nhẫn nhục, hơn thế, anh còn có cái tâm yêu thương, thì trước sau gì
anh cũng có nơi có chỗ, : ”có phúc có phần“. NDL nói đến Anh như một con
người tư tưởng. Bởi nhân vật này luôn tra hỏi về hiện sinh. “Câu hỏi thường trực
trong đầu, tại sao mình lại ở đây, trong một thế giới mênh mông, đầy xa lạ… Chẳng
nơi đâu là nhà, chẳng nơi nào là quê hương?” (tr.320). Đi hưởng trăng mật với vợ,
anh ngồi một mình ở bãi biển và tự hỏi “Sao mình lại ngồi đây“ (tr.232).
Trên đường đưa gia đình ra sân bay, Anh lại tự hỏi “không biết mình
đang đi đâu, tại sao lại đi.” (tr.277). Ở chỗ làm, Anh lại tự hỏi “còn ở
nơi này, anh có chỗ của mình không?” (tr 146)
Anh nhìn sâu vào chính bản thể của mình. Một thân phận
cô đơn, cô đơn tuyệt đối. ”anh không thể làm với bất kỳ ai được nữa” (115). Căn
nhà trống không, con mèo là người bạn duy nhất đã chết, để lại cho anh một nỗi
buồn mất mát chưa từng nếm trải (tr.133)” Anh ngồi phịch xuống sàn. Lòng
trống trải mênh mộng. Vậy là bóng dáng sinh thể cuối cùng bên anh giờ
đây đã mất”(tr 132). Hai cô gái anh miệt mài tìm kiếm, sau cùng cũng bỏ anh đi
không còn tăm tích gì, đẩy anh vào những tháng ngày “mang tâm trạng cận kề hư
vô” (tr.326). Người bạn sống đời thực vật chết, ”Hình vóc đang phân hủy từng giờ
của gã bạn ám ảnh anh suốt nhiều ngày sau đó” (tr.333). Anh lâm vào nỗi
hoảng sợ vô cớ, bởi những ám ảnh bên trong” (334). Sau cùng người bạn họa sĩ chết. Anh mất hẳn điểm tựa tinh thần, anh thực sự sống trong hai
cõi thực và ảo trộn hòa (tr.360).
Những cái chết liên tiếp luôn đặt anh vào sự tra hỏi ý nghĩa của tồn tại. ”Cái chết dù chỉ là của con mèo, dường như cũng nhắc nhở anh một điều
gì đó” (tr133). ”Điều gì đó ấy là: Chúng ta từ đâu đến, chúng ta là ai, chúng ta
về đâu“ (tr.133). Hiện sinh là phù du (tr.371), là xa lạ (tr.305), phi
lý (tr.13), là trần trụi “không còn gì để mất” (tr.328, 336,349). Hiện
sinh không chốn nương thân (tr.336), là biến mất không dấu tích (hai
cô gái), là đi về cái chết không cưỡng lại được. Hiện sinh ấy là số phận không
thể khác đi. Anh nhận ra điều này khi chứng kiến những tháng ngày sau cùng của
ông họa sĩ: ”Vậy là số phận đã dồn đuổi tiếp đến ông, trong các danh sách không
mấy dài những người mà anh thân thiết. Bằng cách này cách khác, chẳng thân
phận nào thoát được cái lưới vô hình đang bủa vây tứ phía” (tr.337). Trước những
bủa vậy của hiện sinh như vậy, Anh sống trong trạng thái” nghe
như có oan hồn nào đang kêu réo từ trong chính khoang bụng của mình… cả tâm trí
chìm trong nỗi sợ đến bấn loạn” (tr 355)
Người đọc nhận ra ngay những ý tưởng của NDL là ý
tưởng của văn chương Hiện Sinh thế kỷ XX trong những tác phẩm của Kafka,
A.Camus, J.P.Sartre. NDL nói rõ những gì anh chịu ảnh hưởng: ”Những tác giả
văn học tôi yêu nhất và chắc chắn chịu ảnh hưởng là A. Camus, F. Kafka, E.
Hemingway, F. S. Fitzgerald, R. Carver... và gần đây là H. Murakami.”(2). Vậy
anh đã kế thừa văn chương Hiện Sinh thế nào?
NDL đã có những thành công trong việc sử dụng kỹ thuật miêu tả dòng
ý thức của nhân vật Anh, đặc biệt miêu tả cảm giác hiện sinh
trong từng khoảnh khắc cụ thể. Ngôn ngữ anh giàu có. NDL đẩy đến cao độ suy tư
của nhân vật Anh về nỗi cô đơn, xa lạ, phi lý, buồn nôn, tồn tại và hư vô, trôi
dạt. Con người không chốn nương thân, hiện sinh là tồn tại đi về cái chết. Anh
cũng miêu tả được dòng thời gian đặc quánh, nung mủ trong não trạng
hiện sinh. Miêu tả được trạng thái nhân vật Anh kề cận cái chết. Ý thức
chỉ còn chập chờn như ngọn lửa sắp tắt. Tuy nhiên phần thành công của anh chỉ là
ở kỹ thuật. Anh chưa thực sự xây dựng được nhân vật của tư tưởng hiện sinh. Bởi
con người của nhân vật Anh chao đảo qua lại giữa con người xã hội và
con người tư tưởng, để sau cùng, nhân vật Anh tồn tại như một kẻ tâm thần. Anh phải
đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị.
Đọc GDCL, người đọc thấy rõ ngòi bút NDL cố gán cho nhân vật Anh những cô
đơn, những nỗi buồn, những cảm giác xa lạ, trạng thái không
chốn nương thân. Thực sự con người Anh, cuộc sống của Anh không
phải là như thế. Anh được sống trong tình yêu thương của cha mẹ, anh chị và bạn
bè. Tuy Anh có thất nghiệp và thất bại trong xin việc, nhưng nguyên
nhân chính là ở thói ỷ lại và quen sống nhờ vào chị gái. Anh vẫn có
khả năng làm việc, khả năng chịu đựng và rất tỉnh táo, sáng suốt phân tích mọi
diễn biến đang xảy ra để có phản ứng thích nghi. Sự trở về của nhân vật họa sĩ
cũng chỉ là để hoàn thành cái mệnh đề Hiện sinh quy tử, gượng ép đến thô
thiển. Lão họa sĩ là người có triết lý sống tích cực, sống phản tỉnh mạnh mẽ,
người có ý thức rất cao về giá trị đời sống, không thể bỗng chốc lại trở nên tê
liệt, cứng đờ “thần thái xưa trong ánh mắt gần như chết hẳn. Cái hấp háy tinh
anh bị phủ lên một sắc thái lờ nhờ, đờ đẫn“ (tr.347)
Nhân vật Anh là người Việt Nam, đắm mình trong
văn hóa Việt Nam, thì ít nhất trong tâm thức cũng có ít nhiều tư tưởng
phương Đông. Và khi tiếp xúc với tư tưởng Hiện sinh, nhất định là không tránh
khỏi sự va chạm. Ấy là những triết lý hành động của Nho giáo, về Tứ Diệu Đế và
chữ Tâm của Phật giáo, là tư tưởng trở về với Đạo, sống an nhiên của Lão Trang.
Những tư tưởng ấy có khả năng giải thoát con người khỏi những bi kịch của hiện
sinh. Anh không thể trôi dạt vô định buông xuôi số phận trôi vào bi kịch
của hư vô như NDL miêu tả. Cũng xin lưu ý rằng Triết học Hiện sinh là triết học
chống lại sự thống trị của chủ nghĩa duy lý trong xã hội phương tây...”. Nguồn gốc
của chủ nghĩa hiện sinh và các hình thức khác của chủ nghĩa phi duy lý hiện đại
là sự khủng hoảng, sự bại hoại tinh thần do chủ nghĩa duy lý gây nên trong xã hội
phương Tây hiện đại “(3) Văn chương Sài Gòn trước 1975 đã nói quá nhiều về những lo
âu xao xuyến, cô đơn, buồn nôn, vong thân, tự do, hành động dấn thân, bởi xã hội
miền Nam lúc đó ngập tràn bi quan, chiến tranh, lo âu và chết chóc, bế tắc về
chính trị và tư tưởng. Người ta tìm đến J.P.Sartre, Simone de
Beauvoir, F.Sagan. Trong bối cảnh toàn cầu hoá của xã hội tiêu thụ hiện nay, thống
trị một bộ phận người trẻ là chủ nghiã thực dụng, vị kỷ, vô luân. Chủ nghĩa Hiện
Sinh đã lùi vào quá khứ. Kiểu nhân vật như nhân vật Anh là lạc lõng.
Như chính NDL gọi nhân vật của mình là những phiên bản lạc giữa dòng đời. ”tất
cả đều lạc nẻo, càng cố trở về càng trôi xa hút, càng cố kiếm tìm càng hoài
công, mòn mỏi…”(tr.304)
Tuy nhiên, những cảm thức về hiện sinh, về bản thể, về thân
phận con người vẫn luôn tồn tại. Do đâu NDL có những cảm thức Hiện sinh như vậy.
Anh giải thích: ”Tương ứng với giai đoạn “mười mấy đôi mươi” của thế hệ
tôi là thời kỳ thoát khỏi nền kinh tế bao cấp, cùng nhiều thứ liên quan. Kế
theo một khoảng nôn nao chuyển đổi, những “giá trị sống mới” bắt đầu hình
thành, rồi “lên ngôi”. Khi tôi ngồi học trong nhà trường, thì lý tưởng vẫn là
những thứ rất… sách vở, nhưng bước ra khỏi cổng lại là một thực tế rất
khác. Tôi bắt đầu cảm nhận, mình là thành viên của một “Lost Generation”,
khi cái cũ đã qua mà cái mới còn chưa tới.”(4). Anh giải thích về nội dung của
GDCL: ”Tôi viết về những con người không kịp chuẩn bị kỹ năng sống, giữa
dòng chảy cuồn cuộn và hối hả của thế giới hôm nay. Chân phải bước lên “đoàn
tàu mới”, nhưng chân trái bị kẹt lại “sân ga cũ”. Thành thử bị… xé làm đôi! Ðại
ý vậy” (theo ANTG, đd). Như vậy NDL không định viết kiểu nhân vật tư tưởng như
kiểu nhân vật của chủ nghĩa Hiện Sinh, anh chỉ phản ánh một kiểu người của thực
tại không hội nhập được với cuộc sống đang cuồn cuộn chảy.
Chương cuối anh viết rất hay, rất xúc động và vượt trội về tư
tưởng khi nhân vật Anh đối ẩm với cái hũ đựng tro cốt ông
họa sĩ, như thể ông vẫn đang sống, đang chia sẻ những cảm nghiệm hiện sinh mặc
dù ông đã vượt qua tử sinh. “Vậy thì với ông, trước mặt anh phút này đây, có ý
nghĩa gì trong việc phân chia tồn tại với hư vô. Anh thật sự thấy ông đang ngồi
đó, cũng như đương nhiên rằng ông đã chết. Hai cõi thực và ảo trộn hòa” (tr.360)
Đoạn đối thoại sau đây của Anh với linh hồn ông hoạ sĩ chứa đựng nhiều
tư tưởng của NDL:
- “Sao
anh đi mà không báo em một tiếng?
- Tao
đã đi đâu, vẫn đang ngồi trước mặt mày đó thôi
- Có
thật thế không anh? Em đang tỉnh hay mơ?
- Mày
đừng bắt tao triết lý nữa. Nào, mình cùng uống.
- Chị
đang về đó anh ạ. Chị về đón anh đi!
- Tao
chẳng đi đâu cả! Mày đem tao ra cái chỗ hôm rồi ngồi nhậu. Tao thích chỗ đó!. Mày
nhớ cái kè đá chứ?
- Để
làm gì anh?
- ... Mày
hãy đưa tao đi khi nào thấy lòng thật bình an, đừng nghĩ đến chia ly hay ngậm
ngùi gì cả
- Em
đã thấy bình an
- Nào,
vậy hãy lên đường” ”(tr.363)
NDL đã vượt qua hiện sinh, vượt qua cái duy tâm siêu hình, vượt
qua cõi chết bước vào được cõi thường hằng, an nhiên. NDL không giải quyết vấn
đề sinh tử theo quan điểm hư vô chủ nghĩa hay bằng niềm tin tôn giáo. Anh cũng
không theo kiểu duy tâm dân gian cho linh hồn người chết trở về báo mộng. Nhân
vật Anh đối thoại với ông hoạ sĩ ngay trong cõi hiện sinh, với tâm thế
an nhiên tĩnh tại, đằm thắm tình nghĩa, dứt khoát về tư tưởng. Có thể nói NDL
đã thâm nhập được rất sâu vào bản thể của tồn tại.
Trở về với dòng sông
Thái độ của NDL trước hiện thực là thế nào?
Anh miêu tả cách làm việc của một cơ quan thật quái gở. Nơi ấy
sếp là Chị Hai, chủ trì bàn nhậu, hết tăng một rồi tăng hai, tuần nào cũng nhậu,
nhậu đến khi gục tại bàn mới thôi, không nhậu được là không thể trụ với cơ
quan. Nơi ấy không thể dung chứa những người muốn làm việc như Anh.
(chương 8.tr,149)
NDLcũng miêu tả với một nỗi xót xa vô hạn cái thực
tại khó nghèo đến tận cùng của vợ chồng Anh ngay trong những
ngày trăng mật. Anh không còn tiền, phải trọ nhà nghỉ rẻ tiền. Không
khí thê lương u uất. Trên chuyến tàu trở về Anh chỉ còn biết khóc
(tr.246). Cảnh cùng cực của những người làm công ăn lương là vậy. Tháng
lương Anh nhận ở dịch vụ vi tính bèo bọt đến nỗi làm Anh sụp
đổ mọi dự tính, Anh không dám về nhà. (tr.258)
NDL cũng có thái độ rõ rệt với việc xuất cảnh. Nhiều ngươi
coi việc đi Mỹ là một khát vọng cháy bỏng. Họ hình dung ra đất Mỹ như thiên
đàng, giàu có, sung sướng, tự do. NDL đã phủ định cái nhận thức ấy.
Người bạn rẫy khuyên Anh dứt khoát không đi. Ông họa sĩ trở về cũng khẳng định
không đâu bằng quê nhà. Cô gái học Anh văn để tìm người xuất cảnh biến mất
không còn tăm tích gì. Thái độ chần chừ của Anh về việc chị bảo lãnh
tuy không phải là một thái độ có ý thức về tình yêu quê hương hay thái độ từ bỏ
lối sống thực dụng Mỹ, nhưng phần nào có ý nghĩa phản ánh thái độ của NDL về vấn
đề xuất cảnh.
Nhìn rộng ra các quan hệ xã hội, NDL thấy có một lớp trẻ sống
vật vờ, thực dụng. Cô Bảo hiểm đã khai thác Anh để đi chơi biển rồi lấy
Anh là để che dấu hành vi đồng tính nữ, còn cô học Anh văn, có lẽ lấy anh vì
nghĩ rằng anh sẽ xuất cảnh và đem cô theo. Hai cô dong dỏng và lùn trong cơ
quan trở thành chuẩn mực đo tửu lượng của nhân viên nam cho đến khi họ bị đánh
gục. Lại có những người sống ỷ lại, chỉ ăn nhậu và ngủ. Nhân vật Anh có
thể trở thành điển hình cho thói đại lãng. Nhân vậy bí mật trong bàn nhậu, gã
quái đản (tr.352), nhiều lần Anh gặp ở quán, có lần suýt gây lộn, là
nỗi ám ảnh suốt tác phẩm. Các quan hệ tình nghĩa truyền thống trở nên vỡ vụn.
Ông Họa sĩ bị vợ con đặt sang bên lề (tr.336), bạn bè hất hủi, đành trở về bến
sông. Không còn khái niệm thủy chung trong tình yêu, không còn hình ảnh quen
thuộc một gia đình đầm ấm có con cái cha mẹ, ông bà yêu thương quây quần bên
nhau. Những tưởng cuộc tình duyên của Anh và Cô sẽ hạnh
phúc, ông bà già vợ Anh đốc thúc hai người mau có con, vậy mà chỉ ba tháng
họ đã chia tay. Ở một ý nghĩa nào đó, tương lai đang trôi vô định
không biết về đâu.
Con đường nào cho thực tại đang vỡ vụn ấy?
Trở về với dòng sông là trở về với cuộc sống đang trôi chảy,
đang vượt lên phía trước. Có một tiếng nói khẳng định mạnh mẽ trong tác phẩm.
Những suy tư siêu hình chẳng ích gì, những trăn trở lo âu phải biến thành hành
động. Phải bước theo cho kịp với mạch sống của thời đại. Những thói ỷ lại sống
bám vào sự bao cấp của người khác chỉ dẫn đến cái chết. Phải làm chủ cuộc sống,
làm chủ số phận của mình. Chương miêu tả nhân vật Anh đi thăm một người
bạn làm rẫy là một chương có ý nghĩa tư tưởng tích cực. Nhân vật Anh luôn
tra hỏi về ngày mai: ”Ngày mai sẽ ra sao“ một câu hỏi làm nát đầu Anh.
Người bạn trả lời: ”Cái ngày mai của ông đang ở trước mắt ông mà ông cứ lo tìm
kiếm tận đẩu tận đâu. Chán bỏ mẹ! Ông đừng tưởng tui không biết tính ông!” (tr317).
Anh ta nói về việc làm ăn thật sôi nổi. Anh có hàng chục mẫu cà phê, làm việc
không ngơi tay, nhà đầy đủ tiện nghi. Vợ chồng, con cái vui vẻ, đầm ấm, hiếu
khách. Bị cúp điện thì chạy máy nổ để thắp sáng và cho vợ con xem tivi. Nhìn cơ
ngơi của bạn, Anh nhận định:
“Thế thì ông giàu to là phải!
Chớ sao. Phi nông bất ổn, ông bà nói vậy rồi. Nói thiệt, giờ
tôi thấy cứ như mình là chắc cú nhất! Trí thức các ông phức tạp bỏ mẹ.
Buông mấy thằng nông dân này ra là chết ngắc! Phải cho mấy ông lên đây, mỗi
ông vài năm là tỉnh ra ngay!” (tr.312)
Khi Anh nói ý định đi xuất cảnh của mình thì người
bạn gạt đi ngay.
- Ông
điên à
- Sao
lại điên?
- Tui
thấy chẳng nơi nào bằng ở chỗ này! Có cho tui tỷ tấn vàng tui cũng chẳng đi đâu
hết! Ông phải nghĩ lại, nghĩ lại ngay!...
- ...Ừ
theo ý ông tôi sẽ nghĩ lại. (tr.316)
- Ông
hiểu được ra như vậy là sáng suốt. Nhớ đó nghe, đừng đi đâu cả! Nếu cần thì ông
lên đây hợp tác làm ăn với tui. Bán mẹ cái nhà thành phố mà lên. Đấy là biết
nhìn xa trông rộng, biết đầu tư đúng chỗ. Cái nhà ông ở đó thử hỏi lên giá được
bao nhiêu nữa? Còn đất đai trên này lên từng ngày một. Ông bán cái nhà ấy, hôm
nay mua được hai ba, ít năm nữa mua được hai mươi, ba mươi. Tui nói dóc ông,
tui đi đầu xuống đất” (tr.317)
NDL đã nói điều này: phải sống tích cực, thực tiễn.
Phải làm chủ số phận của chính mình, không nên ảo tưởng về những cái gì ở ngoài
mình, phải biết nắm bắt thời cơ, biết nhìn ra vấn đề về lâu dài.
Ông họa sĩ cũng truyền lại cho Anh những điều trải
nghiệm, nhất là sau lần bị tai nạn tưởng chết:
”Tao nợ cuộc đời này nhiều. Nợ hội họa càng nhiều. Mất bao
năm chẳng vẽ vời được gì. Những khát vọng tuổi trẻ bị vùi lấp. Cho đến lúc ý thức
được ra cũng chỉ vẽ cầm chừng, bởi tự tôn. Qua sự việc vừa rồi, tao thấy
mình cần làm một cái gì đó” (tr71)
“Về cuộc hôn nhân của mày, tao không bàn thêm, chỉ dặn, nếu
đã quyết thì phải ráng giữ gìn hạnh phúc. Quen nhau nhiều năm, lấy
nhau rồi vẫn không tránh khỏi những cú sốc, có thể sẽ phải đối diện với thời
gian đầu. Mày mới gặp nó chỉ vài tháng, đã tổ chức đám cưới ngay, vì thế
càng cần phải sáng suốt, bình tĩnh. Cái sự xốc nổi của mày, tao lo lắm.
Chuyện công việc làm ăn có thể đổi thay, còn hôn nhân nếu đã xác định bước vào
nghĩa là đã ký thác cả cuộc đời mày vào đó. Lỡ một lần là trượt dài, không đứng
dậy nổi đâu. Mà có đứng dậy nổi, nhìn lên mọi thứ cũng đã cạn kiệt, ngày tháng,
tâm trí, sức khỏe... Trẻ còn chẳng làm gì nên chuyện, huống hồ già cả” (tr.198)
Ông anh rể cũng là hiện thân của cái triết lý hành động. “Ông
ra đi ngót nghét ba chục năm, từng lăn lê với đủ thứ nghề trên đất khách. Từ
đánh cá ở cực bắc, đến bắt gà bỏ bao trong mấy cái nhà máy chế biến thực phẩm ở
miền trung, cắt cỏ ở miền đông, cuối cùng là sang miền tây mở tiềm làm móng.” (tr.80). Ông nói với Anh: ”Tao là vậy, làm hết mình, chơi hết sức. Đâu
ra đó” (tr.94)
Vâng, phải hành động tích cực cho cuộc sống, phải thích
ứng được với thời đại, đồng thời phải giữ cho được những giá trị truyền thống
văn hóa Việt trước những cơn bão lũ vật vã của thời đại. Ta phải làm chủ vận mệnh
của ta, bằng nội lực của chính mình. Trở về với dòng sông là trở về với những
giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, cũng là vượt qua tử sinh, đạt đến cõi an
nhiên trong tâm thức trước những biến động không ngừng của cuộc sống, trước những
thực dụng, vị kỷ và vô luân. Trong tất cả chiều kích của tác phẩm,
có thể nói điều này: đâu là ý nghĩa của tồn tại?.
Ghi chú:
(1) www.thotre.com/
(2) Phong Điệp trò chuyện với
nhà văn Nguyễn Danh Lam
http://phongdiep.net/
(3) Chủ nghĩa Hiện Sinh - Nguyễn
Tiến Dũng. Nxb Tổng hợp Tp HCM.2006. tr.10
(4) www.thotre.com/
(5) Nguyễn Danh Lam Sinh năm
1972. Tốt nghiệp ĐH Mỹ thuật TP. HCM. Hiện sống và làm việc tại Sài Gòn.
Đã xuất bản:
- Tìm (thơ)
- Bến vô thường (tiểu thuyết)
- Giữa vòng vây trần gian (tiểu thuyết)
- Mưa tháng mười một (tập truyện ngắn).
Bùi Công Thuấn
Tháng 10. 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét