Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 1a

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 1a

LỜI ĐẦU SÁCH

20 năm qua, kể từ sau tái lập tỉnh (1997) đến nay, đồng hành cùng với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Văn học Nghệ thuật (VHNT) Vĩnh Phúc đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Những sáng tạo của văn nghệ sĩ Vĩnh Phúc hướng con người tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Khẳng định và ghi nhận bước phát triển mới của VHNT Vĩnh Phúc nhân kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Hội VHNT Vĩnh Phúc xuất bản bộ Tuyển tập tác phẩm đoạt Giải thưởng VHNT giai đoạn 1997-2016 và một số cuộc thi khác, bao gồm các thể loại: Tiểu thuyết, Truyện ngắn - Ký, Thơ - Trường ca, Âm nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Văn nghệ dân gian... Đây có thể coi là hệ thống tư liệu về tác giả, tác phẩm của một chặng đường VHNT, tiếp thêm hành trang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã xác định: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh túy của văn hóa; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam” (Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị). Đây chính là động lực, là cơ hội tốt để văn nghệ sĩ Vĩnh Phúc tiếp nhận nguồn sinh khí mới, tiếp tục phát huy tính tích cực và trách nhiệm xã hội, nỗ lực sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị mang đậm dấu ấn Vĩnh Phúc, cho hôm nay và mai sau...
Ra mắt trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh (1/1/1997 - 1/1/2017), bộ sách là món quà tinh thần của VHNT Vĩnh Phúc dâng tặng bạn đọc với tất cả sự trân trọng.
Vượt qua những khó khăn về nguồn tư liệu, các thành viên trong ban tuyển chọn đã có nhiều cố gắng biên soạn, sắp xếp, diễn đạt, để tuyển tập đạt được mục tiêu cao nhất, song chắc chắn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được sự chia sẻ, góp ý, bổ sung của bạn đọc để kỳ vọng một sự hoàn chỉnh hơn trong những lần tái bản bộ sách sau này.  
HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VĨNH PHÚC
XUÂN MAI  
Giếng làng 
Tập truyện ngắn đoạt Giải A,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ I (1997 - 2000)
GIẾNG LÀNG
Nhờ sự giúp đỡ của y tế, ngày hôm trước nhà tôi khoan được cái giếng nước sạch thì ngày hôm sau là đến Tết Đoan Ngọ. Nhìn những xô, những chậu nước mới được bơm lên trong suốt, bà tôi cứ ao ước: “Giá như ngày xưa làng ta có nước trong thế này mà nấu chè kho thì quý hóa quá”. Tôi hỏi bà: “Sao nấu chè kho lại cần đến nước thật trong hả bà?” – “Vì đó là chè nấu để cúng cháu ạ. Cúng ông Thành hoàng làng thì nước phải thật tinh khiết. Cháu còn bé chưa biết chứ ngày xưa…”.
Như rất nhiều lần, lần này tôi lại đụng đến cái ngày xưa của bà. Dường như bà chỉ còn có chuyện ngày xưa nữa thôi. Bà rủ rỉ kể rằng: Ở làng ta ngày xưa mỗi năm đến Tết Đoan Ngọ (tức là Tết mùng 5 tháng 5 âm lịch) được ăn to chỉ kém Tết Nguyên Đán. Ngày bà còn bé, năm nào cũng vậy, hễ đến Tết Đoan Ngọ là từ sáng sớm trẻ con nhà nào cũng được bố mẹ cho ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Còn người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu hòa với tam tần đơn, hoặc ăn rượu nếp. Trẻ con “giết sâu bọ” xong thì rửa mặt mũi, chân tay thật sạch rồi nhuộm móng tay, móng chân, đeo chỉ ngũ sắc… Buổi sáng hôm ấy không đứa nào được ngồi ở bậu cửa, bởi ngồi ở đấy sau này rất dễ mọc mụn nhọt. Riêng bà, bà rất hay được bố của bà bắt trèo lên cây mít. Theo lời dặn của bố, mỗi lần bố đánh một roi vào cây mít và hỏi: “Mít, sang năm mày có ra nhiều quả không?” Bà lại phải giả vờ làm vẻ đau đớn và nói: “Thưa ông, có ạ!” Quả nhiên năm sau cây mít có nhiều quả hơn năm trước thật. Làm xong cái công việc linh thiêng, huyền bí ấy bà mới được đi tắm. Mà là tắm nước giếng làng do mẹ bà gánh về từ sáng tinh mơ. Ai được tắm loại nước ấy đến mùa hạ sẽ không có rôm sảy! Tắm gội sạch sẽ xong, mặc váy áo mới, bà theo bố đem chè kho ra đình cúng Thành hoàng làng.
Bà cũng không biết tại sao Tết Đoan Ngọ là ngày giỗ ông Khuất Nguyên - (Ông này ở mãi bên Trung Quốc, thờ vua Sở Hoài Vương. Vì ngăn cản vua không được, bực mình ông ôm đá nhảy xuống sông Mịch La mà chết. Hôm đó là ngày mùng 5 tháng 5). Vì thương tiếc một người con trung nghĩa nên hàng năm đến ngày ấy nhân dân lại làm bánh ngọt, quấn chỉ ngũ sắc, rồi đua nhau bơi thuyền ra giữa dòng sông ném bánh xuống để cúng ông, làng ta lại có lệ nấu chè kho cúng Thành hoàng làng? Bà chỉ nhớ là, nước nấu chè kho phải thật trong, thật sạch. Bởi vậy năm nào làng cũng phải tát giếng làng từ đêm hôm mùng 4. Tát thật cạn, vét hết bùn, rác… Những gàu nước đầu tiên sẽ được đem đi nấu chè và giành cho trẻ con tắm. Chả hiểu có phải do được tắm nước tinh khiết ấy của giếng làng hay không mà trẻ con làng ta da dẻ đứa nào cũng nhẵn nhụi như hạt mít.
Câu chuyện của bà đã kích thích trí tò mò của tôi. Tôi không thể làm ngơ trước cái “ngày xưa” nữa:
- Bà ơi, thế giếng làng ở chỗ nào hả bà?
- Ở đâu ư? Ở phía đầu làng, gần nhà cụ Tùng. Chỗ có cây đa ấy cháu ạ.
Từ lúc nãy bố tôi vẫn đang mải mê với công việc xây lát nền giếng, giờ nghe bà bảo thế, vội nói:
- Là bà bảo giếng từ ngày xưa chứ hàng chục năm nay làng ta làm gì còn giếng làng nữa.
- Thế giếng làng bị lấp mất rồi hả bố thằng Hùng?
- Vâng! Lấp rồi. Bây giờ ở đấy chỉ còn mỗi cây đa già.
Nghe bố tôi nói vậy, bà tôi thở dài. Tôi có cảm giác như bà vừa đánh mất một cái gì đó quý lắm. Cái gì đó rất quý của bà thì tôi chưa thể hiểu được nhưng công việc đầu tiên của tôi là phải tìm ra nơi có cái giếng của làng tôi. Bụng bảo dạ như thế, tôi chạy phóng sang nhà thằng Dũng.
Thằng Dũng là cháu đích tôn của cụ Tùng. Nó bằng tuổi tôi, học cùng lớp với tôi. Tôi thân với nó bởi hai thằng khoái chơi những trò mạo hiểm. Đặc biệt là rất thích tìm hiểu những cái mà mình chưa biết. Keo này tôi với thằng Dũng sẽ tìm xem cái giếng của làng mình ngày xưa nằm ở đâu?
Nghe tiếng huýt sáo hiệu của tôi, thằng Dũng đang cùng ông nó lau lá giúp mẹ nó làm bánh rợm, bánh gai cũng phải đứng dậy chạy ra cổng. Tôi ghé tai nó, hỏi với giọng đầy vẻ quan trọng:
- Mày có biết hôm nay là ngày gì không?
Chắc cho tôi đã hỏi một câu ngớ ngẩn, thằng Dũng nhe răng ra cười thay cho câu trả lời. Tôi lại hỏi:
- Thế mày có biết ngày xưa các cụ phải lấy nước giếng làng để nấu chè kho cúng Thành hoàng làng vào ngày hôm nay không, hả?
Đến lúc này tôi biết thằng Dũng mới thật chú ý tới điều tôi gợi ra. Thấy nó lắc đầu, tôi liền “xì” một cái, đoạn với giọng kẻ cả, tôi bĩu môi:
- Vậy mà cũng đòi là nhà thám hiểm. Này, mày có biết ngày xưa làng mình có một cái giếng làng không?
Thằng Dũng lại lắc đầu. Tôi thật sự lấy làm buồn cho cái thằng bạn chí cốt của mình:
- Bà tao bảo, ngày xưa làng mình có cái giếng làng. Giếng ở gần nhà mày thế mà mày lại không biết!
- Giếng ở gần nhà tao?
- Là bà tao nói thế.
- Ồ, nếu vậy thì vào hỏi ông tao xem có đúng không? Đi! Nhanh lên!
Ông thằng Dũng năm nay đã hơn 80 tuổi. Râu tóc ông trắng như cước. Da dẻ ông đỏ đắn, hồng hào nhìn đẹp như ông tiên trong truyện cổ tích. Ông là người vui tính, rất yêu chúng tôi. Ông hay kể chuyện cho chúng tôi nghe lắm. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, trong đầu ông có chứa đến hàng ngàn pho sách. Ông hiểu biết nhiều thế thì chuyện về cái giếng làng làm gì ông không biết cơ chứ!
Quả đúng như tôi dự đoán, sau khi nghe tôi với thằng Dũng hỏi, không lau lá nữa, ông đứng dậy đi súc ấm, pha trà. Nhấm nháp gần hết chén trà đoạn ông mới chậm rãi nói:
- Các cháu có hỏi thì ông mới nhớ. Phải, ngày xưa cả làng ta chỉ có mỗi một cái giếng nên mới gọi là giếng làng. Xung quanh cái giếng này cũng có nhiều chuyện vui, buồn đấy các cháu ạ. Hai đứa có biết không, ngày xưa…
Ông thằng Dũng kể là, ngày xưa, nghĩa là từ lâu lắm rồi, khi lớn bằng chúng tôi, ông đã thấy làng có cái giếng ấy. Đó là một cái giếng tròn, to bằng ba cái nong. Tang giếng cao chừng 1 mét, nền giếng lát gạch nghiêng. Từ đáy đến tang giếng được chồng toàn bằng đá. Mùa hạ cũng như mùa đông, giếng lúc nào cũng đầy nước. Nước trong, ngọt và rất mát. Tương truyền rằng, từ ngày xửa ngày xưa có một lần Vua Hùng (tức là ông vua dựng nước Việt Nam ta ngày nay) đi săn tới đây thì dừng chân nghỉ. Người cho lính cắm trại, rồi đào giếng lấy nước nấu ăn. Người đi để lại cho dân làng cái giếng. Thấy nước giếng trong mát hơn nước ao hồ bà con mới bảo nhau đào rộng ra, sâu hơn. Tỏ lòng biết ơn vua cha đã cho mình cái giếng, dân làng lại xây một cái miếu thờ dưới gốc cây đa gần đó. Thời gian trôi đi, cây đa lớn lên, cái giếng vẫn còn, riêng cái miếu thì bị đổ nát chỉ còn lại mỗi móng với mấy chục viên gạch vỡ.
Vì cả làng mới có một cái giếng nên hầu như lúc nào ở ngoài giếng cũng có người. Sáng sáng các bà, các chị ra giếng gánh nước; chiều chiều người lớn, trẻ con ra giếng tắm giặt. Vô hình chung giếng là nơi tụ tập của dân làng, đông và vui lắm. Không những thế, giếng còn là nơi hò hẹn thề thốt của những đôi trai gái mới yêu nhau, khi phải xa nhau. Cụ Tùng bảo, chính cụ đã bắt gặp bà nội tôi hồi còn trẻ đứng khóc bên một anh Vệ quốc quân ở bên giếng làng vào một đêm trăng sáng. Anh ấy đóng quân ở làng tôi, yêu bà tôi. Khi phải chuyển quân ra mặt trận, hai người phải chia tay nhau, kẻ đi người ở… Nghe tới đây tôi chợt hiểu tại sao lúc nãy tôi lại có cảm nghĩ như bà tôi vừa đánh mất một cái gì quý lắm.
Ông thằng Dũng đang kể thì dừng lại đột ngột. Cụ thong thả rót nước ra chén. Sau một ngụm trà và lập bập rít mấy hơi thuốc lào thở khói trắng mù trước mặt, với một giọng ngàn ngạt, cụ kể tiếp:
- Nhân nói với các cháu về cái giếng làng, có chuyện này ông thấy cần phải kể để các cháu biết, nếu không nay mai ông chết, ông đem nó xuống hố thì coi như ông có tội với anh ấy…
Cả hai đứa chúng tôi tròn mắt, kinh ngạc hỏi:
- Chuyện gì hả ông? Ông kể cho chúng cháu nghe đi!
- Phải, ông sẽ kể để các cháu nghe. Đấy là chuyện về một người chiến sĩ hoạt động bí mật từ thời đánh Pháp. Các cháu không biết đâu, làng ta trước kia là vùng địch tạm chiếm. Cái lô cốt ở đầu làng, nơi mà các cháu hay chơi trận giả ấy là của thằng Pháp xây để giữ không cho bộ đội mình về làng. Một đêm, cũng vào dịp Tết Đoan Ngọ như hôm nay, giữa lúc mọi người đang lịch kịch giã bột làm bánh thì bỗng thấy có tiếng súng nổ rộ lên ở ngoài đầu làng. Tiếp đó là tiếng chó sủa, tiếng hô đuổi bắt ai đó cứ ầm ĩ, huyên náo khắp nơi… Sáng ra dân làng mới biết chuyện, đêm qua có một anh bộ đội từ vùng tự do bí mật về bắt liên lạc với du kích trong làng để chuẩn bị phối hợp lực lượng phá đồn, diệt bốt, giải phóng làng. Nhưng không may bị lộ, anh ấy bị chúng nó săn đuổi, anh liền nhảy xuống giếng làng ẩn náu. Đã dìm mình xuống nước chỉ còn hở hai lỗ mũi nhưng bởi nước giếng trong quá nên dẫu là đêm tối, chúng nó bấm đèn pin soi vẫn tìm nhận ra anh. Chúng nó bắt anh lên, trói anh vào gốc đa suốt một đêm, đợi đến sáng bắt mọi người đến xem chúng hành tội anh.
Anh bộ đội ấy còn trẻ lắm. Ông đoán anh chỉ ngoài tuổi hai mươi nhưng nom thật rắn rỏi. Trước mặt dân làng chúng đánh đập tra khảo anh rất dã man nhưng anh không hé răng khai lời nào. Cuối cùng chúng trói giật cánh khuỷu anh lại, kéo lên treo bùng biêng trên một cành đa, rồi thi nhau xả đạn vào anh. Dây đứt, chúng nó xúm lại túm lấy xác anh quẳng xuống giếng, và cấm không ai được vớt lên chôn cất. Tuy dân làng không ai được chôn cất anh nhưng ông cũng không rõ bằng cách nào, anh chị em du kích vẫn vớt được xác anh ấy, bí mật chuyển ra vùng tự do cho đơn vị của anh. Bà con mình chỉ ân hận một điều, anh ấy đã chết vì làng mà cả làng đều không ai biết được tên anh ấy là gì? Quê quán ở đâu? Mộ chôn ở chỗ nào? Phần thương anh, phần không thể bỏ được cái giếng làng, bà con bảo nhau tát giếng để lại có nước ăn…
Tôi thầm hiểu quá khứ buồn đau đang hiện về trong tâm trí cụ Tùng khiến cụ ngậm ngùi, nếu tiếp tục nói nữa khéo cụ bật khóc. Vì thế cụ lặng đi, mắt cụ chơm chớp và hai tay thì run run vê điếu thuốc lào mà nhét mãi vẫn không đúng nõ. Thấy vậy tôi vội vàng giúp cụ nhồi thuốc còn thằng Dũng giúp ông nó châm lửa. Hút xong điếu thuốc, không chờ chúng tôi hỏi tiếp, cụ vừa nhìn ra sân vừa bâng khuâng nói:
- Không biết có phải là từ ngày xưa năm nào dân làng mình cũng lấy nước sạch từ giếng làng đem về nấu chè kho cúng Thành hoàng làng nên được Ngài phù hộ, hay là nhờ linh hồn anh bộ đội vô danh phù hộ độ trì mà tuy làng ta nhỏ bằng cái bàn tay, có mấy chục nóc nhà nằm chen chúc trong lũy tre nhưng lại có vô khối người học hành cao, thi cử đỗ đạt. Như hai cháu thấy đấy, người làm cán bộ tỉnh có, làm cán bộ huyện có, bác sĩ, kỹ sư có. Có hai ông làm hiệu trưởng trường cấp ba, lại còn có cả hai ông làm nhà văn, nhà báo tầm cỡ trung ương hẳn hoi… Hôm nọ họp Hội những người cao tuổi, các cụ bảo nhau tới đây phải tu bổ lại cái đình làng. Rồi bàn với Hội cựu chiến binh xây lại cái miếu thờ ở dưới gốc cây đa kia kìa…
Chà, đấy là những công việc hệ trọng của các cụ, chúng tôi trẻ con đâu dám tham gia! Nghĩ vậy, chúng tôi chào ông và theo hướng tay ông thằng Dũng chỉ, tôi kéo nó chạy về phía có cây đa.
Giếng làng xưa không còn nữa! Từ khi mỗi nhà có một cái giếng, người ta đã lấp giếng làng rồi! Tôi và thằng Dũng đứng tần ngần cố hình dung ra cái giếng làng theo lời cụ Tùng kể. Nhưng chịu, không thể biết nó nằm chính xác ở chỗ nào. Hiện giờ ở đây chỉ còn cây đa thôi. Cây đa cũng đã già lụ khụ, rất ít lá, chỉ thấy khẳng khiu, lòng khòng những cành, những rễ. Không rõ là bọn địch đã treo anh bộ đội trên cành đa nào? Đang thầm hỏi thế bỗng chúng tôi giật mình vì có mấy anh thanh niên vác đồ nghề khoan giếng đi qua. Có một anh lớn tiếng hỏi:
- Ê! Hai chú nhóc! Có đi khoan giếng với bọn anh không?
- Không! - Tôi trả lời - Chúng em đang tìm lại giếng làng đây.
Anh ngửa cổ cười, vẻ nhạo báng:
- Giếng làng à? Thời buổi này làm gì còn giếng làng. Xưa rồi chú mình ơi!
Ừ nhỉ? Giếng làng xưa, quá xưa rồi thật. Dẫu biết vậy mà sao tôi vẫn thấy tiêng tiếc, vẫn ước ao giá như làng tôi còn một cái giếng làng để có nước tắm cho chúng tôi không bị rôm sảy vào những ngày Tết Đoan Ngọ như ngày xưa các cụ đã từng được tắm.
ỐC QUÊ
Ăn cơm tối xong, đang ngồi uống nước chè xanh bên bàn bỗng ông bảo:
- Đã sang tháng Mười rồi. Mùa này ốc đang béo. Sáng mai chủ nhật đi bắt lấy ít ốc Phúc ạ.
Đang hí húi vót nan đan rổ ở ngoài hiên, cu Phúc hỏi lại:
- Bắt ở đâu hả ông?
- Ở dưới đồng Chằm Giàng. Chỗ năm ngoái hai ông cháu mình đi soi chém được con cá quả to bằng bắp chân ấy. Cháu còn nhớ không?
Ồ tưởng đâu xa chứ ở đồng Chằm Giàng thì Phúc nhớ. Phúc nhớ vì hàng ngày, những lúc không phải ngồi học, làm bài nó vẫn hay ra đó quăng câu và đánh lờ cá rô. Đấy là một cánh đồng sâu mỗi năm chỉ cấy được một vụ, còn một vụ bỏ trắng. Vụ không cày cấy ấy cỏ lác và cây hoa mặt mâm tha hồ mọc. Đây chính là môi trường lý tưởng cho các loài tôm, cá, ốc, cua… sinh sôi, phát triển. Ngày mai ra đó chắc là nó sẽ bắt được nhiều ốc lắm. Nghĩ thế, cu Phúc hào hứng hẳn lên:
- Tối mai ăn bữa ốc luộc hả ông?
- Ông cũng định thế. Nhưng muốn bắt được ốc thì cháu phải đi thật sớm, nếu không, nắng lên ốc lặn hết, khó mò lắm cháu ạ.
Nghe lời ông dặn, Phúc bảo mẹ gọi dậy từ lúc gà mới ra chuồng. Tuy bóng đêm còn vương đầy trên mặt đất nhưng nó đã vội vàng úp cái nón mê lên đầu, buộc cái giỏ ngang hông, rồi con cón chạy ra cổng.
Thời tiết đã sang thu. Trời se se lạnh. Một màn sương mỏng nhẹ, giăng mờ như khói phủ lãng đãng bên các sườn đồi và trên các dộc ruộng bậc thang. Cu Phúc chạy một mạch qua con đường đất đỏ vắt mình trên đồi cọ là đến cánh đồng Chằm Giàng.
Ở nhà cứ tưởng mình dậy sớm nhất, với lại chỉ có mình đi bắt ốc. Có ra đến đồng mới biết khối đứa còn dậy sớm hơn cu Phúc và chúng nó đang đằm mình mò ốc từ lúc nào.
Dường như sợ bạn bè bắt hết, cu Phúc vội tụt quần áo, vo tròn lại, nhét vào bụi cây, đoạn mình trần như nhộng nó nhảy tùm xuống nước. Nó vừa lội, vừa bì bõm bơi. Chiếc giỏ như cái phao bập bềnh sau lưng nó. Có đứa nào đó lớn hơn cu Phúc thấy thế liền nhắc nó: “Đừng làm động nước, ốc lặn mất”. Cu Phúc chợt nhớ đến lời ông bảo: “Mùa này đi bắt ốc, nếu đứa nào tinh mắt, nhanh tay thì sẽ không phải mò”. Phúc liền dừng lại. Nó giương mắt nhìn xoáy xuống nước. Trong làn nước trong veo, nó nhìn thấy những con ốc nhồi to bằng những quả ổi, có màu xanh đen bám trên những chiếc lá hoa mặt mâm và thân cây lác… đang từ từ khép miệng, lẹ làng lảng dần, lảng dần xuống đáy nước. Đó là những chú ốc đêm qua nổi lên ăn sương giờ thấy động chúng vội vàng lặn trốn. Nhưng đã muộn! Cu Phúc đưa cả hai bàn tay ra tóm lấy từng con và nhét luôn vào giỏ… Bằng cách rình bắt ấy, đến khi mặt trời nhô lên khỏi dãy núi Tam Đảo, tỏa ánh nắng vàng hoe trên cánh đồng thì cu Phúc đã có một giỏ ốc đầy. Cả đám trẻ đi bắt ốc cũng vậy. Chúng nó gọi rủ nhau lên bờ, mặc quần áo (có đứa chỉ mặc quần còn áo vắt vai) đoạn rồng rắn kéo nhau về.
Cu Phúc vừa về đến cổng, mẹ đã hỏi: “Được nhiều không con?” Ông từ trong nhà đi ra nhìn qua giỏ ốc rồi bảo: “Đem ngâm với nước vo gạo cho nó nhả hết bùn để đến tối luộc ăn mới không bị sạn, mẹ cu Phúc ạ”.
Trong lúc chờ mẹ đun lửa luộc ốc thì ở ngoài sân cu Phúc đang cùng với ông hí húi pha nước chấm. Vừa làm ông vừa nói cho cu Phúc biết có khá nhiều cách ăn ốc: Từ con ốc ta có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như: Ốc nướng, ốc xào chuối xanh, ốc nấu canh sắn… riêng món ốc nhồi thịt hấp lá gừng, “anh” đặc sản này phải là khách sang mới được ăn. Tối nay, ông cháu cu Phúc sẽ ăn món ốc luộc là cách ăn thông dụng nhất mà ngon cũng không kém các cách ăn khác đâu! Có điều ăn ốc luộc thì phải có nước chấm ngon. Mà xem ra ngon nhất là món nước chấm đấy nhá. Vì thế ông pha món nước chấm cầu kỳ, công phu lắm. Này nhé, ngoài nước mắm ngon còn phải có dấm này, mì chính này, gừng này, quất này, ớt nữa này… Chà thơm quá! Hấp dẫn quá! Thoáng ngửi thấy mùi, chân răng cu Phúc đã tứa đầy nước miếng.
Ông cháu cu Phúc pha nước chấm xong cũng vừa lúc mẹ nó luộc ốc chín. Ông bảo mẹ nó bê cả nồi ra sân và sai nó vào nhà lấy chiếu trải trên cái sân lát gạch. Sau đó ông lại bảo nó mở tủ lấy ra cho ông chai rượu trắng với cái chén con để ông nhắm rượu với ốc.
Khi ba ông con đã ngồi quây quần bên nồi ốc, mẹ cu Phúc mới mở vung ra. Một mùi thơm quyến rũ của lá bưởi, lá chanh cùng mùi mẻ, mùi ốc phả lên thơm đến nhức mũi. Mẹ định múc ốc bày ra đĩa nhưng ông bảo cứ để cả trong nồi ăn cho nóng, ăn con nào nhúp con ấy như thế mới thật ngon.
Sau một lát nhấm nháp vài ba con, ông khề khà tợp vài ngụm rượu, ông ngồi lặng nhìn hai mẹ con cu Phúc hí hoáy nhể ốc và liên tục phải sịt soạt, hít hà vì vị thơm cay của nước chấm. Hình như ông có chuyện gì sắp nói? Cu Phúc đoán thế bởi lần nào cũng vậy, hễ uống rượu là ông lại nói chuyện. Quả nhiên một lúc sau, với một giọng trầm buồn, ông chậm rãi kể:
- Ngày xưa, nhà mình nghèo lắm. Bố mẹ vẫn  phải đi mò cua, bắt ốc, đem bán lấy tiền đong gạo nuôi con. Hồi còn sống, bà thằng Phúc mò ốc tài lắm. Nhờ thế mới có đủ tiền nuôi bố nó lên tỉnh học. Bây giờ làm cán bộ nhà nước, được đi đây đi đó, được ăn những sơn hào hải vị, chẳng biết bố nó có còn nhớ đến món ốc luộc của quê mình nữa hay không?
Ông hỏi vậy rồi lại nâng chén rượu lên tợp một ngụm nhỏ. Bỗng cu Phúc ngừng tay nhể ốc, nó nắm lấy cánh tay ông, lắc mạnh:
- Ông ơi! Đợi hôm nào bố cháu về, ông cháu mình sẽ chiêu đãi một bữa ốc luộc như hôm nay xem bố cháu có khen ngon không, ông nhá?

ÔNG CHÁU MÍT-SU… PHÚ 

Ông nội của Phú làm nghề dạy học. Từ ngày nghỉ hưu ông nó chuyên ở nhà làm vườn. Ông thường bảo: Tuổi già có hai cái thú. Một là, uống trà vào buổi sáng. Hai là, vạch lá bắt sâu và tưới tắm cho vườn cây.

Về chuyện uống trà của ông cu Phú cũng nhiều điều kỳ thú lắm. Thường thì ông thức dậy từ lúc gà mới ra chuồng. Ông lịch kịch nhóm lửa, đun nước sôi, cho vào phích. Nước pha trà của ông là nước mưa chứa trong cái bể. Trà ông uống là loại trà móc câu, trắng mốc do tự tay ông hái từ lúc trà mới một tôm hai cá, tự tay ông sao, rồi tự tay ông súc ấm, cho trà vào ấm… Ông ngồi uống nhấm nháp từng ngụm nhỏ kiểu như người ta thưởng thức một thứ đặc sản gì quý hiếm. Có một sáng ông mời mấy ông hàng xóm, cũng nghỉ hưu như ông, sang chơi uống trà. Đợi mỗi người uống cạn một chén trà ông mới hỏi mọi người rằng trà có hương vị hoa gì? Kỳ lạ thay là nước trà đều được rót ra từ một chiếc ấm nhưng mỗi ông lại trả lời một khác. Ông này bảo có hương hoa nhài, ông kia bảo có hương hoa hồng, ông khác lại cam đoan có hương hoa ngâu… Sao có chuyện thần tình thế? Thì ra từ tối hôm qua ông đã cọ tách chén thật sạch. Sau khi lau khô ông đặt vào lòng mỗi chiếc tách một bông hoa khác nhau, rồi úp chén lại. Hương hoa đã vương đầy trong lòng chén, thế thì làm gì các cụ chả có nhận xét khác nhau. Biết chuyện các cụ cười rung cả râu. Ai cũng tấm tắc khen ông nội cu Phú là người vừa sành uống trà, vừa biết bày vẽ những trò vui thú thanh tao.
Không biết uống trà nên cu Phú cũng không hiểu được cái ngon, cái thú của ông nó ra làm sao. Nhưng cái thú làm vườn với trồng cây của ông thì nó biết. Ông mới nghỉ hưu có vài ba năm mà mảnh vườn mấy chục mét vuông ngay trước sân nhà cu Phú đã xum xuê lá quả. Đấy là những cây cam Bố Hạ, những cây táo Thiện Phiến, những cây bưởi Đoan Hùng, những cây hồng Hạc Trì, những cây vải thiều Thanh Hà… Những cây giống này, có cây bố nó đem từ Trung tâm khuyến nông về, có cây được người ta biếu, có cây ông tìm mua.
Hầu như sáng nào cũng vậy, uống cạn một ấm trà, không cần ăn thứ gì khác nữa, ông vác cuốc xẻng đi làm vườn. Khi thì ông lóc cỏ đắp gốc cho cây. Khi thì ông san lấp mặt bằng. Ông cặm cụi, ông mải mê với công việc tưởng như không biết mệt, không thấy chán. Chiều xuống, ông lại xách nước từ dưới ao lên tưới đều cho các cây. Tưới xong, ông vạch lá bắt sâu. Mắt ông đeo kính, ông chăm chú nhìn. Hai bàn tay ông nâng niu từng cái lá và lần tìm từng con sâu, con nhện. Cứ thế, ông lặng lẽ làm cho tới khi tối nhọ mặt người mới nghỉ.
Có lẽ được ông chăm sóc như mẹ chăm con nên cây nào ông trồng cũng sống, cũng lớn nhanh như có phép lạ. Nhìn vào vườn cây của ông ai cũng tấm tắc khen. Ông chăm sóc cây đã khéo, ông chiết ghép cây còn khéo hơn, tài tình hơn. Ví như ông ghép cây chanh với cây cam, cây táo ta với cây táo Thiện Phiến, cây bưởi chua... rồi cho ra một giống cây mới. Lòng ham mê làm vườn của ông đã lây sang cu Phú từ bao giờ. Một hôm nó đang đứng xem ông chiết cây thì được ông hỏi:
- Cháu Phú có biết ông Mít-su-rin là ai không nhỉ?
Phú ta đứng ngẩn tò te suy nghĩ một lúc mà vẫn không biết ông Mít-su-rin là ông nào? Cả làng này có mấy ông già nhưng không có cụ nào có cái tên nghe lạ tai như thế cả. Nó đành lắc đầu, cười:
- Ông ấy là ai thế hả ông?
Ông ngừng tay nhìn Phú như chợt hiểu:
- À, năm nay cháu mới học lớp năm nên chưa biết ông ấy là phải. Ông này ở mãi bên nước Nga, là người đầu tiên tìm ra cách chiết ghép cây như ông đang làm đây này. Thế cháu có muốn trở thành ông Mít-su-rin không nào?
Cu Phú cười ỏn ẻn như con gái:
- Có ạ! Nhưng ông ơi, cháu chưa biết cách ghép cây.
- Thì phải học. Học sẽ biết hết. Nếu cháu muốn, ông sẽ dạy.
- Thế ông dạy cháu thật nhá?
Ông cốc khẽ vào đầu cu Phú một cái và mắng yêu:
- Thằng bố mày. Ông không dạy thật thì dạy đùa sao? Nào lại đây ông bày cách cho mà làm.
Thế là buổi học đầu tiên về phương pháp chiết ghép cây của cu Phú bắt đầu. Hóa ra người ta chiết ghép cây là để có một loại cây mới có quả nhiều hơn, lại ngon hơn. Mà muốn chiết ghép thành công thì trước hết phải biết chọn những cành cây giống không bị sâu, đang có sức phát triển tốt và những mắt cây phải lành lặn. Sau nữa, phải thật cẩn thận, tỉ mỉ và kiên nhẫn. Những đức tính này không thể thiếu đối với người làm vườn. Bởi những cây lá, hoa quả nó giống như trẻ con chỉ thích được chăm sóc chu đáo và thích được vuốt ve chiều chuộng.
Ông “lên lớp” một lúc lâu đoạn đưa dao kéo đồ nghề cho Phú thực hành ngay. Ông bảo Phú hãy chiết táo cho ông xem có làm được không. Sau giây lát lóng ngóng với dao kéo, Phú tách vỏ cây, trích lấy mắt cây đoạn đem ghép lại. Mọi động tác Phú làm đều khéo léo, in ắn y như một người thợ lành nghề. Ông đứng ngoài theo dõi luôn mồn khen: “Tốt! Tốt!”. Đợi Phú bó buộc xong, ông xoa đầu Phú nói:
- Cháu có thể trở thành học trò của ông Mít-su-rin được đấy. Từ hôm nay ông giao cho cháu cây này. Cây táo này là của cháu. Cháu phải trông nom, chăm sóc đến ngày nó ra hoa, kết quả. Liệu Phú có làm được không cháu?
Cu Phú mừng rơn chỉ còn thiếu ôm chầm lấy cổ ông mà nhận: “Có ạ!”.
Từ hôm ấy trừ những lúc phải đi học, ngồi học, làm bài và đi chăn trâu… thời gian còn lại nó quẩn quanh ở ngoài vườn cây với ông. Thay cho những lần trốn ông, trốn mẹ đi chơi bời lêu lổng với bọn trẻ con hàng xóm trước kia, bây giờ nó ở nhà cùng ông xới vườn, lóc cỏ, tưới cây. Càng làm nó càng hiểu ra rằng để có một bông hoa thơm, một quả cây chín ngọt, thật không đơn giản một chút nào. Người làm vườn phải tìm hiểu, phải rút kinh nghiệm để hiểu tính nết của từng loại cây. Có như thế mới biết cách mà vun trồng, chăm bón. Riêng với cành táo do chính tay Phú chiết ghép, nhờ được ngày nào nó cũng để mắt tới nên lớn nhanh trông thấy. Chẳng bao lâu từ một mầm táo đã thành cành táo, rồi thành cây táo. Cây táo vươn cành nở lá, xòe tán phủ kín một khoảnh đất rộng bằng cái nong. Rồi cây táo ra hoa. Cây táo kết quả. Chớm đông, táo bắt đầu chín. Những quả táo mòng mọng, sai trĩu cành cứ vàng rộm lên trong nắng. Đúng vào dịp này thì Hội làm vườn của các cụ ở làng Phú được thành lập. Ông của Phú được các cụ bầu làm Hội trưởng. Buổi sinh hoạt đầu tiên của Hội họp ngay tại nhà Phú.
Sau khi các cụ uống xong một tuần trà do chính Phú giúp ông súc ấm, pha trà, chế nước, ông mới bảo Phú ra vườn hái táo - cây táo mà nó tự chiết ghép và vun trồng ấy - để mời các cụ ăn nếm. Phú chọn hái một mủng con những quả chín nhất, mọng nhất đem vào đưa ông. Ông lại còn bảo nó bày táo ra một cái đĩa men, đoạn ông trịnh trọng đặt lên bàn thờ. Ông thắp hương và lầm rầm khấn vái. Khấn xong, ông quay ra nói với các cụ:
- Đây là những quả táo đầu do thằng cháu Phú nhà tôi làm ra. Tôi đã thắp hương mời tổ tiên thụ hưởng, giờ đến lượt anh em mình, mời các cụ ăn nếm xem có ngon không ạ.
Dứt lời, ông cầm táo đưa cho mỗi cụ hai quả. Các cụ vừa ăn một cách nhâm nhi, vừa bình luận rất sôi nổi. Có cụ khen táo ngọt, giòn, có cụ khen táo hạt nhỏ, thịt nhiều, hơn đứt anh “Thiện Phiến”… Có cụ nói với ông cu Phú:
- Đúng là giỏ nhà ai, quai nhà ấy thật. Cháu Phú khá lắm. Nay mai lớn lên cho nó đi học Đại học Nông nghiệp, học làm kỹ sư trồng trọt được đấy các cụ ạ.
Không giấu nổi niềm vui đang tràn ngập trong lòng, ông cu Phú cười khà khà và khoe luôn:
- Cháu nó đang mơ ước trở thành Mít-su-rin đấy ạ!
Một cụ khác nói:
- Ông Mít-su-rin ở tận đẩu tận đâu tôi không biết, từ nay chúng tôi sẽ gọi ông cháu nhà cụ là ông cháu Mít-su … Phú. Được không?
Các cụ cùng cười rộ lên tỏ ý tán đồng. Riêng cu Phú lại đứng im, mặt nghệt ra. Nó có ý chờ xem các cụ trong Hội làm vườn họp bàn về vấn đề gì? Nếu có thể, nó cũng sẽ xin ông cho gia nhập Hội. Liệu đã nên chưa nhỉ? Liệu có được không nhỉ?
LÃ THẾ KHANH
Cuộc chia ly dịu dàng
Tập truyện ngắn đoạt Giải A,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ I (1997 - 2000)
CUỘC CHIA LY DỊU DÀNG
Họ vẫn khoác vai nhau lặng lẽ đi trên hè phố. Bàn tay của cô gái hờ hững bám vào eo lưng chàng trai. Còn anh, bàn tay gầy, xương xẩu, ôm riết lấy bờ vai cô gái. Anh vừa đi vừa như dìu cô về phía trước. Cả hai còn rất trẻ. Người con trai trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi. Còn cô gái, nhiều lắm chỉ đến tuổi hai hai, hai ba. Họ ăn mặc giản dị nhưng lịch lãm. Dáng điệu cả hai đều rất thanh lịch.
Họ đi chậm chạp. Thỉnh thoảng cô gái lại như vấp váp, làm cho chàng trai khựng lại, chờ đợi.
Nhìn họ, không ai nghĩ rằng họ đang trên đường đi tới Tòa án để rồi vĩnh viễn xa nhau. Trời mùa thu xanh đến vô cùng. Những đám mây màu ngọc bích lững thững trôi, hồn nhiên và yên bình... Thi thoảng một vài ngọn gió đơn côi, se sắt tạt vào khuôn mặt hai người. Những sợi tóc dài, đen nhánh từ mái tóc người con gái vương vào mặt người con trai. Mùi hương sả từ mái tóc ấy rực lên, làm chàng trai xao xuyến, man mác… Ôi, mái tóc ấy chỉ ít phút nữa sẽ không còn là của ta! Chàng trai thầm nghĩ. Những ý nghĩ làm anh đi chậm lại. Còn cô gái, không một xúc cảm nào. Cô bước đi với một tâm trạng bình thản, thách thức. Nỗi đau trong cô đã bão hòa.
Cổng tòa án Quận đã hiện ra trước mặt hai người. Ngập ngừng giây lát, họ quả quyết bước vào. Đôi mắt cô gái vẫn nhìn thẳng. Cặp môi tím tái mím lại, kiêu sa. Còn chàng trai, anh chuyển tay mình từ bờ vai cô gái lên mái tóc cô gái. Một cảm giác mát lạnh truyền khắp người anh. Anh bất giác rùng mình…
Bà Chánh án giương đôi mục kỉnh lên rồi đăm chiêu, quan sát cả hai người. Họ chỉ trạc tuổi đứa con thứ hai, thứ ba của bà. Cầm tập hồ sơ lên rồi lại đặt xuống, bà hỏi, giọng đầy trắc ẩn:
- Có lẽ nào hai cháu đến đây để… ly hôn?
- Thưa cô, cháu tiếc rằng đó lại là sự thực! - Cô gái bình thản trả lời.
- Chắc đó là ý muốn của riêng cháu? - Bà Chánh án hỏi người con gái nhưng đôi mắt lại hướng về chàng trai. Anh vẫn mơ màng nhìn vào một điểm vô hình trên bức tường trước mặt.
- Lúc đầu là của riêng cháu. Nhưng bây giờ thì là của cả hai!
Cô gái lạnh lùng khẳng định.
- Thôi được! Cô đã xem kỹ đơn của các cháu. Nhưng dẫu sao, trước khi quyết định, cô vẫn muốn hỏi cháu một lần cuối cùng. Cháu hãy trả lời cho trung thực: Vì sao các cháu lại quyết định ly hôn?
Cô gái cúi đầu, hất ngược mái tóc lại phía sau, vẻ bướng bỉnh, rồi nhìn thẳng vào khuôn mặt phúc hậu, mệt mỏi của bà Chánh án:
- Thưa cô! Chẳng lẽ… suốt đời người ta lại cứ phải theo đuổi một tình yêu đơn phương?
- Cháu có bằng chứng về chuyện chồng cháu ngoại tình?
- Thưa… Không! Chuyện ấy thì anh ấy chưa có!
- Thế chẳng lẽ chàng trai này lại là một kẻ… vũ phu?
- Cũng không phải ạ! - Cô gái thở dài - Dù sao thì cháu cũng phải công nhận anh ấy là một người dịu dàng, thậm chí ủy mị nữa. Anh ấy… rất chiều chuộng cháu!
- Chồng cháu có nghiện ngập thứ gì không? Như thuốc lá, rượu chẳng hạn?
- Tất cả những thói xấu mà nhiều người đàn ông khác thường mắc phải thì anh ấy đều chưa có! Vâng! Đúng là thế ạ! Cháu vẫn thường tự hào với bạn bè điều đó!
- Thế thì vì lẽ gì? Cô… cô không thể hiểu nổi? - Bà Chánh án đứng dậy khỏi bàn, bước tới bên chàng trai, bà ân cần hỏi:
- Những lời cô ấy nói có đúng không cháu? Cô chờ đợi ở cháu một sự trung thực!
- Thưa…! Cũng có thể là quá lời. Song cơ bản là đúng như vậy!
Chàng trai khẳng định một cách dè dặt.
- Trong thời buổi hiện nay, nếu một trong hai người không mắc phải những lỗi lầm trên, thì theo cô không có gì đáng phải xa nhau cả. Làm nghề này, cô được biết, có những cặp vợ chồng đã từng coi nhau như kẻ thù. Vậy mà họ vẫn tha thứ cho nhau. Vẫn… đoàn tụ! Huống chi… Hay là các cháu có những lý do nào cô chưa thể hiểu được?
- Thưa cô! Chúng cháu không còn yêu nhau nữa. Đó là lý do duy nhất buộc chúng cháu phải xa nhau! - Cô gái mệt mỏi trả lời.
- Cháu có chứng cớ gì để lý giải điều này chứ? Chả lẽ…!!! Bà Chánh án ngoảnh mặt về phía chàng trai lúc này đang ngồi tư lự. Khuôn mặt anh lộ rõ vẻ hoảng hốt như người vừa làm điều gì xấu bị bắt quả tang.
- Bằng chứng như những cặp vợ chồng khác thì cháu không có. Nhưng… bằng chứng cho một tình yêu bị dối lừa, bị phụ bạc thì cháu có. Cô đừng bắt cháu phải đưa ra những chứng cứ cụ thể. Bằng trái tim người đàn bà, cháu có thể trình với cô những chứng cứ vô hình, nhưng nếu ở địa vị cô, xin lỗi, cháu xin ví một cách vô lễ như vậy, thì chắc cô sẽ xử sự như cháu. Cháu xin cô hãy bình tĩnh nghe cháu kể. Có gì không đúng, bạn cháu có toàn quyền phủ định cơ mà - Cô gái nói, giọng rành rẽ, lạnh lùng, chứng tỏ điều cô suy nghĩ, quyết định đã nung nấu trong con tim, thậm chí nó còn quá muộn so với cái thời khắc mà cô quyết định.
- Cháu cứ nói. Cô đang nghe đây mà! - Bà Chánh án khuyến khích cô gái.
Được sự đồng cảm, cô gái như phấn khích hẳn lên. Giọng cô đều đều, ảm đạm, như máy ghi âm, làm sống lại trước mặt bà Chánh án cái thời quá vãng vừa đau buồn vừa tiếc nuối của cuộc đời cô gái…
… Đó là một ngày đẹp trời! Hương (tên cô gái trong truyện) tổ chức lễ sinh nhật lần thứ 23 của mình. Hai mươi hai giờ kém mười phút, bạn bè của Hương đã về hết. Trong căn phòng xinh xắn ngổn ngang những ly, những cốc và tặng phẩm chỉ còn Quang - chồng Hương. Quang ngồi thờ ơ hút thuốc lá. Những lọn khói tròn, dích dắc bay lơ lửng khắp trần nhà. Anh nhìn vợ đang viên mãn trước hạnh phúc của mình nhưng đôi mắt anh thì trống rỗng, mệt mỏi. Đôi mắt Quang nửa như xâm chiếm trọn thân thể Hương nửa như hướng vào một điểm vô hình trên bức tường trước mặt.
- Quang! Anh mệt hay sao! - Hương nũng nịu. Vừa nói cô vừa bước đến bên chồng rồi ngồi xuống một bên ghế sa lông. Cánh tay trần trắng muốt của Hương ghì đầu Quang vào bộ ngực căng đầy của mình. Quang nghe rõ nhịp tim gấp gáp của vợ.
- Không! Anh không mệt! Anh hạnh phúc quá! – Quang ngước mắt nhìn vợ - Đôi khi hạnh phúc lớn quá cũng làm cho người ta mệt, người ta sợ phải không em?
- Quang nói gì em không hiểu! Đã là hạnh phúc thì sao lại phải sợ! Quang! Anh có thật yêu em không? Hương chột dạ. Vừa nói cô vừa vò tóc Quang rồi bật ngửa khuôn mặt rắn rỏi, lúc nào cũng đọng đầy ưu tư của chồng lên để nhìn ngắm.
Những cử chỉ của Hương làm Quang phấn khích đến tột độ. Anh như rơi vào một trạng thái không trọng lượng. Toàn thân Quang bồng bềnh trong một cảm giác vừa đê mê và hoang tưởng. Anh ôm ghì vợ vào lòng rồi tới tấp hôn lên môi cô những cái hôn bỏng rát. Hương cũng thế! Chưa hôm nào như hôm nay, cô cảm thấy mình là người hạnh phúc nhất. Mọi ngày, mỗi khi đi làm về, Quang thường kiếm cớ để tìm cách ngồi riêng một mình trong căn phòng làm việc. Quang rất ít khi dành trọn một buổi tối để vợ chồng tâm sự. Còn hôm nay, không hiểu sao Quang đã không từ chối bất cứ một yêu cầu nào của vợ. Anh lảo đảo kéo Hương đến bên giường. Vừa bật từng chiếc cúc áo của vợ, Quang vừa thầm thào:
- Liên! Anh yêu em… Anh yêu em mà. Liên!!!...
Dù đang đắm chìm trong một trạng thái đê mê, Hương vẫn đủ mẫn cảm để nhận biết trọn vẹn tiếng lòng của Quang. Cái xúc cảm phấn hứng trong người cô vụt biến đi, nhường chỗ cho một cảm giác xót xa, hụt hẫng. Hai cánh tay Hương đang ghì chặt Quang như tê dại. Thẫn thờ đến ba, bốn phút, Hương bỗng dùng cả hai bàn tay đẩy Quang ngã xuống giường. Cô nằm úp mặt xuống gối, nức nở khóc. Vừa khóc, Hương vừa nguyền rủa:
- Đồ… giả tạo! Đồ phản bội! Thật là…
Quang chợt tỉnh trước cú đẩy nghiệt ngã của Hương. Anh hiểu rằng anh đã phạm sai lầm mà những người con gái có lòng tự trọng không bao giờ tha thứ. Trời ơi! Sao cái tên của người ấy lại lọt vào môi anh trong lúc này! Đã dăm năm nay, kể từ ngày yêu Hương rồi lấy Hương, Quang đã cố tình quên hình ảnh, tên gọi của người con gái ấy. Vậy mà, cứ như chờ dịp thần kinh anh phấn khích, nó lại trở về, xâm chiếm trọn vẹn trái tim anh…
- Tha thứ cho anh! Hương… Anh trót lầm lẫn mà!
- Im đi! Đừng nói nữa! Đồ dối lừa! Đồ phản bội! - Hương vẫn tức tưởi - Hóa ra… năm năm qua anh đã mượn thể xác tôi để thỏa mãn tình yêu của anh. Anh đã ăn cắp lòng tin, tình yêu của tôi. Cút đi!… Hãy cút đi!
-… Thưa cô! Tất cả câu chuyện chỉ có thế! - Cô gái ngừng kể, ngước nhìn bà Chánh án - Cháu muốn cô hiểu cho! Sự dối lừa về thể xác đôi khi còn có thể chấp nhận. Nhưng sự phản bội, sự ngoại tình bằng ý nghĩ, bằng tình cảm thì đó là điều sỉ nhục nhất. Chỉ có những kẻ tàn nhẫn nhất mới như thế! Cô đồng ý với điều cháu nói chứ? Năm năm qua, cháu cứ nghĩ vợ chồng cháu như một tờ giấy. Một tờ giấy mà hai mặt của nó không bao giờ tách rời nhau. Mặc dù cháu vẫn biết trước đấy Quang đã yêu một người con gái nào đó. Vậy mà… hai mặt của tờ giấy ấy lại chẳng bao giờ giáp nhau được…!
- Thôi được! Cô hiểu điều cháu nói - Bà Chánh án ngắt lời cô gái rồi quay sang phía chàng trai:
- Cháu có điều gì cần phải làm rõ thêm?
Người con trai buông thõng hai tay trên đầu gối. Anh ngước nhìn toàn bộ căn phòng như muốn tìm một vật gì đó để tự vệ. Một lúc sau anh thở dài, thú nhận:
- Thưa cô! Hương đã nói đúng sự thực. Không hiểu sao năm năm qua cháu vẫn không thể nào quên được người con gái ấy. Mặc dù khi đến với Hương, cháu không có gì phải ân hận. Hương là một cô gái tuyệt vời. Có cách nào… cô giúp được cháu không? Hoặc chí ít cô hãy giúp cháu một lời khuyên?
Bà Chánh án không nói gì, mặc dù bà rất xúc động. Trở lại chiếc ghế của mình, bà lục tìm một tờ giấy gì đó rồi rút bút ký vào đó một chữ. Ký xong, như còn do dự điều gì, bà đăm chiêu ngắm nhìn tờ giấy với chữ ký của mình một lượt. Ít giây sau bà quả quyết đưa cho cô gái. Bà nói, giọng trầm mặc nhưng rành rẽ:
- Những trường hợp khác, cô có thể khuyên họ hòa giải. Nhưng còn hai cháu thì cô không khuyên điều đó!
Việt Trì, tháng 3-1991
ĐỒNG VỌNG NGƯỢC CHIỀU
Theo cái gậy tre dò đường, bà lão rờ rẫm từng bước về phía cửa ga.
Bà đi như người tập làm xiếc trên dây. Chiếc nón lá rách lướp tướp, từ bàn tay gầy guộc, lẩy bẩy của bà huơ đi huơ lại, không lúc nào yên.
 Dừng lại bên đống rác lớn, bà lão bắt đầu van vỉ: Cháu lạy các ông các bà… Cháu mù lòa già cả… Cháu xin các ông các bà nhón tay làm phúc…
Không một hồi âm, ngoài tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Một con chuột ngày trơ tráo bò lên bàn chân bà lão. Bà sững người. Khuôn mặt lóe lên một tia sáng mỏng. Bà đưa tay lần tìm từng tí trong lòng chiếc nón. Nhưng  ngay sau đó, cặp mắt nặng trĩu, ầng ẫng nước của bà tối sầm lại.
Bà lão tiếp tục van vỉ. Vẫn điệp khúc cũ. Nhưng càng về sau càng thống thiết, não nề. Những câu nói rời rạc, như tự chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà.
Cái nón vẫn trống huếch. Một tia nắng lọt qua cái chóp thủng, xiên thẳng xuống đất, như đóng đinh bà lão xuống nền đường.
Nằm dưới gốc cây sấu già, bé Chi thiu thiu ngủ. Nó gối đầu trên cái túi dúm dó, khâu bằng bốn, năm loại vải cũ, sờn. Một cái bát sắt hoen gỉ, thủng đáy, nằm lăn lóc bên cạnh. Bộ ngực gầy trơ xương của con bé thắc thỏm dưới làn áo cáu bẩn, nhàu nhĩ.
Từ sáng tới giờ chưa có chút gì trong bụng, nên bé Chi đói rũ người. Nó hy vọng giấc ngủ xua tan cái đói. Nhưng không thể được.
Mọi ngày vào tầm này, mèng ra nó cũng xin được đủ tiền mua hai cái bánh mì.
Hôm nay xúi quẩy thế nào, chỉ được tờ hai trăm đồng mất góc.
Bỗng bé Chi giật thót người. Có một bàn chân nào đó giẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, bé Chi gầm lên:
- Mù à? Người ta nằm thế mà giẫm lên!
- Bà mù... mù thật cháu ạ! Thôi, bà đã trót... Cho bà xin!
Lặng đi một lát, bé Chi đưa hai tay sờ mắt mình. Từ hai hốc mắt của nó, những giọt nước mặn chát, rỉ ra. Nó ngập ngừng:
- Cháu... Cháu xin lỗi bà! Cháu không biết là bà như thế...
Bà lão ngúc ngắc đầu như thể chấp nhận, rồi tiếp tục đi về phía có tiếng đông người. Vừa đi bà lại vừa lẩm nhẩm:
- Cháu lạy các ông các bà... Cháu xin các ông các bà nhón tay làm phúc... thương kẻ mù lòa, khốn khổ này!
Ngẫm ngợi điều gì đó lung lắm, bé Chi lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, rồi quả quyết:
- Bà ơi!... Cháu bảo này!
Bà lão dừng ngay lại. Bà nhận ra người gọi mình chính là con bé bà vừa nói chuyện. Linh cảm mách bảo bà sẽ gặp may.
- Bà ơi! Cháu... cháu biếu bà!
Khuôn mặt lộ vẻ vui mừng, bà lão chậm chạp quay trở lại, rồi chìa nón về phía gốc cây chờ đợi.
Đúng khoảnh khắc ấy, một cơn gió nhẹ ào qua. Từ trên cây sấu già, những phiến lá khô rơi xuống, khẽ khàng, đúng vào cái nón của bà lão.
Ngỡ con bé thả tiền vào nón, bà lão đưa tay quờ đi quờ lại. Một cái nhíu mày xéo ngang vừng trán nhăn nheo. Bà lão buồn bã đi tiếp về phía cửa ga. Vừa đi bà vừa thầm rủa:
- Bố con nhà mất dạy... Lừa cả người già... Rồi giời sẽ bắt tội đấy con ạ!
Ngồi ở gốc cây, bé Chi vẫn chìa tờ bạc về phía trước, vẻ thành tâm. Chờ mãi, không thấy bà lão nhận tiền, nó đứng phắt dậy, thảng thốt gọi:
- Bà ơi! Cháu xin biếu bà! Thực đấy mà!
Không ai trả lời con bé. Nó đưa tay quờ quạng quanh mình. Bàn tay nó chạm phải thân cây sấu già, thô nhám.
Nhét tờ bạc vào túi áo, một tay cầm túi, một tay chống gậy, con bé mù thập thững tìm đường.
Lúc ấy là mười hai giờ trưa. Nắng mùa hạ chói chang, in hình bé Chi xuống nền đường, tròn như đồng tiền vàng.
ĐỨA CON CỦA LÀNG
Sáng nay hội trường UBND xã Sơn Đông rất đông người. Họ đang bàn tán đủ thứ chuyện trên đời. Một thanh niên mặc chiếc áo quân phục K72 đã bạc phếch quay sang nói chuyện với mọi người vẻ hiểu biết:
 - Trong số các vị về xã mình hôm nay có cả thằng Hiếu đấy. Nó đi lính sau tớ hai năm. Sau chuyển ngành đi học. Thế mà bây giờ đã là tiến sĩ. Oai đáo để.
Câu chuyện đang sôi nổi thì bị cắt ngang bởi tiếng động cơ ô tô. Một chiếc Altis còn mới cứng từ từ rẽ vào sân hội trường. Trên xe có một người đàn ông đã luống tuổi, ý chừng là trưởng đoàn và hai nhà khoa học khác còn rất trẻ. Những người đứng trên hành lang hội trường ùa xuống sân, vây quanh đoàn cán bộ. Ông Liễn, Bí thư Đảng ủy xã chen vào giữa dòng người thân mật bắt tay từng vị khách. Đến lượt nhà khoa học trẻ nhất đoàn thì ông giang hai tay ôm ngang người anh ta, giọng xúc động:
- Hiếu!... Cháu khá lắm! Bác chúc mừng cháu! Cháu đã làm cho cả làng ta thơm lây! Không ngờ làng mình lại có một nhà khoa học nổi tiếng như  cháu.
Đáp lại tình cảm của ông bí thư già, người con trai có tên là Hiếu cũng xúc động không kém. Anh lúng búng trong miệng:
- Dạ… Có gì đâu bác…
Ông Liễn lắc lắc đôi vai Hiếu một lần nữa rồi săm sái chạy lên trước đoàn người để mời khách vào nhà ủy ban. Hiếu vẫn đi sau cùng. Vừa đi anh vừa bẽn lẽn đáp lại những câu nói, cử chỉ suồng sã nhưng thân thiết của dân làng.
Khi cả khách và chủ đã ngồi yên trong hội trường, ông Liễn dáng điệu trịnh trọng, bước lên bục nói chuyện:
- Kính thưa đoàn khoa học! Thưa bà con toàn xã! Hôm nay rất vinh dự cho xã ta được đón đoàn khoa học của Trung ương về thăm và xem xét đầu tư một số dự án kinh tế nông nghiệp. Rồi đây các nhà khoa học sẽ giúp cho cái làng Gồi của chúng ta thoát nghèo thoát đói.
Tiếng vỗ tay rào rào nổi lên. Đợi cho làn sóng vỗ tay lắng xuống, ông Liễn mỉm cười nói tiếp:
- Như bà con đã biết! Đoàn khoa học gồm có ba đồng chí, do Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Minh Ngọc làm trưởng đoàn. Nhưng… đặc biệt là trong ba đồng chí này như bà con đã thấy, có tiến sĩ Hiếu… Cháu Hiếu là người làng ta (Tiếng vỗ tay lại ào ào nổi lên to hơn, ầm ĩ hơn lần trước). Giáo sư Ngọc cho tôi hay, cháu Hiếu vừa nghiên cứu thành công giống vải thiều trồng trên đất đồi mà vẫn cho năng suất cao. Rất phù hợp với đồng đất làng ta. Đây phải nói là, là một cơ may lớn cho xã ta. Tôi đề nghị bà con hoan nghênh các nhà khoa học. Hoan nghênh cháu Hiếu, đứa con tài giỏi của làng Gồi ta…
Tiếng vỗ tay lại ào lên át cả tiếng nói của người bí thư già. Một bác nông dân đứng ở ngoài cửa hội trường đang tìm cách len vào trong nhà không được bèn gào lên rất to:
- Vậy thì mời anh Hiếu lên nói chuyện trước đi! Ưu tiên người nhà ta đã.
Thấy không khí dân làng như vậy, Giáo sư Ngọc quay sang nói nhỏ với Hiếu điều gì đó rồi giục anh lên nói chuyện trước. Nhưng rồi cũng phải để cho mọi người thúc giục, co kéo mãi, Hiếu mới bẽn lẽn bước lên bục. Hiếu bắt đầu câu chuyện  của mình một cách rời rạc:
- Kính thưa các cụ, các ông, các bà! Kính thưa… tất cả bà con, các anh các chị… Cháu… Cháu rất xúc động khi được về thăm quê hương. Được… Được quê hương dành cho một sự đón tiếp như thế này… Cháu không biết nói gì hơn. Chỉ biết cháu rất xúc động. Cháu cảm ơn các bác, các chú lãnh đạo ở địa phương đã… đã nuôi dạy cháu trưởng thành để cháu có được ngày hôm nay…
Ngồi thu mình ở phía dưới của hội trường, dáng bơ phờ, mệt mỏi là một người đàn ông tuổi trạc sáu mươi. Ông ta nửa như chăm chú nghe, nửa như không để tâm một chút nào tới những điều Hiếu đang nói. Người đó là ông Hoạch, một lãnh đạo chủ chốt của xã Sơn Đông mới nghỉ hưu vài năm nay. Con người ấy mấy năm trước béo tốt, khệnh khạng là thế, nay còm cõi đen đúa. Khuôn mặt ông bành  bạnh với những nếp nhăn thô, to chồng chéo lên nhau, trông càng khắc khổ lam lũ. Khác với mọi người đang bị câu chuyện của nhà khoa học trẻ cuốn hút, ông Hoạch ngồi nghe chiếu lệ. Từ trong tâm can ông có một điều gì đó mà lâu nay ông lãng quên đang trỗi dậy, làm ông bồn chồn, bứt rứt. Ông quay sang hỏi người đàn bà ngồi cạnh:
- Này! Cái cậu này nó là con ai nhỉ?
- Ông hỏi ai cơ? - Người đàn bà đã luống tuổi hỏi lại.
- Cái cậu đang nói chuyện kia kìa?
- Rõ chán cho ông! - Người đàn bà cười, ngạc nhiên - Con bà Thông ở xóm Gồi… À, nhưng mà cái hồi cậu ấy đi bộ đội thì ông không ở nhà nhỉ!
- Hồi đó tôi đang ở Lâm Đồng! Mới lại chúng nó tuổi bằng con mình thì biết thế nào được! - Ông Hoạch trả lời, giọng lạnh tanh. Quay sang phía người đàn bà ông hỏi tiếp:
- Quái nhỉ? Bà Thông làm gì có con? Trước có lấy một đời chồng nhưng không có con nên ông ta bỏ?
- Ông rõ chóng quên! - Người đàn bà vẫn chăm chú nhìn lên bục - nơi Hiếu đang nói chuyện - Cậu này nó là con nuôi bà Thông. Này, ông có nhớ cái nhà chị gù bán nước ở đầu làng ta không nhỉ? - Người đàn bà hạ giọng, thầm thào.
Ông Hoạch nhíu mày suy nghĩ. Thấy vậy người đàn bà cặn kẽ, chỉ đủ để ông nghe:
- Cái nhà chị gù ở bên cạnh nhà cụ Năm có con tên Ngãi là liệt sĩ ấy mà! Thằng Hiếu này chính là con đẻ của chị ta đấy. Hồi chị ta bỏ đi nó đâu mới được một tháng tuổi gì đó. Sau bà cụ Năm mới đem cho bà Thông nuôi… Khổ thân! Không hiểu bây giờ cái nhà chị ấy ở đâu nhỉ? Còn sống hay đã chết rồi? Lâu lắm rồi còn gì ông nhỉ? Dễ đến gần ba chục năm…
Con người đàn bà gù bán nước ở đầu làng Gồi à? Nhà khoa học trẻ đang nói chuyện trên bục kia là con trai của người đàn bà bất hạnh đó ư? Có lẽ nào lại như thế được? Ông Hoạch nhăn trán, cố lục trong vùng nhớ của não mình hình ảnh người đàn bà tật nguyền mà không sao nhớ nổi. Đúng là ông quên thật. Tính ông xưa nay vẫn vô tâm thế. Nhưng rồi… Ông Hoạch à lên một tiếng. Ông ngồi so người lại. Ông không còn nghe tiếng vị tiến sĩ đang nói chuyện trên bục nữa. Tai ông bỗng ù lên dữ dội. Khuôn mặt đen đúa của ông trở nên nhợt nhạt. Rồi trước mắt ông Hoạch, nhà khoa học kia bỗng mờ dần, mờ dần, lung lay nhẹ và biến thành một đứa trẻ. Đứa trẻ đỏ hỏn, non nớt. Nó đang cất tiếng khóc. Tiếng khóc của nó ngây thơ, thê thảm làm sao. Những tiếng khóc như báo hiệu với người đời rằng: Ở đây, tại căn nhà lụp xụp này có một công dân vừa chào đời. Công dân ấy trong trắng, vô tội và hoàn thiện như mọi người. Tiếng khóc của đứa trẻ khi xa, khi gần, khi rõ mồn một bên tai ông Hoạch khi thì chỉ còn lại như một tiếng rên ư ử… Nhưng rõ ràng là nó đang vặn vọ, cấu xé lương tâm ông. Ông Hoạch bàng hoàng thờ thẫn như bị một cú sốc tâm thần. Rồi trước mắt ông, như một ảo ảnh, bỗng hiện lên mồn một hình ảnh người đàn bà gù. Chị ta đang quằn quại, cắn chặt hai hàm răng, cố lấy hơi sức cuối cùng trong người để sinh đứa bé. Từ trên mái nhà dột nát những giọt nước mưa to như những hòn sỏi đang đổ xuống lòng nhà tong tả. Nền nhà sũng nước. Mặt và toàn thân người đàn bà tật nguyền cũng đẫm nước. Một thứ nước pha trộn của nước mưa và nước mắt. Bỗng một tiếng kêu… a… a vang lên lọt thỏm giữa tiếng rú rít của bão gió. Rồi tiếp đó là tiếng kêu oe, oe… của con trẻ. Tiếng thở phào sung sướng của người mẹ…
Ông Hoạch nhấp nhổm như trong người có hàng triệu con kiến lửa đang bò. Ông định nói với người đàn bà ngồi cạnh cho ông ra ngoài vì ông nhức đầu quá thể… thì bỗng nhiên ông ảo giác có một bàn tay già nua, nhăn nheo nào đó kéo ông lại. Ông quay ngang quay dọc. Không! Không có người nào chạm vào ông cả. Mọi người vẫn đang chăm chú nghe nhà khoa học của làng nói chuyện trồng cây vải thiều trên đồi. Nhưng… rõ ràng là có một bàn tay thực. Bàn tay ấy vừa lay gọi lương tâm ông dậy. À phải rồi - Ông Hoạch chợt nhớ ra - Đó là bàn tay của bà cụ Năm, người láng giềng tốt bụng của người đàn bà gù. Kìa! Bà cụ đang bế đứa bé đỏ hỏn trong tay đi tới trước cửa phòng ông - phòng vị Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Ông Hoạch nghe mồn một tiếng thở hổn hển và tiếng nói nhọc nhằn của bà lão:
- Thưa ông! Đêm xưa mẹ Thảo nó đã sinh nở…
Bã lão nói chưa hết câu thì ông Hoạch đã tròn mắt cắt ngang:
- Bà vừa nói gì nhỉ? Thảo nào?
- Cái mẹ Thảo ở đầu xóm ấy - Bà lão giải thích - Nó ở gần nhà tôi ấy mà!
- Hố… hố…! Cái con gù ấy à? - Ông Hoạch cười khùng khục - Nó cũng đẻ được à? Bà không đùa tôi đấy chứ? Thế con nó có gù như nó không?
Ông Hoạch vừa nói vừa cười chảy cả nước mắt, nước mũi.
- Có gì mà ông cười thế? - Bà lão khuôn mặt rầu rầu, ngạc nhiên khi thấy thái độ của ông Hoạch như vậy - Chị ta là đàn bà thì chị ta đẻ được chứ sao. Cũng như vợ ông ở nhà. Có gì mà lạ?
- Ừ, thì tôi có bảo nó là đàn ông đâu - Ông Hoạch vừa cười vừa hỉ mũi xành xạch - Có điều tôi thấy chị ta gù thế mà cũng đẻ được thì tôi thấy lạ, tôi hỏi…
- Ông Hoạch này! Ông không nên ăn nói thất đức như vậy. Chị ta thế thì ảnh hưởng gì tới nhà ông? Nhẽ ra thấy những người như thế ông phải động tâm mới phải. Đằng này ông lại nhạo báng. Ác nhân ác khẩu…
Vốn là người thẳng thắn, xưa nay ít biết sợ ai, bà cụ Năm nói liền một mạch, không giấu sự phẫn nộ.
Trước thái độ của bà lão như vậy, mặt ông Hoạch bỗng ngây đờ ra. Miệng ông lúng túng như bị cấm khẩu. Nhưng chỉ mấy giây sau ông Hoạch đã lấy lại được cái thế của mình. Nổi cơn thịnh nộ, ông quát bà lão:
- Này! Bà định lên đây để lên lớp  tôi phải không? Tôi nói bà rõ! Đây là nhiệm sở. Là nơi thi hành phép nước! Chứ không phải là cái túp nhà bà để rồi bà quạc mồm ra mà chanh chua, chửi bới đâu nhé! Thôi bà về đi cho tôi làm việc… Mất thời gian… Vớ vẩn… Đương đâu thì lại đi nói chuyện đẻ với đái…
Ông Hoạch vừa nói vừa lồng lộn đi lại trong phòng.
Hai bên mép ông sùi ra hai cục bọt trắng nhẽo.
Bà cụ Năm cũng không vừa. Thấy ông phó chủ tịch xã lấn mình như vậy thì bà không chịu. Bà đứng dậy một tay vịn vào bàn, một tay xỉa xói:
- Tôi có việc tôi mới lên. Chứ rỗi hơi mà tôi lên đôi co với nhà ông à? Tôi hỏi, giả thử cái nhà ông không làm việc bỉ ban thì tôi thèm gặp nhà ông à? Chứ tôi nói cho ông biết, ngày xưa gặp lý trưởng nó cũng không khó như gặp nhà ông đâu. Ông nạt tôi mà được à.
Hai người lời qua tiếng lại mỗi lúc một căng thẳng. Mấy người làm việc ở các phòng bên của ủy ban thấy vậy đổ sang xem. Ông Hoạch hình như nhận thấy mình hơi quá đáng, lại nghe thấy bà lão so sánh mình với lý trưởng ngày xưa thì đâm ra lo. Ông bèn dịu giọng hỏi, nhưng ánh mắt vẫn lộ vẻ tức tối:
- Thế bà gặp tôi có việc gì? Này thôi, mấy người kia sao lại đứng hóng thế - Ông Hoạch đay mặt qua mấy người cán bộ đang đứng nghe ở rìa ngoài - Có để tôi làm việc không thì bảo. Cái thói đâu cứ hơi tý thì đổ đến nghe…
Bà cụ Năm thấy ông Hoạch dịu giọng lại thì cũng từ tốn theo. Bà vừa thở vừa nói:
- Báo cáo ông! Tôi đến đây để trình ông. Xin ông cho thằng con nhà mẹ Thảo được làm cái giấy sinh nở…
- Bà họ hàng với chị ta à? Đằng nội hay đằng ngoại?
Ông Hoạch giễu cợt. Ông thừa hiểu bà cụ Năm với người đàn bà nọ không hề có quan hệ họ hàng.
- Tôi chả dây mơ rễ má gì với nhà nó cả. Tôi với mẹ nó cũng như tôi với ông thôi. Nhưng tình làng nghĩa xóm ông ạ. Tối lửa tắt đèn phải có nhau.
- Sao bà không bảo nhà chị ta lên đây mà khai?
- Ông này nói mới hay! Cứ giả thử như vợ ông ở cữ chưa được ba bảy hai mốt ngày thì ông có cho vợ ông đi lại nắng gió không? Đằng này mẹ nó vừa ở cữ được mấy ngày, lại yếu đau nữa. Chứ có khỏe mạnh như người khác đâu. Mới lại tôi đi làm thay cho mẹ nó thì đã sao?
- Bà về bảo chị ta thế này nhé! - Ông Hoạch mặt hầm hầm - Chính quyền không cấp giấy khai sinh cho con chị ta được.
- Vì lẽ gì hở ông? - Bà lão bỗng trở nên sợ sệt. Giọng bà thoáng run rẩy.
- Còn vì sao nữa! Cái thứ nhất là chị ta không có chồng. Chị ta chửa hoang. Nguyên cái tội đó đã đủ để đuổi chị ta ra khỏi làng này rồi. Chứ nói gì tới chuyện khai sinh… khai tử… Cái thứ hai là… (ý ông Hoạch định nói chị ta đâu phải là một con người. Song ông đã kịp giữ lại trong miệng câu nói ấy. Ai chứ bà lão này sẽ không tha thứ cho ông nếu ông nói điều đó lần thứ hai)… Mà thôi, chỉ nguyên cái tội đó cũng đủ rồi.
Ông Hoạch vừa nói vừa đẩy cửa định đi ra ngoài.
Ông muốn chấm dứt cuộc tiếp xúc không lấy gì làm vẻ vang cho ông.
- Này ông - Bà cụ Năm xách cái nón lập cập chạy theo - Thế sao người ta bảo là… là con ngoài giá thú cũng vẫn được cấp giấy?
- Ai bảo bà thế? Ông Hoạch quay ngoắt lại, quắc mắt - Bà đã thấy cái làng này có ai đẻ hoang chưa? Tôi nắm chính sách mà tôi không vững bằng mấy bà à? Chỉ được cái… nói bừa…
Bà lão đi giật lùi lại. Đến lúc này thì bà thấy sợ ông Hoạch thật. Bà cố nhớ lại trong đầu: Đúng là cái làng của bà từ xa xưa tới nay không có người đàn bà nào lại như vậy. Ở mấy làng bên thì có. Ừ, nhưng đấy là chuyện làng khác. Mỗi làng có một cái luật, cái lệ riêng. Khổ thân cái nhà mẹ Thảo! Lại sinh ra ở đúng cái làng này. Ông ủy ban có lẽ ông ấy nói đúng… Nếu thế thì đành chịu thật…
Bà lão nghĩ ngợi lầm rầm trong đầu thế rồi nhã nhặn chào ông Hoạch ra về. Vừa đi bà vừa bần thần nghĩ tới thằng cu Hiếu - con của Thảo. Chà, cái thằng mới kháu làm sao. Chưa đầy nửa tháng mà nó đã xuống sữa. Chân tay bụ bẫm, hồng hào là… Vậy mà bây giờ nó không được người ta công nhận là người. Mai ngày lớn lên nó sẽ ăn đâu ở đâu? Lại còn con mẹ Thảo nữa chứ. Biết tin này chắc nó phải chết đi được. Bà cứ suy từ mình ra. Khi nghe tin Ngãi, đứa con trai độc nhất của mình hy sinh ở miền Nam, bà đã ốm đau ròng rã ba, bốn năm giời. Đấy là còn không trông thấy mặt nó đấy! Còn xa nó hàng chục năm giời đấy! Huống hồ cái mẹ Thảo, con nó nằm ngay bên cạnh, nó đang sống sờ sờ ra đấy mà lại bảo rằng nó không phải là con người thì mẹ nào mà chịu nổi.
 Vừa đi vừa nghĩ vẩn vơ thế, bào lão về tới nhà lúc nào không hay. Bà cố ý tránh mặt Thảo, định chưa nói cho chị biết cái tin sét đánh này. Bà sợ chị chưa được khỏe hẳn. Song lúc bà về tới ngõ, Thảo ra sân phơi tã lót cho con nhìn thấy, nên bà cụ không kịp tránh mặt. Phải khó khăn lắm bà lão mới thuật lại cho Thảo nghe được một phần câu chuyện giữa bà và ông Hoạch. Người mẹ bất hạnh ngồi lặng đi, môi mím chặt. Mặt chị thẫm lại một nỗi đau khủng khiếp. Bàn tay chị run rẩy vạch vú cho con bú. Khuôn mặt xanh xao vàng võ trong giây lát đầm đìa nước mắt. Thằng bé còn quá nhỏ không hiểu gì chuyện của đời nên vẫn lim dim ngủ. Cái miệng nhỏ xíu của nó lần tìm vú mẹ bú chóp chép.
Nhìn khuôn mặt ngây thơ của con, Thảo bỗng thấy hiện lên mồn một cái đêm chị trở dạ đẻ và cả cái đêm làm tình chua chát, ê chề nước mắt của con người ấy…
Đó là một đêm đầu mùa thu hiu hắt…
Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Những hạt nước mưa đầu mùa to như những hòn sỏi, trút xuống làm lún những mái rạ đã mòn đến cuống. Bầu trời như một cái chảo rang khổng lồ úp ngược, thỉnh thoảng sáng bừng lên bởi những tia chớp nhằng nhịt. Những tiếng sấm dội ùng ục như tiếng mìn phá đá kéo dài thành những chuỗi âm thanh rền rĩ ở phía chân trời. Tiếng mưa rơi, tiếng sấm rền làm Thảo bỗng thức giấc. Chị bị đau bụng âm ỉ từ chập tối. Cơn đau làm Thảo mỏi mệt rồi thiếp đi lúc nào không biết. Nghe tiếng kêu lủng bủng trong nhà, Thảo biết ngay nhà có chỗ bị dột. Thảo quờ tay tìm hộp diêm để châm đèn. Đốm lửa trong tay chỉ sáng lên hai, ba lượt rồi bị gió thổi tắt ngay. Mãi sau Thảo phải kiếm một cái nón che hướng gió lại, bật diêm. Ngọn lửa trong tay chị thoi thóp mấy giây rồi bừng sáng trong cái đèn hoa kỳ. Ánh lửa vàng ệch soi nhếnh nháng ba gian nhà lá nhỏ, cũ nát. Định thần trong giây lát, Thảo đến bên bồ đựng quần áo xem có bị dột không. Nhưng vừa ngồi dậy chị bỗng thấy bụng dưới tưng tức rồi một cơn đau dữ dội ập đến. Thảo cúi gập lưng lại, đưa hai tay ôm bụng, nằm lăn ra giường. Nhưng nằm cũng không ổn. Cơn đau mỗi lúc một dữ dội hơn. Thảo cảm thấy đứa bé trong bụng mình như đang muốn chòi ra. Linh cảm báo hiệu cho chị biết giờ sinh nở sắp đến. Thảo chưa có con. Chị chỉ nghe người ta kể rằng lúc sắp ở cữ thì đau ghê lắm. Không có cơn đau nào sung sướng bằng đau đẻ. Nhưng cũng không có cơn đau nào khủng khiếp như đau đẻ. Thảo chỉ biết có thế. Chị cắn răng chịu đựng. Ngoài trời mưa vẫn như trút nước. Cái rãnh phía đầu nhà nước đang tuôn xuống rệ đồi ào ạt. Mà giả sử trời không mưa thì Thảo sẽ gọi ai? Người mà chị có thể nhờ vả được lúc này sẽ là ai? Ngoài bà cụ Năm hàng xóm, Thảo không có ai là người thân thích. Quê Thảo ở đâu chị cũng không biết. Thảo chỉ biết rằng lâu lắm rồi chị đã ở đây. Chị ở với một bà cô góa chồng. Đến năm Thảo 15, 16 tuổi gì đó thì bà cô chết. Từ đó chị sống một mình. 15, 16 tuổi nhưng Thảo nhỏ bé, ốm đau quặt quẹo luôn. Cộng thêm cái khối u trên lưng Thảo, theo thời gian cứ lớn dần, như một cái gùi trên lưng, làm Thảo càng khổ sở, tội nghiệp. Thảo khóc ròng khi chị ý thức được số phận mình. Nhưng khóc mãi nước mắt cũng kiệt. Thảo dần quen với cảnh ngộ của mình. Duy chỉ có đôi mắt của chị là đọng lại một nỗi buồn ngơ ngác, sâu thẳm. Nhưng may thay, tạo hóa cũng không đến nỗi tàn nhẫn như con người thường nghĩ. Bù lại cái khuyết tật của Thảo, ông trời đã phú cho chị một khuôn mặt thật dịu dàng. Đôi mắt Thảo đẹp như mắt của một diễn viên màn bạc. Khuôn mặt trái xoan của chị, với cái miệng nhỏ xinh như một thứ ánh sáng làm mờ đi cái dị tật bẩm sinh trên lưng. Với khuôn mặt ấy không ít đàn ông đã ngơ ngẩn khi đi qua quán nước của Thảo. Chỉ khi ngồi vào hàng rồi, kịp phát hiện cô chủ quán có khuôn mặt hấp dẫn này không hoàn thiện, thì họ lại thất vọng, để lại cho Thảo một ánh nhìn tiếc nuối.
Cũng vì hoàn cảnh như thế nên khách hàng của Thảo thường là những người đã luống tuổi: những ông cụ, bà lão nhà quê vào nghỉ chân, uống bát chè tươi, hút nhờ một điếu thuốc lào. Ở cạnh nhà Thảo có bà cụ Năm, mẹ liệt sĩ. Bà lão cũng sống một mình như Thảo. Hàng ngày Thảo nhờ bà đi mua hàng giúp. Bà lão tuy già cả nhưng phiên chợ nào cũng có mặt. Hàng bà mua về Thảo chuộc lại. Lần nào cũng vậy, mỗi khi nhận hàng chị không quên đưa thêm cho bà cụ dăm ba hào, gọi là tiền trầu thuốc. Nhưng bà lão luôn luôn từ chối. Thành ra cứ mỗi phiên chợ hai bà con lại to tiếng với nhau. Nhưng cứ sau mỗi lần như thế thì hai cuộc đời đơn côi kia lại gắn bó chặt chẽ với nhau hơn. Những lúc rỗi rãi, bà cụ Năm chạy sang trông nhà cho Thảo để chị có thời gian tắm rửa hoặc làm một việc gì vặt trong nhà. Đáp lại tấm lòng tốt của bà lão, Thảo chỉ biết cầu trời khấn Phật phù hộ cho bà khỏe mạnh, sống lâu.
Một lần nhân lúc bà cụ Năm đang hoan hỷ kể chuyện về dòng họ nhà mình, Thảo lựa lời hỏi lai lịch của thầy mẹ mình. Bà lão đang vui bỗng trở nên thờ thẫn. Đôi mắt già nua mệt mỏi của bà nhìn lảng đi nơi khác. Bà nói với Thảo rằng bà không biết gì về bố mẹ chị. Khi gia đình từ dưới xuôi lên xây dựng kinh tế ở đây bà đã thấy có Thảo rồi. Cũng từ đấy trong Thảo luôn có một nỗi lo sợ mơ hồ. Nỗi lo sợ ngày một lớn dần nhất là vào những lúc Thảo thấy trong người không được khỏe. Bà cụ Năm - Thảo nghĩ - Dù chỉ có một mình nhưng cụ là mẹ liệt sĩ. Nếu cụ có mệnh hệ gì thì dân làng cũng không thể bỏ. Còn chị, chị chỉ là người đàn bà cô đơn, xấu số, không nơi nương tựa. Trời ơi! Trong cuộc đời này có người đàn ông nào thương xót, đoái hoài tới thân phận khốn khổ của chị?
Cho tới một đêm rất khuya. Trời cũng lạnh như hôm nay. Thảo vừa đi nằm được một lát thì nghe có tiếng gõ liếp bồm bộp. Chị dỏng tai lên nghe. Một người đàn ông nào đó lỡ độ đường đang khẩn thiết gọi cửa. Giọng người ấy trầm đục:
- Chị ơi! Chị chủ quán ơi, cho tôi nhờ tí!
Thảo lưỡng lự một chút rồi ngồi dậy châm đèn ra mở cửa:
- … Ông là ai? Có việc gì cần gọi thế?
- Chị… - Người đàn ông ngập ngừng - Tôi đi làm xa về nhỡ đường. Chị làm ơn cho tôi nghỉ nhờ đêm nay. Vào làng thì xa quá…
Dưới ánh đèn vàng đục, Thảo nhìn rõ gương mặt người đàn ông đó trạc 45, 46 tuổi. Ông ta thấp, đậm, khuôn mặt bành bạnh. Trên vai ông ta là cái cưa xẻ dài, còn tay phải ông ta cầm một hòm đồ nghề thợ mộc. Ngẫm ngợi một lúc Thảo gật đầu:
- Vâng, thế mời bác vào nhà. Nhà cháu chật, bác thông cảm. Đêm nằm năm ở! Chỉ sợ bác chẳng ngủ được thì mệt…
- Thôi thế là tốt rồi. Chật chội cũng không sao - Người đàn ông nói liến thoắng rồi lách tấm liếp chui vào trong nhà - Tôi thì nằm đất cũng đánh được một giấc tới sáng. Cầu kỳ gì… .
Biết người đàn ông chưa ăn cơm, Thảo lại lúi húi đi nấu. Khi cơm được bê lên đặt trên cái chõng tre, người đàn ông không khách sáo gì ngồi vào ăn luôn. Chỉ có mấy con tép kho và mấy quả cà muối mà người đàn ông ăn lâu quá. Dưới ánh đèn dầu khuôn mặt ông ta như sắt lại, đờ đẫn. Thảo lắc cái ấm đất thấy hết nước bèn cặm cụi đi đun. Ông phó mộc vừa ăn vừa đăm chiêu ngó về phía Thảo. Dưới ánh củi lau bập bùng, ông nhìn thấy khuôn mặt của người đàn bà gù này thật đẹp. Dốc ngược cái cút rượu vào cái chén vại, ông phó mộc đưa lên mồm ực một cái rất gọn. Uống, ăn xong, ông với cái khăn mặt màu nhựa chuối buộc thắt nút ở cái tay cưa, lau qua quýt mồm miệng rồi đứng dậy đi về phía Thảo. Lúc đầu ông ta ngồi xa Thảo, tư lự nhìn những đốm lửa trong bếp đang lụi dần. Mặc dù ngồi xa thế nhưng Thảo vẫn cảm thấy rất rõ mùi mồ hôi nồng nồng lẫn mùi men rượu tạo nên một cảm giác rất khó tả từ người đàn ông toát ra. Thảo ý tứ ngồi khép lại như muốn lánh xa cái mùi đàn ông lạ lẫm ấy. Nhưng rồi ông phó mộc từ từ nhích lại gần Thảo, suồng sã:
- Cô ạ! Thôi đun nước làm quái gì. Đi ngủ đi kẻo mệt…
- Bác mệt thì đi nghỉ đi. Bác ngủ trên cái giường kia!
Thảo chỉ tay về phía cái giường ọp ẹp mà chị vẫn nằm. Vừa nói chị vừa dụi tắt những mẩu củi lau đang cháy dở.
- Thế cô ngủ ở đâu?          
- Cháu á! Lo gì. Cháu ngủ trên cái chõng này cũng được.
Thảo nhìn về phía cái chõng bày hàng.
- Ngủ ở cái chõng này á! Nan mất hết ngủ thế quái nào được. Này cô, tôi bảo! Cô cứ ra giường mà ngủ. Hai người cũng vừa - Ông phó mộc thản nhiên nói. Vừa nói ông ta vừa ôm thốc Thảo lên giường. Thảo ngượng chín người. Chị cố vùng vẫy, giãy đạp nhưng không nổi. Chị lọt thỏm trong vòng tay người đàn ông lực lưỡng. Sức lực trong người Thảo kiệt dần. Chị nằm bất lực, buông xuôi và nhắm nghiền mắt lại. Trong chị không một xúc cảm nào gợn lên, kể cả xúc cảm đau đớn của người bị làm nhục…
Và bây giờ cái giọt máu của ông phó mộc ấy đang đạp cựa mỗi lúc một mạnh trong bụng Thảo đây…
Thảo tìm một tư thế để nằm. Cái khối gồ trên lưng không cho phép chị nằm thẳng như những sản phụ khác. Cơn đau mỗi lúc một dữ dội, cứ cuồn cuộn ở trong bụng làm Thảo mệt lử. Chị cuống cuồng lo sợ không biết rồi sự thể sẽ ra sao. Thôi, phó mặc cho số phận. Thảo không thiết sống. Nhưng chị cũng không đủ can đảm để nghĩ tới cái chết. Nước ối đã vỡ ra từ khi nào. Bây giờ Thảo rặn khan. Thảo có cảm giác như ai đang cầm một cái thuốn sắt quấy đảo trong bụng mình. Chị buột miệng kêu lên một tiếng kêu đau đớn, kéo dài.
Đúng cái phút khủng khiếp ấy thì như một phép màu, một luồng gió lạnh ào vào trong nhà. Thảo nhướng mặt ra phía cửa. Một bóng người nhỏ bé, run lập cập đang lách vào trong nhà. Bà cụ Năm - Thảo rên lên mừng rỡ. Bà lão hất vội mảnh áo mưa vào góc nhà rồi lập cập bước đến bên Thảo:
- Mày ở cữ phải không con? Sao lúc chiều trở dạ không nói tao biết. May mà… tao thấy bên nhà sáng đèn tao đoán tao sang…
Bà lão vừa nói vừa thở vừa hấp tấp chuẩn bị những thủ tục cần thiết cho đứa trẻ ra đời. May mắn thay cho mẹ con Thảo. Bà cụ Năm vốn là một bà đỡ có tiếng một thời. Bà hướng dẫn Thảo cách rặn đẻ, cách lấy hơi. Cứ thế mất gần một giờ đồng hồ, Thảo bỗng thấy cơn đau trong bụng mình hẫng đi rồi dịu dần. Một tiếng kêu e… e… lúc đầu nhỏ, sau cứ to dần vang lên. Thảo biết đó là tiếng khóc của con mình. Chị mỉm cười sung sướng. Khuôn mặt Thảo vốn xanh xao, dưới ánh đèn tù mù càng trở nên nhợt nhạt. Trước khi lịm đi vì quá kiệt sức, Thảo đã kịp biết mình đẻ con trai…
Thằng bé đang ngủ mơ màng bỗng khóc ré lên. Tiếng khóc của nó kéo Thảo trở về với cái thực tại tàn nhẫn.
Bên cạnh Thảo là bà lão láng giềng đang ngồi như pho tượng. Khuôn mặt phúc hậu già nua của bà hằn sâu một nỗi buồn vô hạn.
Một tháng sau, lúc trời còn tinh mơ, bà cụ Năm dậy đun cám lợn. Bà nghe thấy trong căn nhà của người đàn bà tật nguyền kia tiếng khóc như xé vải của thằng Hiếu (mặc dù người ta không khai sinh cho con mình nhưng Thảo vẫn đặt tên con là Hiếu). Quái lạ, con mẹ Thảo ngủ nghê thế nào mà để thằng bé khóc ghê thế? Bà lão nghĩ vậy rồi lại cắm cúi nhóm lửa. Nhưng khi cái bếp đã rực hồng, bà lão vẫn thấy thằng bé khóc. Linh cảm của một người mẹ báo hiệu điều gì không hay. Bà cụ Năm dụi tắt lửa rồi lập cập chạy sang nhà Thảo:
- Mẹ Thảo! Mẹ Thảo ơi… Ngủ nghê thế nào mà con nó khóc thế cũng không biết?
Không có tiếng trả lời. Chỉ có tiếng khóc khản đặc của thằng Hiếu tan loãng trong sương sớm. Bà lão kéo tấm liếp để lách người vào. Không phải khó khăn gì, bà lão cũng vào được trong nhà. Tấm liếp che cửa ai đã mở để hé ra từ khi nào. Trên chiếc giường đơn ọp ẹp bà lão không thấy Thảo đâu. Chỉ có thằng cu Hiếu. Nó đang giãy đạp liên hồi. Cái chăn chiên cũ nhàu đắp trên người thằng bé đã bị nó đạp tụt xuống phía dưới, để lộ thân hình bé bỏng, xám ngoét. Vội vàng ôm thốc thằng bé dậy, bà cụ Năm vơ vội mảnh chăn chiên trùm lên người nó cho khỏi lạnh.
Ôm chặt thằng bé vào lòng mình, vừa đi về nhà bà lão vừa mếu máo khóc:

- Mày bỏ con mày đi hả Thảo ơi là Thảo… Sao mày không bảo tao lấy được một tiếng… Mày nỡ lòng nào hả Thảo ơi…!

… Cho tôi ra ngoài tý bà! Ông Hoạch khom khom người nói với người đàn bà ngồi cạnh.
- Nghe nốt đã ông! - Người đàn bà nói nhưng không nhìn ông Hoạch - Thế mấy biết xã hội bây giờ giỏi thật. Đất đồi quê mình toàn đá ong mà cũng trồng được vải thiều. Nay mai ối nhà giàu to.
- Tôi nhức đầu quá! Ra tý thôi cho nó thoáng - Ông Hoạch lầm bầm trong mồm rồi cứ thế lách qua từng người một đi ra ngoài.
Ra khỏi hội trường, ông Hoạch đi như chạy về nhà. Ông muốn rời thật nhanh, thật xa cái khuôn mặt của người thanh niên đang nói chuyện trên diễn đàn kia. Nhưng bỗng sau lưng ông Hoạch tiếng vỗ tay từ hội trường ủy ban nhân dân xã dội lên, làm ông giật thót người. Ông quay đầu lại. Ông ngỡ người ta đang hô đuổi bắt mình. Nhưng không, không có ai đuổi theo ông cả. Con đường đất đỏ từ hội trường uỷ ban đến nơi ông đứng vẫn im lìm, buồn bã, không một bóng người qua lại.
Bỗng dưng ông Hoạch cắm cổ chạy…
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT 5 NĂM LẦN THỨ II (2000 - 2005)
I. Giải A:
Không có
II. Giải B: 1 giải
Tập truyện ngắn Trong rác không có rác của Nguyễn Nhuận Hồng Phương
III. Giải C: 2 giải
1. Tập truyện và ký Những người đang đi ở cuối hàng của Xuân Mai
2. Tập bút ký phóng sự Nhà máy tây ở làng ta của Nguyễn Cảnh Tuấn
III. Giải Khuyến khích: 04 giải
1. Tập truyện ngắn Thuốc đắng của Phùng Kim Trọng
2. Tập truyện ngắn Hạnh phúc muộn mằn của Nguyễn Hoàng Long
3. Tập truyện ngắn Viên hồng ngọc của Lê Thuần Thảo
4. Tập truyện ngắn Chuyện xưa viết tiếp của Thảo Dân
NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG
Trong rác không có rác
Tập truyện ngắn đoạt Giải B,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
LẬT TẨY
Những tia máu đỏ quạch chằng chịt ngang dọc trong lòng trắng con ngươi. Cảm tưởng chỉ cần động mạnh, khối tinh lực long sòng sọc ấy SẼ rơi ra ngoài. Hắn đảo nhanh sang mấy thằng ngồi cùng chiếu:
Bên trái: Sáng cụt - Biệt danh do bị máy ép mía chạy điện cắt đứt hai đốt ngón ở bàn tay phải, nổi danh lì lợm, sẵn sàng năm mươi năm mươi với đối thủ.
Vế bên phải: Sơn lòng gà - Biệt hiệu gắn liền với công việc làm ruột gà do vợ giao khoán: “Hàng ngày mổ bao nhiêu gà, có ngần nào lòng mề ông phải làm cho xong rồi muốn đi đâu thì tùy!”. Khổ nỗi, cỗ bàn bây giờ thiên hạ vẫn trọng món thịt gà nên số lượng đặt ngày càng tăng. Dùng dao rạch nhuộm nhoạm, xối nước máy quấy quá cho xong rồi cứ vậy đút vào túi ni lông giao cho khách. Vợ chì chiết, Sơn vặc: “Thiên hạ ăn chứ cô ăn đâu mà lèm bèm?... ”
Đối diện: Một khuôn mặt có bộ râu quai nón xanh rì, chải dầu vadơlin bóng lộn, mang cái tên khá ấn tượng: Lý Hải, nhân vật cờ bạc bịp nổi tiếng trong phim xã hội đen của nước ngoài. Còn tên chính của y là Bươi, con bà Bưởi, chủ hiệu vàng. Một kẻ cờ bạc các kiểu có hạng ở thị xã. Y giỏi thuật “tung hứng”, “làm xiếc”… (tiếng lóng của dân cờ bạc bịp). Với bộ bài trên tay, trong nháy mắt, cây dưới đáy đã lộn lên trên, hoặc đổi cây tẩy bằng một cây bất kỳ. Và, quan trọng nhất là lượng tiền của y mang tới, kích thích sự thèm khát tất cả những kẻ cùng giới.
Nhưng ở đây, dẫu có ba đầu sáu tay Lý Hải cũng không dám khoe bản lĩnh. Tuy hắn không giỏi thuật đảo bài, không biết tung hứng, nhưng đã chơi bài với hắn không đứa nào dám qua mặt. Luật của hắn là sòng phẳng, làm sao để đối thủ móc tiền trong túi đặt xuống chiếu, tự nguyện rúc vào tròng rồi rút thòng lọng. Đó là điều hắn muốn. Kể cả hắn, nếu bị đối phương hạ gục, trong lòng cay cú nhưng bề mặt tỏ rõ sự khâm phục. Hắn nhìn theo chiếc gậy thu tiền của kẻ thắng, tự nhủ: “Chờ đấy! Cờ bạc ăn nhau về gà gáy”.
Hồi nhỏ, bố hắn, một công chức mẫn cán lúc nào cũng thuyết giáo: “Cờ bạc là bác thằng bần…”. Ở trường, mấy thằng bạn thiếu chân tú lơ khơ rủ, hắn lắc đầu: “Không biết!”. Chúng bảo: “Ngồi vào chúng tao dạy. Dễ ợt…”. Lên cấp hai, hắn cùng bạn bè ra quán dùng tiền chơi “đầu đít”: Tổng cộng dãy số sê-ri ai hơn hoặc bé (tùy nhà cái xướng) thắng. Kẻ thua phải trả tiền. Cũng vui!
Vào cấp ba, bố hắn khuyên: “Con gắng học, nối nghiệp bố. Làm cán bộ được nhiều người trọng nể… ”
Hắn trệu trạo nhai cơm độn bo bo, nhìn mẹ quẩy gánh ra ngã tư quạt ngô nướng bán. Mười hai giờ đêm, nghe tiếng mẹ vặn lưng răng rắc, tiếng loạt xoạt của tiền lẻ đổ ra mẹt, bụi than bay lên lẫn mày ngô cháy thoảng vào mũi…
… Chợt Sơn lòng gà giục:
- Mời đại ca lên bài…
Hắn nhấc cây bài đưa lên săm soi rồi ném đánh “phạch” một cái xuống chiếu: “Mẹ kiếp! Pha!”. Gã chủ nhà tiến tới, hai tay xoa vào nhau: “Ván này đại ca lại tha tụi đàn em…”
- Tha cái mẹ gì. Đen thì thua… - Hắn vuốt mông cô bé tiếp viên, tay vướng gấu quần lót, hắn vỗ “đét”: - Đã bảo chỉ được mặc váy không… vướng bỏ mẹ…
- Đã dặn đứa nào hầu đại ca không được mặc xi - líp rồi mà… - Gã nhà sòng dẩu mỏ vào hùa.
Con bé hai tay ôm mông miệng lắp bắp:
- Em… em đâu biết đại ca chọn em.
Gã nhà sòng lừ mắt:
- Chỉ giỏi cãi! Hôm nào có đại ca, cả bốn đứa đều không được mặc! Vào cởi ngay! Lần sau mà còn thế, ông trả về địa phương cho lấy chồng…
Con bé phụng phịu đi vào phòng, hắn phì cười vì cách nói của gã chủ, hai tinh cầu đảo sang bài của Lý Hải: Thằng này chắc chắn ăn… nhưng nước mẹ gì! Hai chục triệu. Mẹ kiếp! - Hắn rủa thầm - Chỉ có Sơn lòng gà là may, ba ván thu ba trăm triệu. Được! Cứ béo lên con… - Mắt nhìn sang phía Sơn, tay phải hắn vuốt cặp mông nần nẫn của con bé vừa ra - Có thế chứ!
Đúng như hắn nghĩ, Lý Hải lật tẩy: con đầm nhép nheo mắt, miệng nở nụ cười may mắn…
- Trang ván mới, chủ sòng! - Hắn nói như ra lệnh.
… Tốt nghiệp phổ thông, hắn không nghĩ mình vào được đại học. Sáng hôm đi thi, mẹ thổi một chõ xôi đỗ. Lấy lá sen hái ở đầm gói một gói to, mẹ hắn dặn: - Con cố ăn, thể nào cũng đỗ.
Điểm chuẩn 15, hắn được 14. Cộng một điểm ưu tiên của bố, đỗ! Ai cũng nói số hắn may. Khi cầm giấy báo học, mũi hắn thoảng mùi xôi gói lá sen của mẹ…
Ra trường, hắn được nhận về công tác ở cơ quan nơi bố về hưu. Mọi người nhắc đến bố hắn đều trầm trồ ca ngợi đức tính liêm khiết. Nhưng hắn thì không! Hắn nhận thấy bố suốt đời chỉ sống bằng lý tưởng suông. Ngoài lương hưu và chiếc xe đạp Thống Nhất cà tàng buộc chiếc xà cột vải bạt, thì ông chẳng có gì. Mẹ hắn vẫn vậy, đêm đêm nướng ngô bán ở ngã tư.
Năm năm học ở Hà Nội, ngoài kiến thức, hắn học được một điều: Ai cũng cố gắng vươn đến cái đích: Tiền! Có thật nhiều tiền.
Trong mọi cách để có nhiều tiền, hắn nghiệm thấy: Kẻ có quyền kiếm tiền nhàn hạ hơn cả!
Học năm thứ ba, một thằng bạn rủ hắn đến nhà chơi. Hắn trợn tròn mắt nhìn đồ nội thất kê trong phòng khách nhà nó: Trên tường treo khẩu súng săn hai nòng đen sì, Made in Germany. Vắt chéo là thanh kiếm Nhật chuôi sừng khảm bạc, thân cong vút, lưỡi mỏng tang, ánh thép sáng xanh như nước biển. Uy lực khí giới toát đằng đằng. Bàn ghế xa lông gỗ quý mang từ Huế ra, nghe nói có một thời vua Bảo Đại đã ngự. Bộ sập chân quỳ dạ cá tuổi hơn một trăm năm. Chiếc tủ chùa cổ, trị giá mấy chục cây vàng. Gương Tàu tứ diện ghép khung gỗ hồng đào Quảng Đông. Thằng bạn khoe bố nó bảo: Gương này ngày xưa Nam Phương hoàng hậu đã soi nhiều năm…
Dùng bữa, có kẻ hầu đón bát xới, cơm gạo tám chan nước thịt gà ép cho bộ máy tiêu hóa dễ làm việc. Tráng miệng bằng hoa quả nhập ngoại, lau mồm bằng khăn nóng tẩm dầu thơm nghi ngút…
Biết là bạn học cùng với con, ông bố dành ít phút trước khi ngả lưng nghỉ trưa để nói về chủ nghĩa xã hội, giảng giải về con đường phấn đấu của thanh niên trong thời đại mới. Rồi ông kết luận:
- Để có được ngày hôm nay, bác đã phải phấn đấu bao nhiêu năm. Kháng chiến ngủ hầm, xông lên đồn giết giặc bằng súng kíp, mã tấu. Bây giờ các cháu sướng hơn nhiều, lớn lên đã đầy đủ các thứ, phải biết rèn luyện sao cho xứng đáng với truyền thống cha ông…
Ra tới cổng, hắn còn ngoái lại nhìn tòa biệt thự để khẳng định rằng mình không mơ.
Ngồi nhâm nhi ly cà phê bên bờ hồ Hoàn Kiếm, hắn hỏi: - Bố mày lấy đâu ra tiền mà giàu thế?
Thằng bạn cười vào mũi hắn: - Đồ tẩm! Bao giờ có quyền mày sẽ biết.
Hắn học thêm được một điều: Muốn có tiền trước hết phải có quyền!  
… - Thưa anh, anh thêm bao nhiêu ạ?
Hắn nhìn xuống chiếu đánh giá tương quan lực lượng. Bài Sơn lòng gà và Sáng cụt pha. Bài của Lý Hải: Đôi đầm, đôi tây, quân tẩy úp mặt xuống chiếu, vẫn hoa nổi lăn tăn móc xích vào nhau như những dấu hỏi. Còn mặt bài của hắn: Tam cửu, lẻ gi, tẩy xì. Hắn liếc nhanh: Bộ râu quai nón của Lý Hải rung rung, đôi mắt đẹp như đàn bà đang mộng…
- Bao nhiêu rồi nhỉ? - Hắn hỏi.
- Dạ láng tư anh Bưởi tố một trăm là tròn sáu trăm anh ạ. - Gã chủ sòng nhanh miệng.
- Năm trăm nữa đi! - Giọng hắn thoảng như lá mùa thu rụng.
Nghe hắn tố, đôi lông mày của Lý Hải nhíu lại. Đối phương thong cáy hay…? - Lý Hải phóng nhãn quang vào lưng con tẩy, như muốn dùng tinh lực xuyên qua lớp bìa để thấy mặt bài bên kia. Ma trận của đối thủ khôn lường, hư hư thực thực. Y đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu, nhưng chưa bao giờ đọc nổi một ý trên khuôn mặt vừa quyền uy, vừa ma giáo này. Đột nhiên, Lý Hải nhớ tới hình vẽ âm dương trên bài bói quẻ. Hai mảng tượng hình đối lập: Nét tối: đen đúa, sẫm xịt, bức bối, biểu hiện dối lừa, man trá, xảo quyệt nhưng cứng câng, bất cần, vô hồn, lạnh lùng, tàn nhẫn. Nét sáng: phản tỏa, chói lọi, rực rỡ, biểu cảm anh minh, trong trẻo, lấp lánh, nhưng hào nhoáng, ẻo lả, mong manh, dễ vỡ…
Để trộn lẫn, hòa tan, hoặc tách ra cho bên sáng thật sáng, bên tối thật tối và khi cần sẽ bão hòa. Con người này như một loại dung dịch mà truyền hình hay quảng cáo: Ba trong một.
Lý Hải cân nhắc: Mặt bài nổi của hắn hơn, nhưng thế bài của đối thủ giống cái bẫy giương lên chờ… Nếu cây tẩy kia là con cửu nữa thì… sập!
- Chơi đi. Lâu bỏ mẹ… - Sơn lòng gà lầu bầu.
- Có gan theo, rét thì buông… - Sáng ngáp, đưa tay che mồm, khe hở của hai đốt ngón tay cụt như cánh cửa sổ nhe ba cái răng ố xỉn.
- Cứ để nó tính! - Hắn lừ mắt - Tiền của nó hay của chúng mày? Biết điều thì ngồi im.
Lý Hải gật gật đầu, nhưng con mắt vẫn mê mải săm soi những lá bài. Và không ngờ chỉ thoáng chút ngần ngừ, Lý Hải đã bị hắn bắt được thóp. Để tăng áp lực, hắn quyết định khủng bố Lý Hải bằng cách vít gáy ả tiếp viên, cọ cái cằm nhẵn thín như đít bụt vào bầu má non tơ, thơm ngát mùi nước hoa. - Ối! Đau em… - Ả tiếp viên giãy nảy vì chạm phải vật cứng. Thằng đàn ông nhấc mông con đàn bà, thọc tay vào túi quần rút khẩu súng K59 ném xuống chiếu cợt nhả: “Sao có cái cứng em lại thích?... ”
Sơn lòng gà, Sáng cụt và tay chủ sòng he hé cười phụ họa, bỗng im bặt khi nhìn khẩu súng đen ngòm lạnh lẽo.
Sự đụng chạm da thịt khơi gợi lời gã thầy tướng phán về lá số tử vi hồi hắn mới nhậm chức: “Cậu vốn là Thiên tướng trên trời, một lần đến dự tiệc ở vườn Ngự Thủy của Nam Hải Long Vương, gặp Đồng Cô Tiên Nữ. Trai tài, gái sắc, kẻ đầu mày, người cuối mắt, lén gặp nhau làm chuyện mây mưa. Quyền lực nhà trời không làm cho Thiên tướng và Tiên Nữ quên ái tính. Hai người hò hẹn đầu thai xuống trần gian. Đồng Cô Tiên Nữ xin Thái Thượng Lão Quân một bài thuốc cho Thiên Tướng uống để đánh dấu. Cho nên về danh, cậu phát đường quan lộc. Không chừng sau này còn thăng tướng, dưới một người, trên muôn người… Nhưng mép không ria, cằm không râu, biểu hiện số đào hoa. Đồng Cô Tiên Nữ chính là vợ của cậu bây giờ. Đẹp, lắm mưu nhiều kế, nhờ đó mà tiền của chảy vào như nước. Nhưng phải cái tính khí hay ghen… ”
Chẳng biết lời của lão ta nói có đúng không nhưng hắn nghiệm thấy có nhiều cái không sai. Vợ hắn xinh đẹp, sắc sảo, phốp pháp, hừng hực, là con một vị chức sắc hàng đầu tỉnh. Có điều hắn ngại nhất vợ ghen. Sự ghen tuông thường trực trong cái nhìn rất… đàn bà. Đi công tác về muộn, không thể không bị “kiểm tra”. Nhiều khi mệt bã người vì công việc nhưng hắn vẫn phải “cố”… Cũng không trách được thị. Tự hắn thấy mình có nhiều bóng hồng vây quanh. May mà thể chất đàn ông của hắn cũng khá. Có lần vừa lăn qua tay một ả, về đến nhà vẫn phải giả bộ với vợ như lần đầu gặp Đồng Cô Tiên Nữ vậy…
Vợ hắn ca cẩm: - Không hiểu anh thế nào? Hồi mới ra trường, nghèo kiết xác thì không thấy bài bạc. Bây giờ bổng lộc đầy ra đấy lại còn chúi mũi vào. Khéo lại đổ đốn với mấy con “phò” thì đẹp mặt!
Đúng là đồ… “từ trên trời rơi xuống”. Không tiền chầu rìa cũng chẳng được, nói gì đến ngồi sới. Còn bổng lộc là chuyện khác. Có quyền ắt có kẻ cầu cạnh, bợ đỡ. Tiền đến nhà là lẽ đương nhiên. Cứ nhìn gương “ông bố” của hắn thì biết. Công tác bao năm mà suốt đời ở nhà cấp bốn do ông nội để lại. Được ưu tiên phân phối đôi lốp sao vàng lại nhường đồng đội, còn bánh xe đạp của mình buộc túm dây cao su. Giúp người thế đấy! Tận tình với đời thế đấy! Bù lại được cái gì? Không có mẹt ngô của vợ, chắc mái nhà dột lương tháng không đủ mua lá cọ dọi lại. Nghèo như vậy thử hỏi lấy tiền đâu mà chơi? Hơi sức đâu mà thưởng thức? Cho đến khi chết mới được người ta ném vào quan tài ít con tổ tôm làm “quân” hầu hạ dưới âm phủ (!)
Đâu phải vì thiếu tiền mới chơi. Xì tố là “trò chơi” thời thượng dành cho giới “quý tộc mới”, tước hiệu xã hội đen phong cho những kẻ vừa có quyền vừa có tiền.
Ngoài việc đấu trí cao, thấp, bắt đối phương mửa tiền ra, cay cú nhưng vẫn phải tâm phục khẩu phục, còn là sự giao lưu của các giai tầng trong thời kinh tế mở cửa. Có những kẻ lấy tiền của thiên hạ dễ như bỡn. Thằng nào cũng béo múp như chim dẽ đồng sau mùa gặt, múp míp như chó thiến. So đẳng cấp, hắn tựa vào cái gậy quyền lực pháp luật trao cho để sinh lợi. Nhưng tiền thiên hạ mang đến cống nạp, nhờ chạy tội hộ chỉ tính từng chục hoặc đến trăm triệu là cùng. Còn bọn họ, dịch một dấu phẩy đã dư hàng tỷ. Có lần hắn chứng kiến một Giám đốc Công ty Xây dựng chơi bài, vờ thua Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh một bàn thua vô lý… không dưới nửa tỷ. Ừ, cụ Sêcpia chẳng viết là gì: “… ròi bọ ăn phân, cá đớp ròi bọ… ông vua xơi cá… rồi lại… ”. Hắn chấp nhận quy luật ấy thôi.
Có điều hắn đồng ý với vợ là không phải chỗ nào cũng sà vào. “Ăn tùy nơi, chơi tùy chốn”, cổ nhân đã dạy, đừng quên!
Chẳng thế mà hắn chỉ chọn sòng này để vào: Kín đáo, núp dưới căn nhà ba tầng là một cái hầm chìm dưới mặt đất năm mét, sâu tun hút vào nửa quả đồi, có đầy đủ phương tiện phòng vệ, cảnh sát khu vực bảo kê. Còn điều kiện phục vụ, có thể sánh với khách sạn năm sao…  
- Chung kết đi… Lâu bỏ mẹ…
Tiếng thằng Sáng cụt vang lên cắt đứt dòng suy nghĩ của hắn. Hắn ngước mắt, đôi nhãn cầu lồi cao muốn bật ra ngoài chiếu thẳng mặt Lý Hải. Cái nhìn như thách thức, dọa nạt. Lưng Lý Hải gai ốc nổi cộm, ngứa ran. Da mặt căng như trống ếch phơi nắng, hàng râu quai nón đẫm mồ hôi. Y thấy như rơi vào mê hồn trận. Bỏ thì tiếc. Nhưng hơn một tỷ! Nhưng nếu theo mà lọt cạm của đối phương thì… Sao hôm nay mình đen thế nhỉ? - Lý Hải nghĩ - Từ lúc ngồi sới, ngoài ván bài thu được hai mươi triệu còn toàn dốc túi. Bây giờ lại bị dồn vào thế sinh tử. Gần như vô thức, bàn tay y lơ đễnh thò xuống quân tẩy. Bỗng Lý Hải rụt phắt tay lại như phải bỏng. Đối thủ của y, một tay đẩy mạnh ả tiếp viên, một tay cầm phắt khẩu súng K59 dưới chiếu lên, ngón tay móc vào vòng cò súng quay tít rồi đút vào túi quần, mặt lạnh tanh. Hành động như vô tình, nhưng làm cho Lý Hải chờn chợn. Đột nhiên mồm y lẩm nhẩm như bị ma ám: - Thôi… buông…
Chỉ chờ có vậy, hắn quờ chiếc cù nèo thọc vào đống tiền. Chợt có tiếng động lạ phía sau. Trực giác nghề nghiệp thức tỉnh, nhưng cảm giác đầu gậy chạm vào tiền làm hắn mờ mắt. Chắc là thằng chủ sòng mở cửa đi đái?. Mỏ chiếc cù nèo ngoạm, gom đống tiền về phía hắn. Bỗng cửa phòng bật mở, tiếng động chát chúa đập mạnh vào tường, tiếp đó là tiếng hô:
- Tất cả ngồi im! Cảnh sát đây! Kẻ nào chống cự sẽ chết!
Theo phản xạ, hắn buông cù nèo, nắm báng súng. Nhưng một giọng nói đanh như thép vang lên:
- Thiếu tá, biết điều bỏ súng xuống!
Năm, sáu chiến sĩ cảnh sát lăm lăm súng trong tay ập vào. Đèn Flash lóe sáng. Cả bọn cúi đầu ngoan ngoãn đưa tay vào còng.
Sáng hôm sau, khắp thị xã, chuyện hắn bị bắt quả tang đang đánh bạc được lan truyền.
Người bán phở gảy gảy cọng hành bám trên thành bát: - Lẽ ra phải bắt hắn từ lâu rồi mới phải.
Ông chủ hiệu giải khát hà hít hương vị cà phê bốc lên từ phin lọc: - Trời có mắt.
Một người khách trầm ngâm: - Có người nói ông ta làm nhiệm vụ xâm nhập thực tế, vài hôm nữa lại được thả về đấy mà…
Riêng tôi, tác giả viết truyện này lại nghĩ: Giống như lá bài lật tẩy, chỉ kẻ nào dám lật mới thấy mặt thật của hoa bài.
CHIẾC XE TANG
Ông Chủ tịch Ủy ban thị trấn khoảng trên dưới bốn mươi tuổi. Người tầm thước, da mai mái, tóc chải rẽ ngôi trái, mặt bầu, trán thấp, lông mày thưa, trên mũi có nhiều nốt rân rân đỏ, lấm tấm mọc xung quanh rồi lan xuống hai bên miệng… Nhướn thân hình về phía trước, lướt mắt nhìn các thành viên có mặt trong phòng họp hai tay huơ huơ vào không khí, ông nhấn mạnh từng tiếng: “Tóm lại, nhằm thay đổi bộ mặt đời sống văn hóa của nhân dân, tôi đề nghị các đồng chí về khẩn trương phổ biến Nghị quyết của Đảng ủy và tinh thần cuộc họp này. Làm sao triển khai đến tận từng người dân. Thực hiện tốt kế hoạch góp tiền mua xe tang của thị trấn…”.
Kể cũng lạ, ở cái thị trấn vùng trung du này, không có cái gì giấu được dân. Kế hoạch vừa được ông Chủ tịch triển khai thì chỉ nửa giờ sau khi tan cuộc họp, đã có các cuộc “tọa đàm” không chính thức tại các quầy bia và quán nước trong nội thị. Người đứng tuổi nói: “Đúng quá chứ lị! Một thị trấn tầm vóc như vầy mà lại không có cái ô tô đưa tang là kém! Chưa văn minh! Chưa hiện đại!”. Mấy ông già về hưu thận trọng hơn: “Từ trước đến nay thị trấn mình vẫn đưa nhau bằng xe tang đẩy tay thì đã sao? Sống với nhau cả đời, đến lúc chết đưa nhau đi một quãng vài ba cây số nhằm nhò gì! Xe ô tô đi vù vù chắc gì đã hay?”. Còn mấy cậu choai choai mặt đỏ phừng phừng thì: “Cơ chế thoáng! Mời các cụ lên xe! A lê hấp! Các anh phường kèn “tò te tí toét” cũng xe đưa, xe đón: vừa lịch sự, vừa sang trọng lại được tiếng con cháu có hiếu nghĩa (!)”.
Việc tiến hành thu tiền để mua xe tang không ngờ lại rất trôi chảy và thuận tiện. Cán bộ tổ, khi phố không phải vận động nhiều như việc nộp tiền nhân công, không phải nằn nì như khi thu thuế đất, tới hộ nào là hộ ấy nộp ngay, thậm chí có gia đình còn ủng hộ thêm. Các ông chủ như doanh nghiệp Tiến Tân, hiệu vàng Đông Phong, chủ thầu xây dựng Thành Công… đều nhiệt tình tài trợ vài trăm nghìn đến hàng triệu đồng. Thế mới biết dân ở đâu cũng vậy, thấy việc có nghĩa, có nhân là làm, là tự nguyện đóng góp.
Trưởng Ban Văn hóa hăm hở báo cáo:
- Thưa Chủ tịch, theo chỉ thị của anh, tính đến hôm nay toàn thị trấn đã thu được sáu mươi nhăm triệu đồng. Đề nghị anh cho ý kiến mua xe ở đâu?
- Có tiền là tốt rồi! Nhưng mua xe ở đâu thì phải bàn bạc, phải xem xét cụ thể. Đây là “tiền đóng gạo góp” của dân nên phải thận trọng. Đồng chí thảo cho tôi giấy mời lãnh đạo thị trấn họp! Nhớ ghi rõ nội dung họp: Bàn về vấn đề tìm mua xe tang.
- Họp vào hôm nào thưa anh? - Trưởng Ban Văn hóa rụt rè hỏi.
- Xem nào! Xem nào! - Ông Chủ tịch lật lật mấy tờ lịch bàn - Hôm nay là thứ sáu… Mời vào sáng thứ hai! Sau giao ban, khoảng chín giờ thì bắt đầu họp. A… này, qua hành chính bảo Chánh Văn phòng lên gặp tôi có việc.
Ông Chủ tịch vươn vươn vai ngả người trên chiếc ghế xoay Xuân Hòa làm bằng i-nốc sáng loáng. - Thế là xong một việc! - Ông nghĩ - Phải hướng tập trung việc mua xe xong vào trước tháng 9 ta. Theo quy luật, vào mùa đông có nhiều người chết hơn. Làm lãnh đạo là phải biết thời cơ để vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị lại vừa tạo ra vốn để duy trì cho xe hoạt động…”. Có tiếng gõ cửa làm đứt luồng suy nghĩ, ông nhỏm dậy: “Mời vào”.
Chánh Văn phòng Ủy ban bước vào, thân hình nhỏ nhắn, dáng thư sinh, da bợt bạt như bị cớm nắng, mặt dài, má hóp, mắt đeo kính American đổi mầu, lông mày sâu róm, mũi hếch, cái miệng lúc nào cũng cười cười như cố tình nặn ra trên đôi môi thâm nhợt vì bia rượu.
- Sếp cho gọi em ạ?
- Cậu ngồi xuống! Tôi gọi cậu lên cùng bàn bạc về vấn đề mua xe tang. Tôi định triệu tập cuộc họp vào sáng thứ hai tuần tới, cậu thấy thế nào?
- Dạ… Chánh Văn phòng ngập ngừng.
Thấy vậy ông Chủ tịch nói:
- Cậu cứ mạnh dạn trình bày, không phải úp mở gì cả!
- Dạ… - Chánh Văn phòng đắn đo - Em nói nếu chỗ nào chưa đúng xin sếp đại xá. Tại sao lại phải tổ chức họp ạ? Em tưởng có Nghị quyết của Đảng ủy và biên bản tinh thần hôm trước rồi ạ?
- Mình ngại vi phạm tính dân chủ, sai nguyên tắc. Nếu không công khai dễ dẫn đến hiểu lầm…
- Sao lại hiểu lầm ạ? Sếp chẳng đã công khai trước cuộc họp toàn cán bộ của thị trấn đó sao? Theo em, không cần họp nữa! Cứ dựa vào hai Nghị quyết ấy mà thực hiện, bàn nhiều em e…
- Ý kiến của cậu cũng có lý, để tôi suy nghĩ thêm một chút rồi sẽ quyết định. Tối hôm nay, cậu đến nhà tôi, ta bàn bạc cụ thể! Làm sao cho kín nhẽ.
- Dạ… em hiểu, sau chương trình Thời sự em sẽ sang hầu sếp.
Khi Chánh Văn phòng ra tới cửa, ông Chủ tịch dặn: “Cậu nói với Trưởng Ban Văn hóa thôi không cần thảo giấy mời nữa!”
Sau một tợp bia, Thanh hất hàm: “Ông phải cố gắng bằng được! Cú này hơi hay đấy! Không bẫm, nhưng dễ nuốt, không vấp điều kiện pháp lý! Tiền của dân chi không cần “ba lem”. Ông vòng trong, việc của ông thế nào ông biết rồi đấy! Nhưng chỗ bạn bè tôi nói thật, đừng tham, dễ hỏng việc! Phải nghĩ dài lâu; tiếng là thị trấn, nhưng khéo léo, bổng lộc còn hơn cả huyện đấy! Lát nữa đi, tôi tạm ứng cho chai “Bônnapac” mà làm quà, lựa nói làm sao để ông ta hiểu: Xong việc sẽ có “kết” hậu. Vòng ngoài, tôi chịu trách nhiệm, phần mua bán với chủ xe như thế nào là do tôi! Ông chỉ cần đưa bộ sậu của Ủy ban xuống xem xe là được. Tôi sẽ cho “đi tàu bay” hết!”
Chánh Văn phòng, mắt nhờ nhờ, mặt xám xạm: “Yên tâm! Yên tâm! Đây có thâm niên “phò” mấy đời Chủ tịch rồi, kinh nghiệm đầy mình! Thôi! Cứ thế nhé! Bái bai… ”
Thanh nhấc cốc bia lên nhưng không uống mà vê vê trong lòng bàn tay, hơi lạnh thấm vào da mát rượi. Thanh nguyên làm nghề lái xe, thỉnh thoảng đá gà đá vịt buôn bán ô tô; gọi là buôn nhưng thực tế là Thanh không bao giờ bỏ vốn. Cứ thấy cơ quan hay cá nhân nào có nhu cầu nâng đời hay đổi chác xe là Thanh tìm đến tìm cách xin tư vấn hoặc làm môi giới. Thanh có biệt tài nhìn xe chạy qua đã có thể nói đó là loại xe đời nào, sản xuất ở đâu, tình trạng kỹ thuật tốt, xấu, rồi giá cả bao nhiêu. Thanh nắm vững từng đầu xe, đọc vanh vách số biển kiểm soát, mua ngày nào, mua ở đâu, xe ấy của cơ quan hay cá nhân nào trong huyện… Chính vì vậy chiều nay, Chánh Văn phòng Ủy ban thị trấn đến nhờ Thanh làm tư vấn tìm hộ xe. Nghe xong, Thanh hỏi: “Cơ quan ông có bao nhiêu “đạn”? Định chơi “xịn” hay chơi “tàu tàu”? Không thiếu! Nhưng miễn có tiền”. Khi đã biết cơ số tiền và ý định của Ủy ban, Thanh cười: “Rồi! Có rồi - Một “em” TOYOTA hẳn hoi! Phải cái “em” hơi già, đời bảy tám, nhưng còn nền nã, ngon nghẻ… Mà Ủy ban chạy gì mấy? Có kinh doanh đâu mà ngại?”. Nghe Thanh nói mà người ta cứ tưởng Thanh tả nhan sắc của một người đàn bà…  
Đến xem ô tô có đầy đủ các thành phần: Ông Chủ tịch, ông Phó Chủ tịch phụ trách văn xã, Thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch mặt trận, Trưởng Ban Tài chính… cùng các thành phần trong Ủy ban. “Phải để các đồng chí tham gia ý kiến! Tránh trường hợp cho rằng lãnh đạo áp đặt, thiếu dân chủ” - Đấy là lý do ông Chủ tịch nói với mọi người khi tập trung đi xem xe.
Đón khách, Thanh gọn gàng trong bộ quần áo ký giả, đầu đội mũ le màu xanh dán chữ TOYOTA trắng lốp, khuôn mặt hồng hào vì hai chén rượu buổi sáng cùng với bát phở tái nạm, cổ tay đeo chiếc đồng hồ mạ vàng sáng chóe, thũng thẳng bên hông một chiếc “di động” mác Samsung. Thanh chìa bao thuốc lá Manbơrô nói: “Mời các sếp hút thuốc, xong rồi ta xem xe. Các sếp cứ “vô tư”, nhìn tận mắt sờ tận tay, có gì các sếp cứ phát biểu! Tiền nào của nấy! Giá Ủy ban có đủ tiền em sẽ chỉ cho con xe Huynh đai “bom” nhập cảng là chấm hết! Cứ gọi là “kính coong”, miễn chê… ”. Thấy vậy Chánh Văn phòng Ủy ban ngắt lời: “Thôi thuốc nước gì thì để chốc nữa! Cho xe ra để chúng tôi kiểm định!” - Dạ! - Thanh xoa xoa tay rồi hất hàm bảo lái xe: “Đánh” xe ra cho sếp kiểm tra!
Chiếc xe nhãn hiệu TOYOTA 12 chỗ ngồi sơn màu trắng sữa. Bộ ghế được bọc vải nhựa màu sáng, các tay vịn lâu ngày đã tróc, rỉ loang lổ… Thấy ông Chủ tịch nhìn nhìn vào tay ghế, Thanh nói: “Sếp tính! Cơ chế thị trường, xe chạy “trên tầng cây số” tối ngày, không còn kịp sơn xi lại. Nhưng thế này các sếp mới biết được nước thép của nó vẫn còn tốt, còn “ologin”. Cần thiết, “chạy” qua một nước sơn là cứ bóng lừ… ”. Chánh Văn phòng tham gia: “Cũng phải tiền đấy ông ạ! Mà như thế này là chúng tôi còn phải “cải tiến” nhiều mới thành xe tang được!” - “Dạ! Có gì mà nhiều ạ? Lúc có đám, tháo ghế lấy chỗ đặt quan tài. Cần đi công tác, lắp ghế vào lại là xe 12 chỗ! Lịch sự, tiện lợi, đúng yêu cầu”. Ông Chủ tịch Mặt trận lắc lắc cái cửa: “Sao cánh cửa lại lung lay thế này?”- Thanh vê vê đầu mẩu thuốc lá: “Thay cái gioăng lại im phăng phắc ấy mà. Bác yên tâm! Khi bàn giao em tặng các sếp một bộ gioăng Tây dự phòng, khi nào thấy “rão”, thay!”. Thanh nói cứ như là cái xe đã được ngã giá xong xuôi rồi.
Ngó nghiêng một lúc, ông Phó Chủ tịch bảo: “Ăn nhau là bộ máy, anh cho chúng tôi đi thử xem máy kêu có êm không?”. “Dạ, mời các sếp lên xe!”. Thanh nói, rồi nhắc lái xe: “Chạy cẩn thận, toàn các sếp cả đấy! An toàn là chính! Ra quốc lộ, chạy đến đường rẽ sân bay thì quay lại, khi về đi một vòng quanh đường thị trấn, rồi chạy thẳng sang nhà hàng “bẩy món”…”
Xe ra đến đường quốc lộ, đứng chân trên, chân dưới ở bậc lên xuống, quay lại phía mọi người, Thanh nói như giảng bài ở lớp đào tạo nghề: “Sử dụng xe Nhật là cả một nghệ thuật! Khi mới nổ không được ga to, dễ bị lột biên. Cầm vào tay lái như nắm tay người phụ nữ mình yêu quý… Chân ga, chân côn, tay số nhịp nhàng uyển chuyển. Nhìn ai lái được một đoạn là tôi biết ngay người đó tay nghề giỏi hay kém… ”
Bỗng có tiếng ỏn ẻn của Trưởng Ban Phụ nữ:
- Cái gì kêu “cục, cục” dưới gầm hả anh?
- Cái rôtuyn tay lái! Mang xuống xưởng bơm một tí mỡ là hết kêu ngay!
Ông Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
- Sao cái trần lại bị rách thế này?
- Quần áo mặc mãi còn rách nữa là… căng thêm một lượt nữa là “đẹp giai” ngay! Nhưng dán làm quái gì? Xe chở người chết, lột đi rồi quét một nước sơn màu là ổn nhất!
Tiếng Trưởng Ban Văn hóa:
- Điều hòa hơi nóng!
- Thiếu ga! Một trăm nghìn bơm “bổ sung” là lại “tít” như “khách sạn năm sao”.
Ông Chủ tịch nghiêng nghiêng đầu:
- Máy hơi kêu?
- Dạ! Em sẽ cho thợ rà lại “dàn cò” là êm re…
Trưởng Ban Phụ nữ ỏn ẻn:
- “Cò” là gì hở anh?
- “Cò” - Thanh giảng giải: Nói theo tiếng Tây là “qui bi tơ”, gọi theo sách kỹ thuật được dịch từ tiếng “Tầu” là súp páp. Nó mổ mổ giống như mỏ con cò nên gọi là “cò”…
Đúng như sự tính toán của ông Chủ tịch, mới chớm vào rét đã có một cụ già bẩy mươi tuổi qua đời. Đây cũng là chuyến “mở hàng” đầu tiên kể từ hôm Ban quản tang nhận xe về. Khi xe tang đi qua các phố… ai cũng ra ngó. Người ta không chú ý đến xem ai chết, mà tò mò nhìn xem sản phẩm trong đó có cả tiền của mình đã góp vào. Đi đầu đoàn vẫn là các vãi cầm cờ phướn nhà Phật, tiếp tới là chiếc trống cái được đặt trên một chiếc xe đạp có người dắt và do nhân viên Ban quản tang phụ trách. Đi sau là đội kèn thuê ở làng Bảo Đức. Xe ô tô được treo xung quanh hoa tang tới tận nóc. Cánh cửa phía sau và ghế được tháo ra lấy chỗ để quan tài, xung quanh dăm, sáu người, mặc áo xô, trùm khăn tang đang ngồi khóc. Còn lại họ hàng và quan khách đưa tiễn dắt xe máy, xe đạp đi đằng sau.
Bỗng một làn hơi trắng toát từ đầu ca bin xe bốc lên bay mù mịt, rồi chiếc xe tang đứng khựng lại. Tiếng khóc bỗng nhiên ngừng bặt. Mọi người ngơ ngơ ngác ngác nhìn nhau chưa hiểu tại sao xe bị dừng thì một bà béo đi đằng sau ngước đôi mắt hùm hụp hỏi: “Đã tới chỗ nghỉ đâu mà dừng?”. Phía đằng trước mấy ông thổi kèn và đánh trống không biết xe bị chết máy nên cứ đi theo các cụ vãi cầm cờ, mãi có người chạy lên bảo mới biết.
Thấy lạ, mọi người ở phố đổ xô đến xung quanh chiếc xe tang để xem xem xảy ra sự cố gì? Vừa lúc ấy, anh lái xe nhảy từ buồng lái xuống, mặt mũi nhem nhuốc dầu mỡ, mồ hôi chảy ròng ròng… Anh hổn hà hổn hển: “Xe chạy chậm bị sôi nước, “thổi gioăng qui lát” rồi, không đi được nữa đâu…”. Tiếng khóc của gia đình tang chủ bỗng ré lên át cả tiếng người lái xe. Ông chủ tang ngồi tận trong cùng không hiểu đầu đuôi ra sao, cố nói bằng cái giọng khản đặc: “Im đã nào! Để xem binh tình thế nào?”. Nghe vậy, những người chịu tang cố nín, chỉ còn nghe tiếng thổn thức, nức nở, nghẹn ngào… Anh nhân viên Ban quản tang rẽ đám đông đi vào: “Nào! Mời các vị dẹp ra để tôi nói chuyện với gia đình”. Khi tới chỗ ông chủ tang, anh nói: “Tình hình bây giờ là xe chết máy, không đi được nữa! Tôi đang thuê người xuống lấy xe tang đẩy tay mang lên để chuyển quan tài sang, mong gia đình… ”. Anh chưa nói dứt lời thì mọi người thân trong gia đình của người chết như bị sụp xuống. Tiếng gào… tiếng hờ… tiếng than khóc… có người còn lăn lộn ra giữa đường, cảnh tượng thật não lòng. Bỗng có tiếng gào rất to của một người phụ nữ: “Ối bố ơi! Đến chết mà bố vẫn chưa được yên… Ối bố ơi… là bố ơi…”. Nhiều người đứng xem thấy vậy, quay mặt đi lấy tay áo chấm nước mắt.
 
Tôi được nghe kể, sau khi chuyển quan tài người quá cố sang xe tang đẩy tay, chiếc ô tô được kéo về để ở sân Ủy ban. Sau khi bàn bạc người ta chi ra một số tiền nữa để sửa chữa. Nhưng chiếc xe cũng chỉ chạy được vài ba chuyến nữa thì hỏng hẳn. Tôi còn được nhân viên Ban quản tang kể: Cách đây mấy hôm, có người trên khu gang thép Thái Nguyên về hỏi mua để đem về tháo ra làm sắt vụn. Nhưng Ủy ban không bán. Ông Chủ tịch nói rằng, đấy là xe mua bằng tiền của dân thì phải hỏi ý kiến dân đã (!)
19/1/2018

Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...