Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 4a

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 4a

PHÙNG KIM TRỌNG

Tráo đá

Tiểu thuyết đoạt Giải C,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ IV (2011 - 2015)
CHƯƠNG MƯỜI
Bà Thân hoàn toàn không hiểu được vì sao cô con gái Lệ Mai của mình đang khỏe như vậy lại lăn ra ốm. Nuôi con từ nhỏ bà thấy chưa có đứa nào mà nhàn như Lệ Mai. Ngay từ ngày còn bé Lệ Mai cứ ăn, cứ lớn, động một tý là nhoẻn miệng cười, đố ai thấy Lệ Mai của bà nhăn nhó vì đau ốm gì. Nếu bà nhớ không nhầm ngoài lần sốt mọc răng ra cô con gái của bà không hề nhức đầu, sổ mũi. Con gái con đứa mà nó toàn thích những trò chơi của bọn con trai, đánh khăng, đánh đáo, chơi trận giả, lớn lên một tý nữa thì nhảy ra sân đá bóng với bọn con trai. Nhìn Lệ Mai nhiều người bảo rằng có lẽ bà mụ nặn nhầm chứ đúng ra nàng phải là con trai. Người Lệ Mai ngay từ nhỏ đã chắc như thép rèn, bà vẫn còn nhờ hồi còn trẻ con hễ cứ chiều đến là nó ra cái cây nhãn đằng sau nhà, cây nhãn có một cành nằm ngang mặt đất, to bằng cổ tay. Nó bám hai tay lên đó vắt vẻo hết co tay kéo người lên rồi lại lộn người qua cành nhãn trông như con khỉ con. Có người bảo với bà rằng bà được tay nuôi con như vậy thì cứ đẻ lấy vài đứa mà nuôi cho bõ. Của đáng tội chỉ đến con bé này thì bà mới được tiếng là mát tay như vậy chứ ba thằng anh nó làm cho bà đầu tắt, mặt tối. Ngày đẻ thằng đầu - thằng Hưng - lúc mới đẻ nhìn tóc nó đen nhánh, da dẻ nhẵn nhụi, cứ nằm ngủ im thin thít như quả bí, bà đã thầm cảm ơn trời phật thương bà cảnh neo đơn nên đã cho bà một đứa con hay ăn, hay ngủ như vậy. Nó cứ ăn, cứ ngủ cho bà như vậy thì bà cũng có thể yên tâm lo sản xuất để cho ông Nghiên hăng say chiến đấu. Ai ngờ chỉ vài ngày sau nó bị viêm phế quản. Khi đưa đến bệnh xá, ông y sĩ Đồng bảo rằng thằng bé bị sặc nước ối khi đẻ. Ông ta trách bà khi đẻ đã không chú ý đến tiếng thở nặng nhọc của con. Đứa con khi mới đẻ nó phải khóc, khóc càng to càng tốt. Còn nếu nó không khóc thì phải bế nó lên, ấp nó vào ngực mình rồi vỗ mạnh vào lưng cho nó bật ra tiếng khóc. Trời ạ! Lần đầu tiên làm mẹ bà có được ai bảo ban gì mà biết. Thấy đứa con hồng hào ăn no rồi ngủ ngoan lại đi vỗ cho nó khóc thì họa có mà điên. Bây giờ sự thể đã thế này thì trăm sự nhờ trời. Bà nhìn đứa con trai mà vừa hôm qua còn là niềm mơ ước, là hòn ngọc của bà hôm nay nằm im như sắp về với tổ tiên mà lòng quặn đau, khóc không ra tiếng. Ông y sĩ bệnh xá trưởng bảo rằng: Thôi thì tôi đành đánh bạc với trời. Nếu cháu nó không có số làm người thì bà cũng đừng trách cứ gì tôi. Ông ta lấy ra một cái xi-lanh to như cái ống thổi, gắn vào cái kim nhỏ nhưng dài đến cả gang tay. Nhìn thấy cái dụng cụ trên tay ông y sĩ, bà đã gào lên ông đừng có giết cháu. Nhiều người phải xúm vào ôm lấy bà để ông y sĩ chọc cái kim vào lưng thằng bé hút ra một si lanh dịch nhờn nhờn, nhờ vậy mà thằng Hưng mới được làm người. Rồi hai thằng sau, thằng Vượng, thằng Tài dù bà đã hết sức chú ý làm cho chúng nó khóc như xé vải sau khi đẻ, nhưng đứa nào cũng vậy, cứ đau ốm quặt quẹo hết bệnh này đến bệnh khác trong khi chồng đi vắng, một mình bà tất tả ngược xuôi cắp con đi tìm thầy, tìm thuốc bao nhiêu là cơ cực. Sau này nuôi Lệ Mai thấy nó cứ ăn, cứ lớn; càng lớn, càng xinh, càng giòn cười, tươi khóc không phải vất vả gì thì bà lại có chồng bên cạnh. Nhiều lúc nhìn con bà đã thấy lo lo hay nó đúng là con trời cháu phật mượn cửa làm người. Bà mang con gửi vào nhà chùa, sư thầy bảo rằng Lệ Mai là công chúa đại ngàn. Bà chả hiểu nó ra làm sao, bà là nông dân chân đất mắt toét làm sao mà đẻ ra công chúa được kia chứ? Nhưng thôi! Thầy đã nói vậy thì nó là vậy, người đời bảo gì bà làm vậy chỉ cầu mong cho con được khỏe mạnh như người là bà mừng rồi. Giờ đây 20 tuổi đầu đang hơn hớn như bông hoa mới nở nó đột nhiên lăn ra ốm, mà có vẻ như bị ma nhập có lúc mắt nó trông dài dại như bị ma bắt mất hồn thật. Chả biết tính sao bà đi đến cô Hòa - một người có khả năng tiên đoán tương lai hậu vận của con người qua những lá bài. Có người gọi là “đồng” Hòa là theo thói quen và cách gọi của dân làng Mùi thôi chứ cô Hòa không phải là đồng cốt như những người khác. Trong nhà cô không có phủ cũng như ban thờ, nhà cô cũng giống như những nhà khác của làng Mùi chỉ có một bàn thờ gia tiên kết hợp với thờ thổ công, thổ địa. Cô Hòa cũng không theo thầy để nhảy nhót hầu đồng.
Cô Hòa nghe bà Thân nói  thì lấy ra một cỗ bài tú-lơ-khơ. Sau khi đảo đi, đảo lại cô rải cỗ bài ra trước mặt. Bà Thân nhìn vào cứ như nhìn vào bức vách, khổ một nỗi từ nhỏ đến giờ đây là lần đầu tiên bà nhìn thấy những quân bài. Bà đâu có biết con cơ, con pích là con nào. Cô Hòa ngồi rất lâu trước những con bài rồi bảo: Bệnh của Lệ Mai là do một người đàn ông mang lại, bệnh này không thể chữa bằng thuốc, cũng không thể chữa bằng cúng được. Bệnh này chỉ có thể chữa được bằng cách cho Lệ Mai đi đâu đó thật xa, đại loại như đi du lịch một thời gian hoặc nếu đi hẳn được khỏi làng Mùi là tốt nhất. Cô Hòa hỏi bà xem Lệ Mai đã yêu ai chưa? Bà suy nghĩ một lúc rồi quả quyết lắc đầu. Cô Hòa mỉm cười bảo; Nhưng những quân bài lại nói rằng cô ấy đã yêu và bị thất tình. Nghe cô nói bà Thân chỉ muốn hét vào mặt cô mà bảo rằng đừng có mà nói nhảm, bà nuôi và dạy con bà cẩn thận chứ đâu phải lũ mèo mả, gà đồng. Bà cũng đang mong cho con bà có đôi có lứa. Kể ra thì cũng lạ thật. Lệ Mai là một cô gái giòn người tươi nết, đảm đang, tháo vát vào hàng hiếm có của làng Mùi. Thói thường những cô gái như vậy thì ngay từ khi còn nhỏ đã được các cậu con trai, rồi các bà mẹ chú ý. Nếu không định đi học để tấp tửng bay cao, nhảy xa thì chỉ cần ra dáng con gái một tý đã có người rước về làm dâu rồi. Nhưng Lệ Mai kể từ khi thôi học ở nhà mặc dù bà đã nhiều lần đánh tiếng rằng: Con gái học thế thôi còn ở nhà lấy chồng. Thế mà vẫn không thấy có chàng trai nào đến xin ông bà cho phép tìm hiểu. Trong khi Lệ Mai đi đến đâu thì cánh con trai cũng quây lấy săn đón chiều chuộng vậy mà tối đến nhà bà vắng tanh, vắng ngắt. Hình như các cậu con trai của làng Mùi bị mẹ cấm cửa không dám bén mảng đến gần nàng. Ngay cả cái cậu Thanh nhà ở ngay cạnh nhà bà, trước kia hai bà mẹ cũng đã có ý tác thành cho hai đứa vậy mà sau này khi bà Nhu cùng chồng chuyển nhà đi khai hoang làm kinh tế ở trong núi Thắm thì hai đứa ít khi gặp nhau. Cái chuyện trai gái, nếu muốn cho chúng nên vợ nên chồng thì phải cho chúng thường xuyên quấn quýt lấy nhau. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, các cụ nhà ta chả dạy thế còn gì. Cái nhà bà Nhu ấy chả biết nghĩ gì mà lại tách đôi trẻ ra như vậy. Thực ra nhà ông bà ấy nào có thiếu thốn gì. Ở cái làng Mùi này từ trước tới nay ông bà ấy vẫn thuộc vào hàng giàu nứt đố nổ vách, nhưng thôi chắc phải có lý do gì. Cái cậu Thanh ấy kể ra cũng tệ, vừa mới xa một cái là đã quên ngay bạn cũ. Cũng may, hai đứa chúng nó vẫn chưa có gì, về thực chất vẫn chỉ là hàng xóm, là bạn thời trẻ con thôi. Còn nếu như chúng đã trót nặng lời thề non hẹn biển mà giờ đây ngoảnh mặt làm ngơ thì kể ra cuộc đời này cũng quả là bạc thật. Mãi gần đây mới thấy Chu Khởi thỉnh thoảng lui tới nhưng là tới để đánh cờ với ông Nghiên chứ không phải để tìm hiểu hay tâm sự với Lệ Mai. Nhiều lúc nhìn Chu Khởi bà cứ nghĩ không hiểu bây giờ anh ta là người như thế nào, chứ ngày bé cũng là loại rách trời rơi xuống. Ai đời mới mấy tuổi đầu đi xem phim ở sân kho hợp tác, không có tiền mua vé sắp đến giờ chiếu anh ta chui rào vào xem, chả có ai chui rào mà lại chui đằng đít vào trước, mấy người bảo vệ tưởng thằng bé định chui ra mà phim sắp chiếu liền kéo vào. Cái chiêu ấy của thằng bé khiến nhiều người của làng Mùi lắc đầu. Nhiều người bảo rằng thằng bé này lớn lên sẽ gớm lắm đây. Dân làng Mùi vẫn cứ bảo rằng Chu Khởi đến nhà bà chủ yếu là vì cô con gái Lệ Mai. Chứ cả cái làng Mùi này ngoài Lệ Mai ra thì ai là người có thể giữ chân con ngựa bất kham ấy lại nữa. Người ta nói thì cứ nói, nhưng bà làm mẹ chả lẽ không hiểu được lòng con. Hơn nữa bà cũng để ý xem giữa hai người có ý tứ gì không? Nhưng rõ ràng anh ta đến chủ yếu để đánh cờ với ông Nghiên, đánh cờ chán lại bày ra uống rượu rồi nói với nhau những chuyện trên trời dưới bể gì ấy, chứ có thấy anh ta với con gái bà nhìn gì tới nhau mà bảo rằng yêu. Vậy mà cô Hòa này lại dám bảo con gái bà thất tình thì ai mà chịu được. Nhưng bà Thân từ trước đến nay vẫn là người hiền lành. Cái gì thấy sai bà chỉ biết ấm ức trong lòng chứ ít khi bộc lộ ra cho người ngoài biết.
- Vâng! Cô nói vậy thì tôi biết vậy. Nhưng chẳng hay cháu nó phải lòng anh nào vậy?
Cô Hòa nhìn người mẹ với vẻ thương hại. Hóa ra bà ta chưa biết gì thật sao? Hai ngày nay cả làng Mùi đang kháo nhau ầm lên về chuyện Lệ Mai vào tận nhà ông Thận Hải, bố vợ tương lai của Nguyễn Tiến Thanh để định tranh cướp chồng với cô em họ. Người đời nói quả không sai: Những chuyện xảy ra với con cái thì người mẹ bao giờ cũng là người biết sau cùng.
- Cái này thì những quân bài lại không cho biết.
Bà Thân ra về, trong lòng bán tín, bán nghi. Bà bắt con gà giò, nấu bát cháo ngải cứu bưng lên buồng cho con gái. Bà cảm thấy ruột gan mình như có muối xát khi nhìn thấy vẻ mặt xanh xao, ủ dột của Lệ Mai. Bà đỡ cô dậy dỗ dành như với một đứa trẻ.
- Này con cố húp một tý cháo cho nó khỏe.
Lệ Mai ngạc nhiên nhìn mẹ rồi lại nhìn bát cháo. Nàng đang sống trong một thế giới không thực. Trong tâm thức của mình Lệ Mai như lờ mờ nhận ra người mẹ hiền từ. Mùi cháo ngải thơm xộc vào mũi khiến nàng choàng tỉnh. Nàng chợt nhớ tới những cây ngải trong vườn thuốc nam nhà Tiến Thanh. Nàng nhìn mẹ, rồi lại nhìn bát cháo.
- Mẹ, mẹ hái ngải ở đâu đấy?
- Mẹ hái bên vườn bà Nhu.
- Đấy là vườn thuốc của anh Thanh đấy mẹ.
- Mẹ biết rồi. Con cố ăn cho khỏe.
- Anh Thanh hái cho con phải không mẹ?
Bà Thân im lặng nhìn con gái, không hiểu ý nghĩa câu đó là thế nào, trong khi Lệ Mai vẫn chăm chú nhìn bà chờ đợi câu trả lời.
- Đúng rồi! Chú Thanh chú ấy hái nhờ tôi mang về nấu cháo cho em đấy.
Cũng may mà Chu Khởi đang ngồi đánh cờ với ông Nghiên ngoài nhà nghe thấy nói vọng vào, khiến Lệ Mai như người vừa chết đi sống lại.
- Chú ấy bảo rằng em phải ăn thật no vào.
Chu Khởi ngừng đánh cờ, đến bên cửa buồng nhìn Lệ Mai và bà Thân. Lệ Mai ngước nhìn Chu Khởi, ánh mắt rạng ngời.
- Anh ấy bảo vậy thật hả anh Khởi?
- Từ trước đến giờ Mai thấy tôi nói dối bao giờ chưa?
Lệ Mai nhìn Chu Khởi vẻ biết ơn rồi bưng bát cháo lên ăn. Nhìn nàng ăn ngon lành, bà Thân ngạc nhiên không hiểu vì sao nghe Chu Khởi nói mà Lệ Mai lại như khỏe ra. Hay là… Hay là chúng nó… Bà thấp thỏm mừng thầm.
Chu Khởi quay trở lại bàn ngồi cùng ông Nghiên trước bàn cờ. Nhưng phải thừa nhận một điều rằng hôm nay hắn không có tâm trí nào mà tập trung vào đánh cờ nữa. Không hiểu tâm trạng ông Nghiên ra sao, chứ với Chu Khởi rõ ràng là đầu óc hắn đang để tận đâu đâu. Đã mấy lần hắn đi nhầm nước khiến ông Nghiên phải ngạc nhiên không dám ăn quân của hắn sợ lại bị hắn lừa. Mấy ngày nay, bằng cái trực cảm khá nhạy bén của mình, Chu Khởi đã khẳng định chắc chắn một điều rằng Lệ Mai từ lâu đã mang lòng yêu Tiến Thanh. Một tình yêu đơn phương vật vã. Hắn thèm khát đời này có một người con gái nào đó dành cho hắn một chút tình yêu như vậy. Phải, chỉ cần có một người yêu ta như vậy, ta sẵn lòng làm trâu, làm ngựa cho người ấy cưỡi. Chu Khởi đã thèm khát mà nghĩ như vậy.
Cuộc đời kể cũng không ai biết trước ngày mai sẽ ra sao để mà hôm nay sống cho tử tế. Gã đàn ông du thủ, du thực theo cách gọi của dân làng Mùi đã nhiều lần suy nghĩ. Bị mẹ bỏ rơi từ lúc lọt lòng, lớn lên nhờ cả những lần ngửa cổ lên mút từng tý sữa từ vú con trâu cái trong chuồng. Hình như từ nhỏ, ngay cả khi được sống sung túc có người hầu kẻ hạ Chu Khởi cũng chưa cảm nhận được hơi ấm tình người. Ngay từ khi còn rất nhỏ hắn đã phải tranh giành với các anh, các chị từng củ khoai lang nướng, từng miếng cơm cháy còn sót lại trong nồi, không ai bênh hắn trong cái gia đình bố mẹ nuôi. Hơn chục tuổi đầu hắn được liệt vào hàng những đứa trẻ suy dinh dưỡng, bụng ỏng, đít vòi, người gầy nhẳng chỉ mỗi cái đầu là to quá cỡ. Cuộc đời của hắn sẽ không biết ra sao nếu vào năm 13 tuổi, khi đang cùng chúng bạn tha thẩn trên đường làng, Chu Khởi bỗng thấy có một người thanh niên đầu tóc dài trùm gáy ngồi trên một chiếc xe bình bịch dừng lại hỏi: Có thích ngồi lên bình bịch đi chơi không? Chu Khởi ngần ngại nhìn đám trẻ đang cùng chơi với mình, hắn nhận thấy sự thèm thuồng ghen tỵ trong ánh mắt những đứa bạn đang ngây người ra nhìn. Thì cả cái làng Mùi ngày ấy đã ai có được xe bình bịch, mỗi khi có một chiếc xe chạy qua làng bọn trẻ đều giương mắt nhìn, nếu như không bị bố mẹ cấm là chúng kéo nhau thành từng đoàn chạy theo, vừa chạy vừa reo hò ầm ĩ cho đến khi chiếc xe chạy khuất chỉ để lại luồng khói đen xì trên đường. Chu Khởi nhìn người thanh niên mạnh dạn gật đầu. Ngồi lên thì ngồi, sợ gì, cùng lắm thì anh ta chở mình đi bán là cùng chứ gì. Bị bán cho người khác so với trở lại nhà bố mẹ nuôi cũng không khác gì nhau. Chu Khởi leo lên ngồi sau người thanh niên, miệng nhoẻn cười chào những đứa bạn chăn trâu, cắt cỏ ở làng Mùi như chuẩn bị đi xa không hẹn ngày gặp lại. Hắn đã chấp nhận dấn thân vào cuộc phiêu lưu mới, nhưng trái với những gì hắn nghĩ, người thanh niên ấy đưa hắn trở về gặp người mẹ đã đẻ ra hắn. Người mẹ ấy giờ đây đã là vợ một một quan chức cấp cao trên tỉnh. Ông cán bộ này nghe nói vì mải mê với sự nghiệp cách mạng nên bị vợ cắm cho cặp sừng cao ngất nghểu trên đầu. Đang lúc cô đơn, buồn chán định kết thúc cuộc đời bằng một liều thuốc chuột giá có năm trăm đồng (đấy là hắn nghe kể lại), thì lại bị con bé ô-sin đánh tráo thay bằng viên pô-ly tổng hợp. Qua cơn bĩ cực, hai kẻ bất hạnh nhìn nhau như lần đầu thấy mặt. Tuy là rổ rá cạp lại nhưng mẹ hắn lại không dám nói cho ông chồng già biết về mối tình ngang trái và đứa con rơi bỏ lại ở làng Mùi. Ông ấy là con người có tâm hồn đa cảm và tấm lòng nhân hậu, ông ấy không thể tha thứ cho mẹ nếu như biết được mẹ cũng là một người phụ nữ nhẫn tâm, đã vứt đứa con mình dứt ruột đẻ ra. Mẹ hắn luôn nói với hắn như vậy. Mãi sau này vì không sinh thêm được nữa lại bị lương tâm cắn dứt, người mẹ ấy mới thuê người tìm hắn. Ngày đầu gặp lại mẹ đẻ, Chu Khởi không làm sao làm chủ được tình cảm của mình, hắn đã lao vào lòng mẹ mà khóc như chưa bao giờ được khóc. Nhưng bà mẹ ấy thay cho việc vỗ về an ủi hắn, lại nhìn hắn với ánh mắt lạnh lùng. Gương mặt của đứa con trai gợi cho bà nhớ về gương mặt bất nhân, thất đức của người đàn ông đã đánh cắp cả tuổi thơ, cả đời con gái của bà. Dù đã cố nhưng mỗi lần nhìn thấy con trai là trái tim đã bị tổn thương của bà lại đau nhói, bà không thể trút nỗi oán hận với người bố bội bạc lên đầu đứa con trai, cũng không thể sụt sùi nói ra với nó một lời xin lỗi đối với hành vi bỏ rơi khi nó vừa lọt lòng năm xưa. Lại càng không thể cho ông chồng có “tâm hồn đa cảm và tấm lòng nhân hậu” biết về đứa con tội nghiệp của mình. Mẹ hắn đã giao hắn cho chị Bính, một người phụ nữ còn trẻ trông coi. Chị Bính khi ấy mới 22 tuổi là một người phụ nữ khá quyến rũ, chị đã có chồng, có con nhưng cả chồng và con chị bị chết trong một vụ tai nạn giao thông. Góa chồng ở tuổi đôi mươi lại khoác lên người cái “tướng” khắc phu hại tử. Người phụ nữ thôn quê ấy phải bỏ làng lên thành phố làm thuê kiếm sống. Thời gian đầu chị đi chăm sóc người ốm trong bệnh viện K trung ương. Ngày nào cũng tiếp xúc với những người bệnh mang trong mình căn bệnh quái ác không phương cứu chữa, tiếp xúc với nỗi đau khổ của người khác, chia xẻ với họ những đớn đau tuyệt vọng trước khi vĩnh viễn từ giã cõi đời đầy cực lạc chị cảm thấy như nỗi đau mất chồng, mất con của chị cũng vơi đi phần nào. Thế rồi không biết duyên nợ ra sao lại có người giới thiệu chị cho mẹ hắn để bà thuê chị trở thành người giúp việc chuyên trông nom cho đứa con trai bất hạnh của mình.
Hai chị em được mẹ hắn cho ở trong một căn nhà nằm ở ngoại vi thị xã trung tâm tỉnh. Bà không muốn lộ chuyện đứa con riêng với chồng nên chủ động cách ly hắn được ngày nào hay ngày ấy. Đó là một căn nhà cấp 4 nằm trong một khu vườn rộng gần hai ngàn mét vuông, có tường gạch bao quanh. Mảnh đất có âm khí khá nặng, mãi sau này Chu Khởi mới nghe người ta nói vậy, nơi đây trước kia vốn là nơi các băng nhóm trộm cắp chọn làm nơi thanh toán ân oán giang hồ. Ban đêm thỉnh thoảng hắn nghe thấy tiếng uỳnh uỵch, uỳnh uỵch, tiếng la hét thất thường. Chị Bính bảo với hắn rằng đó là các linh hồn đang đùa chị em mình đấy thôi. Chị cho làm một cây hương ngoài vườn rồi thường xuyên hương khói, quả nhiên hắn thấy mọi chuyện yên ổn trở lại. Trong vườn được trồng khá nhiều cây ăn quả. Cái làm cho Chu Khởi thích nhất là một cái giếng khơi nước bốn mùa cứ trong văn vắt, và mát đến lạ lùng. Mùa hè đang chạy ngoài nắng về bơm một chậu nước lên vục mặt vào thấy người như tỉnh hẳn ra. Mùa đông nước giếng lại ấm như vừa đun trên bếp. Hình như có một thỏa thuận ngầm giữa Chu Khởi và chị giúp việc từ ngày về ở trong ngôi nhà ngoại vi thành phố ấy là: Hai chị em đều không uống nước lọc, không uống nước sôi để nguội mà chỉ uống nước giếng. Ngay cả nước làm đá trong tủ lạnh cũng lấy luôn từ giếng. Phải thừa nhận rằng người giúp việc của hắn là người biết lo xa, không biết bằng cách nào chị ta tỷ tê để bà mẹ lo đầy đủ giấy tờ hợp pháp mang tên hắn là chủ nhân của lô đất và ngôi nhà ấy. Chính nhờ sự lo xa ấy mà trong cơn vật đổi sao dời, chia chia tách tách, cái thị xã trong bỗng chốc trở thành một thành phố năng động và có tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng vào hàng nhất nhì cả nước, Chu Khởi bỗng trở thành tỷ phú. Hắn cũng chẳng ngu gì mà “thái” đất bán để ăn, cũng với sự “cố vấn” của người giúp việc, Chu Khởi chỉ giữ lại một phần vườn nho nhỏ bao quanh căn nhà có cái giếng khơi còn lại hắn cho thuê mặt bằng. Tiền thuê đất đảm bảo cho hắn vung phí suốt cả cuộc đời.
Gần ba mươi tuổi, lại đã qua một lần sinh nở, người giúp việc của Chu Khởi bỗng trở nên hấp dẫn lạ thường. Chỉ đến năm đã trưởng thành, trong đêm trước của một người đàn ông Chu Khởi mới nhận ra người phụ nữ vẫn ngày đêm sống trong một căn nhà với mình có một sức hấp dẫn không gì cưỡng lại được, Chị có thân hình gọn gàng thon thả với đôi chân dài thẳng đuột, mỗi khi chị ấy mặc quần soóc hai chân trông như hai cái búp măng bóc vỏ trắng nhễ nhại khép lại đầy mê hoặc. Chị Bính vẫn có thói quen mặc áo phông rộng cổ, mỗi khi chị vô tình cúi xuống hai bầu vú trắng nõn nà nửa kín, nửa hở kích thích tính tò mò của một gã trai mới lớn. Lần đầu tiên có lẽ là tình cờ, vào một đêm lạ lắm, cái đêm đầu tiên hắn thấy trong người rạo rực, thấy khao khát một cái gì đó, lần đầu tiên cái đồ nam tính của hắn tự nhiên bật dậy ở trong quần lót. Đêm ấy hắn mơ, hắn mơ thấy mình nằm cùng giường với chị Bính, hắn ấp bộ mặt vào hai bầu vú đẫy đà của chị, chỉ có thế thôi mà toàn thân hắn đã cong lên, một luồng chất lỏng bầy nhầy âm ấm chảy ra ướt sũng đũng quần. Ngày hôm sau hắn nhìn người giúp việc của mình vẻ xấu hổ ngượng ngùng. Với cái nhạy cảm của người phụ nữ đã có chồng, chị Bính như hiểu cái gì đã xảy ra với hắn. Khi thấy hắn lặng lẽ giặt quần lót, chị nhìn hắn bảo; Em giặt như vậy không sạch đâu, xem đây này. Chị cầm chiếc quần lót vẫn còn loang lổ căng ra trước mắt hắn, hắn đỏ mặt ấp úng không biết bảo sao chỉ cúi đầu im lặng. Không có gì phải xấu hổ cả, một thằng đàn ông phải biết tự hào về điều đó. Em sẽ mang lại sự mãn nguyện cho cô gái nào làm vợ em. Hắn chả biết mình phải tự hào về cái gì trong khi chị Bính mang cái quần đi giặt lại. Hắn cứ đứng trố mắt ra nhìn nhất là khi chả biết vô tình hay cố ý chị Bính lại đem lồng cái quần si-lip bé tý xíu mầu hồng của chị lên trên cái quần lót của hắn rồi đem móc lên dây phơi. Hắn nhìn hai vật vốn không nên khoe khoang làm gì ấy lồng lên nhau bay trong gió cũng thấy vui vui. Đêm ấy đã về phòng rồi mà hình ảnh cái si-lip phụ nữ lồng bên trên chiếc quần đùi của mình vẫn cứ ám ảnh mãi tâm trí Chu Khởi. Rồi không hiểu do ma xui, quỷ khiến hay do bản năng thôi thúc mà khi nghe thấy tiếng nước dội ngoài giếng, hắn rón rén đi lại gần cửa đứng nín thở nhìn ra. Lần đầu tiên trong đời thấy một người phụ nữ hoàn toàn khỏa thân dưới ánh trăng hạ tuần hắn cứ ngỡ như mình đang sống trong một giấc chiêm bao. Người phụ nữ đang khỏa thân kia như một tiên nữ trốn xuống trần gian để đùa vui cùng hắn. Tuy vậy, vẫn có một cái gì đó mạnh hơn bản năng kìm giữ hắn lại, hắn nín thở lui bước trở lại giường khi chị Bính lau khô người và kết thúc buổi “tắm tiên” của mình. Không biết chị có biết hắn vừa nhìn trộm chị hay không nhưng khi tắm xong chị vẫn cứ đi vào buồng ngủ của hắn. Chu Khởi cảm thấy vô cùng xấu hổ nhất là khi cái của nợ của hắn cứ dựng ngược lên trong quần. Lần sau chị không cần vào đây nữa đâu, tôi tự mắc màn được. Hắn nói như vậy nhưng hai mắt hắn lại nhìn như bị thôi miên vào khe hở giữa ngực người phụ nữ. Chị Bính liếc mắt nhìn hắn vẻ ngạc nhiên. Cậu chủ làm sao vậy? Trước cái nhìn của người giúp việc, thằng con trai mới lớn còn lóng ngóng chuyện đời như hắn thật không biết phải làm sao cho hết ngượng ngùng, bối rối. Hai mắt hắn nhìn như ngây, như dại khiến cho người phụ nữ cũng thấy cơ thể mình nóng bừng lên run rẩy, trong phút chốc cái mặt nạ đức hạnh bị lột bỏ. Chị ngã vào tay hắn. Hai cơ thể giống như hai cục nam châm bỗng dính chặt vào nhau.
Hắn đã từng ngộ nhận đấy là tình yêu. Suốt hàng năm trời sống với người đàn bà giúp việc hơn mình đến gần chục tuổi. Chu Khởi đã được chị ta dẫn vào trong mê cung tình ái khiến cho hắn cảm thấy cuộc đời thật khó sống nếu không có chị Bính. Và cũng lạ, không ai hiểu được lòng dạ đàn bà, khi đã nắm được hắn trong tay, hình như người đàn bà giúp việc mới ra công nhào nặn hắn thành một con người biết sống có trách nhiệm. Chị bắt hắn phải tu tỉnh học hành, hàng ngày chị bắt đầu kiểm tra sách vở của hắn và chị ta ngạc nhiên rằng những năm qua Chu Khởi của chị cũng chăm chỉ đi học chứ không la cà trong các quán net, chị ta lại còn muốn hắn phải học lấy một nghề nào đó. Của rề rề không bằng nghề trong tay. Chị ta bảo với hắn như vậy, hắn cười hề hề. Chị không biết đấy thôi, tôi có một cái nghề hái ra tiền ấy kia. Nghe Chu Khởi nói, người phụ nữ bây giờ đã quá là thân thiết với hắn ngạc nhiên. Đánh bạc. Hắn đáp một cách tỉnh khô. Chị Bính mở to mắt nhìn hắn tưởng mình nghe nhầm. Hắn bảo rằng từ ngày ra thành phố ngoài giờ học còn lại hắn ngồi khoanh chân trong các chiếu phỏm. Hắn chỉ đánh phỏm còn các thứ khác như xóc đĩa, tổ tôm hay đô-mi-nô hắn cũng sành nhưng lại không thích. Ở thành phố này có bao nhiêu chiếu bạc, các con bạc chơi với nhau ở mức như thế nào: 5, 10, 15, 20 hay 2, 4, 6, 8 hắn đều biết hết. Khi nào hết tiền hắn chỉ cần kiếm lấy vài chục nghìn rồi tìm đến một chiếu nào đó và nhẩn nha vét sạch túi chúng nó lấy cái mà tiêu. Hắn còn bảo rằng không nên chơi với bọn dân đen, dù chúng có nhiều tiền cũng không nên chơi vì không cẩn thận công an họ “vồ” được thì tù mọt gông. Khi chơi nên chọn bọn cán bộ mà chơi, cái bọn này chúng nó chơi bằng tiền chùa nhưng cũng khát nước lắm. Cái yên tâm nhất là cái bọn này nó nằm ngoài vòng pháp luật, công an ít khi dám sờ đến chúng. Thì vuốt mặt phải nể mũi mà. Nghe Chu Khởi nói rành rẽ như vậy, chị Bính chỉ biết kêu trời. Đấy không phải là một nghề, cậu hiểu không? Chu Khởi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao một chuyện bình thường như vậy mà chị ta lại lo lắng kinh hãi đến thế. Gương mặt chị ta tự nhiên tái mét, mồ hôi ướt đẫm, chị ta lắp bắp: Hơn nữa những đồng tiền phù vân ấy chỉ mang lại điều bất hạnh. A! Cái điều này thì hắn đã nghe được từ miệng bà mẹ nuôi hắn rồi. Trong phút chốc hắn bị kéo trở lại làng Mùi, kéo lại với cái kỷ niệm thời thơ ấu khi ngày 30 tết đến nơi, thấy trong nhà không còn một hột gạo hắn đã bắt trộm con gà trống duy nhất còn lại trong chuồng đem ra chợ bán rồi đi đánh phỏm. Lần ấy hắn đã mang về cho mẹ nuôi số tiền bằng bán cả mấy chục con gà. Cứ tưởng rằng bà mẹ nuôi sẽ mừng, sẽ thưởng cho hắn chiếc áo để diện trong ba ngày tết. Ai ngờ bà Củ đã nện cho hắn một trận. Đấy là lần đầu tiên trong đời bà đánh hắn, bà đánh hắn mà nước mắt bà lại vãi ra như chính bà bị đánh. Bị đánh mà lại là đánh đau nhưng hắn không khóc, hắn không bao giờ khóc nếu không hiểu rõ nguyên nhân của việc mình bị đòn roi. Tất cả chỉ vì hắn không phải là con đẻ. Hắn đã hậm hực nghĩ vậy và thầm nuôi một mối thâm thù với bố mẹ nuôi, nhưng hôm ấy nghe chị Bính nói hắn mới thấm thía nỗi đau của bà mẹ nuôi khi từ chối những đồng tiền “phù vân” của hắn. Chu Khởi nhìn chị Bính, hắn tin chắc rằng trên đời này chỉ có mình chị ta là yêu hắn thật. Số phận! Hắn bảo với người phụ nữ hơn hắn gần chục ấy như vậy. Tôi sẽ cưới Bính làm vợ. Hắn cứ tưởng rằng khi hắn nói vậy thì người đàn bà có số phận hẩm hiu như Bính sẽ vui mừng, sẽ ôm lấy hắn, sẽ hối thúc hắn nói lời phải giữ lấy lời. Nhưng không chị ta lắc đầu quầy quậy, chỉ một chút ái ân thì tôi không tiếc cậu, chứ vợ chồng thì không. Chị ta bảo vậy và hắn tin rằng đấy là ý nghĩ thật của chị ta. Nhưng tại sao lại như thế. Tôi yêu Bính kia mà. Hắn thề thốt, hắn van xin nhưng người phụ nữ đã biến hắn thành đàn ông ấy vẫn không thay đổi quyết định. Tôi không ngại về tuổi tác, đàn ông có thể lấy những người con gái bằng tuổi con mình thì cớ gì đàn bà không lấy được những chàng trai đáng tuổi em mình. Và quả thật cậu cũng đáng mặt làm đàn ông lắm. Một người đàn ông như cậu mà chỉ dành cho một con đàn bà thì cuộc đời này quả là quá bất công. Nhưng tôi không thể lấy cậu vì… tôi cũng yêu cậu.
Tình yêu thật chả phải hiểu ra làm sao. Hai người bên ngoài thì vẫn là quan hệ chủ tớ nhưng bên trong lại thân mật hơn cả vợ chồng. Chu Khởi phải thừa nhận rằng đó là những tháng năm sống thật hạnh phúc của hắn. Hắn và người đàn bà giúp việc có thể quấn vào nhau như đôi rắn, bất kể lúc nào, bất kể ở đâu chỉ miễn là họ vẫn còn sức để làm chuyện ấy. Cho đến một ngày chị Bính quyết định lấy chồng ngoại quốc. Cũng là để cho nó xong một kiếp người, chị bảo với hắn như vậy. Chị không hề gây cho hắn sự ngạc nhiên nào. Trước ngày ra đi hàng tháng trời chị ta đã báo trước cho hắn. Duyên phận chúng ta có lẽ chỉ đến đây thôi, sẽ không ai cưỡng được mệnh trời. Chị ta bảo vậy và dặn dò hắn kỹ lưỡng từng công việc, dặn dò y như một người mẹ dặn đứa con trai nhỏ dại của mình rồi lên máy bay đi làm dâu xứ người.
Chu Khởi không hiểu được tâm trạng của hắn khi người tình đồng thời là người giúp việc của hắn bỏ hắn ra đi. Sự đời tất phải như vậy, cái lời tỏ tình đầu đời của hắn với chị có thể coi là sự nông nổi nhất thời của tuổi trẻ. Chỉ đến khi chị Bính đã thực sự đi rồi Chu Khởi mới thoát ra khỏi cơn mê muội của những cuộc hoan lạc, một buổi sáng tỉnh dậy không có chị Bính nằm cùng trên giường hắn ngỡ ngàng hít thở bầu khí tự do. Hắn bật dậy khỏi giường nhảy tưng tưng, miệng hét lên: Ôi! Sung sướng quá ta đã được tự do... Ngày hôm đó hắn đã ngủ vùi cả ngày không bị ai đánh thức, không ai giục phải đi đánh răng, phải ăn đủ ba bát cơm một bữa… Mãi đến chiều tối, hắn mới ra khỏi nhà đi ăn cơm tiệm, vào quán karaoke gọi hẳn hai em trẻ măng nõn nà đến cùng hát cho đến khản giọng.
Nhưng thật lạ. Chưa bao giờ Chu Khởi lại cảm thấy vô vị trống rỗng như vậy. Mình chả cần cho ai và chả ai cần đến mình. Hằng ngày, sau các cuộc vui chơi đến kiệt sức hắn mò về nhà nằm thao thức suốt đêm mà không sao chợp mắt. Chính trong những ngày đó có một tiếng nói mơ hồ nào đó mách bảo cho Chu Khởi hãy quay trở lại với làng Mùi.
Lệ Mai đã ăn xong rồi bước ra ngoài nhà, sau trận ốm vẻ mặt nàng trông vẫn hồng hào. Nàng khẽ mỉm cười chào Chu Khởi và bố rồi đi ra sân đứng nhìn sang nhà hàng xóm. Trong phút chốc nàng bỗng nhớ ra tất cả, Thế là hết. Nàng thở dài rồi đi vào bếp đun một nồi nước bồ kết để gội đầu. Bà Thân nhìn con gái, nó đã dậy được, đã biết tự chăm lo lấy mình như thế này thì bà cũng đỡ lo. Bà không hiểu chuyện gì đã xảy ra với cô con gái của bà, nhưng bà đã yên tâm. Tất cả những đứa con của bà đều phải biết tự xử lý lấy những vấn đề của riêng mình. Bà không can thiệp và sẽ không bao giờ can thiệp vào những việc thuộc lĩnh vực tình cảm của các con. Bà quay lại bàn nơi ông Nghiên và Chu Khởi vẫn đang ngồi như đang chăm chú suy nghĩ nước cờ.
- Ông nó hôm nay sao chưa đi ăn cỗ?
- Đám ấy hoãn rồi mà bà.
- Sao lại hoãn thế?
- Ông Thận bị công an bắt lên huyện, còn thằng Thanh thì trốn đi đâu từ hai ngày nay. Ăn hỏi mà thiếu hai con người ấy thì thành thế nào được.
Bà Thân bỗng nhiên thở dài. Quái lạ cái làng Mùi này thời gian gần đây nó làm sao ấy nhỉ?
Chu Khởi bỗng nhiên xếp quân cờ lại, bảo:
- Hôm nay có khi ta nghỉ bác ạ. Lần khác bác cháu ta chơi tiếp.
   - Thế khi nào anh lại về?
Ông Nghiên nhìn người bạn cờ của mình vẻ luyến tiếc.
- Lần này cháu còn ở nhà. Cháu đang muốn tìm một ô đất để mở một dịch vụ ở làng nhưng không biết tìm ở đâu.
- Anh định kinh doanh mặt hàng gì? - Ông Nghiên nhìn Chu Khởi ngạc nhiên. Từ trước tới nay ông chỉ biết Chu Khởi là một gã du thủ du thực ăn chơi trác táng thôi, chứ có bao giờ nghĩ hắn cũng có ý định làm ăn tử tế.
- Cháu định mở dịch vụ ăn uống, giải khát.
- Ờ…ừ! - Ông Nghiên ậm ừ, chả ai hiểu ông nói vậy nghĩa là làm sao?
Chu Khởi chào ông Nghiên và bà Thân rồi bước ra sân. Hắn nhìn ra ngoài giếng. Hắn ngạc nhiên khi thấy Lệ Mai đang ngồi gội đầu, mái tóc đen, dày, dài óng ả của nàng buông đầy chậu nước. Sự bình thản của nàng khiến Chu Khởi ngạc nhiên. Hắn khẽ huýt gió nhún vai và rảo bước.
CHƯƠNG 11
Nguyễn Tiến Bật ngồi khoanh chân trên cái vỏ măng kê ở gian giữa căn nhà ba gian tường xây mái lợp lá cọ. Khi chấp nhận nghe theo ý kiến của vợ vào núi Thắm để khai hoang vỡ hóa tăng gia sản xuất, ông Trưởng họ Nguyễn Tiến không ngờ cuối đời mình lại có được niềm vui với cây cối, đồi vườn. Mảnh đất này khi ông đến vẫn còn cằn cỗi, bề mặt toàn đá là đá, đá lớn, đá bé đứng bên nhau trông như đội quân chuẩn bị xung trận ấy. Ông đứng nhìn những tảng đá ấy mà ngán ngẩm lắc đầu. Sức người có hạn mà thiên nhiên lại “ưu đãi” cho ông những tảng đá gan lỳ cùng năm tháng thế này. Nhưng Nguyễn Tiến Bật vốn là một người không dễ gì bỏ cuộc. Để xem tao với mày, ai thắng ai. Ông đứng đạp chân lên tảng đá to khu đồi Đá  Đen. Tương truyền rằng ngày xưa khi bà Nữ Oa đội đá vá trời. Khi đi đến chân núi Thắm vì mải ngắm cảnh thiên nhiên tươi đẹp nên gót chân sa xuống sông Hồng, làm lệch thúng đá trên đầu khiến đá rơi xuống thành gò Đá Đen. Ông Trưởng họ Nguyễn Tiến không biết mặt bà Nữ Oa trong truyền thuyết ấy, nhưng ông bằng lòng giải quyết hậu quả do sơ suất của bà để lại.  Ông ra làng Thạch Đê đến lò rèn của lão Kỳ thửa cho mình một cái búa tạ. Đích thân ông quai búa cùng với ông thợ rèn để rèn một cái búa mà không biết phải gọi tên nó như thế nào. Với sức lực của một gã đô vật năm xưa, mà ông dám khẳng định rằng nếu bây giờ làng Mùi vẫn tổ chức hội vật đầu xuân như trước thì ông vẫn cứ là quán quân xới vật. Ông đã tiến công không mệt mỏi vào cái vùng đất đá này. Hàng ngày ông cởi trần mặc độc một cái quần lót bộ đội rộng thùng thình quai búa tạ. Chiếc búa trên tay ông nặng chình chịch, đập phát nào chắc phát ấy. Dù không biết chữ nhưng ông là người lao động có tư duy rất khoa học, từng tảng đá ông đều săm soi thật kỹ để tìm ra các đường gân, thớ thịt của nó. Khi đã tìm được rồi ông vung búa lên, đập xuống. Mỗi nhát búa của ông nện xuống tảng đá đều vỡ ra từng mảng, tuy to nhỏ khác nhau nhưng rõ ràng chúng đều có đường có nét. Và đặc biệt bề mặt tảng đá nhẵn thin thín, đến nỗi ông có thể dùng nó ghép lại với nhau thành cái mặt bàn uống nước. Số đá vỡ được ông chuyển ra xếp thành đống ngoài gần đường. Một mình với đôi quang chành, cái đòn gánh bổ bằng nửa cây tre đực ông lầm lũi gánh đá ra xếp thành đống bên đường. Bao năm rồi cái đống đá ấy ngày một to nhường chỗ cho cái vườn cây ăn quả rộng hàng mấy mẫu. Hàng ngày nhìn thành quả lao động của mình Nguyễn Tiến Bật vô cùng phấn khởi. Đúng các cụ nhà ta dạy cấm có bỏ đi câu nào. “Trai có chí cắm trại, gái có chí bán hàng cơm”. Thử hỏi cả cái làng Mùi này, thậm chí cả cái huyện Thanh Lâm này ai đã có chí bằng ông Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi. Cái trang trại đó là theo cách gọi của Nguyễn Tiến Lộc - Phó Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh. Cái con người mà ông chỉ nghe thấy tên chứ chưa nhìn thấy mặt, người ta bảo mỗi lần về làng Mùi hắn đều nghỉ trong quán cà phê Trăng Lưỡi Liềm nhưng không bao giờ hắn ló mặt đi đâu. Từ một căn phòng riêng khá kín đáo nằm khuất sau hòn non bộ. Nguyễn Tiến Lộc tiến hành các buổi họp với lãnh đạo của các chi nhánh trong công ty. Tiến hành ký kết các hợp đồng kinh tế trị giá hàng tỷ đồng. Chả biết thực hư ra sao nhưng dân làng Mùi bảo rằng những tụ điểm karaoke mọc lên ở làng Mùi cùng với sự gia tăng sản xuất của Công ty Si-lic Trường Sinh đều là do sự chỉ đạo của Nguyễn Tiến Lộc. Từ lâu ông Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi đã muốn gặp gỡ, làm quen với con người bí hiểm đó. Ông Trưởng họ Nguyễn Tiến muốn gặp Nguyễn Tiến Lộc với hai lý do. Thứ nhất, ông muốn tìm hiểu cặn kẽ kẻ thù không đội trời chung với mình. Không hiểu sao từ ngày Công ty Si-lic Trường Sinh ra đời, ông Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi luôn có cảm giác như nó mới chính là kẻ thù của ông, kẻ thù của dòng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi này. Thoạt đầu khi biết Thúy Liễu, con gái Thục lác làm giám đốc công ty ông đã cười khẩy. Con ranh này không phải đối thủ của ông. Với khả năng của họ Nguyễn Tiến,  ông có thể đánh bật cả tổ tiên ba đời nhà nó ra khỏi làng chứ cái công ty, công tiếc này thì nghĩa lý mẹ gì. Ông đã chỉ đạo con cháu trong họ Nguyễn Tiến ngấm ngầm mở một cuộc chiến chống lại Công ty Si-lic Trường Sinh. Ông đã bí mật gài người của họ mình vào Công ty Si-lic Trường Sinh. Thời gian đầu họ Nguyễn Tiến cũng có tới hơn ba chục người vào làm công nhân của Công ty Si-lic Trường Sinh. Nhưng cái công ty kẻ cướp, cái con đĩ làng ấy quả là khôn ranh, mọi công việc của nó đều làm bằng máy. Máy hút cát từ dưới sông lên, máy múc cát từ bãi đổ vào ô tô, con cháu của họ Nguyễn Tiến không được làm gì khác ngoài chân bảo vệ với mức lương chết đói, thế là chỉ được ba bảy hai mươi mốt ngày là bỏ về sạch. Đến khi Công ty Si-lic Trường Sinh mở rộng sản xuất sang các lĩnh vực khác như kinh doanh xăng dầu, nhà hàng karaoke… Ai cũng biết rằng nó đang gặm nhấm dần xương tủy của người dân làng Mùi. Dòng họ Nguyễn Tiến nhà ông, cái dòng họ từ bao đời nay vẫn ngồi chiếu trên của làng bỗng nhiên bị Công ty Si-lic Trường Sinh đe dọa. Cái công ty ấy ngay từ đầu ông trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi đã nhận thấy nó là mối đe dọa trực tiếp đến quyền lợi của dòng họ. Ngay từ đầu ông đã hiểu ra cuối cùng thì kẻ thù của dòng họ đã xuất hiện. Cần phải có đối sách để đánh bại Công ty Si-lic Trường Sinh bằng mọi giá. Ông Trưởng họ Nguyễn Tiến đã bố trí cho một số con cháu của mình tham gia cùng với người dân xóm Bãi đấu tranh với Công ty Si-lic Trường Sinh để thăm dò phản ứng của chính quyền. Với chính quyền xã thì ông không sợ, bởi họ đều là người họ Nguyễn Tiến. Nhưng sự vào cuộc quyết liệt của công an huyện khiến ông trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi cảm thấy không yên. Như vậy là chính quyền đã đứng về phía cái công ty kẻ cướp ấy.  Ông biết rằng những người dân xóm Bãi cũ sau vụ vừa rồi sẽ co vòi lại, vừa mới bị công an bắt nhiều người đã lo sốt vó lên tìm cửa chạy chọt. Không hiểu tại sao nhưng ngay bản thân ông chỉ cần nhìn thấy bóng dáng của công an đã run như dẽ thì còn nói gì đến người khác. Thật chả hiểu ra làm sao nữa. Ông muốn gặp Nguyễn Tiến Lộc để tìm hiểu xem thực chất con người này là ai để mà vạch ra đối sách đấu tranh với Công ty Si-lic Trường Sinh. Thứ hai ông cũng muốn liệu cái gã Phó Giám đốc cũng có họ Nguyễn Tiến này gốc gác từ đâu và có dây mơ, dễ má gì với họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi của ông không?
Đã có ý định từ lâu nhưng ông Trưởng họ Nguyễn Tiến vẫn không biết bằng cách nào để tiếp cận Nguyễn Tiến Lộc thì may sao buổi sáng hôm ấy ngủ dậy Nguyễn Tiến Bật bỗng thấy trong người sảng khoái, con chim khách lại từ đâu bay về đầu nhà hót liền ba tiếng. Nguyễn Tiến Bật đã linh tính thấy ngày hôm nay chắc nhà mình lại có khách, ông đi vào nhà ngồi khoanh chân lên chiếc chiếu vỏ măng kê ở gian giữa. Vợ ông dọn bữa sáng cho chồng. Bữa sáng của trưởng họ Nguyễn Tiến là bữa chính trong ngày, đấy là thói quen ăn uống của người dân làng Mùi từ bao đời nay. Trong ngày họ chỉ ăn hai bữa chính là bữa sáng và bữa chiều. Còn bữa trưa thì tùy điều kiện từng gia đình, trẻ con thì có thể có bát cơm nguội, người lớn thì củ khoai, củ sắn nhì nhằng cho qua buổi. Người dân làng Mùi từ trước tới nay ăn uống không cầu kỳ nhưng phải no bụng. Vẫn là cái thói quen của tất cả những gã đàn ông Trưởng họ Nguyễn Tiến làng Mùi khi ngồi ăn bao giờ cũng một mình một mâm chễm chệ như ông vua con ở cái bục giữa nhà. Còn vợ con thì chỉ sau khi chồng ăn xong mới được ăn ở dưới bếp. Cái thói quen này tuy không còn phổ biến nhưng trong những gia đình trưởng nhánh của họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi thì vẫn được duy trì. Ông Trưởng họ Nguyễn Tiến có thể một mình ăn hết nồi tám cơm nghĩa là cứ việc tự xới lấy mỏi tay. Nhờ vậy mà ông có một cơ thể rắn chắc như gỗ mun. Ngồi trên chiếu vỏ măng nhẵn bóng mát rười rượi, ông Trưởng họ Nguyễn Tiến chăm chú nhìn ra ngoài đường nơi có đống đá, to như một quả gò con đang nằm trơ lỳ cùng năm tháng. Nhìn đống đá ông bỗng ước mơ mình có khả năng và cơ bản là có chỗ để chứa nó thì tốt bao nhiêu. Đang nghĩ vẩn vơ, ông bỗng dụi mắt khi thấy một người đàn ông bước xuống từ một chiếc xe con màu đen. Ông đã nghe nói chỉ có lãnh đạo của Công ty Si-lic Trường Sinh mới đi loại xe này. Từ trước đến nay cánh lãnh đạo của cái công ty kẻ cướp ấy có bao giờ mò vào tới vùng đất khỉ ho cò gáy này. Gã đàn ông có dáng người dong dỏng cao, mái tóc bạc trắng như cước, gã mặc một bộ quần áo khá trang nhã hợp với khí hậu nóng nắng của ngày hè.
Gã đàn ông đứng khá lâu bên đống đá do Nguyễn Tiến Bật đánh và chuyển ra xếp lên đó. Cử chỉ của gã thật lạ, cứ như lần đầu tiên thấy đá, gã đưa tay sờ mó vuốt ve trên mặt từng phiến đá, gã ngẩng mặt nhìn như không tin rằng đống đá khổng lồ này là có thật. Mãi sau gã mới nhìn vào ngôi nhà của Trưởng họ Nguyễn Tiến, gã không hề ngạc nhiên khi thấy chủ nhà vẫn ngồi khoanh chân như tượng trên cái chiếu vỏ măng giữa nhà chăm chú nhìn khách. Khoảng cách khá xa nên gã đàn ông lặng lẽ đi vào.
- Chào bác! - Gã đàn ông lên tiếng khi đặt chân lên hiên nhà.
- Không dám! Chào ông! - Nguyễn Tiến Bật trả lời khách không ra vẻ vồn vã cũng không tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Đống đá kia có phải là từ trong vườn nhà bác mà ra?
- Vâng! Mời ông ngồi chơi, uống nước. - Mời khách ngồi uống nước nhưng Trưởng họ Nguyễn Tiến không hề đứng dậy pha nước hay có một cử chỉ nào chứng tỏ đã sẵn sàng đón khách. Ông vẫn ngồi im lặng quan sát khách. Một gương mặt khá nhẹ nhõm, mái tóc tuy bạc trắng như cước nhưng không thể nói là già. Ông ta không phải là người làng Mùi, điều ấy thì đã rõ. Phải chăng, kẻ thù của ông đã tới?
Gã đàn ông ý tứ ngồi vào mép chiếc vỏ măng đối diện với chủ nhà. Đúng. Gã ta chính là Nguyễn Tiến Lộc - Phó Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh. Gã là một con buôn lọc lõi, một chuyên gia đàm phán, nói theo cách nói của người dân làng Mùi.
Bà Nhu từ dưới bếp mang ấm chén nước lên cho chồng tiếp khách. Thói quen trong nhà Trưởng họ Nguyễn Tiến từ xưa vẫn thế. Bà đặt cái khay nhôm trong có một cái ấm nước bằng sứ Hải Dương và hai cái chén sạch trắng tinh trước mặt chồng, ngước mắt nhìn khách nở một nụ cười rồi lại lặng lẽ rút lui.
Trưởng họ Nguyễn Tiến rót nước ra chén, cách rót nước của ông cho thấy khi tiếp khách lạ ông cũng là người am hiểu, và có sự tôn trọng khách chứ không như khi ngồi uống nước cùng những người anh em trong họ Nguyễn Tiến nhà ông.
- Mời ông xơi chén nước chè nóng.
Nguyễn Tiến Bật đưa chén nước mời khách vẻ trịnh trọng.
- Cám ơn bác! Mời bác! Chà! Chè thơm quá.
Nguyễn Tiến Lộc bưng chén nước lên uống một cách khoái trá thực sự. Trong các loại nước uống từ nhỏ gã vốn chỉ thích có nước chè. Gã xuýt xoa thưởng thức vị chè ngon đậm thấm dần trong đầu lưỡi.
- Tôi là Phó Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh. - Nguyễn Tiến Lộc đặt chén nước xuống nhìn chủ nhà. Trong chuyến đi thị sát vùng núi Thắm này gã không chờ đợi một sự tiếp đón trịnh trọng như thế này.
Nguyễn Tiến Bật khẽ giật mình một cái nhưng ông trấn tĩnh ngay được. Ông nhìn Nguyễn Tiến Lộc một cái nhìn khó hiểu. Không hiểu thế này là làm sao, từ lâu mình đang muốn gặp hắn thì hôm nay hắn lại lù lù dẫn xác vào.
- Vợ chồng tôi rất hân hạnh được ông Phó Giám đốc ghé thăm. Chả hay ông có điều gì chỉ bảo.
- Bác dạy quá lời. - Nguyễn Tiến Lộc khẽ cười, cái cười nhẹ nhàng như muốn xua đi cảm giác khách khí thậm chí có phần mỉa mai của chủ nhà. Kinh nghiệm hàng bao năm giao tiếp trên thương trường cho gã biết rằng. Người ngồi trước mặt mình là một kẻ độc đoán, nhưng cũng là con người thận trọng, khôn ngoan.
- Phải tận mắt nhìn mới tin rằng trên đời này vẫn còn những người phi thường như bác. Không hiểu bằng cách nào mà bác phá được ngần ấy đá để tạo nên cái trang trại này.
Hai cánh mũi của Nguyễn Tiến Bật chợt phập phồng. Lời khen có vẻ như sống sượng của Nguyễn Tiến Lộc không ngờ lại làm cho ông Trưởng họ Nguyễn Tiến cảm thấy vô cùng thích thú. Trong cuộc đời mình ông ít khi được nghe ai khen thẳng như vậy. Để kìm cảm xúc của mình ông rót thêm nước vào chén cho khách.
- Chè của bác ngon quá. Tôi không biết làng mình vẫn còn có thứ chè ngon hơn cả chè Thái thế này. - Nguyễn Tiến Lộc lại tấm tắc khen chè ngon. Rồi lại chậm rãi uống như đang thưởng thức một đặc sản.
- Ông cứ uống tự nhiên. Chè nhà tôi đảm bảo là chè sạch. – Ông Trưởng họ Nguyễn Tiến lúc này đã có cái để nói chuyện với khách. Ông ta khoe nhà mình có một nương chè trồng trên núi Thắm không bón phân, không phun thuốc và cũng không bán mà chỉ để uống. Khách tấm tắc khen chủ nhà như vậy là cẩn thận và chỉ có ở làng Mùi mới có được một người biết lo xa, biết giữ gìn sức khỏe như vậy. Nguyễn Tiến Lộc bảo rằng thời buổi này cái gì cũng sử dụng đến thuốc trừ sâu, phân hóa học, uống một chén nước chè ngoài phố cũng không yên tâm. Vòng vo chuyện chè, chuyện nước cuối cùng ông Phó Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh cũng đưa được chủ nhà về với vấn đề mình đang quan tâm. Ông ta nhìn ra đống đá đứng sừng sững trước nhà ông trưởng họ Nguyễn Tiến vẻ ái ngại.
- Đống đá to như thế kia sao bác để nó chắn trước cửa nhà thế?
- À lúc đầu tôi cũng chỉ định xếp tạm ở đó nhưng về sau càng ngày nó càng lớn nên mới khó. - Nguyễn Tiến Bật vờ than thở. Ông vẫn cảnh giác tránh để không vội vã tham gia vào câu chuyện.
- Về phong thủy theo tôi trước cửa nhà mà có khối chắn như vậy thì sẽ bị ám.
Nguyễn Tiến Lộc buông ra một đòn quyết định. Trước khi đi vào tìm hiểu vùng núi Thắm này gã đã nghiên cứu kỹ. Dân ở đây vẫn chủ yếu là dân xóm Bãi những người đã tự nguyện di chuyển chỗ ở tạo điều kiện cho Công ty Si-lic Trường Sinh có mặt bằng để xây dựng và đi vào sản xuất. Những con người mà hàng tháng nay đang kéo nhau đi đấu tranh với Công ty Si-lic Trường Sinh, cuộc đấu tranh vẫn chưa chấm dứt và sẽ không bao giờ chấm dứt. Bây giờ Công ty Si-lic Trường Sinh lại mở rộng sản xuất sang khai thác đá bở đây là một món lợi khổng lồ. Ngài “Tổng” đã nói vậy, mà đâu cần đến bộ óc thông minh siêu việt của ngài “Tổng”,  bản thân Nguyễn Tiến Lộc cũng đã ngửi thấy mùi tiền bốc lên từ cái dãy núi đá vô tri, vô giác này. Làm thế nào đuổi những người dân này ra khỏi vùng núi Thắm để lấy mặt bằng sản xuất. Đấy là vấn đề khiến nhà đàm phán hàng đầu của Công ty Si-lic Trường Sinh suy nghĩ mấy ngày nay. Người dân bây giờ hình như cũng đã khôn hơn sau những vụ mất mát không nhỏ vừa rồi. Cuộc đấu tranh của hơn trăm hộ dân xóm Bãi mà hôm nay đang sống ở dưới chân núi Thắm lúc đầu chỉ là biểu hiện tự phát của một vài gia đình. Nếu như, ông Phó Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh rất ghét dùng đến cái từ “nếu” trong cuộc sống thì ông vẫn cứ phải thừa nhận một điều rằng nếu như ông có toàn quyền quyết định thì ông đã tháo ngòi nổ cái cuộc đấu tranh này ngay từ khi nó mới bắt đầu. Chỉ cần bỏ ra một ít lợi nhuận nho nhỏ đáp ứng yêu cầu của những hộ dân, âu cũng là việc nên làm. Đằng này, ông “Tổng” và bà Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh, cái đôi này đúng là một cặp bài trùng kẻ tung người hứng. Nguyễn Tiến Lộc ngạc nhiên không hiểu sao một người như ông “Tổng”, một người có tài kinh bang tế thế, một người mà mỗi câu nói khiến cho thiên hạ phải há hốc mồm ra mà nghe như nuốt lấy từng lời lại cứ nghe lời Thúy Liễu thun thún. Ông ta có thể đánh đổi cả sự nghiệp chính trị của mình chỉ vì một người đàn bà thôi sao? Lòng dạ đàn bà, không ai hiểu được ra sao, Nguyễn Tiến Lộc đã sắp bước sang cái tuổi bất nghi hoặc rồi mà vẫn chưa hết dại. Gã đã sai lầm khi đánh giá thấp khả năng thực tế của Thúy Liễu, cái chiêu bài “nhả” cho các vị chức sắc từ xã đến huyện, đến tỉnh một tý lợi nhuận bằng số phần trăm cổ phần “ảo”, mỗi tháng đều đặn gửi cho các vị một bản báo cáo về tình hình sản xuất của công ty và một phần lợi nhuận để buộc các vị phải có trách nhiệm với công ty quả là một chiêu độc đắc. Dân làng Mùi cứ việc đấu tranh, cứ việc kiện cáo. Hàng bao đơn từ kiện cáo gửi lên đều được chuyển cho người của Công ty Si-lic Trường Sinh xử lý thế mới là “độc”. Đấu tranh chống lại Công ty Si-lic Trường Sinh có khác nào chống lại chính quyền, chống lại Nhà nước. Không phải tự nhiên mà Công an huyện Thanh Lâm vào cuộc một cách quyết liệt như vậy. Mà dân làng Mùi cũng lạ thật, cũng là con người cả vậy mà họ nhìn thấy công an cứ như nhìn thấy cọp. Nghe nói trong cuộc đấu tranh vừa rồi có người vừa nhìn thấy công an đã vãi đái ra quần kể cũng tội thật. Chỉ có vào đến đây chứng kiến công việc làm của những người dân bình dị như ông Trưởng họ Nguyễn Tiến đang ngồi trước mặt thì Nguyễn Tiến Lộc mới thực sự kính nể khả năng phi thường của họ. Cả vùng chân núi Thắm chỉ toàn đá là đá vậy mà những người nông dân này chỉ với hai bàn tay trắng, không máy móc, không thuốc nổ đã khai phá chúng thành những khu vườn cây ăn trái, nhưng khu đất thổ cư đẹp như trong mộng thế này. Họ không biết được rằng bên dưới lòng đất nơi họ đang sống còn ẩn chứa cả một kho tài nguyên vô cùng phong phú. Khác với những tảng đá nổi trên mặt đất, đá trong lòng đất là loại đá xanh, loại đá này rất cần thiết cho công việc làm đường giao thông, rất cần thiết cho các công trình xây dựng trong tương lai. Nói như vậy là một lần nữa những người dân lành sẽ lại phải chuyển đi để lấy mặt bằng cho Công ty Si-lic Trường Sinh khai thác và sản xuất đá. Sản xuất đá khác hẳn với việc múc cát dưới sông Hồng lên bán lấy tiền. Nó rất cần mặt bằng để tập kết máy móc, tập kết nguyên vật liệu và sản xuất. Ý của ông “Tổng” là đá moi lên sẽ được nghiền nhỏ trước khi cung cấp ra thị trường. Và một nhà máy nghiền đá sẽ mọc lên trên những vườn cây ăn quả như thế này. Lợi nhuận chắc chắn là không nhỏ, nhưng lợi nhuận ấy sẽ chạy vào túi những vị lãnh đạo của Công ty Si-lic Trường Sinh, còn những người dân sẽ lại một lần nữa lao đao khốn khổ vì mất đất, mất nhà. Cần phải thuyết phục họ. Nhưng thuyết phục bằng cách nào? Trách nhiệm ấy đè nặng lên vai nhà đàm phán hàng đầu của Công ty Si-lic Trường Sinh. Mấy tháng nay Nguyễn Tiến Lộc đã suy nghĩ, đã dự tính rất nhiều phương án. Bây giờ thì không thể giở cái chiêu bài cũ ra nữa, bây giờ thì một Bí thư Đảng ủy Đỗ Tiến Bật chứ mười ông Bí thư Đảng ủy làm gương chuyển nhà đi cũng không lôi kéo được một hộ dân làm theo. Dân làng Mùi sau một lần nhận thấy sự tráo trở của Công ty Si-lic Trường Sinh, nhận thấy sự bất công mà họ phải gánh chịu thì chắc chắn họ sẽ cảnh giác. Gặp gỡ từng nhà dân để thỏa thuận việc mua bán đền bù, đây cũng là một phương án khả thi nhưng sẽ vô cùng phức tạp, người ta sẽ không bao giờ chấp nhận cái giá đền bù do công ty đưa ra. Có lẽ phải dùng đến chính quyền. Dân làng Mùi nhìn chung vẫn còn thuần chỉ trừ những người thuộc họ Nguyễn Tiến - cái họ lớn nhất làng này, mà ông Trưởng họ Nguyễn Tiến không hiểu trời xui đất khiến thế nào đang sống yên lành trong ngôi nhà từ đường giữa làng Mùi Trung lại đùng đùng đưa vợ con vào đây khai hoang vỡ hóa. Không biết dùng cách nào để “bẩy” được người đàn ông này ra khỏi đây. Phải, chỉ có cách đó thì mới đuổi được những người dân đang sống dưới chân núi Thắm đi để lấy đất cho Công ty tiến hành mở rộng sản xuất. Nguyễn Tiến Lộc nhìn Trưởng họ Nguyễn Tiến: Trông ông ta như một pho tượng đá được gắn chặt vào mảnh đất này. Nghe nói về phong thủy mà ông ta dửng dưng như nghe nói chuyện thời tiết không bằng.
- Tôi hỏi khí không phải. Ông cũng là họ Nguyễn Tiến? - Nguyễn Tiến Bật nhìn khách và đưa ra một câu hỏi rõ ràng chả liên quan gì câu chuyện của khách. Đây là một chiêu bài của ông một khi chưa hiểu thực chất đối phương muốn gì thì có thể tìm cách đưa câu chuyện sang hướng khác.
- À… Dạ… Vâng! - Nguyễn Tiến Lộc ấp úng. Lần đầu tiên nhà đàm phán hàng đầu của Công ty Si-lic Trường Sinh bị lâm vào thế bị động. Cái bẫy mà gã đã giương ra định dẫn dụ con mồi vào không ngờ lại không có tác dụng.
- Vậy dòng họ nhà ta có gốc gác từ đâu?
- Dạ … Quê tôi ở Thái Bình.
- Tôi hiểu rồi. Ông uống nước đi.
Không thể biết Nguyễn Tiến Bật nói tôi hiểu rồi có nghĩa là thế nào. Nguyễn Tiến Lộc cầm chén nước lên uống.
- Như vậy anh chỉ là họ Nguyễn. Trong nhà anh có thể bố anh họ Nguyễn Văn, em anh Nguyễn Xuân… - Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi đưa ra một kết luận khiến Nguyễn Tiến Lộc giật mình. Ông ta cứ như là thầy bói tầm cỡ thời đại. Làm sao mà chỉ cần nghe ông nói mình quê Thái Bình người nông dân quanh năm chưa bước ra khỏi làng Mùi này có thể nói đúng như vậy về gia đình ông.
- Tôi nghe nói Công ty Si-lic Trường Sinh đang định đuổi chúng tôi khỏi núi Thắm để khai thác đá đúng không? - Nguyễn Tiến Bật nhìn thẳng vào nhà đàm phán hàng đầu của Công ty Si-lic Trường Sinh buông ra một đòn cân não khiến Nguyễn Tiến Lộc choáng váng.
- Bác dạy quá lời. Chúng tôi đang tiến hành khảo sát, nếu quả tình vùng núi Thắm có mỏ đá chúng tôi sẽ lập luận chứng kinh tế báo cáo tỉnh xin giấy phép khai thác.
- Mời ông đi ra đây.
Nguyễn Tiến Bật đứng lên bảo Nguyễn Tiến Lộc đi theo. Ông ta dẫn nhà đàm phán của Công ty Si-lic Trường Sinh đi ra cái giếng khơi đào phía sau nhà. Hai người đứng lặng im trên thành giếng soi mình nhìn xuống. Nguyễn Tiến Lộc chưa hiểu ý của chủ nhà ra sao thì Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi đã nhìn thẳng vào gã, cái nhìn từ trên xuống đầy vẻ hăm dọa.
- Ông đã thấy chưa, chỉ cần đào sâu không đầy một mét là đã gặp đá. Đây là loại đá mà các ông đang thèm muốn đúng không?
Nguyễn Tiến Lộc sững người nhìn Trưởng họ Nguyễn Tiến. Trước khi vào đây gã đã không lường trước sự việc. Không biết việc khai thác đá của Công ty Si-lic Trường Sinh tại sao lại lọt thông tin ra ngoài khiến một người dân thường quanh năm ngồi trong xó núi này cũng biết được. Trong kinh doanh mà để lộ thông tin như vậy thì hậu quả cũng chưa biết sẽ đi đến đâu. Trưởng họ Nguyễn Tiến lại dẫn nhà đàm phán của Công ty Si-lic Trường Sinh ra đống đá trước cửa nhà. Cái đống đá mà theo Nguyễn Tiến Lộc “đang ám” theo những hiểu biết của gã về phong thủy.
- Ông nói đúng. Đống đá này để đây đúng là không tốt nếu xét về phong thủy. Nhưng quả tình sức người có hạn tôi cũng muốn chuyển nó đi chỗ khác mà chưa biết làm thế nào?
- Vâng! Quả là sức người thì không làm nổi việc này thật. – Nhà đàm phán hàng đầu của Công ty Si-lic Trường Sinh bây giờ đã hiểu ra đối thủ của mình. Ông Trưởng họ Nguyễn Tiến quả là một người khôn ngoan giảo hoạt, ông ta đã tránh được cái bẫy do ông giương ra và lại mở ra một cái bẫy khác. Nếu như bây giờ Nguyễn Tiến Lộc lại hăm hở muốn giúp đỡ chủ nhà bằng cách hứa thuê máy múc, thuê xe vào trở giúp chỗ đá này đi thì quả là nực cười.
- Cái đám đá vô dụng này quả là khó chịu. Tôi tiếc rằng tôi không còn trẻ nếu không tôi đã vứt nó đi rồi.
- Ấy… Tiền cả đấy bác ạ. Nếu quả tình bác không dùng đến tôi sẽ mách cho bác người mua. Giá cả thì do hai bên thỏa thuận, tôi chỉ xin bác 10 phần trăm gọi là công “chỉ chỏ”.
Nguyễn Tiến Bật khẽ mỉm cười. Cái cười đầu tiên kể từ khi Nguyễn Tiến Lộc vào nhà. Chiêu này của nhà đàm phán hàng đầu của Công ty Si-lic Trường Sinh quả là độc đáo, đã hạ gục Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi. Trong phút chốc ông ta đã đánh tan sự hoài nghi của đối phương. Việc tự nhận mình chỉ là “người chỉ chỏ” kiếm hoa hồng đã khiến cho Trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi đánh giá thấp khả năng của ông. Trong mắt của Nguyễn Tiến Bật thì giờ đây Nguyễn Tiến Lộc không còn là vị Phó Giám đốc của Công ty Si-lic Trường Sinh nữa mà ông ta chỉ là một tên ma cô chỉ chỏ đang đầy rẫy trong làng Mùi.
Phó Giám đốc Công ty Si-lic Trường Sinh chia tay trưởng họ Nguyễn Tiến ở làng Mùi mà không có một sự giao kèo nào, nhưng gã vẫn mỉm cười. Hình như gã đã tìm ra đối sách cho bài toán vẫn chưa có lời giải...
HOÀNG BAN (Nguyễn Hoàng Long)
Mùa hoa sim
Tiểu thuyết đoạt Giải C,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ IV (2011 - 2015)
CHƯƠNG HAI
1. Trời sáng rõ, Dân mới bư­ớc thấp, b­ước cao mỏi mệt về tới nhà. Nhìn thấy con, ông Dân lục vấn ngay:
- Con đi đâu suốt cả đêm qua? Tại sao ng­ười con bơ phờ thế kia? Liệu còn đủ sức nhập ngũ không?.
Dân thanh minh:
- Sắp đi xa, con cũng phải chia tay bạn bè. Thời gian lúc này có bao nhiêu cũng thiếu. Con đâu còn trẻ con mà bố cứ lo ngập, lo nghẹn mãi.
Ông Dân dàn hòa:
- Là bố nói thế, đâu trách cứ con. Mẹ con xếp cơm rồi. Con ăn ù đi kẻo không kịp bạn bè. Nhớ giữ gìn sức khỏe. Nhớ thư­ờng xuyên viết thư­ về cho bố mẹ.
Dân không ngần ngại thư­a:
- Con mong là như­ vậy. Vào chiến trư­ờng không có thời gian, giấy bút cũng thiếu.
Ngồi xuống mâm cơm, Dân không tài nào nuốt nổi miếng cơm vào miệng. Mặc dù thịt gà, xôi nếp là những món ăn ­anh thích nhất. Gia đình đông con, bố mẹ phải tiết kiệm. Về nhà cả nửa tháng nay, bữa cơm cuối cùng mới dám mổ gà. Nếu đầy đủ nh­ư gia đình khác chắc Dân đư­ợc liên hoan nhiều bữa rồi. Dân chỉ cầm cái đùi gà, nắm xôi đi ăn đ­ường. Bạn bè cùng đi đợt này với Dân tới đông đủ. Thằng Tùng cư­ời ha hả, nói bô bô:
- Chúng ta lần l­ượt ra trận cả, lũ con gái ở nhà ế hàng đàn. Mấy thằng chột mắt, thọt chân ở nhà vớ bẫm. Chúng nó trở thành mì chính cánh, có khi vớ hai, ba vợ chẳng chơi đâu.
Tuấn chen vào:
- Mày tiếc rẻ thì ở nhà.
Tùng lại bô bô:
- Tiếc cũng chẳng đ­ược. Nhiệm vụ của tớ là ở ngoài mặt trận, mặt đối mặt với đế quốc Mỹ. Tao thấy anh Dân cũng dở quá chừng, về nghỉ phép những 15 ngày mà không c­ưới béng cái Huyền đi cho rồi. Bây giờ, kẻ Bắc, ng­ười Nam nhớ mong chờ đợi thật là mệt. Ở làng này nhiều ngư­ời làm như­ vậy tại sao không bắt ch­ước họ. Tin thế nào đư­ợc cái đám đàn bà con gái. Họ khóc sướt m­ướt, thề sống, thề chết đấy lại quên ngay đấy mà.
Dân như­ ng­ười bị ong đốt, anh quát Tùng:
- Bậy nào. Ta phải tin vào lòng chung thủy của phụ nữ chứ. Ở làng này đã có ai phản bội ngư­ời yêu đi lấy chồng đâu.
Thằng Tùng cũng chẳng vừa:
- Ai hơi đâu mà cắm sào đợi các anh. Khi về các anh lại chê ng­ười ta thì sao? Nếu các anh không về thì sao? Khi về, các anh què, cụt ai hơi đâu mà lấy các anh. Khi về, các anh thăng quan tiến chức, biết bao cô gái trẻ vây quanh. Họ đ­ược gì nào? Các anh ngoảnh mặt đi là cái chắc!
Dân tiếp tục phản công lại:
- Ở đâu xa tao không biết, chứ ở làng này không ai làm điều bất nghĩa như­ vậy đâu. Đại tá Đông khi về đâu có bỏ ng­ười vợ già, đội khăn mỏ quạ, răng đen, suốt ngày nhai trầu bỏm bẻm. Anh Nam khi về cụt tay. Chị Ngân không ghét bỏ trái lại còn rất yêu thư­ơng. Cái chính là ng­ười ở nhà biết chung thủy, chờ đợi. Ngư­ời đi trăm đư­ờng, vạn nẻo không đ­ược thay lòng đổi dạ. Dân tộc ta coi trọng đạo lý lắm. Thôi đi kẻo muộn.
Quay về phía bố mẹ Dân nói:
- Con chào bố mẹ.
- Chúng cháu chào hai bác.
- Tùng, Tuấn cùng nói.
Tiếng trống ếch của các em thiếu nhi đã vang vang khắp xóm làng. Ng­ười ngoài đường đông nghịt. Cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ nườm nượp khắp đư­ờng làng “Thanh niên hăng hái lên đường bảo vệ Tổ quốc. Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả để chiến thắng. Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một ng­ười!”  Những khẩu hiệu ấy vừa để tiễn chân các chàng trai ra trận vừa để nhắc nhở cái ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc đối với mọi ng­ười. Những khẩu hiệu ấy là lời hiệu triệu, lời thề non n­ước thôi thúc cả ng­ười ra đi và ng­ười ở lại. Họ đi ra mặt trận mà lòng vui như­ trẩy hội, như­ ngày tết. Cứ mỗi ng­ười ra đi, lại có tới hàng chục ng­ười đi tiễn chân. Ra tới đầu làng thì bọn con gái đông đủ chẳng thiếu một ai. Dân đ­ưa mắt về nơi ấy, Huyền nổi bật trong đám con gái bởi chiếc áo tím, bó sát ng­ười làm nổi bật những đ­ường cong của cơ thể. Huyền đẹp hơn mọi ngư­ời, đẹp hơn tất cả đám con gái của làng. Huyền đi đứng tự nhiên, nói cư­ời thoải mái. Nàng đư­a mắt về phía Dân nh­ư muốn nói: “Anh cứ yên tâm mà đi! Em sẽ đợi anh suốt đời!” Đáp lại, Dân đ­ưa mắt nhìn Huyền: “Anh nhớ mãi và mang theo màu tím áo em!” Nhớ mãi những trái sim quê nhà do bàn tay em hái và bón vào miệng. Nhớ nàng Tô Thị yêu quý của anh”.
Thằng Tùng tách khỏi mọi ng­ười, xăm xăm chạy tới đám con gái. Nó cầm tay Huyền kéo về phía Dân. Huyền xấu hổ, co ngư­ời lại, má đỏ lựng. Tay kéo Huyền, miệng Tùng thét lớn:
- Lại đây, đừng làm phách nữa. Có gửi cái “hòm” nào thì gửi đi. Chúng tớ sẽ nhắm mắt lại. Nó hô lớn: Nhắm mắt lại. Mọi ng­ười cư­ời rộ. Huyền hai má đỏ dừ, tay bo chặt cái Mơ và giấu mặt vào vai nó. Như­ng lòng Huyền sung s­ướng, rạo rực lạ thường. Huyền chỉ muốn vư­ợt lên tất cả, chạy đến ghì chặt lấy Dân mà hôn thỏa thuê, no say. Chị cố ghìm nén lòng mình để nư­ớc mắt khỏi tuôn trào.
Ngày giao quân thực sự là một ngày hội. Nó đư­ợc hình thành và phát triển từ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bắt đầu. Nó trở thành nét đẹp của quê h­ương, của dân tộc. Ng­ười tiễn đ­ưa chật ních mọi ngả đ­ường, chỗ nào cũng chật như­ nêm cối. Ngư­ời đâu mà nhiều thế. Ng­ười cứ như­ ở trên trời rơi xuống. Ng­ười lai nhau bằng xe đạp. Ngư­ời đi bộ. Vì đây là cuộc giao quân của cả một huyện. Hôm nay tiễn đưa bạn, ngày mai đến l­ượt mình. Thanh niên còn mấy đâu. Ngoảnh đi, ngoảnh lại hậu phương còn lại toàn thiếu niên, phụ nữ và ông bà già. Mai ngày lớn lên, chúng em lại tiếp b­ước các anh.
Các ngả đư­ờng vào thị trấn huyện đều bị nghẽn tắc những ng­ười và ngư­ời. Ai không đi tiễn chân ngư­ời ra mặt trận cảm thấy như­ có lỗi với làng xóm và ng­ười ra đi. Ng­ười đi c­ười c­ười, nói nói vui vẻ. Họ bắt tay tạm biệt ng­ười thân và những ng­ười có mặt. Họ xiết tay nhau thật chặt. Họ ôm ghì lấy nhau, không muốn rời. Họ trao tặng phẩm cho nhau. Tặng phẩm chủ yếu là sổ ghi chép, khăn mùi xoa. Sang hơn, lịch sự hơn là bút máy Trường Sơn. Họ hứa với nhau: Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực. Ngư­ời ở lại  mắt ngấn lệ, xịt xoạt khóc.
Trư­ớc khi lên xe, Dân đánh liều đến nơi Huyền, Mận, Nhung đang đứng. Anh đư­a mắt về phía mọi ngư­ời bắt tay chào tạm  biệt. Khi nắm tay Huyền anh thấy nóng nh­ư hòn than. Anh đư­a Mơ cái bút máy và dặn:
- Nhờ Mơ chuyển cái bút máy này cho thằng út.
- Anh mang đi mà dùng. Mơ nói. Anh có những hai cái cơ mà.
Huyền nhìn thẳng vào mắt Dân. Dân thấy mắt Huyền đỏ hoe. Dân vẫy tay chào tạm biệt lần cuối.
Ng­ười đi lên xe. Ngư­ời ở lại cũng trèo lên xe. Họ chẳng muốn xa nhau. Đư­ờng nghẹn tắc. Xe chật như­ nêm cối. Xe nổ máy, từ từ chuyển bánh. Ngư­ời hai bên đ­ường nới rộng cho xe đi. Họ nối thành hàng dài chạy theo xe. Họ vẫy tay cùng hét:
- Đi nhé.
- Ng­ười trên xe hô to:
- Ở lại nhé!
- Họ cùng nhau hát to: “Giải phóng Miền Nam chúng ta cùng tiến b­ước”.
2. Những ngày sống và chiến đấu ở miền Nam, Dân tiến bộ rất nhiều, rất nhanh. Nhiều khi anh rất nhớ cha mẹ và các em. Đặc biệt anh luôn nhớ tới Huyền. Nhiều lần gửi thư­ về nhà, nhưng ở đây anh chư­a hề nhận đư­ợc thư­ của gia đình, của Huyền. Anh như­ cánh chim bay, nay ở rừng này, mai ở rừng khác. Mới ngày nào, anh còn là anh lính mới tò te. Thế mà hôm nay, Dân trở thành cán bộ chỉ huy tài năng, dũng cảm, m­ưu trí dày dạn kinh nghiệm.
Chiều nay, trên đư­ờng đi công tác, Dân v­ượt qua vạt rừng sim mênh mông, rộng lớn. Hoa sim tím biếc. Quả sim tím mọng. Hoa sim, quả sim lúc ẩn, lúc hiện d­ưới tán lá xanh rờn. Hoàng hôn đang chuyển dần sang màu tím. Tất cả như chỉ còn đọng lại trong màu áo tím của Huyền.
Nhìn cánh rừng sim, quả chín mọng đánh thức Dân nhớ tới những kỷ niệm x­ưa, anh như­ đang đi trên đồi sim quê nhà. Đồi sim nơi hò hẹn giữa anh và Huyền. Nơi ấy là cái nôi của tình yêu. Nơi anh và Huyền thực sự là vợ chồng của nhau. Nơi ấy diễn ra cuộc chia ly rất đẹp và đầy thi vị. Tất cả như­ một cuốn phim hiện ra trư­ớc mắt anh. Anh sung s­ướng ngả mình d­ưới rừng sim. Lá sim, hoa sim, quả sim dìm anh ngập d­ưới màu tím của sim. Rừng sim nơi đây vắng Huyền. Anh hái quả sim bỏ vào miệng. Anh uể oải, chậm rãi nhai những quả sim trong miệng. Nh­ưng quả sim nơi đây để lại h­ương vị nhạt thếch nơi miệng anh. Phải chăng những trái sim nơi đây vì bom đạn chiến tranh nên thiếu đi vị ngọt. Những trái sim quê nhà do bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của Huyền hái và đưa vào miệng anh nên ngọt ngào hơn. Chao ôi! Những trái sim ngọt lịm. Những đêm hành quân trên đỉnh Trường Sơn lộng gió, dốc núi, đèo cao, suối sâu, có ai ngờ màu tím ấy sáng ngời, vẫy gọi. Màu tím ấy, đư­ợc ánh sáng tình yêu kỳ diệu, thắp sáng. Những khi khát nư­ớc, miệng khô quạnh, cứ nghĩ đến trái sim quê nhà anh thấy ngọt lịm hết khát, hết đói. Dân chợt nhớ trong truyện Tam quốc có kể: Khi quân lính đang đói, khát. Tào Tháo nói với quân sĩ rằng: “Tr­ước mặt có rừng mơ” làm cho quân sỹ hết khát, hết đói.
Một lần Dân và Huyền dắt tay nhau dạo chơi trên đồi sim. Tiếng chim rừng hót vang vang với đủ giọng điệu làm thành dàn đồng ca, hợp x­ướng chứa chan hạnh phúc. Tình yêu, hạnh phúc như­ chén r­ượu nồng làm anh ngất ngây không làm chủ được bản thân. Anh ôm choàng lấy Huyền rồi ghì chặt vào lòng. Huyền giãy giụa, dùng hết sức lực đẩy anh ra. Chẳng nói, chẳng rằng Huyền vùng vằng, giận dữ bỏ về. Anh gọi: “Huyền ơi! Cho anh xin lỗi”. Huyền không trả lời, lặng lẽ âm thầm đi về. Anh rất ân hận về hành động của mình. Anh buồn rầu, lững thững đi dư­ới đồi sim như­ ngư­ời hái sim mà trong tay không hề có trái sim nào. Mệt quá anh nằm xuống rồi ngủ thiếp đi. Trong mơ, anh thấy anh và Huyền c­ưới nhau. Cả hai đều vui mừng, tận hư­ởng h­ương vị ngọt ngào của đêm tân hôn. Một năm sau, Huyền sinh cho anh một đứa con trai thật bụ bẫm và kháu khỉnh. Nhìn đôi má bầu bầu, phinh phính, trắng như­ bột lọc của nó ai cũng muốn bế và hôn. Tiếng động của con vật chạy qua khiến anh tỉnh giấc. Huyền như­ nàng tiên dịu hiền ngồi bên cạnh, thả đôi mắt đắm đuối nhìn anh. Anh và Huyền đều cư­ời. Anh kể cho Huyên giấc mơ tuyệt đẹp vừa qua. Cả anh và Huyền đều vui, nét mặt rạng rỡ dư­ới nắng chiều. Anh hôn nhẹ lên má Huyền. Mặt Huyền đỏ dừ.
Thì ra, khi Huyền bỏ về nhà. Thời gian giúp Huyền bớt căng thẳng và tỉnh táo hơn. Huyền nhận ra tình yêu của anh. Huyền lại th­ương nhớ anh. Huyền quay lại đồi sim tìm anh. Vì quen đ­ường, thuộc lối như­ lòng bàn tay nên Huyền dễ dàng tìm thấy anh. Thế là anh chị lại quấn quýt, xoắn xuýt bên nhau, tay nắm tay cùng rảo b­ước về nhà. Đi đ­ược một quãng, Huyền lùi lại để Dân đi tr­ước phòng có ng­ười nhìn thấy, miệng thế gian tam sao thất bản.
Những năm ở chiến tr­ường miền Nam. Màu áo tím theo Dân đi các chiến dịch, đi vào trận đánh. Lúc vui, khi buồn màu áo tím chia sẻ, động viên khích lệ anh hăng hái tiến lên. Màu áo tím là trái sim quê nhà, là tình yêu của anh. Nó mãi mãi l­ưu giữ trong tâm hồn anh.
Dân bừng tỉnh sau giấc mơ dài, khó quên nơi rừng sim. Giấc mơ ấy đưa anh về  quê nhà gặp lại đồi sim, gặp lại Huyền. Miệng anh ngọt lịm hương vị của sim.
Mặt trời thấp dần. Hoàng hôn buông xuống. Dân luồn rừng, cắt đường về đơn vị. Buổi tối ở rừng đến quá nhanh. Dân phải chạy đua với thời gian và bóng đêm. Nếu không kịp về đơn vị, Dân sẽ phải nhịn đói, phải ngủ một mình ngoài rừng. Cái bụng của rừng to lắm, rộng bao la nhường nào. Nó có thể nuốt chửng cả anh và cả đoàn quân vào bụng mà chẳng thấm vào đâu. Dân không chết nhưng phải ngủ ngoài rừng, đơn vị lo lắng mất công đi tìm. Bản thân chịu khổ cực không nói làm gì? Bao nhiêu đồng đội phải lặn lội trong đêm tối, rừng sâu tìm kiếm, khó khăn nguy hiểm quàng lên vai bao đồng chí. Họ có thể nghĩ anh bị lạc đường, hoặc vướng mìn của giặc mà hy sinh ở nơi nào đó cũng nên, hay sẽ bị biệt kích bắn lén. Hai tay vịn cây, chân bước gấp, mắt Dân quan sát định hướng. Những dây leo chằng chịt chắn ngang, anh bình tĩnh định hướng rồi luồn lách qua những chằng chịt cây lá cúi người mà đi. bụng đói cồn cào, miệng khô cháy, mồ hôi ướt cả quần áo. Dân phải đi nhanh, đi thật nhanh. Trời tối đến nơi mất rồi!
Thật may, Dân về đến nơi trú quân của đơn vị khi trời sập tối. Dân nghe tiếng Huân hỏi:
- Thủ trưởng Dân về chưa?
Dân vui mừng lên tiếng:
- Về rồi!
- Tại sao về muộn thế. Chậm tí nữa là phải cử người đi đón ông đấy.
Dân im lặng không trả lời Huân.
3. Trời tang tảng sáng còn chưa rõ mặt người. Cả đơn vị thu mình trong rừng cao su rộng lớn. Vừa đặt chân tới nơi, đơn vị phải dồn sức đào công sự. Đường hành quân khá xa, quanh co, vòng vèo tốn bao sức lực thời gian. Đào công sự xong thì trời sáng rõ. Mọi người nằm lăn ra ngủ. Cả khu rừng chìm trong im lặng. Những tia nắng vàng như mật ong tưới đầy tràn khu rừng cao su. Rừng cao su bừng sáng, tỉnh dậy sau đêm dài ngủ say.
Dân nằm trên võng đung đưa, đón những tia nắng sớm như người cưỡi trên con thuyền bồng bềnh ngoài biển khơi đầy sóng gió. Mặt trời từ từ nhô lên từ đại dương mênh mông.
Rừng cao su đẹp như một bức tranh sống động với nhiều gam màu. Những hàng cao su thẳng tắp, đều chăn chắn cả chiếu cao lẫn chiều ngang. Rừng cao su là sự chia đều giữa mỗi cây cả về bầu trời và mặt đất. Ngắm nhìn những hàng cây theo góc nghiêng, góc thẳng ta cũng thấy hàng thẳng hàng, cây thẳng cây. Nơi nào cũng giống nhau, khó khăn lắm, tinh tường lắm mới tìm nổi sự khác biệt. Vì thế, người vừa tới mà đi trong rừng cây cao su rất dễ bị lạc. Nếu mọi con người đều cũng được hưởng sự công bằng giữa bầu trời, mặt đất như cây cao su thì hạnh phúc biết mấy. Rừng cây cao su là tài sản vô cùng quý giá của đất nước. Từ những dòng mủ trắng như sữa, người ta chế ra bao nhiêu mặt hàng phục vụ con người. Thế mà bom đạn Mỹ ngang nhiên chặt ngang thân cây, thiến cụt những cành cây Mỹ còn dùng bon napan thiêu trụi cả rừng cao su một cách vô cớ. Những cây cao su này tội tình gì đâu, chém giết ai đâu? Thì ra cuộc chiến tranh ăn cướp này không những giết người mà giết cả những động vật, thực vật. Nghĩ đến thân phận chung, trái tim Dân đau nhói sự căm thù. Những người lính chiến, không những chiến đấu để bảo vệ nhân dân, tổ quốc mà còn bảo vệ những rừng cây và muông loài muôn thú. Vì điều đó mà bao đồng đội của anh đã ngã xuống và vĩnh viễn nằm lại đất này.
Dân đến gặp Năm Mập, Bảy Hùng và Sáu Huân để thống nhất cuộc họp cán bộ từ đại đội trưởng trở lên. Cán bộ có mặt đông đủ. Thay mặt Ban Chỉ huy tiểu đoàn, Dân truyền lệnh:
- Tiểu đoàn chúng ta có nhiệm vụ cùng với các đơn vị khác tấn công, tiêu diệt cứ điểm X vào đúng giờ G đêm nay. Từ địa điểm đóng quân tới cứ điểm X phải mất hai giờ hành quân, phải rất khẩn trương mới kịp. Diệt xong cứ điểm X, chúng ta rút về Y trước khi trời sáng. Thời gian ém quân ở đây để chuẩn bị cho trận đánh đêm nay là cực kỳ quan trọng, là tiền đề, là bàn đạp tiến tới thắng lợi này. Vì thế phải bí mật tuyệt đối, không có tiếng động, không có khói lửa. Cả ngày nay chúng ta sẽ phải ăn lương khô, uống nước mang theo, phải tiết kiệm nước uốn tới mức tối đa. Nếu đơn vị nào thiếu thì tạm thời phải nhịn không được làm trái quy định. Đứng về mặt tổ chức, đây là mệnh lệnh chiến trường, kỷ luật như sơn. Các đơn vị phải cử người canh gác “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Nếu để lộ bí mật, bom pháo địch từ các nơi dồn dập tới ngay. Chúng dùng trực thăng đổ quân xuống sống mái với chúng ta. Chúng ta như cá nằm trên thớt. Khi đó chúng ta buộc phải chiến đấu, thương vong không biết đâu mà lường. Đơn vị ta nhận nhiệm vụ khai hỏa và tiêu diệt cứ điểm quan trọng này, quyết định thắng lợi của trận đánh đêm nay. Hôm nay chúng ta nghỉ ngơi và giữ bí mật, đề cao cảnh giác. Tất cả phải sẵn sàng. Khi nào có lệnh xuất kích là phải đi ngay, phải chiếm được ngay trận địa.
Phương án tác chiến, tôi đã trình bày cụ thể trên sa bàn rồi. Các đồng chí cứ thế thực hiện.
Đêm ấy, bộ đội đào công sự xong rồi. Mọi người nóng lòng chờ đợi lệnh nổ súng. Thỉnh thoảng Dân lại soi đèn pin nhìn đồng hồ. Thời gian trôi đi quá chậm chạp. Các chiến sĩ súng đạn đã sẵn sàng. Mắt đổ dồn về phía đồn thù. Kim đồng hồ xê dịch mãi chưa tới giờ G.
Giờ nổ súng đã tới, thời khắc lịch sử đã điểm. Dân vụt đứng dậy hạ lệnh nổ súng. Bão lửa bất ngờ đội xuống đồn địch. Dân dẫn đơn vị tiến lên, xông vào đồn giặc. Dưới ánh đèn dù, sáng như ban ngày, anh nhìn rõ từng lô cốt chìm trong biển lửa. Giặc la lối ầm ĩ, chửi bới om sòm không ngớt. Chúng chạy lung tung như ong vỡ tổ. Các đơn vị bạn đồng loạt xung phong. Kẻ địch bị tấn công bất ngờ không kịp trở tay. Cả cứ điểm chìm ngập trong biển lửa. Nhiều tên địch bị trừng trị ngay từ loạt đạn đầu. Số còn lại đầu hàng thì sống, Nếu ngoan cố chống lại, được các chiến sĩ tặng cho những viên “kẹo đồng”. Trận đánh nhanh chóng kết thúc. Khi hạ lệnh cho đơn vị rút lui, Dân chờ cho đơn vị rút hết anh mới trở ra. Một quả pháo rơi gần nơi Dân đứng. Dân bị hất ra xa và bị thương, ngất đi.
Đơn vị đi khá xa mà vẫn không thấy Dân đâu. Tiểu đoàn phó Huân và liên lạc Tân quay lại tìm Dân. Họ mò mẫm từng đoạn công sự. Họ tìm thấy chiếc xà cột đựng tài liệu và chiếc bi đông thủng lỗ chỗ. Khẩu súng ngắn bị văng rất xa. Tân xác định những thứ này là của Dân. Theo Huân phán đoán Dân bị pháo dập và đã hy sinh. Thi thể có thể bị cắt làm nhiều mảnh. Họ lại chia nhau đi tìm xung quanh đó, nhưng biệt vô âm tín.
Họ thất vọng buồn rầu trở về. Trên đường về, Huân và Tân phải vượt qua nhiều gian khổ, vất vả, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cả đêm hôm đó và ngày hôm sau phải ngủ bờ, ngủ bụi, nhịn đói, nhịn khát. Huân cũng bị thương vào cánh tay trái. Nhưng tình đồng đội, tình bạn đã giúp họ vượt qua. Đêm hôm sau, họ mới về tới đơn vị. Họ mệt lả, bụng đói miệng khát. Ăn vội miếng cơm rồi lăn ra ngủ như chết.
Đơn vị làm lễ truy điệu Dân và báo tử về gia đình. Cả đơn vị ai cũng thương tiếc Dân, người chiến sỹ luôn chiến đấu dũng cảm, kiên cường, người chỉ huy tài năng, thông minh, mưu trí, hết lòng thương yêu đồng đội. Trong chiến đấu, khi tiến vào đồn giặc anh là người dẫn đầu. Khi rút quân anh là người đi sau cùng.
Dân là người được học hành đến nơi đến chốn, được tôi luyện trong chiến đấu ác liệt. Mỗi khi trình bày một vấn đề trước đơn vị, Dân có giọng nói rất truyền cảm, mạch lạc, không thừa, không thiếu, khi truyền đạt mệnh lệnh rành mạch, dứt khoát, rõ ràng dễ hiểu. Dân là mẫu người lý tưởng để cán bộ chiến sỹ vươn tới. Tương lai của Dân như một thảo nguyên mênh mông. Nhưng khi cần phải hy sinh cho nền độc lập của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân anh không hề tiếc máu xương. Dân để lại trong lòng Huân những tình cảm đặc biệt và trong sáng. Ở cương vị cấp trưởng, Dân luôn gương mẫu dìu dắt và giúp đỡ Huân. Khi bàn bạc, thảo luận, Dân và Huân rất dân chủ. Nhưng khi quyết định, Dân luôn nhận trách nhiệm về mình, không đổ thừa cho cấp phó. Với tư cách là đồng hương, Dân gần gũi, yêu thương Huân.
Năm Mập - Chính trị viên trưởng tiểu đoàn nằm bẹp cả ngày trên võng vì quá thương tiếc Dân - Người bạn, người đồng chí luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn.
Hà và Tân là liên lạc kiêm cần vụ luôn ở bên Dân, vui buồn, đói khát, gian nan, vất vả có nhau. Dân có thể nhịn đói, nhịn khát để nhường cho Hà và Tân. Hà, Tân thương Dân vô cùng, cả hai cùng nghẹn ngào khóc Dân.
Tất cả những người chiến sĩ dũng cảm hy sinh trong trận đánh vừa qua tô thắm thêm cho lá cờ truyền thống của đơn vị,  xây nên những tượng đài anh hùng cho cán bộ, chiến sĩ noi theo. Những người lính luôn phải đối mặt với kẻ thù, với cái sống và cái chết giành lại cho quê hương, đất nước. Họ ít có thì giờ để nghĩ tới quá khứ, vì họ luôn tất bật với công việc và chiến đấu.
4. Kể từ đêm chia tay lần cuối với Dân đến nay đã hơn ba tháng, lúc nào Huyền cũng nghĩ tới Dân. Ngồi vào bàn học, Huyền thấy Dân ngồi kề bên. Huyền không tài nào học nổi. Kể cũng lạ thật, trước đây Dân ngồi cạnh là sức mạnh, động viên, cổ vũ, khích lệ khiến đầu óc Huyền sáng suốt, tiếp thu bài mau lẹ. Khi đi chăn trâu, một mình Huyền đi khắp đồi sim mà không hái một quả. Huyền cố tình bỏ trái sim vào miệng, sim đắng ngắt. Huyền lại nghĩ tới Dân.
Đêm ngủ, Huyền mơ thấy Dân nằm cạnh. Bàn tay Dân vuốt ve mái tóc, sờ lên đôi má nóng bừng. Dân ghì chặt Huyền vào lòng. Huyền đắm chìm trong những giây phút bên anh. Giấc mơ thật đẹp và ngọt ngào. Khi tỉnh dậy, Huyền thấy sung sướng ngây ngất, khoan khoái và dễ chịu kỳ lạ. Huyền thấy lòng mình lâng lâng. Có những lúc tay cầm sách, bỏ đâu cũng chẳng nhớ. Đôi khi Huyền ngồi thừ ra, mẹ gọi cũng không nghe thấy. Mẹ mắng, Huyền chống chế: Con đang nghĩ về bài toán khó. Hình ảnh Dân càng in đậm trong trí nhớ của Huyền. Nếu Huyền có tài hội họa như Nguyệt Nga thì bức chân dung về Dân hẳn không khó khăn gì.
Gần đây, Huyền thấy cơ thể có sự chuyển biến lạ thường. Ba tháng nay, Huyền không thấy… Trước đây, việc ấy chính xác từng ngày, từng giờ. Bỗng dưng, ba tháng nay không thấy. Điều đó khẳng định Huyền đã mang thai. Huyền nên mừng vui, đau buồn lo lắng? Một sinh linh nhỏ nhoi đã hình thành và phát triển trong cơ thể chị. Nếu Huyền nghe Dân tổ chức đám cưới thì điều này khiến chị rất vui, sẵn sàng đi loan báo, với bạn bè, thông báo cho hai bên cha mẹ. Nhưng tình thế này buộc Huyền phải giữ kín. Cơ thể Huyền thay đổi nhanh chóng đến không ngờ. Đôi bầu vú lớn dần, như muốn phá tung cái áo lót mà chui ra. Cách đây không lâu chị còn mặc vừa vặn nay cứ xiết chặt lại. Hai đầu vú không đỏ như xưa nữa. Nó to và cứng, chuyển dần sang màu thâm đen. Bầu vú đẫy đà, rắn chắc hơn. Nó tạo thành đường eo lớn, phục phịch hơn. Huyền phải bó cái bụng lại cho nó bình thường như trước. Chỉ khi tắm, lúc nằm ngủ cái bụng mới được thoải mái hơn, không bị trói buộc. Những lúc ấy chắc đứa trẻ vui lắm. Trước đây lông mày Huyền như đường chỉ rất đẹp, gần đây cứ dựng ngược chẳng ra làm sao cả. Cổ Huyền nổi những đường gân xanh. Rõ nhất ở bụng, đường gân xanh nổi hẳn lên rất to.
Đến bữa ăn, ngồi xuống mâm, Huyền không tài nào nuốt nổi miếng cơm vào bụng. Cứ ăn vào là ói mửa liền. Mỗi lần nôn ọe, nước mắt nhạt nhòa. Sau mỗi lần ói mửa, nôn ọe, chị mệt lả, chỉ muốn đi nằm. Huyền thèm của chua đến nao lòng. Mọi khi ăn khế chua, Huyền phải nhăn mặt, nhắm mắt, có sức mới đưa được miếng khế chua vào bụng. Thế mà bây giờ, Huyền ăn rau ráu, ngon như ăn cơm. Cái vị chua, chát biến đâu mất. Cây khế đầu nhà chị ăn vạt một góc. Nhưng khốn nỗi chị đâu dám ăn khế trước mặt mọi người. Hái khế vụng, ăn khế vụng là công việc làm về đêm của Huyền. Một lần Huyền bị mẹ bắt quả tang chị hái khế, ăn khế rau ráu ngon lành.
Mẹ gọi chị vào trong nhà. Mẹ nhỏ nhẹ nói với con gái:
- Mẹ có chuyện muốn hỏi con.
 Mới nghe mẹ nói vậy mặt Huyền đã xanh như tàu lá, chân tay run lẩy bẩy.
- Con không được giấu mẹ. Nhìn con gần đây, mẹ khẳng định con đã có thai. Mẹ đã qua cái thời ấy, mẹ biết. Con trót dại với ai? Con nói thật với mẹ đi, con không giấu nổi mẹ đâu. Liệu con có giấu mãi được không? Khi cái bụng vượt mặt, còn giấu được ai nữa.
Huyền ngồi lặng im. Khi chị cúi mặt nhìn xuống cái bụng, lúc nhìn đôi chân. Rồi Huyền lấm lét ngẩng lên nhìn mẹ.
Mẹ lại giục:
- Con nói đi! Mấy tháng rồi?
Huyền vẫn lặng câm. Bà mẹ thấy người nổi gai gà. Bà thét:
- Mày câm miệng à? Tao nói ngọt mày không nghe. Con gái hơ hớ thế kia mà chửa hoang. Đẹp mặt chưa? Uổng công tao mang nặng đẻ đau và nuôi mày từng ấy năm trời. Bố mày mà biết thì chết. Lúc đó đừng có trách mẹ không bảo trước.
Huyền nói lí nhí qua hàng nước mắt đang chảy hối hả trên má:
- Con… con con chót dại dại. Ba… ba tháng rồi. Bố mẹ thương con, đừng bỏ con, tội nghiệp lắm.
Bà mẹ dằn từng tiếng:
- Mày nằm với thằng nào? Con nhà ai?
Huyền vừa khóc, vừa nói. Hai tay dụi mắt. Hai mắt đỏ như hai miếng tiết:
- Nó là của anh… anh Dân.
- Bây giờ con tính thế nào? Bà mẹ hỏi.
Huyền sợ sệt, đưa mắt nhìn mẹ.
- Con chẳng biết tính thế nào. Tất cả trông vào tình thương của bố mẹ. Bố mẹ bảo sao con nghe vậy.
Hai mẹ con đều im lặng. Mỗi người suy nghĩ theo chiều khác nhau. Huyền khóc vì sự bồng bột. Nếu nghe anh Dân tổ chức đám cưới thì đâu đến nỗi này. Khóc vì đứa con nhỏ bé trong bụng. Rồi đây số phận của nó thế nào? Liệu có được mẹ tròn con vuông không, hay là mẹ con mỗi người một ngả. Khóc vì thương anh Dân ở nơi chiến trường có hiểu cho hoàn cảnh của chị lúc này không?
Bà mẹ cũng nước mắt ngắn, nước mắt dài. Nước mắt ấy là sự hòa đồng của lòng thương con và sự không dạy bảo con đến nơi, đến chốn, cao hơn nữa là sự tức giận con không chịu nghe lời cha mẹ “Cá không ăn muối cá ươn. Con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư”. Bây giờ, người đời chê con thì ít, cười cha mẹ thì nhiều vì không biết dạy bảo con. Bây giờ phải tính sao cho êm thấm. Những điều suy nghĩ riêng chứ gặp nhau, không ai nói với ai. Mặc dù họ là hai mẹ con.
Mặt trời đã lên cao. Nắng tỏa khắp sân từ lâu. Bố Huyền nói oang oang ở ngoài cổng:
- Nhà vắng tanh, mẹ con đi đâu cả thế này mà để gà bới đống rơm rạ thế kia.
 Ông vội đuổi ụi! ụi!
Trong nhà, mẹ con Huyền trở về với thực tế.  Bà mẹ nói với con:
- Nín đi con... Đừng vội để cho bố con biết. Bố con nóng như lửa. Để mẹ lựa lời nói trước với bố con đã. Nếu để bố con biết lúc này, ông ấy không chịu nổi, khùng lên thì nguy. Tất cả bung bét, vỡ lở, mọi người được dịp chê cười.
Bà bình tĩnh chạy ra, vồn vã hỏi chồng:
- Ông đi đâu từ sáng đến giờ. Ông chẳng hề nói với tôi một tiếng, khiến lòng tôi không yên.
Ông Huyền vui vẻ, bộc bạch cùng vợ.
- Tôi sang nhà ông Thả có chút việc. Chả là, nhà ông ấy có con bò định bán. Tôi muốn mua cho mấy đứa trẻ nhà mình chăn, để chúng chơi bời lêu lổng hư thân mất nết.
- Nhà mình có trâu rồi còn mua bò làm gì nữa. Tiền bạc đâu mà ông mua bò? Vài năm nay, gia đình nhà ta mới tạm đủ ăn.
- Tiền bạc bà khỏi phải lo, đâu sẽ có đó. Bà cứ mặc tôi. Tôi định bán trâu để mua bò. Trâu dữ tợn hơn, sinh sản chậm lại ăn hết nhiều hơn. Bò ăn ít lại sinh sản mau. Trẻ con dễ chăn dắt. Bán trâu để mua bò đâu có thiếu tiền mà bà cứ lo đứng, lo ngồi mãi.
- Là tôi nói vậy. Mua bán thế nào là quyền ông. Cái loại đàn bà: “Sâu sắc như cơi đựng trầu, đái không cao hơn ngọn cỏ” biết gì mà bàn. Cái gì có lợi thì ông cứ làm. Nhưng tôi xin góp ý với ông một điều, phải ông nghe mà sai thì thôi. Trâu lại có ưu điểm khả năng chống rét tốt hơn bò.
Nghe vợ nói vậy, ông Huyền mát lòng, mát dạ. Xưa nay bà ấy vẫn là người biết điều, mọi việc cư xử với chồng con và mọi người chung quanh rất chu toàn. Bà ấy rất mực yêu thương chồng con. Bà đã làm được việc lôi cuốn chồng vào câu chuyện của bà khiến ông không để ý đến thái độ, sắc mặt của mẹ con bà.
Tối hôm ấy, khuya lắm rồi. Trẻ con học bài xong đứa nào, đứa ấy nằm lăn ra ngủ. Chúng đang thi nhau kéo gỗ. Bà mẹ vùng dậy, khẽ len lén đi ra nhà ngoài. Bà đi rất nhẹ và êm. Đến bên chồng, bà vỗ nhẹ để đánh thức ông dậy. Bà ngồi xuống giường  nói rất nhỏ.
- Ông vào trong này, tôi có chuyện muốn bàn với ông. Rồi bà lại khẽ đi về giường của mình.
Bà Huyền vừa năm ấm chỗ thì ông tới liền. Ông ngoan ngoãn làm theo vợ. Ông nghĩ lâu nay mải làm ăn, vợ chồng ít khi ngủ với nhau. Ở nông thôn vợ chồng ít ngủ chung với nhau là chuyện thường. Nếu muốn thì chủ yếu là “đánh du kích”, xong rút liền. Mặt khác các con lớn, bố mẹ phải ý tứ, kín đáo. Bà ấy nhắc khéo ông, thức tỉnh cái vùng nhớ của đàn ông bừng bừng nổi dậy mãnh liệt. Ông vừa tới giường, bà kéo ông nằm xuống ngay. Ông vui vẻ, phấn khởi hẳn lên, thỏa mãn những nhận xét đánh giá của ông. Bà chìa tay cho ông gối. Bà ấy ghì chặt lấy ông. Cái của kia cứ hừng gực bốc lửa trong ông. Bà nói:
- Tôi có chuyện này nói với ông. Nhưng khi nghe ông phải thật bình tĩnh, nóng nảy là lỡ việc.
- Thì bà nói đi. Việc gì mà phải rào trước đón sau mãi.  Tôi nghe đây. Nhanh lên để còn… lâu lắm rồi chưa…
Bà hắng giọng.
 Lâu nay, ông có để ý đến sức khỏe và sự thay đổi của con Huyền không?
- Tôi làm lụng tối mắt, có lúc nào ngơi tay. Ở ngoài đồng suốt từ tờ mờ sáng cho tới tối mịt thì giờ đâu mà để ý đến con cái.  Nhiều ngày, tôi chỉ gặp mẹ con bà bữa cơm tối. Bà với nó là mẹ con con gái với nhau, bà phải biết hơn tôi chứ.
Bà ghé vào tai chồng:
- Cái Huyền có thai rồi. Ông sắp được làm ông ngoại rồi.
Ông như người bị điện giật, vùng trở dậy.
- Có thật không? Bà nói tiếp đi.
Bà kéo chồng nằm xuống
- Ông cứ nằm xuống đã, bình tĩnh nghe tôi nói. Ông làm gì mà như người mất hồn thế. Ông phải thật bình tĩnh, vợ chồng mình bàn tính cách giải quyết.
Ông lại ngoan ngoãn nằm xuống giường. Nhưng lần này ông nằm cách xa vợ một chút, chú ý lắng nghe vợ nói.
- Tôi quan sát, theo dõi mấy ngày nay rồi. Sáng nay, tôi vừa hỏi nó. Nó thú nhận là đã có thai ba tháng, đứa con trong bụng là của thằng Dân. Việc đã ván đóng thuyền rồi. Vợ chồng mình phải bàn cách giải quyết sao cho êm thấm, để khỏi phải đeo mo vào mặt, dân làng chê cười.
Ông Huyền thở dài thườn thượt.
- Bà biết chuyện trước, chắc bà có suy tính rồi. Trong chuyện này,  bà khôn khéo hơn tôi nhiều. Tại sao bây giờ bà mới nói với tôi?
- Tôi cũng mới biết thôi. Cái bụng của nó đã nổi đâu mà nhìn thấy. Phải nhìn vào những biến đổi của cơ thể nó mới biết. Hơn nữa, tôi phải lựa thời điểm thích hợp mới nói với ông. Nếu cứ nóng nảy, sồn sồn gặp đâu nói đấy, ông nổi khùng lên thì chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này.
Ông không giữ nổi bình tĩnh, gắt vợ:
- Bà tính thế nào thì cứ nói toạc móng heo ra, để tôi biết chừng. Bà cứ dài dòng, vòng vo mãi, tôi sốt ruột quá rồi. Tôi muốn phát điên lên đây.
- Còn tính gì nữa. Chỉ có cách phá quách đi là gọn và êm chuyện lại kín đáo.
- Nhưng bằng cách nào? Ba tháng rồi liệu có phá được không?
- Được! Nhưng phải khẩn trương, chần chừ, do dự là chết liền. Nhưng phải tuyệt đối bí mật. Việc này chỉ có tôi và ông biết thôi. Ngày mai, tôi đi liền.
Ông Huyền sốt sắng hơn cả vợ:
- Sáng mai, bà phải dậy thật sớm, tránh không gặp ai càng tốt. Khi về, bà phải cất giấu thuốc thật kín đáo. Nếu gặp ai, bà phải nói chệch đi, đừng để họ sờ vào thuốc. Lời nói biết đi mà.
Nói xong, ông Huyền bỏ ra nhà ngoài nằm. Ông chẳng còn bụng dạ nào mà nghĩ tới chuyện kia nữa. Cái vùng nhớ bản năng của người đàn ông vụt biến mất. Bà ấy cũng không còn tâm trạng nào, hứng thú gì nữa. Nên không thấy bà ấy nhắc nhở đến chuyện ấy. Nhưng ông có ngủ được đâu. Ông thấy đau quá. Cha con lão Dân trả thù ông đây. Cú đánh này rất hiểm, đau lắm. Chỉ có ông mới biết. Cũng tại ông mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm với con. Cứ nghĩ chúng nó còn trẻ. Học nhóm, học tổ phụ đạo cho nhau. Ai ngờ phụ đạo lại “ phụ” luôn cái bụng cho ềnh lên. Chẳng biết, con ông được thêm bao nhiêu chữ nhưng được cái bụng to thì chắc rồi. Bà ấy nói đúng, nếu ông nổi nóng, làm ầm lên chỉ chuốc lấy vạ vào thân, lạy ông con ở bụi này. Phá đi là thượng sách, ba mươi sáu cách chẳng cách nào hơn cách này. “Phá! Phá!”. Nếu cái Huyền có xanh xao, gầy còm cứ đổ thừa là nó bị ốm. Có trời mới biết. Khi ấy, ông giữ dịt nó ở nhà. Ai biết đó là đâu? Thật may bà ấy phát hiện sớm. Để lâu thì cứ bụng nó như cái trống làng thì cứ gọi là bêu! Bêu cả lũ!
Bố Huyền dậy đun nước pha trà. Uống nước trà buổi sáng là thói quen của ông. Ngồi một mình nhâm nhi chén nước trà, ông thấy vợi bớt ưu phiền. Uống trà xong, ông đi nấu cơm, và nấu cám lợn. Sáng sớm, bà ấy và các con đã có cơm ăn đi làm. Hôm nay, mẹ Huyền dậy sớm hơn mọi ngày. Bà vội ăn bát cơm, xong là đi luôn.
Bố Huyền đánh thức các con dậy ăn cơm. Ngồi xuống mâm cơm vắng mẹ, các con nhao nhao hỏi mẹ đi mà không ăn cơm. “Mẹ có chút việc phải đi sớm! Mẹ ăn rồi.” Ông trả lời các con.
- Cái Huyền phải cố gắng, chịu khó ăn uống. Sức khỏe của con dạo này không được tốt. Sức khỏe là vốn quý của con người.
Nghe bố nói vậy, Huyền thấy nhẹ nhàng dễ chịu hơn. Chắc là đêm qua, mẹ đã nói với bố rồi. Ông bà thì thầm to nhỏ ở trong buồng mãi tới khuya. Nhưng tại sao bố quan tâm, lo lắng đến sức khỏe của Huyền? Tại sao việc động trời mà bố không nổi khùng? Chắc mẹ đã chuyền cho bố cái bình tĩnh, dịu dàng, ngọt ngào sáng nay. Con cám ơn mẹ! Nhưng đằng sau cái dịu hiền kia, chứa đựng điều gì trong đầu bố. Việc đó phải có thời gian kiểm nghiệm. Tại sao sáng nay, mẹ đi đâu sớm thế?  Việc gì mà gấp gáp vây? Bao nhiêu câu hỏi còn bỏ ngỏ, chưa có lời giải khiến Huyền ớn lạnh khắp cơ thể như có con rắn chạy dọc sống lưng. Tự nhiên Huyền thấy ngượng ngùng và xấu hổ với bố.  Huyền không dám nhìn thẳng vào mắt bố. Đôi mắt ấy vừa dịu hiền, vừa bốc lửa nghiêm khắc đổ về phía Huyền. Chị còn mặt mũi nào để nhìn bố mẹ và các em cũng như những người xung quanh. Việc làm của Huyền có ảnh hưởng tới các em không? Về mặt pháp luật, ai làm việc xấu thì người đó đắc tội. Nhưng người đời xem xét sự việc như thế cho đâu, mà nhìn nhận theo góc độ đức trị. Chị xấu thì các em cũng xấu. Chị có tính trăng hoa, dẫn đến chửa hoang thì các em cũng dễ đi theo vết xe đổ ấy. Thật tội nghiệp cho chúng. Bố mẹ cũng phải đội chung cái mũ “chửa hoang” cùng các con. Tuy nhiên mức độ khác nhau. Đẻ con ra mà không biết dạy. Con hư tại cha mẹ người đời vẫn thường nói thế mà. Mối lo lớn nhất đối với Huyền, liệu các em sau này có đi theo bước chân của chị không? Khi nghe bố gọi dậy ăn cơm, Huyền vâng vâng, dạ dạ mà thân thể cứ nằm bẹp xuống giường. Chị như con cò muốn bay không cất nổi cánh. Huyền suy nghĩ miên man, lung tung.
Ông Huyền đi thẳng vào buồng con gái. Ông nhẹ nhàng, âu yếm đặt tay lên trán con:
- Con sốt đây mà. Người con nóng như hòn than. Bố biết mọi nhẽ, mọi chuyện rồi. Việc đã vậy không thể ngồi yên mà chờ chết. Ai thương mình chứ? Việc này bố mẹ bàn tính kỹ rồi.
Huyền vùng trở dậy. Chị nhảy xuống đất. Chị quỳ dưới chân bố, miệng lắp bắp:
- Con chót dại! Bố tha tội chết cho con. Vì con mà bố mẹ phải đau lòng, khổ sở. Vì con mà bố mẹ phải mang tiếng xấu hổ với anh em với dân làng.
Ông Huyền nuốt hận vào lòng nói:
- Đứng lên đi! Con biết nhận lỗi là tốt. Dữ như hổ cũng không ăn thịt con. Bố nào lại giết con. Con tử tế, ấm no, hạnh phúc bố mẹ mừng và được nhờ. Con hư đốn, chửa hoang, ăn trộm, ăn cắp thì vẫn là con của bố mẹ. Bố mẹ không từ chối nổi đâu, người ta vẫn buộc vào cổ. Chỉ có điều con nhận ra khuyết điểm, nhận ra lỗi lầm to lớn là được. Từ nay, bố mẹ bảo gì con phải vâng lời làm theo, không được ương bướng chống lại. Bài học này đắt giá lắm, con phải nhớ đời, tu tỉnh và sửa chữa.
- Vâng ạ! Vâng ạ!
5. Mặc dù tiết trời chớm thu mà vẫn oi bức. Ngồi sắc thuốc ở cái bếp nhỏ, thấp tè tè, nóng từ bếp lửa tỏa ra, nóng của tiết trời khiến mẹ Huyền lấm tấm mồ hôi. Bà than phiền con cái làm khổ cha mẹ  Sắc thuốc lửa phải lâm râm và phải thường xuyên trông chừng kẻo nước thuốc cạn mà không biết. Cẩn thận vẫn hơn, thỉnh thoảng phải đong thử ra bát. Ấm thuốc sắc từ sáng tới gần trưa chỉ còn bát đầy. Bà Huyền nét mặt rạng rỡ, nhẹ nhàng bưng từ dưới bếp lên đưa cho con gái. Bà ngọt ngào, dịu dàng, dỗ con:
- Bố mẹ thấy con ốm đau, mệt mỏi không đành lòng, mẹ cắt cho con mấy thang thuốc bắc để con mau phục hồi sức khỏe, tiếp tục học tập và giúp đỡ gia đình. Con cố uống đi, không đắng đâu.
- Con xin! Mẹ cứ để đấy cho con. Con sẽ uống tức thì, chờ nguội bớt đã!
Huyền suy nghĩ mung lung. Chị có ốm đau gì đâu. Từ xưa tới nay, mỗi khi trong nhà có người ốm, dù to, dù nhỏ đều dùng thuốc tây mua của trạm xá. Tại sao hôm nay mẹ lại cắt thuốc bắc cho chị uống? Câu hỏi này chị không trả lời nổi. Cả bố mẹ đều biết chị có thai. Phụ nữ mang thai việc gì phải uống thuốc. Mẹ và những người xung quanh, khi mang thai có ai uống thuốc đâu? Bố mẹ thực sự thương con, thương cháu hay vì một lý do, một âm mưu còn được giữ kín. Tại sao bố mẹ không nói thật với chị. Vì sức khỏe của con gái hay vì sự sống còn của của cái thai. Chị và cái thai gắn liền máu thịt với nhau, không thể tách rời cái thai ra khỏi chị. Bảo vệ hay phá thai? Bảo vệ cái thai, chị có thể uống hàng trăm, hàng ngàn thang thuốc. Nhưng bố mẹ làm gì có tiền, cơm ăn chẳng đủ no, áo mặc chẳng đủ ấm lại bỏ tiền cắt thuốc cho con gái. Nếu làm phương pháp loại trừ thì rõ ràng, bố mẹ đang muốn giết cái thai trong bụng chị. Huyền thương con quá chừng. Nó là kết quả mối tình đầu giữa Dân và chị. Uống thuốc này, coi như chị giết đứa con của mình. Giết đi mối tình anh trao tặng chị. Đứa con là giọt máu anh gửi lại. Sau này gặp lại chị nói với anh thế nào? Cái thai là kết quả của tình yêu trong sáng như trăng rằm, như mùa xuân đầy hoa lá, là sự tự nguyện hiến dâng, là sự động viên, khích lệ anh đi chiến đấu. Anh không hề ép buộc chị. Vì thế chị không trách anh. Nghe lời bố mẹ, chị thoát khỏi cái “án” chửa hoang, bảo toàn  danh dự cho bố mẹ, gia đình và dòng họ. Chị đang lâm vào tình huống khó xử, giữ được con thì phụ lòng bố mẹ. Bố chị chẳng nói “cha mẹ nào nỡ giết con” đó thôi. Chị phải theo lời cha dạy. Nhưng chị không thể giết con mình. Lòng người mẹ ngăn cản chị làm điều ấy. Lòng chị thương con như biển rộng, sông dài vô tận. Người xưa nói: “Mẹ chết chống gậy vông”. Vì lòng mẹ thương con thẳng tuồn tuột, không có đoạn, có khúc nào cả. “Cha chết chống gậy tre” lòng cha thương con chia ra từng đoạn, từng khúc: Lý trí, tình cảm, giận hờn và yêu thương. Lòng thương con giúp người mẹ vượt qua mọi nguy hiểm, chông gai, thách thức. Người mẹ có thể chết vì con. Mẹ sống thì con sống. Mẹ chết thì con chết.
Mẹ Huyền mấy lần vào buồng giục con, bát thuốc vẫn còn nguyên, nguội ngắt. Bà quay trở lại nói với chồng:
- Ông ơi! Tôi nói năm lần bảy, lượt với nó. Chỉ thiếu cách tôi phải lạy nó thôi. Nó vẫn lặng thinh, câm miệng hến, không chịu uống. Ông bảo có tức không chứ. Làm thế nào bây giờ?
Bố Huyền ngồi lặng im. Một lúc sau ông nói:
- Bà cứ để nó đấy, mặc tôi. Chờ cho mấy đứa trẻ đi học, đi chăn trâu, tôi sẽ hỏi tội nó. Ngọt không nghe, già đòn non lý sự. Nó sẽ phải nghe. Bố Huyền đứng dậy đi xuống nhà bếp. Khi trở lại, tay lăm lăm cái đòn gánh đầy vẻ dữ tợn. Ông quát mấy đứa trẻ:
- Các con đi học, đi chăn trâu kẻo muộn. Mặc dù, ông biết hãy còn sớm. Mấy đứa trẻ sướng quá vội đi ngay. Ông Huyền cầm cái đòn gánh đi thẳng vào buồng con gái. Ông quắc mắt, đôi mắt đỏ lừ:
- Huyền!
- Dạ
- Dậy uống thuốc mau!
- Vâng! Vâng!
- Huyền vẫn nằm yên. Chị định bụng, ngậm một ngụm thuốc vào miệng cho có mùi, rồi đổ bỏ. Nhưng mẹ cứ ngồi lì ở giường. Chị không tài nào hành động nổi theo ý muốn. Nhìn cảnh tượng ấy, máu nóng ngùn ngụt bốc trong đầu bố Huyền. Ông bảo vợ ra cổng canh chừng, phòng khi có người bất chợt đến nhà. Ông chạy vội xuống bếp. Một lát sau, tay ông bưng một bát cơm và một bát cám lợn. Ông xăm xăm đi vào buồng con gái. Bà Huyền nói nhỏ với chồng:
- Ông phải nhẹ nhàng dỗ dành con. Đừng đánh nó mà tội nghiệp.
Ông đặt bát cơm và bát cám lợn xuống giường. Ông quát lớn:
- Huyền!
 Huyền giật bắn người lên. Mặt mày xanh lét, cắt không còn giọt máu.
- Mày có uống thuốc không? Đồ đĩ rạc đĩ dày kia! Đồ voi giày! Người ta tha gọt gáy bôi vôi, dắt như con chó đi bêu khắp làng rồi bỏ rọ buông sông lại còn lên nước. Tao biết mày báo hiếu cho bố mẹ như thế này thì tao bóp chết mày từ khi mới lọt lòng để khỏi phải nuôi ăn học từng ấy năm trời. Mày đền đáp công lao cho bố mẹ bằng cái bụng chửa hoang à?
Huyền nằm im, không nói, không nhúc nhích.
Chiếc đòn gánh vun vút quật xuống tới tấp. Cái quật vào người Huyền, cái nện xuống giường bịch bịch làm những chiếc giát giường gãy răng rắc. Một lần nữa Huyền giật bắn người lên. Lại một chiếc đòn gánh trúng người Huyền. Huyền buộc phải ngồi dậy. Bố Huyền chỉ vào bát cơm và bát cám lợn. Ông dằn từng tiếng:
- Đây là bát cơm và bát cám lợn. Bát cám lợn tượng trưng cho bát cứt. Mày muốn sống ăn cơm thì phải uống thuốc. Mày không uống thuốc thì ăn hết bát cứt này rồi tao sẽ cho mày chết. Huyền chưa kịp trả lời đã  nhận mấy cái đòn gánh vào mông. Nhìn đôi mắt đỏ ngầu như cá chày, dáng vẻ dữ tợn của bố, Huyền hoảng hốt vô cùng. Huyền bưng vội bát thuốc:
- Con xin uống! Con uống!
Cầm bát thuốc trên tay lòng Huyền đau xót như dao cắt từng đoạn. Chị định nói đôi lời với con trước khi uống. Bố lại gầm lên: “Uống đi! Còn chần chừ gì nữa”. Chị uống hết bát thuốc và những giọt nước mắt trong đó. Bát thuốc này kết liễu đời chị và đứa trẻ chưa chào đời. Con chết trước mẹ chết sau. Chị uống hai, ba lần mới hết bát thuốc, chị buông tay ra. Cái bát vỡ tan tành, mảnh vụn bắn tứ tung. Huyền nằm vật xuống giường. Thế là hết. Cuộc đời mẹ con chị tan như cái bát.
Bó Huyền bỏ ra ngoài. Ông chạy ra cổng bảo vợ vào dọn.
Huyền vừa sợ hãi, vừa đau ê ẩm khắp người bởi những vết đòn gánh nện vào cơ thể. Chị nằm thiếp đi.
Bà Huyền dọn dẹp xong những mảnh bát vỡ, cất bát cơm, bát cám xuống bếp. Quay lên nhà bà nói với ông:
- Ông đánh con đau thế. Tôi cứ tưởng ông chỉ dọa thôi!
- Bà lại còn thương nó à?. Tôi dọa là chủ yếu. Nó chỉ mới ăn vài cái đòn gánh thôi. Tôi mà phang vào đầu thì nó chết toi rồi!
Thỉnh thoảng, mẹ Huyền lại vào buồng để dò xét và canh chừng. Nhỡ nó quấn trí làm liều thì khốn. Lòng bà quặn đau khi nghĩ đến đứa con gái.
Khuya lắm rồi mới thấy Huyền trở dậy. Nghe tiếng kẹt cửa, bố mẹ Huyền cùng thức giấc. Bà bám theo con gái đi ra sân. Bà đứng nấp sau đống rơm. Chờ con gái đi vào trong nhà. Bà soi đèn đến nơi con gái vừa đi tiểu. Bà rón rén đến bên giường chồng. Bà cúi xuống nói khe khẽ;
- Vẫn bình thường! Cái thai khỏe quá. Uống một thang thuốc mà chưa kết quả gì.
Bố Huyền ngồi dậy thì thầm với vợ:
- Càng tốt! Con Huyền sẽ không ngờ đây là thuốc phá thai. Sáng mai, bà sắc tiếp thang nữa. Nó sẽ uống ngay cho mà xem. Nó sẽ nghĩ tôi và bà lo lắng, bảo vệ sức khỏe cho nó. Tôi và bà không phải ép buộc nữa.
Sáng hôm sau, Huyền tỉnh táo hơn, đỡ mệt mỏi hơn. Nhưng người còn đau ê ẩm vì bị những vết đòn gánh nện vào người để lại vết tím bầm.
Buổi trưa, chị ăn hai bát cơm. Chị lại lên giường nằm. MẹHuyền bưng bát thuốc cho con gái. Huyền nhanh nhảu, ngồi dậy bưng bát thuốc uống một hơi hết sạch. Bà nở nụ cười mãn nguyện, bõ công bà sắc thuốc. Uống xong, Huyền nghĩ nếu là thuốc bổ như bố mẹ nói thì càng tốt. Nếu là thuốc phá thai thì đây là sự nối tiếp việc đã rồi, cầm dao bồi thêm cho con một nhát nữa, một liều ba bảy cũng liều.
Một tuần sau, Huyền tỉnh táo hẳn. Các vết bầm cũng biến mất. Chị lại tươi tắn, xinh đẹp như xưa. Chị đi đứng nhanh nhẹn, dịu dàng hơn. Những cử chỉ của chị như thách thức bố mẹ. Bố Huyền giận dữ ra mặt. Ông đứng ngồi không yên. Mẹ Huyền buồn rười rượi, ăn không ngon, ngủ không yên. Ông gọi bà tra vấn:
- Bà cắt thuốc ở đâu? Tôi chẳng thấy kết quả gì? Thuốc phá thai thành thuốc dưỡng thai, có nhục không chứ. Bây giờ biết nói với nó thế nào đây?
Bà như người có lỗi, bà thành thật khai trước “quan tòa”:
 - Tôi cắt thuốc của ông lang Đức người làng Thượng. Hôm ấy, khi tôi đến cắt thuốc người rất đông. Chờ cho hết khách, tôi mới thưa chuyện với thầy: - Thầy hỏi tôi bệnh gì?
- Dạ thưa thầy! Tôi không bệnh tật, ốm đau gì cả. Tôi cắt thuốc phá thai. Vì năm nay, tôi gần năm mươi rồi, lại có sáu đứa con. Bây giờ có thai sợ dân làng chê cười, nhất là đang khuyến khích đẻ ít. Kinh tế gia đình tôi rất khó khăn. Sáu đứa con của tôi lại trứng gà, trứng vịt, còn hai bố mẹ già. Mười miệng ăn cả thẩy, cơm ăn chẳng đủ, nhiều khi phải ăn cháo sắn. Vợ chồng tôi đã bàn bạc kỹ và thống nhất bỏ cái thai này. Trăm sự nhờ thấy giúp đỡ. Đấy, phải bịa ra như thế cho thầy tin.
Suy nghĩ một lúc thầy dạy:
- Tôi theo ý bà tức là tôi giết con bà. Làm vừa lòng bà, tôi phạm tội giết người. Phúc chẳng thấy đâu mà tội cao như núi.
- Tôi cắn rơm cắn cỏ, lạy thầy! Thầy thương vợ chồng chúng tôi. Tôi khóc tức tưởi. Trước còn khóc nhỏ, sau khóc to hơn. Hình như thầy cũng động lòng. Thầy suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Thôi được! Nể tình bà, tôi làm theo yêu cầu của bà. Nhưng bà phải giữ kín việc này. Việc này mà vỡ lở, tôi và bà phải ngồi tù đấy. Tù mọt gông. Thời bây giờ phá thai coi như giết người.
Bố Huyền bật cười, nói:
- Bà bịa tài thật. Nói dối cứ như thật. Đến tôi cũng phải tin sái cổ. Thầy lang cũng chẳng vừa, miệng nói một đường nhưng tay làm một nẻo và cũng như thật. Tôi xin bái phục cả hai. Thế là thầy không cắt thuốc phá thai cho bà. Trái lại, thầy cắt thuốc dưỡng thai. Đúng là ông Lang Đức. Cái thai vẫn bình yên vô sự. Nó còn đó. Cái Huyền xem chừng  tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn mọi ngày. Và mẹ con nó đang thách thức tôi với bà. Bây giờ biết tính sao đây?
- Làm thế nào bây giờ, ông nói đi?
Bố Huyền dằn từng tiếng:
- Con dại cái mang. Tôi với bà phải đến nhà lão Dân, quỳ xuống mà lạy vợ chồng người ta. Cầu xin người ta nhận con, nhận cháu.
- Nhận thế nào được? Mẹ Huyền hỏi chồng.
- Điều đó không có gì khó khăn. Bà lại bịa ra chuyện tương tự như cắt thuốc của thầy lang Đức.
Mẹ Huyền lo lắng nói với chồng:
-Vấn đề lo nhất, liệu nhà họ có chịu nhận không? Ai đi làm việc này?
- Tôi nhắc lại, chỉ có tôi với bà mới làm nổi việc này. Quỳ xuống mà lạy người ta. Nhục cũng phải làm.
Mẹ Huyền vốn là người khôn khéo, biết nhìn xa trông rộng. Sau một lát suy nghĩ, cân nhắc, bà nói với chồng:
- Không được! Ông vốn tính nóng nảy, hơn nữa, ông và tôi đến nhà họ lành ít dữ nhiều. Tránh sao khỏi việc nói qua, nói lại thành hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại. Cãi nhau, xô xát nhau là cái chắc. Mình nói nhỏ họ làm ầm lên thì nguy. Tôi tính rồi. Tốt nhất, vợ chồng mình nhờ bà Tèo nói giúp. Bà Tèo là người biết ăn nói, con kiến trong hang cũng phải bò ra. Bà Tèo là chỗ thân tình với nhà mình, anh em ruột không bằng. Bà Tèo còn là chị con ông anh của vợ lão Dân. Bà ấy mới đủ tài, đủ điều kiện đứng ra thu xếp việc này.
Ông Huyền tỏ vẻ tán thành gật gù.
- Được lắm. Bà vợ của tôi giỏi lắm, một người biết lo bằng kho người biết làm. Bà đi ngay không nên chậm trễ.
Mẹ Huyền đi khỏi nhà. Bố Huyền như người ngồi trên đống lửa, cứ thấp thỏm lo âu. Ông cảm thấy xấu hố và tủi nhục quá. Ông suy nghĩ mung lung. Nếu vợ chồng lão Dân nhận con, nhận cháu, bước tiếp theo phải làm gì. Nếu anh Dân còn ở nhà tổ chức đám cưới là xong chuyện. Mọi việc êm ru. Nhưng khốn nỗi, Dân đang chiến đấu chiến trường miền Nam. Khó quá. Nhưng khó mấy cũng có cách giải quyết miễn là được hai gia đình chấp thuận. Nếu vợ chồng lão Dân từ chối thì sao? Câu hỏi hắc búa quá không có lời giải. Thú thật ông chưa nghĩ tới.
Đêm ấy, trăng thượng tuần đã gác núi. Gió thổi nhè nhẹ, mát rười rượi.  Bố Huyền trằn trọc mãi chẳng tài nào ngủ nổi. Mong mãi chẳng thấy bà ấy ra. Ông đành rón rén, dò dẫm, nhẹ nhàng mò vào buồng vợ. Bà ấy ngáy đều đều, nho nhỏ. Ông khẽ khàng ngồi xuống giường và nằm xuống bên vợ. Bà ấy tỉnh giấc, bằng động tác quen thuộc, ôm ghì lấy chồng. Ông hỏi nhỏ:
- Bà Tèo trả lời thế nào?
- Tôi định nằm nghỉ một chút nữa sẽ ra nói với ông. Nhưng mệt quá nên ngủ thiếp đi. Bà Tèo rất nhiệt tình, theo bà ấy việc đó nên làm: “Tôi sẽ bảo vợ chồng nhà Dân. Chắc là xong thôi!” Ngày mai bà ấy sẽ trả lời. Ông Huyền buông tiếng thở dài:
- Lại chờ đợi. Chờ đến bao giờ. Chờ đến khi nó đẻ con ra đấy à?: “Đau đẻ lại chờ sáng trăng”.
Bà khẽ tát yêu vào má chồng:
- Mình mới nói với người ta lúc tối nay. Ngày mai, bà ấy mới đến gặp nhà Dân được chứ. Mình chỉ nóng vội thôi.
- Sốt ruột quá nên chẳng nhớ gì.
Hình như chỉ đêm nay, ông bà mới thảnh thơi. Vùng nhớ của giống đực, giống cái thức tỉnh hai vợ chồng. Lâu mới gặp,  người già, nhưng tình không già. Họ vui vẻ, để mà tạm khuây khỏa. Nhưng cả hai đều hăng hái, nhiệt tình như thời trai trẻ.
Mấy hôm nay, Huyền dõi theo mọi hành động của bố mẹ. Mẹ đi lại như con thoi. Mẹ đi đâu? Đêm hôm khuya khoắt mà bố mẹ còn rì rầm, bàn bạc với nhau ở trong buồng. Mọi khi có thế đâu? Tuy không biết chính xác, nhưng chị đoán bố mẹ đang bàn tính về cái thai trong bụng chị. Trước sau như một, Huyện tự nhủ Mẹ sống thì con sống, mẹ chết thì con chết. Nhân lúc bố vắng nhà, chị hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Con hỏi thật mẹ điều này, mẹ đừng giấu con. Bố mẹ định xếp đặt việc của con và cháu như thế nào? Con thấy bố mẹ bàn bạc liên tục.
- Cha bố chị! Chúng tôi vất vả, đeo mo vào mặt cũng chỉ vì cái bụng của chị. Chị cứ để chúng tôi lo liệu. Chúng tôi muốn hai gia đình ngoảnh mặt lại nhìn nhau, hòa thuận với nhau, cùng nhận con, nhận cháu. Nhưng điều đó không thuộc quyền bố mẹ quyết định. Người quyết định số phận của con thuộc về phía nhà ông Dân. Làm thân con gái, khôn ba năm dại một giờ nên nhục thế đấy. Bố mẹ phải xuống thang nhờ người đến nói khó, kêu gọi lòng từ bi của gia đình họ. Nói cách khác là phải quỳ gối, cầu xin họ. Nhưng vẫn chưa có tin tức hồi âm. Chị đã hiểu cho nỗi nhục của người làm cha làm mẹ chưa?
Bố Huyền đi làm về. Bà kéo ngay chồng vào buồng. Vợ chồng lại to nhỏ, thì thầm với nhau. Ông biết bà định nói gì rồi. Lòng ông thấp thỏm, lo âu. Trái tim ông cứ đập thùm thụp, những mong những điều tốt lành đến với vợ chồng ông. Huyền đứng sau nhà nghe trộm. Nhưng bố mẹ nói nhỏ quá nên chỉ nghe câu được câu chăng.
- Ông ơi! Không ổn rồi. Họ nói rằng: Nhà họ là gia đình gia giáo nhất làng này. Thằng Dân là đứa con ngoan, học giỏi. Nó sống rất mẫu mực, lễ phép, hiểu đạo lý làm người biết kính trên, nhường dưới. Nó không phải là đứa hư hỏng, sống buông thả, chơi bời lêu lổng. Nó không bao giờ làm việc ấy. Cái Huyền, con nhà vô học, bố cu, bố đĩ. Gia đình gia phong không nền nếp. Con cái hư hỏng là điều không tránh khỏi. Cái Huyền nó ăn nằm với ai có trời mà biết, bây giờ đổ vạ cho thằng Dân chứ gì. Từ xưa tới nay, thằng Dân không một lần nói dối cha mẹ. Giả thiết, thằng Dân lỡ đi lại với con Huyền, trước khi đi nó phải nói với chúng tôi chứ. Nếu thằng Dân dặn lại, chúng tôi sẵn sàng nhận con, nhận cháu. Muốn đổ vạ cho nó thì cứ kêu toáng lên để dân làng cùng nghe. Nó đâu cãi lại. Nó đang đánh giặc ở miền Nam kia kìa. Tại sao không đổ cái vạ cho thằng nào ở nhà, ném con vào nhà nó? Đúng là gái đĩ già mồm. Khôn hồn thì bảo nhau câm miệng lại. Họ khôn ngoan, ranh ma nên mới nhờ bà đến nói giùp. Vợ chồng nó mà vác mặt mo tới đây, tôi sẽ đập cho vỡ mặt để chừa cái thói vu khống, ăn không nói có. Thằng bố nó là tên Sở Khanh chính hiệu, quân lừa đảo con nhà lành tự nó biết cách giải quyết. Không phải nhờ đến bà đâu.
Nghe đến đó, bố Huyền gầm lên như con thú bị thương, cứ lồng lộn lên mà chẳng làm gì nổi ai. Ông nằm vật xuống giường như cây cổ thụ đổ đánh uỵch một tiếng. Mặt ông tái nhợt như người chết đuối vừa vớt lên. Nước da xanh như tàu lá chuối. Miệng ông cứng lại, không nói, không rằng. Mẹ Huyền sợ hãi, hốt hoảng nhưng không dám kêu to, giấu kín không cho anh em, con cháu biết. Bà lặng lẽ, lấy dầu gió xoa vào thái dương và khắp người chồng. Bà ôm đầu chồng lắc lắc gọi:
- Bố cái Huyền! Bố cái Huyền!
Bố Huyền từ từ tỉnh lại. Ông cảm thấy đau đớn, mệt mỏi quá chừng. Ông vẫy tay ra hiệu:
- Bà để tôi nằm nghỉ.
Mẹ Huyền hiểu ý chồng. Bà ngồi tiếp tục xoa dầu và nặn bóp cho chồng. Một lúc sau, bố Huyền ngủ thiếp đi. Hôm sau, ông tỉnh dậy, ông thấy người mệt mỏi, buồn rầu như cái cây bị héo. Ông nặng nề khi cất tiếng nói, khó khăn lắm mới tìm thấy tiếng cười.
Mẹ Huyền dịu dàng, nhỏ nhẹ nói với chồng:
- Thôi ông đừng nghĩ ngợi nữa. Ông nghỉ ngơi cho khỏe, đằng nào thì ván đã đóng thuyền rồi, ta mang ra mà dùng. Con dại cái mang, đã xấu thì xấu rồi. Vợ chồng mình đành giơ cái mặt thớt cho thiên hạ cười chê. Nó tài giỏi thì được nhờ con. Nó chửa hoang thì vẫn là con tôi, con ông.
Bố Huyền bức xúc nói với vợ:
- Đây là sự trả thù đểu cáng, hèn hạ của cha con lão Dân. Tôi thề không nhìn mặt nó. Rồi nó sẽ biết tay tôi, lành với bụt chứ không ai lành với ma. Nó là kẻ gieo gió ắt phải gặp bão.
- Ông bảo, nhà họ trả thù nhà mình nghĩa là thế nào? Xưa nay, tôi thấy nhà mình và bên ấy có to tiếng gì đâu, không cãi cọ nhau, không đánh chửi nhau. Chuyện xảy ra thế nào mà ông nói vậy?
6. Trời sáng từ lâu. Mặt trời lên cao hơn ngọn cây, rọi những tia nắng vàng rực rỡ xuống đất trời phương Nam, chiếu xuống những cánh rừng nhiệt đới bị bom na-pan, chất độc hóa học. Tiếng chim rừng ríu ran chào bình minh vừa tỉnh giấc. Dân từ từ tỉnh lại sau nhiều giờ ngất lịm. Anh mở mắt nhìn bình minh. Nhưng một chân đau nhức, khiến anh không tài nào đứng dậy nổi. Ngực tưng tức khó thở như có ai dùng đôi tay đấm vào ngực và bóp vào cổ. Cái đói, cái khát lại hành hạ anh dữ dội, muốn đánh gục anh. Dân nhìn thấy hố nước trong veo, có sức lôi cuốn anh đến kỳ lạ, như con ong nhìn thấy bông hoa vừa mới nở. Miệng Dân khô cháy. Anh dùng hết sức lực còn lại, cố lết xuống hố nước. Khi tới miệng hố thi sức lực đã kiệt. Anh đành nằm trên miệng hố. Khi sức lực đã khỏe khoắn hơn sau đợt nghỉ, anh lại tiếp tục lết tới hố nước. Anh dùng hai tay vốc nước lên miệng, Nước từ từ chảy xuống dạ dày. Nước đi tới đâu, anh thấy dễ chịu tới đó. Anh như người vừa được uống nước thần. Anh tỉnh táo hơn. Nhưng còn cái đói thì lấy gì để giải quyết đây? Bụng cồn cào khó chịu quá. Nó quặn lên từng cơn, réo èo èo. Anh cảm thấy lả đi. Anh dự định nghỉ lấy sức, lết khỏi hố nước, vào rừng kiếm lá cây, hoặc cái gì đó bỏ vào bụng.
Bỗng Dân thấy có tiếng bước chân người, chạy rầm rầm phía trên. Tiếng chân người ngày một nhiều, một gần. Anh nằm yên để nghe ngóng. Có tiếng kêu:
- Một tên Việt cộng nằm bên cạnh hố nước.
Dân biết ngay là tụi lính ngụy. Nhưng anh bất lực, chân què, người đang lên cơn sốt. Cả cơ thể nóng như một hòn than khổng lồ. Phải chi lúc này, còn vài quả lựu đạn và khẩu K54 không bị văng mất, anh sẽ cho bọn chó đẻ biết mặt. Nếu anh phải hy sinh ít nhất cũng vài tên chó đẻ phải đền tội, bỏ mạng. Dân thở dài, chấp nhận là kẻ bị bắt sống trong cảnh tù đầy. Anh sẽ bị chúng đánh đập, tra tấn cực kỳ độc ác, tàn nhẫn và đối xử như một con vật, chẳng biết sống chết thế nào? Nhưng dù phải chết, anh quyết giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Anh nằm im.
Tên sĩ quan ra lệnh:
- Chúng bay xuống mang nó lên đây.
 Hai tên lính được tên sĩ quan giao nhiệm vụ liền lao xuống hố nước, lao thẳng tới nơi Dân nằm. Một tên lật ngửa Dân lên. Nó đặt tay lên ngực, lên mũi. Nó kêu to lên:
- Thằng này còn sống!
Tiếng tên sĩ quan gào thét:
- Khiêng lên đây cho tao!
Hai thằng lính buộc phải mó tay, chung lưng đấu sức khiêng Dân tới trước mặt tên sĩ quan. Từ hố nước lên tới mặt đất, dốc dây diều, gồ ghề khó đi. Hai tên lính vừa phải mang súng bên mình vừa phải khiêng nặng, khó nhọc. Chúng chửi bới, nguyền rủa lẫn nhau:
- Mày ngu như con chó! Mày bảo “nó chết rồi” tao với mày hất nó xuống hố nước là xong. Cái hố bom to lớn thế này ai biết đâu mà tìm. Cho nó về chầu diêm vương mát mẻ. Bây giờ, tao với mày phải khiêng nó như khiêng bố già. Thật là nhục! Ngu ơi là ngu.
Thằng kia tức quá chửi lại:
- Câm miệng lại! Bảo nó chết đâu dễ dàng thế. Tên sỹ quan này ranh ma lắm, cử người xuống kiểm tra thì chết cả lũ. Liệu mày có chịu nổi mấy cái báng súng không? Nó còn trừ lương nữa, thì chết đói và còn bao lời xỉ vả, mắng chửi nữa. Tên kia sợ quá, mó tay khiêng vội.
Hai tên lính đặt Dân nằm xuống đất. Tên sĩ quan lấy chân hất lăn Dân qua bên này, bên kia. Dân như một khúc gỗ. Tên sĩ quan nói:
- Thằng này bị thương và bị ngất. Chúng nó vội rút lui, đứa nào cũng muốn thoát thân nên bỏ thằng này lại. Đồng đội của chúng nó tốt thế đây. Chúng bay mở mắt ra mà nhìn. Quân lực Việt Nam Cộng hòa không bao giờ bỏ chiến hữu như tụi nó. Mặt mũi thằng này rất sáng sủa chưa chắc đã phải lính trơn. Biết đâu trong đầu nó chứa đựng đầy những bí mật mà chúng ta cần khai thác và sử dụng vào những công việc cần thiết sau này.
 Nó lập tức ra lệnh:
- Đưa thằng này lên xe, cho nó vào bệnh viện, chạy chữa khỏi cái chân để moi những bí mật trong đầu nó. Về Sài Gòn, tao sẽ họp báo tuyên truyền về lòng “nhân đạo” của Việt Nam Cộng hòa và tố cáo cộng sản bỏ đồng đội bị thương nằm lại, một mũi tên trúng hai đích.
Tên sĩ quan rất hài lòng về quyết định này. Nó cười khùng khục hy vọng cấp trên sẽ biểu dương khen thưởng nó. Mọi việc diễn ra đúng như dự kiến và mưu mô xảo quyệt của hắn.          
Nằm ở bệnh viện quân ngụy, Dân được “chăm sóc” thật đặc biệt như một “anh hùng”, một kẻ có công trạng với nền cộng hòa của chúng.  Nơi Dân nằm, có lính canh gác vòng trong, vòng ngoài. Vòng ngoài là những tên lính thực sự, súng ống hẳn hoi. Người bình thường cũng nhận biết chúng là lính. Ở vòng trong là những tên lính giấu mặt, ăn mặc giả danh thầy thuốc. Các thầy thuốc: Bác sĩ, y tá và hộ lý phải nhất nhất tuân theo sự chỉ huy, điều khiển từ xa. Tên sĩ quan an ninh, mặc quần áo trắng mang phù hiệu thầy thuốc theo dõi Dân rất chặt chẽ, không bỏ qua chi tiết nào dù là nhỏ. Tên này người tầm thước, mặt mũi sạch sẽ, râu lúc nào cũng cạo nhẵn thín. Đôi mắt to và sâu, trắng dã như mắt lợn luộc. Cái mũi khum khum nhòm mồm. Nước da thiết bì, đen xì. Đặc biệt điệu cười của gã luôn thay đổi theo sắc thái tình cảm. Khi gã cười: Khà khà,  hề hề, ha ha và hí hí… rất khó hiểu. Tiếng nói của gã thong thả, chậm chạp phát ra từ vòm họng, qua hàm răng nghe rin rít ghê người khó chịu. Quần áo gã lúc nào cũng sạch sẽ, tỏ vẻ lịch lãm. Gã cười đấy nhưng lại cáu gắt, thô lỗ được ngay.
May mắn, vết thương không làm cho Dân phải cưa chân, chỉ cần bó bột và điều trị một thời gian là khỏi. Ngực Dân bị sức ép nhưng được điều trị thì sẽ ổn. Khi nghe bác sĩ nói vậy, tên sĩ quan an ninh cười khà khà nói:
- Cưa phắt cái chân nó đi! Chỉ tha cho nó mạng sống thôi. Nhưng sống cũng không đánh đấm gì được nữa, là người tàn phế suốt đời.
Bác sỹ kiến nghị với gã:
- Không cần cưa! Với cái chân này, nó chẳng làm trò trống gì được đâu. Tha cho nó một lần nữa.
Thằng sĩ quan an ninh nói:
- Các ông “nhân đạo” dữ nhỉ! Thôi được. Gã để lại cái cười bí ẩn rồi bỏ đi.
Ba ngày sau, Dân tỉnh táo hoàn toàn. Tuy người vẫn còn sốt, ngực đau ê ẩm. Tên sĩ quan an ninh mặc áo trắng đến giường bệnh, hỏi:
- Anh tỉnh hẳn chưa? Chân còn đau không? Anh chịu khó điều trị cho vết thương mau lành.
Dân cảm thấy ghê sợ và bỉ ổi bởi cái giọng nhân đức giả của hẳn, nhưng Dân vẫn gật đầu đáp lại.
Hai ngày sau gã lại tới. Gã nêu ra vài câu hỏi, buộc Dân phải trả lời:
- Tôi là người lính bị thương. Tôi bị các ông bắt đưa về đây.
Gã cười sằng sặc rồi ngọt nhạt nói với anh:
- Điều đó, tôi biết rồi. Tôi muốn anh thành thật và biết điều hơn. Rồi hắn đe dọa: Anh nên nhớ tính mệnh của anh đang nằm trong tay chúng tôi. Chúng tôi có thể cho anh sống và cũng có thể bắt anh chết bất kỳ lúc nào. Anh nhớ chưa? Chúng tôi sẽ hết lòng chạy chữa vết thương cho anh, không phải để anh nói điều ấy. - Hắn vỗ nhẹ vào người Dân - Anh nên biết điều một chút.
Dân im lặng. Gã cười nhếch mép, không thành tiếng, lại vỗ vỗ vào vai anh:
- Anh cứ yên tâm điều trị và tiếp tục suy nghĩ. Chúng ta sẽ nói chuyện vào dịp khác.
Nhìn thái độ của tên sĩ quan an ninh, Dân có thể đoán được ý đồ của nó. Chúng chữa chạy vết thương cho anh để thể hiện lòng “nhân đạo”. Nhưng âm mưu sâu xa của chúng là chữa vết thương của anh mau lành, đầu óc minh mẫn sẽ khai thác ở anh những điều chúng cần biết.
Chừng một tuần sau, tên sĩ quan an ninh ngụy lại tới. Hắn xem vết thương ở chân Dân rất kỹ. Hắn hì hì cười rồi nói với Dân:
- Cái chân của anh sắp khỏi rồi, sức khỏe của anh cũng sắp hồi phục. Chúng ta sẽ có dịp nói chuyện thân thiện với nhau trên tinh thần người lính, người Việt Nam, máu đỏ da vàng. Anh vui lòng chứ!
 Dân im lặng. Sức khỏe của anh dần dần hồi phục. Cái chân đã tháo bột. Anh có thể chống nạng đi lại. Nhưng anh chỉ có thể chống nạng đi lại trong bệnh viện. Nếu ra khỏi cửa là có người ngăn lại: “Tôi có cánh đâu mà sợ bay mất”. Anh vui vẻ trả lời người ngăn anh lại. Người ấy lại khéo léo trả lời “Chân của anh chưa khỏi hẳn, sợ anh ngã nên phải có người đi kèm. Ở đây, anh mọc cánh cũng chẳng thoát đâu”.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Khi tri thức bị đánh cắp 2 Tháng Tư, 2022 Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp l...