Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 3b

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 3b

NHỮNG LÁ THƯ MÀU XANH
Mặc dù tôi kiếm tiền không đến nỗi nào và rất tán thành việc phụ nữ làm đẹp song Hương Thảo vợ tôi hầu như không thích may sắm quần áo, đồ trang sức, cũng không bao giờ đến các trung tâm thẩm mỹ như mấy nữ đồng nghiệp và đám con gái thời nay.
Nhưng cô ấy lại có một hứng thú đặc biệt là viết thư…
Tuần nào cô ấy cũng viết thư vào các ngày thứ ba, năm, chủ nhật. Mỗi ngày một lá. Có khi cô ấy dành cả buổi chiều chủ nhật để viết thư. Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày, là năm mươi hai tuần, trung bình mỗi tuần ba lá, vị chi là một trăm năm mươi sáu lá thư một năm. Cô ấy duy trì việc viết thư một cách đều đặn như một nề nếp, như một nỗi đam mê, không bao giờ vì bất cứ lý do gì mà quên viết thư, và cô cứ tự đạp xe ra bưu điện cách đó một kilômét để gửi thư…
Cô ấy còn có một thói quen đặc biệt nữa là rất chăm đến nghĩa trang liệt sĩ. Hầu như ngày rằm, mồng một, ngày lễ nào cô cũng đến đó lần lượt thắp hương cho hàng chục ngôi mộ trong nghĩa trang, mặc dù họ hàng nhà chúng tôi không có ai là liệt sĩ cả.
Nói thật, tôi không quan tâm là cô ấy viết thư cho ai và tại sao lại đến nghĩa trang liệt sĩ. Vì những cái đó không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của tôi. Cô ấy vẫn chu đáo và không quên điều gì làm cho tôi hài lòng. Về việc viết thư thì tôi có thắc mắc, một vài lần tôi để ý liếc những lá thư cô ấy đặt trên bàn chuẩn bị đem đi gửi và thấy đề: “Con gái gửi bố mẹ…”. Thế là ổn. Tôi chẳng dại gì đả động đến chuyện đó vì chính tôi đã khiến cô ấy phải xa bố mẹ, xa gia đình cô ấy. (Trước khi cưới tôi đã thỏa thuận sẽ không bắt cô đi đâu rời xa cái thị trấn nhỏ bé của cô. Nhưng mới được một thời gian ngắn thì tôi đột ngột phải chuyển công tác vào Nha Trang. Tất nhiên là cô ấy phải đi theo tôi).
Mãi đến mùa hè năm nay, tôi mới có điều kiện đưa vợ con về quê ngoại. Nghe tin ấy, mắt cô sáng lên nhìn tôi đầy biết ơn. Cũng  đã gần bốn năm. Mặc dù xe cộ sẵn song công việc cứ cuốn đi, phần nữa vì Hương Thảo bận sinh con nên đến năm nay tôi mới thực hiện được lời hứa là mỗi năm đưa cô ấy về thăm quê ít nhất một lần. Tuy nhiên 3 năm qua tôi không thấy Hương Thảo nhắc nhở, cũng không giận dỗi gì. Quả thực tôi đã rất biết ơn vì điều đó chứng tỏ cô hiểu và thông cảm với tôi.
Vừa nghe tin vợ chồng tôi về, họ hàng đến chơi rất đông. Cả hàng xóm và bạn bè. Dù thực lòng không hứng thú và mệt mỏi vì sự quan tâm thái quá ấy, song chứng kiến cái cách mọi người vui mừng khi vợ tôi trở về, tôi cũng phải thầm nể phục cô ấy, và trong lòng dâng lên một cái gì giống như là tình yêu, hoặc là cảm giác hãnh diện.
Đến buổi tối thứ hai thì cô ấy để tôi ở nhà, còn cô bế cu Bi đi chơi. Buổi tối thứ ba, thứ tư cũng vậy. Tôi hài lòng và lấy làm biết ơn vì điều đó chứng tỏ vợ tôi vẫn luôn hiểu tôi. Trừ khi là những cuộc giao tiếp bắt buộc vì công việc, tôi chỉ thấy hứng thú khi đi chơi cùng với những người bạn, còn với họ hàng thì quả thực… tôi thích ngủ hơn. Và tôi thường đền đáp sự tế nhị của Hương Thảo bằng cách chủ động đưa cho cô ấy số tiền đủ để cô giao tiếp họ hàng và bạn bè.
Có một lần, tôi buột miệng nựng thằng con khi bế nó đi dạo ở bên bờ sông:
- Bi đi chơi với mẹ có vui không?
Thằng bé hồn nhiên đáp: - Có ạ.
Tôi vui miệng hỏi tiếp: - Vui như thế nào nào?
Cu cậu tỏ vẻ rất hứng khởi: - Nhà ông bà có nhiều con chim đẹp lắm. Nó kêu chích chích chích.
- Ông bà nào cơ?
- Ông bà ở đằng kia kìa. - Thằng bé hồn nhiên chỉ tay qua bên kia sông. - Đấy, nhà ông bà đấy.
Tôi nhìn theo tay thằng bé chỉ và thấy lạ là chưa bao giờ Hương Thảo kể cho tôi nghe về một người họ hàng nào ở bên kia sông. Tôi tò mò hỏi tiếp cu Bi:
- Tối nào mẹ cũng đưa Bi sang nhà ông bà chơi à?
- Vâng ạ.
- Thế hôm nay Bi đưa bố sang nhà ông bà chơi đi.
Thằng bé nghe thế thích quá trườn khỏi tay tôi chạy lon ton về phía trước dẫn đường.
Một bà già ra mở cổng cho chúng tôi vào. Bà tỏ vẻ mừng khi nhìn thấy cu Bi còn cu Bi thì chạy lại ôm chầm lấy bà như là quen thân lắm. Bà già nắm tay cu Bi ngẩng lên nhìn tôi, như lạ, như quen, nửa mừng vui nửa e ngại. Tôi không biết phải nói gì đành chào một câu xã giao rồi theo bà vào nhà.
-  Anh là… Bà già ngập ngừng rót nước mời tôi… bố cu Bi…
- Dạ, vâng ạ. Tôi lễ phép đáp, vẫn chưa biết phải bắt đầu như thế nào.
 - Thật quý hóa quá. Ông nhà nó ơi. Bà quay ra cửa gọi vọng ra vườn. Ông ơi, nhà có khách này, bố thằng Bi đến nhà mình chơi này.
 Tôi thật sự bối rối không hiểu tại sao mình lại được tiếp đón nhiệt tình như vậy. Từ ngoài vườn cây xum xuê, một ông già đi vào, dáng chậm rãi và điềm đạm.
- Con chào ông. Dạo này ông có khỏe không ạ? - Tôi cố nhớ một câu mà Hương Thảo hay nói khi gặp người già để nói trong hoàn cảnh này cho đỡ ngượng.
- Ơn trời, nhờ thằng Nam nó phù hộ nên ông bà già vẫn khỏe. - Bà già nhanh miệng trả lời. - Nhưng công lớn nhất phải kể đến con Thảo, nó làm cho ông bà già này nếu ốm là thấy có lỗi với nó.
- Dạ…
- Anh cũng đỡ rồi chứ. Con Thảo bảo mấy hôm rồi anh mệt.
- Dạ… - Tôi ngơ ngác.
- Con Thảo ăn ở hiền thảo nên trời phật cũng thương, lấy được anh là người hiểu biết, rộng lượng, là phúc cho nó, cũng là an ủi hai ông bà già này. - Bà già đưa tay chấm mắt, giọng nói xúc động.
Quả thực là tôi không hiểu gì. Thấy bà khóc tôi vô cùng bối rối, đành nói bừa: - Dạ, có gì đâu ạ.
- Hôm nghe tin anh với con Thảo về, tôi có định bảo ông nó sang cảm ơn, nhưng hôm sau con Thảo sang nó gàn mãi nên lại thôi. Anh thật đức độ quá, vẫn còn mệt mà đã sang thăm.
- Dạ, con có làm được gì cho hai bác đâu ạ. - Tôi nói rất thật trong sự ngỡ ngàng.
- Cũng xin được thưa lại với anh, - Ông già từ khi bước vào nhà lúi húi pha chè, chậm rãi và cẩn trọng rót đầy ba cái chén hạt mít cho ba người xong mới bắt đầu  nói- lần đầu con Thảo gửi tiền về, tôi đã khó nghĩ quá. Bà nhà tôi nhất định không nhận, bảo nó là phận gái theo chồng phải toàn tâm lo cho nhà chồng, tiền nong ở đâu mà gửi về.
- … Khi viết thư về nó dọa ông bà già không nhận thì nó sẽ… Bà già nói xen vào. - Nó dọa thế nhưng ông nhà tôi vẫn nhất quyết không, phải đến khi anh gọi điện về thì ông nhà tôi mới xuôi xuôi… thì thôi, cũng là tấm lòng của các con, mình từ chối quá phải tội.
- Dạ… vâng… Tôi càng lúc càng trở nên như một kẻ mơ ngủ. Hai ông bà vẫn mỗi người một câu lần lượt kể cho tôi nghe câu chuyện lạ lùng, như tôi là người rất quen, thậm chí là một nhân vật trong câu chuyện đó, trong khi thực sự là tôi chưa bao giờ gặp, mà cũng chưa bao giờ nghe Hương Thảo kể chuyện về họ. Song tôi ngờ rằng không phải là họ nhầm lẫn gì mà là tôi đã và đang bị Hương Thảo giấu diếm một chuyện gì. Song chuyện ấy là như thế nào, thật giả, tốt xấu thì chưa thể rõ được. Không muốn sa đà quá vào câu chuyện để nhỡ vô tình bị lộ là tôi không hề biết gì về họ, tôi lựa lời nói những câu vô thưởng vô phạt dựa theo câu chuyện:
- Có gì đâu ạ, chúng con là phận làm con, làm được gì cho ông bà những lúc còn khỏe là chúng con vui.
- Cảm ơn anh. Nhưng… - Ông già tỏ vẻ ngập ngừng. -  Hai người già thì ăn tiêu đáng bao nhiêu mà tháng nào anh chị cũng gửi ra. Thôi thì chúng tôi cũng không biết phải làm thế nào, đành cũng nhờ người làm cái sổ tiết kiệm, mỗi tháng gửi vào đấy một ít, gọi là để dành cho cu Bi, bao giờ nó lớn, nó đi học…
- Nói thực chúng tôi cũng không dám thở chuyện này cho con Thảo - Bà già tiếp lời ông già - Vẫn định bụng khi nào gặp anh mới nói… Không phải là chê gì tiền của anh với con Thảo, nhưng mỗi tháng tôi có tiền của thằng Nam, rồi cóp nhặt vườn quả đã đủ lắm. Nhà cửa thì Nhà nước lo cho rồi. Cái nhà này, hồi đầu năm bà con chòm xóm và các anh chị ủy ban xây cho đấy. Thế thì phải lo gì nữa. Mà anh với con Thảo thì cũng phải vất vả… cho nên…
- … Tôi xin gửi lại anh sổ tiết kiệm này… - đến lượt ông già nói - … mỗi tháng, thay vì gửi cho tôi, anh gửi số tiền ấy vào đây, cứ coi là của chúng tôi cho thằng Bi.
Tôi bất ngờ quá đỗi. Không biết phải xử sự thế nào. Cuối cùng, tôi nghĩ ra kế hoãn binh, nói rằng việc này tôi không quyết được, phải về hỏi lại Hương Thảo. Rồi tôi vội vàng xin cáo lui.
Cả hai người cùng đứng dậy tiễn tôi. Ra đến cửa, tôi quay lại nói họ không phải tiễn nữa thì thật bất ngờ, nói chính xác là lại thêm một bất ngờ nữa khi tôi nhìn thấy trên ban thờ nhỏ mé đầu nhà bên trái có ảnh một thanh niên trẻ, chỉ chừng hai mươi lăm tuổi. Trong trang phục sĩ quan Công an, trông anh ta chững chạc và nghiêm nghị, song đôi mắt rất sáng và ánh nhìn có vẻ hiền hậu. Tôi chưa bao giờ biết về người con trai này, và điều khiến tôi ngạc nhiên là ở chỗ trên ban thờ đang phảng phất khói hương đó có một cái đĩa gỗ, trên đĩa gỗ đặt một chồng thư…
Bạn có thể hình dung được không. Đó là những bức thư của Hương Thảo, vợ tôi. Tôi có thể dám chắc điều đó vì những bức thư của Hương Thảo không thể lẫn vào đâu được. Suốt ba năm qua từ khi theo tôi vào Nha Trang, Hương Thảo luôn viết thư đều đặn một tuần ba lần, và tất cả những lá thư ấy đều được đặt trong phong bì do cô ấy tự làm bằng giấy pơluya màu xanh. Tôi cũng đã một lần hỏi về những chiếc phong bì màu xanh ấy và Hương Thảo bảo đó là một ý thích nho nhỏ từ thời học sinh. Thế mà hôm nay tôi lại thấy những phong bì thư màu xanh, cái ý thích nho nhỏ của vợ tôi ở đây, trong ngôi nhà của hai ông bà già xa lạ, trên ban thờ một chàng trai trẻ. Có lẽ nào lại thế được.
Bà già là người tinh tường. Nhìn thấy vẻ ngỡ ngàng hiện rất rõ trên mặt tôi, bà mới bảo:
- Thư con Thảo gửi về, chúng tôi đọc xong lại để lên trên đấy, cho thằng Nam về thấy để nó yên tâm là chúng tôi vẫn được con Thảo chăm sóc chu đáo.
-…
Không biết nói gì, tôi cúi đầu, vâng một câu rất nhỏ và đi về. Mặc dù ra đến bờ sông, tôi đã hít một hơi thật sâu và thở mạnh song vẫn cảm giác rất rõ ràng máu đang dồn lên nóng rát trong huyết quản. Rõ ràng đây không phải là chuyện đơn giản, không phải là một ý thích nho nhỏ nào hết. Hương Thảo đang giấu giếm, thậm chí lừa dối tôi. Là chuyện gì và như thế nào thì tôi vẫn còn chưa rõ ràng, song đúng là suốt ba năm qua cô ấy đã lừa dối tôi. Cái vẻ kín đáo và thầm lặng của cô ấy, ánh mắt dịu dàng và đượm buồn của cô ấy, nụ cười mỉm thường trực của cô ấy… không phải là một đặc tính tốt đẹp nào hết, mà là để che giấu sự lừa dối bỉ ổi. Càng nghĩ, tôi càng thấy đau đớn và giận giữ, một cảm giác gần giống như của một thằng đàn ông bị cắm sừng. Tôi sẽ hỏi cô ấy mọi chuyện ngay bây giờ.
Nhưng Hương Thảo đã đi vắng từ sáng. Cô ấy không nói rõ ràng là đi đâu, chỉ nói tôi ở nhà đợi cô ấy về để đi ăn cơm mời ở nhà một người bạn. Chỉ ngày kia là chúng tôi sẽ trở vào Nha Trang.
Tôi không thể ngồi đợi Hương Thảo về để hỏi. Câu chuyện có quá nhiều mờ ám mà tôi muốn biết ngay bây giờ. Nhưng biết tìm cô ấy ở đâu?. Đang quay cuồng trong những sự ức chế ghê gớm, bất chợt một ý nghĩ vụt sáng trong đầu và tôi tin chắc mình sẽ tìm được cô ta ở đâu.
Nghĩa trang liệt sĩ thị trấn nằm ở chân đồi thông. Đó là một nơi yên tĩnh và cách biệt hẳn sự ồn ào của phố xá. Tôi thận trọng quan sát để giành thế chủ động theo dõi Hương Thảo mà không để bị phát hiện. Quả đúng như dự đoán, vừa bước chân vào cổng nghĩa trang tôi đã nhìn thấy Hương Thảo. Cô ấy mặc một chiếc áo màu thiên thanh đã lỗi mốt từ lâu mà có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy cô ấy mặc nó. Tôi bỗng thấy ngạc nhiên rằng tại sao sáng nay khi cô ấy đi tôi đã không nhận ra sự đặc biệt ấy. Rõ ràng đây không phải là sự vô tình mà lại là một ý thích nho nhỏ. Dù không nhiều óc tưởng tượng và sự lãng mạn song tôi đã lờ mờ nhận ra thực chất của vấn đề. Thì ra cô ấy không hề yêu, chưa bao giờ chung thủy với tôi suốt bao nhiêu năm qua. Lúc nào, trong tâm tưởng của cô ấy cũng chỉ có một người đàn ông nằm kia, mà chắc chắn là người tình cũ của cô ta. Dù  anh ta có là liệt sĩ thì cô ta cũng không có quyền lừa dối tôi như vậy. Việc phát hiện sự thật muộn màng cùng với việc mục sở thị cảnh cô ta đang tình tự với người tình trong quá khứ làm tôi đau đớn và giận giữ còn hơn khi nhìn thấy chồng thư giấy pơluya màu xanh. Với suy nghĩ độc ác theo cách đầy bản năng của một thằng đàn ông bị phụ tình, tôi lặng lẽ đi về phía cô ta để bắt quả tang, lột mặt nạ giả dối của cô ta.
Hương Thảo giật mình quay lại, thảng thốt và hoảng sợ khi nhìn thấy tôi. Đúng là ánh mắt của một kẻ phạm tội. Tôi đắc thắng, không nói không rằng nhìn thẳng vào bộ mặt tội lỗi của cô ta. Hương Thảo lắp bắp: - Anh, làm sao anh biết…
- Đúng là tôi biết hơi muộn. - Tôi cảm giác rất rõ hai hàm răng mình xít lại - Có sự giả dối bỉ ổi nào mà cuối cùng không bị phơi trần ra ánh sáng đâu. Chỉ là trước hay sau mà thôi.
- Anh hiểu nhầm rồi - Mặt Hương Thảo tái đi.
- Nhầm, nhầm cái gì hả - Tôi cười khẩy - Kể ra thì ghen với một thằng đàn ông dưới mồ cũng là chuyện không bình thường,…
- Anh không được xúc phạm anh ấy. Hương Thảo đột ngột đanh giọng, khuôn mặt từ tái chuyển sang đỏ hồng lên. Tôi bất ngờ quá đỗi, lại còn đến mức ấy, thật quá sức chịu đựng, tôi cũng không cười nữa mà quát vào mặt cô ta:
- Được lắm, cô cứ ở đây với mối tình chung thủy của cô. Ở đây, mãi mãi. Cô không cần phải quay về Nha Trang nữa. Tôi sẽ gửi đồ đạc của cô qua đường bưu điện. Cô yên tâm, sẽ không thiếu một cái phong bì thư nào đâu.
Nói xong, tôi hầm hầm đi thẳng về nhà lấy hành lí, mang theo cu Bi ra sân bay về ngay Nha Trang.
Tôi về nhà chưa lâu thì Hương Thảo cũng đến nơi. Có lẽ cô ấy đi chuyến bay ngay sau đó. Điều đó làm tôi vừa thích thú một cách độc ác trong suy nghĩ cô ấy phải chạy theo tôi nhưng lại làm tôi bực bội vì không có cơ hội trả đồ đạc cho cô ta với những phong bì thư màu xanh.
Hương Thảo bước vào nhà một cách bình tĩnh và điềm đạm, dù đôi mắt thâm quầng, má có hơi tóp lại và da mặt thì sạm đi. Có lẽ cô ấy đã khóc nhiều. Nhưng tôi chưa kịp thưởng thức sự thích thú vì đau khổ của cô ấy thì cô đã chủ động nói:
- Tôi cần nói chuyện với anh, nếu anh muốn thì là lần cuối cùng cũng được, nhưng chúng ta cần nói chuyện với nhau như hai vợ chồng một lần này nữa, anh cứ coi như tôi cầu xin anh cũng được.
Mặc dù cô ta nói là cầu xin, song nghe giọng lạnh và đầy quyền uy. Tôi tò mò xem cô ta định bày trò gì.
- Được, tôi nghe đây.
Tôi mệt mỏi nằm ngả trên xa lông, và bất chợt thấy mắt cay cay. Không phải là khóc, song cổ họng chát đắng và một cảm giác mệt mỏi chán chường, trống rỗng ùa đến làm cho từng tế bào trong người như rời ra. Chao ôi, người phụ nữ hoàn hảo, niềm tự hào của tôi… Trong một phút, tôi nghĩ đến ngày mai, khi tất cả những đồng nghiệp, bạn bè của tôi biết câu chuyện này, chắc chắn họ sẽ vỗ vai an ủi, song trong lòng họ… Kẻ bị phụ tình, thằng đàn ông bị cắm sừng… họ sẽ xì xào và nhìn tôi thương hại, hả hê… như thỉnh thoảng tôi vẫn vậy với những kẻ bất hạnh khác…
- Anh cần phải hiểu hai điều quan trọng - Hương Thảo bắt đầu nói bằng cái giọng quen thuộc, rành rẽ và chừng mực. - Thứ nhất, số tiền tôi gửi cho hai bác mỗi tháng là tiền tiết kiệm của cá nhân tôi. Cũng không nhiều nhặn gì, chỉ một trăm ngàn đồng. Hàng tháng, tôi đều cố gắng làm việc xuất sắc và được một khoản tiền thưởng nho nhỏ. Tôi nghĩ tôi có quyền sử dụng vào mục đích của cá nhân tôi số tiền đó. Tôi cũng tiết kiệm bằng cách hạn chế may sắm…
Tôi nói rõ thế để anh yên tâm rằng anh không bị tôi lấy cắp một xu nào hết.
Thứ hai, tôi chưa bao giờ phụ tình anh, dù chỉ là trong tâm tưởng. Anh là người yêu đầu tiên và duy nhất của tôi, ít nhất là cho đến lúc này. Còn người thanh niên trong nghĩa trang là ân nhân cứu cuộc đời con gái của tôi. Tôi kính trọng, biết ơn, và nợ anh ấy rất nhiều. Chỉ thế thôi.
Tôi bật ngồi thẳng dậy, vội vã nhìn vào mắt cô ấy. Hương Thảo vẫn ngồi ngay ngắn ở chiếc ghế đối diện. Cô không để ý đến thái độ của tôi mà tiếp tục dòng hồi tưởng, giọng cô nhỏ đi và mềm hơn, có cả hơi nước.
“Mùa hè năm tôi mười sáu tuổi. Mẹ cho tôi về quê ngoại chơi.  Đó là một vùng trung du heo hút và hoang sơ... - Hương Thảo khóc, hai giọt nước mắt lăn dài trên má cô. - Một hôm, tên thanh niên mới quen ở cùng làng rủ tôi đi chơi. Hắn dẫn tôi đi loanh quanh ra đằng sau một quả đồi vắng, bảo là ở đó có hoa mua rất đẹp… Tôi mê mải hái hoa mua, rất nhiều hoa mua tím ngắt… Trời tối lúc nào không biết, thế rồi bỗng nhiên, cả một đám chục thằng thanh niên gớm giếc lù lù xuất hiện, quây quanh tôi…
Khi hiểu ra bọn chúng định làm gì, tôi hoảng sợ vùng vẫy, nhưng chỉ kịp hét một tiếng thật to rồi ngất lịm đi...
Tôi tỉnh lại vì nghe thấy những tiếng động rất mạnh. Một thanh niên trẻ đang đánh nhau với những tên côn đồ vừa định xâu xé tôi. Anh ấy rất trẻ, và chỉ có một mình anh giữa vòng vây của bọn côn đồ. Anh ấy đã đánh cho một vài tên không dậy được. Nhưng vẫn còn những tên khác. Chúng nó quây anh ấy đằng trước, đằng sau, một tên chạy đi vác hòn đá rất to… Tôi hoảng sợ và hét lên định báo cho anh ấy biết…
Thế là tôi đã giết anh ấy. Chỉ trong một tích tắc anh ấy quay nhìn về phía tôi vì tưởng rằng tôi bị làm sao, tên côn đồ đã choang hòn đá vào anh…
Anh ấy là một cán bộ công an. Nhà anh ở thị trấn nhưng anh đã tình nguyện lên công tác ở vùng quê heo hút ấy. Chỉ còn một ngày nữa là sinh nhật lần thứ 26 của anh. Anh ấy vẫn chưa có người yêu. Thế mà tôi đã giết anh ấy. Đáng nhẽ khi vừa tỉnh dậy, tôi phải chạy đi tìm người kêu cứu, hoặc phải giúp anh ấy đánh lại những tên côn đồ, hoặc ít nhất cũng cứ câm lặng, và đừng kêu tiếng kêu tội lỗi ấy… Nhưng tất cả đã muộn. Anh ấy mới 26 tuổi, và bố mẹ anh chỉ có một mình anh… Đó chính là hai bác buổi sáng anh đã gặp.
Hương Thảo nghẹn ngào, nước mắt ràn ướt đẫm khuôn mặt cô ấy.
Tôi sẽ không bao giờ quên anh ấy, không bao giờ quên được tội lỗi của tôi. Thấy tôi luôn bị ám ảnh, nhiều người đã an ủi rằng đó là nhiệm vụ của anh, vì anh là công an nên anh có trách nhiệm phải làm như vậy.
Anh có cho phép mình nghĩ thế không. Còn tôi thì không, không bao giờ. Sau lần đó tôi đã định bỏ học đến ở chăm sóc bố mẹ anh ấy. Tôi đã xin được làm vợ anh, làm con dâu của hai bác. Nhưng hai bác không cho. Bác gái ôm tôi khóc, bảo rằng nếu tôi thương hai bác, thương anh Nam  thì tôi phải tiếp tục đi học, và bác chỉ nhận tôi là con gái.
Tôi nghe lời bác tiếp tục đi học nhưng đã nguyện là không lấy chồng, để được suốt đời thay anh Nam chăm sóc bố mẹ anh. Nhưng cả hai bác đã mắng tôi, giận tôi, thậm chí nói sẽ không nhận tôi là con, sẽ cấm cửa không cho tôi vào nhà nếu tôi còn giữ ý định đó.
Và tôi đã gặp, đã yêu và lấy anh...
- Tôi yêu anh thực lòng. Hương Thảo đã bình tĩnh trở lại. Vì thế tôi mới lấy anh. Song tôi cũng nhận ra rằng anh rất rộng lượng trong giao tiếp vật chất, nhưng lại không phải là người quảng đại trong vấn đề tình cảm. Đó cũng là đặc điểm tâm lí thường thấy ở đàn ông các anh. Đã nhiều lần tôi muốn kể câu chuyện của tôi với anh, để thanh thản vì không phải giấu anh điều gì, và mong muốn được anh chia sẻ, nhưng anh đâu phải là một người đủ kiên nhẫn để nghe tâm sự của người khác…
Hương Thảo đã nói toạc ra thói ích kỷ của tôi làm tôi phát khùng:
- Thế còn những lá thư?
- Khi anh thông báo về việc chuyển nhà vào Nha Trang, tôi đã phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều. Tôi chưa bao giờ muốn xa quê, và sau chuyện đó, tôi đã tự hứa dù có đi lấy chồng cũng vẫn sẽ luôn ở bên cạnh hai bác. Nhưng cũng lại chính là bác gái đã hiểu lòng tôi, khuyên tôi về cái đạo làm vợ. Bác ấy tốt như thế càng làm cho tôi khổ tâm hơn. Tôi chỉ còn một cách chăm sóc hai bác từ nơi xa xôi này là viết thư để hai bác không cảm thấy đơn độc…
… Có lẽ anh còn thắc mắc tại sao tôi lại luôn gửi thư bằng phong bì giấy pơluya màu xanh. Đó là một ý thích từ thời nhỏ của tôi. Tôi yêu màu xanh và luôn tự làm phong bì bằng giấy pơluya để gửi thư cho bạn bè. Nhưng thời đó chỉ là một ý thích, còn khi gửi cho mẹ anh Nam bằng những phong bì thư ấy, là tôi mong ước về một xã hội yên bình, và hứa với anh ấy sẽ luôn sống tốt…
Thôi, tôi xin anh nghe tôi chỉ ngần ấy. Tôi không làm phiền anh nữa.
Cô ấy đứng dậy đi thẳng, lặng lẽ như một dấu chấm than, không kịp để cho tôi có sự phản ứng nào.
Phải một tuần sau tôi mới đủ can đảm đến khu tập thể tìm vợ. Một tuần, đêm nào tôi cũng nghĩ về câu chuyện của cô ấy, nửa tin nửa ngờ. Tôi không ghen với Nam, nếu quả thực câu chuyện là đúng như thế. Nhưng có thực là có một câu chuyện như thế không, chuyện một người con gái mỗi tuần viết ba lá thư cho bố mẹ của một người đã cứu sống mình trong suốt bao năm qua… Cuộc đời nhiều năm lăn lộn trong thương trường và từng trải trong đời thường, tôi đã nghe đủ thứ chuyện, những chuyện tưởng như phi lý nằm ngoài óc suy đoán của người thường. Nhưng chuyện tương tự như của Hương Thảo thì tôi chưa bao giờ thấy, cũng chưa được nghe. Nếu chỉ để trả ơn thì cô ấy đâu cần phải vất vả như thế? Vậy thì vì sao, chỉ có thể vì cô ta đã quá nặng lòng với người con trai nọ, chẳng phải cô ấy đã muốn làm vợ anh ta rồi đấy ư? Nhưng Hương Thảo đâu phải là người có thể dối trá, nếu đúng có thế thì cô ấy không thể nồng nàn với tôi đến vậy. Thế là vì sao, lẽ nào... những phòng bì thư màu xanh… mong ước về một xã hội yên bình… sẽ luôn sống tốt… phải chăng là như vậy, là như vậy ư, hành động dũng cảm của người con trai trẻ đã làm cho cô ấy xúc động, và nhận ra trách nhiệm của mình trong việc sống xứng đáng với sự hy sinh của anh… Là vậy ư, tôi thở ra, thấy nhẹ bẫng, nhưng cùng lúc ấy, một cảm giác gần như là sự ngượng ngập, cảm giác của một kẻ có lỗi cũng âm ỉ bò lan trong ngực. Bao nhiêu năm qua tôi làm việc chỉ để kiếm tiền cho cuộc sống của tôi, tôi đã nghĩ rằng chỉ cần kiếm tiền và hưởng thụ cuộc sống, còn lại tất cả đều không quan trọng, và tôi đã làm thế, bàng quan trước tất cả những cái không động chạm đến quyền lợi của tôi, trước cả cuộc sống của vợ tôi… Liệu tôi có xứng đáng với cô ấy, có đủ can đảm xin cô ấy tha thứ không?…
… Hương Thảo đang lúi húi dạy cu Bi viết chữ. Tôi đứng trong bóng tối ngắm hai con người thân yêu của cuộc đời tôi. Lần đầu tiên tôi thấy lòng đau thắt khi nhìn dáng cô mảnh mai đến khiêm nhường. Tôi bước đến, lặng lẽ từ đằng sau vòng tay ôm lấy cô, ôm chặt cô vào lòng, tựa cằm trên mái tóc dài thơm mát của cô. Cu Bi vẫn cắm cúi tô chữ. Hương Thảo không quay đầu lại, nhưng cô ấy ở yên trong vòng tay tôi, và tôi có cảm giác một giọt nước ấm nóng rơi trên tay. Nghĩa là cô ấy đã tha thứ. Tôi run run ôm chặt cô hơn nữa, và nôn nóng nghĩ ra những từ thật nồng nàn để xin cô ấy tha thứ, để bày tỏ tình cảm yêu thương của tôi, tôi muốn nói với cô ấy là từ bây giờ trở đi, tôi sẽ cùng cô ấy làm tất cả những công việc trước kia chỉ mình cô làm, sẽ cùng cô đến viếng nghĩa trang liệt sĩ vào những ngày lễ, và gấp những phong bì thư màu xanh…
Vĩnh Yên, ngày 1/7/2002

NGUYỄN HOÀNG LONG 
Bức tường ngăn
Tập Truyện ngắn đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2006 - 2010)
CHUYỆN TÌNH CỦA ÚT
Nhà ông Đậu thuộc diện có máu mặt và đông con. Các con ông đứa nào cũng to lớn, khỏe mạnh, đẹp trai, xinh gái. Chỉ riêng cô út nhỏ bé, quắt quéo nhất nhà. Ông bà đặt tên là Út. So với những người cùng chà cùng lứa ở làng, gương mặt Út không đến nỗi nào. Nhưng tiếc là cô bị dị tật khiến lưng cong gù từ nhỏ. Có người độc mồm độc miệng gọi luôn là “Út gù”.
Bù lại, Út có khuôn mặt đôn hậu, thanh tú, và thông minh, sắc sảo. Ai nhìn cũng tấm tắc khen. Nước da cô trắng hồng, mịn màng như trứng gà bóc. Lạ là má Út luôn hồng, môi luôn đỏ. Riêng chuyện này cũng là một đề tài hấp dẫn với các trai làng. Thanh quả quyết Út phải dùng son phấn mới đẹp đến thế. Toại là người gần nhà Út, thanh minh rằng Út không báo giờ dùng son phấn. Thật oan cho Út quá. Cuộc tranh cãi không có điểm dừng, không phân thắng bại.
Giàu con út, khó con út. Ông bà Đậu rất yêu thương và chiều chuộng cô. Các anh, các chị cũng dành tất cả và sẵn sàng hi sinh cho Út. Từ bé đến lớn, Út sống khá đầy đủ và sung sướng. Thương con tật nguyền, sức yếu, ông bà Đậu tập trung mọi nguồn vốn, mọi khả năng, mua đất xây nhà ngoài phố cho Út. Út mở cửa hàng bán tạp hóa. Ngày đêm Út ngoài cửa hàng, chỉ trưa, tối cô mới đoảng về nhà ăn cơm. Hôm nào cô bận hàng họ, ông Đậu phải ra ngủ trông hàng cho con.
Út buôn bán ngày một phát triển, hàng hóa ngày một nhiều, cô phải ở hẳn ngoài cửa hàng. Trưa tối, ông bà Đậu hoặc cháu phải mang cơm ra cho Út. Út bán hàng rất có duyên. Người đến mua hàng luôn được cô gửi tặng nụ cười tươi rói và lời nói dịu ngọt. Cửa hàng lúc nào cũng đông khách, cô bận bịu, tất bật suốt ngày. Tiền bạc cứ thi nhau kéo về nhà cô. Giờ đây không thiếu tiền, cô chỉ thiếu tình yêu.
Vậy nhưng, chưa có chàng trai nào đến với cô. Bạn bè hồi cùng học cấp III như cái Hoa, Đào, Huệ ở cái tuổi của Út đều có chồng cả rồi. Muộn mằn như cái Liên là bác sĩ cũng vừa cưới chồng. Cô đứng chờ ai? Có ai đến với cô không? Út sẽ trở thành bà cô và chết già mà chưa biết tình yêu là gì? Chưa biết đàn ông là thế nào? Khép cửa lại, cái vắng vẻ, lạnh lẽo làm cô thấy ghê sợ. Đêm nào cũng vậy, kiểm tiền, hàng xong Út mới đi ngủ. Cô nằm trằn trọc mãi mà không tài nào nhắm mắt nổi, tiếng thở dài não ruột tràn ngập, đầy ắp căn phòng vắng lạnh đến phát sợ.
Mỗi khi vào buồng tắm, nhìn thấy tấm gương, Út thấy mãn nguyện bởi cơ thể nõn nà con gái của cô. Bắp tay thon thả, đầy đặn, cân đối, tròn lẳn. Đôi bờ vai rắn chắc dâng cao. Ba đường chỉ kẻ đậm, hài hòa trên cái cổ trắng ngần. Tạo hóa ban tặng cô cái kiều diễm, rất quý phái chưa từng có. Bộ ngực căng đầy trắng mịn, đôi bông hồng đỏ chót duyên dáng, hấp dẫn đến kỳ lạ. Bắp chân thon thả trắng ngà. Nhưng  mỗi khi kỳ cọ, đưa tay về phía sau đụng vào cái lưng gù, cô vẫn run bắn lên, cảm giác buồn tủi dâng lên nhấn chìm Út xuống dòng sông buồn sâu thẳm. Cô oán trách tạo hóa bất công, độc ác, bắt cô đeo cái lưng gù.
Một buổi tối, Út vừa tắt điện lên giường nằm. Thì bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập. Cô vùng dậy, bật công tắc điện, Út nghĩ bao nhiêu tiền bạc, hàng hóa đầy nhà, một mình cô thân gái, chân yếu tay mềm. Phải cẩn thận, cảnh giác, Út hỏi lớn:
- Ai gõ cửa?
Tiếng trả lời vọng vào:
- Tôi! Tôi đây mà!
Đúng rồi, bà Mai. Bà ấy ở gần nhà Út. Bà vẫn thường qua lại miếng trầu câu chuyện với mẹ. Bà Mai còn dạy mẹ kể hạnh. Hai bà vẫn thường ngủ với nhau. Bà ấy đến giờ này chắc có việc cần lắm. Nhìn qua khe cửa đúng là bà Mai rồi. Bà ấy đi có một mình. Út mở cửa thật mạnh, để đánh động với hai nhà bên cạnh. Cô ngọt ngào, đon đả:
- Chào bà! Có việc gì mà bà lận đận, mò mẫm tới khuya thế này?
Vừa bước vào nhà, bà Mai giải thích luôn:
- Cô thông cảm, ban ngày lúc nào cô cũng tíu tít, không ngơi tay bán hàng. Tôi phải chờ buổi tối vắng vẻ đến gặp cô.
Rồi bà vừa cười vừa nói:
- Tôi có tin vui tốt lành mang đến cho cô đây! Tôi quý ông bà bên nhà hiền lành, đức độ. Tôi thương cô nhân hậu, khéo ăn khéo ở, buôn bán giỏi. Tôi muốn giới thiệu cho một người.
Bà Mai dừng lại, vứt bỏ miếng bã trầu trong miệng. Tay bà lần vào túi áo lấy miếng trầu khác đưa vào miệng. Bà nhai bỏm bẻm để thăm dò Út. Rồi bà lại tiếp tục:
- Chẳng biết cô có ưng không?
Bất ngờ, Út chột dạ. Lần đầu tiên trong đời được nghe chuyện chồng con. Út vừa mừng vừa lo. Người ấy là ai? Già hay trẻ, tốt hay xấu? Người ấy có thông cảm với mình? Tại sao người ấy không tự đến tìm hiểu mà phải nhờ bà Mai? Từ chối ngay mang tiếng kiêu kỳ, đỏng đảnh. Tốt hơn hết là im lặng và lắng nghe. Bưng nước mời bà Mai, cô ngọt ngào, dịu dàng thưa:
- Có điều gì mong bà hết lòng dạy bảo.
Bà Mai lấy giọng phấn chấn nói:
- Chả là thế này. Ông Bình ở làng Yên, tuổi chừng sáu mươi. Ông là bố vợ thằng cả nhà tôi. Tóc muối tiêu nhưng còn khỏe lắm. Thằng An nhà tôi, chạy dài thua xa. Bà ấy xấu số qua đời. Ông ấy, nhà cửa khang trang, rộng rãi, tiện nghi đầy đủ. Nhà trên áo dưới, vườn tược rộng thênh thang, cây trái mùa nào thứ ấy chẳng thiếu gì! Tiền thu nhập từ ao, vườn mỗi năm hơn chục triệu. Cửa hàng của cháu còn thua xa, chạy mỏi chân mà không kịp. Hai đứa nhỏ, không phải bế đâu mà sợ, đứa học cấp 2, đứa học cấp 3. Ông Bình thấy cô được người được nết lại buôn bán giỏi. Ông ấy muốn kết bạn với cô. Theo tôi đám ấy nên quá, thật là sướng một đời.
Một nỗi buồn, lòng tự trọng ập tới, tràn ngập lòng Út. Giấu thật kín, cô khéo trả lời:
- Ông Bình đã biết cái lưng gù của cháu chưa?
Bà Mai đáp ngay:
- Biết quá đi chứ! Người ta quý nhau vì nết, yêu nhau vì tình, đâu vì hình dáng bên ngoài. Đẹp! Mài cái đẹp ra mà ăn à?
Út thủng thẳng nói:
- Khó quá! Con rể sáu mươi, bố vợ sáu mốt, gọi là bố thì không được rồi. Anh anh, em em thì ngang tai chướng mắt quá.
Bà Mai hăng hái, sổi nổi giải thích:
- Già trẻ thây kệ. Vợ chồng thì cứ là vợ chồng. Yêu nhau, thương nhau, tuổi tác già trẻ không quan trọng, không cản nổi.
- Cháu và ông Bình chưa biết nhau. Các con ông có chấp nhận? Tí tuổi đầu mà cháu phải làm lẽ?
Gia đình ông Bình nề nếp tốt lắm. Các con ông đều có học, rất biết điều. Làm lẽ mà như cả. Cô cứ nghĩ kĩ đi! Theo tôi, đám ấy nên quá. Đừng bỏ mà lỡ dịp may hiếm có.
Út tìm cách rút lui:
- Cháu cám ơn bà. Việc trăm năm bà để cháu suy nghĩ, cháu sẽ thưa lại với bà sau. Cháu còn phải thưa chuyện với bố mẹ, bàn bạc với các anh, các chị.
Bà Mai chẳng còn gì để nói. Bà xin phép ra về.
Hôm sau lời khước từ đến tai bà Mai. Bà giận Út, giận ông bà Đậu không biết dạy con. Hai nhà trở nên bất hòa, không ai đến nhà ai, thường xuyên xảy ra điều này, tiếng kia, nhiều khi chỉ vì con gà, con lợn, hai nhà xô xát, to tiếng với nhau.
Gần đây, có một người khách thường xuyên đến cửa hàng Út. Rất khó đoán tuổi, chừng bốn mươi. Nhưng qua cử chỉ, đi đứng, lời ăn tiếng nói, hơn bốn chục tuổi là cái chắc. Khi người đó đi ô tô bóng lộn sang trọng và đắt tiền. Lúc người đó đi Dream II mới cứng. Quần áo lúc nào cũng mới cóng, trang nhã lịch sự. Các đường li thẳng đừ, sắc như lưỡi dao, sờ tay không chừng đứt da thịt. Người ấy chắc phải là quan chức cao cấp. Đẹp trai, khỏe mạnh, phong thái rất đàn ông, mạnh mẽ dứt khoát và đầy bản lĩnh. Tiếng nói người ấy nhỏ nhẹ, ấm áp và rất có duyên. Khi nói to độ âm như chuông khánh. Lời nói vừa cởi mở, gần gũi lại vừa nghiêm trang đến lạnh lùng. Người ấy cất tiếng nói cứ như đổ mật vào tai. Cái miệng tươi như hoa, môi đỏ như con gái. Đôi mắt đen như hạt nhãn, trong như nước mùa thu. Mỗi khi chiếu mắt nhìn Út, khiến cô ngượng phải cúi gằm xuống và muốn cháy thành than. Dáng đi oai vệ, từ khuôn mặt bước đi, khiến Út vừa sợ, vừa mến yêu. So với Út, người đó hơi nhiều tuổi, Được, chẳng sao.
Mỗi khi đến mua hàng, người đó chỉ để ý, quan sát Út. Đôi khi Út liếc nhìn trộm, bắt gặp mắt chàng đang nhìn mình. Cả hai lại vội vàng quay đi và cảm thấy luyến tiếc. Cái nhìn như biết nói, đầy ắp những tình cảm. Người ấy như cánh chim vụt đậu, vụt bay đi.
Một chiều thu, anh đến mua hàng và nán lại nói chuyện cùng Út. Người bạn hàng ở bên nhà sang rủ cô đi Hà Nội lấy hàng. Út còn chần chừ chưa quyết định và trả lời:
- Tối nay, em sẽ trả lời chị Thục nhé. Nếu nhờ được bố em trông hàng, em sẽ đi cùng chị.
Chị Thục về khỏi, anh nói với Út:
- Ngày kia anh đi Hà Nội, anh sẽ đón em đúng sáu giờ sáng.
Út vui vẻ nhận lời ngay. Ngày hôm ấy, hai người rong ruổi khắp Hà Nội và đến những nơi cô cần. Trưa, anh lại đãi cơm cô. Anh mua tặng cô những món quà mà cô yêu thích.
Thời gian càng trôi về sau, anh và cô trở nên thân quen và gắn bó về mặt tình cảm. Như đã thỏa thuận, anh đi xe máy đến thăm cô. Anh chuẩn bị đầy đủ rượu và thức ăn. Khi ngồi xuống mâm, anh ép mãi cô mới uống rượu. Út nghĩ nhiều người con gái uống rượu say đã xảy ra những điều chẳng lành, làm hại cả cuộc đời. Phải cảnh giác. Nhưng chẳng lẽ để chàng mời mãi, nể tình, Út cũng đưa chén rượu lên môi rồi lại đặt xuống.
Rượu có sức mạnh làm anh hăng hái, sôi nổi hẳn lên. Anh nói:
- Em đẹp lắm. Đẹp hơn tất cả những người con gái mà anh đã gặp. Anh rất yêu em.
- Em đẹp vì cái lưng gù phải không anh?
- Em đẹp hơn người là nhờ nó. Cái lưng gù của em tạo thành một đường cong duyên dáng, uyển chuyển. Những người con gái khác cái lưng thuồn thuỗn, xấu mù. Lưng trời, lưng phật ban cho. Lưng vàng, lưng bạc em giàu sang nhờ cái lưng đó.
Nghe anh nói, Út vừa buồn cười, vừa tức giận. Cô nghiêm nét mặt trả lời:
- Anh nịnh em vừa thôi. Anh yêu em chỉ vì cái lưng gù? Anh dùng nó để chế giễu, khinh miệt tôi chứ gì?
Anh vội thanh minh:
- Anh xin lỗi. Cho anh xin lỗi. Có thể vì uống nhiều rượu, say quá, anh nói không chuẩn. Anh rất yêu em. Đó là sự thực, chân lý, như ánh sáng ban mai.
Cái gì đến thì phải đến. Con cáo không thể giấu mãi cái đuôi, lâu dần cái đuôi cũng phải lòi ra. Anh nói:
- Anh tốt nghiệp đại học tại Liên Xô, hiện nay làm giám đốc một công ty lớn. Gia đình anh có mấy đời “độc đinh”. Đến đời anh chẳng còn cái “đinh” nào. Vợ anh đẻ một mạch liền “ba con vịt giời”. Rồi đây, anh phải kế chức vị trưởng họ của bố anh. Dòng tộc nhà anh lớn lắm, nhiều người thành đạt, danh giá lắm. Gia đình thúc ép. Anh khát nước đi tìm dừa. Qua nhiều nguồn anh tìm hiểu rất kỹ về em. Bố mẹ anh đã đi xem nhiều thầy danh tiếng. Thầy nào cũng nói chỉ em mới giúp anh qua được cơn khát, mới cho anh được một “thằng cu”. Tiền anh chẳng thiếu. Tình, anh lại càng dư thừa. Anh chỉ thiếu người nối dõi dòng tộc. Anh xin em, em sẽ là bà hoàng của dòng họ danh giá nhất ở một địa phương.
Út im lặng, cô tìm câu trả lời thật thích đáng. Lợi dụng khi ấy, anh nắm tay Út. Anh chồm tới, vồ lấy cô. Cô đẩy mạnh anh ra bằng giọng nói đanh thép, kiên quyết trả lời anh:
- Anh nghe rõ đây. Nếu đầu óc tôi mù quáng, trái tim yếu ớt, chắc tôi sa lưới của anh rồi. Anh chiếm đoạt cả đời con gái của tôi và được đứa con. Anh chẳng mất gì, đúng hơn là mất công thả lưới, giăng câu bấy lâu nay. Nếu tôi đẻ con trai. Nó là đứa con hoang, nhận hay không là quyền của anh. Nó đẹp trai thông minh, tôi nuôi lớn khôn, anh đón về làm cảnh cho ngôi biệt thự. Chẳng may tật nguyền như mẹ nó. Anh nhận làm gì cho xấu mặt. Nếu tôi đẻ con gái, anh sẵn sàng quên luôn. Mẹ con “nhà vịt giời” tự do bay. Nếu tôi vô sinh, bông hoa đã hiến dâng hương sắc, mật ngọt cho ong, ong vày nát, ong bay đi. Tôi và vợ anh nhảy vào cuộc chiến không cân sức, không cân thế. Tôi thua cả về pháp lý và đạo lý. Tôi cầm chắc cái chết trong tay, anh đứng ngoài cuộc. Anh khôn lắm, đỉnh cao của sự tính toán, tột cùng của sự lừa gạt. Nhờ anh tôi hiểu thêm bài học về cuộc sống.
Anh tỉnh lại sau cơn say cơn mê, miệng lắp bắp:
- Anh xin lỗi em. Anh xin lỗi…
Út cướp lời:
- Chắc anh nghĩ, người con gái lưng gù, tật nguyền, xấu xí như tôi, được người con trai đẹp, giàu có và đầy quyền lực vuốt ve, âu yếm thì chiếm đoạt dễ như trở bàn tay? Anh nhầm to rồi. Anh đánh giá mình quá cao, nhìn tôi quá thấp. Với đồng lương của anh, nuôi bố mẹ già và vợ nông dân cùng ba đứa con nhỏ đã đủ mệt rồi. Anh còn mang tiền bạc để mua chuộc dụ dỗ tôi. Tài thật, tôi xin bái phục anh.
Bộ mặt nhân đức, hiền từ, lời nói êm dịu, ngọt ngào biến mất. Người ấy thét lớn:
- Thôi đủ rồi! Im đi!
Người đó tức giận, đứng dậy, dắt xe bỏ về. Út mở cửa bình tĩnh dịu dàng nói:
- Cảm ơn anh đã tới thăm.
Vào buổi sáng chiều cuối đông, trời rét đậm, gió bấc thổi vù vù. Ngồi bán hàng trong nhà kín, Út mặc áo ấm mà như muốn cắt da, cắt thịt. Một chiếc ô tô sang trọng dừng lại trước cửa hàng. Từ trên xe bước xuống, người đàn ông trạc bốn mươi, vẻ ngoài bảnh bao, lịch lãm. Người đó tự giới thiệu tên là Doanh, bạn học cũ của Cẩm. Út tạm đóng cửa hàng mời anh ta ngồi uống nước.
- Thời giờ đối với anh là vàng bạc - Anh ta vào chuyện ngay - Chắc Cẩm đã nói kỹ với em rồi, anh đến gặp em để bàn việc đó. Anh là Phó Giám đốc một ngành của tỉnh. Đường công danh còn rộng thênh thang. Nhưng vì gia đình riêng, vợ mắc bệnh vô sinh. Anh chỉ cầu xin Út một đứa con. Sau này tất cả nhà cửa, tài sản của anh thuộc về em hết.
- Còn vợ anh thì sao?
- Cái bà già ấy thì nói làm gì. Bà ta hơn anh những ba tuổi. Hôn nhân là do hai bên bố mẹ sắp đặt. Bà ấy ngửi thấy mùi bùn đất rồi, không lâu nữa sẽ ra đi.
- Cẩm cũng nhiều lần nói với tôi. Nhưng anh lầm to rồi. Người con gái lưng gù, xấu xí nhưng không dễ dàng lừa gạt và chiếm đoạt. Đàn bà, con gái không phải là cái túi đựng những toan tính của đàn ông?
Người ấy tức lắm, hằm hằm, đằng đằng sát khí đứng dậy bỏ về.
- Cô và Cẩm đã lừa dối tôi.
- Khi Cẩm nói, tôi chỉ cười. Vì nể Cẩm là chị dâu con ông bác - Út nhìn thẳng vào mắt anh ta, từ tốn nói.
Út buồn lắm. Cô không xấu, không hèn, không đần độn. Chỉ vì cái lưng gù, mà cô phải chịu đựng bao nhiêu nỗi đau. Chính nó là cái cớ để những đấng mày râu giàu có và quyền lực dùng để lợi dụng nhằm thỏa mãn những mục đích riêng. Vì cái lưng gù mà duyên phận cô hẩm hiu và bị coi thường. Tạo hóa không công bằng với Út. Cô không làm gì nên tội mà chịu khổ cả đời. Nếu nước mắt có thể làm tiêu tan cái lưng gù, Út sẽ vắt kiệt để khóc. Nếu tiền bạc, vàng mà chữa được cái lưng gù, cô xin đánh đổi tất cả. Cô quyết không để bị lừa gạt, làm nhục và khinh bỉ bởi cái lưng gù bẩm sinh.
Ba mươi tuổi đã toan về già, Út cảm thấy lo lắng và sốt ruột. Năm tháng qua đi, căn phòng vẫn trống vắng lạnh lẽo. Chỉ có hàng hóa bày la liệt trong nhà, tiền bạc kiếm được nhiều hơn.
Thế rồi Tân - chàng thiếu tá bộ đội “duyên phận nghịch chiều” đóng quân gần đó đến với Út. Anh không đẹp trai, hào hoa, lịch lãm và dẻo miệng bẻm mép như bao người khác. Bù lại, Tân khỏe mạnh hiền lành, thật thà, rất yêu thương cô. Anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải ở với ông bà ngoại. Ông bà cưới vợ cho anh, rồi họ lần lượt đi vào cõi vĩnh hằng. Người thân yêu duy nhất còn lại của Tân là vợ anh. Đơn vị ở xa, ít có dịp về thăm nhà. Sức dài vai rộng, vợ anh làm không đủ ăn, hàng tháng chờ chồng gửi tiền về. Chị mắc “căn bệnh” khó chữa, như các cụ nói: “Muốn ăn ngon” nhưng lại chỉ “tìm việc cỏn con mà làm”. Thường mỗi năm Tân về phép một lần. Cá biệt có khi hai năm anh mới về phép. Về tới nhà, anh chỉ mong được gặp vợ. Thế nhưng, một lần Tân về phép, vợ anh vác cái bụng bằng cái rá mẹ đến gặp chồng. Chị ta trơ tráo, ngang nhiên nói:
- Đứa con trong bụng tôi là con người ta. Nếu anh không về thì tôi cũng sống với người ta. Nhân dịp anh về, may quá chúng ta làm đơn ly dị. Tôi đến ở với người ta, anh đi lấy người khác.
Tân đưa mắt nhìn vợ, nhìn cái bụng cô ta. Anh ký đơn ly dị liền và vác ba lô về đơn vị. Chị ta phản bội Tân để chạy theo người đàn ông đã luống tuổi, giàu có, đã có vợ với mấy con.
Từ đó Tân căm ghét đàn bà, khi nghe bạn bè nói đến chuyện vợ con, anh lặng thinh, coi như không nghe, không biết. Nhưng khi gặp Út anh đem lòng yêu thương. Út cũng rất yêu anh. Tình yêu của Tân - Út được xây dựng trên nền tảng thông cảm và yêu thương nhau. Vậy nhưng khi họ sắp làm đám cưới, các ông “phó ngang” quê Út liền dựng chuyện Tân lấy Út vì hám tiền của. Út dùng tiền bạc để mua chuộc anh. Anh Tân thuộc dạng “vợ bỏ, lỡ làng” mới phải lấy Út. Nhưng cả Tân và Út bỏ ngoài tai tất cả, không ai ngăn nổi, cản phá nổi tình yêu của Tân với Út. Họ là đôi vợ chồng hạnh phúc.
Hằng ngày, sau giờ làm việc, Tân vội chạy về nhà với vợ. Anh khuân vác, dọn dẹp hàng hóa để Út lo cơm nước. Quần áo anh không bao giờ để Út phải giặt với cái lí: “Quần áo bộ đội nặng, dày, khó giặt, nhân tiện anh giặt luôn cho em có sao đâu”. Xuất thân trong gia đình nghèo khổ, Tân rất chịu khó lại tiết kiệm, việc gì cũng biết làm.
Út có thai, vợ chồng vui sướng tự hào. Cái thai làm thay đổi dáng đi của chị. Nếu như trước đây chị hơi cúi người về phía trước. Thì bây giờ, đứa con giúp mẹ ngả người về phía sau. Thân hình Út trở nên cân đối đẹp đẽ duyên dáng hơn. Ông bà Đậu, các anh chị cả khu phố đều mừng cho Út.
Đêm nào Út cũng kéo tay chồng đặt lên bụng mình:
- Anh có thấy con của chúng ta đạp không?
Tân nhẹ nhàng đặt tay lên bụng vợ. Anh ngồi dậy, áp tai để nghe:
Nghe tiếng con đạp, anh khẽ nói:
- Cu cậu sau này nghịch phải biết, chứ không như bố.
- Anh muốn đẻ con trai trước à?
- Con nào cũng được.
Anh nói: “Cu cậu sau này nghịch phải biết, chứ không hiền như bố”. Anh muốn em đẻ con trai phải không?
- Đẻ con trai vẫn sướng hơn
Vào buổi chiều. Nắng thu nhạt dần, những cành bàng lá vàng rực trước cửa. Từ sáng tới giờ Út thấy máy mắt liên tục. Chị đứng ngồi không yên và cảm thấy lo lo. Nhưng chẳng hiểu vì sao?
Bỗng đơn vị cử người đến thăm. Người ấy, vừa kín, vừa hở nói cho Út biết. Sáng nay, Tân đi truy lùng bọn tội phạm nguy hiểm, không may bị thương nhẹ thôi. Tân được đưa về Hà Nội. Thay mặt đơn vị tôi cho xe đến đón chị tới thăm anh. Như một tiếng sét đánh giữa trời quang mây tạnh, Út ngất gục giữa sân nhà, mặt mày xanh như tàu lá.
Tới nơi, chị chạy tới ôm choàng lấy Tân. Miệng kêu gào, than khóc đến lạc cả giọng: “Anh Tân ơi! Anh đừng chết. Anh phải sống với em và con. Anh Tân ơi anh còn chưa thấy con kia mà. Em cứ nghĩ, duyên phận chúng ta phải chiều thì được sống mãi mãi bên nhau”. Miệng gọi, tay Út lay mạnh vào người chồng. Anh lạnh dần, anh đi thật rồi, Út vội vàng vuốt mắt chồng.
Út vật vã, than khóc thảm thiết, chị ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mọi người xúm vào cấp cứu cho chị.
Ông bà Đậu thương con đến đứt ruột đứt gan. Ông vừa khóc vừa nói:
- Tân là người tốt, thật hiếm có, con và Tân sống hạnh phúc bố mẹ rất mừng. Nhưng số phận của Tân chỉ thế thôi. Nó hy sinh vì dân, vì nước, vì sự bình an cho mọi người. Tân ra đi, phận nó đã đành. Trách nhiệm của con lớn lắm. Cái thai trong bụng, giọt máu Tân để lại, con phải vượt lên đau khổ, cố gắng ăn uống giữ gìn sức khỏe để nuôi con. Con cứ khóc mãi và không ăn uống gì, đứa nhỏ sống bằng gì.
Thời gian trôi đi, nỗi đau lòng Út nguôi dần, như nồi nước sôi lâu dần cũng phải nguội. Út nghĩ đến trách nhiệm làm vợ, làm mẹ, chị gượng đứng dậy.
Ba tháng sau chị sinh con trai. Thằng bé khỏe mạnh, kháu khỉnh. Nó giống Tân về vóc dáng, sức khỏe, nhất là cái mũi thẳng, đôi mắt xếch. Nó giống mẹ cái miệng và nước da. Cả nhà, cả tổ dân phố đều mừng cho Út. Thằng bé được mọi người chuyền tay nhau bồng bế.
Ôm con vào lòng, niềm vui tràn ngập trong lòng chị, chị càng thương nhớ chồng khôn nguôi. Chị thầm hứa với anh: “Anh yên tâm, em sẽ nuôi con khôn lớn trưởng thành để kế tục sự nghiệp của anh”.
LỜI TỪ BIỆT TRƯỚC CỬA THIỀN 
Từ ngày về nước và đứng trên bụng giảng được hơn năm năm, Hoà có dịp tiếp xúc, làm quen với nhiều cô gái, với hàng trăm nữ sinh viên. Nhưng không người con gái hay nữ sinh nào lọt vào “mắt xanh” của anh. Mỗi người một vẻ, được mặt này lại hỏng mặt khác. Nhưng có lẽ, cái chính là anh còn nhớ tới Ngọc, mối tình đầu ở quê nhà, nơi có dòng kênh xanh thắm, nhẹ nhàng trôi với bao nhiêu kỷ niệm đẹp. Vậy nhưng gần đây, cuộc gặp gỡ với Minh Hương đã làm anh xao xuyến, như bị hút hồn. Hương có đôi mắt đen lay láy và sâu thăm thẳm, thật quyến rũ. Thoáng nhìn hơi buồn, nhìn lâu thấy đẹp và thông minh lạ thường. Cái mũi dọc dừa, cao như mũi người châu Âu. Cái miệng xinh tươi, đôi môi đỏ mà chẳng cần thoa son. Hàm răng trắng tinh đều đặn như hạt lựu. Nước da trắng mịn như hoa lan, hoa huệ. Mười ngón tay như búp măng non, đẹp như ngón tay tượng phật bà. Minh Hương không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Đối với bạn bè, nàng luôn cởi mở, gần gũi và sẵn sàng giúp đỡ. Nàng có giọng nói êm dịu, ngọt như mía nướng, cứ như rót mật vào tai người nghe.
Ở Minh Hương có gì đó như là khiêm tốn, biết tự trọng và cẩn thận mỗi khi giao tiếp với thầy và người lớn tuổi. Một đôi lần anh gặp nàng ở cổng trường, trước cửa lớp, nàng khẽ cúi đầu, tươi cười nhỏ nhẹ: “Em chào thầy” rồi lặng lẽ bước đi. Nhưng nhiều lần ở trên lớp, anh thấy đôi mắt nàng thường chăm chú nhìn anh, vẻ đắm say. Đôi mắt ấy như muốn nói với anh bao điều thầm kín. Nhưng ngay lập tức, anh phản đối chính mình: “Ngồi trên lớp, đã là sinh viên đều phải có ý học tập, tai lắng nghe, mắt nhìn thầy giảng bài là chuyện quá bình thường”. Cẩn thận hơn, liên tiếp ba bốn giờ sau, Hòa cố ý dừng lại để nhìn nàng. Quả nhiên, anh bắt quả tang nàng nhìn trộm anh. Không những thế, đôi mắt còn gửi tất cả tình cảm trìu mến của nàng. Nhưng anh cứ lờ đi như không nhìn, không biết.
Khuya lắm rồi, Hòa trằn trọc, suy nghĩ mãi không tài nào chợp mắt nổi. Đôi mắt này đã thuộc về anh? Anh quên Ngọc rồi sao? Anh đã chờ nàng gần 20 năm chứ ít đâu. Bao nhiêu người cùng thời với anh đều đã lấy vợ sinh con. Chiến tranh mà… Trái tim anh rộn ràng hẳn lên, đầu óc phấn chấn và quyết tâm.
Buổi học kết thúc, anh dặn nàng ở lại gặp riêng để bàn biện pháp nâng cao chất lượng học tập của lớp, vì nàng là lớp phó phụ trách học tập. Hôm đó, anh đã tỏ tình với nàng. Nàng e ấp đón nhận tình cảm của anh.
Mưa dầm, lâu dần ướt áo, Hòa và Minh Hương yêu nhau tha thiết. hai người dự định khi nàng ra trường sẽ làm lễ cưới. Lúc này nàng đã là cô giáo, mối tình của hai người không bị quan hệ thầy trò ràng buộc nữa. Anh bốn mươi, nàng ngoài hai mươi. Tuổi tác chênh lệch nhưng đã yêu nhau, điều đó sẽ dễ dàng vượt qua.
Mạ già ruộng ngấu, cưới nhau vừa trọn một năm, nàng sinh cho anh một “hoàng tử” thật khôi ngô, khỏe mạnh. Giống anh về vóc sáng, đôi mắt trong veo và sắc sảo. Giống nàng ở nước da và cái miệng xinh xinh.
Hai năm sau, Hương lại cho ra đời một “công chúa”. Cả anh và nàng đều mãn nguyện và hạnh phúc. Đúng khi ấy, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Hòa được điều về quê công tác, anh hồ hởi lên đường. Minh Hương vui buồn lẫn lộn. Mừng đất nước hòa bình, thống nhất, anh được trở về quê hương công tác nhưng nàng lại lo sợ sự cách xa... Hòa dặn vợ:
- Em cứ yên tâm nuôi con. Anh về quê sẽ chuẩn bị nhà cửa và mọi điều kiện. Khi nào ổn định anh sẽ trở ra đón em và con.
Minh Hương khóc thút thít, nghẹn ngào nói:
- Về tới trong đó, anh nhớ biên thư ra ngay để em yên tâm. Anh nhớ kể cho em biết về hoàn cảnh gia đình, người thân. Ai còn, ai mất? Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe và cẩn thận trước mọi quan hệ để thoát khỏi những viên đạn bọc đường. Ổn định rồi phải đón em và con vào ngay.
Anh vỗ về vợ và hứa:
- Từng này tuổi đầu, anh biết mình phải làm gì. Xin nhớ lời em dặn.
Về tới Sài Gòn, với tấm bằng phó tiến sĩ, Hòa được bố trí làm phó giám đốc một ngành. Mặc dù bận bịu, xong anh cũng thu xếp về thăm quê ít ngày.
Về tới quê, anh được biết ba anh hy sinh từ hồi Mậu Thân, má anh theo Hồng Ngọc lên Sài Gòn ở. Tại sao má lại theo Hồng Ngọc lên Sài Gòn? Chẳng lẽ má phải sống nhờ nàng? Ngọc lấy tư cách gì để nuôi má? Từng ấy câu hỏi trong anh mà chưa có lời giải đáp.
Anh và Hồng Ngọc cùng quê. Anh hơn nàng một tuổi. Anh cùng học một lớp với Hồng Ngọc. Ba má Ngọc buôn bán ngoài chợ, thuộc diện có máu mặt. Nàng có khuôn mặt tròn đầy như vầng trăng, đôi mắt bồ câu hiền từ, nhân hậu, dáng người tầm thước, khỏe mạnh, hoạt bát. Với nước da đen giòn và rắn chắc. Thủa học trò, hằng ngày, Hòa chèo xuống ghé qua chợ đón Ngọc đi học. Nhiều buổi, tan học, mải mê hái hoa, tìm trái cây bên bờ kênh mãi tới trăng lên mới về nhà. Nàng bị ba má rầy la và đe không cho đi học nhưng Ngọc rất thông minh nên ba má chỉ nói vậy thôi. Một lần khác, hai đứa mải nói chuyện, đùa rỡn làm xuồng chòng chành, chao đảo, xoay chong chóng rồi lật úp hất cả hai xuống kênh. Hồng Ngọc vùng vẫy mãi mới thoát ra được. Hòa phải dùng hết sức lực để lật xuống trở lại và dìu Ngọc lên xuồng. Ngọc hốt hoảng, mặt mày xanh lét, cắt không còn giọt máu. Hòa mệt nhoài, thở như kéo bễ. Cả hai ướt như chuột lội nước, Ngọc mặt đỏ bừng nhớ lại lúc Hòa nhấc mình đưa lên xuồng. Tự nhiên Ngọc có cảm giác vừa sung sướng lại vừa e thẹn. Hòa nhìn thẳng vào mắt Ngọc nói: “Ước gì được ôm em mãi mãi”. Cả hai đều bối rối và nhớ mãi kỷ niệm này.
Thế rồi, một hôm Hòa nắm tay Ngọc thủ thỉ:
- Anh rất yêu em! Em đồng ý làm vợ anh nhé!
Ngọc để yên bàn tay nhỏ nhắn trong bàn tay ấm áp của Hòa. Nàng nhìn anh trìu mến. Hòa lắc lắc tay Ngọc, giục:
- Em trả lời câu hỏi của anh đi.
Ngọc lặng lẽ bỏ đi. Hòa đuổi theo và giữ Ngọc lại. Anh ôm choàng lấy Ngọc. Ngọc phải khẩn khoản:
- Buông em ra, nhỡ ai trông thấy thì khốn.
Hòa đánh bài liều, ghì chặt lấy Ngọc và ra điều kiện:
- Nếu em không trả lời, anh không buông.
Im lặng. Một lúc sau, Ngọc e thẹn, ấp úng trả lời:
- Yêu! Nhưng chờ đến khi học xong mới tính chuyện hôn nhân.
Hòa liều mạng, đặt nụ hồn nồng cháy đầu tiên lên má Ngọc. Nàng cúi mặt thẹn thùng, hai tay đấm vào ngực Hòa: “Em cấm, cấm ngặt!”.
Gia đình Hòa là gia đình cách mạng. Ba anh đi thoát ly. Má anh hoạt động ở địa phương. Hòa được ra Bắc tập kết. Trước khi đi, Ngọc tặng anh chiếc khăn rằn, gửi vào đó lòng chung thủy. Chuyện tình cảm của Hòa và Ngọc được cả hai gia đình chấp nhận tác thành.  
Hòa lên Sài Gòn tìm Hồng Ngọc. Nhưng tìm nàng như thể tìm chim, mò kim đáy biển. Hòa dò hởi gần khắp hàng ngũ giáo chức mà vẫn bặt vô âm tín. Một buổi chiều, Hòa tới thăm người bạn xưa. Thấy tấm hình của vợ anh bạn chụp chung với một phụ nữ. Hòa dừng lại nhìn kỹ tấm hình. Càng nhìn, anh càng thấy giống Hồng Ngọc. Bỗng anh cất tiếng reo khe khẽ: “Nàng đây rồi”. Anh hỏi bạn:
- Người này là ai? Bây giờ ở đâu?
Bạn anh trả lời:
- Cô ấy là Nguyệt Nga cùng dạy một trường với bà xã mình. Nàng ấy đúng là Nguyệt Nga. Hai mươi năm có lẻ chờ người yêu, chẳng kém Nguyệt Nga chờ Vân Tiên. Hơn thế nữa, Nguyệt Nga còn nuôi má người yêu hàng chục năm trời. Khi bà cụ mất, nàng chôn cất tử tế và thờ cúng như nàng dâu hiếu thảo. Xúc động và khâm phục quá phải không?
Hòa bộc bạch:
- Người này mình rất quen. Tên của nàng còn đẹp hơn thế nữa. Anh có thể đưa tôi đến gặp nàng? Biết đâu chẳng là người thân mà tôi đang tìm kiếm.
- Hôm nay thì không được rồi, bà xã mình đi vắng, mình không biết nhà cô ấy.
Vào một buổi chiều nắng đẹp, rực rỡ, chan hòa ánh sáng, Hòa đem theo sự hồi hộp cùng niềm vui đến nhà bạn. Anh được vợ bạn dẫn đến nhà Nguyệt Nga. Qua nhiều đường phố, rẽ vào ngõ ngách, Hòa chuẩn bị tâm lý sẽ được gặp Nguyệt Nga chính là Hồng Ngọc của anh thì vui sướng biết bao. Nhưng nếu Nguyệt Nga là một người xa lạ, anh sẽ đối xử với cô ấy như thế nào? Mải nghĩ, anh và vợ người bạn đã dừng lại trước cửa căn nhà bé nhỏ, đơn sơ.
Cánh cửa vừa mở, chủ nhân vừa cất tiếng chào khách, Hòa đã bật kêu to: Hồng Ngọc. Nàng cũng thốt lên: Anh Hòa!... rồi khuỵu xuống trước cửa. Hòa và người bạn chạy tới dìu nàng dậy.
- Vì sao em phải thay họ, đổi tên và chuyển lên Sài Gòn? Anh đã tìm em suốt từ ngày giải phóng đến nay!
- Chuyện dài lắm anh à! Hồng Ngọc nhẹ đáp.
Người bạn kiếm cớ bận việc rút lui để hai người được tự do. Hồng Ngọc kể:
- Anh đi được hai năm, em trở thành cô giáo làng, đêm ngày mong chờ anh trở về. Nhiều đêm, mơ thấy anh ôm em như ngày nào. Em để mặc cho anh hôn đến ngạt thở. Em ao ước, chúng ta được hiến dâng cho nhau. Em sẽ sinh cho anh một đàn con. Vợ chồng mình cùng dạy học, nuôi con và chăm sóc cha má già.
Hòa cắt ngang lời Ngọc:
- Bây giờ anh cũng cùng nghề với em. Em dạy tiểu học, anh dạy đại học. Thế là ước mơ của em thành sự thật rồi nhé!
Hồng Ngọc kể tiếp:
- Giấc mơ chẳng thành sự thật, càng chờ, càng chẳng thấy và cứ dài dằng dặc. Nhưng em vẫn tin ở ngày mai anh sẽ trở về. Ở quê tụi nó làm khó hoài. Vì chúng biết em liên quan đến người phía bên kia. Tên sĩ quan đồn trưởng thường xuyên đến nhà ve vãn, dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa em. Vì muốn giữ danh tiết khỏi bị vấy bùn, em thay họ đổi tên rồi bí mật chuyển lên Sài Gòn dạy học. Sở dĩ em đổi tên Nguyệt Nga là để luôn nhắc nhở mình chung thủy, đợi chờ anh cả đời theo gương Nguyệt Nga chờ Lục Vân Tiên. Còn lý do hết sức quan trọng nữa, ba anh hy sinh từ hồi Mậu Thân, má bị bắt giam đày ở Sài Gòn. Em lên đó kiếm sống và triệu thăm nuôi má. Đến khi má được trả tự do, đòn tra của giặc khiến má thành tàn phế. Em đón má về nuôi, em là người thân duy nhất của má. Lương giáo viên tiểu học, ít ỏi em còn làm đủ nghề để có tiền sinh hoạt cho hai má con. Tiền thuốc thang cho má. Em phải dậy từ bốn giờ sáng đi đưa hàng thuê bằng chiếc xe đạp cũ kỹ, cọc cạch. Có buổi xe hỏng, đến trường muộn, bị bà Hiệu trưởng quở trách hoài. Buổi tối, em đi bán thuốc lá ở rạp hát, bến tàu, bến xe. Khuya về mệt nhoài ngủ thiếp đi. Bệnh tật của má ngày một nặng, vì những đòn tra tấn dã man của kẻ thù. Em được má giác ngộ cách mạng và trở thành đầu mối giao liên bí mật trong thành...
Năm 1970, má qua đời. Em phải vay mượn tiền của bạn bè để chôn cất mồ yên mả đẹp cho má. Từ đó đến nay, em là người đèn nhang, giỗ tết cho má. Đây là bàn thờ má. Anh đến thắp cho má tuần nhang, báo với má anh đã trở về.
Hòa đứng dậy vội vàng đến bàn thờ má. Anh xúc động, nước mắt giàn giụa. Chắp tay trước ngực anh khấn:
- Thưa má! Con đã về. Má và con mãi mãi biết ơn Ngọc.  Ngọc đã thay con nuôi dưỡng, chăm sóc má rất tận tụy. Khi má quy tiên, Ngọc chôn cất má mồ yên mả đẹp và thờ cúng má suốt những năm qua. Con xin phép má làm lễ cưới tạ ơn Ngọc.
Ngọc cắt lời Hòa:
- Tất cả những gì anh nói với má, em xin ghi lòng tạc dạ, khắc cốt ghi xương. Nhưng anh muốn cưới em để tạ ơn thì xin cho em thêm một thời gian suy nghĩ đã.
Hòa vội thanh minh:
- Kìa em! Anh rất thật lòng. Anh muốn chúng ta làm lễ cưới ngay ngày mai.
Hai mươi năm có lẻ chờ đợi còn được, đi đâu mà vội vàng thế anh. Xin anh nghe nốt đoạn sau khi má qua đời. Hồng Ngọc vừa khóc vừa kể:
- Má ra đi để lại cho em niềm tiếc thương vô hạn và nỗi trống vắng cô đơn. Đêm nào, em cũng mơ thấy má. Má ân cần, an ủi em mỗi khi em đi làm về. Má đi rồi, em chồng chất những khoản nợ lo chôn cất cho má. Túng quá, em phải bán máu, bán tóc để lấy tiền trả nợ. Ngày xưa, tóc em dài chấm gót, mỗi khi gội đầu phải đứng trên ghế chải tóc. Bây giờ tóc em chỉ còn ngắn cũn cỡn vậy, xấu lắm phải không anh? Gặp lại anh là em mãn nguyện và bõ công đợi chờ rồi.
Ngọc dứt lời kể, cả hai người cùng khóc.
Vào một buổi sáng chủ nhật, Hồng Ngọc đến thăm Hòa. Ngọc mặc bộ áo dài màu vàng nhạt. Nàng thoa chút phấn lên mặt và tô môi đỏ cho tươi tắn, móng tay, móng chân tô màu bạch kim dịu dàng. Lần đầu tiên sau ngày giải phóng, nàng trang điểm. Hồng Ngọc vừa bước vào nhà, Hòa sửng sốt reo lên:
- Trời ơi! Hôm nay em đẹp quá.
- Đẹp như bà già phải không anh? Em đã ngoài bốn mươi tuổi rồi mà. Cả tuổi thanh xuân dành để chờ anh...
Hòa lên lầu lấy những tấm ảnh hồi du học ở Liên Xô cho nàng coi:
Bỗng có tiếng chuông: Reng! reng! reng!... Hồng Ngọc ra mở cửa. Trước mặt chị, một người phụ nữ trẻ đẹp, tay bế con nhỏ, tay dắt con lớn. Người lái xe ôm đang đỡ đồ đạc, hành lý xuống:
Hồng Ngọc tươi cười, lịch sự hỏi:
- Chị tìm ai? Có việc gì?
- Em là vợ anh Hòa. Đây là hai con của anh ấy!
Hồng Ngọc tối sầm mặt lại. Mắt nhòa đi. Đầu óc quay cuồng, choáng váng. Chị có cảm giác ngôi nhà ba tầng như sụp đổ, gạch bắn tứ tung. Tim chị đập liên hồi như trống trận. Nhưng vốn là người từng trải nên Ngọc trấn tĩnh được ngay. Chị dịu dàng:
- Em bế cháu vô nhà đi!
Nói xong, chị chạy tới dắt con trai Hòa vô nhà, miệng khen:
- Ồ cháu trai xinh quá. Giống cha như đúc, giống mẹ như tạc. Đoạn chị quay ra bảo người đạp xích lô chuyển đồ vô nhà. Đưa vợ con Hòa vào nhà xong, Ngọc quay trở ra, lặng lẽ gọi xe ôm ra về, bỏ lại chiếc xe đạp.
Hòa trên lầu bước xuống, anh ngạc nhiên, thẫn thờ trước sự xuất hiện của ba mẹ con Minh Hương. Tuấn Minh chạy lại ôm chầm lấy cha. Hương trao đứa con gái nhỏ cho Hòa để bác lái xe mang các thứ vào nhà. Bỗng Hòa sực nhớ tới Ngọc. Anh sững sờ, hốt hoảng hỏi:
- Nguyệt Nga đâu em?
- Nguyệt Nga nào?
- Nguyệt Nga vừa tới thăm anh đấy thôi.
- Chị ấy vừa dắt Tuấn Minh vào nhà. Chị ấy đi đâu mà nhanh thế nhỉ? Chị ấy là gì với anh?
- Chị ấy là giáo chức chế độ cũ. Chị ấy vừa tới thăm anh.
- Vậy sao! Anh chạy ra ngoài cổng, mời chị ấy ở lại liên hoan với gia đình mình.
Hòa lật đật chạy ra ngoài. Anh nhìn trước, ngó sau mà chẳng thấy Hồng Ngọc. Anh hỏi thăm mấy bà bán quán ven đường. Họ đều trả lời: “Chị ấy gọi xe ôm đi rồi”. Lòng Hòa dâng đầy nỗi ái ngại về Hồng Ngọc, nhưng anh không nói cho Hương biết.
Kể từ khi Hương đột ngột dẫn con vào, thái độ Hòa không được vui. Anh cố giấu vợ con. Hòa giúp Minh Hương dọn dẹp nhà cửa, ổn định cuộc sống gia đình. Hai đứa con cứ quấn quýt, không rời anh nửa bước.
Chiều hôm sau, hết giờ làm việc, anh tới thăm Hồng Ngọc. Vừa tới cổng, bà hàng xóm nhà Ngọc chạy tới đưa cho anh một bì thư dày cộm, dán kỹ. Hòa vội vàng bóc thư. Bì thư gồm lá thư ly biệt, giấy chuyển nhượng nhà đất, chìa khóa cổng, chìa khóa nhà, chìa khóa tủ của Ngọc cho anh. Thư viết:
Anh Hòa muôn vàn yêu thương!
Tình nghĩa giữa em và anh sâu nặng như biển cả, núi cao. Em là người đến trước nhưng lại chưa danh chính, ngôn thuận. Mặc dù, em có công nuôi dưỡng, chăm sóc má suốt mấy năm trời. Với tình yêu ấy, với công lao ấy, em đáng được hưởng hạnh phúc chồng vợ cùng anh. Nhưng, Tuấn Minh và Hương Thu ràng buộc, níu kéo anh quá bền chặt, không một sức mạnh nào có thể thay đổi nổi.
Trước tình cảm ấy, em không có lý do gì để chia rẽ gia đình anh. Vì thế, em tự nguyện ra đi vĩnh viễn. Anh cứ coi như em đã chết rồi và mang theo mối tình sâu nặng, nồng thắm, đặc biệt này. Anh đừng đi tìm kiếm em mà mất công, vô ích.
Chúc anh và Minh Hương cùng các con mạnh khỏe, hạnh phúc mãi mãi.
Vĩnh biệt anh.
Tái bút: Em để lại căn nhà nhỏ bé và đơn sơ cho con trai Tuấn Minh.
Những ngày sau, lương tâm Hòa dày vò và cắn dứt không nguôi. Anh bỏ công sức đi tìm Hồng Ngọc mà chị biệt vô âm tín. Anh kể lại cho Hương nghe câu chuyện tình sâu nặng của anh với Ngọc cũng như công lao to lớn của Hồng Ngọc đối với má anh, tấm lòng cao thượng của chị với vợ chồng anh. Minh Hương thật sự xúc động và thương xót cho Hồng Ngọc. Suy nghĩ một hồi lâu, nàng nói:
- Chị Ngọc có thể vượt biên, hoặc nương nhờ cửa phật để chạy trốn nỗi bất hạnh, đau thương. Chị nhường lại hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chị vượt biên thì thật khó tìm kiếm. Hy vọng, chị nương nhờ cửa phật, may mắn có ngày chúng ta sẽ tìm thấy chị. Chúng ta sẽ đón chị, chấp nhận là em của chị. Nghe Minh Hương nói vậy, Hòa xúc động ứa nước mắt. Anh cảm ơn nàng.
Từ đó, cứ vào chủ nhật, Hòa và Hương thường đi lễ chùa vừa để cầu phúc, cầu tài cho gia đình, vừa đi tìm Hồng Ngọc. Cứ nghe nơi nào có chùa, có sư là Hòa, Hương lần tới. Nhưng chỉ tốn công, tốn sức…
Năm vừa rồi, vợ chồng anh ra Hà Nội chịu tang cha Hương. Trước khi về Sài Gòn, Hòa và Hương sang lễ chùa ở Bắc Ninh và đón sư đến nhà làm lễ cầu siêu cho bố. Tình cờ, hai người gặp lại Hồng Ngọc. Hòa sửng sốt kêu to:
- Hồng Ngọc! Ngọc!
Hồng Ngọc vụt chạy biến vào trong chùa, bỏ mặc Hòa và Hương đứng ngây ra đó. Ngọc lúc này đã có tên là Diệu Linh. Hòa và Hương phải nói khéo với sư cụ trụ trì, nhờ nói với Diệu Linh để vợ chồng anh được gặp.
Khi gặp, Diệu Linh chắp tay, lạnh lùng nói:
- Mô phật! Cảm ơn thí chủ có lời hỏi thăm. Mọi việc đã được an bài, theo sự sắp đặt của Phật tổ, không thay đổi gì được nữa. Cầu chúc hai người mạnh khỏe, hạnh phúc. Cầu chúc cho hai con Tuấn Minh, Hương Thu mạnh khỏe, học giỏi. Ta yên phận nơi cửa phật rồi. Nếu các thí chủ nhớ tới kẻ tu hành này thì hằng năm vợ chồng đưa các con đến thăm là ta mãn nguyện.
Nói xong lời từ biệt, Diệu Linh thanh thản bước vào trong chùa. Bỏ mặc Hòa, Hương nước mắt nhạt nhòa nhìn theo.
TRẦN MINH THẢO
Quán Mãng Xà Vương
Tập Truyện ngắn đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2006 - 2010)

BÀI KHÓA LUẬN CHÉP TỪ MIỆNG NGƯỜI LÀNG VŨ ĐẠI
Khúc dạo đầu
Truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao đã khép lại sau cái chết của hai nhân vật chính. Mọi người đều tin là như vậy, nếu như không có lời kể tiếp của ông Hợp, người mà tôi gặp trong một hoàn cảnh không ngờ.
Hồi đó (1965) do Mỹ đem máy bay đánh phá miền Bắc, nên các trường ở Hà Nội phải sơ tán, Trường Đại học Sư phạm của chúng tôi phải chuyển lên vùng Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Sinh viên phải ở nhờ nhà dân. Dân ở đây đa số là người Tày, sống trong các ngôi nhà sàn, bám theo con suối vòng vèo theo chân dãy núi. Tôi và cậu Bùi được đưa vào ở nhờ nhà ông Hợp. Một gia đình nông dân nghèo, gồm bốn “khẩu” - Hai ông bà và hai con, một trai một gái, đứa trai độ 10 tuổi, bé gái độ 8 tuổi. Ở cái tuổi 50 mà con ông còn nhỏ như vậy là hơi muộn, chắc phải có lý do. Riêng vợ ông nhìn bề ngoài còn rất trẻ, lại đẹp gái nữa, thế mà chị cũng đã bốn mươi chín cái xuân xanh. Tôi và Bùi vốn xuất thân từ nông dân nên cũng “nhẹ sẹo”, sẵn sàng giúp gia đình những công việc lặt vặt. Sinh viên nghèo với nông dân nghèo nên cũng dễ cảm thông, dần dần vợ chồng ông Hợp coi chúng tôi như người nhà. Có lẽ vì vậy nên ông Hợp mới cảm thông và bộc bạch thân phận để có câu chuyện này.
Một chiều tháng Mười, sinh viên khoa Văn năm thứ ba được nghỉ lên lớp để tập làm Đề cương luận án tốt nghiệp. Tôi được giao đề tài có tính chất giả định, đòi hỏi óc tưởng tượng: “Làng Vũ Đại sau vụ án Chí Phèo - Bá Kiến”… Suốt cả buổi, tôi chẳng nghĩ ra được ý tứ gì, cứ vò đầu bóp trán mãi, người như muốn phát sốt. Thấy tôi ngơ ngẩn không yên, ông Hợp hỏi: Chú Thảo nhớ nhà hay sao đấy? Chắc lại nhớ “mẹ hĩm” chứ gì! Ngày tôi còn tại ngũ cũng có lúc nhớ vợ đến “nhức nhối cả cái sự đời” nhưng cũng phải cố mà nhịn. Biết làm sao! Tôi vội cười thanh minh:
- Không đâu! Em gặp cái đề Văn “hóc” quá! Nghĩ mãi mà chẳng được chữ nào!.
- Đề thế nào mà khó quá vậy? Chú cho tôi nghe, biết đâu lại “gỡ” được cái khó cũng nên. Tôi đọc đề cho ông nghe mà trong lòng vẫn nghĩ: Mấy trăm sinh viên khoa Văn mà còn chẳng “nhằn” được, dễ gì ông ấy giúp được mình! Không ngờ nghe xong ông cười rồi bảo tôi: Tưởng thế nào thì anh chịu, chứ chuyện có liên quan đến làng Vũ Đại thì anh có thể giúp chú được! Nhưng bây giờ chú giúp anh đi quảy gánh nước đã!
Việc quảy một gánh nước có đáng gì. Cái lớn vẫn là đề văn, không biết  nó nặng bằng bao nhiêu gánh nước!
Mùa Đông! Buổi chiều ở Việt Bắc rất ngắn, có lẽ do sương mù và bóng núi che mất mặt trời. Mới 6 giờ chiều mà mọi nhà đã phải lên đèn. Giữa nhà sàn bếp đã rực lửa. Sinh viên thường vây quanh để bổ sung cho cái dạ dày còn lép kẹp thêm khoai sắn nướng, mặc dù đã được ăn bữa chiều. Trời rét ngọt, ai không có việc gì thì đã lên giường đắp kín chăn bông. Cậu Bùi thì đã sang nhóm nữ ở nhà ông Lê để tán gẫu. Ông Hợp cùng tôi ngồi bên bếp với ấm chè đặc sản và chiếc điếu cày dài. Đã qua mấy tuần trà thuốc mà ông Hợp vẫn chưa động hề gì đến cái việc giúp tôi như lời ông đã hứa ban chiều. Tôi nóng ruột đành phải “ngỏ nhời”:
- Bác giúp được em giải cái đề văn thực chứ?
- Thực chứ sao không? Ông đáp: Sở dĩ tôi chưa nói ngay được là vì còn phải sắp xếp các sự kiện sao cho đúng với quá trình diễn ra ở làng Vũ Đại từ sau vụ Bá Kiến - Chí Phèo, vì đây là những chuyện có thực.
Kể cả chuyện Chí Phèo mà ông Cao đã viết cũng là câu chuyện hoàn toàn có thực, ông chỉ đổi tên làng, tên người cho đỡ rắc rối thôi. Năm 1950, gặp ông Cao ở Tây Bắc, tôi có hỏi ông: Vì sao tên tôi là Hợp mà trong chuyện ông lại gọi tôi là Năm Thọ? Ông vừa cười vừa giải thích: Vì cậu làm phu cao su ở miền Nam nên phải thêm chữ Năm vào cho hợp với cách nói của người nam. Hơn nữa cậu đang bị truy tố về tội giết người, nếu không đổi tên cho cậu thì Tây nó sẽ “làm dưa” cậu, hiểu chưa, hả ông Năm Thọ? Tôi hiểu ra vấn đề, và thán phục nhà văn cao kiến.
Ông Hợp nói: Tôi thì dốt, chữ nghĩa “ngắn”, chẳng rõ giúp được cái đề văn của chú bao nhiêu. Tôi chỉ kể câu chuyện thực. Còn chú muốn đưa “nó” vào chỗ nào thì tùy. Chuyện dài đấy! Chú phải ghi lại thì mới không bỏ sót.
Chẳng phải nhắc, tôi cũng đã sẵn sàng “nghiên bút” trong tay. Dưới ngọn đèn Hoa Kỳ khi mờ khi tỏ, quá khứ làng Vũ Đại hơn hai mươi năm trước lần lượt hiện về theo lời kể của ông Hợp.
Làng Vũ Đại sau ngày ấy
Tôi xin báo cái tin có thể làm cho chú sửng sốt:
Thứ nhất: Tôi là Năm Thọ, nhân vật chỉ lướt qua câu chuyện bằng câu nói của Bá Kiến
Thứ hai: Chí Phèo không chết như ta vẫn tưởng. Anh ta đã “tái xuất giang hồ” và hiện nay cũng ở cách đây không xa. Điều này thì đến cụ Nam Cao cũng bị bất ngờ. Lần gặp cụ ở chiến trường, tôi nói chuyện Chí Phèo còn sống, cụ cứ há hốc mồm ra mà không tin. Tôi phải xuống tận nhà bếp của đơn vị dẫn điệu Chí Phèo gặp cụ. Nhà văn nhìn nhân vật của mình như nhìn một thây ma, mắt cụ mở trừng trừng. Cụ sờ tay vào từng vết sẹo ăn vạ trên mặt Chí như để kiểm định nhận dạng. Cụ lấy tay giằng tóc Chí, thấy anh kêu oai oái, bấy giờ cụ mới tin là thực. Nhà văn nói với tôi và anh Chí: Chuyện này hay đấy! Để khi kháng chiến thành công, ta sẽ viết tiếp phần hai: “Làng Vũ Đại sau ngày ấy”. Nhưng thật đáng tiếc, ông Trí (tên thật của Nam Cao) đã hi sinh năm 1951, không thực hiện được ý nguyện.
Nghe xong, tôi giật thót tim, còn ông Hợp thì cũng ngừng kể, để nhắp chén trà nóng rồi kéo một hơi thuốc lào thật dài để “giải tỏa ký ức” đã dồn nén từ mấy chục năm nay.
Khói thuốc lào cùng với sương đêm luồn vào nhà làm cho không gian mờ ảo, đưa chúng tôi về với câu chuyện như mơ như thực, thoắt ẩn thoắt hiện như nước suối sau nhà loang loáng dưới ánh trăng lu. Khi đã thỏa mãn về cái thú thuốc lào, ông tiếp tục kể:
- Về đời tôi, tôi sẽ kể sau. Bây giờ ta hãy nói về việc Chí Phèo sống lại đã. Phần này tôi không được trực tiếp chứng kiến, mà chỉ được nghe mấy anh tuần phiên đi chôn Chí Phèo sau này kể lại. Hôm ấy Chí Phèo đâm Bá Kiến nhiều dao thí mạng. Nhát dao hận thù mà, nên Bá Kiến chết ngay. Còn nhát dao Chí tự đâm vào cổ mình thì do một phần vì sợ hãi, một phần vì luống cuống nên dao tuy đâm vào cổ mà không trúng họng. Máu ra nhiều làm anh ngất đi. Khi khám nghiệm tử thi, bọn chức dịch chỉ nhìn qua, lập biên bản trình quan rồi cho tuần phiên đem chôn. Mấy anh tuần khiêng Chí đi trên một chiếc võng rách khi trời đã nhập nhoạng.
Đến bãi tha ma, họ đặt cái xác xuống để còn đào huyệt. Huyệt đào chưa xong thì trời đổ mưa to. Họ vội đưa xác Chí xuống cái hố vừa đào nham nhở. Nhưng khi họ vừa cầm hai chân, hai tay Chí định đưa xuống hố, thì bỗng nhiên họ hết hồn vì thấy cái xác kêu rên và giãy giụa. Họ vội đặt anh trên bờ và cẩn thận quan sát. Rõ ràng Chí Phèo còn sống. Thật lạ! Sao đã chết rồi mà lại còn sống? Có phải do nước mưa xối vào mặt, hoặc giả bọn khám nghiệm tử thi biết rõ anh còn thoi thóp nhưng cứ đem chôn quách đi cho rảnh nợ? Họ nghĩ vậy và bàn nhau cách giải quyết. Một anh nêu ý kiến: Chúng ta được sai đi chôn Chí Phèo, nhưng anh ta chưa chết nên không thể chôn được. Không thể làm cái việc tàn ác ấy, còn phải để phúc cho con cháu sau này. Chúng ta đây cũng như anh Chí đều bị Bá Kiến bóc lột ức hiếp. Chí đã thay chúng ta đương đầu với Bá Kiến cũng là giúp ta rửa hận. Bây giờ chúng ta phải giải quyết việc này ra sao, xin các anh cho biết? Sau một hồi bàn bạc, ba tuần phiên thấy ý kiến của người vừa nói là có tình, có lý. Họ bằng lòng để cho Chí Phèo sống rồi tìm cách mà trốn đi. Họ đắp một cái mộ giả để che mắt mọi người. Họ cùng thề giữ kín việc này. Ai phản lời thề sẽ bị trừng trị. Chí Phèo được đưa xuống chiếc thuyền câu ở mép nước. Họ đắp cỏ rác lên trên rồi chở ra giữa cánh đồng chiêm đang mênh mông nước, cách xa hẳn làng Vũ Đại.
Trong những ngày Lý Cường và dân làng đang bận bịu với đám tang Bá Kiến, thì trên chiếc thuyền câu ở giữa đồng, Chí Phèo bới được trong cái bị cói của người chủ thuyền câu một ít cơm nguội trộn với cám, một gói muối, hai cái nồi đất đựng khoai lang, vài que củi và một hòn đá đánh lửa. Anh ta sống nhờ vào mấy thứ đó, rồi trong một đêm trăng, Chí xuôi thuyền theo dòng Hoàng Long về phía Ninh Bình, vào rừng Cúc Phương nương náu. Chuyện của anh ta còn dài. Để sau này tôi đưa chú đến gặp, ông ấy sẽ kể cho mà nghe. Còn bây giờ, chú hãy nghe tôi kể về tôi đã.
Tôi ghi theo lời ông Hợp cũng đã toát cả mồ hôi, tay cầm bút đã mỏi nhừ. Được ông cho giải lao để cùng hút thuốc lào, uống nước trà nóng thì còn gì khoái hơn!
Chuyện của tôi cũng “gai góc” lắm đấy chú Thảo ạ. Tuy nó không nhiều chất bi hài như chuyện của ông Chí, nhưng cũng không ít thác ghềnh. (Ông mở đầu câu chuyện của ông như vậy, làm cho tôi khỏe hẳn ra vì sắp được nghe những bí mật của nhân vật Năm Thọ, mà Nam Cao đã hé mở nhưng chưa ai biết gì cụ thể). Tôi hăm hở ghi theo lời ông:
Theo lời người làng kể lại, thì tôi sinh ra trong một gia đình nghèo “không tấc đất cắm dùi” ở làng Vũ Hạ, cùng một xã với Chí Phèo, Bá Kiến. Cha mẹ tôi đều là những người tha phương cầu thực trôi dạt đến từ đâu không rõ. Họ đến Vũ Hạ để làm thuê, ở đợ cho các nhà giàu. Cha tôi cầm đầu một nhóm thợ cày, đào ao, nhổ mạ, gánh phân. Mẹ tôi sắm vai chị cả cầm đầu một nhóm thợ cấy, làm cỏ, gặt hái thu lượm… Nghe nói một lần trên đường gánh lúa từ ngoài đồng về, cánh thợ của cha tôi gặp cánh thợ của mẹ tôi đi từ làng ra. Cánh đàn ông giăng hàng ngang chắn đường không cho cánh con gái đi qua. Họ quấn lấy nhau “cãi vã” và chơi trò “lỡm”. Cha tôi nhìn mẹ tôi chằm chằm rồi hát một câu rất chây chả:
Cô kia cô kịa cô kìa
Cái người xinh thế, “cái kia” thế nào?
Thấy cánh đàn ông hát “đểu”, mẹ tôi quan sát thấy “tay nào” cũng lún phún râu, liền hát trả lời: Người xinh “cái ấy” cũng xinh. Nó giống anh mình, nó đã có râu!
Cha tôi và cả bọn con trai đều “chết điếng” vội lấy tay sờ lên cằm, mặt đỏ tía tai, hò nhau chạy cho nhanh về làng. Cánh con gái đắc thắng cười reo như phá, vội nhặt quang đòn chạy mau ra đồng, kẻo chủ nhà biết thì “rách chuyện”. Cũng nhờ trận “đấu” văn chương này mà cha mẹ tôi yêu nhau theo kiểu “duyên bèo nước” rồi sinh ra tôi chứ cũng chẳng có cưới cheo gì! Quanh cây rơm, xó bếp là nơi tình tự. Của nả trao cho nhau chỉ là những lời ngọt ngào ong bướm, thề thốt trăm năm. Lấy nhau rồi mà vẫn không có đất, có nhà. Ban ngày, mỗi người tự đi kiếm cho mình một công việc làm thuê đủ để nuôi sống bản thân. Đêm khuya, sau công việc của chủ, ăn bát cơm rau muống xong, ra về, đôi vợ chồng hờ mới lại gặp nhau quanh đống rơm, đụn rạ. Nhiều khi họ phải tranh nhau với mẹ con đàn lợn sề để có được “cái giường hạnh phúc”. Những ngày mẹ tôi mang thai, ốm yếu, cha tôi phải cố kiếm để nuôi cả hai người. Buổi trưa, ông đội mưa nắng xuống đồng, mò thêm cua ốc, để mẹ tôi đem đổi lấy bát gạo củ khoai. Không ai mướn mẹ tôi làm nữa, vì người vừa yếu lại sắp đến ngày “nằm ổ”. Cha tôi đành đến nói với lão Lý Cựu làng Vũ Hạ, xin một thẻo đất dựng “nhà” bên bờ đầm cá, với điều kiện phải canh đầm không công cho ông ta. Có túp lều, dù đất mượn, lều tranh, vẫn hơn nhiều cảnh ngủ bờ ngủ bụi. Đêm đêm đôi vợ chồng trẻ quên hết sự đời. Họ đùa nhau bằng những câu ví von “ác khẩu”:
Mẹ tôi hát:
Chồng em hôi nách em thương.
Quanh năm chẳng phải mua hương xông nhà.
Cha tôi vặc lại:
Thân em như quả mướp non.
Nằm bờ nằm bụi rồi cũng đến sớm con muộn chồng.
Thế là huề, anh chị lại cười và ôm nhau chặt hơn cho đến gà gáy sáng thì cha tôi lại vào làng làm mướn, còn mẹ tôi ở nhà trông đầm cá nhà Lý Cựu… (Ông dừng kể để hút thuốc lào và chiêu giọng một chén trà đặc).
Tiếng cậu Bùi đã vang ngoài cửa: Anh Thảo ơi! Chuẩn bị nướng sắn nhé! Nhà có “khách” đấy! Tôi nhìn ra thấy bóng Phương Lan theo sau. Ông Hợp bảo: Thôi ta nghỉ chú ạ! Tối mai ta “làm tiếp”. Bây giờ các chú nướng sắn mà vui với nhau. Anh đi nghỉ đây, mai còn cuốc cho xong cái nương sắn.
Tối hôm sau, tôi lại ngồi nghe đoạn đời tiếp theo của ông Hợp. Lời ông kể hòa lẫn trong tiếng mưa rơi tầm tã và tiếng gió hú từng cơn lạnh buốt của núi rừng Việt Bắc:
“Cuộc sống cơ cực nghèo nàn của gia đình tôi nơi ven đầm cá kéo dài được 15 năm, thì tai họa lớn ập tới. Mẹ tôi qua đời vì bệnh hậu sản do thiếu ăn, thiếu thuốc. Cha tôi đau buồn già tọp hẳn đi, tóc bạc, mắt mờ.
Ông sống cảnh “gà trống nuôi con”, gắng gượng nuôi tôi thêm được 5 năm nữa thì mất. Lão Lý cựu chôn cất cho cha tôi và bắt tôi phải trông đầm cá và chăn trâu suốt đời để trừ nợ. Từ đây, nhà Lý cựu cho tôi ăn rồi bắt tôi học cày bừa, nhổ mạ, gánh phân làm đủ mọi việc… Để bù vào bát cơm thừa canh cặn ấy. Ở tuổi 20, tôi ăn khỏe, làm khỏe và ngủ cũng rất khỏe. Tôi đã trở thành một thanh niên cường tráng, đẹp trai, hát hay, đàn giỏi. Trong làng có nhà ông Đào Thắm, nhà rất nghèo, lại chỉ sinh có một lần được một cô con gái. Thắm kém tôi một tuổi và là bạn chăn trâu cắt cỏ với tôi từ hồi còn nhỏ. Chúng tôi thương yêu nhau như người ruột thịt. Vào lứa tuổi dậy thì, Thắm vụt đổi thay như người lột xác. Tất cả vẻ đẹp khỏe mạnh, dịu hiền, kiêu sa đều tập trung vào thể hình của cô gái quê mùa này nhanh chóng như được trời ban tặng. Thắm yêu tôi và ông bà Đào cũng thuận cho tôi ở rể để nhờ cậy tuổi già. Hạnh phúc đã như cầm chắc trong tay, ai ngờ lại tan vỡ. Lý Kiến cưỡi ngựa đi đốc thuế, gặp Thắm trên đường. Hắn thấy cô gái đẹp lộng lẫy liền nảy thói dâm tà. Hắn hỏi đầy tớ, được biết cô gái là con ông Đào Thắm ở làng Vũ Hạ. Hắn cười khoái chí nhưng không nói gì. Về nhà, hắn gọi đầy tớ đến rồi ra lệnh: Chúng bay mang theo văn tự vay nợ này, xuống nhà lão Đào Thắm ở làng Vũ Hạ đòi trả cụ Bá 300 đồng, tiền chịu thuế đất thổ cư từ mấy năm nay. Nếu không có tiền trả, chúng bay hãy bắt đứa con gái của lão về đây cho tao để trừ nợ. Bọn đầy tớ thi hành mệnh lệnh nhưng không bắt được Thắm, vì cô biết tin, đã bỏ trốn. Ngay tối hôm ấy Thắm ra ngủ với tôi ở lều cá. Cô nói trong nước mắt đầm đìa: “Em rất yêu thương anh, nhưng tình thế này mà chống lại Lý Kiến thì cha mẹ em sẽ bị chúng hành hạ cho đến chết, thân xác em cũng không thoát khỏi hắn đâu. Chi bằng đêm nay, em sẽ hiến dâng tuổi xuân của em cho người mà em thương yêu nhất. Dù chỉ được một đêm hưởng hạnh phúc trọn vẹn với tình yêu cũng còn hơn trăm năm sống bên cạnh cái thằng khọm già khốn nạn ấy”. Nghe Thắm nói, tôi không cầm được nước mắt, hai chúng tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt người này ướt đẫm áo người kia. Qua một đêm hưởng hạnh phúc của tình yêu trọn vẹn, hôm sau thì Thắm phải về cứu cha mẹ cô đang bị bọn người nhà Lý Kiến hành hạ. Thấy Thắm xuất hiện, bọn “quỷ dữ” liền tóm lấy cô, lôi thẳng về nộp cho Lý Kiến. Mặc dù lúc này hắn đã có hai vợ và vẫn thường đi ngủ lang với vợ mõ, vợ lính nữa. Bị cướp mất người yêu, tôi như người phát cuồng, rất căm thù Lý Kiến, ngày đêm nghĩ cách chống lại hắn. Tôi tụ tập một số bạn trai, chuẩn bị sẵn đá và gậy, chỉ đợi Lý Kiến xuống Vũ Hạ sẽ cho hắn một trận. Nhưng hắn biết được nên không bao giờ dám dò xuống Vũ Hạ nữa. Để loại trừ tôi, hắn vu cho tôi liên quan với bọn cướp, rồi vận động bọn quan lại thân cận cho tôi vào tù. Ở tù hai năm, khi ra tù, tôi không về làng nữa, mà vào Nam làm phu cao su ở Đồng Nai. Cũng vào dịp này thì Bá Kiến đã thăng chức Bá hộ. Chức Lý trưởng làng Vũ Đại thì con trai hắn nắm giữ thay cha, tức Lý Cường.
Kể đến đây, ông Hợp lại nghỉ để hút thuốc và “chiêu” giọng một chén trà.
Vài phút sau, ông bảo tôi: Phần sau đây diễn ra ở nhà Bá Kiến thì tôi chỉ được nghe qua lời thuật lại của Thắm sau này:
“Lão “dê già” nhìn Thắm mê mẩn rồi cao hứng tuyên bố trước mặt cả hai vợ và con trai hắn là Lý Cường: Cô Thắm đây là bà ba của nhà này chứ không phải thân phận kẻ ăn người ở. Cấm không ai được hỗn với bà ba. Bà bảo gì thì phải nghe, cả ta cũng vậy, đứa nào không “tuân” sẽ bị trị tội. Hai bà vợ lớn và cả Lý Cường chỉ còn biết cúi đầu cam hận, bĩu môi nguýt dài rồi bỏ đi như kẻ thất bại.
Ngay chiều hôm ấy, Bá Kiến cho mời hội đồng hương chính đến nhà nhậu nhẹt và lập tờ giá thú, Thắm chính thức trở thành vợ ba của hắn. Đêm đầu tiên, thấy Thắm đã “thất tiết”, hắn tra hỏi nguyên nhân, Thắm trả lời thẳng vào mặt tên dê già “cái đó” tôi đã giành cho người yêu của tôi rồi. Ông là người “đến sau”, có thế nào thì hưởng thế, quyền gì lúc đó mà đòi, của tôi, tôi cho ai, ông hỏi làm gì? Bây giờ ông cướp được “nó”, ông hãy lo mà giữ, đừng để bị “cắm sừng” là may rồi!
Nếu ông còn tra hỏi, hành hạ tôi về việc này thì tôi sẽ tự tử. Tôi chẳng thiết gì cái kiếp vợ ba của một lão khọm già như ông đâu!
Bá Kiến nghiến răng trèo trẹo, rồi sụp xuống như quả bóng hết hơi, tập tễnh lê ra khỏi buồng bà ba về nằm trên sập gụ như con mèo hen, thở khò khè cho đến sáng”.
Nói thật với chú Thảo, trên đời này không có gì đau đớn và uất ức bằng bị cướp mất người yêu. Tôi làm cao su đã một năm, gặp nhiều cô gái, nhưng không cô nào thay thế được hình bóng Thắm ở trong tim. Nỗi đau âm ỉ kéo dài làm cho đầu óc tôi phát khùng, chỉ muốn tìm đến cái gì đó để đập phá cho hả giận. Và dịp ấy bỗng xuất hiện. Một đêm tháng 5. Trời sáng trăng nhưng nóng bức không sao ngủ được. Tôi rời khỏi túp lều lán lè tè đi dạo một mình trong rừng cho khuây khỏa. Bỗng nghe thấy bên lán chị em nữ có tiếng kêu cứu. Tôi vội phi tới nhòm vào thì thấy mấy thằng tây lai đang đè cô Liễu trên sàn. Tôi nổi máu điên, rút ngay con dao mủ cài trên vách, xông vào móc cổ thằng Tây lai, giật mạnh một cái, hắn văng xuống sàn, máu ộc ra từ họng, chết thẳng cẳng. Nhận thấy thế nguy, tôi bảo Liễu: Em hãy trốn biệt tăm đi. Anh cũng không thể ở đây được nữa. Nghe đâu Liễu chạy về vùng rừng U Minh, còn tôi cũng chuồn nhanh về Bắc. Lệnh truy nã tôi và Liễu được bọn tây gửi đi khắp nơi. Bá Kiến cũng đã có “tờ trát” trong tay, nhưng trong trát ghi một cái tên khác - cái tên mà tôi đã cải để vào Nam.
Kể đến đây, ông ngừng lại để trút một hơi thở dài cho hả bớt phần nào nỗi uất hận ở đời. Tôi nhìn thấy đôi mắt ông rớm lệ. Tôi cũng bùi ngùi chia sẻ cảnh bế tắc của ông.
Trên đường chạy trốn từ Nam về Bắc - ông kể tiếp. Tôi nghĩ: Phải có giấy tờ hợp pháp để đi biệt tăm mới có thể sống ở cái đất Bắc Kỳ này được. Nhưng lấy đâu ra giấy tờ hợp pháp? Ai là người cấp giấy cho mình? Bất chợt tôi nghĩ đến Bá Kiến. Hắn “phải” là người cấp giấy tờ hợp pháp cho tôi. Khoảng 10 giờ đêm, tôi về đến làng Vũ Đại và đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhìn vào nhà, tôi thấy hắn đang xem những giấy tờ gì đó trên bàn. Tôi trèo qua tường, bò vào đứng ngay sau lưng hắn, lật đầu hắn ngửa lên kề dao găm vào họng và nói: Ngồi im! Kêu một tiếng là ta cắt họng! Ta chỉ cần một thẻ thuế đinh công nhận ta là người lương thiện để đi làm ăn nơi xa. Nếu từ chối nửa câu, ngươi sẽ mất mạng! Hai mắt Bá Kiến trắng dã như mắt người chết. Hắn sụp xuống lạy như bổ củi, không nói được nửa câu. Hắn rút trong tráp ra tập thẻ thuế đinh, rồi ú ớ hỏi:
- Thưa…! Ông muốn điền tên gì ạ?
Tên tao là Bác, Trần Văn Bác, tức là anh bố đẻ ra mày đấy, hiểu chưa? Sau việc này mà mày dở trò báo cho tây thì bác mày sẽ cắt cổ mày, nghe chưa? Hắn run lập cập rồi hý hoáy viết: Trần Văn Bác, 22 tuổi, quê quán làng Vũ Đại… Là lương dân đã nộp đủ thuế cho Nhà nước đại Pháp. Hắn ký tên, đóng triện rồi dâng lên cho tôi, miệng lắp bắp:
- Thưa ông Bác, việc này hở ra thì con chết trước, xin ông Bác yên tâm.
Tôi giật lấy giấy rồi ra lệnh: Quân của tao còn phục ở đây, mày mà lừa tao thì chúng nó sẽ cắt cổ. Tôi ra khỏi nhà lão Kiến, đi về phía rừng Cúc Phương sang Hòa Bình tìm kế sinh nhai. Với hai bàn tay trắng, tôi dùng số tiền nhỏ mọn kiếm được khi làm phu cao su, mua một con dao rừng, một bộ quần áo, rồi dựng một cái lán bên dưới Thác Bờ để làm nghề săn chàng. Ở đây tôi gặp một số anh em nghèo đã thông thạo nghề này hướng dẫn. Tôi theo họ vào rừng chặt bương, lấy măng, lấy nấm hương, mộc nhĩ, củ nâu đem bán cho lái buôn. Tôi khỏe, trẻ nên thường lấy được nhiều. Tiền kiếm được đủ để nuôi thân, còn dư ra một ít, tôi cóp dần đủ để mua một chiếc thuyền. Khi đã mua được thuyền, tôi không vào rừng săn chàng nữa. Tôi trở thành “lái buôn” mua lại những thứ của anh em, chở về các chợ miền xuôi bán cho các sạp hàng bán lẻ.
Qua hai năm làm ăn, tôi kiếm được số vốn kha khá và quen biết nhiều khách hàng. Qua khách hàng tôi biết tin Bá Kiến bị Chí Phèo đâm chết. Tôi thở phào nhẹ nhõm, yên chí sẽ được sống tự do, và có ý định trở về Vũ Đại đón Thắm đi trốn. Từ khi Bá Kiến chết, Thắm trở thành nạn nhân của các cuộc trả thù của bà cả, bà hai và cả của vợ chồng Lý Cường nữa. Họ xúm vào đánh mắng, đuổi cô ra khỏi nhà. Thắm phải chạy về ở với bố mẹ ở Vũ Hạ. Việc đón Thắm đi diễn ra không có gì khó lắm. Tôi nhờ một khách hàng đến nhà ông Đào Thắm đưa cho ông một món tóc bảo ông đưa cho con gái. Nhận được món tóc của mình đưa cho tôi khi trước, Thắm lập tức theo người bạn hàng đến gặp tôi…
Tôi nhận thấy lúc này, mặt ông Hợp tươi hẳn lên, các nếp nhăn trên trán giãn ra, ông thở một hơi dài để trút đi cái “gánh nặng” của những bất công xã hội đã đè trên người ông trong bấy nhiêu năm. Ông cười cười rồi vỗ vào vai tôi, kèm theo cái “nháy mắt” đầy ngụ ý. Tôi cũng vui lây, cười theo hì hì và tán một câu rất thừa, rất vô duyên: Chắc tối hôm anh chị gặp lại nhau sau bao năm xa cách hẳn phải “khoái” lắm nhỉ?
- Còn phải nói! Còn khoái hơn cả đêm “tân hôn” ở lều cá đẫm nước mắt của hai người. Nói xong, ông biết mình “lộ bí mật” liền véo tai tôi một cái, miệng quát: Thôi đi ngủ! Cái thằng quái này, chỉ giỏi thóc mách. Tôi cũng cao hứng hét lên: Còn phải nói! Rồi vào ổ đắp chăn. Đèn tắt! Đằng đầu hồi - nơi bà Hợp ngủ, sàn nhà cựa quậy mạnh. Tôi đoán ngay ra: Chắc “bố già” đang diễn lại vở cũ do câu chuyện vừa kể “xúc tác” nên gây “phản ứng”. Tiểu đệ xin chúc mừng.
Sáng hôm sau, không thấy ông Hợp dậy sớm uống trà như mọi ngày, chỉ có bà Hợp ngồi nấu cháo. Tôi cũng rời khỏi ổ rơm ra bếp sưởi ấm. Bà Hợp hỏi tôi: Anh em nhà chú “bới” đã hết chuyện chưa? Cái lão “phải gió” tài nhớ lâu, nhớ mới. Đem hết cả chuyện “ông bà ông vải” ra kể rồi. Chú nghe chắc chán tai lắm phải không?
- Không! Chuyện của ông hay lắm, em đang “khoái nghe” tiếp thì ông “đến cơn” đi ngủ. Tối nay, em xin ông cho nghe nốt phần cuối, để kịp làm cho xong cái đề văn.
- Sao lại liên quan đến đề văn của chú? Ông ấy thì biết gì mà văn với chả võ?
Tôi vội thanh minh: Chuyện ông kể về  làng Vũ Đại sau vụ án Chí Phèo - Bá Kiến, chính là nội dung bài văn mà nhà trường yêu cầu em phải tưởng tượng ra mà làm. May quá! Em gặp ông nhà là người trong cuộc, cho em nghe toàn chuyện có thực. Em chỉ việc ghi lại mà chẳng cần tưởng tượng “phịa phọt” tý nào, đã có “tác phẩm” cực hay.
- Những chuyện ấy mà giúp được chú làm văn thì tôi không phản đối. Tôi đã nghe hết những đoạn lão ta kể với chú mấy tối qua rồi! Nếu cái đề văn của chú cần gấp vậy, thì tôi tranh thủ kể tiếp cho chú nghe. Tôi cũng là người “trong cuộc”, chắc kể không sai đâu! Chứ đợi được cái lão đang “phờ râu trê” kia khỏe lại thì e rằng muộn văn của chú mất!
Nghe bà Hợp nói, tôi đoán được phần nào về “nhân vật” này, nhưng muốn được nghe nhân vật tự giới thiệu về mình cho “khoái”, tôi lễ phép hỏi: Thưa bà chị. Thế bà chị có phải là nhân vật Thị Nở không? Tôi hỏi để “khích tướng”.
- Phải gió cái chú Thảo! Mặt mũi tôi thế này mà chú bảo là mặt Thị Nở à? Tôi là cô Thắm, là bà ba của lão Bá Kiến, lại là vợ của cái lão Hợp còn đang nằm chết dí trong buồng kia! Bây giờ thì chẳng cần bí mật gì nữa, nhưng tôi cấm chú không được đưa tôi vào bài văn của chú đấy nhé! Vì chuyện đời tư của tôi có hay ho gì đâu.
Tôi cười ré lên, khoái chí vì đã khích tướng thành công, rồi nói rất lễ phép: Thưa bà chị, em trêu tức chị chút xíu để chị phải tự giới thiệu về mình, chứ người đẹp như “tiên” thế kia, đã bao lần cho Bá Kiến ăn quả đắng mà hắn chẳng dám động đến mảy lông thì đủ biết khi còn trẻ chị có sức mạnh đánh bại mọi gã đàn ông trên đời.
- Cái chuyện cho Bá Kiến ăn quả đắng, không phải do tôi thiếu đứng đắn. Chị nói có vẻ gay gắt. Mà xuất phát từ ý định trả thù. Hắn đã phá vỡ hạnh phúc của chúng tôi, thì tôi phải cho hắn nếm đủ mùi cay đắng.
Nói thật với chú, Bá Kiến gần như “nhốt” tôi trong nhà, không bao giờ hắn cho tôi ra khỏi cổng để tránh bị “cắm sừng” như tôi đã nói với hắn trước. Nhưng tôi đã có cách. Cứ lâu lâu tôi lại gọi anh Chí đến bóp đùi. Tội nghiệp cho anh ta vừa bóp vừa run như cầy sấy, toát cả mồ hôi, bảo bóp lên phía trên, thì bóp xuống phía dưới. Tôi tức mình đạp cho một đạp, anh ta ngã lăn xuống đất rồi vội lổm ngổm ra về. Có một lần, Bá Kiến rình và bắt được quả tang anh Chí đang nặn bóp cho tôi. Hắn xông vào dùng dao chém anh Chí, nhưng Chí gạt được rồi chạy bán mạng. Lão khọm già mất đà, ngã sấp mặt xuống nền nhà. Lão bò dậy ướm dao vào mặt tôi, nghiến răng kèn kẹt, miệng sùi bọt, quát: Ai bảo mày dám làm cái việc hạ tiện này? Đường đường là một bà lớn hàng tổng mà lại đi tằng tịu với một thằng đầy tớ, thì còn gì danh giá nhà tao nữa. Hả con kia?. Tôi vẫn nằm ngửa, dõng dạc trả lời: Nếu ông có gan thì cứ chém tôi đi! Tôi có thiết gì sống với ông đâu? Tôi làm việc mệt mỏi, gọi đầy tớ nặn bóp chân thì đã làm sao nào?. Ông thì vợ lớn vợ bé, mà vẫn chưa thỏa mãn, lại còn đi ngủ thêm với vợ lính, vợ mõ, bị người ta bắt được quả tang, phải đem tiền ra chuộc lấy cái thân về, thì giữ được danh giá nhà ông à? Đây, của ông vẫn đây! Ông có giỏi thì làm đi! Máu dê nhưng dê đã hết máu, miếng thịt bò ngon quá, nhưng khốn nỗi con sói chẳng còn răng. Ông mà không “làm” cho tôi thỏa mãn hôm nay, thì tôi cứ gọi chúng nó bóp chân. Nếu ông không muốn chúng nó bóp thì ông đến đây mà bóp cho tôi. Thế là chắc ăn nhất, khỏi phải cử người canh gác, rình rập mà vẫn lo ngay ngáy bị cắm sừng.
Bá Kiến đau hơn hoạn, nhưng không có gan giết tôi, lại không muốn vỡ lở chuyện xấu xa, nên đành hậm hực ra khỏi phòng. Hắn lập tức cho tìm bắt anh Chí, quàng vào cổ anh mấy sợi dây chuyền, gọi tuần phiên vào lập biên bản, rồi đưa anh Chí đi tù để trừ hậu họa.
Chợt chị nhớ ra phải kể nốt phần cuối của vợ chồng ông Hợp sau khi gặp nhau, để giúp tôi hoàn thành luận văn. Chị cười rất tươi rồi nói: Thôi chết! Kể lan man mãi mất cả thì giờ. Bây giờ chú hãy nghe nốt “khúc đuôi” nhé!:
“Khi gặp lại, hai chúng tôi cứ ôm nhau mà khóc. Không ai chịu buông tay, chỉ sợ người mình yêu lại biến mất. Được mấy ngày, hưởng hạnh phúc say đắm, Chúng tôi nhận ra nguy cơ bị lộ. Lý Cường vẫn có thể cho người đến bắt về. Thế là chúng tôi quyết định bỏ các bến của Sông Đà để chạy lên đây. Vì khi đó vùng này đã có Việt Minh bảo vệ.
Vợ chồng tôi vừa dựng xong ngôi nhà này thì nổ ra cuộc cách mạng tháng Tám. Chúng tôi theo mọi người đi cướp chính quyền Nhật ở Thái Nguyên. Xong đâu đấy ông Hợp để tôi ở nhà để theo quân Giải phóng cướp chính quyền ở miền xuôi. Rồi ông ấy tham gia kháng chiến, 9 năm sau mới về phục viên. Năm 1955, tôi mới sinh cháu Hòa, năm 57 tôi cố đẻ mới được con Huệ. Thành thử đến bây giờ vẫn phải nuôi con mọn.
Đúng lúc này thì ông Hợp xách điếu cày từ trong buồng dò ra bếp. Ông nháy mắt cho tôi và nói: Người hơi mệt đành phải hoãn đến mai mới đi cuốc sắn vậy. Chú Thảo chuẩn bị giấy bút, ta tranh thủ làm nốt cái khúc cuối.
Bà Hợp lên tiếng:
Khúc cuối, khúc đuôi còn đợi ông đến bây giờ thì văn của chú ấy đến thiu ra mất. Tôi tranh thủ kể cho chú ấy nghe rồi, vì hạn nộp bài của chú ấy gấp lắm. Nếu nộp chậm thì được ăn ngỗng ăn ngan gì đó. Sao lạ vậy? Hay ta cứ nộp chậm để lấy con ngỗng về làm nồi cháo cải thiện?… Tôi không nhịn được cười, vội giải thích:
“Ngỗng” là cách gọi điểm 2 đó bà chị ạ. Điểm 2 thì em trượt vỏ chuối chứ chẳng có ngỗng với ngan đâu mà nấu cháo.
Bà Hợp cười:
- Phải gió nhà các chú, tôi cứ tưởng được nhận ngan ngỗng thật kia chứ.
Ông Hợp nghe xong liền lên tiếng:
- Nếu hạn nộp bài văn gấp vậy thì hôm nay ta phải lên gặp bác Chí, nghe bác ấy kể về quãng đời từ khi bác sống lại cho đến nay, để cái đề văn được hoàn hảo, không thì chậm mất.
Tôi mừng cuống cả lên, ăn vội bát cháo với ông bà Hợp rồi cùng “ông Năm Thọ” đi gặp ông Chí Phèo. Lần trước, nghe ông Hợp nói ông Chí cũng ở gần đây, tôi cứ tưởng hai nhà chỉ cách nhau vài cây số. Ai ngờ phải lội suối trèo đèo, băng rừng vượt núi gần hết cả ngày mới đến nơi. Trước mắt chúng tôi là một khu trang trại rộng lớn. Giữa khu đất bằng phẳng, màu mỡ là ngôi nhà sàn với những cột cái to và đỏ au. Trước cửa nhà có con suối nhỏ chảy qua, nước trong vắt, nhìn rõ từng đàn cá núi. Thân hình chúng trong như thủy tinh, phô bày ra bộ xương như được dệt bằng những sợi tóc. Chúng tôi dừng lại bên suối rửa chân. Thấy có người lạ, mấy con chó đã sủa vang cả khu rừng. Nhìn lên sân nhà sàn, một ông già tóc bạc, tay cầm con dao rừng, đang đứng nhìn chúng tôi. Ông Hợp vội lên tiếng: Bác Chí ơi! Anh em tôi lên thăm bác đây! Nhận ra tiếng ông Hợp, ông Chí vẫy tay: Lên nhà đi! Chó tôi xích cả rồi! Trời rét thế này mà ông đến thăm tôi thật là quý hóa quá!
Qua mấy bậc cầu thang, cả chủ và khách đã vây quanh bếp lửa. Ông Hợp giới thiệu tôi với ông Chí: “Đây là chú Thảo, sinh viên khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đang tạm trú tại nhà tôi. Hôm nay cùng tôi lên thăm bác, và muốn nhờ bác giúp cho một việc”. Ông Chí nhìn tôi có vẻ thăm dò, rồi ông nói: Việc gì thì việc, hãy để sau. Để tôi bảo anh em nó làm cơm ăn đã. Ông Hợp và cậu em hãy nghỉ ngơi cho đỡ mệt, lúc nữa ăn cơm, tối nay ta sẽ bàn công việc. Cũng đã lâu lâu rồi không được uống rượu và nói chuyện với ai. Tối hôm nay sẽ nói cho thỏa ông Hợp ạ!...
Trong khi chờ làm cơm, tôi và ông Hợp ra suối xách nước về đun để tắm. Tắm xong thì cơm rượu cũng đã được bày. Khách và chủ quây quanh mâm cỗ đặt ngay cạnh bếp. Cùng ngồi mâm ăn có thêm ba người. Hai nam, một nữ. Ông Chí giới thiệu: Báo cáo với Thủ trưởng Hợp, đây là chú Bình, đây là chú Tam, đều là chiến sĩ nuôi quân cùng tiểu đội với tôi trong chiến dịch Tây Bắc lại cũng là hàng xóm của tôi. Còn đây là bà xã của tôi, tên là Bầu… Cũng xin giới thiệu với bà xã và hai chú: Đây là Thủ trưởng Hợp, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Phủ Thông nổi tiếng anh hùng thời kỳ chống Pháp, còn chú nhỏ này là sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội đang sơ tán chỗ nhà ông Hợp. Tên chú là gì, ông Hợp đã nói mà tôi lại quên?
- Tên em là Thảo ạ!
- Ừ đúng rồi, con trai mà có cái tên của con gái.
Tôi thật ngạc nhiên hết mức khi nghe ông Chí “mở màn” tiệc rượu bằng bài giới thiệu các nhân vật. Từ ngữ, câu cú ông dùng rất chuẩn mực, không khách sáo mà cũng không thô kệch, chứng tỏ là người có văn hóa. Làm sao để một ông Chí Phèo xưa kia chỉ biết uống rượu, chửi tục, ăn vạ mà bây giờ lại ăn nói nho nhã như thế này được? Khác gì vừa lột xác? Tôi hoang mang và quan sát gương mặt ông một cách kín đáo.
Ông có khuôn mặt chữ điền, đôi mắt to và sáng, đôi lông mày rậm nằm ngang hình lưỡi mác. Trán rộng và cao, nước da mịn màu bánh mật, đôi môi dày, che kín hai hàng răng to, đều chằn chặn. Còn sót lại một vài vết sẹo ở trên mặt nhưng đã chuyển sang màu vàng mờ. Chỗ cổ ông còn lưu một vết sẹo dài và lớn. Đến lúc này thì tôi không thể nghi ngờ được nữa. Đúng là ông Chí 100% rồi! Còn chuyện thay đổi trong con người ông thì chắc phải có lý do. Với tất cả những nét nhận dạng trên, chứng tỏ ông Chí là con người chân thực, cương nghị, dũng cảm, có văn hóa, có trình độ, đặc biệt là có lòng nhân hậu sâu sắc và cũng là người không thể tha thứ cho bất cứ hành động tàn ác, bất công nào ở trên đời. Trong tiệc rượu, bốn ông chỉ toàn nói về những chuyện hồi còn tại ngũ. Nào là chuyện ông Hợp chỉ huy tiểu đoàn đánh chặn đoàn xe địch trên đường số 4, nổi tiếng đến mức sau này bọn Pháp phải phong “quân hàm” cho ông là Hổ Xám rừng xanh. Rồi đến chuyện ông Chí dẫn đầu tiểu đội anh nuôi, đội bom đạn đem cơm đến từng chiến hào tiếp tế cho quân ta trên đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Chuyện ông Tam, ông Bình vào rừng lấy mật ong, lấy măng, hái rau để cải thiện cho thương binh và đơn vị. Bị địch phục kích, hai người liền lấy đòn đập vỡ tổ ong vò vẽ và tổ ong khoái rất to ngay cạnh mình, rồi nằm dán xuống đất. Ong bị phá tổ, hung hãn xông ra đen cả vạt rừng, nhằm vào bọn giặc đang xông đến mà trút giận. Bọn giặc bị đòn đánh bất ngờ và rất vũ bão của hai đàn ong, liền hoảng loạn, quăng cả súng mà chạy bán tử. Bình và Tam nhẹ nhàng chuồn ra khởi nơi ẩn náu, nhặt lấy mấy khẩu súng đặt vào quang rau măng cùng với mấy bọng mật ong vàng mọng, gánh về đơn vị kèm theo những tiếng cười khúc khích. Bà Bầu và tôi thì vừa ăn nhóm nhém vừa nghe chuyện. Có lúc mải nghe, quên cả ăn, để ông Chí phải nhắc…
Mâm thịt lợn lửng luộc đã vạt đi quá nửa, mấy cái vỏ chai đã vứt lăn lóc xung quanh, quân ta xem chừng đã líu lưỡi, ông nào cũng khoe: Tôi ấy à! Còn lâu đã “thay” nhá! Ba “say” cũng “không chai” nhá! Anh nào “thay” là “thoàng”… Oàng! Nói xong được câu ấy liền nằm ềnh ra, chân đạp cả vào mâm bát, rồi ngáy như sấm.
Bà Bầu bảo tôi: Các lão ấy chết cả rồi, chưa biết đến bao giờ đã tỉnh. Cháu uống nước rồi đi nghỉ, để cô thu cất mâm bát. Tôi giúp bà Bầu dọn dẹp, rồi vào ổ đắp chăn. Thế là đêm nay bác Chí “ăn no ngủ kỹ”, còn tôi thì lo ngay ngáy về cái đề văn.
Sáng hôm sau, bốn ông ngồi uống nước, lại rót bốn chén rượu đầy, uống chia tay để ông Tam, ông Bình ra về. Còn lại ba người, ông Chí nhìn ông Hợp và tôi rồi hỏi: Hôm qua ông Hợp bảo muốn nhờ tôi giúp một việc là việc gì vậy?
Ông Hợp chỉ tay vào tôi rồi trình bày: Bác Chí ạ! Chú Thảo đây được nhà trường phân công viết một bài văn về làng Vũ Đại từ sau ngày xảy ra trọng án. Cái việc bác sống lại và trốn vào rừng Cúc Phương thì tôi đã nghe và kể lại cho chú ấy nghe rồi. Bây giờ bác làm ơn kể tiếp cuộc sống của bác từ bấy đến nay, để chú ấy hoàn thành khóa luận. Tôi cũng biết bác chẳng muốn giở lại chuyện xưa, nhưng từ cái xấu của ngày xưa mà ta cải tạo nó để trở thành cái tốt ngày nay thì cũng đáng kể lại cho các đời sau nghe lắm chứ?
- Tôi cũng có ý định giấu kín chuyện này “sống để bụng, chết mang đi” nhưng nay bác Hợp đã nói là chuyện của tôi có thể giúp cho chú Thảo, giúp cho đời được chút gì đó, thì tôi xin kể. Biết đâu kể xong lại nhẹ người đi, chứ bao nhiêu năm chất chứa trong mình nỗi uất ức ở đời cũng mệt lắm rồi…
Bác Hợp và tôi mừng vì thấy ông Chí vui lòng kể:
- Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình nằm trên chiếc thuyền câu, quần áo đầy máu. Dần dần nhớ lại sự kiện mà tôi đã gây ra. Do mất máu nhiều nên tôi mệt quá, lại còn đói và khát nước nữa. Thấy có khoai lang sống và cơm nguội trộn với cám ở trên thuyền, tôi cố ăn để lấy sức, rồi xé chiếc mùng câu tôm buộc chặt vết thương ở cổ, gắng sức dùng sào đẩy thuyền đi ngay trong đêm. Trên đường chở thuyền ra sông Hoàng Long, tôi gặp rất nhiều chiếc lờ cá rô đã đầy cá mà chủ lờ chưa nhấc. Tôi rút cả lên thuyền chở theo. Trời đã sáng và nắng rất to. Tôi cắm thuyền lại giấu vào ruộng cói, cởi quần áo ra giặt cho sạch máu. Khi quần áo khô, tôi mặc vào, rồi ghé thuyền, đem số cá rô lên chợ bán. Xong tôi chở lại thuyền thu nhặt tất cả những thứ cần thiết đem theo, bỏ lại chiếc thuyền nơi mép nước. Tuy số tiền bán cá chẳng được là bao, nhưng cũng giúp tôi đủ tiền mua con dao dựa, có được bữa cơm hàng, mua được gói muối, bát gạo, tạm sống để có sức vượt đoạn đường từ núi Non Nước đến rừng Cúc Phương bằng đôi chân rã rời của mình. Vào đến rừng, tôi mới chắc mình còn sống. Theo một lối mòn vào sâu rồi rẽ ngang, tôi gặp một hang đá. Trong hang thấy sẵn có mạch nước nhỏ, rất tiện cho việc ăn uống tắm rửa. Tôi quyết định trú ẩn tại đây, liền thu dọn lấy một chỗ nằm, rồi bắc bếp nấu nước sôi để rửa vết thương, vì tôi cảm thấy có hiện tượng nhiễm trùng. Cây thuốc thì quanh hang chẳng thiếu. Tôi rửa vết thương, rịt thuốc thì cảm thấy đỡ đau. Tôi đặt nồi cháo, ăn xong, ngủ một mạch cho đến sáng.
Với số khoai lang lấy ở trên thuyền cùng với bát gạo mua được, tôi quyết định hãy nghỉ một hai hôm để dưỡng sức. Sáng ngày thứ ba, thấy người đã dẻo, tôi cầm dao ra rừng để kiếm cái ăn. Rừng Cúc Phương quả là của quý trời ban. Ong mật, ong khoái, chim thú, hoa quả, củ mài, củ khắc rất nhiều. Lại còn cây, lá làm thuốc cũng mọc tràn lan khắp chốn. Mộc nhĩ, nấm hương, linh chi… Mọc dày các cây gỗ mục. Có tiếng hổ gầm và tiếng nai giác ở phía xa. Tôi vội lấy bọng mật ong, một ít hoa quả, một ít linh chi rồi trở về hang, chặt cây rừng làm cửa chắn lối vào để phòng thú dữ. Được bồi dưỡng bằng các vật quý của rừng, tôi khỏe lên nhanh chóng, Thu hoạch được một số lâm sản, thang thuốc quý. Tôi quyết định rời hang, đem về Ninh Bình bán lấy tiền sinh sống. Phiên chợ đầu tiên trong đời, tôi thấy cũng lạ. Tôi nói giá bao nhiêu, là người ta trả bấy nhiêu, không ai mặc cả. Chỉ một lát đã bán hết hàng. Sau này mới biết rằng mình bán quá rẻ. Chỉ bằng một phần mười giá thực, nên các nhà buôn họ tranh nhau mua hết. Dù vậy, số tiền hàng kiếm được lần đầu cũng đủ nuôi tôi vài tháng. Cuộc sống ấy kéo dài được hơn một năm thì trong một lần ra chợ, tôi gặp đoàn người đông đến hàng vạn, cầm cờ đỏ sao vàng, mang theo gậy gộc giáo mác đổ về phía Ninh Bình nói rằng đi cướp chính quyền Nhật. Tôi lập tức gửi hàng vào nhà người quen, nhập vào đoàn người ấy và trở thành lực lượng chủ lực của cuộc biểu tình, bắt tên tri phủ phải đầu hàng cách mạng, rồi tôi được tuyển vào nấu bếp cho cơ quan. Năm 1946, kháng chiến bùng nổ, tôi được cơ quan giới thiệu đi bộ đội. Thấy tôi khỏe và chịu khó, ban chỉ huy cử tôi làm tổ trưởng tổ nuôi quân, chuyên trách vào rừng tìm kiếm các thứ lâm sản để cải thiện bữa ăn và lấy các cây thuốc về chữa vết thương, chữa bệnh cho anh em trong đơn vị, nhất là chữa bệnh sốt rét. Trong những năm này, tôi đã được các anh chỉ huy dạy cho biết đọc biết viết, biết làm tính cộng trừ nhân chia. Rồi sau lần gặp ông Nam Cao và ông Hợp ở Tây Bắc, tôi được cấp trên cho đi học lớp cán bộ giảm tô và cải cách ruộng đất - chắc do ông Cao giới thiệu. Sau thời gian làm thí điểm giảm tô, cải cách ở Thái Nguyên, tôi được điều động trở lại đơn vị để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau chiến dịch, tôi được khen thưởng và được tặng Huân chương về thành tích nuôi quân và tinh thần dũng cảm phục vụ chiến dịch. Miền Bắc được giải phóng, tôi lại được điều đi làm cán bộ giảm tô, cải cách ở các tỉnh trước đây bị địch chiếm. Tôi được cử về cải cách ở Ninh Bình, trong một xã toàn đồng bào công giáo. Phải đương đầu với bọn phản động chuyên dụ dỗ đồng bào đi Nam và chống phá cải cách ruộng đất quyết liệt, nên đầu óc tôi khá căng thẳng. Để giải tỏa tinh thần, tôi cải trang rồi đáp ô tô về thăm làng Vũ Đại. Tình hình làng xóm có nhiều thay đổi. Lý Cường làm xếp bót, chống lại ta quyết liệt, và đã bị ta bắn chết.
Hai cô cháu nhà bà Thị Nở thì đã nghe địch dụ dỗ chạy xuống Hải Phòng để di cư vào Nam. Ông Tự Lãng thì chết vì say rượu trúng gió còn cô con gái thì đã bỏ làng theo trai… Mọi chuyện cũng chẳng có gì đặc biệt nếu như không có hai sự kiện liên quan đến bản thân tôi khi được nghe người làng kể lại. Việc thứ nhất là chuyện mẹ tôi về tìm mả tôi sau ngày ta cướp được chính quyền năm 1945. Bà nói với người làng rằng, nếu cậu bé được bọc trong chiếc váy cũ mà người đi đặt ống lươn nhặt được ở trong cái lò gạch đổ từ năm ấy, thì có thể nó là con trai bà. Vì khi đọc truyện của Nam Cao, bà thấy nhà văn nhắc đến chi tiết “cái lò gạch cũ”. Nếu đúng như vậy thì người đâm chết Bá Kiến, rồi tự tử chính là con bà. Nhưng muốn khẳng định sự thật, cần phải tìm ra “người đặt ống lươn”, để từ đó tìm ra “chiếc váy cũ” đã bọc đứa bé. Bà hỏi những người già trong làng và biết được “người đi thả ống lươn” là cụ Khả, nhưng cụ Khả đã mất từ lâu, nay chỉ còn con cháu. Bà đến gặp con dâu cụ Khả và đã nhận ra chiếc váy của mình dùng để bọc đứa con trai đem bỏ trong lò gạch khi xưa. Trên váy còn có hai chữ cái X-M thêu bằng chỉ màu tím ở góc. Bà nói với con dâu cụ Khả: “Đây chính là chiếc váy của tôi. Hai chữ này do chính tay tôi thêu. Đó là tên tôi: Xuân, con gái cụ đồ Xương, và tên bố đứa bé là Mai - Ông ký Mai. Hai chúng tôi yêu nhau nhưng chưa được phép của cha mẹ, nên phải bỏ đứa con để tránh vạ. Sau này chúng tôi được phép lấy nhau, thì lại vô sinh. Nhiều lần vợ chồng tôi muốn đi tìm cháu về, nhưng không dò ra manh mối. Đến khi biết thì cháu đã không còn. “Bà không tìm được  mả tôi, vì không ai biết. Có mấy người tuần phiên biết, nhưng không dám hé răng.
Sự kiện thứ hai: Nghe người bạn đồng ngũ, làm đội trưởng đội cải cách ở làng Vũ Đại sau này nói lại: Họ đã cho dẫn chúng đến trước “mộ tôi” để truy điệu, vì tôi là một cố nông dũng cảm dám tiêu diệt tên cường hào địa chủ và “hy sinh” oanh liệt. Tôi nghe mà hổ thẹn, nhưng không dám nói ra sự thật. Tôi tự an ủi: Chính vì mình đã chôn được cái quá khứ đen tối ấy, nên cuộc đời mình mới có ngày nay. Bới ra nữa phỏng có ích gì!
Hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất, tôi được cấp trên cho đi học chính trị một năm. Đến năm 1957 thì tôi xin phục viên theo chế độ quân đội. Cậu Bình và cậu Tam đưa tôi lên đây lập nghiệp. Được làm hàng xóm, lại được làm anh rể của cậu Bình thì thật là “nhất cử lưỡng tiện”. Bây giờ thì tôi yên tâm mà làm giàu. Nếu không phải lo thằng Mỹ phá hoại, thì cơ ngơi của tôi thật cũng đáng nể đấy chứ? Nói đến đây ông Chí đập tay vào đùi ông Hợp, cười khà khà để kết thúc câu chuyện. Rồi ông nhìn sang tôi mà bảo: Đấy, chú Thảo nghiên cứu, xem chỗ nào dùng được thì lấy. Chỗ nào không được thì để tôi đút bếp. Nói xong câu này, ông lại cười to hơn. Tôi lễ phép cảm ơn ông và khẳng định: Chuyện ông kể hấp dẫn người nghe từ đầu chí cuối, chẳng có khúc nào thừa để “đút bếp” cả. Vì đó là câu chuyện có thực kể về quá trình lột xác của một con người.
Bây giờ thì tự tôi đã hiểu vì sao một ông Chí Phèo năm xưa mà đến nay lại nói năng chuẩn mực, có văn hóa, có trình độ ứng xử văn minh như vậy? Rõ ràng đây được coi là một cuộc “lột xác”. Loài rắn thì lột xác theo bản năng tự nhiên, còn những người như ông Chí, ông Hợp, bà Thắm… Muốn thay đổi đời mình thì phải nhờ vào môi trường xã hội. Một chế độ xã hội mà bản chất của nó là phản động, thối nát thì tất nhiên nó sẽ đẩy những con người lương thiện vào vòng cùng cực, tội lỗi. Một xã hội có bản chất chính trị tốt đẹp thì tự nó sẽ cứu vớt những con người đau khổ, tội lỗi ra khỏi bùn nhơ để làm nên sự nghiệp. Trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Kinh Dịch cổ đại có vẽ một vòng tròn lưỡng cực, trong vòng tròn ấy chia ra hai phần bằng nhau, phần màu đỏ là dương, phần màu đen là âm. Khi phần dương phát triển đến cực đại thì trong bản thân nó đã xuất hiện mầm mống của phần âm. Đời một con người cũng vậy, nó là một thực thể thuộc thế giới vật chất, luôn luôn vận động theo quy luật tự nhiên và quy luật xã hội. Con người sinh ra, bản chất là “thiện”. Họ chỉ trở thành người lương thiện khi không gặp phải một chế độ xã hội tàn ác, thối nát bất công. Và một con người dù đã bị đẩy đến cùng cực của nỗi khốn khổ, xấu xa nhưng trong con người ấy vẫn còn một phần tốt đẹp. Chỉ cần gặp môi trường xã hội thuận lợi thì cái phần tốt đẹp ấy sẽ phát triển mạnh mẽ, thay thế phần khốn khổ xấu xa kia. Ta gọi đó là sự Đổi Đời.
Sau này nghe nói lại, khi chấm đến khóa luận của tôi, Hội đồng Giám khảo cũng đã tranh luận nhiều. Chẳng biết các thầy cho mấy điểm, chỉ biết rằng tôi tốt nghiệp loại bằng đỏ. Như thế thì chắc chắn bài văn của tôi (Tuy chỉ là chắp bút) không phải “húp cháo ngỗng”.
Việt Bắc, tháng 12/1996

TRƯỞNG BAN NGỘNG NGHỆNH
Làng quê tôi có tục gọi tên ghép để phận biệt những người trùng tên. Tên bố ghép với tên con. Tên vợ ghép với tên chồng. Cũng có khi lại ghép tên người với cách nói hoặc một vật sở hữu đặc trưng nào đó của người ấy, ví như ông Hàn Vị Chi (bởi ông nói câu nào cũng có từ “vị chi”), hay ông Thân Bao La, ông Dân Hoành Tráng, ông Thất Coi Như Là, ông Quang Điếu (đi đâu cũng xách điếu cày), ông Kiệm Cối (lúc nào cũng ôm mũ cối) v.v… Lại còn cái chức Trưởng ban nữa. Người ta sẵn sàng phong ông này làm Trưởng ban Bốc phét, ông kia làm Trưởng ban Hủ hóa, ông nọ làm Trưởng ban Tát vét… mà không cần chạy vạy, hối lộ tiền bạc gì cả. Nhưng riêng cái chức Trưởng ban Ngộng nghệnh, một cán bộ về hưu ở làng tôi. Theo như mồm ông Ngộng nói thì ông về hưu. Nhưng ông không thèm nộp quyết định và sổ lương hưu ở UB xã, mà cứ để lĩnh ở cơ quan cũ cho “tiện”, khỏi phải chuyển đi về cho khỏi “lích kích”. Có lúc ông lại nói: “Lương để ở chỗ cô bồ già giữ hộ, khi nào thích thì lại xuống chỗ bà ấy hú hí vài ngày, “cơm no bò cưỡi” rồi lấy tiền cả cục về tiêu”. Thôi thì cũng mặc. Chuyện hưu, chuyện lương của ông như thế nào thì cũng chẳng mắc mớ gì đến ai, nếu như ông không ăn chịu, mua chịu ở tất cả các quán trong làng, mà không bao giờ có ý định trả tiền cho họ. Vì vậy, những chủ nợ của ông, mới bảo nhau quyết định làm một cuộc điều tra cho ra nhẽ. Đoàn “Thanh tra” này xuống cơ quan cũ của ông hỏi, thì được trả lời rành mạch “ông Đái Văn Ngộng, trước có làm giám đốc ở đây, nhưng do ăn cắp vật liệu, tài sản của nhà nước, nên bị kỷ luật bị thải hồi. Cơ quan cũng cảm thông, cho ông một cơ hội: Nếu ông Ngộng trả đủ số tiền đã tham nhũng thì được cấp sổ hưu, bằng không thì ông phải rời cơ quan với hai bàn tay trắng, kể cả khai trừ khỏi đảng. Ông Ngộng không chịu bồi thường, đập tay xuống bàn, chửi “vung tứ mẹt” rồi ngất ngưởng ra về.
Thế là mọi chuyện đã bị tung hê. Thảo nào hồi ấy ông ta chở gạch, chở xi, sắt về làm nhà hai tầng, xây vườn, xây ao, xây cổng cao to như cổng làng lại còn ốp gạch men đỏ choét, trong khi cả cái làng này còn nằm co trong tường đất mái tranh. Ngoài ra, ông còn mua được hai suất đất ven quốc lộ và chiếc xe con cũ nhãn hiệu Ru ma ni. Nếu tính theo kiểu “tép kể đầu, râu kể mớ” thì ông đã thực hiện được giấc mộng có “xe hơi nhà lầu” làm cho nhiều người vào thời đó phải “lác mắt”. Tiện đà ông tự phong cho mình chức Tổng Giám đốc bằng cách cho mẹ, cho vợ, cho em đi rêu rao khắp làng cái chức Tổng Giám đốc giả của ông cho oai. Ai đánh thuế thằng nói khoác? Hơn nữa ở cái vùng quê này, vào hồi đó đã mấy ai phân biệt được cấp bậc cao thấp ở cơ quan. Họ cứ thấy tay nào có chữ “đốc” gắn vào tên riêng là phục sát đất rồi! Quản đốc, Tổng Giám đốc hay Giám đốc thì chắc cũng đều có quyền có tiền nhiều như nhau. Cho nên cái việc ông Ngộng xây cơ nghiệp bao la, hoành tráng cũng là “phải nhẽ”! Có chức thì có quyền, có quyền thì có lợi, có lợi thì có lộc, lộc tất là tiền thắc mắc gì? Nhưng rồi cái xe hơi cũ Ma-de-in Ru-mà-nị chết tiệt ấy đã làm sụp đổ cơ đồ của ông, đưa ông trở về cái kiếp “khố rách áo ôm”. Đầu tiên là vụ tai nạn đổ xe do chính tay ông cầm lái, trên xe lại toàn vợ con ông. Vợ ông, con trai thứ ba của ông chết tại chỗ, hai đứa khác bị trọng thương. Bản thân ông cũng gãy tay, què cẳng. Lo xong vụ này thì ông đã gần trắng tay. Hai suất đất ven đường bán vội chỉ thu đủ vốn. Không đủ chi, ông phải cắt thêm hai ô đất thổ cư mới đủ tiền trả nợ ngân hàng. Cái xe con đã nát bét, bán cho hàng sắt vụn, chả đủ tiền cho ông nhậu hai tuần. Dân làng xôn xao bàn tán: “Chắc là của thiên trả địa. Cái của ăn cắp như đám phù vân, có bao giờ bền! Tinh tướng gì, toàn những đi vay ngân hàng để mua của “đểu” rồi về ngộng nghệnh với dân. Đã vỡ mộng “xe hơi nhà lầu rồi chứ? Hết ngộng nghệnh chưa?”.
- Chưa! Nếu ông Ngộng nghe ai hỏi như trên thì ông vẫn trả lời là “chưa” vì ông  vẫn còn ngôi nhà hai tầng kia mà! Đất thổ cư cũng đâu đã hết?
Nhưng ở đời thường gặp cảnh “họa vô đơn chí”. Cái ngôi nhà hai tầng xây vội vàng chắp vá bằng vật liệu ăn cắp lại không chuẩn mực về kỹ thuật cũng có thể không sụp đổ nếu như ông Ngộng không a dua chồng thêm tầng thứ ba để đối mặt với các ngôi nhà ba bốn tầng trong thôn, đang ngày ngày mọc lên nhan nhãn. Trong một ngày mưa to tầm tã, nước tiêu không kịp, ngấm xuống, làm nhão nền móng, các bức tường tầng dưới hẫng chân, chúng đồng loạt ngửa ra như bông hoa nở, làm cho 2 tầng trên rơi tõm xuống như trái núi vừa tuột khỏi chín tầng mây. Cũng còn may không chết ai vì từ khi ông xây thêm tầng ba thì không một đứa nào đủ “dũng cảm” như ông dám chui vào ngôi nhà lầu ấy. Còn ông thoát chết do đang nằm ngoài trạm xá cấp cứu vì say rượu ngã cầu thang từ hôm trước. Hú vía!
Những tưởng sau vụ này nữa thì ông hết ngộng nghệnh. Nào ngờ chứng nào tật nấy, ông xoay sang “chủ đề” ngộng nghệnh về tinh thần. Ông thường tự phụ: “Làng này cóc thằng nào bì được với tao (ông nói với con cháu ông)”.
Thử hỏi đã có mặt thằng nào làm đến chức Tổng (à quên), Giám đốc công ty Vật liệu xây dựng, nổi tiếng hống hách một thời, mà đến cả gia đình liệt sĩ muốn mua vài trăm viên ngói cũng còn chưa được duyệt. Thế mà tao có cả nhà lầu, xe hơi… tòa ngang dãy dọc. Cho dù vận hạn hết tất cả, tao vẫn đáng mặt “anh hùng nhất khoảnh”. Cho nên từ khi về làng, ông không thèm quan hệ với ai. Ai ông cũng coi dưới tầm con mắt, đáng khinh!
Làng xã có đám khao, đám cưới đám giỗ, đám hiếu nào mời, thì ông nhận lời, nhận thiếp nhưng rất ít khi ông đến dự. Đám nhà giàu mời thì ông chê “ông cha hắn ngày xưa làm địa chủ”. Những gia đình trí thức mời, thì ông chê: “Gốc nhà nó là bọn tiểu tư sản không vững lập trường”. Còn các gia đình nghèo mà mời thì ông trả lời một cách sống sượng: Nhà chị cỗ có to không? To thì ta mới đến, chứ đến để xơi cơm rau muối như chị nói thì ta xin “kiếu”. Đôi khi có những đám là họ hàng ruột thịt, thân thích không thể bỏ được thì ông đến ăn cỗ, vừa ăn, ông vừa hạch toán trong đầu mâm cỗ đáng giá bao nhiêu? Chia cho sáu người ăn, mỗi người chịu bao nhiêu? Thái độ phục vụ của gia đình có tốt không? Ông ngồi mâm với người có đúng “vai vế” không? Xong đâu đấy, ông mới rút tiền cho vào phong bì đưa cho gia chủ. Một vài lần, gia chủ kiểm tiền còn thấy thêm cả tờ giấy bạc 500 hoặc 200 đồng “kem” trong phong bao của ông. Chắc hẳn đó là tiền chi trả những điếu thuốc lá Vi-na hoặc Du lịch. Thật chính xác như máy tính điện tử!
Hội trưởng hội Người cao tuổi đến vận động ông vào hội, ông ậm ừ cho qua chuyện. Khi ông hội trưởng về rồi, ông nói với con cháu trong nhà:
- Hội Người cao tuổi là cái thá gì mà ta lại vào đấy cơ chứ? Đó là một tổ chức xã hội, tập hợp mấy ông bà dốt nát ở cái tuổi sắp chết, ta vào đấy thì được lợi lộc gì?
Mấy đứa con khuyên: “Ông nên vào hội để khi ốm thì có các cụ đến thăm, khi qua đời thì các cụ đem vòng hoa đến viếng, rồi đưa đón đến nơi mồ yên mả đẹp”. Ông cười khẩy, rồi nói thẳng: “Tao cần gì những thứ quà cáp bèo bọt ấy? Tao thiết gì vòng hoa rẻ tiền ấy? Tao cóc cần họ đưa đám để được mồ yên mả đẹp! Bạn bè tao ở khắp nơi, chúng đều là “đệ tử” của tao, tao đã duyệt cho chúng mua “cửa sau” bao nhiêu là gạch ngói xi măng sắt thép. Tao mà chết, thì chúng sẽ đến đầy nhà chỉ sợ không đủ chỗ để dựa vòng hoa. Các con ông nghe mà không dám cãi, nhưng trong đầu chúng không tin là có cảnh đó diễn ra. Vì chúng đã quá hiểu bản tướng ngộng nghệnh và trống rỗng của ông rồi!
Nói rằng ông Ngộng không giao du với ai là hơi quá. Điều đó chỉ đúng với người ở trong làng thôi. Thực ra ông cũng có một số bạn bè ở các nơi khác, những người mà ông đã ban ơn và chịu ơn khi ông còn đương chức. Ngoài ra còn có các bà góa chồng, một số bà bán quán, một số ông buôn bán đất phát tài, vài ông về hưu non nhàn rỗi hay đánh cờ tướng và hay nhậu nhẹt ở quán thịt chó đầu làng. Có điều trình độ cờ tướng của các vị này thì vịt phải gọi bằng cụ. Còn trình độ ăn thịt chó thì chó phải lạy các vị bằng cha. Khi đã say sưa hết cả mấy chai và độ gần nửa con chó, các ông mới bày cờ ra, mắt nửa nhắm nửa mở, quân xe xếp vào chỗ quân tốt, quân mã xếp vào chỗ quân tịnh, hành binh thì bất kể luật cờ, mã cản, pháo không ngòi vẫn cứ chém tướng như chơi. Và tất nhiên là không tránh được chuyện cãi nhau, văng tục khắp nhà. Đến khi rượu và thịt chó đã “đẩy cao nhiệt độ” thì các “kỳ thủ” mỗi người chỉ còn một chiếc quần xà lỏn trên thân. Cờ ngoài bài trong, ông đánh, ông “gà” đều đã “hăng” hết cỡ, chẳng ông nào còn để ý đến “quân trang”, chim chóc “nhốt” trong các “lồng” đã nhiều con thò ra hóng chuyện nhưng các ông không thèm để ý, vẫn cứ miệng hô, tay chém ầm ĩ như giữa cảnh chiến trường trong phim Tam Quốc. Chủ quán ngó qua, thấy cảnh đó, liền loa lên cảnh báo bằng đoạn văn hài hước nhưng tế nhị: A lô! Xin thông báo để toàn thể nhân dân biết. Hiện bây giờ, tại cửa hàng Hương Cẩu Nhục đang có cuộc thi chim. Và đây là tiết mục thi chim của các cụ, tất cả sáu “lồng chim” đã mở cửa, nhưng không thấy con nào bay lên! Đọc đến đây, chủ quán sặc cười không nói được nữa. Sáu kỳ thủ lúc này mới để ý kiểm tra đến “lồng” của mình thì thấy nó đều đã “vô tác dụng”. Các ông vội khép cửa “lồng” rồi cười trừ, nói chữa thẹn: Hì hì… Chủ quán thông cảm, nóng quá mà, “tụi nó” khát nước đấy! Mấy bà đi gặt nghe “loa” tưởng thật vội đặt gánh chạy vào xem, thấy chủ quán đang ôm bụng cười lăn và mấy lão già chết tiệt đang “gia cố” các “lồng” xà lỏn thì hiểu ngay vấn đề, vừa quay ra vừa chửi: Mấy lão già phải gió, chim với chả cò, tọng cho lắm rượu vào mà dửng mỡ. Chả bù cho mấy gái già này đói khát phơi nắng đội mưa cả đời làm ra thóc gạo để đổ vào mồm lũ khỉ.
Không ai ngờ được rằng đây là bữa nhậu cuối cùng của ông Ngộng nghệnh. Hôm ấy, sau khi rời quán nhậu về nhà, nóng quá, ông vào ngay nhà tắm, xả nước tắm ào ào, huyết áp tăng lên đột ngột, mạch máu não đứt tung, ông ngã xuống mà không ai biết. Khi phát hiện ra thì ông đã “hai năm mươi về theo tiên tổ”… Nhưng tiên tổ ông Ngộng như thế nào? Xin hãy nghe một cụ già đang ngồi kể cho cánh phu đào huyệt nghe về dòng dõi ông Trưởng ban Ngộng nghệnh:
“Tổ tiên nhà ông ta không ở làng này, chỉ có đời bố ông ấy, nghe đâu ở dưới xuôi, lên đây làm thợ cày cho nhà Bá Trụ. Do ông lành hiền, chịu khó, lại giỏi hát ví và đánh đàn bầu nên nhiều cô trong làng ta có cảm tình. Về hình dạng thì vào loại điển trai, thêm nữa được cái mồm ngọt ngào lễ phép. Vì vậy chỉ sau một vụ cày, thì cô Nhâm, con gái nuôi của ông Bá Trụ đã “úp rá vào bụng”. Ông Bá không giận dữ mà lại thu xếp cho hai người thành vợ thành chồng, rồi cho ở rể luôn trong nhà, mãi cho đến khi anh chị đã sinh được 2 đứa con, ông Bá mới cho họ ở riêng kèm theo ngôi nhà và ba sào ruộng. Từ đấy trở đi, họ làm thuê buổi nào thì ông Bá trả công ngày đó, rất sòng phẳng. Ông Bá còn giúp cho cháu Ngộng học đạt được cái bằng Sơ học yếu lược thời Tây khi mới 12 tuổi. Thế mà hồi cải cách, Ngộng vất bỏ cái tình ông cháu, đấu tố ông Bá Trụ hăng hái nhất, với lý do ông Trụ đã bóc lột cha mẹ ông ta bao nhiêu năm trời. Ông Trụ đi tù rồi không thấy trở về nữa. Do có thành phần cốt cán, đấu tranh mạnh mẽ với giai cấp địa chủ, lại có văn hóa nên Ngộng được đội cải cách lấy đi làm cán bộ. Vì vậy chỉ sau 15 năm, Ngộng đã leo lên chức Giám đốc xí nghiệp Vật liệu xây dựng, một mặt hàng rất hiếm, còn khó mua hơn cả cao hổ bây giờ. Ông Ngộng nhờ thế mà giàu lên nhanh chóng vì những vụ làm ăn bất chính. Nhưng xem ra trời gần chứ chẳng xa đâu. Làm ác thì gặp ác. Của thiên trả địa, đó là lẽ đời mà cũng là luật trời.
Trái hẳn những lời tuyên bố của ông Ngộng với con cháu về viễn cảnh đám tang khi ông “nằm xuống”. Con cháu ông chẳng biết bạn ông là những ai, ở nơi nào để báo tin buồn. Có vài người thường đến,  nhưng để đòi nợ nên khi được tin dữ này, họ lại quay lưng chửi đổng: Chẳng sống nữa mà lừa tao, đáng kiếp! Cơ quan cũ của ông thì đã thay đến bốn đời giám đốc, trong danh sách cán bộ, nhân viên sau này cũng không lưu tên ông vì lý do ông bị thải hồi từ lâu. Họ nhận tin buồn nhưng không ai đến. UBND xã thì viện cớ ông không nhập hộ khẩu, nên không thể lấy quỹ nào để chi vòng hoa.
Trưởng khu cũng viện cớ không phải người của khu hành chính của mình nên không viết “điếu văn” và cử hành tang lễ. Thế này thì bi đát quá!
Ban chấp hành hội Người cao tuổi nhóm họp khẩn cấp để “chữa cháy”. Ông hội trưởng báo cáo rằng: Hôm tôi đến vận động ông Ngộng vào hội thì hình như ông ấy có hứa là rồi đây sẽ vào. Nhưng không ngờ ông “đi” nhanh quá chưa kịp trở thành hội viên. Thôi dù sao ông ta cũng đã có lời hứa. Cái nghĩa tử là nghĩa tận, các cụ ta cũng lượng thứ, đứng ra cử hành tang lễ và viếng một vòng hoa, cho đỡ tủi vong hồn người quá cố. Chủ trương này được cả hội thông qua. Rồi tang lễ được cử hành theo đúng nghi thức và tục lệ địa phương. Các cụ đi đưa tang rất đông, hoàn thành công việc “mồ yên mả đẹp”. Nếu ông Ngộng có khôn thiêng chắc phải nhận ra sai lầm của mình khi được phong chức Trưởng ban Ngộng nghệnh chứ, còn tình cảm cao thượng nhân từ của các cụ trong Hội Người cao tuổi thì chắc ông phải ân hận mà làm lại cuộc đời của mình, nếu có kiếp sau?! 
VỤ TRỘM ĐÊM GIAO THỪA
Còn ba tiếng nữa mới đến giao thừa. Tôi đến thăm cụ An, chúc Tết trước, để kịp về đón xuân cùng gia đình. Tôi bước vào nhà, chào gia đình và nói những lời chúc Tết. Cụ An đón tôi niềm nở. Cụ sai cháu pha ấm trà mới, bày bánh kẹo, pha cà phê, mở chai sâm panh hảo hạng.
- Xin mời thầy giáo nâng chén! Tôi cũng xin chúc gia đình thầy những lời tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất mà thầy vừa chúc cho gia đình tôi.
Cụ vừa nói vừa nâng chén rượu tôi đưa với tấm lòng ngưỡng mộ. Tôi cảm ơn đón chén rượu màu vàng nhạt, chưa uống mà đã thấy “say” vì tình cảm của một cụ già giành cho người còn ít tuổi… Phòng khách lúc này chỉ còn tôi với cụ. Cụ bà đã đi ngủ. Các lực lượng trẻ thì đã biến đi tìm thú vui ngoài nhà văn hóa. Sau ba lần cụng chén, cụ An nói: Tôi xin lỗi được tắt ti vi để ông con mình nói chuyện.
- Thầy giáo ạ! Câu chuyện này, tôi giữ trong lòng đã 60 năm. Thực ra sự việc cũng chẳng tốt đẹp gì đâu. Thậm chí còn xấu xa nữa. Nhưng chính vì nó mà tôi đổi đời, nên nó trở thành kỷ niệm sâu sắc mà tôi không dám quên.
- Thưa cụ, chuyện gì thế ạ? Tôi hỏi với ý tò mò.
- Chuyện ăn trộm, tôi đi ăn trộm vào đêm giao thừa Ất Dậu - năm bốn nhăm. Nói ra thì xấu hổ, mà không nói ra thì cứ canh cánh trong lòng.
- Thư cụ, cháu nghĩ cái xấu chỉ còn xấu khi ta cứ khư khư giữ nó, chứ có khi cái xấu lại là sự mở đường cho cái tốt đi lên.
- Đúng thế! Vâng nếu được thầy giáo thông cảm như vậy, tôi xin kể thầy nghe (và câu chuyện được tái hiện qua trí nhớ tuyệt vời của cụ An, làm cho tôi như đang được xem phim trên màn ảnh).
“Bấy giờ, chưa ai có đồng hồ, nhưng có lẽ cũng vào tầm này đêm giao thừa năm bốn nhăm, tôi vẫn đang nằm trong chuồng trâu nhà cụ Bá Béo trên thôn Thượng. Mà lại nằm dưới bụng con trâu mộng mới cực chứ. Nhưng không thế thì không thể vào nhà người ta mà ăn trộm được. Chịu cực đến đâu cũng chưa khổ bằng cái đói nó cào xé ruột gan. Lớp người từ sau năm Dậu ấy, chưa phải trải qua nạn đói, chết đến hai triệu người nên chưa thấy giá trị của những cái ăn sống người. Bây giờ, giò nem ninh mọc, lớp trẻ họ cũng gẩy đũa kêu chán. Sướng thế đấy! Chẳng bù cho ngày xưa… “Thế cụ làm sao mà vào được chuồng trâu nhà cụ Bá? (tôi hơi sốt ruột, muốn nghe vào câu chuyện chính).
- A! Làm sao vào được chuồng trâu hả? Khó đấy. Vì nhà này có đàn chó dữ, mặc dù chúng đã quen hơi tôi. Nhưng nếu trèo tường, chui rào mà vào thì nhất định vẫn bị chúng phát hiện, sủa rống lên, tất sẽ lộ. Tôi nghĩ ra một mẹo, bám theo đàn trâu để vào.
- Thế cụ cưỡi trâu để vào à?
- Không! Cưỡi trâu thì còn ăn thua gì. Nguyên tôi vốn là người ở chăn trâu  nhà cụ Bá, quen cả trâu và chó của chủ nhà. Nhưng đã 30 Tết rồi thì còn ai chứa mình nữa. Trâu hôm ấy do bà vợ thứ ba của cụ Bá đi chăn. Trâu nhiều mà người chăn thì ít. Chúng chui vào rừng, mãi chập tối mới chịu ra. Tôi đã chuẩn bị sẵn một chiếc bao tải, bốn góc buộc bốn sợi dây. Cả bao và dây đều đã nhấn bùn để lẫn với màu của trâu, không để ai phát hiện. Tôi luồn vào rừng, tìm đến con trâu mộng đầu đàn mà tôi vẫn thường cưỡi. Tôi buộc cái “võng” vào dưới bụng nó, bốn dây treo nên lưng trâu. Tôi chui vào nằm ngửa trên võng, mặt áp vào bụng trâu. Lúc đầu chưa quen, nó cứ lấy chân sau mà đá vào tôi. Tôi phải gãi cho nó để nó khoái để nó quên đi cái “của nợ” đeo dưới bụng. Nhưng có lẽ vì khoái quá nên nó vãi đái ra. Thầy giáo biết rồi đấy, trâu đực mà đái thì dai lắm. Phải đến 5 phút nó mới dừng. Tôi vội dạng chân ra, nên nước tiểu chỉ chảy qua võng rơi xuống đất. Sẩm tối đàn trâu được dồn về chuồng. Chúng chen lấn nhau. Mấy con trâu cà còn dửng mỡ đuổi “gái” chạy tứ tán. Vào đến cổng nhà chủ, tôi run như gà cắt tiết. Đàn chó đánh hơi được tôi, chúng cứ chạy theo mà mừng, mà ư ử. Cũng may, con trâu mộng lấy sừng lia một vòng đuổi được chúng vào nhà. Còn tôi đã nằm gọn trên võng giữa chuồng trâu. Hình như đã mỏi, con trâu mộng bỗng nằm ềnh ra. Thế là tôi hết chỗ ẩn, vội trèo lên gác rơm vùi mình, thở những hơi dài để trút bớt nỗi sợ hãi và sự mệt mỏi. Tôi phải cố giữ cho mình khỏi ho và đừng ngủ quên. Đợi mãi đến sau giao thừa, mọi người đã ngủ say, tôi mới mò xuống nhà bếp, rồi mở khóa cửa lách, lên buồng kho, vào nhà trên. Lối đi này thì tôi đã thuộc làu, cả chỗ để chìa khóa tôi cũng đã biết. Tôi chui vào nằm dưới gầm giường cụ Bá để quan sát. Cụ Bá đã ngủ. Cụ thở nhè nhẹ, đầu gối lên chiếc gối mây. Cái tráp nhỏ để bên cạnh. Tay đè lên tráp như có ý bảo vệ. Chiếc tráp này đựng gì? Tôi nghĩ trong ấy phải đựng của quý, trên bàn thờ chỉ thắp ngọn đèn con, vặn nhỏ. Bánh chưng, mứt kẹo, trà rượu chất đầy, lớp nọ chồng lên lớp kia. Nhưng tôi đã đổi ý, không lấy các thứ đó. Tôi chỉ mơ cái tráp nhỏ kia thôi. Có nó sẽ có tất cả. Tôi nhẹ nhàng, nhắc tay cụ Bá ra khỏi tráp. Nhưng bỗng cụ giật mình và từ từ ngồi dậy. Tôi vội chui vào gầm chiếc sập. Cụ đến bên bàn thờ vặn cho đèn sáng trưng lên. Cụ trở lại ngồi trên sập, rót nước trong ấm ủ, uống hai chén nhỏ. Uống xong, cụ lấy ngọn giáo dựng tại bức thuận, cầm trong tay, rồi lên tiếng: Có phải thằng An nằm dưới gầm sập thì ra ngay. Nếu không ra thì tao đâm chết. Tường rào, cổng cửa nhà này không dễ gì chạy thoát đâu. Ra ngay, ông sẽ tha chết cho. Nếu không, ông gọi bọn chúng dậy thì mày no đòn. “Đến nước này chỉ còn cách ra mà nộp mạng, van lạy thì họa may còn sống. Tôi chui ra, miệng van lạy lắp bắp: Con xin cụ, con lạy cụ… Con ra ngay!”.
- Tao đoán không sai mà, chỉ có mày mới dám vào nổi nhà này. Kẻ khác thì tan xác với đàn chó kia rồi.
- Con cắn rơm, cắn cỏ lạy cụ. Vì đói quá. Vợ con con đói khát sắp chết, nên con mạo phạm làm càn. Mong cụ gia ân, sinh phúc tha cho tội chết. Tôi nói xong, phủ phục xuống đất, nước mắt chảy ướt cả nền nhà, sẵn sàng đợi cụ đâm cho một nhát, hoặc trói gô lại giao cho chức dịch hành tội.
Cụ Bá nói:
- Thôi, đủ rồi. Hãy ngồi dậy nghe ông nói đây. Ông nghĩ giờ này đã sang ngày mùng một Tết. Nhà mày đói quá nên mày phải làm liều. Năm mới, ông cũng chẳng muốn giết, muốn hành hạ mày làm gì. Ông ở lấy phúc lấy đức cho con cháu. Ông tha tội cho mày, coi như không có sự kiện hôm nay. Mày đứng lên! Lại đây, ông cho chén rượu đầu xuân, uống đi cho đỡ sợ rồi về. Ông sẽ cho vài thứ mà ăn Tết.
Tôi tưởng tai nghe nhầm, nên vẫn cứ quỳ mà van lạy cụ tha tội. Cụ nhắc lại câu nói với giọng hơi gắt: “Khe khẽ chứ!” Tôi nghe rõ, lạy cụ lần nữa. Đứng dậy đón chén rượu. Hai tay run run, làm cho rượu đổ đi quá nửa.
Cụ bảo:
- Bây giờ mày ra cổng, tao sẽ mở cho. Ngày mai, tao sẽ bảo chúng nó đem xuống cho vài thứ mà ăn Tết.
- Tôi quỳ xuống nói:
- Thưa cụ, con được sống là nhờ cái ơn tái sinh của cụ. Xin cụ cho phép con nhận cụ làm cha, sống tết, chết giỗ. Cụ cho con được toại nguyện để con yên tâm mà về.
- Được! mày có lòng như thế, ta không từ chối. Từ nay ta sẽ chăm lo cho mày. Nói rồi cụ thắp thêm hương, khấn vái tổ tiên. Cụ bảo tôi lễ ba lễ trước bàn thờ mong tổ tiên chứng giám, tiếp nhận tôi là con cháu trong nhà. Tôi vái cụ Bá - Bây giờ là cha tôi lần nữa, rồi ra về, tay xách chiếc bị cói, trong đó đựng hai cái bánh chưng, một gói mứt, hai cái chân giò lợn do cụ Bá cho. Về đến nhà thì trời đã gần sáng, vợ con tôi đói lả vẫn ngồi trong đêm đen chờ đợi. Tôi thắp đèn, đốt mấy nén nhang, đặt mấy thứ lên bàn thờ, khấn vái ông bà cha mẹ đã khôn thiêng phù hộ cho tôi thoát khỏi nạn này… Lát sau, tôi hạ “cỗ”. Cả nhà ngấu nghiến ăn. Tôi chỉ ăn cho qua, rồi vào ổ rơm, đắp cái bao tải. Tôi vã mồ hôi, người như phát sốt. Tôi nằm khóc thầm cho đến lúc thiếp đi. Pháo nhà giàu nổ, làm tôi giật mình choàng dậy. Trời đã sáng! Ánh bình minh đầu xuân Ất Dậu đang xé những đám mây đen để chiếu sáng chân trời.
Kể đến đây, giọng cụ An như nghẹn lại. Hai khóe mắt đã rớm lệ. Chắc cụ đang sống lại những ngày đau khổ năm xưa. Tôi cũng không cầm nổi xúc động. Tôi vội nhìn lên bàn thờ xuân Ất Dậu 2005 của nhà cụ An, thấy chất đầy của ngon vật quý. Nghĩ tới những điều cụ An vừa kể, mới thấy hết sự đổi đời của nhân dân ta. Càng biết ơn Cụ Hồ và cách mạng như núi cao biển rộng. Chắc cụ An cũng nghĩ như tôi. Qua cơn xúc động, cụ kể tiếp: Chiều ngày mùng một Tết, cụ Bá cho cô Ba gánh xuống cho một gánh nặng vừa gạo nếp, gạo tẻ, thịt lợn, dưa hành và hai gói mứt. Tôi thắp hương, ngoảnh về thôn Thượng lễ vọng cụ Bá ba lạy rồi nhận lấy gánh đồ tết. Cô Ba còn đưa cho mấy đồng bạc mà bảo: Đây là tiền cụ Bá cho để mừng tuổi các cháu. Thầy giáo ạ! Không biết là ông bà cha mẹ tôi ăn ở phúc đức đến đâu, mà tôi gặp được người nhân hậu như vậy. Tôi nguyện sẽ làm một việc gì đó thật tốt đẹp để xứng đáng là con cháu của cụ. Sau cái tết, cụ Bá cho vợ con tôi lên làm công cho nhà cụ. Vợ tôi cắt cỏ chăn trâu và phụ việc đồng áng. Hai con tôi chỉ chuyên việc quét sân, lau nhà, cọ rửa ấm chén, đun nước và châm đóm để cụ hút thuốc lào. Tôi yên tâm về phần gia đình và nói: Con được ông cứu sống, lại trông nom gia đình cho con. Kỳ này con sẽ đi xa, làm một việc gì có ích cho dân cho nước để đền lại ân sâu của ông bà. Ngày mai con đi, chưa biết đến bao giờ trở lại. Mọi việc con xin nhờ ông bà thương mà cưu mang mẹ con nó.
- Con không phải nói nhiều (cụ gọi tôi bằng con), ta đã biết cả rồi, con đừng băn khoăn khách sáo nữa. Con ra đi, ta chỉ dặn một điều: Làm người phải giữ lấy chữ nhân làm đầu, nghĩa là phải thương người, cứu người, giúp đỡ người khác. Nhưng làm ơn chớ mong người đền ơn. Thế mới gọi là người có nghĩa. Nếu vội trả ơn, thì chính là kẻ vô ơn. Ta chỉ dặn con có vậy.
Bây giờ con xuống bếp, cùng bà Ba làm bữa cơm chia tay, để ta thắp hương cầu các cụ phù hộ cho con làm ăn được “thơm tay may miệng”.
Tôi vâng lời, cùng bà Ba giết gà, đồ xôi… Được lễ, cụ đặt lên bàn thờ khấn vái. Tan tuần hương, cụ cho hạ cỗ, cả nhà ăn uống vui vẻ, nhất là cụ bà thì mừng lắm, vì tự nhiên cụ được thêm một thằng con trai, đứa con dâu và hai cháu nội. Điều mà cụ mong mỏi mãi ở người con trai ruột mà chưa được. Khi tôi về, hai cụ còn cho hơn chục bạc để cơm nước đi đường. Vài ngày sau, tôi đến tìm nhà anh Hòa ở chân dãy Tam Đảo. Anh Hòa cũng cảnh nghèo như tôi. Tôi nói rõ lý do và rủ anh Hòa đi làm phu khuân vác ở Hải Phòng. Anh Hòa bảo: Đi đâu bây giờ được nữa. Tây Nhật bóc lột dân mình, còn có chỗ nào sống được đâu. Bây giờ chỉ có một con đường là đi theo Việt Minh để đánh Pháp đuổi Nhật mà giành lấy độc lập cho nước nhà, giành lấy cuộc sống cho chính mình. Cậu có đi thì cùng mình mai sang Thái Nguyên. Ở đó bây giờ đã có quân Giải phóng, ta sang đấy mà theo họ.
Nghe anh Hòa nói, tôi biết là đã tìm được người cùng chí hướng. Sáng hôm sau, hai chúng tôi ăn bữa cháo sắn để chia tay quê hương. Vừa vượt qua ngọn Tam Đảo, xuống đến dốc Quân Chu thì bị bắt. Ba thanh niên mặc áo chàm, đeo súng săn, cầm mã tấu giải chúng tôi vào sâu trong rừng trình với chỉ huy của họ. Đến nơi, anh Hòa nhận ra anh Long, bạn cũ - Người chỉ huy đơn vị du kích. Sau khi nghe nguyện vọng của chúng tôi, anh Long nhận cho hai người vào đội du kích quân Giải phóng và phát cho mỗi người một thanh đao với hai trái tạc đạn, một cuộn dây thừng (để trói giặc). Sau một vài ngày tập bắn súng, ném lựu đạn, đánh mã tấu, chúng tôi trở thành lính Cụ Hồ thật sự. Hạ được đồn binh Nhật ở Tam Đảo đấy, thu được một số vũ khí hiện đại của Nhật, đơn vị tôi trở thành lực lượng quan trọng trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945…
Sau chiến thắng Thu Đông 1947, đơn vị tôi được biên chế vào Sư đoàn 308 rồi sang Trung Quốc tập huấn. Năm 1950, Sư đoàn tôi về giải phóng Đông Khê, Thất Khê, khơi thông biên giới phía Bắc, bắt sống Lơ-pa, Sac-tông và mấy ngàn tù binh. - Cụ An dừng kể, vẻ mặt tươi hẳn lên, có lẽ cụ đang sống lại những ngày hào hùng nhất của một đời làm lính Cụ Hồ. Cụ uống chén trà dấp giọng. Tôi rót hai ly rượu nói: Cháu xin được chúc mừng sự đổi đời của cụ! Cụ cạn chén, giọng rất vui: Thầy giáo ạ! Tôi mong mãi có ngày về giải phóng quê hương, nhưng khi ngày ấy đến lại làm tôi lo lắng, hồi hộp đến cao độ. Đầu năm 1951, quân ta mở chiến dịch Trần Hưng Đạo. Sau một đêm công đồn mãnh liệt, chúng tôi đã nhổ sạch các căn cứ ngoại vi như Ba Huyên, đồn Thứa, bốt Thằn Lằn. Chúng tôi tràn về Vĩnh Yên, nhưng gặp phải mấy binh đoàn tinh nhuệ của Pháp chặn lại ở vùng Núi Đinh, Hữu Thủ.
Hai bên tác chiến. trung đội tôi vào thôn Thượng đang rực lửa, thì gặp bọn Ma-rốc đang bắn giết nhân dân, hãm hiếp phụ nữ. Chúng tôi dùng tiểu liên quét sạch bọn giặc, cứu được dân làng, nhưng không thấy gia đình cụ Bá đâu cả. Tôi vội đưa cả tiểu đội đến nhà cụ, thì thấy bọn giặc đã gom cả nhà cụ ra sân, sắp dùng lựu đạn sát hại. Tôi lia hết cả băng tiểu liên. Bọn giặc đứa chết, đứa bỏ chạy. Tôi cũng vội dẫn tiểu đội truy kích địch ra khỏi làng, cùng với đại quân, dồn tàn binh giặc chạy tháo thân về phía Vĩnh Yên.
Quân ta bao vây căng (*) Vĩnh Yên một đêm, nhưng có lẽ thấy chưa thể giữ được đất và mục tiêu chiến dịch là đánh đồn - diệt viện nên chúng tôi được lệnh rút lui về phía núi Đinh. Ngày hôm sau, Bộ Chỉ huy Quân đội Pháp đưa một lực lượng lớn từ Hà Nội lên phản công, và đã kịch chiến suốt một ngày với quân ta quanh ngọn núi Đinh này. Chúng đã mắc mưu quân ta, sa vào trận phục kích đã giăng sẵn, để nhận thêm một thất bại nữa. Sau trận này, chúng tôi rút lên Việt Bắc, củng cố lực lượng chuẩn bị cho chiến dịch sau. Thế là tôi vẫn chưa gặp lại được cụ Bá và vợ con. Rồi chiến dịch nối tiếp chiến dịch, tôi cũng chẳng làm sao về được để thăm nhà. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi lại được điều đi tiễu phỉ, mãi đến đầu năm 1955 mới về qua nhà được, lại gặp đúng dịp cải cách ruộng đất đang diễn ra quyết liệt. Gia đình cụ Bá bị quy là địa chủ. Họ lấy cớ: Cụ Bá đã bóc lột vợ con tôi suốt 10 năm trời, và vận động vợ con tôi đấu tố cụ. Vợ con tôi trình bày rõ nguyên do, nhưng họ dứt khoát không nghe, rồi quy cho tội bao che địa chủ. Tôi tìm gặp Đội trưởng Cải cách, nói hết đầu cuối câu chuyện và lý do vợ con tôi đến ở nhờ nhà cụ Bá, được cụ cứu sống, chứ không có chuyện bóc lột nhân công. Cũng may, tay đội trưởng là bạn chiến đấu cũ, hắn tin tôi và đã hạ thành phần cụ Bá thành phú nông. Thế là một lần nữa, tôi lại cứu sống được gia đình ân nhân. Tôi đến thăm cụ và gặp vợ con. Cụ ôm tôi mà khóc. Sau đó, cụ tuyên bố: Gia đình ta có phúc lớn, nên mới gặp được anh An. Nếu năm 45, tôi bắt tội anh ấy, thì lấy ai để cứu gia đình ta thoát khỏi hai lần họa lớn.
Gia đình tôi được chia ruộng đất. Tôi xin cụ Bá cho về quê. Hai cụ cho vợ con tôi một số vốn để làm ăn. Tôi yên chí trở lại đơn vị, rồi sau đó vào Nam chiến đấu suốt hai mươi năm. Mãi sau ngày thống nhất đất nước, tôi được quân đội cho nghỉ hưu với quân hàm Thượng tá. Và bây giờ thì thầy giáo biết đấy! Tôi thực sự đã đổi đời!
Cụ An dừng kể, nở nụ cười mãn nguyện. Tôi nhìn đồng hồ, thấy sắp đến giao thừa, vội xin phép cụ ra về. Cụ bắt tay tôi và tiễn ra khỏi cổng. Tôi về đến nhà thì vừa lúc xuân sang. Trên màn hình rực rỡ những bông pháo hoa muôn màu muôn sắc tỏa khắp bầu trời.                                                   
Giao thừa Ất Dậu 2005  
Chú thích:
(*) Căng: Trại tập trung (dưới thời thực dân Pháp) để giam giữ nhiều người.
19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...