Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại (Phần 2b; Quyển 2)

Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại
(Phần 2b; Quyển 2)

MẸ TÔI
Mẹ ngồi bán lá mùa đông
Trời bao nhiêu gió mẹ đong sao đầy.
Mẹ ngồi bán cạn heo may
Tóc xanh bạc nắng theo mây về trời.
Mẹ ngồi bán trọn kiếp người
Vẫn không mua được thảnh thơi một ngày!
BÀ BÁN BÁNH ĐẤT 
Bà đào đất làm bánh đất bán
Không phải đất nào cũng làm được bánh.
Đất từ đáy hồ sâu, lặn ngụp rét buốt
Đất từ trên núi cao, lội suối trèo dốc
Chọn đất làm bánh như chọn gạo làm bánh
Nhọc nhằn nhào nặn.
 
Bà địu cơm vào rừng
Mặc gió bấc mưa phùn
Tìm lá sim về hun.
 
Bánh đất như lát khoai lát sắn trên nong
Ngọt ngọt, bùi bùi, thơm thơm…
 
Người làng gọi tên bánh đất
Cùng cái tên yêu quý của bà
Khách mua người quen người lạ
Chị ăn dở mang thai
Người ăn sau ngày sinh nở...
 
Bà bán bánh đất giữa thời hiện đại
Như bước ra từ chuyện cổ tích làng tôi.
 
 
 
 
 
 
NGƯỜI ĐÀO GIẾNG
 
Anh đào giếng
Như con dúi rừng đào đất
Trần lưng bỏng rát
Tay cuộn bắp
Lấy chính mình làm tâm giếng thơi.
 
Quê tôi
Thác dội mòn lưng núi
Suối chảy rạch đá thành khe
Đất gầy trơ trơ đá
Lưỡi thuổng tóe lửa
Nhói đau.
 
Đáy giếng sâu
Có hơi đất ấm
Gặp lại mồ hôi cha
Bóng giếng tròn gặp nón che đời mẹ
Anh thuộc từng thớ đất
Biết mạch nào nông sâu.
 
Đất thương anh
Anh thương làng khát
Gạn chắt tháng năm gọi nước về.
 
 
 
 
 
 
VỀ LÀNG 
 
Đường về thênh thênh triền đê
Râm ran chuyện cày chuyện cấy
Ngoài đồng giòn tiếng máy
Ở đâu những cây rơm vàng?
 
Bến sông chợ cá tuềnh toàng
Giọng quê bán mua thương lắm
Gặp nụ cười nép sau vành nón
Cho tôi vơi chút thị thành.
 
Đâu rồi những lũy tre xanh
Nhớ giậu mùng tơi ngày ấy
Đâu rồi bờ ao cuốc gọi
Cơn mưa dắt nắng qua cầu.
 
Về làng ta đi tìm nhau
Nhà ai nay thành mặt phố
Bâng khuâng mái đình cổ thụ
Nghe cây vừa chợt lá buồn…
 
 
 
 
 
 
 
Ô CỬA MÂY BAY
 
Tôi đã quen cái nhoẻn cười của những đám mây
tiếng những đàn chim thiên di chiều ngọn tháp
gió có biết mồ hôi chúng tôi trộn vào sỏi cát
và cái nóng bê tông bỏng rát tầng cao?
 
Ngày ấy chúng tôi ở lán tạm giấy dầu
quen những chợ “cóc”,chợ “vồ” thời bao cấp
cơm ca ba, cái bánh bao quên mệt nhọc
bánh xà phòng phân phối lại nhường nhau.
 
Chúng tôi đổ bê tông, bom Mỹ réo trên đầu
xẻ núi ngăn sông làm dòng điện sáng
hạt gạo cắn đôi, nửa ra tiền tuyến
sắt thép xi măng là máu công trình.
 
Tôi vật vã ghép mảnh vỡ bình minh
em nhễ nhãi gánh vui buồn nắng gió
thanh sắt vai bò uốn cong chiều nhớ
sỏi đá nhọc nhằn xây ước mơ.
 
Những mảnh áo nhàu bạc nắng mưa
cây giữa trời tự làm nên bóng mát
bao mảnh nhọn chẳng thể ngăn gió ngược
Sau cơn mưa, bờ móng trổ nhành hoa.
 
Bụi mù trời, suối tóc em đỏ hoe
đêm đợi trăng rịn hương bồ kết
em mơ căn nhà và tiếng trẻ bên khung trời biếc
chiều chiều ô cửa mây bay…
 
 
 
                                              
 
 
VỀ MIỀN KHÓI TRẮNG
 
Tìm về miền khói trắng
Quen lắm tiếng còi tầm
Em gội mưa đội nắng
Vào ca cùng tháng năm…
 
Thành phố màu công nhân
Bao vui buồn thương nhớ
Mùa đi, cây vẫn gió
Nắng xanh màu áo xanh.
 
Theo dấu chân thân quen
Anh tìm về xa vắng
Chiều nhuộm đầy quá vãng
Mắt trẻ cười trong veo.
 
Mây ngả bóng sang chiều
Vẫn thương đời khói trắng
Lỗi tại cơn mưa rào
Ướp một chiều xa thẳm.
 
Có gì như hơi ấm
Trong tiếng còi vang ngân
Sông mãi trôi biền biệt
Mây đã về trăm năm
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG
- Họ và tên khai sinh: Nguyễn Nhuận Hồng Phương
- Sinh năm 1947
- Bút danh: Hồng Phương, Nguyễn Nhuận Hồng Phương
- Quê quán: Lệ Mật, Việt Hưng, Gia Lâm, Hà Nội. Hiện thường trú tại số nhà 35, đường Trần Hưng Đạo, phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 2006)
- Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phúc.
 
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
 * Khúc hát Mệ Linh (Trường ca NXB Thanh Niên, 2003 )
 * Trong rác không có rác (Tập truyện ngắn NXB Lao Động, 2004)
 * Đồng vọng ngược chiều (Tiểu thuyết NXB Lao Động, 2005)
 * Phá sản (Tiểu thuyết- NXB Lao Động, 2005)
 * Vận may (Tiểu thuyết NXB HNV, 2005)
 * Kịch bản phim truyền hình “Vận May” 17 tập (Hãng phim truyện Việt Nam, 2006)
 * Khi người ta ngủ (Tập truyện ngắn NXBHNV, 2007)
 * Phố thị (Tiểu thuyết NXB CAND, 2009)
 * Ngoài vòng tay của Chúa (Tiểu thuyết NXBCAND 2010)
 * Bách hoa tửu (Tập truyện ngắn NXBHNV, 2011).
- Giải thưởng văn học:
* Tiểu thuyết “Đồng vọng ngược chiểu” - Giải thưởng Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam 2006
* Cụm “Văn xuôi Nguyễn Nhuận Hồng Phương” - Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm 2001- 2005
* Tiểu thuyết “Phố thị” - Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm 2005 - 2010
* Tập truyện ngắn và ký “ Bách hoa tửu” Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm 2011- 2015
- Suy nghĩ về nghề văn:
Khi đã thực hiện được ước muốn : “Mang nén tâm nhang đến thắp ở Ngôi đền Văn chương của nhân loại.” - tôi nhận được niềm tự hào đó là đã tạo riêng cho mình một thể sắc văn hóa. Đức tin ấy bắt nguồn từ công sinh thành và dưỡng dục của Cha Mẹ; của linh khí Trời, Đất ban tặng; lòng kính trọng với các bậc tiền nhân; và không thể không nói đến những tình cảm yêu thương chân thành của những con người mà tôi hằng yêu quý…
Trên hết thảy: Đó là sự nếm trải các dư vị chua, cay, mặn, chát, ngọt, bùi… của cuộc đời mà tôi đã từng sống; và vượt qua  bằng Nghị lực, Niềm tin với lòng Dũng cảm của Một Con Người mang bút danh: Nguyễn Nhuận Hồng Phương.
 
 
A - TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
 
 
NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG VÀ
HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG Ở MỘT VÙNG QUÊ 
                                                                      Anh Chi 
1. NHỮNG CÚ QUĂNG QUẬT TRONG  ĐỜI
Thân phụ anh người thôn Lệ Mật, một làng nghề bắt rắn nổi tiếng thiên hạ của phủ Bắc Ninh xưa, nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội, sau chuyển cư lên Phúc Yên, Vĩnh Phúc làm nghề thu mua các loại rắn, ba ba, tắc kè, ếch, lươn… bán cho Hoa kiều hoặc đưa sang Ma Cao, Hồng Kông, và còn mở xưởng chế tạo xe kéo tay. Anh sinh ra đúng vào tháng nhuận năm Đinh Hợi 1947, nên tên hồi bé cha mẹ đặt cho là Nguyễn Văn Nhuận. Khi biết đọc Nhuận đã bắt đầu ham đọc sách, từ các chuyện dã sử, chuyện nghĩa hiệp, cho đến Dế mèn phiêu lưu ký, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, sau nữa là các tác phẩm cổ điển như Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử… Ngay từ thuở học trò, Nhuận luôn được thầy giáo phân công làm báo tường, và trên các số báo đó thường có những bài thơ của Nhuận. Không ít những bạn học thuở thiếu thời ở thị xã Phúc Yên đã cho rằng, Nhuận sẽ trở thành một nhà thơ.
Tuy nhiên, đời như một dòng sông cuồn cuộn, không chấp nhận sự mơ mộng dễ dàng nào. Sau năm cải tạo Công – Thương nghiệp, gia đình Nhuận bị thu hết tài sản, không được cấp sổ lương thực, người mẹ mất năm 1959, không gượng nổi, năm 1963 người cha qua đời. Thành một trẻ mồ côi, Nhuận phải thôi học, khai tăng tuổi, xin đi làm để kiếm sống với cái tên Nguyễn Trường Phương và được nhận làm công nhân trên tỉnh Lào Cai. Đó là cú quăng quật đầu tiên trong đời Phương. Đấy là những năm đầy bão táp trên quê hương Việt Nam ta. Năm 1968, có lệnh Tổng động viên đi chống Mỹ, Phương ra mặt trận, làm công binh, rồi lái xe binh đoàn 559… Hết chiến tranh, rời Trường Sơn, Phương về lái xe ở Hoàng Liên Sơn. Rồi lại qua cuộc chiến tranh Biên giới nữa, Phương cùng vợ làm lụng nuôi ba con nhỏ. Mấy chục năm trường, bao khổ nhọc, đắng cay, hy vọng ở đời đã thấm vào Phương, ngoài năm mươi tuổi, anh lại muốn thực hiện mộng ước nuôi từ thời thơ ấu, viết! Nhưng đột ngột, chị Hồng, vợ anh bị tai nạn, qua đời! Đây là cú quăng quật thứ hai trong cuộc đời Phương. Cú quăng quật này đã dúi người đàn ông dạn dày vào bàn viết, câm lặng một mình, thay cho khóc, anh viết những bài thơ về nỗi khổ đau: Có một bông hồng rơi xuống đất/ Lá vẫn còn xanh nhụy chưa phai/ Sắc còn thắm đỏ hương còn ngát/ Để lại nỗi buồn giữa trần ai…
Suốt 49 ngày đêm tang tóc, anh viết liên tục, những bài thơ đau đớn ấy thành một tệp dày trên bàn. Trong đó có bài thơ 49 ngày gồm 49 đoạn thắt ruột, bài 100 ngày một trăm chữ nhói lòng… Đấy là tác phẩm đầu tay của anh, tập thơ Vĩnh biệt hoa hồng. Và, anh đi đến quyết định, đem cái tên Nhuận hồi bé, tên Phương khi bắt đầu vào đời kiếm sống và tên vợ anh, ghép lại thành bút danh của mình, là Nguyễn Nhuận Hồng Phương, ký dưới tên tác phẩm của mình.
2. DUYÊN MAY LÀ ĐƯỢC GẶP NHỮNG BẠN VĂN ĐI TRƯỚC        
Sau Vĩnh biệt hoa Hồng, vừa làm lụng nuôi ba con ăn học, Nguyễn Nhuận Hồng Phương có thời gian rỗi là chuyên chú vào thơ. Trong anh, một khát khao bừng dậy, muốn viết bù cho những năm vì dồn sức cho mưu sinh mà không thể viết. Năm 2002, duyên may đầu tiên đến với anh, là gặp và được sự quan tâm của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, anh bắt tay vào viết thiên trường ca Khúc hát Mê Linh. Thật may mắn, Khúc hát Mê Linh đã được Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2003, vậy là cuộc sống lại có thêm một tác giả văn chương.
Nhưng rồi, chính nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi lại là người khuyên Nguyễn Nhuận Hồng Phương nên viết văn xuôi. Đúng là anh đã nghe lời thầy của mình, viết văn. Ngồi vào bàn, hơn nửa năm trời, anh viết liền một mạch 18 truyện ngắn, rồi đem gửi Tạp chí Văn nghệ công nhân và Nhà xuất bản Lao Động. Thêm một duyên may nữa, nhà văn Phạm Ngọc Chiểu phụ trách Tạp chí Văn nghệ Công nhân và nhà văn Trần Dũng, Tổng biên tập Nhà xuất bản Lao Động đã như những bạn văn rất nhiệt thành đóng góp nhiều ý kiến về kỹ năng văn chương cho anh. Tạp chí Văn nghệ Công nhân cho đăng một số truyện ngắn của anh, lập tức được bạn đọc và một số bạn văn chú ý. Và, cuối năm 2004, Nhà xuất bản Lao Động đã ấn hành tập truyện Trong rác không có rác của Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Mười bảy truyện ngắn, dù cấu trúc còn đơn sơ, nhưng dồi dào chi tiết sống và ngôn ngữ văn chương khá hiện đại, tiêu biểu là các truyện Người đàn ông hai đời vợ, Chiếc xe tang, Lật tẩy, Chuyện nhỏ trong thị trấn, Trong rác không có rác… là những câu chuyện về những thân phận sống trong một thị xã miền trung du, thật nhiều mồ hôi nước mắt, nhiều khi bụi bặm nữa, nhưng đã ánh lên những vẻ đẹp Người!
Đúng là khát khao viết bù lại cái thời vì mưu sinh mà không được viết, chính trong những ngày tập truyện Trong rác không có rác đang nằm trong nhà in, Nguyễn Nhuận Hồng Phương ngồi miết vào bàn, viết thiên tiểu thuyết Đồng vọng ngược chiều. Khi Trong rác không có rác đến với bạn đọc thì, anh lại ôm tập bản thảo tiểu thuyết Đồng vọng ngược chiều, dày hơn 400 trang, đến gửi gắm Trần Dũng và Phạm Ngọc Chiểu. Tôi biết, khi đọc và duyệt in Đồng vọng ngược chiều, Trần Dũng có nói với Phạm Ngọc Chiểu, “Thằng chú (thằng em) này đến với văn chương có thể nói là hơi muộn, nhưng vì chịu đọc, chịu học, lại biết rút kinh nghiệm để vượt qua những non yếu về nghề của các bậc đi trước và tiếp cận ngay được với văn học hiện đại”. Và, năm 2005, thiên tiểu thuyết đầu tiên của Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã được NXB Lao Động cho ra mắt bạn đọc.
Qua câu chuyện tình giữa nhà báo Nguyễn Thừa và kỹ thuật viên nông học kiêm nghệ sĩ nhiếp ảnh không chuyên Hải Linh, Đồng vọng ngược chiều chuyển tải một dung lượng đời sống dài nửa thế kỷ trên vùng quê trung du rộng lớn, bắt đầu từ ngày tiền khởi nghĩa cho đến cuối thế kỷ XX. Về tầm mức, nó là một pho sử thi của vùng quê Phúc An (Yên), nơi nhà văn sinh ra và trưởng thành. Nhưng có lẽ do sự dè chừng khi viết thiên tiểu thuyết đầu tay, Nguyễn Nhuận Hồng Phương không đầu tư công sức cho một tiểu thuyết sử thi, anh chỉ dừng ở mức một tiểu thuyết tả thực với ngôn ngữ thật giàu xúc cảm trữ tình. Tuy vậy, đọc xong hơn 400 trang sách, ta thấy Đồng vọng ngược chiều thực sự có được chỗ đứng trong đời sống văn chương đương đại. Chúng tôi nghĩ, đạt được thành công ấy chính là do đời sống của vùng quê Phúc An nhiều năm trường chất chứa trong tâm can trí não nhà văn, anh đem dồn cả vào ngọn bút, khi viết tác phẩm. Đời sống đó, có người nữ cán bộ Việt Minh với biệt danh Người đàn bà mặt đẹp lại được người đời gọi theo chức phận là Maria, Bà lang, Mụ đỡ; có người Bí thư tỉnh uỷ với bề dày kinh nghiệm lãnh đạo cùng nỗi niềm riêng - chung đầy trắc ẩn; có hai người đàn bà có biệt tài nuôi rắn, bắt rắn, buôn bán rắn; có cơn lũ kinh người khiến ba đứa trẻ bấu víu vào chiếc bè trong dòng nước cuốn cuộn, xác lý trưởng trương phềnh cũng dính díu vào bên mép bè mà tay vẫn giữ chặt chiếc túi đựng con triện... Có thể nói, đó là một dòng sự sống dữ dội, chảy suốt mấy chục năm trời trên vùng quê Phúc An, từ ngày đất nước làm cuộc giành độc lập, qua kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cho đến thời kỳ người ta có thể dốc sức để mưu cầu hạnh phúc, tiêu biểu là hai nhân vật Nguyễn Thừa và Hải Linh. Mọi diễn tiến cuộc sống ấy, như những tiếng vọng từ quá khứ vẫn không ngừng dội vào đương đại, được nhà văn trình bày qua những chuyện của Nguyễn Thừa và Hải Linh kể về cuộc đời mình, về những người ruột thịt trong gia đình... Bởi thế, thiên tiểu thuyết ái tình với biết bao buồn vui, sướng khổ của đôi tình nhân Nguyễn Thừa và Hải Linh, đã phản ánh được thật nhiều những sướng khổ, buồn vui của cả vùng quê Phúc An, từ ngày xưa đến bây giờ. Có thể nói, cấu trúc tác phẩm như vậy là một thành công trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Dù ngoài năm mươi tuổi mới bắt đầu cầm bút, nhưng anh đã “…tiếp cận ngay được với văn học hiện đại”, đúng như nhà văn Trần Dũng nhận định.
3. TỰ SỰ - TRỮ TÌNH GIỮA BỀ BỘN CUỘC SỐNG… 
Khi Nguyễn Nhuận Hồng Phương bắt đầu làm cái việc của một nhà văn thì, sau hơn một trăm năm phát triển, nền văn chương Việt Nam hiện đại đã thực sự đạt đến tầm trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng. Ngoài những nhà văn có thành tựu lớn như Ma Văn Kháng thời kháng chiến chống Mỹ, hoặc nhà văn tiêu biểu thời hội nhập như Hồ Anh Thái, còn có nhà văn viết rất bạo, theo lối “hiện thực huyền ảo” để văn mình được mới lạ, và có nhà văn, viết còn bạo hơn, theo lối “hiện sinh”, đến mức có phần nặng về tính dục để văn mình thêm hấp dẫn… Với Nguyễn Nhuận Hồng Phương, tôi nghĩ, chính thân phận anh cùng đời sống của vùng quê Phúc An đã khiến anh phải làm nhà văn để viết về nó. Tác phẩm văn chương, suy cho cùng, là bản tự sự của nhà văn về cái tôi trữ tình của mình cùng muôn mối sự đời tạo nên. Đồng vọng ngược chiều là bản tự sự quan trọng về chính cuộc đời Hồng Phương, gá gửi qua nhân vật Nguyễn Thừa cùng câu chuuyện tình ái với Hải Linh; và, nó trở nên có ích với đời, bởi qua bản tự sự đó người đọc hiểu được lịch sử khổ đau, cực nhọc và đẹp đẽ của mấy thế hệ con người sống tại vùng quê trung du có tên là Phúc An!
Đồng vọng ngược chiều đã được Liên hiệp các hội Văn học - nghệ thuật Viết Nam trao giải thưởng năm 2006. Cũng năm này, Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản Lao Động cùng Hội Văn nghệ Vĩnh Phúc mở cuộc hội thảo về tác phẩm đó, tại thị xã Vĩnh Yên. Và năm này, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã sáng tác được hai tiểu thuyết nữa: Phá sản, do NXB Lao Động ấn hành, và Vận may, được xuất bản bởi NXB Hội Nhà Văn. Hai năm, cho ra đời ba tiểu thuyết, cho thấy bút lực Nguyễn Nhuận Hồng Phương dồi dào đến ngần nào! Khác với Đồng vọng ngược chiều đã đề cập tới đời sống Phúc An từ năm 1945 đến cuối thế kỷ XX, trong Phá sản và Vận may là đời sống con người ở vùng quê này những năm cuối thời bao cấp, chuyển sang thời kỳ mở cửa, đổi mới. Hai thiên tiểu thuyết này chuyển tải một dung lượng khá sâu rộng về những chuyện đời và những phận người ở Phúc An nhiều cực thân, nhọc lòng, lắm những mưu đồ tư lợi thấp hèn, và cũng nhiều khao khát vươn tới hạnh phúc thực sự.
Phá sản đích thị là một tiểu thuyết tả thực, cấu trúc gọn nhẹ, nhưng vấn đề nó đặt ra không phải là nhẹ. Đây là câu chuyện về cuộc hồi phục Công ty xây dựng số I, công ty hàng đầu về xây dựng của vùng đất đầy tiềm năng khi bước vào sự nghiệp đổi mới. Giám đóc Công ty là Trần Búp, được đào tạo từ thời bao cấp, lấy vợ cũng theo bố mẹ tính toán cho sao có lợi, nghiễm nhiên trở thành một nhân vật sáng giá khi bước vào cuộc hồi phục công ty. Nhân vật nữ chính, là Duyên, xuất thân là phu hồ “mười sáu tuổi, tuổi trăng tròn, ngây thơ, trong trắng như nụ hoa chanh nơi thôn dã… Thế mà vào tuổi ấy, cô đã phải leo tít tắp lên giàn dáo cao ngất, mặt mũi nhem nhuốc nước xi mămg”. Chưa đủ, trong một đêm mưa gió ở công trường, “nụ hoa chanh” ấy đã bị tay đội trưởng Khạp cưỡng hiếp một cách bỉ ổi. Duyên đã cắn răng nuốt nỗi tủi hận của đời con gái, bấm bụng giấu đi nỗi tủi hổ của người vợ không còn tròn vẹn khi sống với người chồng mà mình yêu thương. Duyên quyết vươn lên tạo dựng hạnh phúc thực cho mình bằng cách học những đồng nghiệp giỏi, học những người tốt và học qua sách vở. Khi Duyên trở thành Phó giám đốc Công ty xây dựng số I cũng là lúc chị phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách. Từ cảnh lam lũ nghề vôi vữa mồ hôi trên dính mồ hôi dưới của công nhân, các trò rút ruột công trình để kiếm lợi của những cá nhân nắm quyền, cho đến những bi kịch cá nhân, đặc biệt là bi kịch của Giám đốc công ty, kẻ tiêu pha vô tội vạ ngân sách nhà nước… tất thảy đều được nhà văn miêu tả thật sinh động. Kết cục, cuộc phá sản của Giám đốc Trần Búp là tất yếu, và người đọc hiểu, đó không chỉ là sự phá sản của một công ty hàng đầu, mà là sự phá sản về con người - nhân sự không thể đáp ứng được với sự nghiệp đổi mới!
Phá sản là bản tự sự - trữ tình về Duyên, người phụ nữ từng bị chà đạp, nhưng thông minh và giàu nghị lực; về Trần Búp tham lam, nhiều mưu cơ, nhưng sống thấp hèn. Và, cũng là bản tự sự về cuộc sống bề bộn với biết bao con người biết tự vươn lên bằng cách dấn thân vào sự nghiệp đổi mới đích thực!
4. … VÀ TỰ SỰ - TRỮ TÌNH GIỮA NGỔN NGANG SỰ ĐỜI 
Đến tiểu thuyết Vận may, nhà văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã tỏ rõ môt bản lĩnh văn chương vững vàng. Anh đã sáng tạo nên nhân vật có cá tính rõ nét, có số phận đặc biệt, và có thể nói, anh đã mạnh bạo khi viết về những phận người dưới đáy của xã hội.
 Nhân vật chính của Vận may có tên là Nó (sau đó, được gọi là vua đập hộp bởi rất tài trong nghề trộm cắp, rồi được kêu là 303 lúc ở trong nhà tù, sau nữa thì thành tôn ông hay quý ông khi đã ra tù, trở thành nhà kinh doanh địa ốc). Cốt tuyện rất cuốn hút, khiến người đọc có thể liên tưởng đến Năm Sài-gòn của Nguyên Hồng trong tiểu thuyết Bỉ vỏ; lại khiến người ta thấy hay hay và nghĩ tới tay bịp bợm luôn ăn may Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Nhưng thực sự không phải vậy. Nó sinh sau Xuân Tóc Đỏ và Năm Sài-gòn hơn nửa thế kỷ, và là sản phẩm của xã hội ta thời bao cấp chứ không phải thời Tây. Từ tính cách đến thân phận và hoàn cảnh sống của Nó mà Nguyễn Nhuận Hồng Phương miêu tả cụ thể và khá sắc nét, cho biết rõ như vậy.
Sớm mồ côi cha, Nó chi có mẹ già lam lũ với gánh hàng rong, không họ hàng thân thích. Bạn gái đầu tiên của Nó là Con bé phe tem phiếu mười ba tuổi mà Nó gặp trong lần xếp hàng mua chân giò về làm giỗ bố. Sự đời đầu tiên mà nhà văn đưa ra trong Vận may là cuộc xếp hàng mua thực phẩm bằng tem phiếu thời bao cấp. Có thể nói, nhà văn rất tài khi tả thực cảnh xếp hàng, chen lấn, xô đẩy, cướp chỗ của nhau cùng lời ăn tiếng nói của các thứ hạng người tiêu chuẩn thấp cố dướn tới cái phản thịt mậu dịch. Đối với các thứ hạng tiêu chuẩn thấp, “mậu dịch viên” là bậc oai vệ, quyền thế, còn Nó thì thầm rủa là “mụ bán thịt”. Trong cuộc xếp hàng chen lấn nhễ nhại mồ hôi, có lúc Con bé cọ cái bộ ngực mới nhú vào ngực Nó, khiến hôm sau Nó cất công đi tìm Con bé, và đã có được “bạn gái”. Con bé ước mơ được ăn ngon, mặc đẹp. Nó thì mơ ước có nhiều tiền để Con bé sẽ là của Nó. Nhưng phận nghèo, Nó bỏ học, đi ăn cắp. Và rồi, với tuổi mười bốn, dòng đời bạo liệt đã cuốn cuộn Nó vào thế giới xã hội đen.
Qua Vận may, người đọc thấy tác giả thực sự am hiểu thế giới xã hội đen trong xã hội ta nửa cuối thế kỷ XX. Ngôn ngữ của giới trộm cắp thời Bỉ vỏ của Nguyên Hồng còn có màu sắc lãng tử, kiểu như “Anh đây quân tử không vòm (không nơi ở)/ Ngày mai kện rập (bị bắt) biết mòm (trông nhờ) vào đâu”. Ngôn ngữ của thế giới xã hội đen trong Vận may cộc lốc hơn, dữ dằn hơn, nói về các tác nghiệp thì nào là mõi, đập vòm, làm thịt, đè, thoóng, nhảy tàu, lượn ngày ăn đêm; gọi danh các nhân sự cũng hiện đại hơn, như sư trưởng, mặt chuột kẹp, thằng thợ khoá, mụ tiêu thụ, rồi gã kiểm lâm, hạt trưởng, lại cả má mì - nữ trại viên, nữ quản giáo... Ngoài am tường thứ ngôn ngữ “đặc thù” ấy, Nguyễn Nhuận Hồng Phương phải hiểu biết thật nhiều về giới xã hội đen mới có thể miêu tả những nhân vật của anh sống động, cuốn hút người đọc đến thế. Vốn sống phong phú về xã hội đen và sự dồi dào về chi tiết đời sống của giới lưu manh, là hai trong những phẩm chất làm nên tài năng của tác giả Vận may. Bởi thế, nhân vật Nó đã thực sự khiến người đọc chăm chú theo dõi từ đầu đến cuối tác phẩm.
Giới xã hội đen, hay như người ta gọi là giới maphia, hoặc giới lưu manh, cũng chỉ là một “giới người” trong xã hội, nó được sinh ra, tồn tại và tiến triển  trong lòng xã hội. Viết về một “giới” như vậy, thì phải có vốn sống và tri thức về cả xã hội đang bao chứa nó. Sự đời đầu tiên, cảnh xếp hàng mua thịt mậu dịch, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã thực sự thành công bởi anh có vốn sống thật dày và hiểu biết sâu về xã hội thời bao cấp. Sự đời tiếp theo, nhân vật Nó bị rơi vào một tổ chức lưu manh do sư trưởng cầm đầu, nhà văn cũng tỏ ra thấu hiểu bối cảnh xã hội còn có cơ hội cho sư trưởng làm mưa làm gió. Rồi những sự đời tiếp theo diễn ra trong các hoạt động xã hội đen, nhà văn tỏ ra rất hiểu, giới lưu manh có đất hoạt động trong xã hội, nên cuộc đời nảy sinh mụ tiêu thụ, thằng thợ khoá. Và nữa, những sự đời trên vùng rừng núi Tây Bắc, nhà văn có sự hiểu biết thật thấu đáo. Không những hiểu cơ cấu xã hội có cơ hội để nảy nòi những gã kiểm lâm, thằng Vện, hạt trưởng, chúng vừa moi tài nguyên đất nước vừa sát phạt nhau tàn khốc, mà Nguyễn Nhuận Hồng Phương còn có tri thức thật rộng về tài nguyên rừng Tây Bắc. Những đoạn anh viết về gỗ đặc sản của rừng Việt Nam, như gỗ lát với những lát chun, lát hoa, lát da đồng vân mây ngũ sắc, lát mặt quỷ; và, anh viết về mỏ gỗ pơmu vô cùng lớn và quý giá có giá trị ngang với gỗ ngọc am huyền thoại của Trung Quốc… thực sự có sức truyền cảm và truyền những vẻ đẹp về văn hoá cho người đọc. Có thể nói, đó là những trang văn phong tục thật hay. Và thêm nữa, đến những sự đời ở trong nhà tù, tác giả cũng có vốn hiểu biết khá tốt về môi trường này để có thể viết về hai nhân vật má mì - trại viên nữ cùng nữ quản giáo. Sau bao năm giang hồ, bị bắt vào tù, thành trại viên 303, nhưng trong trường tình Nó đã dễ dàng bị má mì sỏ mũi, chiếm Nó làm chồng. Và, thông qua má mì, nữ quản giáo đã bày cho Nó cách làm tiền thành công nhất là buôn bán nhà đất. Đó là bài học lớn nhất, cũng là vận may quan trọng nhất đời, khiến khi mãn hạn tù Nó cùng má mì thành ông, bà Giám đốc một Công ty bất động sản bề thế. Nó trở thành quý ông, nhưng người mẹ lam lũ đã qua đời khi nó còn ở trong tù, và, Con bé phe tem phiếu xưa đã là một thiếu phụ với một gia cảnh bình dị và yên ấm…
Khúc cuối của Vận may, tưởng như nhân vật chính đã là người thành đạt trong đời, vậy mà Nó lại vô cùng buồn bã, cô đơn. Còn tôi thì nghĩ rằng, tiểu thuyết Vận may chính là một bản tự sự - trữ tình về ngổn ngang biết mấy sự đời trên vùng quê trung du mà Nguyễn Nhuận Hồng Phương sinh ra và gắn bó máu thịt suốt bao năm trời!
5. ĐÔI ĐIỀU MUỐN NÓI THÊM
Mỗi nhà văn đều có điểm xuất phát riêng để đến với văn chương, và có kho vốn sống riêng cũng như một một giọng văn riêng để, khi viết tác phẩm, là cất lên bản tự sự - trữ tình của cá nhân mình. Nguyễn Nhuận Hồng Phương cũng vậy. Văn của anh khai thác sâu vào cái vỉa sự sống của miền quê trung du anh được sinh ra và lớn lên từng đốt qua những cú quăng quật của cuộc đời. Bị quăng quật, không có gì thiệt cả đối với một thân phận sẽ phải làm nhà văn. Thế mới trở thành người có một nỗi lòng nặng trĩu những ý nghĩ về nhân sinh. Mồ hôi nước măt đổ ra trong cuộc mưu sinh, thì mới thành người chất chứa trong tâm can những điều lẽ về nhân bản. Đến khi làm phận sự nhà văn, (như Nguyễn Nhuận Hồng Phương là khi đã ngoài năm mươi tuổi), tất cả những điều lẽ đó thức dậy, người ấy (và Phương cũng vậy) sẽ được “lộc” của đời đấy, “lộc” ấy nẩy nở thành văn chương, nghĩ cho cùng, cũng chính là đời cho mà thôi…
Không lan man nữa, tôi đang viết về văn chương của Nguyễn Nhuận Hồng Phương, thì xin nêu ý cụ thể là, điểm xuất phát của riêng anh là vùng quê Phúc An. Cái kho vốn sống riêng của anh là cuộc sống ba chìm bảy nổi dội vào anh khiến anh nhớ đời và phải viết thành văn. Cái giọng văn riêng của anh, là do những thân phận lam lũ, đôi khi bụi bặm nữa, nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp Người, và những đêm đêm thổn thức không thể ngủ được, chính họ đã thầm thì bên tai anh, tức là cho anh cái giọng văn ấy đấy. Nghĩ cùng kỳ chi lý, phẩm chất văn chương của anh, là do thực tiễn đời sống của vùng trung du Phúc An cho anh mà thôi!
Sau tiểu thuyết Vận may, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã có tiểu thuyết Phố thị (NXB Công an Nhân Dân, 2009), vẫn là những chuyện biết mấy sự đời ở Phúc An. Và nữa, sau Phố thị, anh lại có tiểu thuyết Ngoài vòng tay của chúa (NXB Công an Nhân Dân 2011), ngoài ra còn viết được nhiều truyện ngắn. Anh vẫn đang đi trên con đường số phận mình… Tôi thì muốn nói thêm với Nguyễn Nhuận Hồng Phương rằng, bao năm trường anh đổ mồ hôi sôi nước mắt trên mảnh đất Phúc An, nhưng Phúc An cũng cho cái người làm nhà văn là anh nhiều vô cùng. Đó là vinh dự, cũng là món nợ, anh hãy tiếp tục viết để trả món nợ to lớn ấy nhé!.
A.C

CÂY BÚT TIỂU THUYẾT

NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG

Phạm Ngọc Chiểu    
Đến thời điểm diễn ra hội thảo “Văn xuôi Vĩnh Phúc từ năm 1975 đến nay” tổ chức tháng 11 năm 2012, Nguyễn Nhuật Hồng Phương đã viết và ra các tiểu thuyết “Đồng vọng ngược chiều”, “Vận may”,” Phá sản”, “ Phố thị” và “ Ngoài vòng tay của chúa” . Từ tiểu thuyết đầu tay “ Đồng vọng ngược chiều” ấn hàng năm 2005 đến tiểu thuyết mới nhất vừa ra mắt bạn đọc ngay sát trước hội thảo, mang tên  “ Ngoài vòng tay của chúa” (tháng 10 năm 2012), tính ra, trong vòng 7 năm , nhà văn sinh ra từ làng Lệ Mật nổi tiếng với nghề nuôi bắt và kinh doanh rắn, nhưng sau nhiều năm lặn lội trường đời đã dừng lại, đứng chân trên đất cổ Mê Linh để theo nghiệp văn chương, đã gửi đến bạn đọc gần xa hơn ngàn rưởi trang trong năm cuối tiểu thuyết của mình. Một hiệu quả lao động nghệ thuật không nhiều ngòi bút tiểu thuyết có đạt được. Ấy là chưa nói, liền trong  hai năm trước khi đưa in tiểu thuyết đầu tay,  Nguyễn Nhuận Hồng Phương còn hiện diệ trên văn đàn bằng hai đầu sách thuộc hai thể loại văn học khác: “Khúc Hát Mê Linh”- Trường ca, NXB Thanh Niên, 2003 và “ Trong rác không có rác” – Tập truyện ngắn , NXB Lao Động , 2004.
 Do duyên nghiệp văn chương sao đỏ, tôi là người được can dự vào việc ấn hàng một nửa số đầu sách Văn xuôi của Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Cụ thể là, tôi đã đọc thẩm định, Ký in, thậm chí làm cả việc sủa mo rác, viết Lời Tựa cho tập truyện ngắn và hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên – chùm tác phẩm xác lập Văn nghiệp của nhà văn học Nguyễn vùng đất cổ trung du nổi tiếng này.
Còn nhớ hồi đó , liền trong hai năm 2004 và 2005, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đến với chúng tôi , tạo nên sự kiện về sự hiện diện của một tác giả mới rất có ấn tượng. Nói “ Chúng tôi” là nói đến người làm tạp chí “ văn nghệ công nhân” và NXB Lao động, trong đó tôi và nhà văn Trần Dũng là những người đúng mũi chịu sào. Tôi chịu trách nhiệm gồng gánh tờ Tạp chí Văn nghệ mới của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam  mang tên “ Văn nghệ công nhân” còn Trần Dũng, với chúc danh Phó Giám đốc – Tổng biên tập, chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung các ấn phẩm của NXB Lao Động , đồng thời nhận đỡ tôi tuyển chọn những truyện ngắn  để giới thiệu trên tờ Tạp chí do tôi phụ trách.
Là nhà văn trưởng thành lên từ những năm tuổi trẻ còn cầm vô lăng lái máy cày, máy kéo, ô tô, chuyển qua nghề biên tập, bước từng bước vững chắc từ một Biên tập viên lên đến vị trí Tổng biên tập của một Nhà xuất bản có bề dầy lịch sử đứng hàng đầu hàng thứ nhất trong ngành Xuất bản của đất nước, nhà văn Trần Dũng có tên trong việc phát hiện, chăm chút những cây bút mới xuất hiện từ cơ sở. Chính Ông đã hồ hởi  khoe và đề nghị tôi ký in những truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Nhuận Hồng Phương trên Tạp chí “ Văn nghệ công nhân”,  để rồi sau đó , như vừa nhắc lại trên kia, liền trong hai năm 2004 và 2005 , đến lượt tôi đề nghị Trần Dũng ký in tập truyện ngắn “ Trong rác không có rác” và tiểu thuyết “ Đồng Vọng Ngược Chiều” hai tác phẩm đưa Nguyễn Nhuận Hồng Phương chính thức ra nhập Hội Nhà Văn Việt Nam.
Nhớ lại chuyện 7 năm trước, tôi không chỉ nhớ gương mặt và giọng nói hồ hởi của nhà văn Trần Dũng khi phát hiện ngòi bút Nguyễn Nhuận Hồng Phương, mà tôi còn nhớ như in ước đoán của ông về cây bút mới này khi ông ký duyệt in tiểu thuyết  “ Đồng Vọng Ngược Chiều” : Cuấn sách này khá quá. không chừng sẽ ăn giải to .Thằng chú mày đến với văn chương có thể nói là hơi muộn, nhưng vì chịu học, chịu đọc , lại biết rút kinh nghiệm để vượt qua những non yếu về nghề nghiệp của các bậc đi trước và tiếp cận ngay được với những tác gia, tác phẩm hiện tại, thành ra nó trưởng thành rất nhanh qua từng truyện và qua mỗi cuấn sách trình làng. “Những gì nói đến Nguyễn Nhuận Hồng Phương sau này chứng minh đoán định của Trần Dũng là đúng.Bằng chứng là, với những tác phẩm đã xuất bản , Nguyễn Nhuận Hồng Phương không chỉ là một nhà văn chính danh mà Ông còn được hai giải thưởng về tiểu thuyết: “Đồng Vọng Ngược Chiều” được Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam tặng giải năm 2006, và “ Ngoài Vòng tay của Chúa” được bộ Công an và Hội Nhà Văn Việt Nam tặng giải năm 2011 nhân cuộc thi viết truyện, ký và tiểu thuyết về đề tài “ Vì an ninh tổ quốc và bình yên cuộc sống”. Không chỉ thế “ Đồng Vọng Ngược Chiều” còn được UBND tỉnh Vĩnh Phúc tặng giải thưởng về Văn học – Nghệ thuật  5 năm lần thứ hai (2000 – 2005), và tiểu thuyết “ Phố thị” được giải thưởng về Văn học – Nghệ thuật 5 năm  làn thứ 3 (2006 – 2010). Bốn giải thưởng liên tiếp cho năm đầu sách tiểu thuyết xuất bản trong vòng 7 năm đã mang yếu tố khẳng định tính chuyên nghiệp và sự trưởng thành của một nhà văn vùng đất tổ Trung du!
Vậy tiểu thuyết của  Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã mang những dấu ấn gì về nội dung , về bút pháp ?
Tiểu thuyết là thể loại văn học chứng tỏ tầm mức sức vóc sáng tạo nghệ thuật của một nhà văn. Cái tầm mức sức vóc dáng ấy được biểu hiện ra ở cả hai phương diện : Nội dung tác phẩm và  Nghệ thuật xây dựng tác phẩm .Về nội dung, tiểu thuyết đòi hỏi một cốt truyện dài hơi, đa tuyến, nhiều tầng ý nghĩa, đặc biệt là ý nghĩa xã hội được phản ánh qua các số phận nhân vật. Tầm mức cảu tác phẩm tiểu thuyết, bởi nội dung là một cốt truyện dài hơi, đa tầng nên đòi hỏi nhà văn phải có một bố cục tác phẩm, chặt chẽ, sinh động mới có sức lôi kéo người đọc. Phải xây dựng những nhân vật có số phận ,có cá tính mang dấu ấn vừa của riêng cá thể đó vừa của xã hội nhân vật đó sống . Điều rất quan trọng trong nghệ thuật tiểu thuyết là chọn những thủ pháp thể hiện thích hợp và những thủ pháp đó tạo nên bút pháp mang tính sáng tạo của nhà văn. Cuối cùng, là yếu tố văn chương. Một tác phẩm văn học , nhất là của một tiểu thuyết, phải – có – văn. Văn làm nên sức cuốn hút người đọc , văn cũng làm nên tên tuổi của nhà văn .
Quy chiếu những yêu cầu mang tính lý luận vừa là đòi hỏi không thể khác về giá trị của tiểu thuyết trên đây vào những tiểu thuyết của Nguyễn Nhuận Hồng Phương , ta thấy gì?
Tôi đã đọc, đọc kỹ bốn trên năm tiểu thuyết đã xuất bản  Nguyễn Nhuận Hồng Phương (tiểu thuyết “ Ngoài Vòng Tay Của Chúa” vừa in xong, tôi chưa có sách đọc) . Điều dễ nhận ra, là cả 4 tiểu thuyết đều lấy bốn cảnh thị xã miền trung du có tên là Phúc An làm lền, và những con người sinh ra và lớn lên ở thị xã nhỏ này là nhân vật của các tiểu thuyết. Các tiểu thuyết của Nguyễn Nhuận Hồng Phương đều có cốt truyện không đơn giản, trải trên bình diện không gian thật rộng và thời gian khá dài. Chuyện của “Đồng Vọng Ngược Chiều” diễn ra xuốt mấy chúc năm, từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến khi đất nước tiến hành đổi mới ; Từ lúc nhân vật chính lọt lòng mẹ đến lúc thành một nhà báo có tên tuổi trong thị trấn. Gọn nhẹ đến là tiểu thuyết “ Phá sản” thì câu chuyện cũng sảy ra trong hồi phục của Công ty xây dựng, nhưng thời gian và không gian của nhân vật thì dài rộng ra nhiều lần trước bối cảnh đó. Nhìn chung, Nguyễn Nhuận Hồng Phương thật sự chú tâm xây dựng cốt truyện đa tuyến, và tự cốt truyện đã có sự hấp dẫn người đọc. Đó là những cốt truyện có thể kể được khi nương theo câu chuyện của nhân vật chính. Riêng “Đồng Vọng Ngược Chiều” có cốt truyện khó kể , thậm chí không kể lại một cách ngọn ngành , nhưng vẫn hấp dẫn..Đây là trường hợp có tính đột biến  Nguyễn Nhuận Hồng Phương, gợi một hướng xây dựng cốt truyện mới với chính ông. Một điều nữa cũng đáng chú ý : các tiểu thuyết của ông đều mang đậm dấu ấn lịch sử xã hội. Dễ dàng nhận ra câu chuyện ông viết sảy ra ở đâu , thuộc giai đoạn nào của lịch sử đất nước.
Về xây dựng nhân vật , Nguyễn Nhuận Hồng Phương tỏ ra an tường tầng lớp tiểu thị dân, và ông xây dựng khá thành công những nhân vật xuất thân từ tầng lớp này. Xin dẫn ra đây một số nhân vật đó. Trong tiểu thuyết “Đồng Vọng Ngược Chiều” người đọc nhớ Nguyễn Thừa và Hải Linh. Ở “ Phá sản” là duyên. Ở “ Vận may” là một nhân vật không có tên, chỉ có biệt danh là “Nó”, là “Vua đập hộp”, là “303”…Còn, trong “Phố thị” người đọc nhớ nhân vật bà mẹ (vợ một người đánh xe bò) và ba con trai của bà, không chỉ bởi mấy mẹ con bà có tính cách, có số phận,mà còn vì từ chuyện của gia đình này người ta nhìn thấy sự phân hóa xã hội đang diễn ra trong thời kỳ đất nước bước vào thời kinh tế thị trường .Nhưng gây ấn tượng hơn cả là nhân vật Hải Âu của tiểu thuyết này , và một nhân vật khác nữa: chị Quỳ người đàn bà bán thịt , một cựu thanh niên xung phong chống Mỹ, sau được tín nhiệm bầu làm trưởng khu dân cư. Những nhân vật vừa kể ra, tuy chưa đạt đến tên tuổi Chí Phèo, giao Thứ, nhưng đọc xong hơn ngàn trang sách của Nguyễn Nhuận Hồng Phương, người đọc vẫn nhớ và đặt ra được từng ấy nhân vật, thiết nghĩ đó là một thành công đáng ghi nhận về nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông.
Nhân nói về những nhân vật tiểu thị dân của Nguyễn Nhuận Hồng Phương cần nói thêm rằng, do quá thông thuộc tầng lớp xã hội này, nhà văn đã có được những trang miêu tả, những chi tiết , lời ăn tiếng nói, thật sống động, thật khác biệt. Người đọc như bị thôi miên khi Nguyễn Nhuận Hồng Phương dẫn vào chứng kiến các cuộc sát phạt đỏ đen, nghe những đối đáp của dân anh chị. Đấy là những trang sách thật có ma lực.
Về bút pháp , cùng với việc sử dụng chắc tay bút pháp Tự sự , trữ tình truyền thống ,  Nguyễn Nhuận Hồng Phương cũng tỏ ra linh hoạt trong việc áp dụng các thủ pháp viết truyện hìn sự. Đặc biệt trong “Đồng Vọng Ngược Chiều” ông đã rất thành công khi cùng lúc sử dụng thủ pháp Đồng hiện và thủ pháp Hiện thực huyền ảo, nhờ vậy đã dẫn người đọc “đi” hết hơn 400 trang in của tiểu thuyết, qua chặng thời gian dài máy chục năm lịch sử của đất nước và một không gian rộng lớn với một cốt truyện đọc xong khó kể lại được. Thiên truyện được dẫn dắt bởi lối song hành kể chuyện của cặp nhân vật chính rất sinh động, biến hóa… thành công đến mức bạn đọc say mê đọc, còn bạn nghề thì vừa mừng vừa ngạc nhiên.
Đọc hết cả chùm 4 tiểu thuyết của Nguyễn Nhuận Hồng Phương , để chút thời gian nghẫm lại, thấy rõ nhất sự thiếu vắng này : Tính Dự báo. Dự báo về tương lai của nhân vật thì có, nhưng tương lai của cả tầng lớp người mà nhân vật đó đại diện , à cao hơn – dự báo về hướng đi tới của xã hội, của lịch sử thì chưa, nếu không muốn nói là không có , mà đây lại chính là sức nặng của tiểu thuyết , là cái tầm của vũ khí hạng nặng trong văn học này. Cũng cần góp thêm với Nguyễn Nhuận Hồng Phương lời này nữa: Ông thông thuộc tầng lớp tiểu thị dân và miêu tả khá thành công các nhân vật xuất thân từ tầng lớp này, nhưng qua 4 tiểu thuyết đã xuất bản, người tinh ý đã nhận ra sự giông giống , na ná nhau của các nhân vật Trại viên nữ (sau thành vợ của vua đập hộp) trong “Vận may”, thêm nhân vật vợ Quách Lâm Hùng (cùng trong “Phố thị”) gần như giống nhau về gốc gác, về sự sắc sảo, về cách thức vươn lên , giống cả cách nói và hành xử. Mới hay, cái sự quá thông thuộc một tầng lớp người, một mảng đời sống xã hội đối với người viết là qúy, là cần, nhưng khi cầm bút cũng phải cảnh giác, tự nhắc như mình để tránh sự giông giống , na ná. Đời viết văn của một nhà văn là dài, 7 năm đầu chỉ là sự khởi nghiệp, mấy lời góp cùng Nguyễn Nhuận Hồng Phương trên đây là mong muốn chặng dài văn nghiệp đi tiếp ông sẽ gạt bỏ dần những tỳ vết trong sáng tạo để cho ra đời những viên ngọc tiểu thuyết toàn bích hơn.
Với những gì đã làm được trong 7 năm khởi nghiệp, qua 5 tiểu thuyết ông đem đến cho bạn đọc , Nguyễn Nhuận Hồng Phương không chỉ là cây bút tiểu thuyết tiêu biểu của riêng Quê hương Vĩnh Phúc , và đó là cơ sở cho niềm tin ông sẽ đáp ứng được mong muốn của người đọc vừa nêu.
 
P.N.C
 
 
 
THẾ MẠNH NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG
 
Dương Kim Thoa
 
1. Hành trình làm giàu ngôn ngữ tiểu thuyết
Lao động nhọc nhằn nhưng cũng nhiều tưởng thưởng với nhà văn, đặc biệt người viết tiểu thuyết, là lao động ngôn ngữ. Dĩ nhiên, như người ta vẫn nói, văn học là nghệ thuật của ngôn từ, nhưng cụ thể hóa điều đó trong sáng tác văn chương như thế nào thì lại là điều cần được nhìn nhận theo cách căn cứ vào năng lực riêng của từng cá nhân người viết. Với tác giả Nguyễn Nhuận Hồng Phương, nỗ lực và quyết tâm làm mới mình ở từng đề tài khác nhau trong 5 cuốn tiểu thuyết là minh chứng cho sức lao động ngôn ngữ bền bỉ và đầy nghị lực. Và trong rất nhiều phương diện để đánh giá về một cây bút viết tiểu thuyết, tham luận này sẽ chỉ tập trung bàn về thế mạnh ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương.
a. Sự đa dạng về đề tài
Có thể thấy rất rõ lao động ngôn ngữ của Nguyễn Nhuận Hồng Phương qua từng trang viết. Anh đa dạng trong đề tài, lối viết và cách xử lý ngôn ngữ kể, ngôn ngữ nhân vật. Điểm qua mấy cuốn tiểu thuyết đã ra mắt của anh, người đọc thấy anh không hề lặp lại mình.
Đồng vọng ngược chiều (2005) là ký ức của 2 con người thuộc 2 thế hệ khác nhau gắn với thời đại và những biến cải thăng trầm trong cuộc đời của mỗi số phận. Qua đó, người đọc nhận ra sự thấm thía trong từng sự biến cuộc đời dành cho ta, để biết sống tử tế, lương thiện hơn. Người ta dễ nhận thấy hiện tượng liên tục chuyển đổi không gian, thời gian và ngôi trần thuật trong tiểu thuyết này của Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Đó là về mặt hình thức. Nhưng làm như vậy để đạt mục đích gì, tôi cho rằng điều này không hẳn đã dễ lý giải. Trước hết, đó là nỗ lực làm mới lối kể, vượt qua những trật tự thời gian tuyến tính truyền thống, vượt qua những giới hạn về không gian, thời gian bình thường để mạch ký ức giữa 2 nhân vật được nối kết liền mạch, để bạn đọc buộc phải mở rộng không gian mường tượng về bối cảnh tồn tại của nhân vật. Đó cũng là cách người viết tự tạo cho mình một cơ sở để chuyển đổi không gian truyện, chuyển đổi ngôi trần thuật, chuyển đổi cảnh huống truyện sang một lối khác hoàn toàn tự nhiên trong lựa chọn của tác giả ở một cốt truyện có quá nhiều sự kiện, nhiều nhân vật và nhiều chặng thời gian khác nhau. Nhưng theo tôi, chúng ta ghi nhận nỗ lực này ở sự “dám đổi mới” của nó, song cũng phải thừa nhận, nỗ lực đó chưa thực sự thành công khi nó không đạt được tốt nhất hiệu quả nghệ thuật mong muốn của người viết. Người đọc không thấy mối liên hệ nhuần nhuyễn và có sự tương tác, thúc đẩy nội dung cốt truyện giữa các tuyến nhân vật như Nguyễn Thừa – Hải Linh với người đàn bà mặt đẹp – bà lang – người cán bộ Việt Minh.
Phố thị (2008) là những xô lệch, đổi thay trong đời sống cũng như đạo đức của xã hội thời kinh tế thị trường được thể hiện thông qua một gia đình có 3 cậu con trai và một cô con gái. Ở không gian phố thị, một thị trấn đang trong giai đoạn chuyển mình đi lên về kinh tế, người viết đã nhận ra những nét nham nhở trong các gương mặt, số phận con người. Nhưng có thể thấy, phần lớn hơn, tác giả đã nhìn ra ở tận sâu trong từng con người tưởng như đã “vứt đi” về mặt nhân cách, vẫn có thể gạn lọc được phần nào phẩm chất tốt đẹp của tinh thần hướng thiện và nhân bản. Có thể thấy điều này qua cách tác giả xây dựng những nhân vật như Hải Âu, Quách Lâm Hùng và vợ của y. Mỗi nhân vật đều có đời sống riêng, hướng phát triển riêng, nhưng dễ thấy, cái làm họ chao đảo và nảy sinh nhiều mâu thuẫn, đấu tranh nhất vẫn là vấn đề tiền bạc, kinh tế. Đồng tiền trở thành yếu tố có tính quyết định và ảnh hưởng quan trọng. Trong cơn xoáy lốc của đồng tiền ấy, nó gạn lọc ra những phẩm cách giữ được phần thiên lương, và cuốn vào vòng xoáy đầy ma lực của nó những kẻ chỉ biết dùng tiền làm thước đo giá trị. Do đó, cơn lốc tiền bạc vừa dữ dội, lại cũng vừa cần thiết, nó như thứ lửa thử vàng, như yếu tố cần thiết để phân chất chất vàng mười và đồng thau giữa cuộc đời.
Vận may (2006) là hành trình cuộc đời của một gã lưu manh vật vã trở thành người lương thiện. Ở cuốn tiểu thuyết này, tác giả đã kể lại toàn bộ cuộc đời của một nhân vật không có tên, xuyên suốt các chặng đường đời là “nó”, riêng lúc vào tù là “303”. Trải qua nhiều chặng đời bấp bênh chìm nổi, “nó” đã từ giã con đường của một kẻ lưu manh để trở về con đường chính đạo. Thực chất, người đọc có thể đoán được con đường đó khi rải rác trong suốt quá trình lưu manh hóa của nhân vật, người viết đã “lén” gài vào truyện những chi tiết hé lộ một cội gốc bền chặt của tính thiện trong con người này.
Phá sản (2006) lại là câu chuyện của giới xây dựng với những mánh mung, chiêu trò rút ruột công trình, kiếm lợi của một bộ phận cá nhân nắm quyền lực trong tay. Qua đó, tác giả hướng người đọc vào một góc tiếp cận với nội tình nhiều phức tạp của một trong những lĩnh vực tiêu tốn nhiều ngân sách nhà nước nhất.
Còn với Ngoài vòng tay của Chúa (2010), anh dựng nên chân dung người phụ nữ tên Hoa kiên cường, quyết đoán, giàu lòng nhân ái. Quyết tâm xây dựng một trang trại nấm Linh Chi, Hoa vừa muốn tri ân với những người đồng đội vào sinh ra tử trong chiến tranh cùng mình, vừa muốn tạo một cơ sở vật chất để chăm sóc và nuôi dưỡng những đứa trẻ tật nguyền, không cha không mẹ chị nhận nuôi.
Vài nét phác qua như thế để ta thấy vốn sống phong phú và sức làm việc rất bền bỉ của tác giả Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Trong vòng 8 năm, từ 2003 đến 2010, anh cho ra 8 tác phẩm, trong đó có 5 tiểu thuyết, bên cạnh đó là 2 tập truyện ngắn và 1 tập trường ca. Người ta sẽ chỉ dựng nên được một cái đỉnh cao trên một nền tảng thật rộng rãi và vững chắc. Nhiều người có thể cho rằng, số lượng chưa nói lên được nhiều điều, song sự thực, nếu không có một vốn sống đủ lớn, đủ vững và một tinh thần lao động say mê, miệt mài, chắc chắn, Nguyễn Nhuận Hồng Phương không thể cho ra mắt độc giả chừng ấy trang sách trong thời gian không hề dài đó.
Lao động của người viết tiểu thuyết quả là thứ lao động cực nhọc hơn cả trong các loại hình lao động sáng tạo văn học nghệ thuật. Người làm thơ có thể không cần có quá nhiều vốn sống, không cần một lý trí vô cùng mạch lạc và tỉnh táo, nhưng người viết văn, nhất thiết phải có những phẩm chất ấy trong tư duy. Lẽ dĩ nhiên, về phương diện ngôn ngữ, ta không thể so sánh giữa người làm thơ và người viết văn, nhưng công bằng mà nói, sự dụng công về câu chữ với người viết văn lắm khi trở nên nhọc nhằn và thách thức chính ở dung lượng đồ sộ của thể loại. Với tiểu thuyết, trên một trận đồ hàng nghìn, hàng vạn chữ, viết thế nào để không lặp lại mình, viết thế nào để cái ngôn ngữ nhân vật mình nói ra không giống với kiểu nói của nhân vật trong những tác phẩm khác, viết thế nào để độc giả thấy, đó mới đúng là ngôn ngữ của kiểu người ấy, trong hoàn cảnh ấy, v.v…, đó là thử thách không đơn giản. Tôi cho rằng, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã vượt qua được rào cản khó khăn này chính bởi ý thức trau dồi ngôn ngữ rất rõ rệt của anh qua từng chặng đường sáng tác. Xin được minh chứng thế này. Nếu ở cuốn Đồng vọng ngược chiều, cuốn tiểu thuyết đầu tay, ngoài ấn tượng về sự tìm tòi trong lối kể đồng hiện, người ta chưa thực sự chú ý tới văn phong của anh. Nhưng tới những cuốn sau đó, đặc biệt là Vận may và Phố thị, người ta thấy anh hoàn toàn thay đổi, năng lực làm chủ đội quân chữ nghĩa đã ngày càng được nâng lên. Hãy đọc lại khoảng 3 trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết Vận may, bạn sẽ thấy cách miêu tả chân dung một nhân vật với đầy đủ những nét tính cách được bộc lộ qua cách chọn chi tiết miêu tả của người viết kỹ lưỡng như thế nào. Nhân đây cũng phải nói ngay, nếu muốn thử thách bút lực của một người viết về mảng đề tài nào đó để xem mức độ am hiểu của họ, hãy nhờ họ viết ra khoảng hai đến ba trang viết đề cập về vấn đề đó. Chỉ cần phép thử này, bạn sẽ rõ ngay mức độ dày, mỏng, nông, sâu của người viết khi chạm tới một mảng đề tài cụ thể.
b. Tính phong phú của ngôn ngữ
Tôi muốn nhấn mạnh nhiều hơn tới vỉa ngôn ngữ đã được Nguyễn Nhuận Hồng Phương học hỏi và vận dụng thật nhuần nhuyễn trong những mảng đề tài gai góc của cuộc sống hôm nay: thế giới phù hoa, mưu mô của những kẻ lắm tiền nhiều của nhưng làm ăn phi pháp, những mánh khóe lọc lừa cướp giật của nhóm người thuộc xã hội đen, v.v… Nếu để ý, bạn sẽ thấy, trong số khá nhiều tiểu thuyết được xuất bản thời gian qua, số những tiểu thuyết chạm tới mảng đời sống hiện đại một cách trực diện và sâu sắc không nhiều. Không phải nhà văn nào cũng có điều kiện tiếp xúc và sẵn sàng tìm hiểu, giải mã những hiện tượng phức tạp của cuộc sống hiện đại. Do đó, có thể nói, thoạt tiên, phải nói rằng, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã dám đi vào những đề tài “gai góc”, đó là mảng đời sống hiện tại với những phức tạp và nham nhở của thói tục. Sự dày dặn từng trải của người viết không chỉ thể hiện qua vốn tri thức về đời sống rất thú vị mà chúng tôi sẽ đi vào điểm qua một số điểm nổi bật trong các tác phẩm cụ thể ngay sau đây.
Trước hết, nếu xét về khía cạnh ngôn ngữ, theo cá nhân tôi, Vận may là cuốn thành công hơn cả của tác giả Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Ở tác phẩm này, người viết thể hiện sự từng trải và vốn kiến thức phong phú, tinh tế về thực trạng xã hội giai đoạn này nên có nhiều trang viết hóm, gây ấn tượng. Nhiều người sẽ rất nhớ tới chi tiết người viết nói rằng, thời bao cấp, những gì có vần “ương” đều sướng cả, chẳng hạn như lương thực, thương nghiệp, thương mại, ngoại thương, công thương rồi đến cả như… thương binh nữa!
Qua Vận may, người đọc được tiếp cận thế giới xã hội đen với đủ hạng người và các mánh lới lừa gạt, tráo trở. Theo đó, độc giả thấy thú vị với kiểu ngôn ngữ của một thế giới riêng tự tạo với nhau, một cách ngầm thừa nhận vị trí của những kẻ sử dụng thứ ngôn ngữ này trong thế giới riêng của chúng. Những từ ngữ kiểu như “đập”, “hộp”, “đập vòm”, “nhảy tàu”, “vuốt”, “đè”, “mõi”, v.v… tạo nên sức sống cho trang văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương, dù có thể, nó gợi người ta nhớ về những trang viết trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng. Người ta chỉ có thể kỹ về chi tiết khi mạnh về quan sát và giàu có vốn liếng ngôn từ. Đọc Nguyễn Nhuận Hồng Phương, độc giả sẽ có cảm giác thú vị khi được trải qua những kinh nghiệm sống không còn quen thuộc hoặc bắt đầu trở nên xa lạ với đời sống thường nhật. Đó là những trang miêu tả cách chọn bò của người đàn bà trong tiểu thuyết Phố thị. Là những trang miêu tả các loại gỗ và những kiểu làm nhà, những trang nói về thú chơi và sự am hiểu về thạch sùng của nhân vật “nó” trong tiểu thuyết Vận may, v.v…
Trở lại với những trang viết của Nguyễn Nhuận Hồng Phương để ghi nhận thêm nỗ lực lao động về ngôn ngữ của tác giả, người ta thấy sự dụng công và tinh thần học hỏi nghiêm túc của anh ở những lúc cần phải bỏ công sức để trau dồi và bồi đắp thêm về chữ nghĩa cho trang viết. Với Phá sản, tôi dám chắc, anh phải có một thời gian tìm hiểu khá kỹ về những mánh lới, thủ đoạn và cả phương thức làm việc, quy trình hành động của các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng. Với Vận may, ngoài những trang viết khai thác rất mạnh mảng ngôn ngữ của thế giới ngầm, Nguyễn Nhuận Hồng Phương còn rất trau chuốt ở các trang nói về những kiểu kiến trúc nhà và cách chọn các loại gỗ khác nhau, trau chuốt với những trang miêu tả diện mạo nhân vật để qua đó bộc lộ tính cách. Cũng phải bổ sung thêm ở đây, để có được những trang viết theo kiểu đó, chắc chắn người viết lại phải tự trang bị thêm cho mình kiến thức về nhân tướng học, nhân trắc học. Rồi nữa, để có những đoạn văn miêu tả cách chọn bò của người đàn bà trong tiểu thuyết Phố thị, tôi đồ rằng anh cũng đã phải hỏi chuyện không ít những người sành sỏi trong lĩnh vực buôn bán trâu bò ở thôn quê. Và những trang viết về chiến tranh trong tiểu thuyết Ngoài vòng tay của Chúa rõ ràng đã tạo được không khí rất riêng và không hề giả tạo trong cảm giác người đọc.
2. Cắt nghĩa thế mạnh ngôn ngữ của Nguyễn Nhuận Hồng Phương
a. Trải nghiệm sống
Trước khi trụ lại khá lâu với nghề thợ hàn, Nguyễn Nhuận Hồng Phương từng bôn ba trong khá nhiều công việc như nấu ăn, lái xe tải, lái xe khách, lái tàu thủy. Nghe qua có thể thấy, đó toàn là những công việc sẽ phải tiếp xúc và phục vụ với quảng đại quần chúng trong một không gian rộng và nhiều thay đổi. Chắc chắn, môi trường của những công việc đã kinh qua đó đã là những “trường dạy ngôn ngữ” vô cùng phong phú cho Nguyễn Nhuận Hồng Phương.
Nhà thơ Nguyễn Duy từng chia sẻ quan điểm của ông về việc có người bảo rằng, nhà thơ là người sáng tạo ra ngôn ngữ. Tác giả của Tre Việt Nam khẳng định, chẳng nhà thơ nào sáng tạo ra ngôn ngữ cả, họ chỉ làm một việc khổ công hơn những người bình thường khác là đi lượm lặt, gom nhặt những ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày, từ đó chắt lọc, trau chuốt và chọn lựa sử dụng sao cho phù hợp. Với trường hợp của Nguyễn Nhuận Hồng Phương, việc tích lũy và trau chuốt vốn ngôn từ có lẽ cũng đến từ những năm tháng anh lăn lộn kiếm sống, tiếp xúc với đủ hạng người ở mọi giai tầng xã hội.
b. Đọc sách
Lẽ dĩ nhiên, người viết nào muốn đi dài, đi xa cũng phải trải qua công đoạn đọc tác phẩm của những người đi trước. Nguyễn Nhuận Hồng Phương là người chịu học, chịu đọc, anh sẽ không viết khi chưa thực sự nắm rõ về một vấn đề gì, ngay cả chỉ là những trang miêu tả cách chọn bò của người nông dân.
c. Viết liên tục như một sự rèn luyện ngôn ngữ
Nhìn vào thời điểm bắt đầu bước vào làng văn của Nguyễn Nhuận Hồng Phương, những điểm mốc đáng chú ý như giải thưởng của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, giải thưởng của Hội VHNT tỉnh Vĩnh Phúc, giải thưởng của ngành công an, trở thành hội viên hội nhà văn Việt Nam, v.v… không thể không ghi nhận nỗ lực lao động và sáng tạo không ngừng của cây bút này. Tôi cho rằng, việc liên tục viết, liên tục có những sáng tác mới đòi hỏi phải vận hành những cốt truyện  khác, những diễn tiến không giống nhau của đời sống các nhân vật trong từng bối cảnh sống khác nhau đã buộc Nguyễn Nhuận Hồng Phương phải lao động nhọc nhằn trên cánh đồng chữ nghĩa. Và dĩ nhiên, dao có mài có sắc, việc sáng tạo thường xuyên này đã buộc anh phải mài giũa năng lực sử dụng ngôn ngữ của mình.
d. Không chịu lặp lại mình
Khi nhà văn đã có thể viết tới 5 cuốn tiểu thuyết mà không thấy có sự lặp lại của chính họ trong 5 tác phẩm ấy thì ta có thể khẳng định một cách tin tưởng, nhà văn ấy sẽ đủ nghị lực và trữ lượng vốn sống để tiếp tục làm mới mình trong các cuốn sách khác. Việc lặp lại mình, dù chỉ là vô ý, vẫn là hấp lực khá mạnh với những cây bút thiếu thốn trải nghiệm và vốn sống, thiếu một bề dày ngôn ngữ cần thiết. Chúng tôi cho rằng, ngay từ ý thức không chịu lặp lại này, Nguyễn Nhuận Hồng Phương đã xác lập cho mình những cái đích cần phải vượt qua để trong mỗi tác phẩm, anh lại thách thức mình bằng một trường ngôn ngữ mới liên quan tới bối cảnh sống và hoạt động của các nhân vật chính. Do đó, nếu nói một cách tổng quát, 5 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Nhuận Hồng Phương đều đề cập tới những vấn đề đang diễn ra của đời sống hôm nay. Nhưng nếu chẻ nhỏ hơn ra, mỗi cuốn sách lại là những lát cắt riêng và trọn vẹn về một mảng hiện thực được quan sát khá cận cảnh và kỹ lưỡng.
3. Một vài ý kiến bổ sung
Ngôn ngữ phong phú, sinh động là ưu điểm nổi bật khi độc giả tiếp cận với tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Nhưng đôi khi, sự chông chênh giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ báo chí là điều còn khiến độc giả ngần ngại. Ranh giới ở đây rất mỏng và mờ. Chúng tôi cho rằng, đã có lúc, người đọc nhận ra sự sa đà, thiếu chăm chút về mặt chất văn trong ngôn ngữ của Nguyễn Nhuận Hồng Phương. Có phải vì lẽ ấy mà đã có những độc giả cho rằng, Nguyễn Nhuận Hồng Phương viết tiểu thuyết có nhiều chất báo chí. Trên thực tế, đã từng có khá nhiều trường hợp tác giả đã tỏ ra chông chênh trên ranh giới ngôn ngữ mà chúng tôi đề cập. Xin chỉ ra một vài ví dụ, đó là Nguyễn Bắc Sơn, là Đỗ Ngọc Yên, là Tô Đức Chiêu, là Phạm Ngọc Chiểu, là Phùng Kim Trọng, v.v… Đôi khi mong muốn viết nhanh, viết nhiều cũng sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự kỳ công của người viết trong quá trình lựa chọn ngôn từ. Ở một số trang viết của nhà văn Nguyễn Nhuận Hồng Phương, chúng tôi thiết nghĩ, nên cảnh báo anh về điều đó.
 
D.K.T
 
 
 
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU 
    
PHÁ SẢN 
        (Trích Tiểu thuyết)
 
24. 
Hành động mang tài sản cá nhân thế chấp vào ngân hàng để lấy tiền lo công việc của Công ty được coi là sự hy sinh cao cả. Nhớ hôm họp bàn tìm cách tháo gỡ khó khăn, khi nghe Duyên và Trần Búp phát biểu, ông Bí thư suýt khóc, nước mắt nhòe nhoẹt làm ông không nhìn rõ những khuôn mặt ngồi quanh bàn. Ông cảm tưởng như ngày mình còn trong quân ngũ, khi đứng trước các chiến sĩ lái xe tuyên thệ vượt ngầm thời chiến tranh ở rừng núi Trường Sơn.
Mặc dù mặt trận kinh tế không có bom đạn hay chết choc, nhưng giải pháp của hai người giữa lúc Công ty đang lâm vào thế bí cùng đường làm Bí thư xúc động. Thế có nghĩa là tự cứu lấy mình! Ông nhủ vậy. CHuyển nghị quyết thành hành động cụ thể là thể hiện sự đoàn kết nhất trí cao và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên lãnh đạo trong công ty.
Trưa nay, Bí thư ngồi nán lại rà soát tất cả kế hoạch chuẩn bị cho buổi lễ. Bí thư mở ngăn kéo, lấy chiếc hộp đựng Huân chương và tấm Bằng công nhận ra: Mặt kính lấp lóe, Bí thư có cảm tưởng những lá cờ đang bay phất phới, hàng trăm tia sáng phát hào quang rực rỡ, chói lọi. Nâng tấm Huân chương trên tay, nước mắt Bí thư rưng rưng. Đây là công lao của toàn thể an hem công nhân lao động trong Công ty. Thành tích vẫn phải ghi nhận, phải ăn mừng… Còn một tồn tại? Đó là quy luật muôn đời trong sự vận động của xã hội. Và, Bí thư tin. Tin vào trách nhiệm của những con người xung quanh mình…
Chợt có tiếng hỏi:
-Anh vẫn còn ở đây à?
Bí thư giật mình, suýt đánh rơi tấm Huân chương, ông ngẩng lên:
- Anh Búp đấy à? Tôi đang xem lại công việc một chút!
Trần Búp đẩy cửa vào, ngồi xuống ghế. Bí thư cất Bằng và tấm Huân chương vào ngăn kéo rồi lấy ấm đổ bã chè. Trần Búp ngăn lại:
Anh cho tôi xin cốc nước sôi để nguội, uống nhiều nước chè căng thẳng lắm!
Bí thư rót nước mời Trần Búp:
- Anh uống nước! – Rồi hỏi – Dạo này anh sinh hoạt ra sao?
Trần Búp nhấp một ngụm:
- Thì cứ nhì nhằng, sáng ăn phở, trưa ở lại thì ra quán cơm bụi, chiều về nhà, sớm thì nấu, muộn thì mì ăn liền
- Anh sinh hoạt thế mãi sao được? – Bí thư ái ngại – Thôi, vợ chồng chín bỏ làm mười. Anh xem thế nào, chứ dạo này tôi trông anh sút quá! Nhà thiếu đàn bà, vất lắm!
Trần Búp nói:
- Nhà tôi khó bảo lắm! cô ấy không về đâu. Còn đang đòi chuyển khẩu về Hà Nội.
- Thế còn các cháu?
- Một đứa chuẩn bị cuối năm nay thi đại học, một đứa lớp mười. – Trần Búp trả lời. – Dạo này bận học nên chúng cũng ít về.
- Hay là để tôi xuống gặp chị? Đằng nào hôm này vẫn phải xuống mời chị về cơ quan dự lễ đón Huân chương kia mà! Xuống đấy tôi sẽ lựa…
- Thôi thôi thôi… - Trần Búp ngắn lời – Cảm ơn anh, để xem thế nào hẵng! Tôi đang lo không biết cô ấy có đồng ý cho tôi mang nhà ra thế chấp không? Sợ về Công ty lại làm ầm ĩ lên thì dở hết việc.
- Chết! Thế ra anh chưa nói cho chị nhà biết à? Thế sao được! Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Nếu không có chữ ký của chị, làm sao ngân hàng cho lấy tiền?
- Thì lúc cô Duyên đề xuất ý kiến ấy ra, tôi cũng bột phát nói. Xong, nghĩ lại mới thất rầy rà. Ý thì đúng, nhưng bây giờ làm thế nào bảo cô ấy ký vào tờ khế ước thế chấp mới là quan trọng.
Bí thư đuỗi mặt, không ngờ từ lời nói đến việc thực hiện lại gặp muôn ngàn cách trở. Nếu không lấy được chữ ký của Lài có nghĩa là không có tiền. Ông rất tiếc mình không có gì đáng giá để mang ra thế chấp. Gia đình ông sống ven bãi song Hồng, lo ăn, lo mặc quanh năm. Mọi chi tiêu nhìn vào đồng lương chức vụ. Nhưng để mang ra thế chấp, cái đáng giá nhất tài sản cá nhân của ông có, đó là cái xe Bletta tính ra không được nổi triệu bạc. Ông buông tiếng thở dài.
Trần Búp phá tan sự im lặng:
- Thôi, hôm nay anh ở lại đi ăn cơm bụi với tôi
Không từ chối, Bí thư đứng dậy xếp sắp giấy tờ trên bàn rồi khóa cửa lại. Ông biết Giám đốc đang có tâm sự. Rất ít khi ông thấy Trần Búp tỏ ra là người yếu mềm. Từ lâu, ông coi Trần Búp là mẫu người của công việc – mạnh mẽ, quyết đoán và chủ động. Lối lãnh đạo có tác phong gần giống với người sĩ quan chỉ huy trong quân đội làm ông cảm phục.
Hai người đến một quan cơm gần cơ quan. Chủ quán là một người đàn bà to béo, mắt trông như người bị mắc bệnh sụp mi, long mày xăm đen đậm, cong hình cánh cung, mí mầu nâu, khi nói, mắt chớp chớp y như bà mối trong lớp diễn của các vở tuồng cổ. Thấy hai người vào, bà đon đả:
- Hôm nay lại có cả Bí thư đến thăm hàng em. Thế này thì mai có nhẽ em phải thuê thêm đầu bếp?
- Cho chúng tôi ăn trên gác! – Trần Búp đề nghị.
Thấy nét mặt khó đăm đăm của Trần Búp, bà im bặt, hất hàm ra hiệu cho con bé trạc tuổi mười ba đứng cạnh. Đứa bé làm thuê nhanh nhảu:
- Các ông theo cháu!
Nói rồi nó dẫn hai người lên thang gác. Căn gác xép hẹp, tường trần đen như sơn hắc ín, bồ hóng bám vào lưới nhện dăng, dủ xuống gần chạm mặt. Lên đến nơi, đứa bé hỏi:
- Hai ông ăn bàn hay ăn chiếu?
Bí thư bật cười vì câu hỏi thiếu bổ ngữ của nó:
- Cháu phải hỏi: - Các bác ngồi ăn ở bàn hay ngồi ăn ở chiếu để cháu chuẩn bị, chứ sao lại hỏi vậy? – Ông bảo đứa bé – Cho hai bác ngồi chiếu!
Con bé xấu hổ đỏ mặt, kéo chiếc chiếu vắt trên mắc xuống trải. Bà chủ quán ló đầu lên:
- Vẫn ăn như mọi khi chứ Bác Búp?
- Ăn thì để sau, chặt cái gì cho chúng tôi uống rượu trước.
- Bia hơi vừa mới đem về đấy! Các bác uống bảo em! – Bà chủ quán vừa đi xuống thang gác vừa nói.
- Lấy rượu cho bác! – Trần Búp bảo đứa bé.
Thấy Trần Búp chỉ uống không gắp thức ăn, Bí thư khuyên:
- Anh vừa ăn vừa uống! Uống thế hại dạ dày lắm. – Ông gắp thưc ăn vào bát của Trần Búp.
- Cảm ơn anh. Tôi không thấy đói! Mà cũng chẳng hiểu tại sao dại này tôi ăn không thấy ngon?
- Anh có tâm sự gì cứ nói với tôi. Tôi chả có năng lực kinh doanh nhưng biết đâu trong cuộc sống tôi có thể góp ý được đôi điều.
Từ ngày thành lập Công ty, người Trần Búp tin nhất là Bí thư. Nhưng tin là một chuyện còn làm kinh tế lại là chuyện khác. Trong kinh doanh, không có chỗ cho lòng tốt đứng. Lòng tốt chỉ có thể làm công việc từ thiện, lòng tốt mang sự sáng láng của tính nhân đạo; cho người ta tin vào một lý tưởng cao cả, thuần khiết. Nhưng, để thực hiện lý tưởng, người ta không đem nhân đạo để làm công việc kinh doanh. Kinh doanh là phạm trù độc lập, khô cứng và chai lì. Những người thực hành kinh doanh thường là những kẻ có máu lạnh. Trần Búp là người có máu lạnh 100%. Ông dựa vào Bí thư để giảm “nồng độ” lạnh cho trái tim mình. Bí thư là người nhân đạo. Ông không có óc kinh doanh, không biết đọc hàm số; đồ thị; ma trận hay không biết một tí tị tì tị nào những thuật ngữ như: tỷ giá; tìa khoản; giá trị thặng dư hay thừa đoái, hối đoái gì. Nhưng ông có một quả tim nhân đạo nóng hổi, nhiệt tình, năng nổ. Ông làm vượt khả năng một con người Cộng sản. Bí thư có cái “thừa” mà Trần Búp thiếu; ngược lại, Bí thư “thiếu” cái mà Trần Búp có thừa.
Nhưng, điều nghịch lý xảy ra khi sử dụng và hỗ trợ nhau trong sự “thiếu - thùa” đó! Trần Búp không mang kiến thức và “phép màu” trong công việc của mình để biến cải cái “thiếu” của Bí thư, lại có thể nhận vào mình hoặc dùng cái “thừa” của Bí thư để làm chỗ dựa cho công việc kinh doanh và lãnh đạo của mình.
Trần Búp nói:
- Tôi và anh công tác với nhau gần chục năm rồi, tính tình của tôi thế nào chắc anh hiểu! Cho tới hôm nay, không nói anh cũng rõ: Công ty ta đang đứng trước nguy cơ bị phá sản.Nếu không có công trình, không giải quyết được công ăn việc làm cho an hem, tình trạng này kéo dào thêm ít ngày nữa, tôi e khó mà trụ vững được. Tôi đang tìm cách tháo gỡ. Nhưng muốn được việc thì phải có tiền. Cái khó của tôi lại nằm ở tròn tay vợ mình. Giá mà cô ấy hiểu và cảm thông thì khác, đằng này, từ ngày cô ấy về Hà Nội càng tệ hại hơn.
- Thế tôi mới bảo anh để tôi xuống gặp chị ấy.
- Anh xuống cũng vậy thôi! – Trần Búp nói – Tôi biết tính nhà tôi: đã dốt nát lại bảo thủ. Thích làm khổ chồng khổ con.
- Nếu khó quá thì thôi vậy! Ta sẽ tìm cách khác. – Bí thư nói.
Trần Búp tựa lưng vào tường, chân duỗi dài, mắt ngước nhìn con nhện đang kéo tơ trên trần nhà. Lạ thế nhỉ. Khoảng trần hẹp tí teo mà có hàng chục con nhện đang thi nhau dệt lưới. Ở sát góc, giữa mảng tơ căng chéo, một chú ruồi bị sa lưới, đang cố sức giãy giụa, con nhện màu vàng óng chạy loanh quanh, từ đít nó, sợi to mảnh mai tuồn ra. Con ruồi giãy, đạp, sợi tơ rách; con nhện ra sức đan, vá cho sợi tơ trùm lên con mồi. Quy luật sinh tồn! Trần Búp chặc lưỡi, bâng khuâng không hiểu mình đang đứng ở hoàn cảnh con nhện hay con ruồi?
- Anh bảo tôi có cách gì làm khác? – Trần Búp nói – Không có cách gì khác hơn bây giờ là phải có tiền. Có tiền tôi sẽ lật ngược thế cờ. Tôi sẽ tìm được lối đi cho mình. Tôi không muốn người cười vào mũi tôi, bảo tôi là thằng hèn, là kẻ nhổ rồi lại liếm! Tôi có thể hạ mình, nhưng tôi không chịu nhục được.
- Trong công tác, anh có điều gì phiền trách tôi không? – Bí thư hỏi.
- Không! Trong cuộc sống, về tuổi đời, tôi luôn coi anh là người anh; trong công việc, tôi coi anh là người anh tinh thần. Khi quyết đáp công việc cơ quan, tôi có anh bên cạnh, khích lệ, đông viên. Nhưng… - Trần Búp ngập ngừng.
Bí thư giục:
- Anh cứ mạnh dạn nói ra đi!
- Vâng! Tôi sẽ nói! Những ngày gần đây tôi nghĩ nhiều. Khi mà những người trước đây luôn quanh quẩn bên tôi, nay họ xa rời tôi. Thậm chí có kẻ còn nói xấu tôi. Tôi không trách họ. Khi tôi có, họ đến xin là chuyện bình thường. Nay, tôi hết, họ xa lánh tôi, âu đó cũng là chuyện đương nhiên. Họ không thể bám vào một vị Giám đốc đang đứng trên bờ vực thẳm. Họ phải tìm con đường riêng cho mình. Ngay cả những đứa em của tôi cũng vậy! Tôi đưa chúng về, giao công giao việc. Nhưng khi thấy tôi thế này, chúng cũng lảng ra. Vợ đi đàng vợ, con đi đàng con. Biết mà cứ như gà mắc tóc, như ruồi sa lưới nhện – Trần Búp ngước nhìn lên góc nhà – Nhân tình thế thái mà anh! Cũng may tôi còn có anh bên cạnh – Giọng Trần Búp trầm hẳn xuống – Nhưng anh chỉ có tinh thần. Mà tinh thần chỉ là sự cổ động, sự cổ động cho những hành động chứ không ngăn ngừa sự thái quá của những hành vi… - Trần Búp chợt dừng lời, ông chăm chú nhìn: Trên mạng lưới, con ruồi vẫn còn giãy giụa, nhưng sức nó yếu dầu; con nhện bò lại, chăng thêm những sợi tơ lên người con ruồi cho chắc chắn.
Bí thư hiểu Trần Búp muốn nói gì. Ông không thanh minh. Những điều bức xức trong lòng Trần Búp là sự tự ái của một con người đang có quyền lực nay bị thất thế. Ông nói:
- Anh nói vậy, tôi cũng mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình. Nói với anh điều này, anh đừng cho tôi là thanh minh. Tôi tự xét thấy năng lực chuyện môn mình không có. Nhiều khi tôi ân hận, biết thế ngay từ hồi mới về, anh cho tôi đi học một lớp nghiệp vụ ngắn hạn thì có lẽ tôi giúp được anh nhiều hơn. Nhưng bây giờ có nói thì cũng muộn rồi. Cái gì đã qua thì đã qua! Hôm nay, Công ty gặp khó khăn, có thể còn đổ vỡ! Ngoài điều kiện khách quan ra, tôi thấy mình cũng có trách nhiệm một phần. Tôi là người lãnh đạo chủ trương, đường lối, dựa vào các nghị quyết, dựa vào các chỉ thị. Nhưng đối với tôi, nhiều khi nó rối rắm, như một mớ bòng bong, không cụ thể, không chi tiết. Nói anh thông cảm: Tất cả chỉ là phương hướng, thiếu cụ thể hóa. Tôi là người chỉ tay, hướng mọi người xông lên. Khi còn trong quân đội. tôi chỉ tay về phía tọa độ cần vượt qua, tôi có đích! Tôi hô: “Các đồng chí! Tiến lên!”, những chiến sĩ của tôi dũng mãnh cưỡi lên bom đạn mà xốc tới. Nhưng ở nơi chiến trường không tiếng sung này, tôi thấy mình như bị ngợp. Tôi chỉ biết lấy tinh thần và lòng nhiệt tình của mình mang ra. Nếu anh có trách, tôi cũng đành chịu.
- Tôi đâu có trách, mà tôi đang muốn giãi bầy tâm sự của mình với anh. – Trần Búp thanh minh.
- Đúng! Anh không trách tôi, nhưng tôi muốn nói để chúng ta cảm thông với nhau. Anh Búp ạ! Bình thường ra, khi cuộc sống thuận chiều mát mái, không ai nghĩ đến sự thất bại. Không ai nghĩ, chỉ cách đây gần mười năm, sự sôi động của Công ty này như thủy triều dâng, như con diều gặp gió chao liệng trên không. Lãnh đạo hoan hỉ, công nhân hồ hởi. Tấc cả như các chiến sĩ trên mặt trận. Luồng gió mới thổi vào tâm hồn họ lồng lộng. Họ biết họ làm trước hết cho chính họ. Họ muốn bứt khỏi sự ràng buộc của rách rưới, bần hàn. Họ muốn được hưởng gì do công sức họ bỏ ra và khả năng của họ làm được. Nhưng giờ đây, tất cả như chưa có. Hàng ngày, quanh quẩn tôi và anh, nhân viên nhìn thấy thủ trưởng chào lấy lệ. Xe, máy nằm im như những vật vô dụng. Cán bộ công nhân viên nghỉ không lương để tự đi tìm công việc. Tôi đã gặp những chiến sĩ thi đua, những cá nhân tiên tiến, những người lao động bình thường của Công ty ra chợ, ngồi đầu đường buôn thúng bán mẹt; Gặp tôi, mọi người hỏi: “Bao giờ Công ty mình có việc hả bác?”. Tôi không biết trả lời sao? Và, bao giờ thì chúng ta có thể trả lời cho họ? Thế thì tại sao lại thế hả anh Búp? – Đột nhiên Bí thư cao giọng – Tôi thấy mình là kẻ có tội. Một kẻ chỉ biết nói thao thao bất tuyệt, lấy lý thuyết, đường lối làm bút chì mầu tô đậm bức tranh siêu thực. Nhiều khi tôi muốn chạy trốn khỏi tội lỗi ấy. Nhưng tôi không làm được! Tôi không muốn làm kẻ phản bội. Nếu giữa lúc này tôi xin nghỉ chế độ, long tôi sẽ bị day dứt, bị dày vò cho tới khi chết. Nhưng nếu cứ tiếp tục ở lại…
Bì thư dừng lại không nói nữa. Ông nhấc chén rượu nhấp một ngụm, mặt nhăn lại như uống phải vị chát đắng. Trần Búp biết rõ Bí thư đang xúc động mạnh. Nhổm lên, ngồi ngay ngắn lại, ông nói:
- Anh chưa về được! Tôi còn làm Giám đốc ở cái Công ty này thì anh phải ở! Tôi chưa bao giờ biết đầu hàng ai cả. Nhưng thôi, chúng ta hãy quay về thực tế: Bây giờ cái khó nhất của tôi là làm sao cho vợ tôi lý vào giấy tờ thế chấp.
- Hay là anh đưa giấy tờ cho tôi xuống?
- Anh xuống không được! – Trần Búp lắc đầu. Hiện tại, chỉ có một người có thể bảo được với nhà tôi nghe thôi. Nhưng, nếu vậy, chẳng hóa tôi là thằng hèn đến thế sao?
- Đấy là ai? – Bí thư hỏi.
- Cậu Mã!
- Sao? – Bí thư sửng sốt – Cậu Mã đội trưởng ấy à?
- Đúng! Giờ đây, chỉ có cậu ta có thể làm cho vợ tôi ký vào giấy tờ tôi đang cần mà thôi.
- Tại sao lại thế hả anh Búp?
- Đối với vợ tôi, đã từ lâu, cô ta coi cậu Mã là người duy nhất đúng! Mọi việc nhất nhất cô ấy đều nghe theo. Tôi không hiểu sao lại vậy?
- Liệu trong đó…
- Không! – Trần Búp gạt phắt – Không thể có chuyện thế được! Hai người cách nhau gần hai chục tuổi. Tôi cho rằng: vì sợ tôi giải tán đội xây dựng của cậu ta nên cậu ta muốn nhờ vợ tôi ép tôi phải nhượng bộ.
- Chính vì thế nên cô Duyên không đồng ý việc anh chấp nhận cho đội cậu ta kéo dài nợ? – Bí thư hỏi.
- Đấy cũng là tình thế bắt buộc. Vợ tôi dọa tôi, nếu không đồng ý sẽ về làm ầm ĩ ở Công ty.
- Thế bây giờ anh định sao?
- Tôi muốn anh gặp riêng cậu ta, anh khuyên cậu ta bảo với vợ tôi ký giấy thế chấp.
- Liệu thế có được không? – Bí thư băn khoăn.
- Được! Nếu Mã đồng ý, chắc hắn sẽ đưa ra những điều kiện của hắn. Anh nhận lời hứa về xem xét rồi trả lời sau.
- Sao lại đến nông nỗi ấy hả anh Búp? – Bí thư nói, giọng lạc hẳn.
Trần Búp ngửa cổ dốc nốt chén rượu:
- Phải vậy mà anh.
Trên tấm lưới nhện ở góc tường. Con ruồi đã bị tơ bao kín. Con nhện nằm duỗi dài chân bất động. Nó nghỉ giải lao chào cái thay chín nục trước khi thưởng thức.
 
25.
 
Hoạt cứ ca cẩm mãi với Duyên vì mấy cha địa chính xã nì nèo đòi thêm hai chục triệu nữa. Hoạt nói:
- Cái thẹo “chó ỉa” ấy, vợ chồng cái Duyên nó “kết”, chứ nếu là tôi, tôi có thèm vào. Đổ bao nhiêu xe đất mới đầy? Đóng bao nhiêu cọc bê tông mới xong chân móng?
Nhưng ai ngờ, thẻo đất “chó ỉa”, “toàn hồ, những ao”, Hoạt không hiểu tại sao Duyên cố kết thuê lấy bằng được bây giờ lại có giá. Đang trên đường đi, nhận được điện, Duyên bảo người lái xe:
- Anh cho em về văn phòng anh Quân.
- Người lái cho xe vòng lại. Khi qua chỗ có mảnh đất vừa thuê, Duyên chột dạ vì nhìn thấy mấy người Đài Loan và mấy cán bộ ở huyện Phúc Hòa đứng đấy, tay chỉ chỉ trỏ trỏ. Người lái xe nói với Duyên:
- Hôm qua tôi nghe cậu lái xe cho Chủ tịch huyện nói: phía Đài Loan gửi thông báo không đồng ý cho ai thuê mảnh đất này.
- Anh có biết họ nói vì sao không?
- Thấy bảo vì lý do an ninh cho nhà máy của họ.
- Lạ thật đấy! Thế họ lấy quyền gì mà áp đặt như vậy? Thảo nào, Quân điện cho tôi phải về ngay.
Về tới văn phòng, Duyên nghe Quân nói lại tình hình, cô lập tức điện gấp cho người Luật sư:
- Nếu bận, ngày mai anh lên cũng được. Việc này tôi giao toàn bộ cho anh… Vâng! Giấy tờ anh Hoạt vừa bàn giao cho tôi chiều hôm qua… Vâng, mang tên chồng tôi; hợp đồng bốn mươi chín năm. Thủ tục xong rồi… Nhưng tôi muốn anh xe lại cho chắc… Thôi, thế này nhé! – Đột nhiên Duyên thay đổi ý định, lật tay xem đồng hồ 0 Anh cứ chờ ở nhà, khoảng hơn tiếng nữa tôi và anh Quân đem toàn bộ giấy tờ xuống cho anh xem – Duyên tắt máy, quay lại nói với chồng – Đi Hà Nội với em.
- Có cần vội thế không? – Quân hỏi.
- Cần chứ anh! Bỏ bao nhiêu tiền ra chứ có phải xin không đâu. – Duyên quay sang bảo lái xe – Anh cho vợ chồng em xuống nhà Luật sư.
Khi xe đi qua chỗ đất, Duyên và mọi người vẫn thấy mọi người đứng ở đấy. Duyên thoáng thấy Hoạt đứng đó, cô cau mày, nỗi bức xúc trở thành tiếng:
- Tại sao anh Hoạt lại có mặt ở đấy nhỉ?
Quân nhìn vợ:
- Chỉ được cái đa nghi! Lúc nãy em chưa về, anh bảo anh ấy xuống xã xem binh tình thế nào đấy.
Duyên hiểu ra, cười bẽn lẽn:
- Thế sao anh không nói với em trước. Thời buổi cơ chế thị trường, vì tiền lòng người dễ đổi thay lắm. Để em gọi điện cho anh Hoạt xem sự thể thế nào? – Nói rồi, Duyên bấm máy – A lô… Anh Hoạt à? Tình hình thế nào?... Rồi… Rồi… Rồi… Có gì anh nhớ điện cho em, bây giờ em và Quân xuống chỗ Luật sư đây. Được! Em sẽ nói với anh Quân… Vần, cứ thế nhé! Em chào anh! – Duyên tắt mát quay sang Quân – Tối nay về, anh chuyển cho anh Hoạt thêm ba chục triệu nữa cho em.
- Sao mà chuyển lắm thế? – Quân hỏi.
- Cái giá mà phía nước ngoài trả còn cao hơn giá mình trả nhiều. Nhưng cái quan trọng là giấy tờ đã mang tên mình rồi. Nếu họ muốn mảnh đất ấy, ắt phải đến gặp mình.
Xuống tới nhà, Luật sư xem giấy tờ, cười ha hả:
- Vợ chồng ông bà ăn khoa được rồi. Tôi vừa điện cho anh bạn ở đoàn Luật sư tỉnh. Tụi Đài Loan ngỡ dân Việt Nam ngu. Bọn họ nghĩ nơi ấy ao sâu hồ rộng, những hủm là hủm, người Việt sợ mất nhiều công, không dám nhẩy vào đấy. Định ép thấp để thuê, nhưng khi biết tin tình báo kinh tế thì mảnh đất đã trong tay ông bà rồi. Xin chúc mừng! Nhanh hơn nhau có đúng một ngày.
- Đâu! Hoạt nó mới đưa giấy tờ cho tôi chiều qua.
- Đúng hai mươi bốn giờ! – Luật sư cười – Tin của tôi chính xác. Phải nói là cậu Hoạt nhanh trí. Nếu chần chừ đến hôm nay chắc ông Quân sẽ nhận được quyết định hủy bỏ hợp đồng của tỉnh và có giấy mời lên nhận lại tiền.
Duyên nhìn người Luật sư, hỏi:
- Mình chắc không bị lật chứ anh?
- Bây giờ tùy thuộc vào ông bà. Phía bên nước ngoài chắc chắn sẽ ép tỉnh yêu sách bắt phải giải quyết. Nếu vì công việc làm ăn và quan hệ lâu dài thì ông bà trả. Nhưng tôi nói trước: Phải có giá! Còn nếu không, dẫu tài thánh cũng không ai lấy được. Nếu phải hầu tòa, tôi xin bảo đảm.
- Không hiểu đất thuê lắm thế rồi mà sao chúng nó vẫn còn tham? – Quân hỏi.
Luật sư cười, cái cười pha chút diễu cợt;
- Mình ở địa vị họ mình còn tham bằng mấy ấy chứ! Thế sao ông bà có bao nhiêu đất rồi còn muốn thuê thêm?
Duyên đỡ lời cho chồng:
- Có gì thì anh giúp chúng em. Thôi, mấy khi an hem mình có dịp gặp nhau thế này. Vợ chồng em muốn khao anh.
- Xin cảm ơn! Xin cảm ơn! Hôm nay tôi bận. Xin hẹn để khi khác.
- Thế mai anh có lên không? – Quân hỏi.
- Lê chứ! Hợp đồng giao kèo ký với ông Quân viết thế nào tôi thực hiện đúng vậy! Nghề luật dư trước hết phải biết làm đúng luật! Nhưng bài học tôi giao, ông thuộc chưa?
Quân đỏ mặt như chú bé học sinh bị thầy giáo truy bài. Thấy vậy, Duyên nói:
- Hôm nọ còn giải thích cho em về luật thuế doanh nghiệp đấy anh ạ!
- Phải học! Đành rằng nhiều người không học vẫn làm được. Thâm chí họ còn được nắm những cương bị trọng trách trong xã hội. Nhưng có học vẫn có hơn – Sắc mặt Luật sư trở nên nghiêm trang – Tôi được nghe Hoạt hết lời xa ngời về các bạn! Vợ chồng các bạn có chí tiến thủ, giờ đây lại có điều kiện để phát triển. Chẳng lẽ chúng ta cứ thụt lùi mãi ư? Đất nước này đâu phải của họ. Tại sao người nước ngoài làm được mà mình không làm được? Lòng tự tôn, tự trọng của dân tộc đâu rồi? Tôi maong được làm cố vấn luật cho những doanh nhân, những Giám đốc có tài, có đức. Nhận tiền công của các bạn mà không phải hổ thẹn với lương tâm mình…
Cho tới khi Duyên đưa Quân và người lá xe vào ngồi ăn ở một nhà hàng mà lời nói của người Luật sư vẫn luẩn quẩn trong tâm trí anh. Quân như bừng tỉnh. Người Luật sư không nói điều cao sang, khó hiểu, Câu nói giản dị đầy khích lệ. Đúng! Nếu con người không có lòng tự trọng sẽ không làm chủ được chính mình. Và, nếu có nhiều người như vậy tức là làm chủ đất nước. Vai trò cá nhân không tách rời vai trò lịch sử đất nước. Nếu không, trước đây anh cầm sung đi chiến đấu với mục đích gì. Nếu không phải vì ngày hôm nay? Bài học giản dơn vậy mà đến gây giờ Quân mới hiểu. Duyên nhìn chồng lạ lung:
- Anh Quân không uống à? Anh sao vậy?
Quân cười, nụ cười rạng rỡ. Đã lâu, Duyên mới lại tìm thấy cái lúm đồng điền trên má chồng mình. Nếu không có người lái xe ngồi đấy, thể nào cô cũng sẽ áp đôi môi nóng hổi của mình lên đó, rồi dùng răng cắn một cái thật nhẹ.. Quân nâng cốc:
- Giáo sư giảng trăm bài không bằng một câu hiền triết dạy! Em có biết không? Kỳ này về, anh sẽ học vi tính. – Nói xong Quân bảo Duyên – Em cho anh mượn máy di động.
- Thế máy của anh đâu? – Duyên hỏi.
- Anh đưa cho con rồi.
- Anh chiều nó quá đấy! – Duyên trách.
Quân như không để ý tới lời nói của vợ, anh bấm máy:
- A lô… Con đấy à?... Ù! Bố đi cùng mẹ… đang ở Hà Nội… Sao? Quà hả?... Được, chốc nữa bố sẽ mua cho. Lớn tướng, sắp lấy vợ rồi còn nhõng nhẽo… Ăn cơm xong phải đi ngủ nghe chưa?... Được rồi, bố sẽ nói lại với mẹ.
Nghe hai bố con nói chuyện, Duyên thấy mắt mình cay cay. Cô giấu bớt sự xúc động, thầm cảm ơn đời đã cho mình một người chồng hiền haayuj. Giá như anh ấy có thể cho mình một đứa con nữa? Duyên không hiểu nếu Quân có con, liệu anh có hắt hủi đứa bé đầy hoài nghe kia không? Nhưng cố vẫn muốn vậy. Thà như thế cô vừa thấy đỡ tủi cho anh, đỡ thiệt thòi cho tình yêu và sự bao dung độ lượng của anh. Cô mường tượng anh giấu điều anh biết đứa bé này không phải con anh. Nhưng anh chấp nhận nó như đời anh chấp nhận bệnh tật anh đang mang trong cơ thể.
Hồi đứa bé được chục tuổi, Duyên muốn có với Quân một đứa con, nhưng mãi không được. Duyên đưa Quân đến gặp một người bạn làm bác sĩ ở bệnh viện tỉnh kiểm tra. Sau khi xét nghiệm, bác sĩ gọi riêng Duyên ra bảo:
- Anh ấy không có khả năng sinh con. Qua xét nghiệm, chúng tôi xác định anh Quân bị nhiễm chất độc mầu da cam. Tỷ lệ tinh dịch còn 0,5% nhưng khi ra tới âm đạo là bị chết.
Duyên giấu không nói cho Quân biết ý kiến của bác sĩ, cô sợ tằng vì vậy Quân sẽ buồn và sinh ra tiêu cực. Cô nói với anh:
- Tại em béo quá nên lấp mất mề, để lâu quên đẻ,
Quân trả lại máy cho Duyên;
- Thằng bé dặn mua cho nó cái Hécphôn và mấy đĩa ca nhạc hải ngoại.
Duyên tiếp vào bát anh một cái vây cá:
- Cái gì anh cũng chiều nó. Nó mà hư thì không phải “con hư tại mẹ” đâu nhé!
Người lái xe tham gia:
- Nói vậy, chứ tôi thấy thằng bé cho anh chị ngoan thật. Con nhà giàu mà lễ phép, khiêm tốn. Chẳng như con mấy vị quan huyện, nứt mắt ra đã mắc vào vòng xì ke, ma túy.
- Cháu được như vậy là do anh Quân, chứ tôi đi làm bận suốt ngày. – Duyên nói.
- Sạo hai người không đẻ thêm đứa nữ cho có anh có em?
- Vâng! – Duyên thở dài – Chúng em cũng muốn lắm, nhưng chưa được.
- Tôi nghe ở Chùa Bộc có thuốc hay lắm. Lúc nào anh chị đến đấy xem sao.
Quân gạt phắt:
- Thuốc thang gì, tốn tiền! Chỉ cần một đứa thế thôi, Nếu được, rôi đã có lâu rồi.
Nghe Quân nói, Duyên giả vờ cúi xuống bát, cô gắp miếng sườn chua ngọt đưa lên miệng, hàm răng cắn chẹch, bập vào lưỡi đau nhói. Duyên ứa nước mắt không hiểu vì câu nói của chồng vừa thốt ra hay tại răng tự cắn vào lưỡi?
 
26.
 
Họ hẹn gặp nhau để nói chuyện. Đầu tiên, ông không đồng ý để Mã áp nơi gặp. Nhưng hắn nì nèo và bởi công việc đang thúc ép cần có tiền để chi nên ông đành nhượng bộ:
- Được, nhưng ở đâu?
Bên kia đầu dây, Mã cười:
- Sếp cứ ở nhà, em sẽ đến đón sếp. Mấy khi được theo hầu Bí thư.
Ông định chỉnh cho Mã một trận, nhưng hắn đã sập máu. Mã đến văn phòng lúc ấy khoảng mười rưỡi. Khi đi qua phòng Giám đốc, cửa khép hờ, thấy Trần Búp đang chúi mũi vào đống giấy tờ, hắn định vào, nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Nhưng khi cùng Bí thư đi qua, Mã bảo với Bí thư:
- Hay là mời cả Giám đốc đi cho đủ bộ? Nhân tiện tôi chuyển lời nhắn của bà Lài bảo sếp Búp chuẩn bị tiền cho bà ấy chung vốn bán hàng?
Bí thư gàn:
- Việc tôi gặp cậu là do tôi chứ không dính gì tới anh Búp.
Mã đưa Bí thư lên quán cá bờ song Ngọc. Trước cổng, hình nhân bê đĩa cá, nhe nhởn cười nịnh khách vẫn đứng nguyên tại chỗ. Con cá vẫn há hai hàm răng trắng nhởn, mắt trợn tròn nửa dọa, nửa chèo kéo khách. Trải qua mưa gió, nắng bụi, trông thằng hình nhân và con cá có vẻ cũ và già đi. Hàm răng của hình nhân và hàm răng con cá không biết ai bôi đen sỉn mỗi hàm răng một cái, nên trông cả hai như bị sún.
Buổi trưa, vắng khách. Nắng xiên qua tán lá nhãn trổ thành hoa trên mặt sân. Một nhân viên nữ ngồi ngáp vặt cạnh quầy bán cốc tai, nghe tiếng xe máy đi vào, uể oải đứng dậy chờ. Mã hất hàm:
- Cho một khoang giữa dòng. Hôm nay đãi khách sộp, cho tớ một con sộp hấp, kèm vài chú trê nướng đậm giềng mẻ, rượu ngâm bọ cạp.
Nhân viên nữ ngáp nốt chỗ dở, rồi chõ mặt vào nhà gọi:
- Anh Ba bò ơi, bảo đầu bếp: có khách.
Một cái đầu nhẵn như đầu sư, mắt đỏ lựng ngó ra:
-Khách nào mà bắt cá chết sớm thế nhỉ? – Khi nhận ra người quen, hắn cười – Hôm nay đi với dê đực già à? Con dê cái mọi khi đâu rồi?
Mã nổi cáu:
- Mày ăn nói, bỡn cợt kiểu gì đấy? Bí thư của Công ty tao đấy! Mày hỗn để tao bảo với thằng chủ mày cho nghỉ luôn?
Ba bò chừng như sợ, im lặng xốc lại quần, kéo khóa phécmơtuya:
- Mời các đại ca xuống bến, lên “tầu”.
“Tầu” mà hắn nói là con thuyền đúc bằng xi măng, xám mốc, vết rạn vằn như mai rùa, dài chừng bốn rưỡi đến năm mét; hai đầu thuyền, mỗi mũi treo một cái lốp xe ô tô cũ để chống vỡ. Con thuyền đủ chỗ cho ba người ngồi cả lái. Ba bò nhẩy xuống lấy gáo múc nước trong lòng thuyền bị ngấm đổ ra, mầu nước xanh lét và bốc mùi tanh lợm xộc lên mũi Bí thư, ông nói với Mã:
- Hay ta ở trên này cũng được?
- Ấy, đâu được. Phải ngồi giữa dòng mới đã, mới kín chuyện. Em biết có chuyện quan trọng lắm sếp mới cho gọi…
- Được rồi đấy, xin mời – Ba bò chổng mông, tay bám chặt vào cọc sắt neo thuyền, gò mũi thuyền đứng im để hai người xuống, bờ gáy hắn cộm thịt thành hai miếng, béo phồng, mồ hôi đùn ra bóng nhẫy ánh mặt trời.
Mã nhường cho Bí thư xuống trước. Mặc dù Ba bò đã ghìm lốp ô tô ở mũi thuyền vào bờ xi măng bậc bước xuống, con thuyền vẫn bị bập bềnh, Bí thư bước đi như người đảo đồng, dang tay tóm chặt hai bên be. Mã nhìn vậy, cười, ung dung bước xuống như người đi trên cạn. Chờ hai người yên vị, Ba bò tóm vào sợi dây thép nối với dây neo giữ khoang nhà nổi neo đậu giữa dòng, kéo thuyền ra. Vừa cập vào mạn, Mã nhanh nhẹn nhẩy phắt lên, làm cho con thuyền chòng chành, Bí thư lập cập mãi mới bước lên được. Ba bò hỏi:
- Các vị có “đóng kép” không ạ?
- Cần sẽ gọi! Bảo chúng nó làm món nhanh lên!
-Đóng kép là món ăn gì? – Bí thư hỏi.
- Thịt tươi sống, biết nói, cười và chuốc rượu – Mã nháy mắt với Ba bò, mồm mời Bí thư – Sếp có dùng để em gọi?
- Thôi thôi thôi… - Bí thư xua tay – Đừng đừng đừng… Phần cuối Bí thư không biết sử dụng từ gì cho hợp, ông cúi xuống tụt giầy, khôm người bước vào trong khoang.
Nhà nổi cũng là một con thuyền làm bằng xi măng; khác ở chỗ: hai ben mạn kẹp mỗi bên bốn chiếc phi rỗng sơn đỏ, thay phao để giữ thăng bằng, trông xa như tầu chiến kẹp ngư lôi; trên mặt thuyền lót sàn kín, dựng lều kiểu lên chăn vịt, mái lợp lá cọ; xung quanh quay bằng tre cật đan dầy, quanh dầu bóng; sạp ngồi đóng gỗ tạp, lâu ngày co lại hở huếch hở hoác. Trên mặt song có ba, bốn cái như vậy. Ba bò lôi chiếc mành cuộn tròn cạnh đấy ra trải, một làn bụi mỏng bay lên và giữa mành văng ra một cái túi cao su lọt xuống khe hở, mất dạng dưới đáy con thuyền. Bí thư nhân jra nhưng giả vờ như không nhìn thấy, ông ghê tởm nôn nao. Mã lầu bầu:
- Mẹ cha nó, chốc nữa ăn xong ông đ… giả tiền cho biết mặt. Bẩn như chuồng lợn.
Bí thư chun mũi lại vì mùi hôi:
- Cầu kỳ quá! Ngồi đâu chả được? Làm sao phải xuống tận đây?
- Ấy chết! Mạn đàm là phải kín đáo, ăn uống phải
lịch sự.
Mã tụt giầy, hất vào góc lều.
Trong đầu Bí thư vẫn bị chiếc túi cao su ám ảnh; thấy như mình bị hạ nhục, ông muốn đấm thèm vào ngồi ở đây và quát vào mặt Mã mà nói:
- Tao không cần nữa! Cho tao lên bờ! Còn tiền? Chúng tao sẽ tìm cách khác. Tao sẽ…
Nhưng hình ảnh Giám đốc Trần Búp hiện lên, khuông mặt xạm vì mất ngủ, đôi quầng mắt khuyên một vòng thành cặp kính xăm trên da thịt. Đôi mắt ấy níu kéo sự phấn khích của Bí thư lại: “Xin anh đừng…” – Bí thư nhìn thấy hình ảnh Trần Búp van nài, cầu khẩn: “Đừng vì cái “tôi” mà hỏng hết việc! Tất cả thành bại trong xuộc nói chuyện này. Ngày xưa, vua hiền chọn tôi hiền đi sứ; giờ đây, anh là sứ giả của tôi, là đại sứ đặc mệnh toàn quyền của tôi. Không! Là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của cả Công ty xây dựng số I này chứ! Anh nhớ nhé!” Bí thư cố nuốt quả tao nơi cổ họng chạy lên tụt xuống, cục cục, giật giật. Đành phải kiên nhẫn thôi. Dung hòa vốn là sở trường tự luyện của Bí thư. Nhưng, đôi khi bản thể không chức tước của ông lại bùng phát, hoàn nguyên bản chất chân phương từ lúc cha mẹ sinh thành. Ông đã phải khổ luyện, khắc phục, kìm chế, mất bao nhiêu thời gian mới vũ trang cho mình thành một chính trị gia. Đã là chính trị gia thì không được phép hiện nguyên hình. Phải biết tự kìm chế - Bộ mặt thật của cuộc đời ẩn tích sau bộ mặt của cuộc sống xã hội.
Từ trong bờ, Ba bò kéo dây thép, lôi con thuyền xa măng chở đồ ăn ra. Giữa long thuyền,  một nữ tiếp viên bôi son phấn như diễn viên không chuyên hóa trang, đồng phục áo trắng, nơ mầu tiết dê, điểm hoa trăng, váy ngắn xanh tím than, tất mầu đen trở mắt cáo, chân dận hải sảo kiểu Trung Hoa; hai dải áo khoanh trên cổ kéo dài thành chữ V trông nửa yếm nửa ve, chun, xéo nếp như hoa xúc xích trẻ con gấp bằng giấy; dọc theo hoa xúc xích có ba đường viền vải mầu hồng làm nên tôn ngấn cổ và khoang ngực thoa kem nửa kín nửa hở như muốn khoe phía trong đó là một thứ mà đàn ông nào cũng muốn khám phá xem sự thể nó ra sao. Tay phải cô đỡ đít khay để đò ăn, mép khay bên kia đặt lên vai, phần nhom cằm của cô tỳ xuống; tay trái thi thoảng bám vào khay rồi lại buông ra để lấy thăng bằng. Cả thân người nghiêng như gãy khúc, lúc tĩnh trông như bức tranh cô gái Khơ Me đang lễ lên chùa, lúc động trông như hình nhân thế mạng phết bằng giấy trang kim ở hàng bán đồ mã.
Hình ảnh lạ lùng làm Bí thư quên bẵng chiếc túi cao su vừa ám ảnh tâm trí ông.
Thêm nữa, thuyền chưa tới, nhưng mùi cá nướng theo giớ từ hạ lưu thổi đến, toản thêm nức mũi, át hẳn mùi nước tanh tưởi bốc hơi từ dưới lòng thuyền lên. Mặc dù đến đây không phải để thưởng ngoại cảnh trí hay không hào hứng vì ẩm thực, nhưng ngửi phải mùi cá nướng, nước dãi từ lưỡi nhều ra, Bí thư quay đi nuốt vội vào, sợ Mã phát hiện ra sự phản ứng có điều kiện của mình.
Nữ tiếp viên dâng khay cho Mã đón. Mã cầm khay, chưa nhấc lên, mắt dừng lại trên khoảng hẹp hớ hênh giữa ngực và cổ áo của cô nhân viên. Cô giãy nảy:
- Em buông ra bây giờ đây này, ứ thế đâu!
Mã cười, nhấc khay đồ ăn lên:
- Hôm nay anh bận tiếp đại khách. Hẹn cưng lần sau. Chính chủ!
Ba bò chuyển cái làn dựng đồ phụ lên cho mã. Mã hỏi:
- Còn gì không?
- Còn cá sống.
- Mình không biết ăn gỏi đâu! – Bí thư nói vội.
Câu trả lời của Bí thư làm hai thằng cười sằng sặc, điểm nhịp là tiếng he hé như dê kêu của con bé nhân viên. Thấy vậy, Bí thư ớ ra chợt hiểu, ông lườm Mã:
      - Thế còn há miệng ra mà cười?
- Con thuyền vào đến bờ mà ông vẫn còn nghe tiếng cười ằng ặc của Ba bò và tiếng he hé của con bé nhân viên.
Mã nghiêng chiếc nậm rượu mầu da lươn rót vào hai chén đầy rồi trịnh trọng nâng một chén lên:
- Em có lệ: Chén đầu cạn.
Bí thư chối:
- Mình không uống được vậy. Cậu cứ tự nhiên, mặc tớ!
- Em lạ gì tửu lượng của anh? Xin anh cạn.
Bất đắc dĩ, Bí thư dốc cạn. Thành cổ họng tưởng như bốc lửa, Bí thư vội ngậm miệng lại như người gặp phải thức ăn nóng. Nhưng, ngậm miệng lại càng thấy bỏng hơn, miệng đành há to hít hà cho đỡ rát:
- Rượu gì mà nặng thế?
- Bọ cạp Châu Phi! – Mã cầm con cá trê nướng dưa cho ông – Mời sếp, cho cái này vào là hạ độ ngay!
- Đây là lần đầu tớ được đến đây. – Bí thư thật thà – Cá trê ở nhà, vợ tớ làm độc có món kho giềng. Ăn nước thế này cũng là lần đầu.
- Em tưởng sếp theo sếp Búp thì thiếu gì?
- Thôi, cậu đừng giở giọng móc máy nữa
- Thế thì uống vậy. – Nói rồi Mã nâng cốc – Đủ “tam bôi” em sẽ hầu chuyện sếp.
Trưa, tĩnh lặng, hai bên bờ sông mùa này cây cối xanh mướt, gió từ hạ lưu hây hẩy. Bên kia bờ là bãi, những cây ngô bồng con thơ đứng xếp hàng khoe tà áo xanh mởn. Đôi ba con bướm bay nhảng qua ô cửa tò vò lấp loáng trong nắng. Trên trời, khoảng trời xanh ngắt như chưa bao giờ xanh vậy; và, những đụn mây trắng bay ngang qua như chưa bao giờ trắng ý nhường sân đấu cho đối phương chơi trước. Hắn biết thóp ý đồ của các vị lãnh đạo nên hắn trùng trình buông câu. Hắn thích làm kẻ đi câu hơn phải làm cá rỉa mồi.
Nhớ hôm hát karaoke với Lài, khi bàn tới việc ký hay không ký, Mã bảo Lài:
- Ký trong điều kiện mình ra điều kiện.
Mã bổ sung kiến thức và ghi từng khoản ra giấy cho Lài học thuộc, nếu Trần Búp đặt vấn đề yêu cầu Lài ký. Nhưng không ngờ, Trần Búp lại yêu cầu Bí thư gặp hắn. Như thế có khác chỉ các nước lớn khi khó đối mặt với nhau, cần các nước thuộc phe trung gian để đàm phán tìm giải pháp? Nhờ vậy, các nước chư hầu được viện trợ không hoàn lại.
Cho rằng Mã nói thật. Bí thư uống xong chén rượu thứ ba, ngửa chén ra nói:
- Mình hết rồi nhé! Thôi, tớ không uống được nữa, cậu tha cho.
- Không uống được thì ăn – Mã dùng dĩa róc một mảnh lườn con cá gắp vào bát cho Bí thư ; lấy tay nhấc đầu con cá cho lên mồm húp xoàm xoạp. Hắn cũng cần tỉnh táo để xem điều kiện của đối phương.
Bí thư dùng đũa gợt cọng hành vương trên thành bát, nói:
- Chắc cậu cũng biết Công ty ta hiện đang gặp khó khăn? Mà việc đóc rước Huân chương không thể đừng được.
- Thế việc ấy có gì liên quan tới tôi? Công ty quy định mỗi đội hỗ trợ công ty bao nhiêu có trong băn bản rồi. Đội tôi hiện chưa có tiền nộp thì nợ lại, khi nào nhận được công trình làm có tiền sẽ trả sau.
- Mình không nói tới chuyện ấy! Chẳng qua phải làm vậy để đề cao ý thức trách nhiệm của các đội với Công ty, tránh vi phạm quy định của Nhà nước ban hành. Việc mình gặp cậu hôm nay, có liên quan tới chuyện của vợ chồng anh Búp lâu nay cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Điều này chắc cậu rõ hơn tôi?
- Thế ý giám đốc muốn tôi phải làm gì?
- Không phải là ý riêng của anh Búp. – Bí thư nói đỡ cho người không có mặt – Đây cũng là ý của mình và là tinh thần cuộc họp của lãnh đạo Công ty căn cứ vào sáng kiến của cô Duyên. Hiện tại, vợ chồng anh Búp chấp nhau như vậy ngồi nói với nhau thế nào được. Mình muốn cậu giúp mình nói làm sao để chị Lài ký vào hồ sơ thế chấp.
- À… - Mã vờ như vỡ lẽ - Thế tức là các anh muốn tôi làm môi giới?
- Đâu có! Làm trung gian thì đúng hơn – Bí thư cải chính.
- Ối dào! Môi giới hay trung gian thế nào chẳng vậy? Nhưng sao anh không gặp thẳng bà Lài?
- Nếu gặp mà được việc thì tôi làm sao phải nhờ cậu?
- Thôi, thế này nhé! – mã dùng lại suy nghĩ một lát rồi nói – Tôi cũng chưa chắc bà Lài có đồng ý không? Nhưng nếu được, các anh đừng quên công của tôi.
 - Có nguyện vọng gì cậu cứ mạnh dạn đề xuất, Công ty sẽ đáp ứng nếu những yêu cầu cậu đưa ra là chính đáng.
- Sao lại không chính đáng? – Đột nhiên Mã hằn học – Ông về ông hỏi ông Búp xem. Đã bao nhiêu lần muốn có việc tôi phải chờ đợi, van nài? Chỉ còn thiếu lễ phủ phục liếm gót chân ông ta để có việc làm? Muốn qua cửa, mỗi lần vào phải mất bao nhiêu? Chia cắt công trình ra như cắt bánh chưng, chia cho ai người ấy được! Nói thật nhé! – Mã nhấc chén rượu đổ ực vào miệng rồi nói tiếp – Công ty này không vớ được cái Duyên về, có chết yểu từ lâu rồi. Giám đốc như ông Búp ấy à… - Chợt như thấy mình lỡ lời, Mã mím chặt môi, nuốt đánh “ực” những ức chế sắp tuôn ra. Dù sao, Mã nghĩ – Trần Búp vẫn đang yên vị là Giám đốc, và, người ngồi trước mắt là sứ giả của ông ta. Nếu chẳng may lỡ lời, sau khi có tiền, lo xong việc, thế lực của Trần Búp lại mạnh như hồi đầu Công ty mới thành lập thì vỡ mặt – Đấy là tôi nói ngày xưa, thời kỳ quá độ - Mã hạ giọng, lời nói lại êm ru – Còn bây giờ, điều khoản của tôi trong hợp đồng môi giới này đơn giản thôi.
Mặt Bí thư nóng ran. Đường đường là Bí thư mà để cho một đội trưởng cò kè mặc cả như hai thằng lưu manh thỏa thuận với nhau thì còn gì là thể diện nữa? Cái gốc con người của ông lại trỗi dậy, bùng phát – Nhưng, hình ảnh những thiết bị công trình nằm im ắng trân bãi và những chiếc xe đặc chủng phục vụ cho xây dựng nằm bất động trong gar a hiện lên, nhắc ông nhiệm vụ hôm nay làm thuyết khách. Bí thư lại nuốt cái cục táo ở cổ xuống:
- Thì cậu nói ra đi!
- Thế này nhé! – Mã xọc đoi đũa vào chỗ xương, nơi giáp sọ con cá – Nếu tôi thuyết phục được bà Lài ký, tôi sẽ được nhận toàn bộ phần làm đường và vỉa hè trong tất cả các công trình mà công ty được trúng thầu. Còn những điều khoản mà bà Lài đưa ra với ông Búp, tôi sẽ thực hiện đúng tinh thần trung gian. Giải quyết thế nào với bà Lài, đó là việc của các vị.
- Được! Tôi ghi nhận ý kiến của cậu – Bí thư nhớ lời dặn của giám đốc : “Nếu Mã đồng ý, chắc chắn hắn sẽ đưa ra những điều kiện của hắn. Anh đừng đồng ý vội và hứa sẽ xem xét” – Nếu chỉ có thế, chắc sẽ được thôi.
Mã ấn mạnh đũa, đầu con cá quả rời khỏi thân. Giữa chỗ giáp nhau, một chút máu ứa ra loang rộng trên mảnh thịt lầy nhầy chưa chín kỹ.

27.
Ngay chiều hôm đó, Bí thư gặp giám đốc tường thuật lại công chuyện thuyết khách của mình và truyền đạt yêu cầu của Mã. Nghe xong Trần Búp nói:
- Anh có biết trong gói thầu xây dựng, bóc tách ra thì hạng mục thi công đường xá lãi suất cao nhất không? Ăn gấp ba, bốn lần công xây dựng. Thằng này cáo cạnh mà lanh thật. – Nhưng rồi cuối cùng Trần Búp đành phải bảo Bí thư – Anh điện cho đội trưởng Mã là tôi đồng ý, nhưng chỉ ở phạm vi gói thầu đầu tiên Công ty tham gia giành được thôi!
Sau một ngày, kể từ lúc Bí thư trả lời, Mã đem thư của Lài về. Bí thư mang sang văn phòng cho Giám đốc. Bóc phong bì, xem những điều khoản trong thư Lài yêu cầu, Trần Búp nóng ran mặt, dằn mặt tờ giấy xuống mặt bàn:
- Đồ … thiếu văn hóa! – Giám đốc cố kìm câu chửi đổng, quẳng tờ đơn sang cho Bí thư – Anh xem, xử sự ngang ngược như vậy thì ai mà chịu nổi?
Bí thư cầm lên xem, Trong giấy, Lài ghi những điều khoản yêu cầu như sau:
 
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----------------------------
 
GIẤY GIAO KÈO
 
Kính gửi: Các cơ quan luật pháp
Tên tôi là Phan Thị Lài, vợ ông Trần Búp – Giám đốc Công ty xây dựng số I. Tôi đồng ý cùng chồng ký vào giấy thế chấp tài sản với những yêu cầu sau:
1. Sau khi lấy được tiền thế chấp căn nhà ở phố…khu… huyện Phúc Hòa, ông Trần Búp phải chuyển cho tôi cơ số tiền là: 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng chẵn) để tôi lấy tiền góp vốn mở cửa hàng buôn bán.
2. Ngoài ra, hàng tháng ông Búp phải chu cấp cho hai con đang ăn học tại Hà Nội số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).
3. Trường hợp nhà cửa và tài sản bị ngân hàng phát mại, bà Phan Thị Lài sẽ được hường ½ số tài sản trên, quy ra tiền Việt Nam tính theo thời giá lúc đó và xử luật theo quy định.
4. Nếu xảy ra chuyện kiện tụng hoặc tranh chấp tài sản thì Giấy giao kèo này có giá trị nhờ đến pháp luật để xử lý.
5. Nếu ông Trần Búp đồng ý các điều khoản trên, yêu cầu ký vào giấy này để làm bằng chứng, rồi chuyển hồ sơ xuống cho tôi ký xác nhận.
Phúc Hòa, ngày   tháng   năm 199
Người viết giấy
Phan Thị Lài
Nếu căn cứ vào quy định của ngân hàng, ngôi nhà chỉ được tính bằng 1/3 giá trị so với thực tế. Nghĩa là tiền ngân hàng cho thế chấp ngôi nhà được trên một tỉ đồng. Vậy mà, trong giấy tờ Lài bắt Trần Búp phải chấp nhận như vậy, hỏi làm sao Trần Búp không bực? Và, khốn nạn hơn nữa là nội dung viết trong giấy giao kèo. Qua giọng điệu, Bí thư biết ngay đây là do Mã chấp bút. Nhìn Giám đốc ngồi như hóa đá, Bí thư không biết dung lời lẽ gì để an ủi. Bí thư cũng chỉ là người làm công việc trung gian. Và, ông đã cố gắng hết mức.
Sáng, lúc Mã đến chuyển thư của Lài cho Bí thư, giọng mã du đẩy, kẽo kẹt:
- Đấy! Em phải giở “hết võ” bà Lài mới đồng ý. Lẽ ra, công lao của em trong chuyện này còn hơn. Vài km đường xá bõ bèn gì? Nhưng thôi, còn để phần cho an hem khác! – Rồi Mã lưu lại lời đe dọa sặc giọng điệu xã hội đen – Mọi chuyện các sếp hứa, em đã cản thận ghi âm vào băng hết cả rồi. Sợ biết đâu nhiều việc, các sếp quên?
- Thằng chó! Thủ đoạn đến thế là cùng – Bí thư nhìn theo Mã rủa thầm.
- Tổng chi phí cho buổi lễ, anh dự toán hết bao nhiêu? – chợt tiếng của Trần Búp hỏi vang lên.
- Hai trăm năm mươi triệu!
Một con tính nhẩm chạy nhanh trong đầu giám đốc. Như vậy, tiền lãi thế chấp mỗi tháng phải trả cho ngân hàng khoảng mười triệu. Giám đốc nhìn bí thư hỏi:\
- Không biết cô Duyên đã chuyển tiền chưa?
- Thấy tài vụ báo cô ấy gọi điện tới, hẹn sáng mai sẽ đem tiền đến.
Trần Búp cầm tờ giấy của vợ lên xem lại. Rồi dứt khoát rút bút ở túi ngực cúi xuống viết, ký, xong đẩy tờ giấy về phía Bí thư:
- Anh điện cho thằng chó đểu Mã tới lấy hồ sơ đem xuống cho con mụ khốn nạn ấy! – Nói xong, Trần Búp đứng dậy, đi vội vào phòng trong, gieo người xuống giường mặc Bí thư ngồi đấy một mình.
Bí thư ngạc nhiên vì sự mất bình tĩnh và ngôn từ thoát ra từ cửa miệng giám đốc. Đây là lần đầu tiên ông thấy Trần Búp cực đoan. Câu tục tĩu ở giai tầng lao động giản đơn văng ra, nghe thấy thường thường. Nhưng ở những người như Trần Búp, nghe vừa chối tai vừa lạ lẫm, vừa hiếm hoi. Thế mới biết, hoàn cảnh dễ làm con người ta thay đổi.
Cửa mở, một cái đầu ngó vào:
- Thưa Bí thư, bác có khách!
Bí thư đứng dậy:
- Cậu pha nước giúp mình – Bí thư cầm bộ hồ sơ đứng dậy, nói vọng vào – Việc có thế thôi anh Búp nhỉ?
Tiếng Trần Búp ném ra nghe như tiếng còi tầu thét:
- Đóng cửa lại, đừng cho ai quấy rầy tôi.
Bí thư đi ra, cửa đóng lại. Trong phòng, Trần Búp vùng dậy, lấy tay gạt mạnh tấm mành trúc treo trước cửa. Tiếng va chạm của các ống trúc lắc cắc, loạt xoạt, bức hình Chùa Một Cột méo vẹo, đu đưa, lắc lư một lúc rồi mới hoàn nguyên lại như cũ. Trần Búp ra tủ đựng rượu, giật phắt cánh tủ, không chọn, lôi ra một chai rượu còn nguyên, trong vắt như chai không, xé tem, bật nút, ngửa cổ dốc vào họng. Bọt khí chui vào chai nấc từng nấc, ọc ọc rên từng hồi, thành chuỗi nối đuôi nhau như tràng hoa, kết thành một dãy dài từ to đến nhỏ; rượu chạy nhanh vào huyết quản; nước thì rơi tự do vào dạ dày, còn hơi men thì xuông ngược lên lục phủ ngũ tạng len lỏi, chui luồn đến tận các ngõ, ngách sâu kín trên cơ thể. Hơi men làm nhiệm vụ xoa dịu thần kinh, cho lãng quên nỗi đớn đau, ê chề, nhục nhã. Hơi men kích thích niềm hy vọng, khơi dậy niềm đam mê… Cứ thế, trộn lẫn, hòa tan… vo viên quá khứ, hiện tại, tương lai thành một cục, thành một hòn. Chó đến khi, lưỡi không còn cảm giác đắng, cay, nồng, nóng; cổ họng tê dại, hôi hổi, lạnh ngắt. Rơi vào khoảng không trọng lượng; hơi thở dồn dập, hầm hập, vết nhăn trên vầng trán giãn, đôi mắt cận lòi căng, ngác ngơ như mắt trẻ thơ, ngồ ngộ như bê con lạc mẹ, da mặt hồng hào bừng sáng; cả gian phòng bung nở toàn hoa cà hoa cải, ánh nắng xiên qua cửa kính cũng nở thành hoa, muôn vàn những hạt bụi khúc xạ nhảy múa cùng toàn hoa.
Người uống bỗng ngưng lại, tràng hoa khí đang nở héo rũ, nước trong chai đang sủi tăm, réo ùng ục lắng xuống, vát nghiêng, uốn éo, vẩn vơ, lượn lờ như giễu cợt. Chợt nhận thấy mình dùng cả chai mà uống là bất lịch sự, không đúng với tư cách của Giám đốc, không phải là phong thái của bậc chính nhân quân tử. Người uống rượu lịch lãm lấy chiếc ly treo trên giá, nghiêng chai rót vào, rồi nhẹ nhàng bê ly đến đặt trên mặt bàn uống nước, rồi ngả người xuống đệm ghế salông. Hẳn là người uống rượu muốn uống cùng với ngàn hoa đang quay quay tít mù xung quanh? Hẳn là người uống rượu đã tự khai sinh rồi hóa thân cho mình trở thành người rượu?
Hà hà hà… Người rượu khùng khục, ngửa mặt ngắm giang sơn: Trên tường, bức tranh ngựa của danh họa Từ Bi Hồng sao hôm nay lại có tới hàng mấy trăm con? Hay cha nào nịnh nên tặng thêm những bức tranh khác? Chẳng lẽ Từ Bi Hồng mới vẽ? Họa sĩ sống lại từ bao giờ vậy? Hay đây là kiệ tác vừa tìm thấy? Không có lẽ? Và, còn kia nữa: bức sơn mài khu nhà làm việc huyện Phúc Hòa, kiệt tác xây dựng đầu tiên của làn gió mới do ta thực hiện, sao lại bị đứa nào vặn chổng ngược? Hay là nó phải vậy? Không! Rõ rang sau khi khánh thành bàn giao xong, ta đã thấy đích danh trưởng phòng kỹ thuật bắc thang treo tranh lên cơ mà? Đằng sau nó còn bao nhiêu kẻ đứng ngắm để chỉnh, để tán dương? Sao lại thế nhỉ? Dám lật ngược bức tranh 180 để lừa ta? Chắc nó cậy có Bằng kiến trúc sư? Hầy! Mi lầm rồi kiến trức sư ạ! Mi có là bố triến trúc sư của ngành Xây dựng thì cũng chỉ là môn đệ cho ta thôi. Ta đây đã từng học qua trường quản lý kinh tế. Một trường chuyên môn đào tạo ra những con người biết quản lý và sử dụng đồng tiền của Nhà nước. Ta hạch toán, ta nắm hầu bao. Còn mi? Mi chỉ biết thiết kế rồi giao cho tụi thợ thi công. Tất cả tụi bay đều là kẻ làm công ăn lương cho ta, vậy mà sao dám treo ngược tranh của ta? Hà… hà hà hà.
Hà… hà hà hà… Người Rượu bật dậy, lắc chuông gọi nhân viên hành chính:
- Triệu tập họp!
Từ ngoài cửa, cán bộ các phòng ban lục tục kéo vào, lần lượt quay quanh chiếc bàn hình bầu dục. Tiếng bôm bốp, bành bạch, nhỏ, to khác nhau từ những cặp mông ngồi xuống ghế khẳng định vị thế, phân biệt ngồi thứ, nghe như tiếng vỗ tay tán thưởng. Người Rượu quát:
- Các vị vỗ ray hay vỗ đít phủi bụi? Vào tới đây phải biết giữ đúng khuôn phép chứ?
Một bản mặt nửa gái, nửa trai; bên mầu trắng, bên mầu đen hiện lên, đôi môi bũi ra nói như chém chả:
- Có phải tuyên bố thành lập công ty đâu mà phải giữ lịch sự?
Người Rượu trừng mắt nhìn xem kẻ nào dám ngạo mạn vậy? Bản mặt nửa gái, nửa trái, bên mầu trắng, bên mầu dên câng câng nhìn lại. Người Rượu cố nhớ xem đó là ai? Là bạn hay là thù? Nhưng không nhận được, Người Rượu quát:
- Mi là ai mà dám vào đây ngạo mạn?
Bản mặt kép nhe răng cười:
- Không nhận ra vợ hay sao hỡi người chồng yêu quý?
- Không nhận ra người trung gian hay sao hỡi ngài Giám đốc?
Sau câu nói, bản mặt hiện nguyên hình: Nửa mặt trắng là Lài, nửa mặt đen là Mã. Ô! Ta đã chí cho mụ số tiền theo giấy geo kèo rồi cơ mà? Ô! Ta đã đành cho ngươi toàn bộ công trình giao thông, cầu, cống trong gói thầu đã trúng cơ mà? Sao các người còn đến đây phá quấy? Người Rượu hô to:
- Bảo vệ đâu? Đuổi cổ chúng ra khỏi Công ty!
Nhưng, bỗng Người Rượu nhìn thấy toàn bộ cán bộ, công nhân viên trong công ty đứng chật ních ở hội trường. Trên đầu họ, dưới chân họ toàn hoa. Có những lẵng hoa mừng; lẫn cả những vòng hoa tang. Họ mừng ai? Chờ ai? Ta? Hay lũ kia? Họ đưa đám ai? Ta? Hay lũ kia? Người Rượu quay lại, định hỏi, xung quanh bàn họp vắng tanh, vắng ngắt. Tất cả đã biến mất. Có tiếng nói từ loa phóng thanh vang lên:
-Xin mời Giám đốc Công ty xây dựng số I ra hội trường.
Người Rượu lảo đảo đứng dậy. Có cái gì đằng sau níu lại? Khó chịu, Người Rượu vằng mạnh tay… Khối nặng vô tình vuột mất. Quá đà, Người Rượu mất thăng bằng, nặng nề lao về phía trước, rơi tõm xuống nền nhà lát gạch hoa. Nhưng hơi men lại đưa Người Rượu bay lên lơ lửng, trôi bềnh bồng. Khắp xung quanh, trên, dưới, lớp lớp ngập tràn hoa…
 
28
 
Điều Luật sư dự kiến đã xảy ra. Phía Đài Loan ra sức ép với tỉnh để buộc doanh nghiệp của Quân nhường lại khu đất. Giấy mời Quân lên Ủy ban tỉnh để giải quyết. Trước khi đi, Duyên dặn chồng:
- Anh cố gắng mềm mỏng, cứ để xem họ nói thế nào đã. Có gì đã có Luật sư.
Luật sư cười, nói:
- Nuôi quân ba năm, dùng quân một giờ đây.
Người Thư ký Ủy ban tỉnh dẫn hai người lên căn phòng trên tầng hai. Trong phòng bái trí sơ sài, quyền Chủ tịch tỉnh đang ngồi làm việc. Khi hai người vào, ông đứng dậy, chủ động tiến tới bắt tay:
- Vị nào là chủ sở hữu mảnh đất ấy?
Luật sư chỉ tay sang phía Quân:
- Báo cáo anh, đây là anh Quân – Giám đốc. Còn tôi là Luật sư, tư vấn.
Quyền Chủ tịch đi đến bàn uống nước:
- Mời các vị ngồi. Cảm thông cho Ủy ban, đây là nơi làm việc tạm thời. – Ông quay lại nói với thư ký vừa pha nước xong – Tôi sẽ làm việc với các vị đây một giờ.
Người thư ký đi ra, khép cửa lại. Quyền Chủ tịch tỉnh nói:
- Tôi cũng rất ít thời gian, vì vậy xin được nói thẳng vào công chuyện. Như các vị thấy đấy, để mãi chẳng ai nhòm ngó tới, nhưng khi có người động vào lại sinh chuyện. Trong thông báo gửi, Ủy ban đã nói rõ, bây giờ toi cần nghe trực tiếp ý của các vị?
Quân nhìn Luật sư, Luật sư nháy mắt như thầy giáo khích lệ học trò. Quân vuốt vuốt mép chiếc cà vạt:
- Chúng tôi làm đầy đủ mọi thủ tục mới được Ủy ban phê duyệt. Bây giờ đùng một cái các anh yêu cầu như vậy, tôi hỏi lý do gì?
- Vấn đề đối ngoại bây giờ là vấn đề cực kỳ tế nhị. Chúng ta đang thực hiện chính sách mở cửa, mời các doanh nghiệp nước ngoài vào. Họ đang là nhân tố được ưu tiên. Nếu để họ mất lòng, e sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch mở rộng khu kinh tế của ta. Cũng nói để hai vị biết: Không chỉ có tỉnh ta mời họ. Các tỉnh như Hải Dương, Hải Phòng cũng đã trực tiếp liên hệ muốn lôi kéo họ đến.
- Thưa đồng chí – Người Luật sư tham gia – Thế bây giờ ý của Ủy ban sẽ giải quyết việc này thế nào?
- Tôi đã trực tiếp làm việc với phía họ. Họ đồng ý mua lại và nhờ Ủy ban làm trung gian…
- Nhưng nếu doanh nghiệp chúng tôi không đồng ý? – Quân nói cắt ngang.
- Xét về lý, doanh nghiệp các vị đúng. Nhưng đứng về tình, liệu có nên không? Tôi mong các vị xem xét lại. Cái gì lợi nên làm. Còn như các vị đã thấy : Luật lệ đã in thành văn bản còn có thể sửa lại; nghị quyết ban hành chưa đúng còn có thể thay đổi, bổ sung nữa là … - Quyền chủ tịch tỉnh chuyển ánh mắt từ phía Quân sang người luật sư bỏ lửng câu nói.
Không khí chùng hẳn. Luật sư đưa mắt ra hiệu cho Quân trả lời. Quân nói:
- Chúng tôi xin lĩnh ý của Ủy ban để về bàn bạc, và sẽ trả lời bằng văn bản.
Quyền Chủ tịch tỉnh nhìn Quân bật cười, tiếng cười nghe thật thoải mái:
- Còn phải về hỏi quân sư Duyên chứ gì? Thôi, lật con bài của mình ra. Tôi không muốn lấy thế tỉnh ép các vị. Hãy vì công cuộc cải tổ chung mà làm. Còn tỉnh sẽ không đẻ cho các vị thiệt thòi đâu mà ngại. Tôi hứa vậy.
Sau tiếng cười và câu nói của quyền Chủ tịch tỉnh, không khí trong phòng dịu laij.
Ra tới xe mà Quân vẫn thắc mắc không hiểu sao quyền Chủ tịch tỉnh biết Duyên? Luật sư cười:
- Bây giờ muốn hoạt động chính trị, trước hết cần phải biết làm tình báo kinh tế. Cha này mà “cắt cu”, được bổ nhiệm chính thức thì đừng có đùa!
Sauk hi nghe kể lại, Duyên nói:
- Như vậy tỉnh có ý lấy bằng được mảnh đất ấy. Theo em, ta chuyển mục đích này sang kinh tế. Thỏa thuận với cả hai. Phía Ủy ban ta yêu cầu được mảnh đất mới. Bên phía nước ngoài, mình đặt giá cao, cộng cả những phụ phí không trong giấy tờ…
- Cả khối lượng đất mình đã đổ vào đấy nữa chứ!
- Quân chen lời.
- Tất nhiên. Luật sư đưa ra ý kiến của mình. Ta sẽ lựa, đừng vội trả lời. Nhưng cũng đừng già néo đứt dây.
Tuy vậy, Duyên cảm thấy có gì chưa ổn. Những yêu cầu đưa ra không có gì ghê gớm. Đất đai vùng này còn rất nhiều, một mảnh đất vài nghìn mét vuông không khó! Còn phía nước ngoài, để đạt được mục đích, vài chục nghìn đô la không làm nghèo đi cái túi kếch xù của họ. Và như vậy, chỉ là sự đổi chác, một vụ làm ăn “trúng mánh” không hơn không kém. Sauk hi xong việc, sẽ chẳng còn gì ràng buộc mình với họ? Nhất là đối với tỉnh? Nghe ra song phẳng quá!
- Ta có thể làm cách khác được không? – Chợt Duyên hỏi.
- Cách gì ? – Cả Quân và người Luật sư cùng đồng thanh nói.
- Cách gì thì em cũng chưa nghĩ ra. Nhưng em nghĩ sẽ có những cách khác còn khả thi hơn.
- Mình vừa được đất lại còn lãi vài chục nghìn đô còn gì nữa mà phải nghĩ? Buôn gì cho lại ? – Quân nói.
- Vâng, đã đành là vậy, nhưng… - Chợt Duyên quay sang hỏi Luật sư – Anh còn nhớ dự án công trình khu liên hợp thể thao không?
- Nhớ! Nhưng có cái gì liên quan tới việc của mình?
- Luật sư hỏi:
- Vậy chúng ta thành lập Doanh nghiệp Hoàng Quân ra để làm gì? Chẳng lẽ những kiến thức anh dạy cho anh Quân trong thời gian qua chỉ để lấy có mấy chục nghìn đô?
Luật sư nhìn Duyên, và mường tượng ra những ý nghĩ đng nhảy múa trong đầu cô. Luật sư hỏi:
- Liệu tham vọng ấy có quá sức mình không? Tôi nghe dự án ấy chưa duyệt mà đã có hàng trăm đơn vị muốn nhảy vào.
- Nhưng nếu không thử sức thì làm sao biết mình ở nấc nào? Mà bao giờ mới dám làm? Các anh nên nhớ đây là công trình trọng điểm cấp Nhà nước, tiền tươi thóc thật. Nói thực với các anh, em rất muốn có gói thầu công trình ấy trong tay.
- Nhưng em định làm thế nào? – Quân hỏi.
- Để em nghĩ thêm cho thật chín. Có lẽ… - Vẻ đắn đo, cô ngập ngừng rồi đi ra phía cửa nhìn ra khoảng trời rộng phía sau nhà. Đó là nơi thường khi gặp những điều cần suy tính Duyên hay ra đấy suy tư. Hai người đàn ông im lặng, tôn trọng, chờ đơi… Một lát, Duyên quay lại nói tiếp:
- Anh giúp em tư vấn cho anh Quân về nguyên tắc bỏ thầu, và những gì liên quan bảo đảm cho Doanh nghiệp Hoàng Quân đủ tư cách pháp nhân tham gia. Còn em, chiều nay sẽ gặp anh Hoạt bàn chuẩn bị lực lượng. Khi đấu thầu, cần phải có một số “quân xanh” hỗ trợ. Nếu kế hoạch có khẳ năng thực thi, em sẽ thân chinh gặp quyền Chủ tịch tỉnh.

29.
Trần Búp thức dậy trong trạng thái lơ mơ, cổ họng khô khốc, đầu váng vất nhức như búa bổ, thái dương giật nhịp thình thịch, thình thịch; ổ bụng nôn nao, cồn cào, quặn thắt. Mùi chua loét từ dạ dày thốc ngược, xộc lên mũi lên miệng. Ông nhăn mặt ghê tởm, muốn nôn ra mà không nôn được, ợ hơi liền mấy cái, mồm há to ngáp. Những giọt nước mắt từ khóe mắt rơi xuống gò má, lăn lên môi, vị mặt chát. Ừ, sao nước mắt lại không ngọt nhỉ? Những lúc con người ta vui sướng nước mắt có ngọt không? Cũng có thể! Những lúc vui sướng có khóc đâu mà biết vị của nước mắt thế nào! Vậy nước mắt chỉ dành cho đau khổ, tủi hổ, tuyệt vọng, chán chường? Chắc thế nên vị nước mắt mới mặn, mới chát? Tự nhiên, như đồng hóa nỗi niềm, nước mắt trào thành dòng xối xả. Giám đốc bưng mặt, nước mắt chảy tràn trề như suối, ngấm qua tay, luồn qua kẽ rơi xuống đệm ghế, lúc ồ ồ, lúc thánh thót khoan nhặt… Ông cố kìm, nước mắt càng tuôn ra. Lẫn trong dòng nước mắt mặn chát là tiếng nấc nghẹn ngào, uất ức, dằn vặt. Vật vã, thổn thức không nén nổi, tiếng khóc vỡ òa lên nức nở.
Cứ tưởng khóc như vậy nào có nín lại được? Ai ngờ, tiếng khóc bỗng im bặt. Nỗi niềm bi lụy ai oán đã vào giai đoạn cuối, nước mắt đã cạn, đã làm xong sự trung hòa đau khổ. Giám đốc không khóc nữa, từ trong miệng phì ra nỗi chua xót thành tiếng cười. Đầu tiên là tiếng cười gằn, tiếp đến là tiếng cười đỏng đảnh, nhạt thếch như ánh trăng suông đêm hạ tuần, rồi ré lên lanh lảnh chát chúa vang trong đêm. Nghe man rợ, rùng rợn và ai oán. Không có vị mặt chát, nhưng âm thanh tiếng cười thốt ra từ miệng người đau khổ còn ghê rợn hơn cả tiếng mèo gào trong đêm hoang; thắc thỏm, não nuột như tiếng cú rúc gọi tử thần. Cứ vậy, như kẻ điên, như người loạn trí, lẫn dại, lẫn khôn, cho tới khi không còn đủ sức nữa, tiếng cười lịm dần, rồi ư ử… ư ử, rên rẩm như chó mắc bệnh hen xuyễn. Lát sau, đầu ông ngoẹo về một bên, bọt rãi phè, đùn ra hai ria mép trắng như rớt chó dại, hơi thở khò khè, khò khè rồi đều dần, đều dần như người làm việc nặng lịm thiếp vào giấc ngủ nặng nề.
Gần sáng, Giám đốc bừng tỉnh. Ông chống tay, lật nghiêng người, cố nhổm dậy. Trong phòng vẫn tối mò, ánh sáng ngoài trời lọt qua khuôn cửa kính mờ cửa số. Không biết mấy giờ rồi? Hai điểm dạ quang trên mặt đồng hồ đeo tay cho ông biết đã gần năm giờ sáng. Thi thoảng, tiếng ô tô chạy trên đường quốc lộ ào vào chợt xa, chợt gần. Giám đốc đứng dậy bật điện, đi vào toa lét, cởi quần áo, mở vòi sen xuối nước lên người. Hơi lạnh đột ngột làm ông rùng mình nhưng rồi cảm giác ấy tan nhanh. Dòng nước mát trả cho ông sự tỉnh táo. Ông cảm thấy như quên hết chuyện khóc, cười vừa qua.
Tắm xong, thấy đói bụng, ông mở ngăn kéo lấy ra một gói mì ăn liền. Không có bát, ông bóc cho vào ca uống nước. Hơi nhỏ, nhưng cũng được! Ăn khô một chút đã sao. Ông lấy phích rót nước, nước hơi nguội. Không sao, ngâm lâu một lúc là được. Ông nhấc tập tài liệu đậy lên miwwngj ca. Từ trong tập giấy, một chiếc bìa nhỏ rơi xuống nền nhà. Ông cúi xuống cầm lên, nhân ra đấy là chiếc các-vi-dit của tay nhà báo. Một ý nghĩ rất nhanh chạy trong đầu, tựa như vệt sáng lóe lên ở phía cuối đường hầm trong đêm tối. Tay nắm chặt tấm “các”, mắt Giám đốc đăm đăm nhìn vào hàng số điện thoại duy nhất ghi trong đó.
Bộ mặt và lời nói của tay nhà báo hiện lên:
- Nếu anh cần gì, anh phôn cho tôi. Kể cả những vị tai to mặt lớn, muốn tiếp cận ai, tôi bật đèn xanh cho.
Cũng có thể? Tại sao ta không thử chứ? Những kẻ làm nô lệ cho đồng tiền thường được việc. Hãy coi đó là việc mua bán sòng phẳng. Điều kiện và hoàn cảnh của tay nhà báo biết đâu có thể tìm cho ông điểm nhấn. Không một chút do dự, Giám đốc nhấc điện thoại, bấm dãy số di động trong các. Liên tiếp những tiếng huýt sáo dài, sau đó là tiếng càu nhàu:
- Gì mà sớm vậy, ai đấy?
- Giám đốc Công ty xây dựng số I đây. Có nhận ra nhau không?
- Rồi! Chào sếp! Có gì mà sếp gọi em sớm thế?
- Chúng ta gặp nhau một lúc được không? Điện thoại không tiện.
- Được chứ? Nhưng gặp ở đâu?- Tay nhà báo hỏi.
- Anh biết nhà riêng của tôi chứ?
- Biết! Mấy giờ?
- Tầm tám giờ sáng nay được không?
- Ô kê! – Tay nhà báo cúp máy.
Trước khi rời cơ quan, ông viết mấy chữ gửi lại cho bí thư:
“Công việc tôi nhờ, anh khẩn trương tiến hành giúp. Sáng nay tôi bận, có gì chiều gặp”.
Về đến cửa nhà, Trần Búp đã thấy tay nhà báo chực sẵn. Y xởi lởi:
- Nhận được điện của sếp, em biết ngay có chuyện quan trọng.
Trần Búp đưa tay nhà báo lên phòng khách. Trong khi Trần Búp lấy ấm điện cắm nước, tay nhà báo đến chỗ để bức phù điêu sờ mó xuýt xoa:
- Đẹp và thế đứng yêng hung quá! Em chưa bao giờ nhìn thấy bức phù điêu nào đẹp như thế này.
- Công việc công ty nhờ các anh tiến hành đến đâu rồi? - Trần Búp nói khi hai người ngồi đối diện.
- Tôi thông báo rồi! Chỉ chờ công ty quyết định thời gian tiến hành là xong. Cánh phóng viên nhà báo tụi em lúc nào chả khát tin.
- Đầu tháng sau – Giám đốc trả lời rồi nói tiếp – Hôm nọ tôi nghe anh nói anh có nhiều mối quan hệ trên tỉnh?
- Sếp cần gặp ai? – Tay nhà báo hỏi lại.
- Tôi muốn gặp Trưởng ban dự án xây dựng công trình khu liên hợp thể thao.
- Công ty muốn đấu thầu à?
- Không! Tôi muốn trúng thầu! – Giọng giám đốc sắc lẹm.
- Thế thì gặp trưởng ban ăn nhèm gì? – Giọng nhà báo như chế giễu.
- Sao? Trưởng ban là to nhất rồi còn ai hơn nữa?
- Giám đốc ngạc nhiên.
Nhà báo nhìn giám đốc cười ngất:
- Tưởng sếp dành chuyện này lắm, hóa ra “ếch” thế không biết! Muốn nhẩy vào tham gia đấu thầu hãy gặp Trưởng ban, còn muốn trúng thầu phải gặp người khác! Không trưởng nhưng lại “nặng ký” hơn.
- Ai? – Giám đốc hỏi.
- Không lộ được, sếp thông cảm. Nếu sếp muốn có công trình ấy, tôi xin đứng giữa dàn sếp giúp.
- Có chắc không?
- Tùy vào “đạn bắn”. “Đạn” nhiều làm “quân đỏ”, “đạn” ít làm “quân xanh”.
- Tôi không làm quân xanh. Quân xanh phải do tôi
chỉ định.
- Nghĩa là sếp không muốn chia chác với người khác?
- Đúng vậy?
- Bao giờ sếp cần trả lời?
- Càng sớm càng tốt!
- bây giờ sang phần giá cả, sếp định thế nào?
- Tôi chưa quen việc này, anh cứ đặt giá. Có điều, mong anh tuyệt đối giữ kín hộ.
Tay nhà báo cười khẩy, ra vẻ như lời nói của giám đốc Trần Búp là thừa.
- Có hai cách tình: “Một là “mua đứt bán đoạn”; hai là “chung cổ phần”. Theo như ý sếp nói, sếp muốn “mua đứt bán đoạn” có đúng không?
- Đúng vậy!
- Chiều mai tôi trả lời. Riêng phần tôi, tỉ lệ 10% tổng giá trị. Nếu thỏa thuận được, xin dếp ứng trước cho một số tiền đặt cọc. Số còn lại, thanh toán sau khi trúng thầu!
- Nhưng sao giá cao thế? - Trần Búp kêu thảng thốt.
- Có phải mình tôi đâu sếp? thời buổi này ăn mảnh nuốt không trôi.
- Anh tính, lại còn bao thầu nữa.
- Cái đó có luật rồi, tỷ lệ thế nào chắc sếp thuộc hơn tôi?
 
30.
 
Rất tế nhị, quyền Chủ tịch tỉnh sau khi nhận điện xin tiếp kiến của Duyên, ông cho cô địa chỉ nơi ông thường đến nghỉ vào ngày cuối tuần. Đó là khu an dưỡng dành cho các bậc lão thành cách mạng.
Khi Duyên đến, đã thấy xe ô tô chờ quyền Chủ tịch tỉnh đỗ ở sân. Người thường trực báo với cô, ông đang chờ cô trong phòng khách.
Cửa không đóng. Duyên bước vào, chào:
- Em chào Thủ trưởng!
Quyền chủ tịch tỉnh buông tờ báo Nhân dân xuống mặt bàn, nói:
- Ngồi đi Duyên – ông rót nước rồi đẩy chén về phía cô – Ta vừa uống nước vừa làm việc nhỉ!
Duyên đưa tay đón chén nước:
- Dạ em xin, mời Thủ trưởng uống nước.
Không để Duyên trình bày, quyền Chủ tịch tỉnh nói luôn, và tỏ ra là người rất thực tế:
- Tôi được nghe báo cáo, Duyên là người bỏ phiếu chống lại việc tổ chức lễ đón nhận Huân chương lao động của công ty?
- Em… em… - Duyên lúng túng vì không ngờ quyền Chủ tịch tỉnh đề cập tới vẫn đề này.
Ông nói tiếp:
- Công ra công, tội ra tội. Cái nào đi cái nấy! Việc tổ chức đón, rước Huân chương là việc cần làm. Đó không những là nhiệm vụ chính trị, mà còn là quyền lợi chung nhằm biểu dương, đánh giá thành tích cống hiến bao nhiêu năm của tập thể cán bộ, công nhân viên công ty. Nếu chỉ vì lý do thiếu tiền mà không làm sẽ bị mang tiếng. Tủy ban tỉnh sau khi nghe báo cáo rất ủng hộ.
- Nhưng…
- Thôi – Quyền chủ tịch tỉnh ngắt lời cô – Việc đó coi như đã xong. Bây giờ tôi muốn nghe chính kiến của Duyên về tương lai của Công ty xây dựng số I.
Duyên bối rối tránh ánh mắt của ông. Cô cảm thấy đôi mắt kia đang đọc những ý nghĩ trong đầu mình. Cô cố trấn tĩnh tìm câu trả lời:
- Cái đó do tỉnh quyết định chứ làm sao em biết được.
- Tôi cần nghe ý kiến cá nhân của Duyên, chứ không muốn nhận sự tránh né. Trong buổi nói chuyện hôm nay, tôi mong Duyên thật thoải mái. Có thế chúng ta mới chóng đi tới đích.
- Dạ, thế thao ý kiến của thủ trưởng thế nào?
- Duyên hỏi lại, và ngước đôi mắt có hàng mi cong nhìn lại.
“Một đôi mắt không chê vào đâu được” ông thầm nhận xét, và chấp nhận cuộc đấu mắt trong giây lát, rồi nói:
- Tôi không muốn Công ty xây dựng số I bị tuyên bố phá sản.
- Thưa thủ trưởng…
- Em có thể bỏ hai chữ thủ trưởng và thói thưa bẩm đi được không? Chẳng lẽ chức vụ làm cho khuôn mặt tôi biến dạng, để đến nỗi cho em xưng hô đến thế sao?
Dạ… không phải thế. Mặt Duyên đỏ bừng, lời nói ấp úng, bởi câu nói hài hước của người đối thoại. Cô cúi mặt xuống, vặn vèo đôi tay… Rồi cô lấy lại bình tĩnh trả lời: - Thưa anh, dẫu không muốn anh cũng biết, thực chất hiện nay công ty đang sống dở, chết dở, tồn tại trên danh nghĩa…
- Cắt một ngón tay để tránh bị hoại tử cả cánh tay là điều phải làm. Nhưng cắt đi lúc nào là điều cần phải bàn. Chẳng lẽ không tìm ra biện pháp nào hay hơn ư?
- Thưa anh, nếu không muốn công ty bị phá sản, chỉ có thể nhờ tỉnh can thiệp bằng cách tạo điều kiện cho công ty có được công trình.
- Cả hai cách đều không được. Tôi muốn nó tự teo đi mà không phải động đến dao kéo. Và bây giờ không phải chỉ có một công ty xây dựng số I. Mà tất cả các đơn vị kinh tế trong tỉnh cần phải được thanh lọc.
- Nhưng còn số phận những người lao động?
- Duyên hỏi:
- Hồi mới tách tỉnh, lúc tôi còn đang làm Giám đốc Sở xây dựng, tôi đã từng hy vọng vào sự chuyển mình. Tôi đã cố níu kéo lại những gì thuộc về quá khứ. Người hiểu được cho đó là trách nhiệm của lương tâm. Kẻ không hiểu cho đó là những thí điểm để tạo ra một thế đứng. Kể ra, nói thế nào cũng đúng. Sự nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi, không thể chỉ là tôi hay bất cứ một ai khác đã làm được. Là người lãnh đạo, tôi cố lo cho những số phận đã hết lòng với nhà nước. Họ đã không hề tiếc cả tuổi xuân, sức lực và trí tuệ để xây dựng chế độ này. Chính vì những gì rớt lại của thời kỳ bao cấp mà tôi không dám mạnh tay. Khi tôi quyết định xây dựng những mô hình như Công ty xây dựng số I, là nhằm giải quyết những tồn tại, như một người mắc nợ với quá khứ phải trả. Song, cái đáng buồn nhất, đó là việc tôi đã đặt lòng tin không đúng chỗ. Quyền chủ tịch tỉnh đắn đo một chút rồi nói tiếp – Tôi hy vọng vào tài năng lãnh đạo và trình độ quản lý chuyên môn của Trần Búp bao nhiêu, thì chính tôi lại nhận ra mình sai lầm. Như Duyên đã biết. Để vực Công ty xây dựng số I lên, từ ban đầu, tôi đã tạo ra cho cỗ máy ấy hàng chục công trình với vốn liếng hàng trăm tỉ đồng để lấy đà. Nhưng tổng kết thời gian hơn sáu năm trôi qua, tỉnh đã được gì và cũng phải hỏi Trần Búp được gì? Tất nhiên, trong quan điểm của tôi, người ta làm được việc thì người ta có quyền được hưởng thụ. Tôi không ghen tị với ngôi nhà bốn tầng ở Phúc Hòa hay tòa biệt thự nguy nga nằm giữa Thủ đô của anh ta. Tôi cũng không lấy quyền lãnh đạo để hỏi xem anh ta đi xe ô tô đời nào. Nhưng là lãnh đạo, tôi có quyền nhìn vào sự phát triển của Công ty do anh ta phụ trách. Chính phủ có đầy đủ những văn bản nhằm tạo cho các doanh nghiệp Nhà nước vận dụng. Nhưng chỉ không đầy hai năm sau khi tôi được điều lên tỉnh, công ty xây dựng số I nằm trong cơ hội bị đổ bể. Tại ai? Phải chăng đó là sự bất tài, dựa vào thời cơ để trục lợi riêng cho mình? Tôi còn biết hiện nay anh ta còn nợ công tay hàng tỉ đồng cho việc làm nhà và mua nhà ở Hà Nội. Chẳng lẽ giờ đây tôi lại tạo điều kiện cho anh ta kiếm tiền ở các công trình để trả nợ hay sao?
Quá xúc cảm, ông dừng lời đột ngột, ngả người vào đệm nghế, ngửa mặt nhìn lên trần. Duyên đứng dậy, đi tới bình nước lọc để cạnh tường, lấy cốc nước mát mang đến trước đặt trước mặt ông:
- Anh uống nước.
Quyền Chủ tịch tỉnh lặng lẽ cầm cốc nước lên nhâm nhi từng ngụm một. Đợi ông đặt cốc xuống, Duyên hỏi:
- Thế bây giờ ý anh thế nào?
Quyền chủ tịch nhìn xói vào mặt cô, đáp:
- Tôi có ý định xóa sổ công ty xây dựng số I mà không phải công ty khác? – Duyên hỏi:
- Không thể cùng một lúc làm hàng loạt được.
- Quyền chủ tịch tỉnh đáp:
- Tại sao?
- Bởi trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy còn có ý kiến chưa nhất trí. Vả lại, tiềm năng của những công ty khác không có.
- Thế anh định làm bằng cách nào? – Duyên hỏi.
- Bằng cách nào ư? – Quyền chủ tịch tỉnh nhìn Duyên – Bằng cách Doanh nghiệp Hoàng Quân đứng ra mua 51% các thiết bị và tài sản của Công ty xây dựng số I trên danh nghĩa cổ phần hóa.
Duyên trân trân nhìn quyền Chủ tịch tỉnh. Vì sao mà ông ta hiểu được khả năng tài chính của cô. Cô nói:
- Đúng! Không đương nổi, nếu thiếu Duyên và tôi. Còn tôi sẽ đảm đương nổi nếu Duyên và tôi đứng phía sau làm hậu thuẫn.
- Anh đánh giá em cao như vậy có chủ quan quá không?
Không để ý tới câu nói của Duyên, quyền Chủ tịch tỉnh tiếp tục:
- Như mọi người đã biết, từ ngày tôi được bổ nhiệm quyền chủ tịch tỉnh, nhiều kẻ lấy sự thất bại của những đơn vị xây dựng được thành lập sau khi tách tỉnh, mà điển hình là công ty xây dựng số I làm mũi dùi kích bác nhằm hạ thấp uy tín của tôi với cấp trên. Chính vì vậy, cáp trên còn đang xem xét, cân nhắc giữa tôi và một vài đơn vị khác. Không nói chắc Duyên đã hiểu. Tôi cần một quyết đáp mạnh nhằm gây ấn tượng. Nếu giải quyết được món lùng nhùng đó, không những giải quyết được khó khăn của ngành xây dựng trong tỉnh nói chung và công ty xây dựng số I nói riêng, mà đấy còn là điểm sáng, điểm nhấn điển hình trong việc thực hành nhiệm vụ cổ phần hóa của tỉnh, phù hợp với yêu cầu mà trung ương đã đề ra. Từ đấy, ta sẽ lấy đó để nhân rộng sang các đơn vị kinh tế khác, không chỉ riêng ngành Xây dựng. Trong cuộc họp vừa qua, khi nghe tôi trình phương án chuyển công ty xây dựng số I sang cổ phần hóa, đa số Thường vụ Tỉnh ủy tán thành…
“Và dọn được đống rác cũ sang chỗ mới”. Duyên thầm nghĩ, rồi hỏi:
- Anh có cần em trả lời ngay không?
- Không! – Quyền Chủ tịch tỉnh đáp – Duyên cứ suy nghĩ cho kỹ. Nhưng trong khi chờ câu trả lời, tôi muốn khuyên Duyên một điều: đừng để lỡ thời cơ.
- Cảm ơn anh. Với em, việc hôm nay đã đưa ra quá đột ngột. Em cần có sự bàn bạc với mọi người trong gia đình. Nhưng … giả dụ - Duyên láy lại câu nói.
- Đay là em chỉ giả dụ thôi, nếu em chấp nhận thì Doanh nghiệp Hoàng Quân được gì?
- Câu trả lời ấy thuộc về Duyên chứ không thuộc về tôi. Nhưng có thể khẳng định: Chỉ được chứ không mất!
- Thôi thì em cứ biết thế đã! – Duyên mở cặp lấy ra tập hồ sơ – Còn đây là những yêu cầu của doanh nghiệp Hoàng Quân về vấn đề trả lại đất cho doanh nghiệp Đài Loan. Em xin gửi anh. Anh xem rồi cho ý kiến.
- Những điều kiện cụ thể phải không? – Ông đón tập hồ sơ, rồi hỏi.
- Vâng. – Duyên trả lời – Có gì thì anh cứ điện. Em chờ.
Có tiếng gõ cửa, người quản lý khu an dưỡng xuất hiện:
- Mời thủ trưởng và chị sang phòng ăn.
Duyên định khước từ, nhưng quyền Chủ tịch tỉnh đã nói.
- Có tôi và Duyên thôi mà! – Rồi ông quay sang nói với người quản lý – Một lá nữa chúng tôi sẽ xuống.
Thấy vậy, Duyên không tiện từ chối, chờ cho người quản lý đi ra, cô lấy trong túi ra một chiếc máy di động, đặt lên mặt bàn, đẩy về phía người đối thoại:
- Trước lúc đi, nhà em có gửi biếu anh chút quà.
Trán quyền Chủ tịch tỉnh nhíu lại, nhưng khi nhìn thấy món quà, ông cười rất tươi:
- cái này thì nhận được! – Ông cầm lên – Mô đen bao nhiêu đây? Có chụp ảnh được không?
- Dạ - Duyên đáp – Thấy Quân bảo em, đây là đời mới nhất.
CHƯƠNG KẾT
31.
Có một sự trùng lặp ngoài ý muốn. Ấy là vào ngày tổ chức đón, rước Huân chương lao động hạng Ba của công ty xây dựng số I cũng là ngày tỉnh mở gói thầu xây dựng khu Liên hiệp thể thao quốc gia.
Giám đốc Trần Búp mời Bí thư đảng ủy và Phó giám đốc Duyên lên hội ý:
- Cô Duyên ở nhà cùng với đồng chí Bí thư làm công tác tổ chức. Hôm ấy tôi phải lên xem kết quả cụ thể thế nào. – Rồi ông bàn giao lại tập báo cáo thành tích cho Duyên – Cô đọc lại, có gì cần bổ sung thì thêm vào.
Đã lâu mới giáp mặt, Duyên không ngờ ông xuống mã nhanh quá. Mái tóc vốn dày dặn bóng mượt, nay xác xơ, bạc phếch. Vầng trán, đuôi mắt, gò má, những nếp nhăn của tuổi đời chồng chéo, gấp nếp, đè lên lớp nhăn trách nhiệm, làm cho khuôn mặt ông nhìn xọm hẳn.
Mấy hôm trước, Duyên được nghe Hoạt kể lại chuyện Giám đốc Trần Búp nhờ tay nhà báo “chạy thầu” giúp; rồi chuyện Mã Thòng Lài, ép Trần Búp… Duyên biết, trong cuộc chạy đua này, Trần Búp đã quyết định ném ra chiếu bạc lá bài và những đồng tiền cuối cùng.
Có một chút băn khoăn gờn gợn trong trái tim mẫn cảm của Duyên. Nhưng rồi nó thoảng qua như chính vòng quay của số phận. Cuộc sống thương trường vốn vậy. Đã chấp nhận bước vào sân chơi của giới kinh doanh, là chấp nhận sự thắng, thua, thành, bài. Bảo vì danh dự cũng đúng! Bảo tại lòng tham cũng đúng! Ai đó rao giảng “cạnh tranh lành mạnh”, tưởng đó là sự phi lý trong vô vàn những luận điểm sáo mòn, cũ rich, kiểu đạo đức giả, vừa đấm vừa xoa. Không có! Hoặc có thể có. Nhưng từ trước đến nay và bây giờ chưa có. Nó gần với sự không tưởng nhiều hơn. Cô nghĩ vậy.
Và thực trớ trêu, chính doanh nghiệp Hoàng Quân của chồng cô lại là đối thủ tranh thầu của công ty xây dựng số I.
Vả, cũng với tin của Hoạt mang tới, Duyên còn nhận được điện của quyền Chủ tịch tỉnh bảo với cô:
Đã có văn bản bổ nhiệm chính thức ông vào ghế Chủ tịch tỉnh. Như vậy kế hoạch nắm cương vị lớn nhất tỉnh của ông đã xong. Nhưng Duyên biết, đó chưa phải là nấc thang cuối cùng của ông. Nó chỉ là sự hoàn thiện cho cái bắt đầu cảu một cuộc chạy đua sắp tới.
Quả thật, ước mơ và khát vọng của con người là vô cùng tận. Và Duyên cũng chỉ là một trong số vô vàn những con người trong cái guồng quay bạo liệt, tàn khốc ấy.
32.
Buổi mở gói thầu Khu liên hiệp thể thao Quốc gia được đặt trong Hội trường lớn của tỉnh. Khi giám đốc Trần Búp đến, các nhà thầu đã đông đủ. Ông đưa mắt tìm, và thấy ngay nhà báo vai đep máy ảnh, tay cầm ghi âm, chân lăng xăng chạy hết chỗ này đến chỗ khác.
Nhìn thấy ông, tay nhà báo giơ tay vẫy vẫy. Trần Búp gập đầu đáp trả, nhưng khi đi về phía ấy, mà bước về hàng ghế bên trái, sát khán phòng, gần bục chủ tọa. Nhìn vẻ mặt tươi cười, hớn hở của tay nhà báo, giám đốc Trần Búp thở phào an tâm. Nhưng vừa đặt đít xuống, anh chàng mã đã như từ dưới đất mọc lên, tay xoa, miệng loe nhoẻn:
- Thế nào? Chắc thắng chứ sếp? – Rồi ngồi luôn xuống ghế cạnh.
Giám đốc Trần Búp nhăn mặt như ngửi phải mùi phân. Không trả lời, ông quay sang bên kia nhìn bao quát. Ông nhận ra Hoạt và một số người trước đây ở công ty, nay đã tách ra thành lập doanh nghiệp riêng. Họ ngồi với nhau thành dãy. Cách một hàng ghế nữa, giám đốc Hoàng Quân và người luật sư đang thì thầm to nhỏ. Trần Búp biết, mặc dù Hoạt và mấy người đó trên danh nghĩa là những đơn vị tham gia thầu, nhưng thực tế đó là “quân xanh” của Quân.
Cùng lúc, Quân ngẩng mặt nhìn về phía ông. Hai luồng mắt giao nhau rồi quay vội đi. Với Quân, đây là cuộc tham gia đấu thầu đầu tiên trong đời. Và cũng là lần đầu tiên trong đời anh tập làm mặt lạnh, ngơ đi trước người quen. Nghe ra cứ xót xa làm sao ấy. Quân thấy mình như đang trốn chạy khỏi chính mình. Anh không muốn thế, nhưng sự đời buộc anh phải làm vậy.
Nhớ tới hôm nhận giấy báo lên dự mở thầu. Quân hỏi vợ:
- Thế thủ tục như thế nào rồi?
Duyên cười:
- Đã có luật sư đi cùng. Anh lơ gì!
Thế mà trước đây Quân cứ ngỡ cuộc đấu thầu đều giống như mọi cuộc đấu giá trên phim ảnh. Đầy tính gay cấn và hồi hộp. Người chủ tọa giơ cao chiếc búa lệnh, phát mức giá khỏi điểm. Những cánh tay giơ cao, những kẻ tham gia thầu đưa giá của mình ra đề chèn nhau…
- Không phải thế. Trên phim ảnh là đấu giá. Người nào trả cao là được! Còn đây là thầu công trình, mà xét theo kiểu xã hội chủ nghĩa! Rồi luật sư giảng giải cho Quân về phương pháp đấu thầu.
Như vậy trong cuộc mở thầu này không biết ai sẽ chiến thắng! Giống như tất cả những người đã đến đây, tham gia vào cuộc chơi này. Không ai biết tiềm năng của ai. Mọi bí mật nằm trong hồ sơ. Như kẻ chơi bạc úp cây tẩy của mình xuống chiếu. Ai cũng hy vọng lá bài của mình khi lật sẽ thắng. Tất cả đều chờ đợi, tất cả đều mong mỏi… tất cả đều tù mù.
Đã tới giờ khai mạc. Sau những thủ tục thông lệ, người chủ tọa thay mặt Hội đồng tư vấn đấu thầu trịnh trọng tuyên bố mở thầu, và giải thích danh sách các đơn vị tham gia thầu sẽ được xếp đặt và công bố theo vần ABC.
“Như vậy Công ty xây dựng số I sẽ nằm ngay tốp đầu”. Vừa nghĩ, giám đốc Trần Búp vừa hồi hộp trong lồng ngực, quả tim của ông đập như loạn nhịp. Hội trường lắp điều hòa mát vậy mà từ sống lưng ông, mồi hôi toát chảy thành dòng.
Ngồi bên cạnh, chàng mã cũng nôn nao không kém! Hai tay nắm chặt, người nhướn về phía trước. Tất cả sự hy vọng cho cuộc đổi đời nằm trong đó. Bóc tách khối lượng đường sá, vỉa hè, cống rãnh cũng đã tính tới tiền tỉ rồi… Đấy là chưa nói tới Lài còn hứa, nếu Công ty trúng thầu, Lài sẽ bắt chồng dành thêm cho Mã một phần xây dựng nữa. Mã vừa nhẩm vừa mơ… Chỉ một cú này thôi, Mã sẽ trả hết nợ. Không chừng sẽ còn dư tiền xây nhà, mua ô tô nữa…
Trong lúc Mã ước, Mã mơ thì trên kia, người chủ tọa bóc niêm phong từng cặp hồ sơ, rồi dõng dạc đọc mức tham gia thầu của từng đơn vị:
- Doanh nghiệp xây dựng Anh Thái – quận Ba Đình – Hà Nội; hai mươi tư tỉ, năm trăm năm mười triệu đồng.
- Doanh nghiệp xây dựng Bình Đà – Hà Tây: Hai mươi tư tỉ, sáu trăm triệu năm trăm nghìn đồng.
- Hợp tác xã xây dựng Chung Thủy – Nam Định: Hai mươi ba tỉ, bảy trăm bốn mươi triệu năm trăm nghìn đồng.
Liền sau đó, giám đốc Trần Búp nghe rõ tiếng người chủ tọa xướng tên công ty mình:
- Công ty xây dựng số I – Khu vực phía Bắc: Hai mươi mốt tỉ, hai trăm ba mươi lăm triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng.
Tất cả mọi người ngồi trong hội trường đều ồ lên vì mức giá đưa ra thấp hẳn với giá của các đơn vị khác.
Những tiếng ngạc nhiên như khẳng định mức giá ấy khó có người theo kịp. Có tiếng người khẽ kêu:
- Lại còn đèo thêm năm mươi nghìn nứa!
- Thì đã sao! Đã là tranh thầu thì chỉ cẩn hơn nhau một đồng là thắng! – Một tiếng khác cãi lại:
Tiếng ai đó văng ra cộc lốc:
- Nhận thấp thé thì ăn đéo gì?
Giám đốc Trần Búp cười mỉm, nghĩ thầm: “Nhận thế nào là quyền người ta, sao không hạ thấp xuống mà thầu?”.
Tiếng người chủ tọa nhắc nhở:
- Đề nghị các vị yên lặng cho! Rồi đọc tiếp – Công ty xây dựng Hà Nội: Hai mươi bốn tỉ, hai trăm năm mươi triệu đồng.
- Thầu cao thế! Vứt! – một tiếng đế vào
- Cứ chờ xem! Hồ sơ còn nhiều!
Đúng như vậy, trên bàn còn rất nhiều hồ sơn. Giám đốc Trần Búp vẻ căng thẳng. Chồng hồ sơ để trên bàn vợi đi bao nhiêu, lòng ông bớt lo lắng ngần ấy. Ông ngẩng mặt tìm tay nhà báo. Tay nhà báo nhìn lại ông, giơ cao cánh tay nắm chặt, ngón tay cái chìa ra rung từng nhịp ra hiệu chắc thắng. Hành động ấy cho ông an tâm và tự tin.
- Doanh nghiệp xây dựng Đồng Tâm: Hai mươi bốn tỉ, tám trăm triệu đồng. – Tiếng người chủ tọa.
Lại một tiếng tục tĩu đế sau:
- Ăn cứt! Giá nhà thầu đưa ra có hai mươi nhăm tỉ rưỡi. Đặt mức cao thế bao giờ với tới được!
Thêm một loạt danh sách nữa, nhưng so sánh với giá mời thầu, tất cả đều suýt soát. Bỗng giám đốc Trần Búp gần như đứng tim, ngừng thở vì nghe thấy:
- Doanh nghiệp xây dựng Hoạt Linh: Hai mươi mốt tỉ, năm trăm bảy mươi hai triệu đồng.
Chàng Mã quay lại phía ông:
Của nó suýt soát, những vẫn còn cao hơn mình.
Tự dưng, giám đốc Trần Búp thấy lo lo. Nỗi lo lắng mơ hồ. Ông cảm thấy có gì bất bình thường khi giá thầu trong tốp “quân xanh” của Quân đều chờn vờn quanh khung giá của ông đưa ra. Chẳng lẽ tụi nó cũng chạy thầu? Không có lẽ! Nhớ hôm tay Nhà báo đến lấy tiền đặt cọc, ông hỏi:
 - Này, có chắc không đấy?
- 100% sếp an tâm! Cứ là đinh đóng cột!
Ông lo vậy thôi, chắc không có chuyện gì đâu! Ông tự an ủi mình. Tuy trấn an vậy, nhưng cứ mỗi lần người chủ tọa xướng tên con số hai mươi mốt là Trần Búp lại nín thở. Ông ngoảnh sang nhìn tụi Hoạt và các đối thủ. Dưới hàng ghế sau, Quân và tay luật sư có vẻ rất căng thẳng. Cả hai tì tay lên thành ghế trước, nghển cổ chờ đợi. Vừa lúc Giám đốc Trần Búp chợt nhạn ra chính Quân mới là đối thủ, thì tiếng xướng của người chủ tọa như vang ta và rõ nét hơn:
- Cuối cùng là đơn thầu của doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh vật liệu Hoàng Quân: Hai mươi mốt tỉ, hai trăm ba mươi lăm triệu, năm trăm bốn mươi nghìn đồng.
- Thôi chết sếp ơi! - tiếng mã kêu như reo: - Mình bị chúng nó đánh úp rồi! Giá của thằng Quân thấp hơn đúng mười nghìn.
Nghe, giám đốc công ty xây dựng số I bang hoàng. Ông ngỡ ngàng như chưa tin vào tai mình. Mắt ngơ ngác nhìn xung quanh như định tìm… nhưng tay nhà báo đã chuồn đi đâu không thấy.
… Ông bước ra khỏi hội trường lúc nào không biết nữa. Đầu óc cứ lang mang, luẩn quẩn. Câu hỏi “tại sao chỉ chênh nhau có mười nghìn tôi?” cứ loay hoay trong đầu ông. Rồi tự nhiên, ông cảm thấy đầu mình choáng váng, người lâng lâng như mất trọng lượng, chân hẫng hụt bước về phía xe ô tô. Người lái nhìn thấy ông, vội chạy ra mở cửa xe, giục:
- Khẩn trương lên thủ trưởng. Về cho kịp dự tiệc liên hoan mừng đón Huân chương!.
Phúc Yên tháng 3/2006.
19/1/2018
Xuân Mai - Nguyễn Ngọc Tung
Nguyễn Nhuận Hồng Phương
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Người mẹ đời thường trong văn xuôi nữ đương đại 2 Tháng Tư, 2022 Những va chạm trong cuộc sống tạo ra nhiều chân lí khác với chân lí v...