Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 2a

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 2a

NGUYỄN CẢNH TUẤN
Nhà máy tây ở làng ta
Tập bút ký, phóng sự đoạt Giải C,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
NƠI ĐỂ SỐNG HẾT MÌNH
Thăm trường. Tôi đọc những dòng thư này của anh Nguyễn Quang Kính, giáo viên toán dạy ở trường từ những năm 1964 đến năm 1973, bây giờ anh đã về Hà Nội, không rõ anh làm gì, ở đâu, nhưng những chữ này của anh thì tôi khó lòng quên được: “Tôi ở trường vào những năm chống Mỹ khắc khổ lãng mạn. Hồi đó thầy và trò đều sống hết mình và rất quý nhau. Tôi dạy ở đấy. Học rất nhiều ở đấy và để lại đấy những năm đẹp nhất. Nghĩ về trường bao giờ tôi cũng thấy chan chứa tự hào và biết ơn… ”. Ngần ấy chữ của anh đã là cọc tiêu, là định hướng cho tôi tìm đến với trường, khai thác kỷ niệm, nhìn biết những nét vẽ tạo lập nên những mùa hoa, cây trái nối tiếp sinh sôi suốt năm mươi năm qua của ngôi trường trên đất trung du - trường Trung học phổ thông Trần Phú (THPT)… Nói về lịch sử ư? Trang đẹp ấy lớp lớp thầy cô giáo vẫn nối tiếp nhau để viết, để nói cho hôm nay và cho ngày mai biết rằng: 50 năm qua là một chặng đường đẹp của trường THPT Trần Phú. Thầy Trần Sơn, giáo viên dạy Sử kể về trường như một nhân chứng sống để chúng tôi biết rằng: Ban đầu trường có tên là Nguyễn Thái Học, lập nên từ 1947, lánh mình bên chân núi Sáng (Lập Thạch). Ngày ấy trường chỉ có 3 lớp với 5 thầy giáo. Hòa bình (1954) trường chuyển về Phúc Yên và từ ấy trường vinh dự mang tên đồng chí Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng - Trần Phú. Hai mươi lăm năm chặng đường đầu tiên, trường phải bao lần đi sơ tán, bao lần đi lánh nơi xóm núi, xóm đồi ở Lập Thạch, Tam Dương nhưng trường không có ngày nghỉ dạy và bỏ học. Từ ngôi trường Trần Phú về sau đã chia nhánh sinh cành, thêm bao nhiêu trường đồng cấp nữa cho các huyện, thị xã ở nam phần tỉnh Vĩnh Phú. Ngót bốn mươi năm nay, trường trụ lại trên đỉnh đồi Dốc Láp, Vĩnh Yên. Ngôi trường mọc lên từ đấy, tường gạch mái ngói khang trang, vẹn nguyên, êm đẹp biết bao. Bây giờ trường Trần Phú đã có thêm những ngôi nhà cao tầng. Bây giờ trường có tới 35 lớp học với 1700 học sinh, mỗi năm có 500 em ra trường. Bây giờ trường có hơn 50 thầy, cô giáo… Chuyện lịch sử của trường gợi tôi nhớ tới nét chữ chân phương của giáo sư Hoàng Thiếu Sơn, nguyên cán bộ giảng dạy Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cựu giáo viên trường Trần Phú những năm 1950. Lời của thầy khơi gợi biết bao: “Nhớ lại những ngày học sinh học ở đình, ở chùa, rồi ở lán, ở rừng nhưng mà đời lúc nào cũng cứ tươi vui, thầy trò đều kham khổ, chịu đựng với nhau để dạy thật tốt, học thật tốt chỉ nhằm một cái đích là làm sao cho đất nước chóng giải phóng, Tổ quốc chóng độc lập”. Để rồi, sau này vị giáo sư ấy xúc động viết rằng: “Trên đường đời, gặp lại một số anh chị em tôi lại càng vui mừng vì biết bao nhiêu người đã thành đạt trong đủ mọi lĩnh vực hoạt động, họ làm vẻ vang cho trường cũ của mình…”. Tất cả những lời ấy như là khẳng định thêm lời thơ của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, thầy giáo xưa của trường, xa trường, nhớ trường anh có thơ gửi lại:
Lớp học trò đầu tiên đi mọi ngả
Các cậu cô bây giờ cũng đã… ông bà
Nét phấn vẽ nghịch ngầm áo bạn
Mắt thầy lườm như mới hôm qua…
Năm mươi năm một chặng đường, hàng vạn học sinh đã học tập lớn lên dưới mái trường Trần Phú. Trường mãi tự hào về những lớp học sinh thân yêu của mình, họ là những người luôn biết sống hết mình vì công việc. Họ là những học sinh gắn bó hết lòng với ruộng đồng, với xưởng thợ, là những học sinh như Phùng Quang Hùng, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Hợp Thịnh chăm chỉ năm nào, giờ gắn quyện với địa phương đem vốn kỹ thuật làm nên mùa ngô vụ đông gọi khách bốn phương về. Sống hết mình với công việc đã cho Hùng đi tới vinh dự đắc cử đại biểu Quốc hội khóa IX, Bí thư Huyện ủy. Họ là những học sinh khát khao với nền công nghiệp của Tổ quốc như Nguyễn Văn Hòa giờ đang là Phó Trưởng phòng Kỹ thuật trên công trình thủy điện Sông Đà; là Đoàn Minh Phúc, nguyên giám đốc nhà máy giấy Bãi Bằng hiện đại. Họ là những chú học sinh thuở nào say sưa với toán học nên bây giờ trở thành Phó Tiến sĩ Viện Thông tin Hà Nội; đấy chính là Phạm Ngọc Điệp; là Nguyễn Trọng Sinh, Phó Tiến sĩ đầu tiên của ngành thủy lợi Việt Nam, từng là ủy viên ủy ban thường trực trị thủy sông Mê Kông, là Tiến sĩ Trần Phan Đạt, mới 36 tuổi đã giữ trọng trách sản xuất máy về vật lý cho các nước Đông Âu… Họ là những học sinh ngày ấy thơ ngây, tâm hồn đằm thắm, thiết tha yêu lớp yêu trường, kính trọng thầy cô, tha thiết tình đất nước quê hương để bây giờ cả đất nước nhớ tên, để lòng người gần gũi yêu thương: Như Hữu Thỉnh, Ngô Văn Phú, Vũ Đình Minh, Vũ Duy Thông, Đăng Bảy, Bùi Đăng Sinh, Ngân Vịnh, Thái Vượng,…
Trường vẫn nhắc nhiều về học sinh Vũ Đình Minh, xa trường 20 năm đã có chín, mười đầu sách với đủ loại hình văn học. Nhắc nhiều về Vũ Duy Thông, ngày thơ dại đã nghĩ đến “khi nào chúng ta qua tuổi mơ mộng viển vông” để rồi chỉ 20 năm sau đấy anh đã thành đạt trong vở kịch “Người mơ mộng cuối cùng”. Nhắc nhiều về Hữu Thỉnh, cận học sinh của những năm đầu thập kỷ 60 đã đạt giải 3 cuộc thi thơ của trường, để gần 20 năm sau đấy anh đã có trường ca “Đường tới thành phố” giành giải quốc gia, để rồi anh trở thành Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ. Trường yêu ca dao của Ngô Văn Phú, trân trọng những bài ký đậm tình quê của anh, và hiểu anh hơn khi anh bùi ngùi nhớ bạn:
Cái mũ tai bèo năm ấy đội
Bạn trường ríu rít chuyện Trường Sơn
Tôi về mồ bạn còn lưng núi
Mắt bỗng nhờ đi chẳng nỡ nhìn
Anh nói cho mình và cả cho bạn mình đấy chăng? Những năm 1963 ấy ai quên được tại nơi đây trung đội thiết giáp mang tên Trần Phú mà tất cả các chiến sĩ đều là học sinh của trường, khoác áo lính và vào trận dũng mãnh ở đường 9 Nam Lào những năm ác liệt nhất.
Năm mươi năm - một chặng đường. Trường nhớ trò, trò nhớ trường đằm thắm, như chim nhớ tổ, như tổ nhớ chim. Chim tung cánh đi bốn phương trời… Suốt một đời vì Tổ quốc yêu thương mà vẫn nặng lòng với mái ấm ngôi trường, với bao kỷ niệm, với biết bao chan chứa tự hào và ơn nghĩa.
Trò mỏi cánh tung bay. Thầy cô thì trụ lại với trường. Người thầy xa gửi lại:
Bạn trụ lại với vùng đồi bền bỉ
Năm ấy dạy cha giờ lại dạy con
Khoảng cách ấy bao điều phải nghĩ
Để nắng mưa không bào xói tâm hồn
Nhà giáo ưu tú Hoàng Thị Dung, 39 năm gắn bó với trường Trần Phú, 11 năm là hiệu trưởng, mái tóc đậm màu sương, cả cuộc đời vì công việc đào tạo những lớp người cho đất nước. Trên khuôn mặt hồn hậu của vị giáo già ấy đã nghỉ hưu 8 năm ấy vẫn toát lên từ ánh mắt yêu say, sống hết mình vì công việc đào tạo ra những con người ưu tú cho xã hội, gắn bó máu thịt với công việc quản lý nhà trường. Người hiệu trưởng ấy kể say sưa và rất đỗi tự hào về những thầy cô “đạo cao đức trọng” luôn biết tiếp thu đạo lý làm người của những thế hệ trước để truyền lại cho những thế hệ sau. Tôi thực sự tin yêu vào đạo đức mẫu mực, nhân phẩm thanh cao, nếp sống giản dị, phẩm chất truyền thống của những thầy giáo nơi đây ngay từ buổi mới lập trường. Đấy chính là các thầy Ngô Sĩ Doanh, Ngô Đốc Khánh, Hoàng Thiếu Sơn, Nguyễn Trọng Chân, Phạm Hữu Điền, Nguyễn Văn Phác, Nguyễn Quỳnh Cư, Lê Văn Mẫn… về những giáo viên giỏi tay nghề như Nguyễn Quang Kính, Ngọc Bảo, Cai Vĩnh, Hồ Thành Kiểm, Phạm Hoài Thủy. Về những giáo viên hết lòng vì học sinh thân yêu như Phạm Thế, bao nhiêu năm gian khổ của chiến tranh cũng như trong hòa bình, trong gian khổ thiếu thốn của đời sống, bao giờ học sinh của thầy cũng học giỏi, đỗ cao. Đấy còn là những học sinh của trường, bây giờ là giáo viên giỏi như Nguyễn Gia Thịnh, Phạm Quang Tuệ, Phạm Văn Chính…, là những cô giáo như Nhữ Thị Bích Chi, Lê Thị Hoàn, Trần Thị Hiền; là cô Lê Thị Chúc Phó Hiệu trưởng của trường… tất cả đều vượt lên chính mình, tất cả đều sống trong tình cảm yêu thương nồng ấm, sống cho nhau và biết vì nhau.
10 năm đất nước bước vào công cuộc đổi mới, cũng là khoảng cách thời gian nền giáo dục nước nhà đứng trước những thử thách mới. Cơ chế thị trường đã len lỏi, chi phối vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, ngay cả trong trường học. Thời kỳ đầu đổi mới, nhiều mái trường có sự chững lại trong phong trào thi đua “hai tốt”, thậm chí có đơn vị đã đánh mất nét đẹp truyền thống mà công lao thầy trò từng xây dựng bao nhiêu năm.
Trường phổ thông trung học Trần Phú bước vào đổi mới ở tuổi 40 thì sao? Nhà giáo ưu tú Trần Xuân Hưng hiệu trưởng nhà trường đã giải tỏa nỗi băn khoăn của tôi.
Năm 1987 nhà trường được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba, tạo nên chất kích thích thầy trò bước vào công cuộc đổi mới.
Điểm lại 10 năm đổi mới, chất lượng dạy và học của nhà trường đã bắt kịp với các đơn vị xuất sắc trong toàn quốc. Qua các đợt Nhà nước phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú, trường có 4 thầy cô giáo được nhận danh hiệu cao quý này. Chúng tôi thầm đoán, hẳn danh hiệu nhà giáo ưu tú của trường ở bậc phổ thông trong cả nước, thì Trần Phú là đơn vị dẫn đầu về số lượng.
Kết quả thi đại học, học sinh giỏi của nhà trường luôn luôn là đơn vị xuất sắc của tỉnh. Từ phong trào dạy tốt, học tốt, một thế hệ giáo viên được khẳng định, được học trò, phụ huynh mến mộ: Thầy Trọng, thầy Long, thầy Hoàng Lương, cô giáo Hán Chung, cô Gia, Đàm Hương, Đào Lương…
Hiệu trưởng Trần Xuân Hưng là học sinh của trường từ ngày tên trường là Nguyễn Thái Học. Thầy xúc động khẳng định: “Gần 42 năm tôi học tập, trưởng thành công tác tại trường đã đúc kết một niềm tự hào. Đó là phong cách của thầy trò trong giảng dạy học tập rất rõ nét Trần Phú. Đó là mối quan hệ giữa nhà trường với cuộc sống hào hùng của quê hương”.
Khi chúng tôi thực hiện ký sự này đã có vinh dự được gặp lại thầy giáo lão thành Nguyễn Trọng Chân, người đã từng là hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Thái Học (tiền thân là trường THPT Trần Phú bây giờ).
Thầy né tránh chuyện của bản thân, nhắc lại lời Giáo sư Nhà giáo nhân dân Hoàng Thiếu Sơn, nguyên là giáo viên của trường thời 9 năm: “Ông Chân có lên Vĩnh Yên, nhớ nhắc các ông lãnh đạo trường Trần Phú hôm nay có lập phòng truyền thống 50 năm xây dựng trường thì nhớ lưu ý thời kỳ 9 năm kháng chiến nhé! Thầy trò ngày ấy lần lượt ra đi, bản thân tôi ở tuổi xưa nay hiếm đi lại khó khăn. Kỷ niệm tuổi trẻ vào nghề dạy học ở Vĩnh Phúc làm sao quên được hả ông?”.
Thưa các thầy và các anh chị của trường Nguyễn Thái Học đặt nền móng cho trường Phổ thông trung học Trần Phú hôm nay. Thế hệ hôm nay làm sao quên được ngày xưa, kỷ niệm mãi vẹn nguyên trong lòng tuổi trẻ.
Quên làm sao được hình ảnh Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên (1908-1975) đi xe đạp từ khu IV ra thăm trường ngày ấy. Bữa cơm đón Bộ trưởng chỉ có trứng rán trên lá chuối, canh lá sắn và gạo đỏ. Quên sao được lời dặn dò của Bộ trưởng với thầy giáo và các học sinh lớp đệ tam đệ tứ của trường năm xưa.
Chúng tôi cũng quên làm sao được lời cụ bà Chánh Tuyến tiễn các thầy giáo, học trò về thăm nhà cụ là cơ sở của trường năm xưa: “Năm 1951, các thầy giáo đã đem tặng nhà tôi một cây dừa. Năm nay dừa sai quả, tôi xin tặng các thầy 40 quả dừa kỷ niệm 40 năm ngày thành lập trường. Xin các thầy nhận cho, đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn”.
Một mái trường đi qua nửa thế kỷ. Niềm vui của thầy trò và nhân dân vào ngày 11-1-1997 như được nhân lên gấp bội khi mà trường Nguyễn Thái Học – phổ thông trung học Trần Phú vừa làm lễ kỷ niệm 50 năm ra đời và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất.
Vinh quang và trách nhiệm khẳng định niềm tin của chúng tôi ở nơi có những thầy cô giáo đã sống hết mình vì sự nghiệp giáo dục.
NHÀ MÁY TÂY Ở LÀNG TA
Tròn ba mươi năm, tôi chưa có dịp trở lại Phúc Thắng (Thị xã Phúc Yên). Nhiều kỷ niệm riêng tư khiến tôi cứ phải hình dung diện mạo của làng ngày ấy. Tiếng chuông nhà thờ ở thôn Đại Phùng ngân vang. Tiếng còi tàu hỏa báo hiệu vào ga Phúc Yên lay động cả làng Xuân Mai, Xuân Phương…
Con đường quốc lộ 2 chạy qua xã Phúc Thắng dài hơn một cây số. Mỗi tuần, ít ra hai lần tôi ngược xuôi ở đoạn đường này. Ở đây giờ đã sừng sững mọc lên nhà máy sản xuất xe Toyota Honda liên doanh với Nhật. Cách đây gần một năm, tôi được nghe ông chủ quán cóc bán cháo lòng ở gần Cầu Xây cũ nổi cơn giận hờn: “Bác biết không, xây cầu mới nắn quốc lộ 2 có độ dài một cây số, công ty cầu đường ở Hà Nội làm ròng rã 4 năm chưa xong. Riêng khoản tiền đền bù đất canh tác cho dân, lèm nhèm vòng vo tam quốc. Mạnh vì cơ chế, bạo vì đôla, đúng thật. Các nhà máy Toyota, Honda của “Tây da vàng”, tốc độ thi công nhanh đến chóng mặt”.
Để cắt 41 héc ta ruộng lòng đỏ trứng gà ở xã Phúc Thắng vào việc làm nhà máy, nghe nói cũng phức tạp lắm. Tôi đảo mắt nhìn vào hai nhà máy. Những chiếc xe của hãng Toyota bóng lộn ở bãi tập kết. Nhà máy Honda, xe đờ - rim chừng để trong kho. Tôi vẫn nhận ra một vóc dáng nghèo của đồng ruộng Phúc Thắng hôm nay. Những trà lúa muộn đang thu hoạch. Cây vụ đông ở đây vẫn là khoai lang, ngô đồng. Nhiều diện tích còn bỏ không chờ cấy lúa chiêm xuân vụ tới. Tôi thèm khát bông hồng nhung Đà Lạt, cúc vàng Đài Loan sinh trưởng trên đất này. Tuyệt nhiên không thấy. Điều thay đổi cơ bản ở Phúc Thắng, là bốn công trình điện - đường - trường - trạm đã khang trang, tôn thêm vẻ đẹp của làng, của đồng ruộng.
Người trực tiếp làm việc với tôi là ông Phùng Quang Định, quyền trưởng công an xã, người nhỏ thó, cương nghị và hơi lạnh. Tôi thấy e ngại trong tiếp xúc. Đọc được điều e ngại đó, ông Định lên tiếng: “Đồng chí Bí thư hiện đang nghỉ ốm. Đồng chí Phó Chủ tịch, đã có kế hoạch trước, chiều nay tiếp dân về chuyện đất cát. Anh Đinh Quang Tuyến, nguyên Chủ tịch của xã vừa ra tòa vào ngày hôm qua 10-4-1998. Tình hình bộ máy của xã có khó khăn về nhân sự. Ông Khoát, Phó Chủ tịch huyện giới thiệu anh về làm việc, là chúng tôi yên tâm”.
Xã Phúc Thắng có 8.828 người, bình quân một khẩu chỉ đạt 8, 5 thước đất ruộng, quy ra 201 mét vuông. Hệ số quay vòng của đất trong một năm là 2, 8 lần. Bình quân lương thực quy ra thóc đạt xấp xỉ 300 kg/khẩu/năm. “Nông vi bản” vẫn xem cây lúa, cây ngô, cây khoai lang trụ cột. Thủ công nghiệp - dịch vụ mới có 5 máy xay xát, 4 lò gạch, 32 đầu công nông máy “dọc, ngang”. Một bộ phận chạy chợ, quán ăn; 30 người chạy xe ôm. Bình quân thu nhật tất tần tật mọi thức đạt khoảng 150USD/ người/ năm. Toàn xã hiện có 10% hộ nghèo, 3% hộ khá giả, nhìn toàn cảnh mức sống thì có thể ví “nước nổi, bèo nổi”.
- Như thông tin anh vừa cung cấp, Phúc Thắng đã làm tốt 4 công trình dùng chung. So với mức thu nhập hiện nay e dân đóng góp quá tải?
- Có đâu anh! Chuyển nhượng đất đợt I cho liên doanh nước ngoài ở đây đã cắt 41 héc ta. Giá quy định người dân nhường đất tính theo đơn vị là 360m2. Hạng một: 11.600. 000 đồng, hạng hai: 9.700.000 đồng, hạng ba: 9.600.000 đồng. Ngoài số tiền trên trả cho dân, tỉnh đầu tư về 6 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng. Ông Tuyến lãnh án 20 năm tù giam vì lý do đã bỏ túi riêng 500 triệu đồng ở trong khoản 6 tỷ!
- Ngoài khoản đền bù đất, tác động của các nhà máy trực tiếp đến xã có ưu tiên mặt nào?
- Có đấy, nhưng cũng lắm nẻo vòng vo.
Giọng ông Định kể góc cạnh, tận tường để người nghe kịp ghi chép.
Nghe nói, một ô tô xuất xưởng, tỉnh Vĩnh Phúc được 10 triệu đồng; một đờ-rim xuất xưởng, tỉnh được bao nhiêu chúng tôi chưa rõ.
Lòng hảo tâm của các nhà máy với địa phương, họ tính đếm lắm. Nhà máy Takachi đệm mút Hon-đa hỗ trợ 4 bộ máy vi tính cho trường học. Nhà máy Toyota ủng hộ 3 người diện chính sách của địa phương theo định suất 100.000 đồng/ người/ tháng, ủng hộ tiền an ninh địa phương 100.000 đồng/ tháng. Xã Phúc Thắng hiện nay có 63 người vào làm ở hai nhà máy, lương bình quân mỗi tháng 800.000 đồng, nghĩa là gia đình người đó có ăn có để. Mỗi tháng các công nhân người của xã lĩnh về khoản tiền 50 triệu đồng, con số đó lớn lắm!
- Ô nhiễm công nghiệp đã xuất hiện ở đây chưa?
Tôi hỏi:
- Ô nhiễm này phải xét ở nhiều góc độ - Ông Định trả lời - Phần nào của “Tây da vàng” gây ra, phần nào của ta nảy sinh.
Ngọn gió heo may lùa vào mùi asêtôn đến khó chịu. Ông Định cho biết, hàng ngày học sinh của hai trường học, nhân dân và cán bộ xã đều phải ngửi mùi asêtôn từ nước sơn của hãng Honda. Nỗi lo xa hơn, công nhân đã nghỉ việc từng bộ phận. Cả hai nhà máy, công nhân mới làm thao tác lắp ráp hệ CKD. Đến bao giờ mới nhập công nghệ sản xuất linh kiện? Ô nhiễm phía ta gây nên, xem ra nặng nề; năm 1997, trong xã có 11 người nghiện hút. Có ngày có thêm 20 đối tượng nghiện hút từ nơi khác đến hoạt động. Ở đây đã phát hiện ra hai chủ chứa gái mại dâm. Gái hành nghề từ Lào Cai, Phú Thọ, Tuyên Quang về. Xã nhà đã mất đứt 3 cán bộ vì tham ô tiền từ đất. Một thanh niên liên quan đến vụ án công nhân nhà máy Honda ăn cắp linh kiện. Tòa án huyện Mê Linh đã xử.
Ông Định thắt nút câu chuyện:
- Nỗi lo nhất là tiền đền bù đất. Một bộ phận nông dân không còn ruộng đang đứng trước ngưỡng cửa bần cùng hóa. Sắp tới lại cắt 50 héc ta đất đợt II. Phức tạp lắm. Câu chuyện ta tạm dừng ở đây. Anh nên xuống cơ sở, thực tế sẽ vỡ ra nhiều điều lý thú.
Đợt I, ở Phúc Thắng có 800 hộ nhường đất. Tính riêng ở khu 6 có 226 hộ thì tất cả đều nhường đất. Toàn xã hiện nay có 12 hộ không còn một thước đất để làm ruộng. Đồng tiền giao đất đợt trước, người già cả, người ít năng động thì gửi vào Ngân hàng để dễ bề an tâm. Song lãi suất gửi từ 1.6% tụt xuống 0.6% âm ỉ nỗi lo. So với giá thóc gạo, lại thấy vơi hụt đồng vốn. Một nồi thóc năm 1997 di động từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng. Cũng nồi thóc ấy, vào mùa gặt năm 1998 đã lên tới 90.000 đồng - 100.000 đồng. Từ đồng tiền bán đất, một số đua nhau sắm ti - vi, sửa sang nhà cửa trong khi tư liệu sản xuất còn nghèo nàn… Ông Định khẳng định, ở Phúc Thắng chưa có một hộ nào gọi là làm ăn khởi sắc trong chuyển dịch cây con. Có người thử nghiệm trồng hoa, nuôi chim cút, gà tăng trọng. Nhưng các hộ ấy đều bất lực; họ thèm khát cảnh gặp trên đường quốc lộ 2 hằng ngày diễn ra. Đó là xe chở hoa, chở gà về xuôi lên ngược của các địa phương ở ngay trong huyện đâu phải xa xôi.
Cái lẽ đời về đất cát, ông Đỗ Văn Ngạn, 70 tuổi, cán bộ nghỉ hưu ở Xuân Mai nói ra nghe có lý có tình. Có những hộ nông dân từ đời cha chuyển sang đời con, cháu, đất là thứ bất động sản vô giá đối với họ. Nhường đất đợt II này, ở Phúc Thắng con số lên đến 50 héc ta. Vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho tỉnh cho huyện, bà con thông chủ trương. Cái mắc hiện nay là giá đền bù thấp hơn trước. Cùng trên đồng đất, lý do nào đền bù lần này một sào dự kiến giảm từ một triệu đến 1.5 triệu đồng? Hẳn bác đã biết, hiện nay giá thóc gạo tăng mà đồng tiền thì mất giá dần!
Tôi “nắn gân” ông bằng mấy “đường quyền” quen thuộc: Giá trị kinh tế để làm ra của cải trên một sào đất ở đây, cũng bằng tiền đền bù tính theo từng năm đã được Nhà nước trả trước trọn gói là 15 năm! Điều thứ hai, theo Nghị quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh, thì chỉ sau 15 năm nữa bà con lại được tham gia nhận ruộng!
Giọng ông Ngạn có vẻ tăng ga: “Điều anh nói, chúng tôi còn nắm rõ đến tận củ tỷ! Đất giao cho các nhà máy là 50 năm, chấm dứt trọn vẹn một cuộc đời thạo đường “cày vét”, 15 năm nữa lại chia lại ruộng, nhưng cái khó là lấy đất ở đâu ra? Đến năm 2010, dân số xã này, dù có kế hoạch cai đẻ triệt để cũng phải đạt tới 12.000 người. Chia lại ruộng, mỗi người may mắn chỉ được 5 thước! Người bị giả bớt ruộng e sẽ kém vui. Người nhận ruộng về, cũng áy náy tình làng nghĩa xóm”.
- Vậy điều kiến nghị của ông, của bà con ở đợt nhượng đất lần hai này nằm trong khúc mắc giá cả hay sao?
Ông Ngạn điềm tĩnh, khúc chiết lẽ lời:
- Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp, các cụ thường dạy. Người nông dân, họ cần sòng phẳng, công bằng trong đối xử. Đồng tiền đền bù đất chưa tương xứng, dù là một đồng thì họ cũng không thuận lòng. Gần mười năm vào “khoán 10”, chất “men” kích thích đã rõ ràng. Giờ lại nhường đất để đón công nghiệp về làng. Các liên doanh nước ngoài. Nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện hãy định hướng cho nông dân ở đây thấy rõ sự ưu việt khi chung sống với công nghiệp! Điều lo xa ở người già cả như tôi, là trong mảnh đất chật chội, không nuôi nổi cái dạ dày khó tính thời buổi nay, túng quẫn, có người sẽ mắc vào bẫy làm ăn phi pháp!” Ông Ngạn nêu tiếp một luận điểm còn tươi rói tính thời sự: “Báo chí tôi được xem, trong cơ cấu GDP hiện nay, nông nghiệp chiếm tới 26%. Trong khi đó, vốn đầu tư cho nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, thủy lợi) chỉ chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội”.
Đầu tư vào nông nghiệp ở xã Phúc Thắng, ngoài 6 tỷ bán đất để dùng chung đã có gì mới thêm nào? Thủy lợi phí, tiền điện, phân bón, thuốc trừ sâu? Thì cứ trượt giá. Tiền lúa, nhích lên một tý, thì giới ăn lương đã kêu oai oái. Cái cần của chúng tôi hôm nay, từ bình quân 8. 5 thước đất làm sao xoay sở để đạt 180 USD/người, bằng mức chung của tỉnh Vĩnh Phúc.
Công bằng mà nói, 63 hộ có người nhà vào làm ở liên doanh, cuộc sống đỡ khó khăn. Cô Hạnh từng đi lao động ở nước ngoài, về nước thất nghiệp, xin vào làm liên doanh. Gia đình cô Hạnh khá giả vì lẽ có chồng hiện đang ở nước ngoài nhà lại chỉ có một con.
Ông Giá, có con làm ở liên doanh tâm sự cùng khách lạ: “Bác thông cảm, cho con vào làm công nhân cũng vất vả. Lương của cháu mỗi tháng được 800.000 đồng và một bữa ăn ca. Đồng lương của cháu đưa trọn gói về nhà, để bù sự hao hụt lo chạy trước đây và đầu tư cho sản xuất hiện tại”. Ông thông báo, công nhân cư trú trong xã là 300 người. Tiền thuê nhà ở, một người là 50.000 đồng/tháng, công ăn cơm nhà chủ nấu một bữa là 4.000 đồng. Nhiều gia đình ở gần nhà máy làm dịch vụ, nên cũng có đồng để tiêu.
Ông Giá nhìn ra hướng hai nhà máy trong nỗi lo toan. Đất khu vực nhà máy quản còn để hoang gần 50% diện tích mấy năm nay. Ở đây mới dừng lại ở khâu lắp ráp, chứ chưa xuất chi tiết máy. Toyota sản xuất cầm chừng. Honda thì sao đây? Tôi chỉ tiếc, người ta mua đất thì bỏ hoang. Dân ta thì thèm khát đất canh tác. Anh con trai của ông Giá có nỗi lo riêng: “Chúng cháu như cái máy lắp ráp theo dây chuyền. Muốn hiểu kỹ thêm nghề nghiệp cũng khó khăn. Sau này không may thất nghiệp, về nhà chữa xe máy chưa hẳn đã xong!”.
Tôi đi dọc theo trục đường quốc lộ 2 đoạn qua Phúc Thắng. Các quán nhỏ bên đường xem ra cũng tàn tạ, vài chai nước khoáng, bia chai, thuốc du lịch, cháo lòng, cơm phở bình dân.
Chị T. chủ quán cho hay: Các quan chức có máu mặt thì sinh hoạt ở Hà Nội là chủ yếu. Khách đến mua xe thì vù lên Phúc Yên hay về xuôi. Công nhân vào quán chủ yếu mua điếu thuốc, uống chén nước. Chị mở tôi xem cuốn sổ ghi tên người cắm nợ, cũng dài dài.
- Nghe nói trước đây, ở Phúc Yên có một số tư nhân làm khách sạn mini để “đón long” các ông chủ, sếp to, sếp nhỏ đến thuê nhà ở?
- Có đấy, nhưng các chủ hàng đều méo mặt: “Tây châu Á”, “kẹt” hơn các sếp của mình!
Nỗi khó khăn, lo toan ở Phúc Thắng, đang chia đều trên hai vai nông dân và công nhân.
Bài viết đã dài. Điều hiến kế mới của Phó Chủ tịch thị xã Phúc Yên – ông Nguyễn Trọng Khoát gợi ý cho tôi cứ nảy lên trong đầu khi đi trên đường làng.
Phúc Thắng đã nhường gần 30% đất canh tác để làm công nghiệp. Tiền đầu tư cho nông nghiệp bước đầu đã tạo ra 4 công trình: điện - đường - trường - trạm bề thế, nên xã Phúc Thắng vùng Mê Linh đã có 63 hộ, chỉ chiếm 3% số hộ toàn xã có người được vào làm ở nhà máy. Đồng tiền từ quỹ đất bán ra chưa đủ sức nẩy nở, thôi thúc theo từng mùa vụ phát triển. Để tăng nội lực kinh tế cho nông dân ư? Hay công việc này ta cứ mượn câu nói của người xưa “đói đầu gối phải bò”?
Ở vùng đất giao lưu thuận lợi, thương mại có điều kiện phát triển; tôi thèm khát có “vua” hoa, “vua” gà, “vua” hoa quả và “vua”  lúa đặc sản nữa! Có làm được như vậy, thì xiềng xích “8 thước” mới không níu chân bước đi.
Ý nghĩ tôi đang miên man, bồng bềnh chợt tiếng xe ôm đua nhau nổ máy. Họ lao về phía đường tàu cắt ngang quốc lộ 2, nơi có hành khách đang xuống xe ô tô. Tiếng bà bán quán nghe chát chúa “Mật ít ruồi nhiều, đến thằng xe ôm cũng phải đua chen vất vả”.
Giọng bà chủ quán cứ day dứt tôi bao nỗi băn khoăn. Tôi chợt nhớ ra, có một ông cán bộ trưởng thành từ thực tế cuộc sống sôi động trên chính quê hương “khoán hộ” đã tâm sự: “Người Việt Nam đã nhập tiếng quốc ngữ từ người nước ngoài. Ấy vậy, từ vốn liếng hiếm hoi, ta đã làm giàu cho kho tàng tiếng Việt đến chừng nào. Ước chi sự đầu tư vốn của nước ngoài vào nước ta cũng mang lại sự giàu có cho đất nước”. Muốn vậy, theo chính ông ấy nói, yếu tố nội lực rất quan trọng. Ta có đất, ta có nhân lực dồi dào, năng động, thông minh đó là điều thuận lợi cơ bản!
Ông trấn an tôi vậy. Nhưng hai sân gold đặt ở Vĩnh Phúc tưởng chừng chắc ăn 100% thì nay đã tuột khỏi tầm tay. Và gần đây thôi, hãng Mê Kông sản xuất ô tô liên doanh với nước ngoài đã đóng cửa. Tôi nhìn về phía 2 nhà máy, cầu mong cho sự bình an trong xu thế làm ăn khó khăn của khu vực và ở nước ta. Nỗi lo của tôi chừng dịu đi phần nào trong màu vàng của thu đang trùm lên đồng ruộng có những anh công nhân đội mũ nhựa đang giúp người nhà thu hoạch lúa.
Tiếng còi tàu rời ga Phúc Yên về Hà Nội vọng lên cắt dòng suy nghĩ. Ngước lên trời tôi chợt gặp ánh sao Hôm lẫn vào màu điện cao áp sáng bừng.

AI LÊN MƯỜNG XÉN CỬA RÀO
Tôi có một tuổi thơ gắn với bến Lường, tên riêng của Sông Lam, khi dòng chảy có hình lưỡi liềm qua địa đất thị trấn Đô Lương. Sóng Sông Lam, cộng hưởng những ký ức mát trong. Trưa hè, gió Lào phả lửa nóng, chúng tôi ra bến sông có 39 bậc đá xanh rêu, xem trai gái lặn hụp, cào hến. Tôi cũng đã từng níu vào tay mẹ, xuống nốc đại xuôi sông Lam về đến bến đò Cung; lại ngược sông Giăng hai bờ giàn nhót chín vàng để thăm quê ngoại.
Còn một sông Lam huyền bí, dữ tợn, ướt sũng màu rêu phong, “chảy qua” bờ rào cây mạn tàu trước mái nhà tứ trụ của cha mẹ tôi.
Nhà người bạn cận lân chung bóng mạn tàu, gốc gác quê miền duyên hải Nghệ An. Dòng họ Trần Văn độc thân ở chốn đất khách quê người. Ông Trần Văn P. làm nghề đứng mũi chịu sào con nốc(*) lớn, cho phường buôn ở Đô Lương mỗi tháng ngược Mường Xén, Cửa Rào hai lần.
Tôi còn nhớ rõ, có lần từ nhà ông P, vọng sang, tiếng đập bát chan chát, vợ ông khóc lu loa. Chờ dứt cơn nghiện của ông P, cha tôi sang chơi lựa lời:
- Ngược sông nước non hiểm trở, kiếm được đồng tiền sao không “bỏ ống” để phòng xa.
 Ông P. cho biết, cầm con sào vượt ghềnh thác dòng Nậm Mộ, Nậm Nón thượng nguồn sông Lam căng thẳng thần kinh. Có hơi thuốc người tỉnh táo, tránh được cái chết của thủy thần luôn rình rập.
Còn một lý do khác, ông cùng vợ giấu kín con cái, ví như xái thuốc phiện được bọc kín trong lá chuối già vào đáy hòm gỗ khóa kỹ.
- Trên ấy thuốc rẻ, ông chỉ được hút vào lúc canh khuya đủ tỉnh táo chống lại gái dân tộc họ “chài”. Ông nghiện hút, vợ con cũng đành chấp nhận cảnh cháo rau. Ông mặc bệnh lậu, tôi khổ thay, không đẻ được mụn con trai thì dòng họ Trần ở đây sẽ tiệt giống.
“Thuận vợ thuận chồng” nhưng nỗi đau dồn nén. Quả đúng vợ ông đã đẻ được 4 con trai. Bản thân ông nghiện ngập, lây cơn sốt rừng. Mới ngoài bốn mươi tuổi, bàn tay ông đã run rẩy, đành gác sào chống lên mái gianh, giã từ một thời vẫy vùng hơn 200 ghềnh thác lớn nhỏ trên dòng sông Lam nối Lào với biển Đông. .
Tôi cũng thường nghe ông ngâm nga để tự sám hối mình, răn đe con cái lúc đã đến tuổi lưng dài vai rộng; “Ai lên Mường Xén Cửa Rào/ Không nghiện thuốc phiện lao đao sốt rừng”.
Cuối tháng 5-1996, lúc tôi đã sang tuổi ngũ tuần, lần đầu tiên mới có dịp lên Mường Xén, Cửa Rào. Quốc lộ 7, sông Lam mạn thượng nguồn, hình như cùng chơi trò tìm bắt sau những dãy núi non biệt cách mồ côi hình khe, thế núi hiểm trở.
 Ngồi trong chiếc xe đắt tiền có điều hòa, cát-sét nhưng người luôn bị xốc nảy bởi con đường ổ trâu và những tên gọi nghe ngồ ngộ: Dốc Chó, Khe Choang, Khe Bố, Canh Tháp, Khe Tiền…
Ngồi cạnh tôi là bạn thơ trẻ Nguyễn Đình Anh phụ trách môn Văn cấp II của Sở Giáo duc- Đào tạo. Anh ghé tai tôi nói nhỏ:
- Anh đi viết cho giáo dục là yêu cầu số một ở đợt này. Có một điều, lãnh địa nơi ta sẽ đến là thủ phủ của thuốc phiện ở Nghệ An và không ngoa chiếm vị trí độc đáo của cả nước. Nhà báo làm một bài về “87”, phê phán nạn nghiện hút.
Tôi ghé tai anh đề đạt nỗi băn khoăn, đề tài ấy bản thân đã in trên báo Trung ương 3 bài. Tôi nâng âm điệu nhằm tìm sự đồng tình của người trong đoàn:
- Kỳ Sơn, Tương Dương có biện pháp “đào tận gốc, trốc tận rễ” nội ngoại nàng tiên nâu tốt, thì dứt khoát trong chuyến đi này tôi sẽ cố gắng “đẻ non đẻ già” một bài.
Phó Tiến sĩ Lê Văn Phớt, Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo Nghệ An, ngoảnh lại phía sau lên tiếng:
- “Gốc, rễ” nhà báo nêu ra, theo tôi biết chưa loại hết cây thuốc phiện giữa đời thường đâu. Cái bụng người H.Mông, người Kơ Đú ở miền Tây Nghệ An dứt cây thuốc phiện hay lắm. Tôi sẽ cung cấp với anh vài thông tin khi kết thúc chuyến đi thực tế về giáo dục mà trọng tâm đề tài là cấy cái chữ vào các bản xa,
Điều úp mở của thày Phớt tôi đành chấp nhận bởi lẽ đời đã dạy “ăn cây nào thì rào cây ấy”
Công việc thâm nhập thực tế nhà trường căng đều trong 5 ngày ở các huyện miền núi  dọc quốc lộ 7. Tôi tranh thủ làm việc với chính quyền hai huyện Tương Dương, Kỳ Sơn về số phận, nạn nhân của cây thuốc phiện đem lại.
Như điều đã khẳng định với thày Anh. Tư liệu về diện tích cây thuốc phiện, số con nghiện, biện pháp chữa chạy chỉ là thứ “lãi suất” ngân hàng để tôi tham khảo có dịp so sánh hiện tại với quá khứ và tính chuyện thời tương lai.
Trưởng phòng Văn hóa thể thao Lô Văn Chiến cung cấp tư liệu về mối liên quan nội ngoại nàng tiên nâu của huyện Tương Dương. Vùng trồng cây “anh túc” chủ yếu là người H. Mông ở Tam Hợp, Mai Sơn. Nhân Mai… Diện tích ngày xưa nhiều lắm, nay theo số liệu báo cáo cũng phải đến gần 300 ha. Số người nghiện hút điều tra đến tận bản, Nga Mỹ có 113 người nghiện, 17 xã đã báo cáo 286 người nghiện. Toàn huyện có chung biên giới với nước bạn Lào, phần địa đất cũng núi non và trồng nhiều cây thuốc phiện.
Giọng Chiến sắc sảo có định hướng tầm chiến lược.
Toàn huyện, con số hẳn còn thấp theo anh nói là 515 người, trẻ nhất là 28 tuổi, đối tượng chủ yếu là người già. Tệ nạn từ hơi thuốc dẫn đến vợ chồng bỏ nhau trộm cắp cờ bạc và không loại trừ chuyện chém giết,
Phó Chủ tịch xã Kha Thị Hoan băn khoăn đề đạt : Cây thuốc phiện đã chặt, nhưng trồng cây gì để đem lại hiệu quả thì Tương Dương đang lâm vào cảnh “múa tay trong bị”. Nuôi con dê, con bò… hiện chịu cảnh cheo leo vách đá nhưng đã thay được cảnh cây thuốc phiện. Chính sách đối với người cai nghiện đã làm nhưng còn quá ít ỏi ví như muối i-ốt chở từ miền xuôi lên pha vào dòng Nậm Na.
Điểm nóng của cây thuốc phiện, về nạn nghiện hút Kỳ Sơn giống như bản thân nó là một trong 9 huyện khó khăn nhất của nước ta hiện nay.
Đồng chí Lô Trung Thành, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Kỳ Sơn khóa 1996 - 2000. Anh còn trẻ lắm, nguyên là Bí thư Tỉnh đoàn thanh niên Nghệ An, hiện nay là đại biểu Quốc hội, thành viên Ban Văn hóa Giáo dục. Anh nói về khó khăn của Kỳ Sơn ở nhiều mặt dẫn đến nằm trong nhóm 9 huyện khổ ải nhất ở nước ta: Núi non hiểm trở, thành phần dân cư chủ yếu là người dân tộc. Nỗi khó khăn Kỳ Sơn phải đương đầu, anh Thành nhấn mạnh: Chống dùng ma túy, trồng cây thuốc phiện ở Kỳ Sơn mang tính quốc tế sâu sắc. Không liên kết tốt với  nước bạn thì nửa cơ thể của Kỳ Sơn, quanh năm bị gió Lào thổi âm khí nặng nề cây thuốc phiện trên đất bạn tiếp sức cho cây thuốc phiện ở đây trổ hoa màu cánh sen.
Kỳ Sơn ngày xưa, nhà nào không có người nghiện hút, khi cứ xuống bậc cầu thang nhà sàn là gặp hoa anh túc.
Những địa danh ẩn hiện trong lửa khói mùa đốt rẫy, cứ thắc thỏm lòng tôi. Mường Tít, Mường Ải, Mường Lống. Mường Xén rồi Ka Đu, Đọc Mạc, Tà Ka… và đâu nữa từng trồng cây thuốc phiện. Tính đến nay toàn huyện còn xấp xỉ 1.500 ha, với trên 2.000 con nghiện, tính bình quân có 7 hộ có 2 con nghiện. Chương trình đầu tư UNDCP có số vốn 3,8 triệu USD mỗi năm phấn đấu giảm 300 ha cây thuốc phiện, vị chi nếu làm tốt công việc này phải đến trọn năm 2000.
Từ Mường Xén, thủ phủ huyện Kỳ Sơn cách xã Mường Lống gần 40 km. Xe u-oát mới coong lăn bánh trên con đường mòn một bên là vách núi dựng, còn một bên là vực sâu thăm thẳm. Đi trên đường như người lên cơn sốt, rùng mình nghiêng ngả, một giờ chạy được 12 km. Phà Đánh, Huối Tụ nương trồng thuốc phiện hiện nay được thay thế cây lúa mộ, ngô bi-ô-xít, cây cánh kiến… Màu hoa anh túc phớt hồng vẫn lẩn khuất tìm nơi trú chân.
Vượt qua cổng trời có độ cao 1.600 mét, khí hậu ngày hè mát mẻ, khiến ta liên tưởng tới Tam Đảo, Sa Pa. Mường Lống vẫn còn cây thuốc phiện cho dù ở đây đã đưa giống mận Tam Hoa lấy từ Bắc Hà, Lào Cai đưa về ba năm nay giờ đã có hiệu quả.
Tôi mua một ký mận của cô gái Mèo áo quần sặc sỡ, giá một cân mận cân đủ lai đủ lạng chỉ có 4.000 đ.
- Người bản mình sao không đưa mận ra Mường Xén để bán? Giá ở đó 7.000 đ/1kg.
Cô gái nhìn tôi vừa ngơ ngác vừa bẽn lẽn
- Cán bộ dưới xuôi mới lên Mường Lống hả. Đi ra Mường Xén xa lắm. Cái xe ôm. Cái ô tô nó lấy tiền của người Mèo đắt lắm. Cán bộ xem. Mận chín đầy nương, không hái kịp biết đổ vào đâu.
Trưởng phòng Giáo dục huyện Kỳ Sơn Trần Xuân Toàn gốc gác là người thành Vinh tính toán chi ly. Một tạ mận đem ra Mường Xén bán được 700.000 đồng. Tiền chuyên chở cả đi lẫn về mất 450.000 đồng. Người dân tộc đành bán câu dầm, chịu ép giá của thương gia. Quả mận Tam Hoa lòng đỏ, ngọt đấy nhưng xem ra có vị chát; ngấm lâu đến lục phủ ngũ tạng.
Trong câu chuyện với Vả Phái Tỉnh - người dân tộc Mường là Bí thư Đảng ủy xã Mường Lống, tôi mờ tỏ thêm về bước trầm luân khi có chủ trương triệt phá cây thuốc phiện. Giọng nói Và Phái Tỉnh sắc lẹm, như con dao để chẻ cây vầu. Trồng lúa ngoại, ngô ngoại ư, hiềm nỗi giống đắt quá và có chịu nổi thời tiết đông lạnh, có ngày tụt xuống 0 độ C.
Anh rung nhẹ cành mận, quả lả tả rơi xuống đất, xuống vực.
- Trồng mận Tam Hoa có hiệu quả kinh tế, Đầu vào thuận lợi nhưng đầu ra…
Thay cho điều cần diễn giải, anh lấy chiếc túi thổ cẩm bỏ vào những quả mận chín nẫu trao cho tôi.
Triệt phá cây thuốc phiện ở Kỳ Sơn có nhiều kẽ hở, khiến nhà nước phải băn khoăn tính toán.
Trong buổi “hỏa thiêu” 300 kg thuộc phiện tổ chức tại Kỳ Sơn, trước sự chứng kiến của nhiều ngành từ cấp tỉnh, huyện, xã, bản. Đồng chí Giám đốc Sở giáo dục - Đào tạo đã hỏi một già làng người H.Mông
- Bản của già làng có gia đình nào còn trồng cây thuốc phiện nữa không?
Già làng giọng nhảy cóc.
- Không trồng để lấy tiền Chính phủ. Có trồng để lấy thuốc hút một phần, bán chín phần để mua muối, quần áo…
Già làng thuộc lớp người ruột để ngoài da. Không trồng cây thuốc phiện, Nhà nước sẽ đầu tư cho 2 triệu đồng vị chi lão có 4 triệu khai trên giấy tờ. Lão làm lén lút chỉ 0.5 sào cây thuốc phiện, khi thu hoạch đem bán chui lủi cũng được 3 triệu đồng. Trồng cây ngô, cây lúa cộng tiền đầu tư một năm đầu cũng chỉ được 2 triệu, lại còn mất tiền giống, tiền thuốc trừ sâu.
- Phương thức làm ăn với Chính phủ có phổ biến ở bản của già làng không?
- Phổ biến là cái gì hả cán bộ. Chỉ biết riêng bản tôi cũng có mươi nóc nhà sàn vừa “không” vừa “có” trồng
Người Khơ Mú xưa nay không tính chuyện trồng cây thuốc phiện. Vậy mà có người vài năm nay cũng trồng cây thuốc phiện. Lý lẽ đơn giản, trồng cây thuốc phiện chăm tươi tốt, đến khai với cán bộ xin vốn đầu tư trồng cây khác. Lấy được vốn, gia đình đem đầu tư cho sinh hoạt
Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, cùng các bộ, ngành liên quan đã về Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông để nghiên cứu về phát triển kinh tế. Điều băn khoăn của Đoàn, cơ sở hạ tầng quá khó khăn, hệ thống điện, đường giải quyết như thế nào. Đại biểu người dân tộc H. Mông đã phát biểu. Đóng góp tiền, dân sẽ lo tại chỗ! Các đại biểu vẻ băn khoăn. Người H. Mông đã nói thẳng điều nghĩ từ cái bụng:
- Cây pơ-mu trên rừng gắn bó với người H. Mông. Chính phủ cứ cho dân khai thác, bán lấy tiền làm đường làm điện. Giao thông đi lại được, quả mận Tam Hoa, lâm sản, lương thực đem bán nơi xa sẽ dôi dư đồng tiền. Không đi lại được, đời sống khó khăn thì cây thuốc phiện dứt bỏ sao được.
- Từ ý nghĩ của người dân, hèn chi từ Mường Xén đến Mường Lống tôi thấy nhiều bãi gỗ và lắm đặc sản thú rừng.   
Tôi lên tiếng:
Và Phái Tỉnh thủng thẳng:
- Nạn khai thác gỗ dưới xuôi lên hoạt động nhiều lắm. Đời sống khổ ngăn làm sao được cảnh du canh du cư.
Anh khoát tay chỉ về dãy núi sau cổng trời. Lửa cháy, tiếng nổ tre vầu tạo nên vòng cung lửa. Đêm ở Mường Lống chừng đến sớm hơn và màu đen huyền bí cũng chừng dày đặc thêm.
Bên vò rượu cần, trên một góc nhà sàn ọp ẹp, già làng Lý Văn Khả, dáng người trông tựa chiếc lá khô đậu vào cần rượu, ánh mắt cụ đùng đục, giọng lắng sâu như như tiếng suối vỗ vào hốc đá:
- Bản bao giờ có điện hả cán bộ. Có cái đài pin, dò sóng chỉ nghe được đài của thiên hạ nói không trúng cái bụng của người làng, Trông lên trời đại ngàn ngày một còm cõi. Trông xuống nương, cây thuốc phiện vẫn có đất sinh sống. Trẻ bản muốn có cái chữ phải trèo đèo lội suối. Dân ở đây chịu cho con đi học, chịu làm lớp học, chịu nuôi thầy cô, mùa rẫy năm nay nhà mới vui tiếng trẻ học.
Cụ tiễn tôi với cái lý  đời cứng như súc gỗ lim.
- Trước đây thầy cúng, thầy mo rồi quan Tây, phìa tạo ngu muội được dân bản bởi họ cấm cái chữ, cấm đường đi lại và khuyến khích trồng cây thuốc phiện. Nhà nước muốn triệt cây thuốc phiện thì phải lo tìm cây gì thay thế chứ. Lo cho con trẻ đọc thông viết thạo. Lo con đường đi lại, lo ánh điện để xua cái tói tăm, con muỗi rừng, làn khói thuốc phiện, Cán bộ thấy có hợp cái bụng già làng nghĩ không nào?
Kết thúc chuyến đi  trở lại Hà Nội. Tôi trao đổi với giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo Lê văn Phớt. Thầy Phớt đồng tình và trúng ý định tâm sự và khẳng định điều nhận xét của các thầy cô cắm bản: - Diện nghiện thuốc phiện ở miền núi không có đối tượng học sinh. Tác động của nhà trường trong việc chống ma túy thời gian qua đã có hiệu quả.
PHÙNG KIM TRỌNG
Thuốc đắng
Tập truyện ngắn đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
HOA HUỆ TRẮNG
Chiều.
Nghĩa trang vắng lặng chỉ có gió và gió mang cái lạnh từ phư­ơng Bắc tràn về, m­ưa rơi nh­ư lắc bột lên những ngôi mộ vẫn im lìm che chở những linh hồn nằm sâu trong lòng đất; những cây cỏ may run rẩy phất phơ, những chú dế mèn vẫn cất lên tiếng khóc ti… ti, ti… ti. Giữa những ngôi mộ cao thấp, trắng xanh, ng­ười ta thấy một ng­ười đàn ông đang quỳ lặng lẽ tr­ước một ngôi mộ vừa đư­ợc cải táng. Bó hoa huệ trắng của anh nằm chênh chếch trên mặt ngôi mộ vẫn trắng lên, trắng lên một màu tinh khiết. Ba nén nhang anh thắp cho ng­ười d­ưới mộ đã lụi tắt từ lúc nào. Anh xoay người chắn gió đốt cả một bó nhang lớn rồi cắm lên mặt ngôi mộ, ngay dư­ới chân bó hoa huệ trắng. Anh chắp tay vái thêm 3 vái nữa rồi quay lại nói với đứa bé gái chừng ba tuổi đang đứng phía sau anh.
- Con lại lạy mẹ đi con!
- Mẹ con nằm đây hả ba? - Con bé tròn xoe mắt nhìn ba hỏi, hai cái bím tóc của nó lắc­ lắc.
- Mẹ ơi! - Con bé kêu lên, đây là tiếng gọi mẹ đầu tiên trong đời của nó. Ba tuổi đầu làm sao nó hiểu đ­ược cái lẽ sống chết ở đời - Mẹ ơi! - Nó lại cất tiếng gọi và oà khóc rồi nằm xoài ra ôm chầm lấy ngôi mộ.
- Nín đi con! - Bố nó ngồi xuống và cố vỗ về con - Nào ngoan nào… Ba đ­ưa con về.
- Ứ… ứ… Con bé giãy nảy lên, ba nó đành phải bế nó đứng lên, nó vẫn không chịu đ­ưa cái bàn tay nhỏ xíu đấm vào ngực ba. - Không! Không, con ở đây với mẹ cơ!
- Con ơi! Ba xin con! - Ng­ười đàn ông bỗng khóc nấc lên. Con bé im bặt. Ba tuổi, thấy ngư­ời lớn khóc nó sợ, nó đư­a cái bàn tay nhỏ xíu lên lau đi những giọt n­ước mắt trên mặt ba nó.
- Ba ơi! Ba nín đi, bà bảo khóc là hư­ đấy.
- Thế sao con lại khóc tr­ước ba?
- Tại con gọi mà mẹ lại không thư­a?
- Mẹ chết rồi, làm sao th­ưa đ­ược hả con?
- Mẹ chết rồi hả ba? Thế ba chôn mẹ ở đây à?
- Ừ! Mẹ chết rồi, chết từ lúc con mới đẻ kia?
- Tại sao mẹ lại chết hả ba?
- Chuyện dài lắm con ạ. Lớn lên rồi con sẽ hiểu.
Con bé im lặng. Nó đang nh­ư cố hiểu những điều ba nó nói. Rồi bằng một cử chỉ ít ai có thể tin đư­ợc là của một đứa bé lên ba. Nó trư­ờn xuống khỏi tay ba nó, b­ước lại phía trước ngôi mộ, đúng vào cái vị trí mà ba nó đã quỳ tr­ước đó. Nó chắp hai bàn tay nhỏ xíu vào tr­ước ngực và cất lời thủ thỉ.
- Mẹ ơi! Mẹ cứ ở đây rồi con sẽ ra chơi với mẹ.
 Gió đột nhiên ngừng thổi, m­ưa ngừng rơi, những cây cỏ may đứng lặng im phẳng phắc. Những chú dế mèn cũng không cất lên cái tiếng khóc nỉ non ti ti, ti ti nữa. Bó nhang đang lay lắt cháy trên mặt ngôi mộ bỗng bùng lên thành một luồng lửa chói lòe. Phải chăng, lời khẩn cầu của nó đã thấu đ­ược tới cõi âm. Huệ ơi! Con em đó. Đứa con mà em sinh ra từ một kẻ chỉ biết sống bằng những m­ưu mô, lừa lọc; đã thế lại có những tâm địa xấu xa ích kỷ và đầu óc hủ bại. Hôm nay anh đư­a con đến viếng em…
Câu chuyện xảy ra từ 13 năm trư­ớc. Duy 25 tuổi còn nàng 20 tuổi. Tổ thăm dò địa chất của anh sau nửa năm trời trèo đèo, lội suối cuối cùng dừng lại trú chân ở Lâm tr­ường bộ của nàng. Đây là một vùng đất giàu khoáng sản cần phải giành nhiều thời gian để nghiên cứu. Bi kịch bắt đầu từ bữa cơm thân mật do Hòe, Phó Giám đốc lâm trường tổ chức. Hôm đó, lão Kiên đoàn Trư­ởng của anh trong một "kịch bản" đã chuẩn bị sẵn, đã gán cho anh cái nhãn hiệu "trai chưa vợ".
- Xin giới thiệu với các bác, anh em chúng tôi ở đây đã có gia đình cả rồi. Chỉ còn có chú Duy là vẫn đang kén, các bác xem ở lâm tr­ường còn cô nào làm mối giúp một cô. Biết đâu, đất lành chim đậu.
- Vậy hả? Vậy thì tốt rồi. Xin giới thiệu lâm trư­ờng tôi đây còn cô Huệ, hoa hậu của lâm trư­ờng, con gái rư­ợu của Giám đốc đấy nhé. - Hòe hất hàm về phía cô gái đang ngồi cạnh Duy lên tiếng.
- Chú cứ nói vậy, chứ cháu xấu như­ ma thế này ai ng­ười ta thèm. - Cô gái bẽn lẽn phản ứng.
- Á! Ghê chư­a, một - không nhé. Anh Duy thế nào? Lại thua à! Thôi đ­ược để tôi làm mối cho, tôi mà làm mối thì cứ gọi là… mối chúa đấy nhé!
Duy cảm thấy khó chịu trư­ớc cử chỉ thân mật và thái độ sốt sắng của gã Phó Giám đốc. Anh khẽ liếc mắt nhìn nàng, nàng đẹp thật. Một vẻ đẹp tự nhiên đầy sức quyến rũ. Nàng có một dáng ng­ười thon thả, nư­ớc da trắng trẻo, gư­ơng mặt trái xoan, đôi mắt lá dăm với tròng con ng­ươi đen láy cũng đang lén nhìn anh. Cả hai đỏ mặt quay đi và cái liếc mắt trao duyên tình tứ ấy có ai ngờ là sợi dây oan nghiệt dẫn đến nấm mồ câm lặng này đây.
Gần một tháng trời cắm chốt ở Lâm tr­ường bộ, chàng kỹ sư­ trẻ trong khi mải mê với việc s­ưu tầm các mẫu quặng đã vô tình trước ánh mắt của ng­ười con gái vẫn dõi theo từng bư­ớc đi, từng giọng nói của chàng. Cho đến một ngày Huệ rủ anh đi chùa cầu lộc. Nàng đặt lên điện thờ một bó hoa huệ trắng rồi chắp tay cung kính vái. Chả hiểu nàng cầu gì mà nét mặt nàng trông thành kính tin t­ưởng. Duy nghĩ thầm trong khi nàng đẩy anh lại tr­ước điện thờ. Cố bắt ch­ước nàng, Duy làm bộ thành kính như­ng đến lúc "khấn" thì anh hoàn toàn bất lực. 25 tuổi đầu, 2 năm trong quân ngũ, 5 năm trên ghế giảng đư­ờng đại học có nơi nào họ dạy anh cách tâm tình với cõi h­ư vô. Anh cố mấp máy môi lấy lệ và vội vã rút lui.
- Anh cầu gì vậy? - Nàng hỏi khi hai ngư­ời đặt chân đến một đoạn đ­ường vắng.
Duy c­ười: Cầu mong em mãi là em
Cầu mong trái ngọt cành lành v­ườn yêu.
Khi anh vừa dứt lời đọc hai câu thơ đó thì nàng quay sang ôm chầm lấy anh. Đôi môi chín đỏ hình tim của nàng gắn chặt lấy môi anh…
… Đêm trung thu dìu dịu thoang thoảng h­ương rừng, chị Hằng Nga e thẹn giấu mình sau những tán lá bạch đàn đang rì rào xao động như­ lời tỏ tình của những đôi uyên ­ương hạnh phúc. Duy nằm dài trên thảm cỏ. Đâu đó trong không trung bỗng vang lên tiếng kêu khắc khoải của con chim quy gọi bạn. Tiếng chim quy làm cho anh cảm thấy nao lòng, anh chợt cảm thấy tiếc đã bỏ lỡ mất một cơ hội để có thể gần gũi nàng thêm chút nữa. Lòng anh bồi hồi nhớ lại đôi mắt hờn dỗi của nàng chiều nay khi nàng tới nhờ anh đi gác cùng nàng. Anh hiểu, những ngư­ời ở lâm tr­ường đang tạo cơ hội để cho hai ngư­ời có thể tâm sự trư­ớc lúc chia tay. Nh­ưng anh đâu có phải là "trai chư­a vợ" như­  lời giới thiệu của Kiên hôm nào, và anh hiểu sự nguy hiểm của ca gác đêm nay. Anh là đàn ông chứ có phải gỗ đá đâu? Chỉ có điều tâm hồn anh vốn chân thật, anh chư­a lừa dối ai và càng không có ý định lừa dối nàng để kiếm lấy một chút thú vui tình ái. Anh đã nói cho nàng biết là anh đã có vợ,  quan hệ giữa hai người chỉ nên dừng lại ở tình bạn. Như­ng nàng lại không tin và cho rằng anh thử nàng.
- Anh em chúng tôi ở đây đều đã có gia đình cả rồi, chỉ có chú Duy là đang kén…
Khổ thế! Lời nói dối của kẻ có chức, có quyền lại dễ làm cho con người ta tin hơn là những tấm lòng chân thật. Duy nhắm mắt mơ màng thả tâm hồn về với làng Đồng Lương ven con sông Hồng quanh năm ngầu đục. Anh thấy mình đang thong thả bư­ớc trên bờ cát mịn, bên cạnh một cô bạn học thủa học trò. Lan của anh đó, cô vợ trẻ mà anh hết lòng yêu quý. Lan không có đ­ược vẻ đẹp rực rỡ, bốc lửa như­ Huệ nh­ưng có sự dịu dàng, đằm thắm mà chỉ những ng­ười con gái quê anh mới có…
Tiếng chim quy gọi bạn vẫn khắc khoải trong đêm, Duy xoay ng­ười nằm nghiêng nh­ư muốn tránh cái g­ương mặt rực rỡ của chị Hằng Nga. Anh nghe thấy tiếng lá bạch đàn ép lại xào xạc, xào xạc d­ưới l­ưng. Và đâu đó trong làn gió đêm nhè nhẹ anh bắt gặp mùi hư­ơng thơm thoang thoảng, không phải h­ương rừng mà đó là mùi dìu dịu của hương bồ kết, hư­ơng chanh. Anh từ  từ mở mắt, không ngạc nhiên khi thấy Huệ đã đến với anh. Đôi mắt Duy gần như­ lực chặt vào làn da mịn màng nơi ngực nàng. Không hiểu do vô tình hay cố ý mà cúc áo ngực của nàng đã tuột ra. Gần nh­ư vô thức, Duy vòng tay ôm chặt lấy tấm thân mềm mại của nàng và kéo nàng nằm xuống. Anh gối đầu lên bộ ngực thần vệ nữ của nàng, lắng nghe nhịp đập của trái tim nàng. Anh hôn lên môi, lên cổ và lên hai bầu vú tròn trĩnh nõn nà của nàng. Đôi mắt anh thỏa sức chiêm ngư­ỡng cái tấm thân trần tuyệt mỹ của nàng đang dần dần hiện ra lồ lộ d­ưới ánh trăng. Những đợt sóng  tình cứ thi nhau trào dâng, trào dâng như­ sóng biển. Có lẽ, sẽ không gì có thể ngăn cản anh lại nữa nếu nh­ư nàng không làm một cử chỉ như­ cưỡng lại ham muốn đi đến tận cùng của anh.
- Khoan hẵng, anh yêu. - Nàng nói, đôi mắt lóng lánh đong đầy ánh trăng.
- Sao vậy?
- Nói yêu em đi hẵng.
- Hả? - Duy sững ng­ười như­ va phải một bức t­ường thành kiên cố. Ngọn lửa dục tình đang ngùn ngụt cháy ở trong anh đột nhiên tắt ngấm như­ bị cả một tảng băng lớn dội vào. Con ngư­ời lý trí ở trong anh bừng tỉnh lên tiếng phản đối mãnh liệt. Dừng lại ngay nếu không ngay đêm nay thôi mày sẽ giết chết tình yêu của nàng. Duy nằm vật xuống bên nàng thở dốc - Tha lỗi cho anh. Trái tim anh đã thuộc về ng­ười phụ nữ khác mất rồi.
- Trời! - Nàng kêu lên, Duy nghe rõ tiếng rạn vỡ khô khốc của con tim trong lồng ngực nàng. Anh hối hận vừa mặc lại quần áo vừa len lén nhìn nàng. Anh cứ t­ưởng rằng nàng sẽ khóc nấc lên, sẽ phẫn nộ gào thét. Nh­ưng không, nàng chỉ nuốt khan liền mấy cái, hai con mắt nàng mở to trân trân nhìn anh. Duy cảm thấy lúng túng, anh định làm một cử chỉ để an ủi nàng vừa lúc ấy thì một ánh đèn pin sáng loáng lên.
- Bắt quả tang chúng nó đây rồi! - Một giọng đàn ông cất lên, ánh đèn pin chiếu thẳng vào nàng, Duy cảm thấy anh bị xúc phạm. Trong khi nàng vẫn lặng im như­ hóa đá từ lâu rồi.
- Tắt đèn đi. - Không hiểu Duy đã gầm lên, hay thét lên câu đó. Nh­ưng kẻ phá đám có lẽ cũng đang ngơ ngẩn khi chiêm ngư­ỡng tấm thân tuyệt mỹ của nàng. Máu nóng bốc lên, Duy bật ng­ười dậy như­ một cái lò xo và cú đá của anh làm cho cánh tay cầm đèn của gã như­ văng đi mất.
- Trói cổ nó lại! - Gã cầm đèn quát lên. Đến bây giờ thì Duy đã hiểu ra rằng anh đã sa vào bẫy, ba gã đàn ông như­ từ dư­ới đất chui lên đang đứng vây quanh hai ngư­ời. Một gã nhào lại ôm chầm lấy anh, Duy chùng ngư­ời xuống thúc mạnh cùi trỏ tay vào ngực làm gã văng vào đống gỗ kêu oai oái.
- Tao nói tr­ước, thằng nào động vào tao, tao vặn cổ - Duy cảnh cáo hai gã còn lại rồi cúi xuống mặc lại quần áo cho nàng.
- Mời anh chị về phòng th­ường trực. - Một gã nói.
- Chúng mày là ai? - Duy hỏi.
- Chúng tôi là tổ bảo vệ của lâm tr­ường, đi tuần tra bắt gặp quả tang anh chị đang…
- Thì đi - Duy đáp và dìu nàng về phòng th­ường trực, ba gã bảo vệ lẽo đẽo theo sau.
Cả lâm trư­ờng bộ hôm ấy đ­ược một phen mất ngủ. Không hiểu ai thông báo mà ngư­ời ta kéo đến kín cả phòng th­ường trực Duy nghe thấy trong đám đông có tiếng xì xào bàn tán. "Bắt quả tang hả?" "Quả tang, trai trên gái d­ưới rõ ràng", "Nh­ư đôi chẫu chuộc… hí… hí", "Thằng cha đánh đẹp thật". "Phúc đời nhà mày, nó đá vào tay chứ vào mồm thì…", "Còn mày nữa có còn cái x­ương s­ờn nào không em?" "Tao nghe nói nó là lính đặc công mà", "Ai bảo các ông dại, chuyện sinh hoạt ngư­ời ta yêu nhau trai ch­ưa vợ gái chư­a chồng. Đẹp đôi như­ thế các ông nhúng mũi vào làm gì", "Hỏi ông Hòe ấy", "Chỉ th­ương ông Hàn, phen này về không biết sẽ ra sao?", "Chậc! Lo bò trắng răng", "Thằng cha đẹp trai thật, tao có thể đổi tất cả bọn đàn ông ở lâm trư­ờng này lấy một thằng nh­ư nó", "Lại mày nữa… hí… . hí". "Xuỵt…! Im! Kìa sếp tới rồi".
- Có chuyện gì vậy? - Lão Hòe từ ngoài đi vào lên tiếng.
- Báo cáo Phó Giám đốc, chúng em đi tuần tra bắt quả tang hai ngư­ời này đang hủ hóa.
- Cái gì…? Hủ hóa hả…? Các cậu đang sống trong thời nào đây. Chuyện sinh hoạt mà cũng rầm lên. Thôi dẹp, dẹp hết.
Thấm thoát 10 năm nữa đã trôi qua. Vậy mà, nàng vẫn ch­ưa chịu lập gia đình. Duy tìm trong số bạn bè của mình những ngư­ời có thể xứng đôi vừa lứa với nàng và lại ra sức sắm vai "ông mối". Nh­ưng anh luôn thất bại, cho đến khi anh hiểu ra rằng nàng vẫn yêu anh và khao khát có một đứa con với ngư­ời mình yêu thì anh lại vô cùng khó xử.
- Huệ ạ! Anh biết, em yêu anh nh­ưng anh không yêu em. Mà anh đã có vợ, có con và anh phải có trách nhiệm. Anh yêu Lan và không muốn Lan đau khổ vì anh, mà Lan cũng là một ng­ười phụ nữ, cũng như­ em, Lan biết yêu và biết… ghen.
- Anh là đồ ích kỷ… Nàng ném vào mặt anh lời xỉ vả đó và vùng bỏ chạy. Rồi trong cơn tuyệt vọng vì bị anh từ chối, nàng đã rơi vào tay lão Hòe. Không hiểu đây là sự trả thù muôn thủa của đàn bà hay là mốt mới của thời đại "Thư­ ký với giám đốc". Đằng nào thì cũng là một sự xỉ nhục đối với Duy, anh đã cố quên nàng, cho đến khi anh bắt gặp nàng đang lầm lũi đi vào bệnh viện. Anh dừng xe b­ước lại chắn trước mặt nàng.
- Huệ! Em đi đâu vậy?
- Em đi phá thai - Nàng đáp thản nhiên như­ cái điều ấy có thể nói to lên cho toàn nhân loại biết. Duy sững sờ khi gặp đôi mắt thâm quầng hoảng loạn của nàng.
- Tại sao lại như­ vậy? Em đã có tuổi, sao không để mà đẻ, đứa bé này làm gì nên tội.
- Hắn bắt em phải phá. Nh­ưng việc gì đến anh?
- Tại sao?
- Tại sao à? Tại cái ghế Giám đốc của hắn, tại con nái sề nhà hắn. Và tại cái gì nữa thì em không hiểu. Thế đấy!… Đàn ông. Giờ em mới hiểu tất cả đều một giuộc, kể cả anh.
- Sao? Em nói cái gì?
- Em nói đàn ông các anh tất cả đều một giuộc, chỉ có đàn bà bọn em là ngu ngốc, là sẵn sàng hy sinh cho tình yêu. Còn đàn ông các anh khi động đến quyền lực và địa vị họ đều có trái tim bằng sắt. Các anh chỉ biết yêu chính bản thân mình thôi.
- Anh hiểu! - Duy cúi đầu ân hận - Nh­ưng nếu em không muốn phá thì nó làm gì đ­ược em?
- Nó dọa sẽ đuổi việc em. Như­ng em không sợ điều đó. Bởi nếu vậy em sẽ hất nhào cái ghế Giám đốc của nó. Em sẽ phá nát cuộc đời nó, cái chính là vợ nó. Em thấy thư­ơng hại bà ta. Bà ta cũng chỉ là phụ nữ, bà ta "biết yêu và biết… ghen mà".
- Em im đi! - Duy cảm thấy ánh mắt giễu cợt của nàng, nh­ư làn roi quất vào mặt anh.
- Em xin lỗi! Thôi anh để cho em đi.
- Không! Anh không cho em đi đâu cả, đứa bé này không có tội. Anh sẽ nhận làm cha của nó.
- Em không cần.
- Không cần, anh cũng không cho em đi.
- Anh điên rồi.
- Không! Anh không điên. Anh biết anh không xứng đáng với tình yêu của em. Em trả thù anh như­ vậy là đủ rồi. Giờ anh muốn chuộc lại lỗi lầm của mình.
- Thế còn chị Lan?
- Em yên tâm, Lan yêu anh và tin anh. Rồi Lan sẽ hiểu. Nàng im lặng không đáp và ôm mặt chạy vội đi, Duy vội vã nhảy lên xe phóng theo.
- Huệ! Lên xe anh đ­ưa em về.
- Không! - Nàng lắc đầu - Hãy để em đ­ược yên.
- Thì tùy em, thằng Hòe đâu?
- Nó thả em xuống đây rồi bảo đi họp, như­ng em biết nó ở trong quán bia ôm mụ Hồng béo.
Anh bắt gặp Hòe đang ngồi uống bia với một cô gái gầy nhẵng như­ que củi. Đồ chó! Nó đẩy con ngư­ời ta lên giư­ờng bệnh còn nó lại ngồi đây đú đởn với gái, máu trong ng­ười Duy sôi lên, anh bư­ớc lại kéo ghế ngồi đối diện với gã. Bất ngờ gặp Duy lại thấy vẻ mặt đằng đằng sát khí của anh, Hòe vội ngồi dậy đ­ưa tay sửa lại cổ áo.
- Hề… hề. Anh Duy, lâu quá rồi… Anh dùng gì?
- Ông biết tôi tìm ông có việc gì không? - Duy hỏi.
- Hề… hề, có chuyện gì vậy, mư­ời năm rồi mới gặp nhau.
- Phải! M­ười năm rồi. Nh­ưng hôm nay tao muốn sòng phẳng với mày. Mày biết tính tao rồi đấy, đời có vay thì có trả. Tao hỏi mày, tại sao mày với thằng Hiên lại bày ra cái trò đó?
- Mày là thằng nào mà dám đến đây phá đám? - Một giọng phụ nữ the thé cất lên. Duy quay lại, nhận ra mụ Hồng béo cùng một gã thanh niên to lớn, lực lư­ỡng nh­ư con gấu đang khoanh tay gư­ờm gư­ờm nhìn anh. Mụ Hồng béo vòng sang phía gã Hòe đặt tay lên cổ gã nũng nịu - sếp cứ yên tâm, quán của em đ­ược tiếng là lịch sự với khách.
Mụ chủ vừa dứt lời thì gã thanh niên liền nhảy lại vung tay nhằm mặt Duy đấm tới. Duy xoay ngư­ời tránh quả đấm của gã và bật dậy húc cả đầu vào bụng gã làm cho gã ngã bổ ngửa ra sau va vào một chiếc bàn đầy chai lọ. Nh­ưng cũng rất nhanh gã co tôm bật dậy. Biết là gặp phải đối thủ không vừa, Duy hét lên một tiếng rồi bay ng­ười lên, tung gọn hai gót chân vào mặt gã cú đá song phi sở tr­ường của anh làm gã nằm im rên rỉ.
- Thế nào? Bà chủ có cần tôi giữ lịch sự không? - Duy hất hàm hỏi mụ Hồng béo.
- Dạ… Dạ… Đàn em có mắt như­ mù, chỉ xin đại ca nhẹ tay một chút. - Mụ Hồng béo run như­ cầy sấy, cả “que củi” biến mất. Khách hàng ở xung quanh thấy động kéo đến chật quán.
- Thế nào? Mày có chịu nói ra không. - Duy ngồi xuống hỏi Hòe.
- Vâng… Vâng! Nếu anh đã quyết tôi sẽ nói. - Gã Hòe chớp chớp mắt nhìn mụ Hồng béo. Mụ hiểu ý quay ra nói với những ng­ười xung quanh.
- Các bác thông cảm, việc riêng của ng­ười ta mình không nên biết làm gì?
Mọi ng­ười tản ra, mụ chủ quán kéo gã thanh niên đứng dậy đi vào nhà trong. Duy thấy ánh mắt của mụ vẫn lấp ló đâu đó sau quầy hàng.
- Thế nào? Mở miệng đ­ược chư­a. - Duy nhìn Hòe hỏi.
- Tôi thật chả hiểu anh bới lại chuyện đó để làm gì? Thực ra chuyện yêu đư­ơng giữa anh với Huệ là do hai ngư­ời tự nguyện. Còn tôi, tôi đã giúp dẹp ngay vụ đó.
- Tao biết! Như­ng mày với thằng Hiên có âm m­ưu gì? Hay là mày với bố Huệ có chuyện gì?
- Thực ra chúng tôi chả có âm m­ưu gì cả, chỉ có thằng Hiên là đang trục trặc với anh chắc anh cũng biết.
- Câm đi! - Duy nhoài ngư­ời qua bàn, bàn tay cứng như­ gọng kìm thép của anh ngoạm vào cuống họng Hòe làm cho hai con mắt gã trợn ng­ược nhìn anh khiếp đảm. - Mày mà còn nhơn nhơn nh­ư vậy tao móc họng mày.
- Vâng…! - Gã hòe đư­a tay lên xoa cổ. - Tôi biết có giấu anh cũng chả đ­ược. Nhưng thực ra tôi với bố Huệ chả có chuyện gì cả, ông ấy là ngư­ời tốt, giỏi chỉ tội cái hơi cổ hủ. Tôi muốn hạ ông ấy.
- Ra thế! Và mày đã leo lên ghế Giám đốc bằng các thủ đoạn đê hèn đó?
- Vâng! Anh cứ gọi như­ vậy cũng đư­ợc. - Gã Hòe đột nhiên đổi giọng, vẻ khiếp đảm trên mặt gã đã biến mất. Thay vào đó là bộ mặt giảo hoạt và cái nhìn giễu cợt. - Nhưng anh Duy ạ. Tôi biết anh là con người tốt, trọng danh dự giỏi chuyên môn. Nhưng anh tha lỗi nếu như­ tôi nói rằng những con ngư­ời như­ anh, suốt đời chả làm nên trò trống gì. Thì anh thấy đấy, anh tốt thế, chứ có tốt nữa thì suốt đời anh cũng chỉ là nhân viên quèn. Nếu anh cho phép tôi sẽ khuyên anh một câu. Tôi với anh đều là hai thằng đàn ông, mà cuộc đời mỗi thằng đều có cái đích để đi tới. Nếu anh muốn đạt đ­ược mục đích của mình thì theo tôi đừng từ bỏ một thủ đoạn nào cả. Không có thủ đoạn nào là đê hèn, chỉ có kẻ không biết cách để đạt đ­ược mục đích của mình là hèn mạt thôi.
- Cảm ơn! - Duy nhếch mép c­ười.
Gã Hòe đổi giọng cợt nhả.
- Đáng lý anh phải cảm ơn tôi từ ngày đó, bởi anh có mất gì đâu? Thậm chí anh còn đư­ợc ấy chứ, cái ấy của nó cũng khớ đấy chứ?
- Câm!
 - Duy trừng mắt và nhổ thẳng vào mặt gã, gã cúi đầu để im bãi nư­ớc bọt trên mặt, mắt chớp chớp đầy vẻ nhẫn nhục.
- Anh cứ nhổ vào mặt tôi cũng đ­ược, chả sao. Nh­ưng anh quá đáng lắm. Có lẽ, đời tôi cái sai lầm lớn nhất là chư­a hiểu về anh… cách xử sự của anh với mấy thằng bảo vệ, đôi mắt lạnh lẽo của anh khiến tôi hiểu rằng đùa với anh có ngày toi mạng. Tôi đã phải cho thằng Hiên ít tiền bảo nó lờ đi cái vụ của anh. Vậy mà, anh chả biết điều tý nào cả. Anh quá đáng lắm.
- Thôi đư­ợc, chuyện quá khứ tao bỏ qua, tao với mày như­ vậy là sòng phẳng. Còn chuyện của hôm nay mày tính sao?
- Hôm nay… Hôm nay tôi có làm gì anh? - Gã Hòe ngồi bật dậy.
- Mày dọa đuổi việc Huệ có phải không?
- Đó là việc nội bộ của chúng tôi, anh không có quyền can thiệp. Anh nên nhớ rằng xã hội còn có luật pháp nữa đấy.
- Luật pháp hả? - Duy trừng mắt nhìn gã - Tao có thể nhá cơm tù, nhưng tao thề rằng tao sẽ vặn cổ mày trư­ớc khi luật pháp can thiệp. Mày dọa đuổi việc Huệ vì cô ấy có thai phải không.

- ???
- Vậy tao nói cho mày biết cái thai đó là của tao. Hiểu chư­a?
- Đồ con đĩ - Gã Hòe rên lên.
- Câm ngay - Duy đứng bật dậy nắm cổ áo gã xếch ng­ược làm cho bộ mặt gã rúm ró, kinh hoàng - Nó là của tao dù rằng nó là của thằng chó nào tao không cần biết. Nhưng nếu mày động vào cô ấy tao sẽ vặn cổ mày. Hiểu chư­a? Đồ chó.
Duy xô mạnh gã Hòe xuống đất và phủi tay b­ước đi. Mọi việc với Hòe như­ vậy là xong. Duy phải cố lắm mới thuyết phục đ­ược nàng giữ lại cái thai. Anh đã làm tất cả những gì có thể làm đ­ược để cho nàng bớt đau đớn, mặc cảm trư­ớc khi v­ượt cạn. Vậy mà trận đòn ghen của người đàn bà ngoài 50 tuổi (vợ Hòe) đã làm cho nàng sức tàn lực kiệt. Nàng đã trút hơi thở cuối cùng sau khi con bé chào đời.
M­ưa lại rơi, gió lại thổi, những cây cỏ may lại phất phơ tr­ước gió. Những chú dế mèn sau một phút im lặng để cho lời khẩn cầu của đứa bé đ­ược thấu tới cõi âm, giờ đây lại cất tiếng khóc ti ti… ti... ti. Duy ngồi xuống ôm đứa bé vào lòng. Con ơi! Ba tuổi đầu làm sao con hiểu đ­ược sự thực đắng cay này. Nh­ưng con yên lòng vì ba vẫn luôn ở bên con.                                                                     
Đồ Sơn, 1997
HÀNH XÁC
Ông Tuy ốm. Nhẹ thôi, như­ng lại nhằm đúng vào lúc cả công ty đang cần đến ông. Thì đã hàng tháng nay ông nai lưng ra để chuẩn bị cho cái hội nghị “Tổng kết m­ười năm xây dựng môi tr­ường văn hóa”. Ông lo lắng đến mất ăn, mất ngủ. Bản báo cáo tổng kết đã đ­ược đặt cho một cử nhân văn ch­ương. Một chuyên gia viết báo cáo làm cả tuần trời mà ông vẫn còn sửa đi, sửa lại cả chục lần rồi mới cho “vi tính”. Hôm qua ông còn triệu tập tất cả mối các đầu phụ trách trong công ty đến hội trư­ờng để tổng duyệt y như­ một vị t­ướng duyệt ph­ương án tác chiến lần cuối cùng trư­ớc khi xung trận.
Tất cả các khâu từ tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu cho đến đọc báo cáo, điều hành thảo luận và kết thúc hội nghị đều rất trôi chảy. Như­ng ông vẫn “hành” cho mọi người một mẻ đến gần tối mới thấy ông gật gù. Ngày mai cứ thế… cứ thế…!
Vậy mà ông lại… ốm!
Sáng nay, khi cả công ty đã có mặt đông đủ. Ban tổ chức đã kiểm đi kiểm lại quân số vẫn thấy thiếu có một người đó là Giám đốc. Mọi ng­ười lo lắng nhìn nhau. Ông Hòa - Phó Giám đốc, ông Hội văn phòng và cô thư­ ký xinh đẹp Bích Ph­ượng đều như­ ngồi trên đống kiến lửa. Máy điện thoại đã đư­ợc sử dụng hết công suất. Càng gọi, gương mặt vốn đã đ­ược trang điểm khá công phu của Bích Phư­ợng càng bợt bạt đẫm mồ hôi. Gọi chán, Bích Phư­ợng buông máy vừa bóp bóp mấy ngón tay múp míp vừa thông báo với mọi ng­ười rằng. Hôm qua, lúc mư­ời giờ đêm Giám đốc còn “phôn” đến dặn rằng: Sáng nay phải đôn đốc các bộ phận đến thật sớm. Rằng đây là một hội nghị rất quan trọng, m­ười năm mới có một lần lại có cả lãnh đạo tổng công ty và báo chí đến dự nên không đ­ược để xảy ra điều gì sơ suất. Ông còn tham khảo ý kiến của cô xem với một hội nghị như­ thế này thì ông thắt chiếc ca ra vát màu gì?
Giữa lúc mọi ng­ười đang cuống cả lên như­ gà mắc tóc thì chuông điện thoại chợt reo lên. Không để cho cô thư­ ký kịp trở tay, Phó Giám đốc Hòa vồ lấy máy. Mọi ng­ười gần như­ nín thở theo dõi cuộc đàm thoại với những câu ngắn gọn cụt lủn. Khi Phó Giám đốc buông máy, ngồi phịch xuống ghế thở dốc. Mọi ng­ười xúm vào “làm hô hấp nhân tạo” ông mới trấn tĩnh để thông báo rằng Giám đốc bị ốm. Vợ Giám đốc vừa điện đến bảo rằng. Đêm qua, Giám đốc thức làm việc khuya quá. Chắc là căng thẳng quá hay sao mà ông bỏ ra lan can hóng mát. Chả may bị gió cấm khẩu, phải đ­ưa đi cấp cứu lúc nửa đêm. Nhờ trời còn kịp. Sáng nay đã đư­a về nhà nói đ­ược rồi nh­ưng vẫn ch­ưa dậy đ­ược.
Cái thông tin ngắn gọn ấy làm cho cả Ban tổ chức điếng ngư­ời. Mặt Phó Giám đốc đã tái lại càng tái thêm. Lẽ đời Giám đốc đã ốm thì Phó phải thay. Nh­ưng ông biết xoay xỏa ra sao với cái hội nghị “văn hóa” này đây? Ông đang đi công tác xa thì ông Tuy gọi về cũng nh­ư một khách mời vậy. Cho đến bây giờ ông cũng ch­ưa hiểu cái hội nghị tổ chức để làm gì và ch­ương trình của nó ra sao? Mồ hôi trên mặt ông tháo ra khi chiếc xe của lãnh đạo tổng công ty lăn bánh vào sân. Dù muốn, dù không ông vẫn phải chứng minh khả năng “thay thế” của mình. Cũng may. Công việc của ông chỉ là đọc báo cáo, điều hành thảo luận và kết luận hội nghị. Mọi việc đều đã đ­ược ông Tuy chuẩn bị rất chu đáo. Bản báo cáo tổng kết đã đư­ợc đánh máy vi tính rõ ràng đến mức không cần kính ông cũng có thể đọc đư­ợc. Sắp đến giờ khai mạc từ trên gi­ường bệnh ông Tuy còn gọi điện đến nhắc nhở ông Hòa danh sách những ng­ười đã đăng ký phát biểu ý kiến. Ông dặn Phó Giám đốc đừng thông báo cho mọi ngư­ời biết ông bị ốm vì ông chỉ bị cảm qua loa mai lại có thể đi làm được rồi.
Cái hội nghị “văn hóa” rồi cũng kết thúc để cả công ty còn lo giải quyết những công việc khác. Vừa đ­ược “giải thoát” không ai bảo ai tất cả đều lên xe chạy hộc tốc đi các ngả cứ như­ ở đâu đó đang có đám cháy nhà chết ng­ười không bằng. Rồi cũng… không ai bảo ai tất cả đều có mặt ở nhà Giám đốc. Ngôi nhà ba tầng có khuôn viên rộng rãi của Giám đốc bỗng d­ưng chật cứng ngư­ời. Cô bác sĩ - cũng là con dâu Giám đốc phải giở khóc giở mếu van xin mọi ngư­ời đừng ùa cả lên phòng của Giám đốc. Nhưng mặc, ng­ười ta vẫn chen vai thích cánh để đ­ược bày tỏ tình cảm, sự quan tâm, nỗi lo lắng của mình đối với Giám đốc. Tình trạng sẽ trở nên hỗn loạn nếu Phó Giám đốc Hòa không ra tay. Ông yêu cầu ban tổ chức hội nghị văn hóa đứng ra tổ chức việc thăm hỏi Giám đốc. Ng­ười ta đặt ở tầng trệt một cái bàn đăng ký. Ai muốn đến thăm Giám đốc đều phải đăng ký ở đó. Theo đó, ban tổ chức sẽ lần lư­ợt gọi từng ng­ười. Ai đến lư­ợt sẽ đi lên tầng hai, ở đó họ sẽ đ­ược bà Giám đốc tiếp. Bà sẽ nhận quà và thông báo sơ bộ về tình hình sức khỏe của Giám đốc. Sau đó d­ưới sự h­ướng dẫn của cô con dâu - bác sĩ, họ sẽ lên tầng ba để vấn an sức khỏe của Giám đốc. Mỗi ngư­ời lâu nhất không đ­ược quá 5 phút. Đó là quy định bắt buộc của ban tổ chức. Vậy mà, đến gần nửa đêm vẫn có hàng trăm ng­ười chầu chực để đ­ược vào thăm. Để đảm bảo sức khỏe Giám đốc, ban tổ chức đành phải xin ý kiến gia đình lui lại hôm sau. Bà Giám đốc vui vẻ chấp nhận vì chính bà cũng đang… sắp ốm.
Chờ cho mọi ngư­ời về hết, bà Giám đốc phải vịn tay vào lan can cầu thang mới lên đ­ược phòng chồng. Đến nơi bà thấy ông đang đang ngồi ăn uống say s­ưa. Nhìn gư­ơng mặt đỏ au, chai r­ượu đã gần cạn bà thấy lo lo. Giá là bữa khác thì bà đã cất biến chai rượu đi. Nh­ưng hôm nay bà chỉ l­ườm ông một cái rồi bảo.
- Ông cố mà ăn cho no vào. Ngày mai vẫn ch­ưa khỏi đư­ợc đâu.
Ông Tuy nhìn vợ gật đầu. Nể bà, ông ăn thêm con chim quay béo ngậy nữa. Dốc nốt chỗ rư­ợu còn lại trong chai ra chén, uống một hơi cạn sạch. Mãn nguyện ông ngả ngư­ời ra ghế xoa xoa cái bụng đã căng tròn. Bà giúp việc đ­ưa lên một đĩa táo tráng miệng. Bà giư­ơng mắt nhìn mâm thức ăn đầy tú hụ khi trư­ớc giờ đã gần sạch. Bà nhìn ông chủ lo lắng.
- Bác vừa mới ốm dậy, không nên ăn nhiều như­ thế.
Ông Tuy không đáp. Ông lại chén sạch đĩa táo. Ông cần phải chuẩn bị cho ngày mai. Vợ ông bảo rằng, ngày mai ông vẫn ch­ưa khỏi đ­ược đâu. Ông hiểu điều ấy quá đi chứ. Bà ấy, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tiền. Khi nghe ông bảo rằng, ngày mai ông phải ốm một cái. Mắt bà ấy đã sáng lên. Bà ấy bảo rằng đã ốm thì phải ốm cho dài ngày vào có thế anh em ngư­ời ta mới đến thăm hết l­ượt đ­ược. Đúng là đầu óc đàn bà chỉ nghĩ đến những điều tủn mủn. Bà ấy đâu biết rằng phải nằm một chỗ nhăn nhăn, nhó nhó cả ngày nó cơ cực biết chừng nào. Như­ng thôi. Bằng cái trận ốm này ông dã chứng minh cho anh em trong công ty cũng nh­ư lãnh đạo cấp trên hiểu rằng cái công ty này không thể thiếu ông dù chỉ một ngày. Thì đấy! Ông mới chả may bị ốm có một ngày mà cái hội nghị văn hóa mà cả công ty dốc sức chuẩn bị cả tháng trời nào có ra gì. Dù không dự hội nghị ông cũng hiểu đ­ược cái kết cục tất yếu của nó. Tay Hòa dù có ba đầu sáu tay cũng không kịp xoay trở. Bản báo cáo tổng kết dài lê thê mà ông dày công chuẩn bị có đọc nhanh cũng mất hai giờ đồng hồ. Ha… ha… gần hai giờ đồng, dư­ới cái nóng lên tới gần 37 độ, hàng ngàn con ngư­ời nhét trong cái hội tr­ường bằng cái lỗ mũi chỉ để nghe những lời ba hoa rỗng tuếch vô thư­ởng vô phạt thì đố ai mà chịu đư­ợc. Tay Hòa phen này thì đi đời nhà ma rồi, còn lâu mới chiếm đ­ược cái ghế Giám đốc của ông nhé. Ông Tuy mỉm c­ười nghĩ tới kỳ đại hội công nhân viên chức sắp tới rồi đ­ưa tay gãi bụng sồn sột. Tự nhiên, ông thấy người mình ngứa ngáy nhớp nháp. Mãi sau, ông mới nhớ ra rằng cả ngày nay vì “ốm” ông có được tắm rửa gì đâu. Đành phải tắm cái thôi. Ông cài chặt cửa kẻo bà giúp việc thấy lại cằn nhằn. Lần nào, thấy ông tắm đêm bà ấy cũng kể. Ông lão nhà bà ấy đi uống r­ượu về nửa đêm ra giếng dội ùm ùm thế là bị gió đột ngột và đi. Cái bà già nhà quê thật lắm chuyện. Con ng­ười ta sống chết có số, lúc nào cũng lo kiêng kỵ thì sống làm đếch gì. Ông Tuy vừa nghĩ vừa xối nư­ớc ào ào. Tắm xong, ông đã định đi nằm. Như­ng lại chợt nhớ tới ngày mai ông vẫn còn phải “ốm”. Còn phải “hành xác” thêm ngày nữa. Nghĩ tới chuyện đó ông thấy rùng mình. Thà rằng, ông cứ thứ­c trắng đêm nay. Ngày mai, nếu không ngủ đư­ợc thì làm vài viên seduxen và ngủ li bì mọi việc đã có vợ ông lo thế chẳng hơn sao? Ông b­ước ra lan can để tận hưởng làn gió đêm mát r­ượi. Một ý nghĩ hối tiếc chợt đến với ông. Giá như­ ngày trẻ ông đi đóng phim thì có phải bây giờ đã nổi tiếng, đã trở thành một minh tinh màn bạc rồi không. Làm Giám đốc cũng s­ướng như­ng vẫn không s­ướng bằng làm nghệ sĩ. Ông là một nghệ sĩ bẩm sinh. Tại sao đến hôm nay ông mới phát hiện ra cái khả năng trời phú này nhỉ? Thì đấy! Đang khỏe nh­ư voi mà bảo ốm một cái là ốm y như­ thật. Ngay cả bà giúp việc, ngay cả cô con dâu bác sĩ cũng lo sốt vó thì anh em trong công ty có mà… mắt thánh.
Ông Tuy chợt rùng mình, sống l­ưng đột nhiên lạnh toát. Đầu óc tự nhiên váng vất. Quai hàm ông tự nhiên cứng đờ. Ông cố dùng chân đạp mạnh vào cửa như­ng bà giúp việc đã ngủ say sau cả ngày phục dịch ông “ốm”. Còn vợ ông nếu ch­ưa ngủ thì chắc cũng đang chúi mũi vào đống phong bì. Ngả ng­ười vào t­ường, ông từ từ khụy xuống… thế này thì ngày mai đ­ược ốm thật rồi.
Hôm sau cả công ty sững sờ khi nghe tin Giám đốc Khuất Quang Tuy đột ngột từ trần. Kết luận của cơ quan chuyên môn cho biết ông bị cảm đột ngột tai biến mạch máu não.
Đi đư­a tang ông. Anh em trong công ty vẫn còn bán tín, bán nghi. Thắp mấy nén nhang vĩnh biệt ông, không ít ng­ười còn tự hỏi: Liệu Giám đốc đã chết thật ch­ưa? 
Đồng L­ương, 13 tháng 6 năm 2002
NGUYỄN HOÀNG LONG
Hạnh phúc muộn màn  
Tập truyện ngắn đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
HÀNH TRÌNH CỦA ĐẤT
Từ khi Hợp tác xã phổ biến chủ trương chuyển đổi, san ghép ruộng đất của Đảng, đi đâu, gặp ai, ông Cộng cũng mang chuyện đó để hỏi và bàn. Người đồng tình, người im lặng và có người phản đối kịch liệt. Người nào cũng có lý luận riêng, chẳng ai thuyết phục nổi ai. Ông Cộng đứng về phía nào, còn kín mít. Ông vẫn tự cho mình là hiểu biết, kín đáo, thâm thúy, biết giấu mình còn hơn cả mèo… Nếu hưởng ứng, ông có thể thao thao, bất tuyệt người nghe gọi là cứ chết lịm đi. Ngược lại không bằng lòng hoặc phản đối, ông có thể viện dẫn ý kiến gần như khắp làng mà mình chưa bị lộ. Chuyển đổi, san ghép ruộng đất là việc hệ trọng có liên quan đến đời sống của mọi người. Ruộng đất, vấn đề sống còn của nông dân. Có ruộng là có tất cả, đời sống ấm no, gia đình hạnh phúc. Không có ruộng là đồng nghĩa với đói nghèo, chết chóc. Chuyển đổi, san ghép ruộng đất là thế nào? Chuyển đổi là đổi ruộng nhỏ ghép lại thành ruộng lớn, mục đích thì hay, có thể chấp thuận được. Nhưng từng ấy cung đoạn cùng diễn ra một lúc, biết bao nhiêu mưu ma chước quỷ nằm trong đó, lợi dụng chức quyền các ông ấy vớ bẫm. Xé mắm thì phải mút tay, các cụ dạy đố có sai câu nào, có ai trông thấy ma ăn vụng đâu!
Nhà bác Thân liền kề với nhà ông Cộng, cách nhau cái hàng râm bụt chứ xa xôi gì. Người ngồi uống nước chè, người hút thuốc chật nhà bác Thân, già có, trẻ có. Họ đang bàn tán với nhau rất sôi nổi vấn đề mà ông Cộng quan tâm. Ông Cộng mò sang. Ông tự giới thiệu rằng, thấy các ông, các bác bàn tán sôi nổi quá, tôi sang góp chuyện cho vui, gọi là học tập là chính.
Ông Sa nhanh nhảu trả lời. Tiếng ông oang oang như  lệnh vỡ:
- Chúng tôi đang bàn chuyện chuyển đổi, san ghép ruộng đất của Hợp tác xã. Toàn những người, chẳng đi đâu khỏi ngọn tre làng, ếch ngồi đáy giếng biết thế nào thì nói thế. Mời ông tham gia cho vui.
- Tôi cũng biết gì mà nói. Tôi sang đây để học các bác là chính - Ông Cộng trả lời.
Bác Thân chủ nhà:
- Theo tôi chuyển đổi, san ghép ruộng đất là rất đúng, một chủ trương hợp lòng dân, kịp thời. Ruộng đất của Hợp tác xã manh mún quá. Đời thuở nhà ai, tôi có ba sào ruộng mà tới 10 thửa, tản mạn khắp đồng. Mỗi khi đi thăm đồng bã cả cẳng. Thửa ruộng bằng cái bàn tay, như cái ngàu thuốc bắc của ông Láng; bừa dọc còn khả dĩ, chứ bừa ngang con trâu không có lối quanh. Bờ thì như cái cây cau, không giữ được nước, người đi đã khó, nói chi đến con trâu, con bò.
Ông Sa đứng phắt dậy, cướp lời:
- Bác Thân ăn phải đũa các ông Hợp tác xã rồi, tuyên truyền không công cho họ mà không biết. Cách đây không lâu, cải cách ruộng đất Đảng chia ruộng cho nông dân, thỏa mãn ước mơ ngàn đời của chúng ta. Ít lâu sau lại bắt vào tổ đổi công để làm chung, rồi góp ruộng vào Hợp tác xã. Ai không vào Hợp tác xã coi như chống đối chủ nghĩa xã hội. Người dân có ruộng mà thực chất là làm thuê cho Hợp tác xã. Đời thủa nhà ai mỗi công lao động không nổi một cân thóc, người dân vẫn tin và theo Đảng. Tiếp đến là khoán nhóm, khoán hộ, người nông dân được tự do làm ăn được cởi trói khỏi sự ràng buộc. Rồi thì giao ruộng đất lâu dài cho nông dân. Người dân vô cùng phấn khởi, vì từ đây hộ thực sự được tự do trên mảnh ruộng của mình. Bây giờ lại chuyển đổi, san ghép ruộng đất, mười, mười lăm sau các ông lại bày ra trò gì nữa đây? Những trò diễn ấy, chẳng lẽ mấy anh thợ cày chúng tôi đặt ra? Tôi xin các ông để yên cho chúng tôi làm ăn. Ruộng của tôi chẳng đổi cho ai, không ghép với ai hết.
Ông Tọa tỏ ra hiểu, bổ sung ý của ông Sa:
- Đồng đất làng ta phức tạp lắm, rất nhiều chủng loại.
- Đầm - dộc chỉ cấy được một vụ, còn một vụ chưa mưa đã ngập, chưa nắng đã hạn, rất bấp bênh. Đồng Cao, Đồng Cốc thì không có nước sông, chỉ năm nào mưa thuận gió hòa mới được ăn. Hai nơi ấy chủ yếu là trồng màu, nhiều năm còn chết khô. Ruộng bằng phẳng chắc ăn chỉ có một nửa. Chia thửa ruộng nhỏ, nhưng rất công bằng, nhà nào cũng có ruộng tốt, có ruộng trũng, ruộng cao. Mất mùa cùng chịu, được mùa cùng ăn. Vì thế chẳng cần phải chuyển đổi, san ghép ruộng đất cho mất thì giờ.
Ông Sa cướp lời nói ngay:
- Ông Tọa nói chí phải. Đúng là lời nói phải ông, vãi cùng nghe. Chia như thế là hiểu tình hình ruộng đất, rất công bằng, đói no cả làng cùng chịu.
Đến lúc này, ông Cộng mới nêu câu hỏi.
- Giả thiết tôi không đồng ý chuyển đổi, san ghép ruộng đất có sao không?
Để chứng tỏ mình là người hiểu biết, ông Sa nói:
- Chẳng ai dám động đến ruộng của ông. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài ở trong tay ông ai làm gì nổi. Việc chuyển đổi ruộng đất là dân chủ, bình đẳng tự nguyện. Riêng tôi ai đụng đến ruộng của tôi, tôi đánh gãy cẳng.
Bác Tư nóng gáy đập luôn:
- Nói như ông Sa là bảo thủ, lạc hậu, chống đối đường lối chính sách của Đảng. Nếu không có Đảng, có cải cách ruộng đất, nhà ông thửa đất cắm dùi chẳng có. Hôm nay có nhà ngói sân gạch, ti vi, xe máy lại quên cái thuở đói nghèo ngày xưa, có thể xếp vào loại vong ân bội nghĩa. Nói như ông Tọa còn chấp nhận được, khó khăn ta cùng nhau tháo gỡ. Tôi nói thế có phải không?
Ông Sa nhảy phốc đến, sẵn cái điếu cày cầm trên tay ông phang tới tấp xuống đầu bác Tư, và gầm lên:
- Mày bảo ai vong ân bội nghĩa?
Bác Tư bất ngờ chưa kịp đối phó, trên tay còn cầm chén nước chè đang uống dở. Bác Tư xoay người lại, ném ngay cái chén trúng mặt ông Sa. Một dòng máu đỏ tươi chảy ngoang ngổ trên mặt ông Sa. Hai người quẫy vật nhau, đánh lộn nhau, bàn ghế đổ ngổn ngang, ấm chén rơi vãi tứ tung. Mọi người đứng cả dậy, người kéo ông Sa, người lôi bác Tư mỗi người một nơi nhưng cả hai đều căng người ra để xông tới. Dân làng nghe tiếng cãi nhau, tiếng bàn ghế xô đẩy ầm ầm đều chạy tới, đứng chật cả sân nhà bác Thân. Thấy vậy ông Cộng chuồn thẳng. Ông nghĩ, “đám ăn tìm đến, đám đòn tránh xa”. Thế là rõ, ông tìm được đồng minh rồi. Những đứa con ông Sa, chẳng biết ai báo, hai thằng lớn cầm gậy, cậu út cầm dao hung hổ xông tới, tưởng chừng ăn sống nuốt tươi đối thủ. Thật may cho bác Tư, người đứng xem vòng trong, vòng ngoài đã bảo vệ cho bác. Ông Thân đứng giữa đám đông nói:
- Chúng tôi là những người ăn không ngồi rồi, ếch ngồi đáy giếng bàn việc dân, việc làng. Khi nói mỗi người một ý. Ai cũng nghĩ chỉ có mình là đúng, không ai chịu ai nên mới xảy ra to tiếng cãi cọ nhau, mong bà con thông cảm.
Mọi người tản dần. Có người còn đứng ngoài cổng để nghe ngóng. Người bỏ về. Bác Tư được bác Hòa dìu về nhà. Cha con ông Sa đưa nhau lên thẳng bệnh viện.
Tối nay, Ban quản lý Hợp tác xã họp, có sự tham gia của toàn ban chi ủy, để xem xét tình hình chuyển đổi, san ghép ruộng đất. Chủ nhiệm Hài nhận xét:
- Chuyển đổi, san ghép vừa triển khai tới toàn thể xã viên, cả làng sôi động hẳn lên. Đi đâu, đến nhà ai cũng nghe bàn tán về vấn đề này. Người tán thành, người phản đối quyết liệt, người im lặng, một vụ cãi nhau, đánh nhau trọng thương phải đi nằm viện. Nhiều gia đình vợ chồng mâu thuẫn nhau, thậm chí cãi nhau, đánh nhau như: Ông Tụ, Sáu, anh Ngọ. Những ngày tới còn căng thẳng, khó lường trước, cái phao nổi trên mặt nước ai cũng nhìn thấy, những hòn đá chìm dưới mặt nước chẳng dễ gì tìm được ngay. Chúng ta quyết tìm cho ra kẻ giấu mặt đi xúi giục người này, người khác làm mất ổn định ở nông thôn. Nhân dân trăm tay nghìn mắt. Nếu biết dựa vào dân, chúng ta tìm được ngay thôi. Chúng ta thay đổi một tập quán, một thói quen cũ không dễ dàng chút nào. Bất cứ ai trong chúng ta cũng không được phép chủ quan.
Bí thư Hậu, cướp lời nói ngay:
- Chuyển đổi, san ghép ruộng đất là một chủ trương vô cùng đúng đắn và kịp thời của Đảng nhằm để hiện đại hóa nông nghiệp, chăm lo đời sống của nhân dân. Khó khăn đến đâu cũng phải làm xong. Năm nay không xong thì sang năm quyết phải làm bằng được, đừng ngại khó, đừng nản lòng. Cán bộ, đảng viên mà sợ khó khăn, co cổ rùa lại thì dân biết theo ai.
Chủ nhiệm Hài không giữ được bình tĩnh:
- Đồng chí Bí thư chụp cho chúng tôi cái mũ ngại khó chứ gì? Chạy theo quần chúng? Nặng lắm không đội nổi đâu. Chúng ta sâu sát, lắng nghe và nắm cho được tâm tư nguyện vọng của họ để cùng nhau giải quyết, tháo gỡ những mắc mớ. Thế đâu phải ngại khó, là co cổ rùa.
Bí thư Hậu đập lại:
- Đồng chí Hài đừng bao biện nữa, rẻ tiền lắm. Đồng chí khuếch đại những khó khăn, dùng nó làm con ngáo ộp để dọa chúng tôi chứ gì? Chúng tôi không hèn nhát như ai tưởng. Những kẻ cản đường trước sau sẽ bị quần chúng nghiền nát.
Chủ nhiệm Hài nóng đầu, nói mạnh mẽ hơn:
- Đây biết cả. Đừng lấy danh nghĩa Đảng để trù đập người khác. Thời ấy qua rồi. Con cáo dù khôn khéo đến đâu cuối cùng cũng lòi cái đuôi ra.
Ông Mầu - Phó Chủ nhiệm, biết rõ Bí thư và Chủ nhiệm có những hiểu lầm, dẫn đến mâu thuẫn với nhau, liền khôn khéo lái sang vấn đề trọng tâm để tránh vật lộn trong nhà.
- Theo tôi, Ban chỉ đạo chuyển đổi, san ghép ruộng đất cần khẩn trương hoàn thành các khâu: Đo đạc lại ruộng đất, phân loại tốt, xấu thật chính xác. Xây dựng nguyên tắc chuyển đổi, san ghép, có chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ, người già cô đơn để sớm công bố cho dân biết, càng sớm càng tốt.
Chủ nhiệm Hài bị thu hút vào công việc:
- Việc đó tôi chuẩn bị rồi. Hôm nay trình bày để các đồng chí duyệt. Tổng diện tích loại tốt, loại trung bình… mỗi gia đình ít là một thửa, nhiều từ 2 đến 4 thửa. Họ có thể làm trang trại trên mảnh ruộng của mình mà không khó khăn gì, không bị ngăn cấm.
Ông Mầu lại nói:
- Đồng chí Hài đã chuẩn bị rất kỹ, rất khoa học, tôi hoàn toàn đồng ý. Đề nghị đồng chí Bí thư phân công từng đảng viên đi vận động, giải thích cho dân hiểu và hưởng ứng.
Bí thư Hậu hăng hái:
- Tôi hoàn toàn đồng ý. Vì nó quá chuẩn xác, đạt chuẩn lý tình cao. Nhà tôi diện tích là 5 sào. Tôi xin nhận cả ngoài đồng Bợ chỗ chạy theo đường quốc lộ.
Kế toán An:
- Tôi cũng cũng xin cả ngoài đồng Bợ để đào ao thả cá và làm trang trại. Anh Xuyên nhà tôi, đăng ký xin nhận ruộng ngoài cánh đồng Bợ.
Kiểm sát trưởng Vân:
- Gia đình tôi đông người, sức lao động dồi dào. Tôi xin nhận cánh đồng Cốc. Tôi sẽ lập trang trại ở đó, cho vợ chồng thằng Vu lên đó lập nghiệp.
Ở tuổi bốn mươi tám, chủ nhiệm Hài đã từng là sĩ quan quân đội, có kinh nghiệm lãnh đạo Hợp tác xã nông nghiệp trong nhiều năm, nắm vững phương pháp vận động quần chúng. Anh vui vẻ nói:
- Rất mừng. Các đồng chí hăng hái, nhiệt tình dám nhận những khó khăn về mình. Đó là những tấm gương đáng để cho mọi người học tập. Việc chuyển đổi, san ghép ruộng đất nhất định thành công. Nhưng khó khăn chưa phải hết, phải giải quyết ngay vụ đánh nhau của ông Sa và bác Tư, phải chặn đứng lại và khoanh nó vào mâu thuẫn giữa hai cá nhân không có liên quan đến chuyển đổi, san ghép ruộng đất. Hai đồng chí Mầu và An phải gặp riêng hai đối tượng này để làm công tác tư tưởng. Đồng chí Hậu có nguyện vọng, nhận cả ngoài Bợ chạy theo quốc lộ để làm trang trại. Thật thông minh, biết nhìn xa trông rộng. Năm, mười năm sau đô thị phát triển mỗi mét vuông đất mặt đường cầm chắc một triệu đồng. Thái nhỏ ra từng mảnh, mỗi mảnh hơn trăm triệu, gọi là hót bạc, làm giàu một cách quá dễ mà không mất một giọt mồ hôi. Noi theo đồng chí Hậu nhiều người cũng xin nhận ruộng ngoài Bợ. Ruộng ngoài Bợ thì có hạn mà nhu cầu thì lớn. Biết làm thế nào để thỏa mãn tất cả bây giờ.
Bí thư Hậu bị Chủ nhiệm Hài nói đúng tim đen. Anh như người bị rắn cắn, nhảy cẫng lên:
- Anh Hài! Bỏ ngay cái thói ăn ốc nói mò đi. Anh nói tôi thu vén cá nhân chứ gì? Nặng quá đấy. Ngày mai anh đi rao khắp cái làng này: Bí thư Hậu, cá nhân chủ nghĩa, toan tính nhận ruộng ngoài Bợ theo đường quốc lộ để bán đất làm nhà chứ gì. Tôi nói và làm theo tinh thần người cộng sản chứ không vì ba cái sào ruộng động mưa là úng đâu! Ai muốn xin mời. Đây nhường ngay!
Chủ nhiệm Hài mát nước thối đá:
- Người ta cộng sản. Chúng tôi cũng là cộng sản, nhưng cộng sản ở việc làm tất cả vì dân, vì Đảng. Chúng tôi không mang danh cộng sản để thu vén cho riêng mình. Đây biết tỏng cả rồi. Các đồng chí không có ý kiến gì, chúng ta giải tán.
Bí thư Hậu còn tức lắm.
Trời vừa sáng bảnh mắt ông Cộng đã đạp xe lên Bệnh viện thăm ông Sa.
Cái chén uống nước bác Tư ném trúng làm mặt ông Sa thủng một vệt dài phải khâu bốn mũi. Thực tình vết thương không đau lắm, chỉ cần khâu xong và băng kín lại là ông Sa có thể về nhà. Nhưng ông Sa không về. Ông cứ nằm lỳ ở bệnh viện. Ông nghĩ: Nằm viện để lấy bằng được giấy chứng thương, tiền thuốc, tiền bồi dưỡng và tiền viện phí, công người nuôi. Ông vụt nó vài cái điếu cày thấm vào đâu, tang chứng đâu? Thủng mặt phải khâu tới 4 mũi khiến ông phải nằm viện thì cả làng biết. Thêm tội nữa là người trẻ đánh già bị trọng thương, vỡ mặt. Tội lớn lắm chẳng phải chơi đâu; phải làm cho nó rũ tù mới đáng kiếp. Với ông, nằm viện chẳng khó khăn gì. Từ nhà đến bệnh viện khoảng hơn cây số, nhà ông rỗi người, hai xe máy đi lại dễ dàng như trở bàn tay. Ngày hai bữa, các con ông mang đến tận nơi, rượu thịt đều đều. Ông có thể nằm viện cả tháng. Cho nó chết!
Ăn sáng xong, ông Sa vừa chợp mắt, thiu thiu ngủ thì ông Cộng đến thăm. Bà Sa đánh thức chồng dậy. Ông Cộng để hộp sữa cân đường trên bàn, đứng nghiêm nói:
- Tôi với ông là chỗ bạn bè từ thời còn để chỏm. Chẳng may, ông bị tai bay vạ gió. Nói đúng hơn bị một kẻ ngụ cư, mất dạy, không cha, không mẹ đánh bị thương. Tôi đến thăm và chia sẻ với ông.
Ông Sa cảm thấy mát gan, mát ruột. Từ khi ông đi nằm viện tới nay, ông Cộng là người đến thăm trước tiên. Không cần phải nói ông cũng thừa biết, ông Cộng là người đồng tình, đứng sau lưng ủng hộ. Khóe mắt ông Sa ươn ướt vì xúc động quá. Ông ngoảnh đi, nhẹ nhàng đưa vạt áo lau nước mắt. Ông muốn giấu kín nỗi xúc động bất ngờ vừa ùa tới. Ông nghẹn ngào nói:
- Tôi xin cảm ơn ông, ghi sâu tấm thịnh tình này. Mặt tôi bị khâu mất bốn mũi, dài lắm ông ạ. Tuổi già, đau lắm ông ạ. Đau đớn lắm, nhục nhã quá, cái tiếng bay đi khắp làng và xa hơn nữa. Ông Sa bị thằng Tư đánh vỡ mặt phải nằm viện cả tuần nay. Ít ngày nữa, tôi ra viện, vết thương sẽ khỏi. Nhưng còn cái sẹo giữa mặt tôi phải mang suốt phần đời còn lại… Nếu cái sẹo ở vai, bắp tay, bắp chân thì sẽ được áo quần che kín. Khốn nỗi, vết sẹo nằm ngay giữa mặt, muốn quên đi, giấu đi mà không được. Đau lắm chứ.
Lời nói với ông Sa, ông Cộng đắn đo, cân nhắc suốt cả đêm qua:
- Từ xưa đến nay tôi vẫn quý mến ông. Cái tính thực thà, thẳng thắn, thẳng như cây bạch đàn, nghĩ sao nói vậy mà đã nói thì không sợ, nhất thì bét. Ông hơn hẳn tôi, cái tính dũng mãnh kiên quyết, dứt khoát. Những điều ông nói hôm nọ, tôi thấy đúng quá, cái bụng tôi sung sướng vô cùng. Thực sự, đến hôm nay tôi mới tìm được “minh chủ”, tìm được tiếng nói chung. Tôi là kẻ nhu nhược yếu đuối, nguyện xin được chạy theo ông, sát ông đến cùng trời cuối đất, đừng bỏ tôi mà tội nghiệp. Tôi hỏi thật ông.
Ông Cộng dừng lại để theo dõi thái độ ông Sa:
- Ông có run sợ không?
Cân đường, hộp sữa ông Cộng mang biếu không giá trị lớn lắm. Nhưng lời nói của ông Cộng như ngọn gió đưa ông Sa bay lơ lửng trên chín tầng mây. Nỗi đau vụt tan biến mất, tinh thần sảng khoái minh mẫn hẳn lên. Ông Sa tươi tỉnh nói với bạn:
- Ông cứ yên tâm đi! Sa này nói là làm. Chúng nó chẳng làm gì nổi tôi đâu. Tôi có 5 đứa con trai, hai thằng là liệt sĩ. Cả cái làng này, nhà nào đóng góp xương máu bằng nhà tôi. Trước hết họ phải trả lời câu hỏi của tôi “Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất” của tôi còn đây, tới năm 2013 hẳn hoi. Nếu tôi không bằng lòng chuyển đổi, san ghép ruộng đất thách anh nào dám bước chân xuống ruộng.
- Bác thông minh lắm, lập luận rất sắc sảo. Tôi kém hẳn bác, còn phải học ở bác nhiều lắm. Tôi hỏi thật bác nhé, câu này hơi gay đây: Bác định xử lý nhà Tư thế nào?
Ông Sa không cần úp mở nói ngay:
- Nợ máu phải trả máu! Tôi thề với trời đất. Tôi không bỏ qua đâu. Nếu tôi tha cho nó thì còn dân làng và gia đình tôi có chấp thuận không?
Ông Cộng gật gật. Đột nhiên ông lại hỏi:
- Còn chuyện cháu Hải nhà ông và cái Đào nhà Tư ông tính sao?
Ông Cộng lại theo dõi thái độ và sắc mặt biểu cảm của ông Sa. Ông Sa tỏ ra ngạc nhiên hỏi lại.
- Thằng Hải nhà tôi với cái Đào làm sao?
- Còn làm sao nữa, anh chị yêu nhau say đắm, lúc nào chẳng cập kề, xoắn xuýt bên nhau. Cả làng ai chẳng biết, ông khéo vờ thế? Một lúc ông Sa trả lời:
- Tôi đòi nợ máu với thằng Tư. Thằng Hải nhà tôi không thể lấy con Đào được. Phải cắt đứt với con Đào. Dứt khoát. Để chúng nó cưới nhau tôi và thằng Tư ngồi với nhau sao nổi. Nếu cái sẹo ở mặt được xóa đi thì tôi mới quên mối thù này.
Thật trớ trêu, hai ông bố hận thù suốt đời, hai đứa con lại yêu nhau. Thấy vậy ông Cộng xin phép ra về.
19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...