Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 1b

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 1b

CHƯƠNG HAI
1. Thi trượt đại học, nhưng em đủ điểm vào học Trung cấp Nông nghiệp mở ở tỉnh. Bố mẹ mừng lắm. Bố nói:
- Đất quê mình chiêm khê mưa thối. Đói nghèo quanh năm. Con cố học giỏi, mang kiến thức về giúp bà con nông dân cải tạo đồng ruộng.
Trường cách nhà chừng mười cây số. Hôm đến tập trung, em bước vào trường trước sự ngỡ ngàng của bọn con trai. Những cái nhìn đuổi theo sau như nói:
- Người đâu mà xinh tệ!
Tuổi dậy thì, thân hình cân đối, mắt đen láy, ánh sáng từ tinh mắt long lanh như hạt cườm, da mịn màng, bóng hồng như quả ổi đào chín trên cành. Hồi còn ở nhà, mỗi lần lội ao, hai núm vú hây hây hằn trên nền vải. Từ nơi sâu kín, những sợi lông tơ nhú mọc mềm mại. Hôm ấy, em mặc áo trắng điểm hoa cà, ngực được nịt gọn trong áo xu chiêng.
Lợi dụng cùng học một trường, nhiều kẻ đến làm quen em, ve vãn, tán tỉnh buông lời trầm trồ khen ngợi.
Nhưng riêng một người không chú ý. Đó là Tổ trưởng tổ học tập. Ngoài những lúc bắt buộc phải gặp nhau vào thời gian sinh hoạt tổ, còn lại là thái độ thờ ơ, lãnh đạm, coi sắc đẹp của em không đáng để ý, coi em như không có mặt trên đời. Thái độ của Tổ trưởng như một lời tuyên chiến. Đối lại, em tỏ vẻ ngạo mạn, coi thường, hở ra một câu là em khích bác. Lạ một cái là Tổ trưởng không hề phản ứng, đến nỗi đứa bạn gái cùng tổ phải kêu lên:
- Mày quá đáng quá Linh ạ. Thấy người ta hiền lại bắt nạt. Được đằng chân lân đằng đầu.
Có một điều chỉ có em và Tổ trưởng biết: Nơi xuất xứ của Tổ trưởng là làng Quyết Thắng đối thủ với làng Quyết Chiến. Như ngầm thỏa thuận, không ai nói đến điều ấy nên bạn bè trong lớp không biết.
Học được sáu tháng, một sự kiện xảy ra.
Nhà trường tổ chức chụp ảnh làm thẻ. Một tay thợ chụp ảnh xuất hiện. Hắn gầy, mắt sâu, khuôn mặt tóp, ẩn sâu trong mớ tóc xù, quăn queo như ca sĩ hát nhạc Rốc in trên họa báo, vạt áo sơ mi màu lòng tôm, sơ vin eo ếch trong đai quần màu tím than và chiếc thắt lưng vảy rắn. Chiếc máy ảnh nhãn hiệu ZENIT lủng lẳng bên hông. Hắn nói:
- Đám đàn bà ở thị xã xách dép cho em, con gái ở trường chẳng đứa nào ăn đứt. Được ăn mặc, em kém gì minh tinh màn bạc. - Miệng nói, nhưng ánh mắt của hắn ngưng lại trên ba ngấn cổ trắng ngần của em.
Không hiểu vì được khen hay vì cái nhìn mà mặt em đỏ rần rật. Hắn cười:
- Riêng em, anh xin chụp thêm một kiểu ảnh nghệ thuật treo làm mẫu.
Dẫu hồ nghi không tin, nhưng em thấy hắn bấm máy hai lần thật.
Nửa tháng sau hắn đến trường trả ảnh. Riêng em, hắn đưa thêm một phong bì.
- Của em đây! Hôm nào đến hiệu mà xem ảnh của em được anh phóng to treo làm mẫu.
Cái thật của hắn làm em rung động, một chút thiện cảm len vào lòng. Bức ảnh để trong phong bì, bọc tờ giấy pơ-luya màu hồng tẩm nước hoa thơm phức. Ảnh chụp em ngồi nghiêng, đôi mắt mở to ngơ ngác, tay đặt lên đùi, khóe miệng hé mở. Em nghi ngờ người con gái xinh đẹp trong ảnh kia không phải là mình.
Đem về lớp khoe, tụi bạn xúm xít xem. Tổ trưởng đi qua, mắt liếc nhưng im lặng. Sinh hoạt cuối tuần, Tổ trưởng nói lời xa xôi:
- Ban lãnh đạo nhà trường nhắc nhở mọi người: Trong khi còn là học sinh không được quan hệ yêu đương.
Tổ trưởng nói chung chung, nhưng em nghĩ Tổ trưởng cố tình ám chỉ. Đêm ngủ, em mơ thấy tay thợ ảnh đánh nhau với Tổ trưởng. Không ai thắng ai, nhưng khuôn mặt của tay thợ ảnh vênh váo đắc thắng, đôi mắt nhìn ác độc, còn Tổ trưởng mặt buồn như đưa đám và thẫn thờ như người bị mất cắp.
Tỉnh ngủ, nhớ lại giấc mơ, lòng em hẫng hụt, một nỗi buồn vô cớ lan nào lòng như đám sương mù buổi sớm. Vì sao, em không lý giải nổi.
Tưởng có vậy, ai ngờ tay thợ ảnh thích em thật. Hắn viết thư tỏ tình. Bức thư nào cũng có thơ. Em không thích thơ, nhưng những câu thơ hắn viết đọc thấy hay hay. Đôi bướm quấn quýt in trên trang thư như biết cất cánh, mùi nước hoa chờn vờn làm hai cánh mũi em phập phồng.
Chiều thứ bẩy, hắn đón sẵn ở cổng trường, đi xe Môkích màu đỏ rực, gạ đưa em về. Em không đồng ý, nhưng khi thấy Tổ trưởng đạp xe đạp đi qua, em nhảy phắt lên giục: “Phóng nhanh lên!” - Tay thợ chụp ảnh rồ ga, chiếc xe đi như bay. Thoảng trong làn khói, đôi mắt Tổ trưởng nhìn em như trách móc. Quay lại, tránh cái nhìn, bất chợt mũi em ngửi thấy mùi nước hoa lẫn mùi hôi nách tỏa ra từ thân thể tay thợ chụp ảnh. Em lợm giọng muốn nôn.
Điểm thi đua của tổ không đạt. Phần lớn bị ảnh hưởng do thành tích học kém của em. Trong cuộc họp, Tổ trưởng đề nghị mọi người giúp đỡ. Nhưng khi phân công tìm người giúp, ai cũng đun đẩy cho Tổ trưởng.
Tổ trưởng yêu cầu em tối thứ bảy và ngày chủ nhật ở lại để học thêm môn Triết học. Nghị quyết của tổ, em phải chấp hành. Chiều thứ bảy, tay thợ chụp ảnh và cái xe Môkích mầu đỏ lảng vảng đợi ngoài cổng trường. Chờ mãi không thấy em ra, hắn lên xe nổ máy ra về.
Tổ trưởng rủ em lên lớp, thắp điện, mở toang tất cả các cửa. Em hỏi:
- Sao không học ở nhà?
Tổ trưởng nói:
- Giữ cho Linh là chính.
Em dài giọng:
-Vâng... cảm ơn.
Tổ trưởng đứng trên bục y như thầy giáo. Em không ngờ môn Triết học khô như muối rang mà Tổ trưởng giảng hay thế. Giọng trầm ấm, lời lẽ mạch lạc. Em nuốt từng lời.
- Mình giảng Linh có hiểu không? - Tổ trưởng hỏi.
Cố chấp em trả lời:
- Hiểu in ít thôi.
- Môn Triết học là môn khó. Nhưng nếu đã hiểu thì lại rất thích. Nếu không hiểu chỗ nào Linh cứ hỏi.
Em tinh nghịch:
- Đề nghị phụ giảng thêm chỗ Thúy Kiều tắm!
Tổ trưởng đỏ mặt như vừa uống rượu.
Về đến cửa phòng ở, đột ngột em rủ:
- Ra cổng trường mua cái gì ăn đi.
Trời lạnh, gió bấc thổi thốc tháo, lá bàng rụng đầy sân trường. Lần đầu tiên đi đôi, Tổ trưởng ngượng, em vờ như không biết, chủ động sà xuống hàng ngô:
- Bà nướng cho chúng cháu hai bắp: - Buột miệng nói xong hai từ “chúng cháu” tự nhiên em xấu hổ. Cũng may trời tối, khuất ánh đèn không nhìn thấy má em hồng như than đang quạt. 
2. Theo anh trai kể thì ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Như vậy, nước Việt Nam và anh trai hơn tôi hai tuổi.
Nhưng hơn hai tuổi mà biết được bao nhiêu sự kiện xảy ra. Nghe chuyện mà tiếc. Giá mẹ sinh tôi ra sớm thì hay biết bao. Tôi sẽ được cùng các chị gái và anh trai đi đến mọi chốn, biết mọi điều, cưỡi trên bè, lênh đênh trôi dạt khắp nơi... Được gặp người đàn bà hiền hậu có khuôn mặt đẹp như Đức Mẹ; được cùng đi trong đoàn quân tiến về cướp chính quyền, họp mít tinh ở dinh tỉnh trưởng Phúc An.
Cứ lúc nào nghĩ tới hoặc có ai nhắc đến những sự kiện đã xảy ra trong những năm ấy, là tôi lại bức bối và tiếc nuối.
Nhưng thôi, bố thường nói: Con người sinh ra có số. Trời cho ai cái gì, người đó được nấy. Ghen tị, tiếc nuối chẳng ích chi.
Mấy hôm nay, bố cho thợ đóng xe nghỉ việc về quê. Mẹ sai chị nhớn xuống các làng thanh toán tiền cho thợ bắt rắn và bảo họ ngừng không bắt nữa.
Dì kể: Hà Nội có đánh nhau to, tỉnh Phúc An cũng sắp có loạn rồi. Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến: nhà cửa, vườn tược phải phá hết.
Bế tôi nằm võng dì lẩy Kiều: “Ngày vui chẳng được tày gang...”. Giọng dì buồn tênh, nuối tiếc.
Cán bộ Việt Minh đến vận động bố ủng hộ xe kéo tay cho bộ đội làm xe chở lương thực. Bố đồng ý. Ủy ban kháng chiến trưng dụng 50 chiếc. Họ viết giấy xác nhận công lao giúp đỡ kháng chiến. Mẹ cất kỹ những giấy tờ đó vào hòm.
Các dãy phố hai bên đường, tường nào kẻ chữ được là có khẩu hiệu kêu gọi: “Toàn dân thực hiện tiêu thổ kháng chiến”, “Toàn dân thực hiện vườn không nhà trống”. Giữa ngã ba căng biểu ngữ “Tỉnh Phúc An mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi đường phố là một mặt trận. Mỗi góc phố là một pháo đài”.
Lũ trẻ chúng tôi mang nồi đồng, chảo gang vỡ đập inh ỏi. Anh trai nhặt ở xưởng một đoạn vành xe, tay gõ “keng, keng, keng” mồm kêu rống riết: “Sướng quá! Sướng quá chúng mày ơi! Sắp đánh nhau rồi”.
Lạ? Người lớn chuẩn bị đánh nhau kêu vất vả, còn lũ trẻ con lại reo mừng.
Đường trong nội tỉnh xẻ ngang, xẻ dọc. Giao thông hào luồn qua các dãy phố. Nhân dân được huy động đào đất, xẻ hào, đắp ụ, chặt tre đóng cọc. Cây cối hai bên đường ngả xuống, cắt từng khúc dựng thành chiến lũy. Tường ngăn được đục thủng, xuyên nhà nọ với nhà kia. Bộ đội, tự vệ đông ngần ngật, hối hả, mặt ai cũng căng thẳng.
Thật tiếc! Đang hòa bình sống yên vui thế. Mới được hai năm, Chính phủ vừa khắc phục xong những hậu quả do nạn đói và nạn lụt năm bốn nhăm (1945).
Tỉnh Vĩnh Yên sát nhập với tỉnh Phúc An thành tỉnh Vĩnh Phúc.
Phúc An trở thành thị xã.
Các phố trong thị xã được đặt lại tên:
Phố Đệ Nhất đổi thành phố Trưng Trắc.
Phố Đệ Tam đổi thành phố Trưng Nhị.
Phố Đệ Nhị nhà tôi ở đổi thành phố Văn Miếu.
Các xóm nghèo trước đây được lấy địa danh và tên các nhân vật lịch sử ngày xưa đặt thành phố:
Phố Sóc Sơn, phố Quang Trung, phố Hoàng Hoa Thám, phố Trần Quốc Tuấn. Phòng thông tin của Pháp trở thành lớp dạy học xóa nạn mù chữ, nhà tù Tây nhốt Cộng sản được sửa sang thành nhà thương.
Mẹ khoe: Bà Lang kiêm mụ đỡ làng Nhuế được Việt Minh mời ra chữa bệnh và đỡ đẻ cho nhân dân.
Tôi nghĩ: Kỳ này mụ đỡ tha hồ mà vênh váo.
Bên kia phố, dưới chân đồi Thông là xóm Bái. Trước khi tôi có mặt trên đời, ở đó có nhà chứa gái, tiệm thuốc phiện, phòng hát cô đầu, ổ gá bạc. Sau ngày 19-8-1945, công an Việt Minh đến, giải tán những tụ điểm ăn chơi trác táng và xóm Bái được đặt tên mới là phố Lao Động. Còn Chùa Thông, sau ngày giành được Chính quyền, vào rằm, mùng một tấp nập người lên cúng bái, khói hương nghi ngút. Phố xá vui hẳn.
Mỗi lần được chia oản anh trai bảo:
- Giống như oản ông người thật coi chùa Thập Phương cho bọn anh hồi cướp Chính quyền và chạy lụt quá! Thiếu mỗi ổi đào thôi.
Giọng anh vẻ khoe khoang, tôi thầm tị, nhưng không dám nói, vì sợ anh giận không đưa đi chơi.
Nhưng mấy hôm nay, bố mẹ nhắc dì trông chừng lũ trẻ con. Dì bắt anh chị em chúng tôi ở tịt trong nhà, cấm tiệt không cho đứa nào ra ngoài. Mẹ nói:
- Không trông, chúng nó lại bỏ nhà đi như năm Ất Dậu thì chết.
Bố bảo:
- Ở nhà chờ lệnh chạy “tản cư”.
Tôi ao ước:  Trốn khỏi nhà và phiêu bạt với các chị và anh trai như hồi bốn nhăm (1945) thì thú bao nhiêu.
Dì xếp sắp quần áo cho vào túi vải, đóng gạo vào bao tượng, chuẩn bị quang, thúng, đòn gánh đem theo khi tản cư.
Chị nhớn ngồi trên bậu cửa, tay vê vê khăn mùi xoa thẫn thờ nghĩ ngợi.
Mẹ quệt vết trầu đỏ thắm dính hai bên mép:
- Nhẽ ra hôm nay nhà ông Quảng Đức Lợi đem trầu cau lên ăn hỏi đây.
- Dưới Hải phòng có biến. Nghe kể, tàu chiến Pháp bắn vào khu cầu Ca-rông tan nát hết cả. Chính quyền Việt Minh ở Hải Phòng bị mất rồi. - Bố nói trong khi xếp cuốn lịch Vạn niên và mấy quyển Kinh dịch vào túi.
Dì an ủi:
- Chắc chỉ mất nhà thôi chứ người chẳng việc gì - Dì nói giọng buồn như lúc lẩy Kiều - Xong giặc giã thì lại đâu vào đấy. Đến lúc ấy dưới Hải Phòng thể nào chả cho người lên đặt lễ ăn hỏi, định ngày xin cưới.
Hồi đầu tháng trước ông bà Quảng Đức Lợi ở Hải Phòng lên chơi. Ông nói:
- Tôi quý cháu vì cháu trọng mẹ kế như mẹ đẻ. Đấy là cái đạo, cái nghĩa của con người. Tôi được cháu về làm dâu coi như là nhà Quảng Đức Lợi được thêm chữ Phúc.
Bà vợ ông Quảng xuýt xoa:
- Bao nhiêu con gái mà cậu hai chẳng ưng ai. Cứ muốn lên làm rể Phúc An. Thôi đó cũng là bởi vì duyên, vì số.
Bố mẹ mừng chị nhớn được vào gia đình bề thế, giàu có nhất Hải Phòng. Nhưng dì thì thương chị phải lấy chồng xa. Nằm trên võng dì hát ru:
“Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho
Có con mà gả chồng xa
Trước là mất giỗ, sau là mất con”.
Mẹ nói ý xa xôi:
- Được làm dâu con nhà ấy là mừng. Gia phong cốt cách nhà người ta vang khắp Bắc kỳ, có tiếng tăm với cả thị trường Hồng Kông. Từ nay rắn rết, ếch nhái mang về đấy chẳng lo bị dìm giá. Có người nhà vẫn hơn.
Bố cười:
- Bà này nói như thật.
Ông bà Quảng Đức Lợi cho mụ mối lên hẹn ngày ăn hỏi, định ngày cưới. Thế mà bây giờ loạn lạc thành ra lỡ dở cả.
Gần tháng nay không có tin tức gì dưới Hải Phòng gửi lên. Nhà “Dây thép” bảo: Đường dây thép bị đứt không liên lạc được. Tin đồn toàn tin dữ. Cả nhà nhìn chị nhớn ra vào thẩn thơ mà thương.
Bố cho tự vệ tháo nốt những cánh cửa ở nhà ngang. Mấy anh tự vệ lấy trục xe bẩy. Cánh gỗ vỡ toác. Bố xót xa:
- Các chú nhẹ tay không hỏng hết bản lề cửa.
Anh tự vệ cười:
- Cả rừng thông trên đồi Thông còn phải chặt hết nữa là, tất cả mang ra dựng thành chiến lũy hết, giữ làm sao được hả bác!
Bố thở dài tiếc rẻ:
- Cửa đóng bằng toàn gỗ lim xanh xứ Thanh đấy các chú ạ!
Tiếng hát át tiếng bố:
“... Diệt phát xít! Giết bầy chó đê hèn của chúng. Tiến lên giành Dân chủ Cộng hòa...”
Buổi tối, ông ký ga Phúc An đến nhà chơi thì thầm với bố:
- Việt Minh không chắc giữ được Phúc An. Nhà bác tính thế nào?
Bố lưỡng lự:
- Theo Việt Minh lên rừng thì biết làm gì mà sống? Mình là dân buôn bán. Lên rừng buôn bán với ai? Mà ở lại sợ bị Tây trả thù. Bây giờ biết tin vào phe nào? Bà nhà tôi bảo: Chia làm hai, tôi và mấy cháu lớn ra vùng tự do, còn mẹ nó với mấy đứa nhỏ ở lại. Chờ xem binh tình ra sao. Nếu ở đâu dễ sống thì ở.
Mẹ tuy sinh ra ở vùng nông thôn, nhưng sớm hòa nhập vào dòng tiểu thương thành thị nên hay tính toán. Sự tính toán nửa ở, nửa đi là vậy.
Mẹ dặn bố:
- Chuyện này cần giữ kín. Đừng để cho Việt Minh nghe được. Đừng nói cho những người đã từng theo Pháp.
Thế mà bây giờ bố hở ra cho ông ký ga biết. Ông ta trước đây làm cho Tây, bây giờ làm cho Việt Minh. Hai lòng như thế, nếu ông ta nói ra với phe nào bố cũng khổ.
Ông ký về, bố đem chuyện nói với mẹ. Mẹ trách bố dễ tin người. Bố biết lỗi im lặng. Mẹ quả quyết:
- Trước hết cả nhà tản cư vào Châu Lam đã. Ở đấy một thời gian, chờ yên yên rồi tính sau. 
3. Chiều thứ bảy nào tay thợ chụp ảnh cũng đợi em ngoài cổng trường. Hắn thay chiếc xe Môkích mầu đỏ bằng một chiếc Công- pho trắng sứ lịch lãm. Khoác chiếc áo dài chấm khoeo màu xám, đội mũ phớt mềm, đi giày mõm nhái, miệng thổi khói viết thành chữ o thật khéo.
Em thích tay thợ chụp ảnh vì hắn biết nói lời nịnh đầm; biết gu con gái hay ăn quà vặt để dúi vào tay một gói ô mai hay phong kẹo. Ngày Quốc tế phụ nữ ngoài quà tặng còn kèm thêm lời chúc lịch lãm.
Quả thực có những đêm em đã nghĩ để rồi mơ về hắn. Mái tóc xù và khuôn mặt quắt thoạt đầu nhìn khó coi, sau nhìn quen dần. Hắn viết thư gửi đều đều, mặc dù chiều thứ bảy nào hai đứa cũng gặp nhau. Hắn bảo:
- Viết thư cho em để thỏa mãn nỗi bức xúc của người đang yêu.
Hắn nói như thi sĩ đọc thơ, đối xử với em như đã được em chấp nhận.
Rủ lên thị xã xem ca nhạc, hắn khoe:
Các anh ở phòng văn hóa thị xã ưu tiên anh lắm mới cho hai vé. Hôm nay có Thu Hiền và Trung Kiên hát.
(Không hiểu vì sao hắn hiểu cả ca sĩ mà em mê?)
Xem xong, hắn rủ đi ăn. Bụng đói, em đồng ý. Vả lại em thích ăn phở Phúc An. Hồi còn học cấp ba, em và bọn bạn hôm nào đi học có tiền chỉ rình trốn cơm nguội để ăn phở.
Hàng phở bán đêm nằm ở cuối phố, gần ngã tư. Ánh điện đỏ quạch, khói than mù trời, mặt đường lồi lõm, ngồi đằng sau, em giữ ý không ôm eo, xe bị xóc làm em mất thăng bằng, mông nẩy lên nẩy xuống, ngực nhấp nhổm va vào lưng tay thợ chụp ảnh.
- Thế này cũng mang tiếng thị xã, nghèo như chị Dậu.
Em bật cười vì cách ví von của hắn.
Ăn xong, hắn rủ:
- Tụi mình lên bờ sông Cà Lồ hóng mát đi?
Em từ chối:
- Khuya rồi, em về ngủ, ngày mai còn phải học.
- Nghỉ một buổi đã sao? - Hắn gạ.
Em kiên quyết không đồng ý. Trên đường về hắn im lặng. Đồ chừng hắn giận. Em hỏi:
- Anh giận em à?
- Không giận nhưng buồn. - Giọng hắn thành thật. Nghe, em mủi lòng, nghĩ tới sự nhiệt tình, nhớ tới buổi ca nhạc, nhớ tới bát phở gà bốc hơi nghi ngút. Lúc qua đôi Thanh Tước, gần đến lối rẽ về làng, sát bãi cỏ hồi bé đi chăn trâu, em buột miệng:
- Ta vào trong kia ngồi một lát. Nói xong, lòng xuất hiện cảm giác ân hận, em nói thêm - Ngồi một lúc thôi, rồi anh chở em về trường. Bác bảo vệ nghiêm lắm!
Hắn cho xe men theo sườn núi, em chỉ đường xuống bãi. Dựng xe, hắn mở yên lấy tấm vải mưa (hắn đã có ý chuẩn bị trước) trải lên mặt cỏ, vuốt mép vải:
- Em ngồi xuống đi.
Ngồi, em ý tứ giữ khoảng cách, khoan khoái duỗi hai chân trên thảm cỏ dày, tay bứt cọng cỏ đưa lên mồm nhấm nhấm. Móc túi lấy bao thuốc, hắn hỏi:
- Mé kia là làng em phải không?
- Vâng, ở chỗ ông trăng treo trên mấy lùm tre kia kia - Em chỉ tay.
- Có lần tụi anh đã đến làng em xem phim rồi.
Quả thực hồi ấy ở làng em, một tháng đôi lần có đoàn chiếu phim lưu động đến. Nhưng em vẫn nguýt:
- Anh nói phét! Làm gì có chiếu phim?
- Em về hỏi bố xem! Này, anh còn biết cả tên tục cũ của làng em đấy nhé! - Giọng hắn vơ vào.
- Anh nói xem? - Em cố chấp.
- Làng em ngày xưa gọi là Kẻ Đống, còn làng bên kia gọi là Kẻ Gò. Mãi đến hòa bình mới đổi thành Quyết Thắng và Quyết Chiến.
- Anh đến sao em không biết? - Em thừa nhận.
- Chắc lúc ấy em còn thò lò mũi xanh, ai thèm để ý! - Ánh lửa lóe sáng, soi rõ nụ cười ranh mãnh nở trên đôi môi thâm xì trước khi bập vào cán điếu thuốc.
- Lớn bằng ai mà ra dáng? - Em bĩu môi.
- Không bằng ai cũng hơn đằng ấy.
Em không trả lời.
Trăng lên quá tầm ngọn tre, sao trời thưa thớt, ánh bạc phủ trắng màn đêm, sương rơi ướt đầm; hơi lạnh thấm qua làn áo mỏng, em so vai. Hắn hỏi:
- Em lạnh phải không? - Hắn nhích về phía em.
Thoáng một chút hơi nóng phả vào sườn, em giật mình dịch ra. Hắn mở đầu:
- Em có thích nghề ảnh không?
Em trả lời:
 - Nhà nước đào tạo em làm nông nghiệp, có thích cũng chẳng được. Mà có muốn thì nhà em nghèo lấy tiền đâu mua máy?
- Sao em không chọn ngành khác? Học nông nghiệp thì thà rằng ở nhà làm ruộng còn hơn.
- Nói như anh mà cũng nói! Cũng là làm ruộng nhưng có học vẫn hơn chứ!
- Hơn gì! - Em cảm tưởng môi hắn trề ra - Anh nói thật đấy! Học về có khác gì đám “nông tồ” suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Em không chê nghề ảnh anh sẽ giúp!
Sau câu nói, hắn đặt một tay lên vai. Em đẩy tay hắn ra, nói:
- Thôi, ta về đi,
- Anh tưởng... - Hắn búng mẩu thuốc bay lên cao, tàn thuốc bung ra vẽ thành bông hoa lửa.
- Anh tưởng gì? - Em hỏi.
- Ààààà - Hắn ngập ngừng - Ngồi một lúc nữa em! - Hắn nài.
Em đứng dậy vươn vai: - Về thôi, muộn rồi, dễ bây giờ có đến mười hai giờ đêm?
Xong câu nói, em bước đi. Hắn nhỏm dậy, rất nhanh, cầm lấy tay em kéo ngoắt lại, ôm choàng lấy người em, khuôn mặt hắn lộ rõ dưới ánh trăng, cái miệng hôi xịt mùi thuốc lá gí sát mặt: - Anh yêu em... anh yêu em... - Hắn lảm nhảm như bị ma ám. Em đẩy hắn ra: - Ơ, cái anh này? - Câu nói bị cái mồm người đàn ông bịt chặt. Em giãy giụa, tay đẩy, chân đạp nhưng không thoát nổi bàn tay nồng nhiệt, ham hố. Em cong lưng, ưỡn ra đằng sau để thở, tránh mùi hôi nồng nặc phả vào tận cổ họng. Không ngờ, hắn lấy một chân đưa ra đằng sau như đô vật ngáng địch thủ. Em ngã uỵch xuống tấm ni lông, cả thân hắn đè lên người em, một tay hắn luồn dưới tấm áo, miệng thì thào - Em chiều anh, chiều anh đi... - Trong người em xuất hiện cảm giác lâng lâng, đê mê, dễ chịu. Hình ảnh mấy đứa trẻ chăn trâu chơi trò vợ vợ chồng chồng hiện về. Em lả người, mềm nhũn khuất phục. Nhưng khi cái vật nóng hổi giữa háng hắn chạm vào đùi, thì em bừng tỉnh. Một phản ứng tự vệ đột ngột trỗi dậy. Gần như vô thức, em co gối, đạp thật mạnh, cái đạp làm hắn bật ngửa về phía sau. Kèm vào đấy là tiếng rú đau đớn từ miệng hắn thốc ra: - Ối giời ơi, đau quá! Đau quá ối giời ơi. - Sau tiếng kêu, hắn lịm đi.
Tưởng hắn chết, em nhổm dậy, xốc lại áo quần... chạy. Như hồi bé chăn trâu ở bãi, chiều nào về muộn, đánh trâu chạy tắt cánh đồng, tránh bãi tha ma, men theo bờ đầm Vực về làng.
Bình thường, rất ít kẻ đám đi qua đầm Vực vào nửa đêm. Người làng thường đồn ở dưới đầm có con Nam Nam, nó hay hóa thành người con gái xõa tóc ngồi bên bờ đầm hát nỉ non.
Mặc kệ! Việc vừa xảy ra ở bãi chăn trâu còn đáng sợ hơn nhiều. Em chạy một mạch về nhà. Con chó vàng nhảy cỡn quay tít cái đuôi như phất cờ. Em đẩy cửa, cửa cài then. Em tần ngần đứng trước cửa lưỡng lự không biết có nên gọi hay không?
Trong nhà, trên bàn, ngọn đèn đầu xanh lét. Tiếng ngáy nhè nhẹ từ trong giường vọng ra. Đang mải nghĩ thì con chó vàng quẩn cạnh chân cứ chồm lên người mừng. Bực mình, quên cả giữ ý, em quát: “Vàng, im”. Tiếng ngáy trong nhà im bặt, giọng bố vang lên phá tan sự yên tĩnh;
- Ai đấy? Nếu là trộm thì nhà nay không có gì đâu!
Em không kìm nổi nữa: - Bố ơi, con đây, Linh đây, bố mở cửa cho con.
Bố vùng dậy, vặn bấc đèn, ánh sáng tỏa rộng. Bố mở cửa hỏi:
- Sao con về muộn thế này? Ai đưa con về?
Mồm em lắp bắp: - Con... con, con sợ quá bố ơi! - Em, ôm chặt bố. Từ trong giường mẹ hỏi:
- Con Linh ở trường về hả bố nó?
- Mình dậy lấy cho tôi lọ dầu gió. - Bố dìu em đi vào giường - Hình như nó phải cảm?
Mẹ vắt màn, đỡ em nằm xuống giường, vạch lưng, vạch bụng xoa dầu, miệng xuýt xoa:
- Có chuyện gì nói cho bố mẹ nghe. Con bị đuổi học à?
- Em cố lấy bình tĩnh kể cho bố mẹ nghe chuyện vừa xảy ra. Nghe xong, bố im lặng đi đến bàn thờ, châm hương, chắp tay khấn khứa. Quay lại bố nói.
- Hai mẹ con ở nhà, bố ra xem người ta sống, chết ra sao? Dẫu thế nào vẫn phải giữ tình con người.
Mẹ làu bàu: - Đồ khốn nạn! Nó mà hại một đời con gái của con Linh tôi sẽ giết nó!
Thế mới biết phẩm giá của con gái đối với mẹ là vô giá.
Bố đi, ở nhà mẹ và em khắc khoải chờ. Em tưởng tượng: Chốc nữa bố vác cái xác tay thợ ảnh không còn hồn để nằm sóng soài dưới sân; em mường tượng ra khuôn mặt xệch xạc bê bết máu, mái tóc bồng bềnh phủ lên đôi mắt mỗi khi cười, trông như sợi chỉ căng ngang.
Có tiếng động ngoài sân, em nép vào lòng mẹ. Một tâm hồn già nua, bủng beo ôm ấp, che, chở cho một tâm hồn non nớt, thơ dại, lần đầu tiên phạm tội. Tội ấy thật khủng khiếp: Tội giết người.
Bố bước vào, mẹ chồm dậy:
- Nó đâu? Sao không đưa nó về?
- Chẳng thấy ai cả! - Bố thủng thẳng đáp - Xe máy cũng không thấy đâu. Chắc chỉ bị ngất thôi, tỉnh dậy lại đi được.
Em lảo đảo đảo ngã vật xuống nước mắt chảy đầm đìa, cổ nghẹn nấc, người giật đùng đùng, cơn sốt bất chợt kéo về, toàn thân nóng hầm hập. Lát sau, một cơn sốt lạnh kéo đến toát dọc xương sống, toàn thân giá buốt. Mẹ đắp lên người ba cái chăn mà em vẫn lạnh. Trong cơn hoảng loạn mê man, em lơ mơ nhìn hương cháy trên ban thờ sáng như đôi mắt bà ngoại nhìn. Bà bước xuống, dang tay đón, ghì chặt em vào lòng, cất tiếng hát ầu ơ. Em nhoẻn cười, hơi ấm từ da thịt bà tỏa ra, em ngả đầu, áp ngực bà tin tưởng. Những sợi tóc bạc phơ, mềm mại, mơn man lên hai má đỏ như bồ quân của em. 
4. Tôi rất khó chịu lúc đang ngủ bị đánh thức. Chính vì thế, khi người bị chao như đưa võng, xóc như xóc ốc, tôi làu bàu.
Có tiếng ai quở: - Thằng này ngủ như lợn! Tây đuổi đến nơi vẫn ngáy pho pho!
Thì đúng rồi! Tôi chẳng đẻ năm Hợi, cầm tinh con lợn đấy thôi! Còn Tây? Đấy là chuyện của người lớn, đâu phải chuyện của lũ trẻ ranh. Nói thế mà cũng nói! - Nghĩ vậy, tôi định tiếp tục ngủ như không có gì xảy ra thì bỗng nhiên, có cái gì đập rất mạnh vào lưng khiến tôi bừng mắt. Trời tối om, những ngôi sao tít trên cao nhấp nha nhấp nháy. Xung quanh lờ mờ những bóng người tay xách, nách cầm, gánh, gồng, khuân, vác... Thậm chí có người đầu còn đội các thứ hối hả chạy. Tôi nhận ra mình đang nằm trong thúng và được dì quẩy. Vì chân thọt, nên mỗi khi dì bước, cái thúng nhâng lên, thụt xuống như giã gạo. Thi thoảng, lưng của tôi bị những mô đất cao hỏi thăm đau ơi là đau.
À, ra là dân Phúc An chạy tản cư. Sau khi phá nhà, chặt cây, đào đường thực hiện khẩu hiệu “Vườn không nhà trống” xong, theo hiệu lệnh của Ủy ban Kháng chiến dân thường, đàn bà, trẻ con tản cư vào An toàn khu Châu Lam.
Mẹ đội một cái đẫy vải to chạy vượt lên:
- Dì mệt chưa? Chị đổi cho một tý!
- Em còn đi được! - Dì trả lời rồi hỏi - Từ đây vào đấy còn xa không chị?
- Thấy bà Đỡ bảo phải vào hang Dơi, nếu cần phải vượt đèo Nhe, sang tỉnh Thái Nguyên.
Hang Dơi, đèo Nhe! Những cái tên nghe buồn cười thật! Tôi nghĩ đến cái tên, còn cố tình ra vẻ không để ý có bà Đỡ đi cùng, dẫu bà có công đỡ tôi! Thậm chí trong gia đình ai cũng nói: - Không có bà Đỡ thì lấy đâu ra cu Thừa.
Nói bậy! - Tôi cãi thầm - Tôi do mẹ đẻ, cái tên Thừa bố đặt, chứ có phải do bà đỡ đâu! Bà ta không đỡ đã có người khác! Nói của đáng tội, hôm mẹ đẻ, không vì cả nhà sợ tôi chết thì còn lâu tôi mới ra. Tôi mà không ra thì lấy đâu chuyện để bà kể công?
“Bụp... bụp” lưng tôi đập liền vào hai mô đất cao như bị đánh, đau quá tôi khóc ré lên. Dì xuýt xoa:
- Nín đi cu Thừa. Dì xin lỗi. Đừng khóc! Khóc Tây nó nghe thấy thì chết.
Tôi nín bặt. Anh trai có lần nói: - Bọn Tây ác lắm! Ác hơn cả ông Ác trong chùa Thập Phương. Ông Ác ở chùa chỉ bắt những kẻ nào đến nghịch ngợm thôi, chứ bọn Tây bắt được, không có tội nó cũng giết. Tôi biết, anh trai nói phét, chứ thực ra, anh cũng đã biết thằng Tây mặt ngang, mũi đọc thế nào đâu.
Trời sáng dần. Đã nhìn rõ dòng người tản cư. Nét mặt ai cũng lộ vẻ căng thẳng, lo lắng. Đi cùng tốp với gia đình tôi là những gia đình ở cùng phố. Vô tư nhất là lũ choai choai, hợp thành một nhóm, vừa đi vừa nhảy lò cò, thi thoảng thò tay ngắt nụ sim, hoa mua và hoa đơn mọc hai ven đường. Những đứa trạc tuổi anh trai tôi được cõng, còn lũ oắt bọn tôi đều được gánh được địu sau lưng.
Có tiếng súng nổ vọng lại. Bố nói:
- Tây vào tới Phúc An rồi đấy!
Một người hàng phố góp chuyện:
- Không biết Việt Minh giữ được bao lâu?
Một người nữa:
- Nghe nói bọn Tây tràn từ Vĩnh Yên xuống; lính khố xanh nống từ Bắc Ninh sang. Người đồn mặt trận Thủ đô vỡ, Cụ Hồ và Chính phủ Việt Nam rút khỏi Hà Nội rồi.
Có tiếng thở dài, cả đoàn người im lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng bước chân rậm rịch.
Dì đổi gánh cho mẹ. Mẹ gánh khéo hơn, lưng tôi không bị va vào những mô đất cao nữa.
Đoàn người đi dưới chân một dãy núi thấp như núi Thanh Tước, nhưng dài hơn nhiều. Chị nhớn bảo:
- Đến núi Thằn Lằn rồi.
Nhìn kỹ, dãy núi chạy dài hệt như con rắn thằn lằn đang rình mồi. Lấp ló trong rừng cây là con đường mòn ngoằn ngoèo dẫn lên núi. Trên mỏm núi nhô cao như đầu rắn, có hai cái nhà tròn trông như mắt rắn, lồi ra nhìn xuống đoàn người đi.
Bà Đỡ lên tiếng:
- Lô cốt của tụi Tây đấy!
Có tiếng người hỏi:
- Xây giỏi nhỉ?
- Chuyện! - bà Đỡ ra vẻ hiểu biết - Bắt phu phen khuân vác, phục dịch xây dựng chứ bọn nó làm gì được.
Thêm một câu hỏi:
- Bây giờ ai ở?
Vẫn là bà Đỡ trả lời:
- Đang xây dở thì bị quân ta đến. Bọn Tây bỏ của chạy lấy người - Câu cuối bà nói giọng tự hào.
Bố bắt chuyện:
- Bây giờ Việt Minh chạy, nay mai Tây về chiếm lại thể nào nó chả xây tiếp?
Không biết nói sao, bà Đỡ tảng lờ như không nghe thấy, nhưng ánh mắt nhìn bố như trách: “Ông mang tiếng người có học mà hỏi rõ ngớ ngẩn”.
Mẹ càu nhàu:
- Chuyện đại sự, mình biết gì mà tham gia.
Mẹ ý nhị gàn, sợ có người để bụng không nói nhưng chấp lời bố. Thời buổi nhiễu nhương, biết ai tốt hay xấu mà lường.
Đúng lúc bụng tôi đói, thì tất cả được lệnh dừng lại nghỉ. Người ra lệnh là bà Đỡ. Không hiểu sao ai cũng nghe bà ấy nhỉ? Tôi chợt nhớ mẹ kể: Ngay những ngày đầu giải phóng tỉnh lỵ Phúc An, bà Đỡ đã theo hẳn Việt Minh, được Ủy ban khởi nghĩa cho làm cán bộ y tế, cán bộ quyên góp tiền của cho Việt Minh. Bây giờ bà được phân công giúp dân Phúc An chạy tản cư ra khỏi vùng tự do. Chắc vậy nên ai cũng phải nghe.
Bà Đỡ đứng giữa mọi người, xốc lại chiếc bị đeo trên vai, thắt lại bao tượng bằng nhiễu tằm tơ, hắng giọng:
- Tất cả bà con nghỉ một lúc, tranh thủ ăn cơm xong ta lại lên đường. Từ đây vào tới khu căn cứ còn xa, mà chửa biết chừng còn phải vượt đèo Nhe sang Thái Nguyên.
Có tiếng hỏi:
- Ở những nơi ấy có chợ để chúng tôi làm ăn buôn bán không?
- Việc này không thấy các đồng chí Ủy ban Cách mạng nói - Bà Đỡ lúng túng trả lời - Tôi chỉ biết được lệnh dẫn bà con chạy vào núi tránh Tây, còn thế nào tôi không biết!
- Đem con bỏ chợ! - Một lời trách cứ.
- Nếu ông không muốn đi, ông có thể dẫn gia đình quay về! Cách mạng chỉ vận động chứ không ép buộc - Bà Đỡ nhìn thẳng vào mặt người vừa nói, trả lời.
- Lang vườn, mụ Đỡ mà ra dáng phết. - Có tiếng mỉa mai.
Bà Đỡ lặng im không đáp, giục mọi người: - Khẩn trương để còn đi. Nếu không, bọn Tây đuổi theo, bắt được sẽ giết hết.
Mọi người mở túi lấy cơm nắm cắt thành từng lát bày vào nón, hái lá cây thay đĩa xẻ muối vừng ra chấm. Mấy đứa trẻ chưa ăn quen, u oa khóc. Những cái mồm người lớn uể oải nhai. Chẳng ai muốn ăn vì lo lắng không biết ngày mai cơ sự sẽ ra sao?
Dì lấy cơm nhá, bụm miệng mớm cho tôi. Bà Đỡ đến chỗ hai dì cháu, vuốt má tôi, khen:
- Cu Thừa ăn ngoan hỉ! - Bà mở tã sờ xem tôi có tè dầm không, lấy tay vân vê đầu “chim” - Lớn lắm rồi, bao giờ lấy vợ nhớ cho cô ăn cỗ.
Tôi cong người giãy nảy không đồng ý. Bà cười:
- Đáo để, đáo để! Nó còn bực tôi từ hồi mới đẻ đấy mà. Nói cho con biết nhá! - Tay bà dí vào trán tôi - Sống được nhờ ba cái phát ấy đấy con ạ!
Mẹ đưa cho bà xắt cơm: - Ăn một miếng đi.
Bà Đỡ tay cầm, mắt nhìn bụng mẹ: - Thời loạn lạc đẻ ít thôi!
Mẹ liếc bố cười tủm. 
5. Đêm hôm ấy, thấy thiếu em, mọi người trong trường nhốn nháo. Phòng Giáo vụ cho người tỏa ra khắp các ngõ đi tìm. Phân công người mò ở ao, chuôm, hồ, nơi em hay mang sách ra ngồi ôn bài.
Các cán bộ lớp được triệu tập khẩn trương. Thầy Hiệu trưởng đề xuất:
- Báo cho công an biết.
Tổ trưởng là người duy nhất biết em đi với ai, phát biểu:
- Báo cáo với các thầy, lúc chiều tan học, em thấy người nhà bạn Linh đến đón. Chắc gia đình có chuyện? Em nghĩ xong việc bạn ấy sẽ về trường nên không báo. Đề nghị nhà trường cho em về quê bạn ấy xem tình hình cụ thể.
(Câu chuyện trên về sau em được nghe kể lại. Nhờ đó mà em không bị kỷ luật vô tổ chức).
Mờ sáng, nghe tiếng gọi, bố ra mở cổng, Tổ trưởng trình bầy lý do. Bố nói:
- Có! Đêm qua, em nó về muộn, không kịp về trường. Tôi định hôm nay đến trường báo cáo xin các thầy cho em nghỉ mấy hôm. Khổ, con bé sốt xình xịch suốt đêm.
Nghe bố trình bày, em nằm giả vờ ốm ghê lắm. Tổ trưởng ngồi cạnh giường gọi:
- Linh... Linh... Linh mệt lắm phải không? - Bàn tay Tổ trưởng mát rượi áp lên trán em. Một luồng điện tự cảm xuất hiện, chạy dọc thân thể, ngưng lại nơi con tim, làm cho nó phập phồng, thổn thức.
Mắt nhắm, nhưng lòng em tràn xúc động, nước mắt ứa ra, toàn thân run run... Ngón tay thanh mảnh của Tổ trưởng nhẹ nhàng gạt những sợi tóc vương trên mặt, lấy khăn mùi xoa chấm cho em những giọt nước mắt. Chỉ những hành động nhỏ nhoi ấy mà làm cho trái tim em bừng tỉnh. Khoảng xa cách giữa em và Tổ trưởng như thấy thật gần, thật gần.
Chợt Tổ trưởng nói:
- Mình phải về để báo cho nhà trường biết. Linh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, đừng lo lắng gì cả. Bài vở mình sẽ chép cho. Chiều nay, bạn bè trong tổ sẽ đến thăm.
Bàn tay mát rượi nhấc lên, khoảnh khắc chia xa nhen vào lòng em hụt hẫng. Nếu có thể, chắc lúc đó em sẽ ghì chặt bàn tay ấy, để mãi mãi truyền sang em một niềm tin, bù những nỗi sợ hãi mà đêm qua em gặp phải.
Bố, mẹ tiễn Tổ trưởng ra ngoài sân, em nghiêng đầu, hé mắt nhìn theo. Hình ảnh ấy, con người ấy, không ngờ là định mệnh theo suốt những năm tháng còn lại của đời em.
Ép em uống cốc sữa xong, mẹ bảo:
- Con lớn rồi, lựa người mà chơi. Mình là con gái nhà lành, hoàn cảnh nghèo, không với được những nơi cao xa đâu.
Bố ngồi dưới cuối giường, lật tấm chăn mỏng, xoa xoa vào mu bàn chân em, giọng trầm ấm, nhẹ nhàng:
- Bố mẹ có mỗi mình con, có mệnh hệ nào, bố mẹ nương vào ai? Con có thương bố, thương mẹ thì cố gắng học hành. Nay mai ra trường, công việc ổn định, ai thương yêu mình chân thật thì lấy. Đừng “khôn ba năm dại một giờ” con ạ.
Em nằm yên, lòng trào dâng một nỗi xót xa ân hận. Có những lúc như thế này mới cảm thấy tình thương yêu của cha mẹ vô bờ vô bến. Em thấy mình sao vô tình. Nếu đêm qua, sự việc xảy ra khác, em sẽ ăn nói thế nào với những người thân?
Đồng lõa với ánh trăng là màn sương bạc, là bàn tay ma quái chờn vờn khêu gợi, thân thể hừng hực đầy đam mê cám dỗ... Chỉ một giây phút tự quên trong khát thèm nữa thôi, bờ vực thẳm khôn cùng sẽ nhấn chìm một đời con gái. Em rùng mình, cố xua đi những hình ảnh đã qua. Dọc đốt sống, một luồng điện lạnh buốt, hãi hùng chạy suốt...
Mãi cho tới khi khuôn mặt của Tổ trưởng hiện lên, em mới xóa đi được những nỗi khiếp đảm vương vấn trong lòng. Người con trai hiền lành, ham học, lúc nào cũng để mắt đến em, chăm sóc em với sự nhút nhát, e dè. Những lần em cố tình ngang bướng cãi lại, Tổ trưởng chỉ nhìn em thầm trách móc, tuyệt nhiên không một lời nặng nhẹ.
Biết “thóp” Tổ trưởng thích mình, em lấy điều đó để trêu chọc lại. Bởi vì, trước Tổ trưởng, trái tim em không cảm thấy rung động. Như mách bảo đó là sự kiêu kỳ của người con gái được kẻ khác si mê. Muốn dằn vặt để người con trai hạ mình. Cùng với quan điểm của các bạn đồng giới, em dựa vào sắc đẹp trời phú, thay mảnh nam châm hút hồn các chàng trai. Hành động quá đà của tay thợ chụp ảnh là bài học “chơi dao có ngày đứt tay” cảnh cáo em. Nhờ đó, hình ảnh Tổ trưởng nổi lên như một trang nam tử có ý nghĩa. Em nhớ lại những buổi học thêm, nhớ vị ngọt bùi và mùi khét của bắp ngô nướng qua than; nhớ chùm hoa phượng và tiếng ve râm ran giữa sân trường; nhớ ngọn lửa cả lớp đi cắm trại bên bờ hồ Đại Ngọc.
Em lật tấm chăn ngồi dậy đi ra cửa. Nắng vàng yếu ớt lọt qua lớp mành cửa. Đã cuối thu, gió nhẹ đu ngọn tre, tiếng sáo diều trên tít tầng không “Uuuuu...” vọng về. Sao mà em nhớ trường, nhớ lớp thế không biết! Mới chưa đầy một ngày mà em tưởng như đã xa hàng tuần. Em ngồi bậu cửa mong các bạn tới. Không biết Tổ trưởng có giữ lời hứa đến thăm không? Có xa mới thấy những người quanh mình thân thiết làm sao!
Chợt em có cảm giác hình như có người nhìn từ phía sau... Em rờn rợn, tóc gáy dựng đứng, tim đập gấp... Em quay phắt lại. Không! Chẳng có ai, ngoài tấm hình bà ngoại. Đôi mắt Người nhìn em như trách móc sự nông nổi. Em tránh không dám nhìn lại, trong lòng cảm thấy mình như người có lỗi.
Bà ơi, giữa cuộc đời, cháu mảnh mai yếu ớt làm sao! Chắc bà sợ cháu của bà sẽ làm ô uế thanh danh? Không đâu bà ơi, đấy chỉ là sự lầm lỡ của tuổi trẻ. Bà đừng giận cháu bà nhé! Bà hãy phù hộ cháu. Hãy cho đôi chân của cháu cứng cáp bước trên đường đời đầy chông gai và gian khó.
- Linh làm gì đấy con? Đỡ mệt chưa mà đã dậy? Tiếng mẹ hỏi làm em giật mình.
- Mẹ ơi, mẹ kể về bà ngoại cho con nghe đi.
Tay mẹ cầm rổ ổi, những quả ổi da mỡ màng, nhìn thấy đã ứa nước miếng:
- Mẹ hái sẵn chốc nữa bạn con đến cho chúng ăn - Mẹ chọn cho em một quả. Quả này ở cành dưới gốc đây con, quả hái dưới gốc bao giờ cũng ngon hơn.
- Vâng! - Em đón trái ổi, nhắc lại câu hỏi - Mẹ còn nhớ gì về bà ngoại không?
- Thực ra, - Mẹ nói - Những chuyện hoạt động Cách mạng của bà là do những người cùng thời với bà kể. Bản thân họ cũng chỉ được nghe rồi nói lại. Chẳng biết có thật không? Nhưng dẫu gì thì gì, bà ngoại con là người thoát ly theo Cách mạng rất sớm. Chỉ tiếc những người công tác với bà đều hy sinh cả nên không có ai xác nhận công lao của bà để làm thủ tục công nhận bà là liệt sĩ, được cấp bằng chứng nhận gia đình có công với Chính phủ.
- Thế bức truyền thần kia, ai vẽ cho bà hả mẹ? - Em hói:
- Sau khi bà ngoại bị Tây bắn chết một thời gian, có người cầm bức truyền thần này đem về cho nhà. Mẹ chỉ nhớ ông ta cao, to, mắt bị chột đến nhà đưa cho. Lúc ấy cụ ngoại ôm mẹ, nhìn ảnh khóc nhiều lắm.
- Bà bị Tây bắn ở đâu hả mẹ?
- Họ nói ở đồi Thông, mé gần bệnh viện Phúc An. Bắn xong, bọn Pháp ra lệnh phơi xác bà mấy ngày, nhưng ngay đêm hôm ấy xác bà bị mất tích. Người thì bảo chúng bắn bà chỉ bị thương nên bà trốn thoát được. Người thì bảo Việt Minh có phép tàng hình vào cõng bà đi. - Mắt mẹ rơm rớm.
- Thế còn ông ngoại? Không có tin tức gì hả mẹ? - Mẹ cũng chỉ được nghe nói thôi! Đâu như ông bị bắt rồi bị đày ra Côn Đảo rồi chết ở đấy! Nếu không, ông đã về. Sau ngày giải phóng miền Nam, bố mẹ bàn với nhau: lấy ngày bà mất làm ngày giỗ ông ngoại luôn cả thể.
Em nghe rõ tiếng thở dài của mẹ.
Thêm một điều hôm ấy em mới biết: Không chỉ có ông bà nội có giỗ chung, mà ông bà ngoại cũng vậy.
Ngoài ngõ có tiếng xe đạp, em hồi hộp nhìn ra, quên bẵng chuyện đang nói với mẹ. Điều em mong là sự thật. Trước tiên, khuôn mặt Tổ trưởng hiện ra, sau, lố nhố các bạn cùng lớp. Nước mắt em trào ra ràn rụa, cố kìm lại, nhưng không được. Em òa lên khóc nức nở. Các bạn ùa vào xúm quanh; có ai đấy ôm lấy em, ghì chặt như sợ em biến mất. Mắt em nhòe nhoẹt, lòng em thổn thức.
Trong suối nước mắt của em hôm ấy, có hai dòng hòa lẫn: tủi hổ và xúc động.
6. Càng đi sâu vào rừng, đường càng khó đi. Núi Thằn Lằn lùi lại phía sau và nó trở nên thấp bé khi trước mặt chúng tôi là dãy núi Tam Đảo hùng vĩ mướt mát một màu xanh. Dòng người tản cư dãn dần thành từng nhóm. Gia đình tôi tụt lại gần tốp cuối. Bà Đỡ bảo:
- Đi cố, không đến tối không đến được địa điểm tập kết.
Ở rừng trời mau tối lắm, đoàn người len lỏi theo đường mòn dẫn vào một bản nhỏ. Trước khi vào bản phải đi qua con suối cạn. Bà Đỡ nói ra về hiểu biết:
- Đây là con suối từ trên dãy núi Tam Đảo chảy về. Bây giờ nó ít nước trông hiền lành thế thôi, chứ vào mùa mưa, lũ tràn về khéo chạy không kịp.
Nghe bà nói, tôi nhớ cơn lũ năm bốn nhăm trong chuyện anh trai kể. Trong khi đó bà vẫn liến láu:
- Đây là vùng bà con người dân tộc Sán Dìu. Tuy họ ít học, xa thành thị, nhưng tấm lòng của bà con ở đây tốt lắm. Các đồng chí trong Ủy ban dặn tôi: Vùng Châu Lam là cái nôi của cách mạng tỉnh ta. Hồi hoạt động bí mật, chuẩn bị lực lượng cướp chính quyền, bà con người dân tộc nuôi giấu cán bộ, tích lũy lương thực, tinh thần Cách mạng cao lắm!
Tôi ngạc nhiên nghe bà nói. Mới tham gia hoạt động cho chính quyền được vài năm mà bà Đỡ nói như diễn thuyết, hiểu biết như người có học, ra dáng cán bộ.
Có tiếng hỏi:
- Nghe nói vùng này nhiều cọp lắm phải không?
- Hôm nọ - Bà kể - Họp cán bộ, có đồng chí người dân tộc vùng này ra kể: Cọp Tam Đảo về, ban ngày mà bắt mất hai con trâu thả trên nương.
Nghe thấy vậy, mọi người không ai bảo ai đi sát vào nhau. Chị nhớn cõng anh trai đi gần vào dì, tóm lấy cổ tay, mắt nhớn nhác nhìn sang hai bên rừng cây rậm rạp. Còn tôi nghe hãi són cả nước đái. Dì ca cẩm:
- Kể chuyện gì không kể, lại kể chuyện cọp với ma làm tụi trẻ sợ.
Bà Đỡ chừng như biết lỡ lời liền bảo:
- Mọi người cứ yên tâm. Bà con người dân tộc thiểu số ở đây sống quây quần theo làng như dưới xuôi ta, xung quanh làng có rào chống thú dữ.
Gọi là làng nhưng chỉ có vài chục nóc nhà lụp xụp, tum hủm, nhỉnh hơn mấy cái quán ở chợ Phúc An một tẹo. Chẳng thấy một người nào ra đón. Chiều sậm sùi, hơi nước bốc lên từ con suối cạn, cây cối im lìm. Nếu thi thoảng không có tiếng súng từ xa vọng lại thì có cảm tưởng đây là vùng đất chết.
Mọi người dừng lại trước hàng rào.
Gọi là rào chứ thực tế chỉ là nhũng cây tre gai vòng gác lên nhau trông sơ sài. Cổng ra vào là một tấm phên đan bằng tre, thưa huếch thưa hoác, lớn như bố tôi còn chui lọt, thế mà bà đỡ nói phét là thú dữ không vào được. Giá con chó vàng của nhà tôi chưa bị thịt mà đi theo thì một phát nhún là nó qua ngay.
Một người nhanh nhảu định đẩy cánh cổng. Bà Đỡ quát:
- Muốn ăn tên hay mác hả? Đứng đây chờ.
Quả thật, được một lúc, chừng như những người trong làng đã nhận ra chúng tôi, có ba người đi ra, mặc quần áo nhuộm nâu, vai khoác nỏ, lưng đeo ống tên, tay cầm dao cán dài, mũi cong, lưỡi mài sáng loáng. Người cỡ tuổi bố lên tiếng:
- Có phải dân Phúc An không vớ?
Bà Đỡ nhanh nhảu:
- Đúng rồi vớ. Cán bộ Cách mạng dặn cứ vào đến làng Đồng Câu sẽ có người dẫn đi. Có phải đây là làng Đồng Câu không?
- Đúng rồi! Làm mình chờ mỏi cả mắt. - Ông nói - Tối rồi, sáng mai con gà rừng có gáy thì đi vớ!
Ông phân vài gia đình vào một nhà. Nhà tôi và hai gia đình nữa vào một căn nhà một gian hai chái. Trông ngoài nhỏ mà vào trong rộng rãi ra trò. Mái nhà lợp cỏ gianh, tường trát đất vách, cột bằng gỗ mầu nâu, bóng nhẫy như bôi mỡ. Bố bảo:
- Cái nhà này làm toàn bằng gỗ quý.
Trong nhà không có đồ đạc, giường đóng bằng tre, kê sát nhau thành dãy dài. Trên tường bàn thờ còn nguyên, phía sau bát hương là những lá bùa giấy màu vàng viết chữ nho màu đen. Dì chọn một góc nhà đặt các thứ xuống như xí chỗ. Những gia đình khác cũng vậy. Tuy là nền đất nhưng được nện chặt, mặt phẳng lỳ. Anh trai nói:
- Được nền này chơi đáo hay bắn bi sướng nhất.
Chị nhớn lườm:
- Nặng như cối đá lỗ ấy! Ngồi trên lưng người ta còn nhong nhong.
- Em là lão Tàu ô, chị là con ngựa cho em cưỡi.
Chị hai, chị ba thấy dì rải chiếu liền nằm ềnh ra thở.
Mẹ nhấc tôi ra khỏi thúng, vạch vú nhét vào miệng:
- Khát lắm hả con? Chốc nữa, mẹ bảo dì chắt nước cơm cho con uống thêm.
Bố nói đúng: Phàm đứa nào cầm tinh con gì đều có đặc tính con ấy. Như tôi chẳng hạn, phàm ăn, vớ cái gì cũng ngậm vào mồm. Chưa bú đủ là làu nhàu, thậm chí còn lấy mấy cái răng sữa nhay đầu vú mẹ.
Bà Đỡ lăng xăng, đến hết chỗ này lại chỗ khác. Khi đến gia đình tôi, bà bảo:
- Dì nấu cho tôi ăn với. Nhưng tôi dặn này: Người dân tộc Sán Dìu coi trọng chuyện bếp núc lắm! Củi đun phải róc mấu sạch sẽ, khi nấu cho gốc vào trước. Ý nói: có gốc mới có ngọn, có trước mới có sau. Mặc dù bà con không có ở đây, mình vẫn phải giữ phong tục tập quán của đồng bào. Tôi dặn để mọi người giữ gìn. Còn bây giờ tôi sang phổ biến cho các gia đình khác.
Ối dào, vẽ chuyện! - Tôi thầm nghĩ.
Mẹ hỏi:
- Thế chưa đến nơi ư bà?
- Còn ốm! - Bà Đỡ trễ dài môi - Đây mới đến Đồng Câu. Còn mướt mới đến hang Dơi. Nếu cần phải trèo qua đèo Nhe chứ chả chơi. - Câu cuối bà nói như dọa.
Mọi người nhìn nhau, nỗi lo lắng hiện lên mặt. Nhưng dẫu sao vẫn phải ăn cái đã. Bếp chật, bố ra sân chọn ba hòn đá kê thành bếp. Dì lấy trong thúng ra cái nồi đồng điếu, dốc gạo ở trong bao tượng vào rồi đi ra suối. Dì bảo:
- Đứa nào đi với dì lấy nước về đun nước uống. Không chốc nữa tối mịt không lấy được.
Chị hai hỏi:
- Dì ơi, đựng nước vào đâu?
- Chậu thau dì để dưới đáy thúng ấy.
Những người đàn bà bắt chước đi làm theo. Đám đàn ông xúm lại một chỗ giở điếu ra hút thuốc lào.
Chị nhớn chừng như nguôi chuyện cưới xin, mặt bớt buồn rầu. Chị vào bếp bê từng đon củi được bó cẩn thận ra nhóm. Bố dặn:
- Nhớ cho đằng gốc vào trước, bếp kê bằng đá tảng, đun nấu cẩn thận không mất ăn.
Ông già người dân tộc Sán Dìu đi qua nhìn chị nhớn đun, gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
Anh trai nhặt que vạch xuống đất một vạch ngắn một vạch dài, cách nhau độ vài bước chân, mở túi lấy mấy đồng xu ra gạ mấy đứa cùng phố đến chơi. Một lúc đã thấy tiếng ồn ào, cãi cọ của lũ trẻ con.
Vài ba ngọn nến được thắp lên, dì cẩn thận đem theo chiếc đèn dầu, dì bảo:
- Nhà mình thắp đèn, khi nào hết dầu mới dùng tới nến. Quả thực dì là người chu đáo. Ngay trong công việc ở nhà, nếu không có dì là mẹ tôi thấy bấn bó vô cùng. Trên đường chạy tản cư, hầu như mọi việc đều một tay dì quán xuyến.
Nhà tôi dọn ăn sau cùng. Mẹ nói:
- Chờ bà Đỡ về cùng ăn. Người đâu mà tốt nết! - Mẹ khen - Thế mà lận đận vì đường tình duyên, nếu không đã chẳng mấy mặt con rồi đấy bố nó nhỉ?
Bố ngồi tựa vào vách, thở dài.
- Con người ta có số rồi, ai cưỡng được.
Chị nhớn buông đũa thẫn thờ, trời tối nên không ai nhìn thấy mặt chị ra sao, nhưng cứ nghe tiếng thở dài là biết chị buồn khổ lắm. Câu chuyện bố, mẹ nói về tình duyên của bà Đỡ làm chị không khỏi chạnh lòng.
Dì xới cơm cho chị hai, chị ba và anh trai ăn trước. Mẹ lấy đường hòa nước cơm chắt bón cho tôi. Nước cháo ngậy, tôi nuốt lấy nuốt để. Ngoài trời mịt mùng, gió bắt đầu thổi mạnh dần, xa xa vọng vào tiếng vượn kêu, nai tác, có cả tiếng hổ gầm. Mọi người ngồi nép vào nhau, những đứa trẻ sợ hãi hơn cả. Chúng tôi mang theo nỗi hãi hùng vào trong giấc ngủ.
Tôi giật mình choàng tỉnh vì có tiếng nói:
- Chờ gì tôi? Cứ ăn trước đi kẻo đói. - Đó là tiếng bà Đỡ - Cho bọn trẻ ăn rồi chứ? Tình hình gay lắm! - Bà chuyển sang nói với mọi người đến tập trung nghe bà phổ biến - Thưa bà con, Phúc An, Vĩnh Yên, Phủ Lỗ, Hương Canh mất sạch rồi. Bọn Tây đông quân lắm. Theo kế hoạch, ngày mai ta cứ lên hang Dơi đã. Nếu phải vượt đèo Nhe sang Thái Nguyên tính sau! Tôi chưa đi bao giờ. Nhưng nghe các đồng chí địa phương nói: Từ đây sang đấy toàn đường mòn, xuyên rừng, vượt núi, đi phải mất dăm ngày. Đấy là nói tới người khỏe, chứ bầu đoàn thê tử thế này dễ còn hơn chưa biết chừng?
- Thế bây giờ làm thế nào? Sao ở đây chẳng có một ai cả? - Mẹ hỏi.
- Bà con dân tộc ở đây đi từ hôm qua rồi. Ở đâu quen đấy! Họ coi rừng núi là nhà. Trên núi nhiều hang động lắm. Chỉ có ông Trưởng làng với hai du kích ở lại làm nhiệm vụ đón chúng ta thôi.
Bố hỏi:
- Bây giờ họ đâu rồi?
- Họ đi rồi, họ có trách nhiệm đi tiền trạm, đánh dấu lối đi. Ngày mai đường nào hai bên cây có dấu dao phát là ta theo lối ấy! Mọi người nhớ đấy! - Bà Đỡ dặn.
- Bộ đội với tự vệ đâu cả? - Bố lại hỏi.
- Họ có nhiệm vụ của họ tôi làm sao biết được?
Có tiếng xì xào, rồi tiếng người chửi đổng:
- Mẹ cha nhà nó, kêu gọi đưa nhau vào đây rồi bỏ của chạy lấy người.
Bà Đỡ giơ cây đuốc nứa lên, ánh sáng bập bùng, bóng bà cao lồng lộng, mắt sáng quắc, nét mặt đanh lại:
- Ai chửi đấy? Có giỏi chường mặt ra đây. Muốn theo Tây cứ về. Đây khổ vì mất của, mất nhà, mất độc lập, tự do nên chỉ đi theo cách mạng thôi. Có khó khăn mới cần phải nhờ nhân dân giúp đỡ. Mai này cách mạng thành công hỏi rằng ai hưởng? Có nhớ những ngày vừa qua không? Có ai bị Chính quyền đàn áp không? Có bị nộp sưu cao, thuế nặng không? Có nhớ mọi người nô nức họp mét tinh, đi bỏ phiếu bầu cử không? Sao mà chóng quên thế? - Bà Đỡ nói xơi xơi, hướng mặt về góc tối có kẻ vừa nói những lời kia.
Bố gàn:
- Thôi, mời mọi người về ngủ để mai lấy sức còn đi. Còn mời bà - Bố nói với bà Đỡ - Bà ăn cơm đi.
Chừng như vẫn bực bà nói:
- Tôi đề nghị: Gia đình nào muốn về, ngày mai cứ quay lại, Cách mạng không cần nhũng con người không chịu được gian khổ. Cụ Hồ và Chính phủ còn phải lên ở trên rừng nữa là nhân dân. Đấy! Tôi nói với bà con như vậy. Nếu ai đi, mai chúng ta dậy sớm đi tiếp. Nhưng tôi nói trước: Sẽ gian khổ và khó khăn đấy! Còn ai không chịu được trở về là tùy.
Bà đột ngột dừng lời, không một lời đáp lại, mọi người lục tục đứng dậy, có tiếng nuốt tiếng thở dài vào bụng. Bà Đỡ ngồi xuống, đón bát cơm từ tay dì trao ăn ngon lành. Hình như bà đã nói được những lời mình muốn nói, cũng như lời không muốn nói phải nói ra. Bà trút nỗi niềm vào những hạt cơm nóng hổi, chan nước suối đun thay canh, húp xoàm xoạp. 
7. Tổ trưởng không bao giờ nhắc hay hỏi chuyện xảy ra giữa em và tay thợ chụp ảnh. Điều đó không mang lại cho em sự thanh thoát trong lòng, mà chỉ thừa nhận sự bao che, khỏa lấp dư luận chứ không là sự bao dung, độ lượng.
Bảo em lúc ấy có yêu Tổ trưởng không? Có thể nói là: Có! Và cũng có thể nói là: Không!
- Có! Vì sau cái đêm hãi hùng ấy, không hiểu sao hàng ngày, không gặp nhau một lần, chào nhau một câu là em thấy như mình còn quên việc gì không rõ, cứ canh cánh trong lòng. Kẻng báo ăn cơm, em ra khỏi phòng muộn hơn mọi người. Tay cầm bát, đũa, mắt ngó sang dãy nhà bọn con trai có ý chờ. Hình như Tổ trưởng cũng vậy. Thấy em ra, Tổ trưởng lúi húi đóng cửa, rồi lững thững đi xuống nhà ăn. Không hẹn, nhưng lúc nào hai đứa cũng gặp nhau đúng cửa ra vào. Hành động có vẻ vô tình, trái tim lại biểu hiện như cố ý.
- Không! Bởi Tổ trưởng thiếu hẳn cá tính mạnh của người con trai buộc người con gái khuất phục; biết cách chiều chuộng, quan tâm tới sở thích, tán tụng, trang điểm cho sắc đẹp, những hương vị rất lãng mạn nhưng cũng rất cụ thể. Ở bên Tổ trưởng, em tin tưởng, không một chút mảy may, nghi ngờ. Như người bị vấp ngã, được kẻ khác đỡ dậy, người ta thấy mình được che chở, được đùm bọc. Sự thánh thiện trong tấm lòng Tổ trưởng truyền sang trái tim, em không rung động vì ái tình mà cảm động vì lòng biết ơn.
Nhưng trong đời, nhiều khi trái tim chỉ là trái tim của mộng mơ, của hoài vọng... Còn lý trí lại là một lẽ khác. Không có sự tuyệt đối đồng hành cho trái tim và lý trí. Bởi vậy, sự hàm ơn của lý trí, buộc con tim em chấp nhận chừa một góc cỏn con dành cho người gia ơn.
- Có phải lúc nào người ta yêu cũng vì ái tình cả đâu, phải không anh?
Hết chuột chạy, mèo gào và bây giờ là tiếng gà gáy “ò... ó o... o”. Hải Linh dừng lời, ngả lưng vào tấm mền chăn. Đôi mắt nhắm, vầng trán nhăn lại, ánh sáng đèn hắt sang đá kẻ, chia khuôn mặt thành hai khoảng sáng tối. Chìm vào những kỷ niệm xa xăm.
Nguyễn Thừa đứng dậy, anh ra bàn lấy cốc, rót nước đem vào:
- Em uống một chút.
- Cảm ơn anh. - Bàn tay cô chạm vào tay anh khi cầm cốc, một tia điện cảm ứng xuất hiện làm Hải Linh thảng thốt, nhưng sau đó là cảm giác ấm dịu. Hải Linh ngước nhìn Nguyễn Thừa. “Giá chi lúc này anh ôm em vào lòng, thì chắc em sẽ bão hòa, tan biến... Môi em sẽ môi anh cho thỏa nỗi khát thèm cháy bỏng bao lâu. Em sẽ không giữ nữa! Đời là gì nếu không có những giây phút si mê cuồng nhiệt? Người ta có sống lại được sau khi chết đâu? Mà nếu có được hồi sinh sang kiếp khác, thì chắc gì ta sẽ được gặp nhau? Giá chi, anh là nửa của nỗi khát thèm, bạo liệt, man dại, vần vã. Cộng với một nửa kia của si mê, dại khờ, chân thành, nhút nhát. Hai cái đấy, em đều khao khát. Em muốn có, muốn cùng anh làm tròn. Cho anh, cho em: của tình yêu và dục vọng...”.
- Em đang nghĩ gì đấy? - Nguyễn Thừa ngồi xuống chiếc ghế đối diện, hỏi.
Luồng suy tư, nỗi khát khao trong lòng Hải Linh bị ngắt bởi câu hỏi. Cô nhìn khoảng cách giữa cái ghế ngồi của Nguyễn Thửa và nơi mình ngồi, buông tiếng thở dài, mệt mỏi đưa cốc lên miệng nhấp một ngụm nước:
- Em đang nghĩ về em.
Đó là một thời gian đáng nhớ - Hải Linh kể tiếp - Kể từ khi xảy ra chuyện giữa em và tay thợ chụp ảnh, Tổ trưởng luôn tìm cách gần em. Từ việc học tập, đến những chiều thứ bảy Tổ trưởng lai em về nhà bằng xe đạp. Bọn bạn cùng lớp coi đó như là chuyện tất nhiên. Vả, tụi nó biết Tổ trưởng thầm yêu em, nên đồng lòng gán ghép, ủng hộ.
Nhiều lúc đi bên Tổ trưởng, thoáng những con mắt nhìn theo tiếc nuối, và những lời thầm thì bàn tán của cánh con trai trong trường, em thấy vui vui. Ai ngờ, dần dần mối quan hệ ấy lún sâu, ràng buộc em với Tổ trưởng như một điều tất nhiên, mang nặng danh dự hơn là tình yêu của chính trái tim.
Một chiều thứ bảy, như thường lệ, Tổ trưởng dắt xe đạp đứng đợi em ở trước khu nhà tập thể. Các lớp học cửa khép kín, sân trường vắng lặng, những chùm hoa phượng sót lại trên tán cành đỏ rực dưới ánh nắng chiều hôm. Em kéo lại quai chiếc mũ nan rộng vành:
- Đi thôi, Tổ trưởng.
Vừa nói, em nhảy lên xe, rồi lại vội nhảy xuống:
- Bánh sau non quá! - Em kêu.
Tổ trưởng nhìn bánh xe, lẩm bẩm:
- Vừa mới thay săm hôm qua, - Đưa tay nắn lốp xe - Linh đi dần ra cổng, mình vào lấy bơm, bơm thêm.
Em bỏ mũ, cầm ở tay, lững thững đi ra cổng thì gặp tay thợ chụp ảnh. Hắn ta đứng đấy từ bao giờ. Vẫn vậy:
Mớ tóc xù, lượn từng gấp, thả dài, ôm khuôn mặt, áo màu lòng tôm bó eo ếch trong đai quần màu tàn thuốc, chiếc máy ảnh trễ hông, xe máy màu trắng sứ dựng mé bên kia đường. Sự đối mặt đột ngột làm em lúng túng. Em chợt nhận ra trên mặt hắn có một vết sẹo nhỏ mầu son. Hắn chủ động.
- Tôi viết thư, sao Linh không trả lời?
Mặt em đanh lại, đôi mắt căm hờn nhìn hắn.
Không để ý tới thái độ của em, hắn trâng tráo:
- Anh biết, anh làm thế là sai, nhưng bởi vì anh yêu em!
Em phản ứng:
- Thế mà là yêu à? Có là anh định hại một đời tôi thì có!
- Anh yêu em thật mà... Anh van em, em đừng xa lánh anh. - Hắn van vỉ.
- Tôi không yêu anh! Anh về đi.
- Em nói dối! Anh biết vì em giận nên em nói thế. - Hắn nói như một điều khẳng định.
Em nổi giận:
- Ai yêu anh bao giờ?
- Có! Đã có lúc em có cảm tình với anh. Nhưng vì anh không kìm được, có hành động thô lỗ nên em giận.
Em im lặng, vì điều này thì hắn nói đúng! Trong đầu em, vài hình ảnh kỷ niệm đẹp hiện về. Mắt em liếc nhanh, nét mặt hắn thất vọng thực sự, thành khẩn. Khuôn mặt ẩn sâu trong mớ tóc lòa xòa, sầu muộn, đượm dáng một kẻ thất tình. Bỗng em có cảm giác lòng mình mềm lại, nỗi hờn giận nhường cho niềm thương hại.
Vừa lúc đó, Tổ trưởng đạp xe ra. Hắn và Tổ trưởng nhìn nhau trong giây lát. Một giây lát thôi, nhưng tinh mắt của kẻ nào cũng bừng bừng.
Tổ trưởng đạp xe lướt qua cạnh hắn, nói với em giọng thật ngọt:
- Linh, lên xe đi.
Em nhảy lên poóc-ba-ga, hất chiếc mũ ra phía sau, tay bám eo, áp má vào lưng Tổ trưởng (Hành động mà chưa bao giờ em làm cả). Không nhìn lại, nhưng gáy em nóng ran như phải bỏng.
Đi được một quãng, nghe tiếng xe máy. Em giả vờ không để ý. Tay thợ chụp ảnh cho xe tằng tằng đi sát gần, nói:
- Em sẽ không bao giờ thoát khỏi tôi đâu! - Câu nói lạnh tanh, âm thanh sắc lẹm, rồi lao vút đi, để lại khói và mùi xăng sống, xông vào khứu giác như nhắn bảo cho em một lời hẹn gặp.
Tổ trưởng hỏi:
- Tay kia nói gì với Linh?
- Kệ hắn! - Em nói lảng.
- Có phải hắn vẫn viết thư cho Linh?
- Có! - Em thừa nhận - Nhưng Linh không đọc, nhận được là đốt. - Câu này em nói dối.
Tổ trưởng đồng tình:
- Đốt là phải! Quan hệ với loại người ấy làm gì.
Em im lặng. Tiếng bánh xe vo vo, thi thoảng có tiếng xích va vào hộp “quẹt... quẹt...”. Tổ trưởng càu nhàu:
- Xích vừa căng hôm nọ xong.
Nói chưa dứt lời, chân Tổ trưởng hụt chúi về phía trước. Chiếc xe loạng choạng, chuệch choạc lao xuống mương nước. Em nhảy vội, chân trượt guốc, cả người khuỵu, mất thăng bằng, ngã lăn ra bãi cỏ ven đường. Ngoảnh lại, Tổ trưởng ngã ngồi trên đường, chiếc xe đạp trôi tuột xuống sát bờ mương, đổ nghiêng, cái bánh sau quay tít.
Tổ trưởng nhổm dậy hỏi:
- Việc gì không Linh?
Em không trả lời, miệng méo vẹo, đau ứa nước mắt. Tổ trưởng vục dậy, chạy tới nâng em lên, vạch ống quần xem xét chỗ tím ở ống chân, tay xoa, mồm kêu xót xa như chính mình bị đau vậy.
Xoa, bóp một lúc lâu chân mới đỡ, bấy giờ em mới để ý thấy ống quần Tổ trưởng toạc một miếng, da nhiều chỗ xây xát, nhướm máu. Em hỏi.
- Có đau không anh?
Đôi mắt hiền lành chớp chớp.
- Ran rát đôi chút! Có điều bây giờ hai đứa phải dắt bộ, vì không có gì để tháo hộp xích.
Đường xa ngái, tít tắp mới thấy rặng tre quanh làng. Nắng tắt dụi. Xa xa, trên đỉnh đồi Thanh Tước, màn trời chuyển màu sẫm, đôi ba ngôi sao mọc sớm nhấp nháy, tiếng: “Ơ... uôm... ơ... uôm” của ễnh ương từ bờ chuôm dưới đồng vọng tới, tấu theo là dàn nhạc côn trùng nỉ non rên khóc.
- Linh ngồi lên xe, mình dắt - Tổ trưởng nói.
- Không! Em đi được - Em chối từ, cố gượng bước.
- Không! Linh cứ ngồi lên, mình biết chân Linh bị đau lắm! - Tổ trưởng dừng xe lại kiên quyết.
Đường vắng, thi thoảng mới có chiếc xe ô tô chạy qua. Có gã lái xe, cho xe đi từ từ, thò cổ ra khỏi buồng lái trêu:
- Có dám cho vợ lên ca- bin không? Tớ đỡ một quãng?
- “Bao giờ cho đến tháng mười” nhá! - Tổ trưởng dùng tên một bộ phim đối lại.
Bánh xe ô tô lăn đi, tiếng cười khanh khách của người lái xe để lại. Ngồi trên poóc-ba- ga, em cười mỉm.
Trời tối hẳn thì về đến ngã ba. Tổ trưởng bảo:
- Hôm nay về làng anh trước! (Tổ trưởng xưng “anh” lần đầu tiên) Chữa hộp xích xong, anh lai Linh về?
- Nhưng... - Em ngần ngừ - Nhỡ làng anh phát hiện ra em, họ đuổi đánh thì sao?
- Sao lại đánh? - Tổ trưởng quả quyết - Không ai dám đánh người yêu anh cả - Tổ trưởng buông một câu rất bạo.
- Yêu nhau bao giờ mà anh vơ vào?
- Thì anh cứ nói đi là vừa - Câu trả lời rất bài bây
Tổ trưởng dẫn em nào một nhà ngay đầu làng. Em đứng ngoài cổng, không vào. Chủ nhà xách đèn bão đi ra, mời:
- Mời cô vào nhà nghỉ chân, uống nước.
- Xin phép bác, cháu đợi ngoài này cũng được. - Em từ chối.
Rất may, ông ta không nhận ra em là người làng Quyết Chiến. Ông đi vào, em nghe tiếng ông hỏi Tổ trưởng;
- Người yêu cậu đấy à?
- Dạ, là bạn! - Tổ trưởng trả lời.
- Chắc còn xấu hổ? Người quê đâu ta? Tôi nghe giọng như quanh vùng ta?
Không thấy tiếng Tổ trưởng trả lời. Em chắc Tổ trưởng không dám nói. Cách đây ít ngày, về nhà, mẹ kể: Chuyện tranh giành khu đầm Vực căng lắm. Nghe nói, cán bộ trên tỉnh về giải quyết còn bị dân bắt trói, nhốt nửa ngày mới thả ra.
Được một lúc, Tổ trưởng dắt xe ra, tiếng líp xe nảy tanh tách. Người đàn ông tiễn chân ra cổng chào:
- Cậu với cô lại nhà.
Em ngượng, lí nhí chào lại. Chiếc xe đạp bon chạy, ánh sáng từ chiếc đèn tỏa rộng, soi rõ từng viên sỏi ruồi, lẫn trong cát, lạo xạo dưới bánh xe. Thấy đi đường lạ, em hỏi:
- Anh đưa em đi đâu thế này?
Tổ trưởng nói:
- Anh muốn Linh đi với anh đến một chỗ?
- Chỗ nào?
- Đến em sẽ biết! Anh có chuyện muốn nói với em.
- Chuyện gì anh nói ngay ở đây không được à? Sao cứ phải đi đâu? - Nói xong, em nhảy xuống xe.
Tổ trưởng phanh xe, miệng nằn nì:
- Còn sớm, về làm gì vội? Em và anh, chúng ta sắp xa nhau rồi.
- Sao lại xa nhau? Anh đi đâu? Lấy vợ à?
- Không! - Tổ trưởng nói vội - Ý anh nói, tốt nghiệp rồi, nay mai mỗi đứa đi một nơi, không có điều kiện gặp nhau.
À! Tự nhiên em thấy lòng mình se thắt. Chẳng gì cũng gần ba năm trời học hành với nhau. Bao kỷ niệm cùng nhau dưới mái trường. Em hỏi:
- Anh bảo đảm Linh đi với anh không xảy ra việc gì chứ?
- Lấy danh dự anh xin thề! - Giọng Tổ trưởng chân thành.
Đêm hôm ấy không có trăng, nhưng trời sáng. Những chòm sao dày đặc tít mãi trên cao, dải ngân hà trải rộng. Lưng ông Thần nông cong như chiếc cần câu thả xuống sông. Cạnh đấy là con vịt bơi, mắt nhấp nháy, lấp lánh. Những ngôi sao bồng bềnh trong mây, lúc lúc lại ngó ra, ẩn nấp như chơi trò ú tim.
Nơi Tổ trưởng đưa em đến là đằng sau ngôi chùa ven làng Quyết Thắng. Mẹ bảo:
- Ngày mẹ còn nhỏ, hai làng chưa xích mích, vào hội, mẹ hay sang xem diễn tích chèo, xem vật, chơi đu. Hội làng bên ấy giống như hội bên mình, hệt nhau, cùng thờ Đức Thánh Trần. Thế mà không hiểu tại sao hai làng sinh ra thù oán?
Chọn một bãi cỏ dày, êm, Tổ trưởng nói:
- Em ngồi xuống đi. (Câu nói giống hệt câu của tay thợ chụp ảnh).
Em ngồi xuống, Tổ trưởng cũng ngồi xuống. Nhưng lần này, người giữ khoảng cách là Tổ trưởng chứ không phải em. Em bứt cọng cỏ đưa lên miệng nhấm. Tổ trưởng mở trong cặp ra một gói bánh, đưa cho em:
- Linh bóc cho anh.
Đấy là gói bánh quy mặn, loại em thích ăn. Em hỏi:
- Anh mua bao giờ? Sao em không biết?
- Nếu để biết thì còn gì là bất ngờ nữa?
- Còn gì bất ngờ nữa không? - Em hỏi.
- Còn! - Tổ trưởng trả lời - Chốc nữa em sẽ biết!
Em bày hộp bánh lên mặt chiếc cặp. Tổ trưởng rút trong túi áo ngực ra hai cây nến kẹp trên cái giá gỗ nhỏ, bật lửa châm. Tiếng lách tách từ ngọn nến phát ra, ánh sáng tỏ dần. Đột nhiên, Tổ trưởng quỳ xuống trước mặt em, giọng tha thiết:
- Anh không biết bắt đầu nói với em như thế nào? Nhưng tự trong trái tim, anh đã thề sẽ phải yêu được em. Linh ơi, còn vài ngày nữa chúng ta đã xa nhau rồi. Nếu hôm nay, anh không nói được với em lời này, anh sẽ không bao giờ đủ can đảm để nói nữa. Và, như vậy, suốt cuộc đời trái tim anh sẽ héo mòn vì cằn khô. Xin em đừng nói lời từ chối. Xin em đừng tàn nhẫn với anh. Linh ơi! - Sau lời gọi da diết, kẻ tỏ tình, rút từ túi ngực ra hai chiếc hộp nhỏ. Một chiếc hình trái tim, một chiếc hình chữ nhật. Giơ lên, đưa về phía em, giọng như gần khóc. - Em là người hoặc ban ơn tình yêu, hoặc là ban cái chết cho anh. Nếu Linh chấp nhận, Linh hãy nhận chiếc hộp hình trái tim, và coi đấy là lời cầu hôn của anh. Còn nếu khước từ, em hãy trao cho anh chiếc hộp hình quan tài, mà anh hứa không một lời trách cứ.
Em như kẻ chết đứng. Hoang mang, bàng hoàng trước lời tỏ tình si mê đến cuồng dại. Em không nghĩ rằng sự việc lại đến như vậy. Em cấu vào tay xem là thực hay là mơ. Nào em đã có kinh nghiệm gì về tình yêu đâu để mà tĩnh trí, xử sự?
Em thực sự run sợ trước lời cầu hôn của Tổ trưởng. Giọng người con trai một nửa như ru, nửa kia như hăm dọa. Em mất hết nhuệ khí, chút nhuệ khí tri thức vừa được bôi lên cho kẻ học đời muốn làm người am hiểu. Em hiện nguyên hình là đứa con gái nông thôn, thuần phác, vào đời còn mang hẳn cả cánh đồng lúa trên vai, mang cả nỗi đau khổ, nghèo khó của quê hương, nỗi nhọc nhằn và sự đau đớn của cha mẹ.
Ngơ ngác, bần thần trước sự van xin, trước hành động thái quá, em lẩm bẩm:
- Anh... Đừng... đừng... đừng làm thế! Đừng làm thế anh...
Giọng kẻ si tình vẫn thiết tha:
- Không! Em hãy trả lời anh, hãy là người trao cho anh niềm hạnh phúc. Còn nếu không, anh xin được chết bên em.
Anh ta nhắc tới cái chết làm em sợ. Em nghĩ tới những vụ án báo chí đăng, vì thất tình mà nhiều đôi ôm nhau nhảy xuống sông, hồ tự vẫn; cùng nhau uống thuốc độc, hoặc treo cổ quên đời. Hình ảnh ấy chập chờn hiện lên, nỗi kinh hoàng làm em khiếp đảm. Mà em thì không muốn chết. Đột nhiên, như có kẻ xui khiến, em nhổm dậy, quỳ xuống, miệng lắp bắp:
- Đừng dại dột nghe anh. Em chấp nhận... em chấp nhận.
Sau câu em nói, cùng một lúc, cả hai đứa ngã nhào vào nhau. Lửa nến vụt tắt, bãi cỏ là đệm êm, bầu trời là màn, gió mơn man da thịt như quạt. Người em như tan loãng, không còn trời, không còn đất. Cả hai thân xác quằn quại, mang theo hai tâm hồn, bềnh bồng trôi lên ngàn lớp sóng, lạc vào cõi hư vô. Sự cảm nhận hòa quyện, hưng phấn bản năng vươn tới tột cùng của bạo liệt, dâng hiến, khát thèm trao, nhận. Một cảm giác đau nhói ở thể xác làm cho em bừng tỉnh. Nhưng sau đau xé và bừng tỉnh là cơn mê đắm, sự khoái cảm dâng lên, dâng lên đến tột cùng.
8. Dự định sáng sớm đoàn người sẽ lên đường, ai ngờ, mệt quá. Khi ánh nắng le lói chiếu vào cửa mọi người mới bừng tỉnh. Bà Đỡ chồm dậy, người vặn vẹo, miệng ngáp dài:
- Xin nhận khuyết điểm. Mệt quá nên tôi ngủ quên.
Chẳng ai nỡ trách, lục tục gấp chăn màn chuẩn bị lên đường. Suy cho cùng, bà Đỡ không gia đình, không con cái ràng buộc, chẳng qua bà được chính quyền phân công theo giúp đỡ mọi người mà thôi. Ở Phúc An này, nhà nào ít nhiều chẳng mang ơn bà? Dân Phúc An nghèo, gặp lúc ốm đau, bệnh tật chẳng đến nhờ bà còn nhờ ai?
Vào nằm viện, lấy đâu ra tiền? Các ngài đốc-tờ Tây khinh người Việt ra mặt. Kẻ nào có tiền mới được nằm, được chữa bệnh. Còn không tiến. A lê hấp! Về! Thế là phải đến nhà bà Lang, nhờ bà xem bệnh, bốc thuốc. Bà Lang nhận hết! Bệnh nào bà cũng chữa. Như đã nói ở phần đầu: Bà chữa bệnh bằng mọi thứ lá, nhưng chủ yếu bằng lá ngải cứu. Bà bảo:
- Cây thuốc nam của ta mọc khắp nơi. Đặc biệt là cây ngải cứu. Dễ trồng, dễ hái. Đối với người bị hỏa “nó” hạ nhiệt, người bị nhiệt hàn “nó” điều tiết trung hòa. Người nào bệnh cấp, hoặc sắp chết dùng ngải cứu còn có thể cứu sống.
Phần nữa cần nói là: Mỗi tờ giấy điểm chỉ của bà, chứng nhận một sinh mạng ra đời. Nói ngay cả thời trước Cách mạng tháng Tám cũng vậy. Tỉnh Phúc An cũ, ông Hội Lệ làm cho Tây, thay mặt người Việt cấp giấy khai sinh, còn phải căn cứ vào ngón tay cái của bà Đỡ điểm chỉ mới dám viết chữ quốc ngữ vào cạnh phần Pháp ngữ.
Trở lại buổi sáng hôm ấy. Khi bình tĩnh, bà lướt nhìn tất cả mọi người, rồi lẩm bẩm:
- Thiếu năm gia đình. Chắc là các vị không chịu được khổ, quay về đêm qua rồi. Thôi, kệ họ! Ai theo bên nào không ai bắt buộc - Nói rồi bà nhìn khắp lượt mọi người - Còn tất cả, tôi nhắc lại, cứ căn cứ vào dấu dao chặt - khắc hai bên đường mà ai.
Đến lúc bà nói, mọi người nhìn nhau mới phát hiện ra: Đó là năm gia đình giàu có ở thị xã đã bỏ về trong đêm. Nghe mọi người xôn xao, bà Đỡ nói:
- Cách mạng cần những con người một lòng, một dạ theo kháng chiến. Cụ Hồ dạy: Muốn đánh đuổi được bọn Tây là phải trường kỳ.
Có tiếng người hỏi:
- Bà Đỡ ơi, Kháng chiến trường kỳ là gì?
Bà Đỡ ớ ra không giải thích nổi. Thấy vậy, một người đi cùng đỡ lời:
- Không nên móc máy nhau. Đã ở hoàn cảnh này phải chụm nhau lại mà giải quyết. Đây không phải là lúc bất bẻ.
Bà Đỡ nhìn người đó cảm ơn, rồi nói:
- Tôi là người ít chữ, cấp trên bảo thế nào, nhập tâm nói lại thế. Nếu ai biết xin giảng giải cho tôi và mọi người cùng nghe.
Bố thủng thẳng giảng giải:
- Chữ kháng đồng nghĩa với đối kháng, kháng cự. Còn chữ chiến, đồng nghĩa với chiến đấu, chiến trận, chiến tranh. Còn như hai chữ trường kỳ, là Cụ Hồ dạy ta: Tuy đã giành được Độc lập, nhưng nay quân Pháp còn mạnh, muốn đánh thắng được bọn giặc, ta phải xác định thời gian Kháng chiến lâu dài. Không tính năm, tính tháng. Đến bao giờ quân ta mạnh, đủ sức sẽ chiến đấu. Chiến đấu đến bao giờ thắng lợi như hồi năm bốn nhăm thì thôi.
Nằm trong thúng, tôi nghe chẳng hiểu gì, mà chỉ thấy mọi người im lặng nghe. Có vài ba người gật gật ra điều đã hiểu. Riêng bà Đỡ gật đầu theo nhịp bố nói, mặt rạng rỡ trong ánh nắng mặt trời.
Trong khi đó, dì buộc lại quang thúng, chị nhớn gấp chiếu, thu dọn đồ đạc, chị hai, chị ba ngồi ngáp, có ý còn muốn ngủ nữa, mẹ vét chút ít cơm nguội còn lại trong nồi từ hôm qua chia cho anh trai một bát, còn lại bốc, nhá, nhét vào miệng tôi. Cơm có mùi ôi ôi, nhưng vì sữa mẹ ít, tôi bú không no, nên dẫu thiu, lưỡi tôi vẫn nhận ra vị ngọt của bột cơm ngon, ngọt hơn bao giờ hết.
Dì rút kinh nghiệm, hôm nay buộc quang cao, nên mông đít tôi không bị va vào những mô đất nữa. Tôi thấy mình gần với trời và ngọn cây hơn. Giơ chân tay, tôi đùa với hoa nắng xuyên qua cành lá hai bên đường. Thi thoảng anh trai ngồi trên lưng chị nhớn cõng, tay tóm vai chị như cầm cương ngựa, mồm líu lo:
- Nhong nhong nhong/ ngựa ông đã về/ cắt cỏ bồ đề/ cho ngựa ông ăn.
Chị nhớn càu nhàu:
- Chị không phải ngựa cho em cưỡi đâu nhá!
Đúng là trẻ con, dù ở hoàn cảnh nào vẫn vô tư như chẳng có gì mà lo lắng, chẳng có gì phải phiền muộn.
Đường đi càng lên cao, dốc dài như vô tận, những vết dao chém vào thân cây, khắc dấu hướng đoàn người đi, ứa nhựa thâm đen, như một vết thương rỉ máu. Bà Đỡ nói:
- Đến đường rẽ vào hang Dơi ta nghỉ giải lao. Từ đấy lên hang Dơi phải lội theo đường suối mà vào. Mà đằng nào cũng phải chờ ở đấy để nhận tiếp tế gạo và muối.
Nhưng biết đến lúc nào mới đến hang Dơi? Mọi người lặng lẽ bước, cái nóng bức bối, đàn ruồi vàng vo ve bay theo, nhiều con bu vào mặt, vào gáy, chân tay. Dì vừa gánh, vừa lấy cành cây xua. Bố nhặt được cái đòn xóc của ai vứt bên đường, buộc túm tó các thứ lại gồng lên vai. Mồ hôi bố chảy ra, ướt đẫm như tắm. Mẹ cõng chị ba, dắt chị hai miệng thở dốc.
Nằm trong thúng, tôi ngóc đầu nhìn các gia đình khác: Nhà nào cũng vậy. Còn riêng bà Đỡ, lúc đi vượt lên đầu đoàn, lúc tụt lại sau, luôn mồm:
- Cố gắng lên! Nay mai Cách mạng thành công tha hồ sướng.
Nghe vậy biết vậy. Cứ thế này thì biết bao giờ mới được như bà nói?
Lên đến gần đỉnh núi, cây cối thưa, mặt đường phẳng dần. Khi sắp tới đường rẽ vào hang Dơi bỗng nghe có tiếng máy bay “rẹtrẹtẹtrẹtrẹ...” trên đầu. Bà Đỡ quát:
- Tất cả nằm xuống! Đề phòng máy bay địch bỏ bom!
Mọi người vừa tản ra núp vào hai bên đường thì hai chiếc máy bay màu bạc óng ánh, thân hình như cánh phản lao xuống. Có tiếng kêu:
- Tàu bay khu trục đấy! Coi chừng nó bắn!
Lời chưa dứt, hàng loạt đạn nổ, đinh tai, nhức óc. Khi hai chiếc máy bay vọt lên, từ đuôi, mấy quả bom đen chùi chũi rơi xuống. Dì lao đến bế thốc tôi ra khỏi thúng, lấy hai tay ghì chặt tôi vào lòng, chạy tới, núp cạnh một cồ đá to cạnh đường đi, hai chân quỳ, mông chổng lên trời. Tôi lắc đầu không chịu, lách sang một bên sườn, ngó đầu ra nhìn: Sau ba, bốn tiếng nổ rền vang, những cụm khói dựng đứng đen ngòm mỏm núi phía xa, cây cối bị cắt ngang đổ như ngả rạ. May, không có quả bom nào rơi ở chỗ đoàn người Phúc An đi tản cư.
Cắt bom xong, hai chiếc máy bay vút lên cao. Tiếng ầm ì xa dần. Mọi người lồm cồm bò dậy. Phía sườn núi có bom rơi, những cụm lửa bốc cao, cháy rừng rực. Bà Đỡ giảng giải:
- Nó bắn ở hang Dơi, vì đấy là nơi có bộ đội. Còn lửa dễ bắt cháy vì đấy là rừng thông.
Khói đen dựng thành cột, loang rộng, xém vàng lan tỏa cả một vùng. Tiếng cây cháy gặp lửa nổ lép bép, mùi nhựa thông vừa thơm nồng vừa khó ngửi.
Đoàn người tản cư tiếp tục lên đường, khuôn mặt từng người hiện rõ vẻ lo âu vì không hiểu rồi con đường này sẽ dẫn mình đi tới đâu? Sau loạt bom ấy, có thêm vài gia đình cố ý đi tụt lại phía sau. Bà Đỡ biết, nhưng cố tình lờ đi. Bà tự hiểu, mình chỉ là mụ lang vườn không hơn không kém. Ai tin bà? Nhiều người sợ mà phải đi, chẳng qua ngại bà “tâu, hót” lại với cán bộ Việt Minh, sẽ bị trả thù. Bà mặc, ai hiểu sao ra thế. Bà sống với mọi người bằng tấm lòng. Cái gì tốt bà theo. Mà đã theo, bà sẽ theo đến tận cùng, nhưng chuyện nhân tình thế thái, bà rõ lắm. Tiếng trú ngụ ở chùa Nhuế, nhưng thực ra, nghiệp làm phúc bà mang bao trùm khắp tỉnh. Nhà nào thế nào sao bà chẳng biết! Nhưng trời cho mỗi gia đình một nhà, cho mỗi người một tính, biết sao mà lường. Thôi, mình cứ sống cho hết lòng - Bà nhủ vậy.
Dân tiểu thị ở Phúc An vốn tứ xứ quần cư, tinh ranh vặt vãnh. Thêm sự giao lưu buôn bán nhỏ, manh mún lại càng khiến họ có tầm nhìn quẩn quanh. Bên cạnh đó, sự đổi thay của thời thế, làm cho người ta không biết thế nào mà lần. Không dám đặt lòng tin nhiều vào ai. Đối với họ, chính trị là chuyện động trời, động đất. Đùng một cái, Tây, Nhật đánh nhau; đoàng một cái, Việt Minh cướp chính quyền. Độc lập tự do được vài năm lại phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để lên rừng. Kẻ nói:
- Tưởng Việt Minh mạnh lắm?. Ai ngờ bây giờ phải bỏ chạy.
Người bàn:
- Tình thế này chưa biết ra sao? Không biết theo ai sẽ được yên thân? Tây, Nhật súng ống, xe cộ rầm rầm mà còn chẳng ăn ai, huống chi mấy ông đội mũ ca lô, mặc áo trấn thủ, năm người có một súng, còn lại lấy đòn càn để chống với xe tăng, tàu bò?
Bố nói:
- Chỉ mong bình yên để buôn bán làm ăn, nuôi dạy con cái...
Mẹ thở dài:
- Loạn mãi thế này biết chạy đâu cho yên?
Bà Đỡ nghe mọi người câu ra, câu vào, bà cũng chẳng biết thế nào. Những điều phổ biến của cấp trên bà phổ biến hết rồi, còn những điều dân tản cư phàn nàn thắc mắc thì bà không giải thích nổi. Đưa họ đi thì được, nhưng nếu không đến nơi, đến chốn, không kiếm ăn được, khổ, họ chửi cho mục mả. Nghĩ vậy, chờ mọi người tập trung nghỉ ở lối mòn rẽ vào hang Dơi, bà nói:
- Thưa bà con, chúng ta đi hôm nay là ngày thứ ba rồi. Tôi vừa được cấp trên chỉ thị: Dẫn bà con vượt đèo Nhe sang Thái Nguyên. Ta phải vượt qua đỉnh núi kia - Bà chỉ về phía có dãy núi cao gần chạm trời, nói tiếp - Sẽ rất gian khổ, vất vả. Đến đây, tôi cũng không biết nói thế nào với bà con. Vậy nên... - Bà ngập ngừng một chút rồi quả quyết - Dù ở đâu ta cũng phải một lòng theo Cách mạng, phải nhớ những ngày được tự do vừa qua. Còn bây giờ, chẳng qua vì tình thế bắt buộc, Việt Minh phải tạm lánh vào rừng, nhưng rồi sẽ có ngày quay trở lại.
- Chuyện ấy nói mãi rồi, có gì nói toẹt ra lại còn... - Có tiếng nói trong đám đông.
Bà Lang nói tiếp như không để ý: - Lương thực để ăn thì không ngại, đã có bà con người dân tộc giúp đỡ. Nhưng còn chuyện nếu sang đến Thái Nguyên, chuyện làm ăn, buôn bán tôi cũng không biết thế nào? Vậy tùy bà con, ai theo được thì theo.
Sau thời gian nghỉ giải lao. Khi tiếp tục lên đường, lại thêm mấy gia đình cố tình tụt lại phía sau. Họ ngại nói ra, còn bà Đỡ và mọi người lờ đi như không biết. Bà Đỡ nói rồi mà: Ai theo được thì theo, tùy tâm!
Tôi bỗng thấy dưới rốn đau quặn, có tiếng kêu “ọc... ọc... ọc” sau lớp da bụng. Từ đít, cứt cứ chảy ra. Tôi oằn người. Dì hạ gánh cạnh vệ đường, đưa tay sờ, bỗng dì rụt tay, miệng kêu:
- Ỉa đùn rồi! Đồ “chó con”! - Dì mắng, lật nghiêng người tôi, lấy mấy tờ giấy bản lau vội vàng vì tôi giãy lên như phải bỏng.
Người tôi cong ngược lên như cầu vồng chống trả lại con đau. Không hiểu sao mà đau thế? Trong bụng như có hàng trăm ngàn mũi kim đâm, hàng ngàn mối dây xoắn ruột mà vò, mà xé, mà co, mà kéo. Tôi gào, ngặt nghèo vì đau. Mẹ chạy lại hỏi:
- Cháu sao thế? Dì đưa nó cho tôi. - Mẹ ấn đầu vú vào miệng tôi - Con bú đi.
Tôi lấy tay đẩy ngược, gào, khóc, lắc đầu không thèm ngậm. Cơn đau quằn quại tưởng như không dứt. Cả nhà thấy vậy đều quay lại, xúm xít quây thành vòng nhìn tôi. Qua làn nước mắt, bóng hình người thân của tôi nhòe nhoẹt. Tôi loáng thoáng nhận ra những gương mặt lo âu của mọi người. Nhưng khác hẳn với lòng kiêu hãnh lúc sắp được sinh, tôi không trêu đùa được nữa. Miệng thì khát, nước cứt ở đít tự động chảy ra, lổn nhổn vừa hòn vừa nước. Những cơn vò xé từng đợt hành hạ. Tôi nghe tiếng mẹ:
- Không biết nó làm sao? Bố nó chạy lên tìm bà Đỡ.
- Bà Lang chứ! - Bố cãi.
- Ối giời ơi! - Mẹ cau có cằn nhằn quát bố - Bà Lang hay bã Đỡ vẫn là một lại còn phải nói! Đi mau, không thằng bé chết đến nơi rồi kia kìa.
Bố chạy vội xuống dốc, vượt lên phía trước tìm bà Lang.
Nghe mẹ nói tới cái chết, thằng “tên” thò cổ ra bảo tôi:
- Cậu chết thì chết! Chứ tớ chưa muốn chết.
Nghe thằng “tên” nói, tôi cố nén cơn đau đáp trả:
- Cậu là thằng tôi. Bố đặt tên để gắn liền cậu với cuộc đời tớ. Sống chết phải cùng nhau, ai ngờ cậu hèn vậy?
Thằng “tên” cười khẩy:
- Không ai muốn chết ở cái tuổi mới biết bò cả. Cậu là người, muốn sống phải giữ gìn, ăn uống bậy bạ cho thỏa cái miệng, không biết giữ chừng mực, điều độ, bây giờ bị đau đớn sướng chửa?
Tôi lập tức cãi:
- Người ta đói thì phải ăn, khát thì phải uống! Không ai như cậu: Chỉ là một cái tên, không cần ăn, chẳng cần uống vẫn sống. Ngoài chức danh Nguyễn Văn Thừa để gọi, cậu chẳng biết gì sất! - Tôi cay cú nhiếc móc.
Thằng “tên” phản công lại:
- Nếu không có tớ ai người ta gọi cậu? Ừ! Bố ghép tớ vào cậu đấy! Nhưng cậu phải biết có tớ ở trên đời song hành chứ! Cậu làm gì phải hỏi tớ một câu, một tiếng. Đằng này, cậu bơ đi như không, bây giờ sắp chết cậu lại còn để liên lụy đến tớ phải không?
Tôi đang định chửi lại thằng “tên” một trận thì cơn đau đột ngột kéo đến hất ngã bổ chửng tôi và tay mẹ. Mẹ ghì chặt lấy tôi cho khỏi ngã, lấy tay xoa xoa rốn tôi. Tôi ưỡn ẹo, ngược bụng lên cố nén, nhưng từ trong bụng, nước cứ ồng ộc tuôn chảy như tháo cống, hậu môn của tôi thông thống không ghìm lại được nên cái gì ở trong bụng cũng muốn ồ ạt tuôn ra. Mùi khắm khẳn, tanh tưởi bốc ra.
Thoảng trong mùi hôi, thoáng trong cơn đau dữ dằn, tôi thấy mũi thằng “tên” chun lại ra điều ghê tởm và miệng hắn nở nụ cười khinh khi. Tôi cáu, định chửi cho hắn một trận, nhưng cái bụng liên tục thúc dồn dập, cơn đau dồn đến, như muốn bóp nát bụng tôi ra từng mảnh. Từ lúc ấy, đối với thằng “tên”, tôi ghi “hận” trong lòng.
Và, đối với “hai chúng tôi”, đấy cũng là lần “mâu thuẫn”, là trận “đấu khẩu” đầu tiên trong đời, kể từ khi mẹ sinh tôi và bố lấy cái tên Nguyễn Văn Thừa ràng buộc hai đứa vào nhau. Trận “đấu khẩu” ngầm, mở màn cho những tranh luận, những bất đồng, không thỏa hiệp giữa nó và tôi trong cuộc sống trên đường đời sau này.
9. Phải chờ đến gần mười một giờ trưa em mới được tiếp
Ông Trưởng phòng Nông nghiệp huyện giương đôi mắt kính lấp loáng những đường vòng thủy tinh quan sát, rồi hất hàm:
- Bao lâu rồi?
- Dạ... Thưa bác, cháu được điều về tăng cường ở xã ấy được ba năm rồi ạ! Nhưng vì...
Không cho em nói hết câu, ông Trưởng phòng ngắt lời:
- Tôi hỏi cái kia cơ!
Bấy giờ em mới chú ý tới ánh mắt sau vầng thủy tinh như dán chặt vào cái bụng nhô cao, khuy áo tuột để hở ra mảng bụng trắng ngần. Em vội lấy tay khép lại. Ông Trưởng phòng nói:
- Gái sắp hai con rồi còn gì mà xấu hổ? Nói cho phòng biết để còn bố trí nơi công tác.
- Dạ, thưa bác... - Mặt em đỏ rần vì ngượng, lời nói ấp úng - Được... được ba tháng... ạ.
- Hay! - Từ “hay” ngân như tiếng chuông. - Bỏ nhau ba tháng, chửa ba tháng. Đêm hôm trước còn ngủ với nhau, hôm sau ra tòa li dị. Sao chửa thế này mà còn bỏ nhau? Hay! (Lại một tiếng chuông nữa!). Các vị cũng văn minh gớm nhỉ? Biết “cấy giống lúa ngắn ngày” - Ông cười khềnh khệch.
Không dám trả lời, mặt em cúi gằm, mắt đăm đăm nhìn tờ đơn cầm trên tay, gáy nóng ran, hình như sức nóng từ hai thấu kính của ông Trưởng phòng truyền sang?
Lúc sau, ông lên tiếng:
- Đưa đơn tôi xem.
Em ngẩng mặt lên, không khí ùa vào làm dịu phần gáy:
- Thưa bác - Hai tay em nâng tờ giấy - Cháu mong các bác giúp đỡ...
- Bác cháu mãi! - Tay cầm tờ đơn đặt lên bàn, đôi thấu kính truyền thêm nhiệt lên mặt em - Bác cháu nào giúp được?
Sau câu hỏi, đôi thấu kính lượn sang hai bên rồi phóng ra ngoài cửa. Không thấy ai, quay lại ông nói tiếp:
- Quyết Chiến và Quyết Thắng kỳ này tách tỉnh xong sẽ hợp nhất thành một xã rồi! Nhưng mà lực lượng cán bộ Nông nghiệp tăng cường chúng tôi đã bố trí xong cả. Bây giờ chỉ còn vùng sâu vùng xa thôi.
Em rụt rè:
- Trăm sự cháu nhờ các bác.
- Nhờ thế nào? Chẳng nhẽ tôi đuổi người ta đi cho cô vào thế chỗ à?
- Dạ... Không phải ý cháu thế đâu ạ! Em thanh minh.
Không đáp lại, ông nghiêng đầu, một tay đỡ cằm, ngón trỏ bàn tay bên kia gõ từng nhịp lên mặt túi hồ sơ đặt trên bàn làm việc. Tiếng chém gió của chiếc quạt trần quay “ù, ù” như cối xay lúa.
Ngoài trời nắng chan chan, đã lập thu rồi mà thời tiết như độ giữa hè. Cơ quan Nông nghiệp ở trên tầng hai khu nhà ba tầng nằm giữa trung tâm huyện lỵ. Phòng làm việc của Trưởng phòng ở đầu hồi, thêm được diện tích của phần trần hiên. Phía ngoài kê bàn làm việc, chiếc tủ đựng hồ sơ đứng sừng sững thay màn gió che phần bên trong. Một phần đầu giường cá nhân thò ra có ý nói rằng đây là nơi nghỉ trưa hoặc trực đêm của chủ nhân căn phòng.
- Em đi lên đây bằng gì? - Trưởng phòng hỏi.
Em đáp:
- Dạ, thưa bác, cháu đi bằng xe đạp.
- Trưa rồi! - Ông chuyển tư thế ngồi - Đằng nào cũng phải chờ đến chiều tôi còn hội ý với bộ phận chuyên môn. Tiện thể em ở đây ăn trưa với tôi.
- Thưa bác, thôi ạ, để cháu ra phố chơi một lúc, đầu giờ chiều cháu quay lại.
- Bác cháu gì mãi thế? Em giúp tôi lấy cái bếp dầu để ở trong gầm giường mang ra ngoài hiên.
Bất đắc dĩ, em chiều ý bê chiếc bếp dầu ra ngoài. Ông Trưởng phòng cầm trên tay cái bật lửa vỏ nhôm và cái đóm:
- Em vào trong buồng lấy cái xoong và xách xô nước ra đây, để bếp đấy tôi nhóm.
Em kỳ cọ chiếc xoong bóng loáng rồi hỏi:
- Thưa bác, gạo ở đâu ạ?
- Cơm nước gì cho mất thời gian. - Ông nói - Nấu mỗi người bát mì, đập trứng vào là xong. Thôi, em để đấy cho tôi.
- Bác để cháu nấu. - Em nói.
Ông mang ra cho em mấy gói mì kèm theo bốn quả trứng gà:
- Ăn cái này nhẹ bụng, mà lại có chất hơn.
Em đập vào bát ông ba quả trứng cộng với hai phần mì. Ông cởi áo ngoài, co hai chân ngồi chồm hổm trên ghế vừa thổi vừa húp xoàm xoạp. Nghe tiếng húp, em không nghĩ ông là Kỹ sư, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện, mà liên tưởng tới mấy ông thợ cày dưới quê.
Trong lúc dọn dẹp, ông khoác cái áo lên vai nói:
- Xong việc, em vào giường nằm nghỉ, bụng mang dạ chửa đi đâu giữa trưa này? Cứ tự nhiên, tôi xuống dưới chỗ trực hút điếu thuốc lào, tán gẫu với cậu bảo vệ.
Nằm trên giường, em cảm động vì sự quan tâm của ông Trưởng phòng, mừng vì thấy công việc có chiều suôn sẻ.
Bây giờ thì ổn rồi. - Em nghĩ - Nếu cứ như lúc ban đầu thì gay! Em không hiểu sao thái độ của ông Trưởng phòng lại đột ngột thay đổi vậy? Nhìn ra khoảng trời ngoài cửa sổ: da trời mới đẹp làm sao, thi thoảng từng đụn mây nhiều hình thù màu xám bạc bay ngang qua rồi khuất sau khuôn cửa, trả lại nền trời một màu toàn bích. Lơ mơ em thiếp đi lúc nào không biết, mang theo cả bầu trời xanh rực rỡ cùng niềm hy vọng tràn trề vào trong sự tĩnh lặng của tâm hồn.
Em chợt giật mình, mắt mở bừng: Một bóng người lù lù như đổ ập xuống người, theo phản xạ, em lấy tay ôm bụng che đỡ cái sinh linh nhỏ bé đang hình thành. Màu thiên thanh biến mất, cánh cửa sổ đã đóng, ánh sáng lọt qua khe chiếu thẳng rồi gãy khúc trên hai thấu kính, phản lại, từng tia khúc xạ lấp loáng, lấp loáng.
Em chồm dậy nhưng không được. Cánh tay của thần dâm đỡ dưới gáy co đầu em lên gần sát đôi mắt kính, hơi thở nồng nồng phả vào da mặt. Em giãy giụa, nhưng sợ cái mầm sống bị đau, em ú ớ.
- Đừng... đừng... đứng làm thế thưa bác.
- Cho anh đi... - Tiếng thở hổn hển xen lẫn những lời nói ham hố khẩn thiết kêu nài - Cho anh đi em... rồi muốn chuyển về xã nào, thôn nào anh sẽ...
Cuống quýt, em đưa ra lý do cuối cùng: - Cháu đang có chửa... Bác...bác...bác... bác đừng...
Thần dâm áp đôi môi cuồng khát vào môi em, em lắc đầu, cái môi cùng cái mặt trượt xuống bên tai, cạnh gọng kính xiết kéo mấy sợi tóc mai làm em đau. Giọng thần loạn nhịp:
- “Được cái l... chửa sướng nửa đời người” em ơi... Em cho tôi nửa cái đời người ấy nhé...
Em loay hoay không biết làm thế nào để gỡ ra. Trong lúc gay go, bỗng quên phắt mình có chửa, em gồng người, co gối chống lại bàn tay thô bạo. Buông đôi tay đang bảo vệ hài nhi, em lấy một tay đỡ cổ đẩy lên, còn tay kia đấm thẳng vào mặt, cái kính văng ra, tung lên không rồi rơi “cạch” xuống nền nhà. Thần dâm bị hất ngược, bật dậy hiện nguyên hình là ông Trưởng phòng.
- Aaaaa... Cô... cô... cô dám đánh tôi phải không? Được! Rồi cô sẽ biết tay.
Em không còn nghe ông ta nói gì nữa, nhổm dậy, hẩy ông ta đang đứng ngã ngồi xuống giường lấy lối ra mở then cài cửa chạy ra ngoài, quên cả dép và nón đội.
10. Đi được một lúc lâu, khi quay về, bố buông một câu cụt lủn:
- Bà Lang đi mất rồi!
- Sao lại đi mất? - Mẹ hỏi.
Bố trả lời: - Tôi cũng như mình, biết đâu được!
Dì ca cẩm: - Hay biết tin Tây đuổi theo, nên bỏ mọi người chạy trước?
- Không nhẽ thế? - Mẹ lẩm bẩm.
Lơ mơ, nửa tỉnh, nửa mê, nhưng tôi vẫn nghe thủng câu chuyện, nhếch mép cười khẩy, nghĩ: Cả nhà chẳng tin mãi bà ấy đi. Bây giờ mói rõ nhé! - Trong cái óc non nớt của tôi xuất hiện hình ảnh bà Lang kiêm mụ Đỡ. Và tôi, lấy tất cả sự coi thường, khinh bỉ trùm lên bà.
Thằng “tên” thấy thái độ của tối như vậy nó phản đối:
- Tờ không bao giờ tin bà ấy là kẻ phản bội.
- Thì đấy! - Tôi vặc lại - Cậu đã hưởng mùi hôi và vị đắng của lá ngải cứu đâu? Cậu đã được nếm những cái phát vào mông như trời giáng của bà ta đâu mà cậu chẳng bênh.
- Cậu là thằng không biết điều! - Thằng “tên” cao giọng xỉ vả - Nếu không có bà ấy biết xoay thai, cậu chẳng chết ngóm rồi à?
- Bà ấy không đỡ tớ, đã có người khác! - Tôi cãi bừa.
Thằng “tên” im lặng, vẻ coi thường. Tôi mệt quá, bụng lại réo òng ọc nên chẳng thèm nói nữa. Hai đứa tạm thời ngưng chiến.
Bố dọn chỗ dưới bóng mát một bụi cây để cả nhà nghỉ. Dì cùng chị nhớn bê nồi vào hẻm núi lấy nước; anh trai cùng hai chị nằm co ro dưới nền đất trải lá cây. Không ai nói một lời, lặng lẽ như chờ đợi những giây phút cuối cùng của đời tôi. Mẹ ngồi cạnh, mặt buồn bã, hai giọt nước từ khóe mắt ngưng lại trên gò má xanh rớt.
Lúc này, tôi không còn đủ sức gào nữa. Cơn đau không quặn thắt, nhưng cả người tôi mềm oặt, chân tay duỗi dài bất động. Miệng thi thoảng há, ngáp như cá thiếu nước, đôi mắt ốc nhồi bình thường đã trắng, nay trắng rã rượi, đồng tử con ngươi lờ đờ, thi thoảng mới động đậy. Từ lỗ đít, nước phân vẫn ri rỉ, mùi thối khẳn. Mẹ đã phải xé cả vạt áo ngoài đang mặc làm đồ lót mà vẫn không đủ, đành phải để tôi cởi truồng, kệ cho nước chảy ra, kệ cho gió lạnh căm căm giày vò. Bố ngao ngán, giọng rầu rầu:
- Thằng này số khổ. Hưởng hòa bình chưa được là bao thì lại gặp giặc giã. Bệnh tật thế này, bơ vơ giữa rừng núi thế này, biết có qua khỏi không?
Dì bê nồi nước, khập khiễng từ hẻm núi đi ra, nghe vậy, đai lại anh rể: - Anh chỉ được cái nói gở. Trẻ con đái, ỉa, sài đẹn là thường chứ có gì.
Tôi biết dì tự an ủi mình đấy thôi. Chứ thực ra, dì lo lắm! Trong số tất cả anh chị em, dì gần gũi với tôi hơn cả. Ngay khi tôi mới lọt lòng, dì đã là người đón tay. Bây giờ nhỡ tôi chết đi, dì chẳng khổ tâm, ân hận lắm à?
Chị nhớn nói:
- Chờ cơm sôi, lấy bọt nước cho em ăn, may ra khỏi mẹ ạ.
- Ừ, - Mẹ đáp - Chẳng gì cũng phải cho em ăn một bữa no con ạ!
Mẹ không muốn tôi phải làm ma đói.
Cả nhà cứ ngỡ sau khi ăn cơm xong là tôi “đi”. Bố đã bàn tới chuyện đào hố chôn tôi ở đâu, và nhắc mẹ nhớ ngày để hàng năm còn cúng cơm. Nhưng đến lúc nắng ngả sang chiều, tôi vẫn nằm thở thoi thóp. Thấy vậy, bố bàn:
- Cũng chưa biết thế nào? Nhưng nghe chừng trời dễ mưa? Bây giờ mà đi tiếp, không biết đến đâu mới có chỗ nghỉ? Còn chờ bà lang? Biết đến bao giờ. Tôi tính thế này: Cả nhà quay về làng Đồng Câu nghỉ, mai tính tiếp. Còn ở lại đây đêm nay, sợ có thú dữ tới.
Bố không nói hết câu, nhưng cả nhà đã hiểu. Dì đặt tôi vào một bên thúng, cái thúng như rộng ra, mọi lần tôi nằm, chân thừa, gác lên cả miệng thúng. Hôm nay, lọt thỏm, dì xót xa:
- Mới tá hỏa có một ngày mà người đã như tàu lá chuối héo thế này cháu ơi...
Chị nhớn cõng anh trai, bố cõng chị ba, mẹ cõng chị hai. Cả nhà lùi lũi quay lại. Trời ập tối rất nhanh, đường rừng vắng lặng, hơi nước từ thung lũng bốc lên bay là là trên tán cây, ngang sườn núi. Nằm ngửa mặt, tôi thấy mình bồng bềnh như bay trong mây, màu xanh lam nhường dần cho màu xám xịt. Xuống dưới chân dốc, gió bớt mạnh. Bố kiếm cây khô, bó, đốt đuốc; ánh lửa chập chờn, yếu ớt, lọt thỏm giữa núi rừng âm u.
Không thấy ai kêu khổ nữa. Chắc tất cả những vất vả, mệt nhọc, đói khát không sánh bằng những gì đang xảy ra, trong đó có sự chia ly tử biệt. Cái thúng, nơi chứa đựng một sinh linh thoi thóp - là tôi, đang đi gần đến huyệt đạo của chính mình. Từ xa trong bóng tối im lìm, tôi thấy Thần Chết đang tiến đến gần.
Thần Chết, tôi tưởng tượng là một quái nhân, mặt dài hơn mặt khỉ trong gánh xiếc biểu diễn rong ở chợ Phúc An. Còn tay, chân dài ngoẵng như rắn leo cây, mồm oạc ra như rắn hổ mang bành, vằn vện khoang đen, khoang vàng như rắn cạp nong. Nó múa may, chờn vờn quanh tôi.
Tôi không sợ chết! Nhưng tôi sợ, vì chết mà không được chơi với anh trai, với các chị nữa. Tôi sẽ không được nghe dì kể những câu chuyện cổ tích: Có cô Tấm bước ra từ quả thị; có con nhái, sau khi lột da, trở thành hoàng tử; có thằng Lý Thông tranh công, cướp nàng công chúa xinh đẹp của chàng Thạch Sanh nghèo khổ.
Nghĩ vậy, tôi ứa nước mắt. Nào tôi đã sống được bao nhiêu đâu mà nỡ bắt tôi phải chết? Sao bây giờ tôi ước ao có bà tiên từ trên trời bay xuống, cho tôi quả bầu tiên đựng nước cải tử hoàn sinh? Tôi sẽ trở lại như xưa, để được chập chững trên đôi chân hồng hào bụ bẫm, u ơ tập tiếng gọi cha, gọi mẹ đầu đời; tôi sẽ cùng dì lạc vào thế giới của những miền cổ tích xa xôi.
Thấy tôi mơ mộng, thằng “tên” giễu cợt: - Sắp chết đến nơi rồi mà còn mơ mộng.
Tôi nhìn nó căm hờn: - Rồi mày sẽ được tao giải thoát! Tao rất tiếc không được sống để mày hiểu, tao là người thế nào?
Thằng “tên” nhâng nháo: - Cậu thế nào thì ngay từ ngày bố ghép tớ vào với cậu, tớ đã hiểu rồi. Ăn thì tục, uống thì phàm, lười vận động, ba tháng trốn bò, sáu tháng không lết nổi một mét. Đi đâu chơi, nếu không có các chị bế ẵm thì làm tớ phải ở nhà cùng.
Nó còn nói dài lắm, tôi mệt, không cãi nổi cái mồm lu loa của nó! Nhưng suy cho hết nhẽ, có cái nó chửi tôi cũng đúng. Ví như chuyện đái dầm chẳng hạn. Rõ ràng đi ngủ, mẹ xi rồi. Gần sáng tôi vẫn “tương” ra một bãi trôi cả chiếu. Hoặc như chuyện ăn uống chẳng hạn, bất cứ cầm được cái gì là tôi đưa lên miệng.
Ừ, có thể tôi có nhiều tính xấu. Nhưng dẫu sao tôi và nó vẫn là một: Có tôi mới có nó, có nó mới có tôi. Hai đứa tuy hai mà một. Thế mà bây giờ, lúc tôi sắp chết, khi phút chia ly, tử biệt đã điểm, nó vẫn không dành cho tôi một phút tình cảm nào, dù chỉ là lòng thương hại. Thôi, cũng đành! Quyền yêu, ghét là của mỗi người, nào ai bắt được ai.
Phải tối sẫm cả nhà tôi mới về đến làng Đồng Câu. Chị nhớn kiếm đâu ra hàng đống cỏ lông lợn đem vào nhà đốt lên, căn nhà ấm hẳn. Dì đặt quang gánh xuống, giục anh rể:
- Anh lấy cỏ lót xuống dưới, rồi trải túi cói lên cho chị và các cháu nằm. Em xuống suối vò chỗ quần áo bẩn, hơ cho khô, sáng mai còn lấy cái cho cháu mặc.
Bố bảo chị nhớn:
- Con cầm đuốc soi cho dì. Đêm tối, hai người cùng đi vẫn hơn.
Chị nhớn theo dì đi ra. Mẹ nằm xuống, ôm tôi, hơi ấm từ nơi mẹ truyền sang. Tôi cảm nhận được nỗi xót đau của lòng mẹ. Mẹ ơi! - Tôi thầm gọi - Con không muốn chết! Con muốn được ở với bố mẹ và cả nhà mình suốt đời... Hình như mẹ cảm nhận được nỗi lòng của tôi. Mẹ lấy tay vuốt mái tóc khô xác trên đầu, rồi đưa tay rờ rẫm khắp cái thân thể còn trơ da bọc xương của tôi. Chợt mẹ giật mình nhổm dậy:
- Bố nó ơi! Sao bụng thằng Thừa chướng to thế này?
Ánh sáng soi rõ cái bụng tôi phềnh to, kềnh càng như tang trống hội chùa Báo Ân trên đồi Cấm. Bố tôi ngửa tay gõ thử, cái bụng tôi trả lời: “Bung, bung”. Bố bảo:
- Thế này, chẳng được bao lâu nữa.
Anh trai cầm lấy bàn tay bé xíu của tôi:
- Em tỉnh ngủ, hôm nào về, anh cho ra Bãi Tập chơi.
Anh trai hứa bao nhiêu lần cho tôi ra Bãi Tập, nhưng chưa bao giờ tôi được ra. Chắc vì tôi chưa biết đi? Có lần chị hai nói:
- Bãi Tập là khu đầm lầy giáp chợ Phúc An. (Khu chợ mà anh trai đã kể ở phần trên). Sau khi Việt Minh giành chính quyền, lấy đất san lấp làm Bãi Tập để bộ đội, tự vệ tập quân sự, đánh trận giả, luyện võ đánh Tây. Bọn trẻ con trong phố ra đấy chơi đủ các trò.
Tôi ước mơ được ra đấy chơi mà chưa bao giờ được. Bây giờ, ước mơ ấy lại càng xa xôi.
Dì bê quần áo lên, đặt vội xuống, nhào vào:
- Cháu nó sao rồi anh chị?
Mẹ nước mắt lưng tròng:
- Chắc cháu không qua được.
Bố thở dài:
- Âu là cái số.
Chị nhớn quay mặt đi, lấy tay chấm nước mắt. Chị hai, chị ba vuốt ve chân tôi, hơi nóng từ bàn tay các chị truyền sang, cảm giác trìu mến, thân yêu như muốn níu tôi lại.
Gió ngoài trời mạnh dần, kèm vào đấy là từng đợt mưa rừng ào tới. Nước mưa xối xả trên mái, tiếng mưa lộp bộp trên tán cây rừng, lúc ào ào, lúc ắng lặng... Gió lùa qua khe cửa thốc tháo vào nhà. Ngọn gió đùa giỡn lưỡi lửa, ánh sáng chập chờn, quất lên những sinh linh nhỏ nhoi, rét mướt, quất vào những tâm hồn bơ vơ, đơn lạnh.
Dì chắp tay hướng lên trời, chị nhớn quỳ bên cạnh; bố cời vầng than đỏ như muốn cho trời bớt lạnh, mưa bớt rơi, gió bớt thổi; chị hai, chị ba, anh trai co ro, lấy cỏ phủ lên đôi chân giá buốt; mẹ vạch vú, cố vắt trong bầu vú nhão nhoét, kiệt khô, một chút nước màu trắng, thấm thấm lên môi đứa con mình.
Trên cao, trời vẫn ầm ầm giận dữ; mặt đất, mưa gió vẫn giơ ra bộ dạng hoang dại, dữ dằn.
Tôi nghe mung lung nhịp điệu của vũ trụ xoay vần, của mưa gió hãi hùng... Thần Chết uốn éo, múa điệu múa biệt ly, rền rĩ hát lời hát bi ai. Huyệt mộ há hốc mồm dọa nuốt tôi. Tôi cố vươn về nơi sống, Thần Chết lôi tôi về phía mồ.
Bỗng, thằng “tên” gào lên thất thanh:
- Bố mẹ ơi, cả nhà ơi, có người đến.
Nghe tiếng thằng “tên” reo: gió ngừng thổi, mưa ngừng rơi, Thần Chết dừng vũ điệu biệt ly, ngừng lời ca bi ai; miệng huyệt mộ khép lại. Cả nhà tôi bừng tỉnh:
Từ ngoài sân, có ba người đội mưa gió ào vào. Nổi bật là con người mà gia đình tôi quý trọng, thân thiết như người ruột thịt: Đó là bà Lang.
Đi cùng với bà là ông Trưởng làng và một người đàn ông ăn mặc kỳ dị.
Mắt tôi nhòa đi, niềm hy vọng được sống ùa đến, bất giác tôi liếc mắt nhìn thằng “tên”. Nó thò mồm vào tai tôi thì thầm:
- Thừa ơi, sống rồi!
Đời là vậy đó! Khi biết tôi có thể được cứu sống nó lại gắn cái tên nó vào với tôi. Nhưng thôi, thường khi con người có niềm vui dễ quên đi hờn giận, dễ mủi lòng tha thứ. Tôi cũng vậy!
Bà Lang không nói không rằng, vạch áo bụng tôi lên, áp tai xuống nghe. Nghe xong, bà lấy tay quệt phân, giơ lên trước ánh đuốc xem, rồi đưa lên mũi ngửi. Tôi thoáng thấy mọi người ngồi quanh nhăn mặt lại.
Bà tháo cái bị luôn đeo trên người xuống, mồm hỏi:
- Dì xem còn nến không?
Dì đáp:
- Còn! Lấy mấy cây để tôi lấy?
- Bà Lang bảo:
- Đưa cho tôi hai cây, còn lại đưa cho ông kia - Bà chỉ tay sang ông có lối ăn mặc lạ kỳ.
Dì lấy nến đưa cho bà, còn lại trao hết cho ông.
Bà Lang trải tấm vải xuống nền nhà, lấy từ trong bị cói ra: Một tập bìa cứng cuộn trông như một cái sâu kèn; một con dao mỏng; một củ gừng; một cái que sắt, đầu nhọn như gai bưởi; một bó hương; một tệp giấy bản; một hộp đựng ngải cứu đã cắt thành sợi, phơi khô.
Bà dùng ba ngón tay nhúp ngải, vê thành từng viên như viên thuốc lào bố hút. Vê xong, bà lấy giấy bản trải rộng, đặt nén hương vào giữa, xếp viên ngải vào. Bà lẩm bẩm:
- Cu Thừa con trai bẩy vía, làm bẩy ngải. - Xong, bà cuộn vào trông như điếu thuốc lá xì gà một lần ông ký đem mời bố và khoe được xếp ga người Tây cho.
Bà dùng kim, châm lên thân củ gừng nhiều nhát, dùng dao thái từng lát, như mẹ xắt khoai lang để hấp cơm.
Chuẩn bị xong, bà bảo mẹ:
- Bế ngửa nó lên cho tôi.
Bà dùng ngón tay đo, rồi đặt một miếng gừng lên chỗ định, đưa điếu ngải châm vào ngọn nến, khi điếu ngải bắt lửa, bà chụm môi, thổi hơi nóng vào miếng gừng. Bà dặn mẹ:
- Bà để tay sát đấy, nếu thấy nóng, dùng ngón ra hiệu cho tôi, kẻo bỏng thằng bé!
Tôi nhớ, lúc đó tôi thấy da bụng nóng, thi thoảng hơi nóng phả rát bỏng. Mỗi lần như vậy, mẹ lấy ngón tay ra hiệu. Bà Lang lại kéo xa điếu ngải ra một chút và ngừng thổi. Miếng gừng này khô, Bà Lang thay miếng khác.
Hết ngửa bụng lại đến nằm sấp. Mỗi lần thay miếng gừng mới, Bà Lang lại lấy ngón tay đo, tính. Bố nói ra vẻ thông hiểu:
- Bà ấy tìm huyệt đạo.
Trong lúc Bà Lang dùng điếu ngải chữa cho tôi, thì ngay gần đấy, ông Thầy Mo (về sau tôi mới biết ông là Thầy Mo) người dân tộc Sán Dìu, bạn của Thần Núi, Thần Rừng, Thần Mưa, Thần Gió... người chuyên trị quỷ, trừ tà, cai quản ma lai, ma xó xứ Châu Lam, chuẩn bị bày bàn cúng lễ. Bao nhiêu nến dì đưa cho, ông đốt hết, cắm thành vòng, quây xung quanh một hình nhân đẽo bằng gỗ. Ông lấy trong túi ra đôi xập xoèng bằng đồng, rồi vừa co cẳng nhảy cù đớ, hai tay ông vừa vung ra xa, rồi đập vào nhau, tiếng thanh khí vang lên “Choeng, choeng, choeng, choeng... choeng”, theo nhịp ngũ liên. Cả người ông uốn éo, dẻo như miếng kẹo kéo. Chiếc mũ cắm lông chim sặc sỡ lấp loáng trong ánh lửa bập bùng. Đôi chân trần, đen đúa chuyển điệu. Dù ông ta chỉ sử dụng một loại nhạc cụ, nhưng sau nhịp năm, là những vũ điệu lạ kỳ, giàu tiết tấu. Lúc mang sự huyền bí, linh thiêng gần với thần thánh; lúc kinh dị, man dại, gần với ma quái.
Ông vươn rộng cánh tay, như thần điểu bay lượn giữa không gian, rồi sà xuống, xòe hai cánh khổng lồ phủ lên tượng hình nhân bé nhỏ. Trông như chim lớn bảo vệ, chở che cho chim non yếu ớt. Có vũ điệu như người mẹ ru con, mười đầu ngón tay mơn man, ve vuốt; miệng hát những câu lạ lùng, nhưng âm hưởng dịu dàng, âu yếm. Lúc lại bỏ xập xoèng, cầm con dao quắm to bản, múa một bài quyền thuật, chém tới, chém lui. Mỗi nhát chém, ông hét lên man dại, như vừa hạ sát một đối thủ vô hình mà chỉ riêng ông nhìn thấy. Rồi lại đột nhiên vung dao lên, gí thẳng vào bụng, vào đầu, vào chân, tay bức tượng gỗ...
Có thể bây giờ tôi nói, độc giả cho là phét lác, nhưng lúc ấy tôi được cả Bà Lang và ông Thầy Mo truyền công lực vào. Mùi điếu ngải cháy, bay, vương vào khứu giác, thơm lạ lùng, miệng tôi hà hít luồng sinh khí, da mặt tôi hồng hào dần, nước hôi từ hậu môn ngừng chảy. Tôi xấu hổ khi nghe tiếng rắm “bum bủm” phọt ra, cố ghìm mà không được. Còn mỗi khi nghe tiếng thầy mo hét, chân, tay tôi co, duỗi; con tim trong lồng ngực tràn đầy huyết khí; mắt tôi vẽ vòng theo cái bóng của ông nhập nhòa, chập chờn in trên vách nứa.
Thằng “tên” ghé vào tai tôi thì thầm:
- Cậu không chết nữa rồi!
Tôi không thèm nói với nó. Thực tế đã trả lời.
Bà Lang đốt hết bảy điếu ngải; ông Thầy Mo múa hơn hai canh giờ, tàn chục bó đuốc. Người tôi tỉnh, chướng khí tan đi đâu cả, da bụng giáp da lưng, miệng ứa nước miếng thèm ăn. Bà Lang nhắc mẹ:
- Ai mắc bệnh này phải kiêng. Cho ăn vội, cho uống vội, đứt ruột mà chết. Bà nghe tôi, thi thoảng vắt tí sữa, bôi lên môi cho nó đỡ khô môi, khô cổ. Nhịn không chết, cho ăn là tắc tử! - Nói xong, bà nằm kềnh ra nền đất mà ngủ, ngáy vo vo.
Mẹ bảo:
- Khổ, lo hết việc nước lại đến việc đời.
Bố cởi áo của mình bảo dì:
- Dì đắp cho bà ấy khỏi lạnh.
Ông Thầy Mo, nằm cạnh cửa, đầu gác lên túi đựng đồ cúng, chân dang rộng, mồm há, thở như kéo bễ, dãi miệng chảy rề rề. Dì cầm cái bao cói, che kín cho ông chỗ phần đóng khố.
Ngoài trời sáng bạch, mưa ngừng rơi, gió ngừng thổi. Cây rừng đẫm nước, muôn lá khoe màu xanh mượt, những giọt nước đọng lại trên tàu chuối trong veo. Có muôn ngàn tia nắng xuyên qua kẽ lá, như hào quang rực rỡ vẽ ở những bức tranh trong nhà thờ. Tiếng chim hót vang lừng, rộn ràng. Cảnh vật như chia vui với niềm vui của gia đình tôi.
Đối với cả nhà, hôm ấy là một ngày đáng nhớ. Tôi như được sinh ra lần thứ hai. Bố, mẹ, chị nhớn, chị hai, chị ba, anh trai, và người dì thân yêu của tôi nữa, tất cả xúm quanh, nhìn tôi, ánh mắt vui như lời nói chúc mừng. Dì đón tôi từ tay mẹ, như đón tôi thuở mới lọt lòng. Trùm, ủ lên người tôi chiếc váy nồng mùi oi khói và ấm hơi lửa, miệng à ơi, ru nựng:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
- Đúng thật! - Bà Lang trở mình, ngáp dài, rồi đọc - Bắt phong trần, phải phong trần - Cho thanh cao mới được phần thanh cao - Bà nói tiếp - Câu thơ khéo đáo để! Trời mà không cho cu Thừa được làm người, thì hai Bà Lang như tôi, bốn ông Thầy Mo người Sán Dìu cũng chẳng cứu được.
Chị nhớn bưng mời bà bát nước, bà bụm miệng súc, nhổ đánh “toẹt” xuống đất. Bà lấy trong túi áo ra một miếng trầu, bỏ toẹt vào mồm, nhai bỏm bẻm:
- Ông Trưởng làng đi gặp thượng cấp, không biết thế nào?
Bố hỏi:
- Tình hình thế nào hả bà?
Bà Lang tưởng bố hỏi chuyện hôm qua, liền kể:
- Hôm qua, tôi đến địa điểm nhận chỉ thị. Đợi lâu quá, tối đêm mới gặp liên lạc đến. Bàn giao xong, quay ra mới biết tình hình nhà mình. Tôi phải vượt sang chân đèo bên kia mới tìm được ông Trưởng làng. May quá, lúc ấy có cả Thầy Mo ở đấy, tôi mời đi luôn. Bụng tính: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Thôi, thế là mừng rồi.
Mẹ nói:
- Bây giờ tôi và cháu nấu cơm. Cả nhà chắc đói rồi.
Nói xong mẹ cùng chị nhớn đi nhóm bếp.
Bà Lang dặn:
- Đặt lấy nồi cháo vừa cho cu Thừa vừa cho Thày Mo. - Bà giải thích - Phong tục ăn uống của bà con ở đây đơn giản, nhưng có điều nấu một nồi cơm phải nấu cùng một nồi cháo. Vừa ăn cơm vừa húp cháo.
Bố nói:
- Trông họ thế mà tốt và hiền nhỉ?
Bà Lang nói:
- May mà có các bà con người dân tộc chứ không chết ráo! Hôm qua, cán bộ người Tày bên Thái Nguyên sang đón bà con Phúc An tản cư về An toàn khu rồi. Thế là tôi hoàn thành nhiệm vụ với Ủy ban tỉnh Phúc An. Còn bây giờ đến việc nhà mình - Bà vươn vai đứng dậy - Đằng nào cũng phải chờ ông Trưởng làng. Vả lại, mọi người cũng cần phải nghỉ, sáng mai đi cũng được.
Mặt trời lên cao bằng mái nhà thì chị nhớn nấu xong cơm. Trong khi đợi cơm chín, dì lấy bọt cơm bón cho tôi. Bà Lang vạch quần tôi, nói:
- Săn lắm rồi - Bà giải thích - Muốn biết trẻ con yếu, khỏe, chỉ cần xem dái nó săn hay chảy là biết ngay! Thằng này nhanh lại sức. Nhưng cho ăn ít thôi, phòng đứt ruột - Dặn dì xong, bà đi đến chỗ Thầy Mo ngủ, đánh thức ông bằng thứ tiếng dân tộc. (Không biết bà học nói từ bao giờ mà giỏi thế?). Ông Thầy Mo nhổm dậy ngơ ngác:
- Gọi mình dậy làm gì?
Bà Lang trả lời:
- Sực phàn (Ăn cơm).
Rất khó đoán tuổi Thày Mo. Nhìn mặt, có lẽ phải đến sáu mươi? Nhưng nhìn mái tóc xanh, chưa đến năm mươi! Ông không mời, dùng tay bốc cơm ăn rất tự nhiên. Bố gắp mời ông miếng cá mắm. Ông xua tay từ chối, mặt nhăn, mũi chun lại ra vẻ khó ngửi. Bà Lang giải thích:
- Người dân tộc Sán Dìu không ăn cá mắm, không ăn mắm tôm.
Ăn xong, Thầy Mo đứng dậy nói:
- Mình đi đây! - Ông rảo bước đi thẳng ra cửa.
Bố rút trong tay nải ra một chiếc áo, chạy vội theo đưa cho ông. Ông lắc đầu, nói:
- Mình làm phúc thôi mà. Lấy cái gì, con ma nó khinh. Lần sau cúng nó không sợ mà - Ông nhe hàm răng đen nhẻm cười; hai tay chắp, đầu gật có ý chào cả nhà. Đi được một quãng đột nhiên ông quay lại. Bố tưởng ông ta đổi ý đồng ý lấy áo liền chìa ra. Ông ta cười, móc trong túi ra một túi thuốc bột:
- Lấy cái này xát vào chân tay cho khỏi con vắt, con muỗi đốt à - Nói xong ông quay ngoắt người đi thẳng.
Bà Lang cầm túi thuốc, mắt nhìn theo, chép miệng:
- Họ nói một là một, không lấy là không lấy. Đâu như người Kinh ta, khách sáo, giả tạo bỏ mẹ.
 - Sao ông ta không chờ Trưởng làng? - Bố hỏi.
Bà Lang trả lời:
- Đêm nay ông ta còn phải cúng tuần cho một người trong làng mới chết chôn ở trên núi.
- Ông ta có vợ con gì không? - Mẹ hỏi.
- Có! Nhưng sống với nhau được một thời gian, người vợ mắc bệnh hủi, bị dân làng chôn sống, đứa con trai mới ba tuổi bị chôn theo. Cả hai mẹ con bị vùi vào vôi bột. Sau khi mất vợ con, ông ta phát tiết, đi lang thang trong rừng hàng năm trời. Nghe Trưởng làng kể: Thần Rừng hợp, nhập hồn vào cho ông làm Thày Mo. Dân làng tin ông ta lắm, nói gì cũng nghe. Ngoài chuyện cúng bái, ông ta còn rất giỏi chữa bệnh bằng lá cây trong rừng.
Cả nhà tròn mắt, vểnh tai nghe chuyện Bà Lang kể.
Dì hỏi:
- Có phải người thiểu số biết chài không?
- Nghe nói vậy, chứ đã thấy ai bị chài mà biết - Bà Lang trả lời - Trai gái yêu nhau quá, thất tình, rồ dại là chuyện thường. Ở tỉnh Phúc An mình thi thoảng chẳng có đàn bà, con gái điên điên, dại dại, đầu cài hoa, miệng hát véo von là gì.
- Cũng tùy người thôi. - Dì nói, nhưng mắt liếc về phía chị nhớn. - Chẳng tội gì phải thế! Ai lấy ai là do duyên số trời se.
Bỗng có tiếng người hú, âm thanh dội vào núi ngàn vang vọng, ngân nga. Bà Lang đứng phắt dậy:
- Tiếng hú báo nguy của Thày Mo. Chắc có chuyện?
- Nói xong bà bảo cả nhà - Gói ghém các thứ. Nhanh lên!
Trao tôi cho mẹ, dì vơ các thứ nhét vội vào thúng. Ba tiếng hú nữa vang lên. Bà Lang thét:
- Tây đến! Ba tiếng hú là báo hiệu có Tây. Bỏ tất cả đấy! - Bà quát - Theo tôi vào rừng.
Đáp lại lời bà là tiếng súng nổ. Tiếng nổ đập vào vách đá vọng lại, nghe như hàng trăm tiếng nổ. Bà Lang vọt ra lối cửa sau.
Không còn kịp thu dọn nữa, cả nhà nháo nhào chạy theo. Lúc bế xốc tôi lên, mẹ đánh rơi tay nải, dì vơ vội, khoác vào vai, giục chị nhớn:
- Cháu dắt hai em chạy theo sau mẹ!
Bố cõng anh trai, dì ôm quàng mấy thứ chân thấp chân cao chạy cuối. Đường rừng gập ghềnh, hẹp, lại vừa qua mưa, mặt đường rất khó đi, nhưng Bà Lang chạy rất nhanh. Cả nhà thục mạng chạy theo. Chạy được một lúc, gặp con suối chắn ngang, mặt nước mênh mông dâng cao, cuồn cuộn xiết chảy, từng đợt sóng liếm vào cây cối mọc hai bên bờ. Bà Lang nói:
- Vừa mới hôm qua còn lội, nước chưa tới đầu gối, vậy mà...
Chần chừ bên bờ suối một lúc, bà bảo:
- Đành phải tìm đường khác thôi. Chờ nước rút phải mất cả đêm nay.
Bà dẫn cả nhà tôi men theo bờ suối rẽ ngược lên một con dốc rất cao. Dì lấy áo buộc thành địu, địu tôi sau lưng. Khi nhận lại tay nải dì đưa, mẹ bảo:
- May quá! Toàn bộ gia sản của nhà nằm trong này đấy!
Leo tới đỉnh dốc, chân dốc bên này đất thoải, từng bụi cây sim và cây mua mọc xen kẽ. Tựa cằm lên vai dì, tôi nhìn thấy khu làng cả nhà vừa ở đấy chạy ra nằm ngay sườn núi đối diện. Bà Lang ra hiệu cho mọi người dừng lại, rồi thầm thì:
- Mọi người ngồi ở đây, tôi phải đi xem binh tình thế nào. - Rảo được mấy bước bà quay lại dặn - Nhớ lời tôi, không được đi đâu đấy!
Tôi không nghĩ đó lại là lời trăng trối cuối cùng của bà.
Bà Lang thận trọng đi về phía làng. Lúc bà ẩn mình sau bụi cây nghe ngóng. Khi còn cách rìa làng một quãng bà dừng lại. Không thấy động tĩnh bà đứng dậy đi tiếp. Bỗng như từ trên trời rơi xuống, một toán tính Tây lố nhố xuất hiện. Trên tay cầm súng lăm lăm đón đầu bà. Bọn chúng hô hét, xì xồ náo loạn.
Bà Lang chững lại vì đột ngột. Rồi chợt như hiểu, bà quay ngoắt lại chạy về phía gia đình tôi. Bọn Tây đuổi theo, một thằng giơ khẩu súng lên trời bắn một loạt. Tiếng súng nổ vang cả núi rừng. Có tiếng hô nửa tiếng Tây nửa tiếng ta:
- Ố là la... Bố cu Việt Minh tàn pà... tàn pá tứng nại... tứng nại... Tialaphơ... (- Ố la la... Bố cu Việt Minh đàn bàn... đàn bà đứng lại... đứng lại... Bắn... bắn...)
Một giọng khác vang lên:
- No! No! Tàn pà... pắt xống tàn pà Việt Minh... No Tialaphơ... No... no... (- Không! Không! Đàn bà... bắt sống đàn bà Việt Minh... Không bắn... Không... không...)
Đang chạy về phía chỗ cả nhà tôi nấp, đột ngột bà rẽ ngang chạy sang cánh rừng bên kia. Giữa hai cánh rừng là một trảng đất toàn cỏ lông lợn mọc. Mùa đông, từng cụm cỏ úa vàng, xõa xượi như tóc đàn bà bị rối. Bà Lang chạy rất nhanh, khoảng cách giữa bà và bọn chúng xa dần. Bố thì thào:
- Sắp qua được rồi.
Mẹ đồng ý:
- Vào được rừng là thoát.
Nhung bỗng bà Lang bị ngã. Cả nhà không hiểu tại sao lại thế? Vì không nghe tiếng súng nổ. Bà nhoai người chồm lên, nhưng không đứng lên được, bà ra sức nhoai... Trông từ xa bà giống như con nhái quờ quờ bơi hai chân trước. Bà bơi bơi rất nhiều mà sao không tiến lên được một chút nào. Hình như có ai dưới đất nắm chân kéo bà xuống?
Bố kêu lên thảng thốt:
- Thôi chết! Bà Lang bị thụt bùn rồi.
Trong lúc đó, khoảng cách giữa bọn Tây và bà rút ngắn lại. Khi chúng đến gần thì người bà chỉ còn hở ra từ nách đến đầu. Tôi thấy bọn chúng loay hoay nhưng không sao đến chỗ bà được. Mấy thằng Tây xì xì, xồ xồ, tay chỉ trỏ loạn xạ. Bọn chúng tháo dây súng nối lại với nhau quăng cho bà để kéo lên. Nhưng bà thà chịu chết chìm trong bùn chứ nhất quyết không cầm.
Mẹ thở dài:
- Người đâu đến là gan!
Lúc này hình như bọn Tây đang tìm cách khác lôi bà ra khỏi đám lầy. Chúng chụm đầu lại bàn bạc. Rồi có ba thằng quay lại phía làng. Lúc trở ra mỗi thằng vác theo một tấm ván.
Bà Lang vùng vẫy không chịu để chúng bắt. Nhưng sức lực có hạn, bà bị chúng cầm tay kéo lên bờ. Hai thằng, mỗi thằng nắm một tay, bùn trơn, chúng tóm váy, nhấc ngược người bà mà lôi.
Dì xót xa:
- Thế thì còn gì là người nữa.
Chúng đưa bà đến chỗ lấy nước dẫn bằng ống bương của người dân tộc Sán Dìu. Bọn giặc hè nhau lột trần rồi đẩy bà vào dòng nước. Bà không kháng cự, gạt tay chúng ra, đàng hoàng như người đi tắm. Dòng nước chảy xối xả, lớp bùn đất dính trên người bà tan trôi. Làn da người đàn bà lộ dần, trắng nõn nà.
Tất cả lũ giặc ngỡ ngàng, những hành động điên cuồng ngừng lại.
Như bông hoa chưa một lần chạm gió, đường nét con gái trên cơ thể người đàn bà còn trinh nguyên hiện ra. Suối tóc dài đen nhánh phủ trên tấm lưng trần thon thả; hai núm vú xinh xinh, cong vươn trên vầng ngực đầy đặn, tròn trĩnh, hồng hào. Có ai ngờ, sau lớp màn trần tục che đậy, bưng bít là bức tranh với những nét chấm phá ngợi ca sự ngây thơ, khờ dại về một thuở hồng hoang; là bức phù điêu với những nét chạm khắc do tạo hóa vần vũ cấu thành, tạc y lên cho nhân gian chiêm ngưỡng.
Bà hiện thân là nữ Thủy thần trong truyện dân gian của người Sán Dìu mà dì đã kể cho tôi nghe: Nữ Thủy thần là con gái của vua Thủy Tề. Một lần du ngoạn qua xứ Châu Lam, thấy phong cảnh hữu tình, nữ Thủy thần tháo viên ngọc xanh cài trên đầu ném xuống và đọc một lời nguyền:
- Ai tìm thấy viên ngọc xanh sẽ tìm thấy hạnh phúc đời đời.
Từ bấy đến nay, qua bao nhiêu mùa cây thay lá, đất Châu Lam trải mấy mươi đời, dòng suối Đồng Câu hết đục lại trong, nhưng chưa một ai tìm thấy cả.
Bà đứng đấy, như pho tượng hiển linh. Mặc cho nước nguồn ve vuốt, cho gió ngàn mơn man, cho ánh nắng rực rỡ e ấp phủ trên da thịt.
Phút ái ân, giao hòa giữa thiên nhiên với nữ Thủy thần.
11. Ông cựu Chủ nhiệm kiêm Xã đội trưởng bây giờ xuống làm nhân viên tạp dịch cho văn phòng Ủy ban, đến nhà đưa cho em bì thư bị xé. Ông nói, cái sẹo trên trán giật giật liên hồi:
- Bác tưởng lại là giấy Tòa án gọi cháu, hóa ra giấy của Phòng Nông nghiệp huyện. Sướng nhé! Được về làm ở gần nhà có ngang người ta cho của. Con cái đã có bố trông, đẻ đái đã có mẹ lo.
Tin vui làm em quên nỗi bực bội vì ông tọc mạch “vi phạm bí mật thư tín”. Ông về, em mở quyết định ra xem và ngỡ mình nằm mơ. Sau sự việc xảy ra ở Phòng Nông nghiệp huyện, em nghĩ thể nào ông Trưởng phòng sẽ trả thù, điều em đến một xã xa. Ai ngờ, tờ quyết định chuyển em về ngay xã nhà. Em cầm tờ giấy thơm phức mùi mực dấu, áp vào bụng, chỗ vồng lên cao nhất như nói với con em rằng: “Con ơi, dẫu sao đời mẹ con mình cũng còn gặp may”. Lòng khinh bỉ và những ý nghĩ xấu về ông Trưởng phòng Nông nghiệp bỗng vợi bớt.
Em đem chuyện tâm sự với người bạn gái. Bạn bảo:
“Chẳng phải ân hận vì hành động mà ông ta có lòng tốt thế đâu! Chẳng qua sợ cậu bức xúc đem chuyện đi kể, mất chức Phó Sở Nông nghiệp tương lai nên ông ấy ký quyết định để xoa dịu cậu đấy thôi! Vả lại, nghe đâu Quốc hội họp lại chuẩn bị cắt trả vùng mình về Vĩnh Phú. Cậu không thấy bao nhiêu người “chạy” về Hà Nội à? Binh tình này cơ quan nào chẳng thiếu cán bộ, nhất là cán bộ tăng cường cho cơ sở? Ôi dào! Người đời ít có kẻ ban không lòng tốt cho ai!”.
- Sao hay tách tỉnh thế nhỉ? - Em hỏi.
- Chuyện - Bạn chép miệng - Các ông Nghị mà lại! Thích thế nào thì xoay ra thế! Tớ là nhà văn ấy à - khối chuyện để viết! Nghe đâu trường Đại học Tài chính, rồi trường Sư phạm II đòi Bộ Giáo dục chuyển vào nội thành. Mấy ngàn sinh viên mà chuyển đi ấy à, thị xã Phúc An có vắng như chùa Bà Đanh!
Mặc kệ! Em chẳng cần! Chuyện tách tỉnh, tách huyện là của Chính phủ. Đâu cũng giời đất này. Giờ đây em chỉ mong sao để được gần nhà. Như kẻ sắp chết, vượt qua khỏi nấm mồ hoang lạnh, mịt mờ, đầy rẫy yêu ma, quỷ quái, được hồi sinh sau khi trái tim nhận quá nhiều đau khổ, tràn ngập sự dối trá, đảo điên, lừa lọc, giả tạo, phù phiếm... Khiến tim em đã trở nên chai sạn. Em hoàn nguyên thành đứa trẻ thơ dại lúc thèm ăn, khát uống khóc đòi bố mẹ. Được gần với bố mẹ lúc này là điều cần nhất với em, với những đứa con em sinh ra. Chúng nó cần có một mái ấm gia đình, cần được nhận - ít nhất là những năm tháng đầu đời - sự yêu thương đùm bọc, chở che. Và em nữa! Em muốn trong những đau khổ được gục vào lòng mẹ mà thổn thức, khi cô đơn, bải hoải được vỗ về an ủi... Em thề với lòng mình không bao giờ lấy chồng, không bao giờ nghĩ tới đàn ông nữa.
Mới có vài năm trời mà em cảm thấy cuộc đời đã trải mấy mươi năm.
Quá khứ trong em hiện về rõ mồn một:
Khi nhận được tin em báo có thai, Tổ trưởng mặt cắt không còn hạt máu. Hồi lâu Tổ trưởng nói:
- Anh mới dạm qua sự quan hệ của chúng mình mà bố anh đã gầm lên: “Tao không bao giờ bước sang cái làng ấy! Không thông gia với bất cứ thằng nào, con nào ở Quyết Chiến! Đấy là lời thề độc của cả làng, cả dòng họ rồi, mày biết không?”. Rồi ông dọa sẽ từ anh...
Em hỏi:
- Thế bây giờ anh định thế nào?
Tổ trưởng cúi đầu tránh ánh mắt em, giọng rụt rè:
- Anh... anh... anh sợ bố anh lắm. Vả lại, chú anh đang xin cho anh về Ủy ban huyện. Nếu...
Em gặng:
- Em cần ý kiến của anh về chuyện của chúng mình?
Tổ trưởng lần lửa:
- Để anh xem thế nào!...
Cái “xem thế nào” của Tổ trưởng là sự im lặng và sự tránh né không gặp lại em. Sau đó là một bức thư xin tha thứ. Em cầm trong tay lá thư như cầm một liều thuốc độc. Nói dối bố mẹ lên trường, nhưng thực ra em lang thang ra đầm Vực để tự tử. Đêm ấy, gió thổi lồng lộng, những bụi cỏ lác ở Bãi Giữa xõa tóc đu đưa như kẻ nhập đồng. Em mộng du lần theo lối quanh bờ đầm. Trăng cuối tháng lên muộn, mặt nước lập loáng, lóng lánh theo nhịp sóng ì oạp đập vào bờ. Em bước xuống bậc, bước lần theo men bờ. Chân vừa chạm nước, bỗng giật thột người vì một con chim từ bụi rậm vỗ cánh bay lên. Tiếng vỗ cánh đột ngột làm em choàng tỉnh. Hình ảnh bố mẹ thất thần vì đau khổ hiện ra; từ trong cơ thể, sự sống cụng cựa mơ hồ mách bảo em đừng rắp tâm làm kẻ giết người. Em bàng hoàng quay ngoắt chạy lên bờ.
Cánh chim đêm vô tình đã cứu em thoát chết.
Hoảng hốt như bị ma đuổi, em cứ chạy mà không biết chạy về đâu? Không mục đích, không địa chỉ. Ngẩng mặt lên nhìn thấy quầng sáng phía trước. Em hướng mình chạy về nơi đó. Gần sáng, em nhận ra mình ở đầu cửa ô thị xã Phúc An. Một số nhà đã dậy mở cửa, dọn hàng. Em lang thang, vẩn vơ đi qua các quầy. Một bà thật béo hỏi:
- Sáng sớm, em mua gì? Mở hàng cho chị.
Em ngước đôi mắt vô vọng hỏi lại:
- Bà hỏi gì?
Nhìn mắt em, bà ta chột dạ. Chờ em đi qua, bà văng theo một câu:
- Rõ thối thây! Đồ rồ tình!
Cứ thế em đi, bất kể thời gian, mặc cho nắng chiếu vào đầu, xiên vào cổ. Lang thang hết phố này đến phố khác, chân vẩn vơ, mắt lơ đễnh, có lúc đứng hàng giờ ngắm những vật trưng bày trong tủ kính, dưới sạp hàng. Ai mời mua, em im lặng sợ người ta lại bảo mình là rồ tình. Bỗng em nhìn thấy rất nhiều người trong tủ. Một cô thiếu nữ có khuôn mặt thật quen nhìn em, miệng nở môi cười. Em cố nhớ xem là ai mà không tài nào nhớ nổi. Em chau mày nghĩ: “Ai mà trông quen thế?” bước đến gần đầu em va phải tấm kính chắn đằng trước đau điếng. Có tiếng mắng:
- Cái cô này sao lại đi đứng như thế? Vỡ kính phải đền đấy!
Nghe tiếng, em quay lại, bất chợt người đó kêu lên:
- Linh phải không? Em đi đâu đấy?
Cái đau làm em bừng tỉnh; câu hỏi giật giọng cho em nhận ra người hỏi là tay thợ chụp ảnh. Và, đồng thời cũng nhận ra người con gái kia là ảnh của em được trưng bày làm mẫu trong tủ kính.
Tay thợ chụp ảnh dẫn em vào nhà, lấy nước và bàn chải răng hối em rửa mặt. Nước lạnh cho em sự tỉnh táo, nhắc em từ sáng chưa có gì vào bụng. Tay thợ chụp ảnh bê bát phở vào:
- Em ăn rồi nghỉ ngơi cho lại sức.
Lúc ấy em mới thấy mình đói ngấu. Ăn xong, mọi mệt nhọc như tan biến. Trong lúc tay thợ chụp ảnh bận tiếp khách, em ngả người xuống giường ngủ một giấc thật say.
Chiều tối em tỉnh dậy; tay thợ chụp ảnh giục:
- Em vào buồng vệ sinh tắm rửa. Quần áo anh để trong đó rồi. Anh mua đại, không biết có vừa không?
Em bước ra khỏi phòng tắm. Tay thợ chụp ảnh cố giương hai mi mắt chạy dài như một đường chỉ:
- Đẹp! Đẹp thật.
Không hiểu hắn khen em hay khen bộ áo quần hắn mua? Em bẽn lẽn:
- Anh rõ khéo mua. Em cảm ơn anh.
Tay thợ chụp ảnh dắt chiếc xe màu trắng sứ ra:
- Tụi mình đi lòng vòng một lát đi em.
Em ngần ngừ một chút, nhưng rồi ý nghĩ: “Thân xác mình còn gì nữa đâu” xuất hiện. Em trèo lên, vòng tay ôm eo người đèo, lòng tự nhủ: “Kệ! Đến đâu thì đến”.
Tay thợ chụp ảnh cho xe lượn qua mấy dãy phố, gặp ai quen cũng gật đầu ra vẻ tự hào, coi em như vật trang sức đắt tiền đeo trên người để phô diễn. Thi thoảng lại “vù” ga rõ to như báo với thiên hạ rằng: - Mình đang lai “người đẹp”. Vài người hàng phố nhìn theo, chỉ trỏ.
Đưa em vào quán cơm, tay thợ chụp ảnh nói nhỏ với người chủ quán. Chủ quán đưa hai đứa vào phòng ăn. Tiếng hát từ máy cát-xét rên rỉ:
“... đây quán bên hồ... nghe lòng nức nở... thôi thôi hết rồi... đời em như sóng xanh giữa hồ, gió mưa đập vùi...”
Nâng cốc bia hắn nói:
- Uống cho “duyên kỳ ngộ”, uống cho “ngày tái hợp”. Anh không nghĩ lại có ngày được gặp em. - Hắn bắt em uống một nửa cốc, nửa cốc còn lại hắn uống. - Em “quay về” với anh là anh mãn nguyện lắm rồi.
Em định đính chính câu “quay về” của hắn, bởi vì em có “ra đi” với hắn đâu mà để bây giờ “quay về”? Nhưng rồi em im lặng vẻ đồng ý.
Hôm ấy tay thợ chụp ảnh uống nhiều. Hắn ép, cứ một cốc chia đôi, em nửa, hắn nửa. Em thấy người mình lâng lâng như cùng với hắn bay về nơi không có đích, hắn lảm nhảm nhắc lại những kỷ niệm của hai đứa. Chợt hắn đăm đăm nhìn em:
- Nếu không có sự phản ứng của em đêm hôm đó, chắc anh sẽ không yêu em nhiều đến thế này. Anh đâu phải kẻ còn ngây ngô, non yếu trong sự đụng chạm xác thịt. Nhưng người con gái dám phản ứng anh như vậy chắc chỉ có em. Linh ơi (giọng hắn lạc đi) cái đó chỉ để cho anh ngày đêm nhớ đến em. Anh đã hứa: Kiếp này không có được em, anh sẽ chết...
Em giật mình. Sao lời thề của lũ đàn ông giống nhau thế? Thằng cha Tổ trưởng lúc quỳ mọp dưới chân em cũng tha thiết nói lời thề “sẽ chết”. Bây giờ, trong cơn tột cùng của mê đắm, tay thợ chụp ảnh nhắc lại một câu thề y hệt.
Em đứng phắt dậy, định nhổ một bãi nước bọt vào lũ đàn ông hèn mạt và giả đối kia mà đi. Nhưng hoàn cảnh kéo em về thực tại với điều kiện của chính mình. Trong một phút, em trở nên khôn ngoan. Cô nữ sinh vừa tốt nghiệp ra trường đổi lốt thành một kẻ dối trá lọc lõi:
- Anh có yêu em bao giờ đâu! - Em ngồi xuống, mắt đong đưa nhìn hắn.
Câu hờn trách và con mắt đong đưa là mồi thuốc nổ được châm ngòi. Tuy thợ chụp ảnh sụp xuống, úp mặt vào hai gối em thổn thức.
- Đàn bà qua tay anh đã nhiều, nhưng em là người duy nhất anh tôn thờ.
Em giương miệng cài bẫy:
- Lấy điều gì để chứng minh điều anh nói là thực?
- Trời ơi là trời! - Hắn kêu lên - Em muốn anh thế nào nữa đây? Vừa gặp lại em, anh đã thề phải giữ em cho bằng được. Bây giờ em muốn gì anh cũng chiều.
- Anh nói thật chứ? - Em giương miệng cái bẫy cao hơn một chút cho con mồi dễ lọt.
- Anh nói thật! - Con mồi đã sẵn sàng nhảy.
- Em muốn anh cưới em! Anh đồng ý chứ? - Miệng bẫy được em giăng há hoác.
- Sao vội thế? - Con mồi chùng người lại vẻ đắn đo.
Em cười phá lên sằng sặc:
- Thế mà anh nói là yêu?
Con mồi chồm tới:
- Được! Cưới thì cưới.
Con mồi tọt nào lồng, cửa bẫy sập.
Em đưa tay xoa cái bụng vừa tắt được nửa vòng kinh: “Con ơi, dẫu danh dự chẳng là gì, nhưng mẹ vẫn cần có để làm chỗ dựa”.
Đêm hôm ấy em ngủ ở hiệu ảnh. Có một chiếc giường, hắn nhường cho em. Còn hắn, nằm trên chiếc phông vẽ dưới phòng chụp. Trước khi đi ngủ, hắn ngồi cạnh em. Tuyệt nhiên không có ý bờm xơm. Chắc hẳn vẫn nhớ cú đạp của em ở bãi chăn trâu? Vả, em kiên quyết giữ khoảng cách, điều duy nhất em cho phép hắn làm là cầm tay. Hắn nâng bàn tay em lên ve vuốt, âu yếm, đặt đôi môi thâm xịt hôn nồng nàn vào mu, vào lòng bàn tay em.
 Mãi về sau này khi nhớ lại em gọi đó là “Khoảng cách ma giáo”.
Hải Linh nói với Nguyễn Thừa rồi vươn hai tay ưỡn người, đầu cô ngửa trên thành giường, đăm đăm nhìn vào lỗ thủng trên tấm cót trần nhà; vầng ngực vươn cao, cơ thịt đầy, tròn chuyển động sau làn áo mỏng, cặp đùi săn, lẳn, lẩn dưới ống quần bò gin bó, duỗi dài trên mặt ga đệm.
Nguyễn Thừa đặt tay lên bàn chân của Hải Linh xoa nhẹ, hơi ấm khác giới truyền lan, xúc giác của người đàn ông thức dậy. Sự cụng cựa vô ý làm cho mặt anh ngứa và nóng ran. Cố ghìm lại sự thèm khát, cơn khát thèm càng trỗi dậy. Anh nhìn thân thể người đàn bà ẩn dưới vật che đậy bằng con mắt của dục vọng, của si mê. Tưởng tượng thực thể phơi bày dáng nguyên sơ, trần tục, khêu gợi; lòng dâng lên cảm xúc thèm muốn được mơn trớn, xoa nắn, được bão hòa, thỏa mãn. Mắt Nguyễn Thừa dừng lại ở khoảng giữa hai đùi khép kín; nét hằn kẻ vệt phân thành đường cong khêu gợi trên mặt vải, căng mọng... cùng khoảng bụng trắng phau hớ hếch, vô tình đẩy dục vọng cuồng khát lên đỉnh điểm. Giống đực cựa quậy, trỗi dậy, đưa bản năng lấp đầy lý trí. Nguyễn Thừa đưa lưỡi liếm đôi môi khô khốc; mắt lờ đờ man dại... Hai tay chầm chậm giơ lên như bị nam châm hút cuốn về nơi ham muốn.
Bỗng tiếng chuông điện thoại réo. Đột ngột phá tan sự tĩnh lặng, nhấn chìm cơn sóng tình đang dâng, con thuyền đi sắp cặp bờ bỗng bị dòng nước cuốn phăng ra xa; mũi tên biểu đồ thị đang vọt cao đột ngột tụt lút. Nguyễn Thừa thấy tâm hồn mình hụt hẫng, trạng thái đang dâng lên về điểm dương, nay vụt trở về điểm âm.
Chờ hồi chuông điện thoại đổ lần thứ hai Hải Linh mới nhỏm người lên, co tay xem đồng hồ, phàn nàn:
- Ai gọi điện thoại mà sớm thế nhỉ? Mới có năm giờ sáng.
Nguyễn Thừa đứng dậy né người cho Hải Linh đi qua, mùi đàn bà theo hơi nóng thoảng vào mũi, nhưng cảm giác thèm muốn của người đàn ông đã trôi qua.
Hải Linh quay lại nói với anh:
- Họ nhầm số máy! Thôi, dậy chuẩn bị lên đường anh nhé!.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...