Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 2b

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 2b

Mặt trời lên cao bằng hai, ba lần con sào. Nắng trải vàng khắp sân. Chiếc xe máy đưa ông Sa về dừng trước nhà, bà con, anh em và con cháu chạy ùa ra đón. Cái khăn bịt kín mặt chỉ chừa hai con mắt, cái mũ lụp xụp, ông bước ngay vào nhà. Không biết ông nên buồn hay vui đây? Vui vì hôm nay ông được ra viện, người đến thăm ông chật nhà. Ai cũng tỏ vẻ vui mừng, ông tai qua nạn khỏi. Buồn vì vết sẹo giữa mặt vừa liền dấu và đang lên da non, màu hồng đỏ. Bịt mãi cái khăn ông khó chịu quá, nhưng phải cố. Ông giấu kín nỗi buồn trong lòng, ngoài miệng phải giả cười, tiếp chuyện với mọi người. Ông trò chuyện với tất cả mọi người đến thăm, cảm ơn và tiễn chân từng người một.
Bà Sa làm vài mâm cơm, mừng ông tai qua nạn khỏi. Ông dặn bà rồi, không nên bày vẽ cho tốn kém, dân làng lại cười chê. Ông buồn lắm. Bà Sa nói để giải thích cho chồng. Bày biện, cỗ bàn gì đâu, bác Mầu và chú Thùy là anh em trong nhà cả, cùng nhau ăn bữa cơm rau dưa và uống với ông chén rượu nhạt cho vui.
Ông Mầu hiểu tính ông Sa hơn ai hết. Khi ông bị kích động và xúc phạm là ông dễ nổi nóng, nổi khùng. Uống rượu say, ông quên cả phải trái, chỉ bản thân là tất cả, mọi người chẳng xem bằng cái rơm cái rạ, sẵn sàng cãi nhau, đánh nhau liền. Nhưng không uống rượu, lúc dịu mát ông rất hiền, ít nói, nhũn như con chi chi. Biết vậy, ông Mầu phải nói trước khi ăn:
- Gia đình ta chỉ còn ba anh em. Trong khi chờ cơm tôi xin bàn với hai ông đôi điều, gọi là đóng cửa trong nhà bảo nhau. Tôi nói có điều gì không phải hai ông cứ tham gia:
Việc chuyển đổi, san ghép ruộng đất là việc của Hợp tác xã, là của toàn dân, chẳng của riêng ai. Vì nóng nảy quá, ông Sa đã cãi nhau thậm chí đánh nhau gây thương tích phải đi nằm viện. Tất cả những việc ấy chẳng hay ho gì, nhất là ông Sa đã ngoài 60 tuổi rồi chứ ít đâu. Người xưa chẳng dạy: “lục thập thuận nhĩ” là gì? Ông đánh người ta trước, người ta đánh lại ông để tự vệ. Thế là hòa. Theo tôi, ta bỏ qua. Lỗi lầm nào cũng có từ hai phía, xử hòa là tốt nhất. Người dân người làng với nhau, còn bao nhiêu việc phải đến với nhau, ngồi bàn với nhau. Thật may không xảy ra án mạng. Ba đứa con của ông, đứa cầm dao, hai đứa vác gậy xông tới định ăn sống nuốt tươi người ta. Nếu không có người đứng xem vòng trong vòng ngoài thì điều gì xảy ra? Tất cả phải chấm dứt. Qua rồi thời cậy khỏe, cậy đông người lấy thịt đè người, ăn hiếp kẻ yếu.
Việc chuyển đổi, san ghép ruộng đất là để xóa đi tình trạng ruộng đất manh mún, quá nhỏ bé như hiện nay, gây trở ngại cho sản xuất. Một mình ông vác nạng chống trời được không? Việc đó có lợi cho ông, cho tôi tại sao ông lại chống đối nhỉ? Dân làng thế nào mình vậy. Nếu không có lợi Đảng đề ra làm gì?
Ông Sa ngồi im thin thít như thịt nấu đông. Ông Thùy tham gia thêm:
- Tôi rất tán thành ý kiến bác Mầu. Việc gì đã qua thì cho qua luôn, việc đáng bàn là việc cháu Hải nhà mình với cái Đào nhà bác Tư. Tôi biết các cháu yêu thương nhau lâu rồi. Tôi thương các cháu lắm. Nhà mình muốn bỏ qua để xây dựng hạnh phúc cho các cháu. Liệu gia đình người ta có nghe không? Hai ông thấy thế nào, chứ tôi thấy khó đấy!
Ông Mầu trả lời ngay:
- Các ông định thế nào? Truyền thống từ xưa tới nay, quyền chủ động thuộc về nhà trai. Hạnh phúc của các cháu nằm trong tay chúng ta. Người quyết định trước hết là ông Sa, sau mới đến tôi và ông Thùy. Ông có dám vì con cháu đến xin lỗi người ta không? Ý kiến ông Sa thế nào?
Ông Sa ngồi im như pho tượng đá. Ông Mầu gọi Hải. Hải từ dưới nhà bếp chạy lên, tay còn dính đầy mỡ.
- Bác hỏi điều này cháu phải nói thật. Từ hôm xảy ra chuyện bác Tư và bố cháu to tiếng với nhau, cháu và con Đào còn quan hệ với nhau nữa không? Mặt Hải đỏ bừng bừng, đượm vẻ buồn đau.
- Khi xảy ra chuyện chẳng lành giữa bố cháu và bác Tư, cháu vác dao tới định phay cho đối thủ mấy nhát. Đến nơi, nhìn thấy bác Tư đang bị bố cháu đập cái điếu cày vào đầu túi bụi. Hơn nữa người đứng xem đông quá, không tài nào chen vào được. Họ cản cháu lại. Cháu dừng tay, giấu ngay con dao dưới áo chuồn thẳng, thất tha thất thểu như kẻ bại trận. Lúc đi đôi chân chạy nhanh thế, khi về vẫn đôi chân ấy nặng nề khó bước làm sao. Mọi tối cháu và Đào vẫn thường đi chơi với nhau, tay nắm tay dắt nhau đi dạo quanh hồ, ngồi dưới hàng cây để ngắm trăng và tình tự. Cháu thấy hạnh phúc trào dâng, không kìm được lòng, nhanh như con sóc cháu chồm tới vồ lấy Đào. Nhưng Đào đã cảnh giác và còn nhanh cả cháu, Đào thoát khỏi vòng tay cháu. Đào đứng dậy bỏ về. Từ hôm ấy Đào không đi chơi nữa, chỉ tiếp cháu ở nhà. Vợ chồng bác Tư cho phép thế mà, có khi Đào ngồi với cháu đến khuya. Mỗi khi cháu đến chơi, bác Tư pha chè mời cháu uống. Một đôi lần bác ấy có miếng ăn ngon cũng sai mấy đứa em Đào đến bảo cháu. Đến con Mực nhà bác Tư thấy cháu đến cũng chạy ra mừng quấn lấy chân. Một thỏa thuận ngầm giữa hai đứa, cuối năm sẽ xin phép bố mẹ hai bên tổ chức cưới. Nhưng tối hôm vừa rồi, cháu đến nhà Đào thì Đào tránh mặt không tiếp. Bác Tư lạnh lùng hỏi: Anh có mang dao đến không? Qua thái độ và nghe câu hỏi của bác Tư, cháu biết bác ấy giận lắm, cháu buồn bã ra về. Cháu nghĩ sẽ thanh minh với Đào sau. Nhưng cháu không tài nào gặp được Đào. Gặp ngoài đường, Đào lùi lại, đi thật nhanh, hoặc rẽ trái, rẽ phải. Cháu nhờ cái Mơ giúp cháu, giải thích để Đào hiểu. Đào chỉ im lặng. Theo phán đoán của cháu, Đào vẫn còn yêu cháu. Chắc là bác Tư không cho Đào gặp cháu. Đào hành động như vậy là theo lệnh bố. Điều đó không có gì lạ bác ạ. Bố cháu cũng kiên quyết bắt cháu chia tay với Đào. Thế là hết. Thật là trớ trêu, hai ông bố thì hận thù nhau, hai đứa con lại yêu nhau. Tình thế không thể cứu vãn nổi. Thú thực mấy hôm nay cháu buồn lắm. Đường đi bằng phẳng, bỗng dưng gặp trái núi đứng sừng sững trước mắt. Trèo lên cây rồi, chỉ còn giơ tay hái quả mà lại hụt mất. Bác bảo cháu phải làm gì?
Ông Mầu cười, vui vẻ nói với Hải mà thực ra để nói với cả nhà:
- Thế là rõ cả rồi. Các cháu còn yêu nhau, cứ yên tâm đi. Cốt lõi vấn đề phải hòa giải giữa bố cháu và bác Tư. Chìa khóa để mở cánh cổng đang nằm trong tay bố cháu. Ông Sa định thế nào?
Ông Sa lại ngồi im coi như không nghe không biết. Ông Mầu tiếp:
- Nếu bố cháu đồng ý, bác sẽ đứng ra dàn xếp cuộc hòa giải này. Còn bố cháu không đồng ý thì bác cũng chịu.
Ông Sa đứng dậy giục vợ con bưng mâm lên. Suốt bữa ăn, ông chẳng nói năng gì. Thật lạ lùng, ông Sa uống rượu vào loại siêu hạng, vậy mà hôm nay lại uống rất ít, gọi là để tiếp ông Mầu và ông Thùy.
Buổi tối, gia đình ông Tọa vừa ăn cơm xong, mâm bát trẻ con chưa kịp dọn dẹp. Ông Cộng chẳng ngại đêm tối đã lò mò đến. Ông Tọa hơi ngạc nhiên, sững sờ đứng ngây người ra. Nhà ông đâu phải là “đất” để ông Cộng đến chơi bời, chè chén, hút điếu thuốc lào bù khú. Dưới con mắt của ông Cộng, ông Tọa là tầng lớp nghèo hơn. Điều gì sẽ đến với ông đây? Ông Tọa chạy ra cổng đón. Ông tươi cười nói:
- Chẳng biết cơn gió nào đưa rồng đến nhà tôm?
Ông Cộng vừa đi vừa giải thích:
- Chẳng ai là rồng mà cũng không ai là tôm. Lâu ngày tôi đến thăm ông, bạn già với nhau cả. Hồi trẻ đi chăn trâu, mỗi khi đánh khăng bao giờ tôi cũng nhận về phía ông. Vì ông nhanh nhẹn, đánh giỏi luôn luôn thắng bên kia, luôn luôn được cưỡi ngựa. Có chút việc nhờ ông chỉ bảo, thử xem cái tài ấy còn nguyên vẹn không?
- Ông cứ dạy quá lời. Cả đời tôi chỉ theo đít con trâu, học ít, biết gì mà chỉ bảo.
Ông Tọa sai con đổ bã chè, xúc ấm pha chè mới mời ông Cộng uống.
Sau tuần chè với vài điếu thuốc lào xã giao, ông Cộng hắng giọng.
- Cách đây không lâu, ngồi chơi ở nhà bác Thân. Tôi hân hạnh được nghe ông bàn về đặc điểm ruộng đất của làng ta và vấn đề chuyển đổi san ghép ruộng đất nghe thấy sướng tai, hả lòng hả dạ. Tôi thầm nghĩ ý kiến của ông rất đúng mực, đấy mới là Khổng Minh. Suốt ngày, tôi bận bịu với đàn cháu dở, đàn lợn, đàn gà chẳng đi tới đâu. Nên tôi mù tịt, dốt đặc cán mai. Tôi đến xin bác nói rõ thêm về đồng đất làng ta, để khai sáng cho cái đầu tăm tối này.
Nghe ông Cộng nói, ông Tọa phấn chấn hẳn lên, mặt mày thêm rạng rỡ, nở ruột nở gan. Hiểu biết đồng đất làng này là kết quả của nhiều năm lăn lộn, gắn bó với nó. Ông hăng hái nói:
- Ruộng đất làng ta phức tạp lắm. Nhưng có thể chia làm ba loại, nếu muốn chia nhỏ cũng được. Loại một bằng phẳng, nước sông thuận lợi, cầm chắc một năm hai vụ. Nhưng loại này không nhiều, chiếm non nửa. Loại đất trũng, chưa mưa đã ngập úng, chỉ có vụ chiêm mới chắc ăn. Nếu vụ chiêm không mưa thuận gió hòa coi như mất trắng cả: như Đầm, Dộc Bợ. Loại đất cao, gò đồi như Đồng Cao, Đồng Cốc, Mả Mê… thì không có nước mương, chủ yếu nhờ vào thiên nhiên. Một năm cấy được một vụ lúa, trồng được một vụ màu ấy là khi mưa gió hòa thuận, còn gặp thiên tai thì không ai lường được. Trước đây các ông ấy chia như vậy là rất công bằng. Nhà nào cũng có ruộng tốt, ruộng trũng và ruộng cao. Thiên tai, hạn hán, mưa bão ngập lụt cùng chịu, được mùa cùng ăn, mất mùa cùng đói. Nhưng nhược điểm của nó chia nhỏ quá, thửa ruộng bằng cái bàn tay, trở ngại cho sản xuất. Tôi nói thế có phải không?
- Đúng quá đi chứ! Trên cả tuyệt vời. Cái hay của ông là phân tích có tình, có lý rất sâu sắc và chỉ ra những hạn chế của cách phân chia này. Lời nói phải củ cải cũng phải nghe, các cụ dạy đố có sai câu nào.
Ông Tọa tiếp:
- Bây giờ tôi xin nói về chuyển đổi, san ghép ruộng đất. Với ba loại ruộng ấy, ông muốn nhận loại nào?
Dừng lại để ông Cộng suy nghĩ, ông Tọa uống chén nước chè để lấy giọng:
- Chắc ông xin nhận loại I chứ gì. Ruộng đất thì có hạn người muốn nhận loại I lại vô hạn. Ai dại gì mà nhận Đồng Cao, Đồng Cốc, Mả Mê để chổng mông lên mà tát nước. Nếu vất vả mà được ăn còn chấp nhận được. Ai ngu đần gì mà nhận Đầm Dộc và ngoài Bợ, chiêm khô mùa thối, mỗi cơn mưa là một lần thót tim, mất ăn mất ngủ.
Ông Cộng được dịp mang miếng võ truyền thống của mình:
- Ông nói chí lý quá. Tôi đến hỏi ông quả không lầm. Nói như ông, ai nghe cũng lọt tai. Chủ trương của Đảng chúng ta không chống đối. Chúng ta chỉ đòi hỏi công bằng và dân chủ thôi. Xé mắm ai chẳng mút tay, chuyển đổi san ghép ruộng đất, mỗi ông cán bộ kiếm vài sào, ít nhất cũng chiếm ruộng tốt, rộng sào, chỉ thế thôi đã lợi lắm rồi. Vậy ông tính thế nào?
Chẳng cần phải suy nghĩ lâu la, ông Tọa nói ngay:
- Gần hai mươi năm rồi, chứ ít đâu, ruộng của nhà ai nằm yên ở nhà đó. Đào bới lên để làm gì mất thời gian, tốn công. Đào bới lên chỉ tổ đục nước béo cò, họ có cớ để kiếm ăn.
Ông Cộng gật gật:
- Phải! Phải lắm! Nói như ông trúng cái bụng của nhiều người lắm, có khi cả làng theo ông, chứ ông Sa ra mặt chống đối, quá khích, khó lọt tai thuận mắt lắm. Mình là người dân còn không chịu nổi, ngang phè phè, các ông lãnh đạo chịu sao nổi. Hôm này họp xã viên ông cứ như vậy. Tôi nguyện mang cái lý lẽ của ông tới mọi nhà, mọi người và trung thành với ông, làm bức tường thành vững chắc bảo vệ ông. Cho dù trạch đẻ ngọn đa, sáo đẻ dưới nước thì lời hứa ấy không thay đổi.
- Vâng! Vâng! Cảm ơn ông nhiều lắm.
Ông Tọa cảm thấy hãnh diện chưa từng có. Một người như ông Cộng mà cũng tự nguyện tôn ông làm “chủ soái” và nguyện vác cờ đi tiên phong. Vui quá, ông Tọa đứng dậy, tự mình đi súc ấm pha chè mới. Hai ông ngồi uống tàn ấm trà mới chia tay. Người về, người ở đều nắm tay nhau và cùng hứa giữ vững lập trường. Chúc mừng thắng lợi trước.
Ông Tọa tiễn ông Cộng đến khỏi cổng mới quay lại.  

Đối với Hậu hôm nay là một ngày đáng ghi nhớ, suốt đời không thể nào quên. Nếu chiều qua không được bác Hiền - Bí thư Đảng ủy giúp đỡ thì anh đã nổi khùng lên rồi, đâu chịu ngồi lặng thinh thế này. Cũng nhờ chữ “Nhẫn” được đặt “nền móng” vững chắc nơi anh.
Vừa bảnh mắt ra, hãy còn nằm trên giường mà chị gái đã tới kéo cổ dậy. Chị ấy nói rằng: Mấy hôm nay lão Cộng hôm nào cũng tới nhà thì thầm với anh Dũng chồng chị suốt cả buổi, có khi đêm vẫn chưa chịu về, dáng vẻ gian lắm. Hỏi ra mới biết, lão vận động anh Dũng chống lại chính sách chuyển đổi, san ghép ruộng đất của Đảng. Anh Dũng là anh rể của Bí thư Hậu, không ai dám bẻ hành bẻ tỏi, không ai dám đụng đến lông chân đâu. Trước khi ra về ông còn ghé tai Dũng nói nhỏ: Bí thư Hậu lợi dụng chức quyền, bắt hợp tác xã chia cho mình toàn ruộng đẳng điền ngoài cửa chùa. Đúng thế hả cậu?
Buổi trưa, mới đi làm về, mệt đứt cả hơi đã thấy bố chống gậy tới mắng như tát nước vào mặt vì tội lợi dụng chức quyền đổi lấy 8 sào ruộng đẳng điền của Hợp tác xã. Hậu lễ phép hỏi lại: “Ai nói với bố như vậy?” Bị bố chửi cho một trận nên thân, còn định vụt cho mấy gậy. “Anh hãy tự kiểm điểm bản thân mình xem, không có khói tại sao có lửa?”.
Bố giận bỏ về. Vợ chồng vừa ngồi xuống mâm cơm đã thấy bên nhà bác Thùy to tiếng với nhau cũng vì chuyển đổi, san ghép ruộng đất. Chồng thì ủng hộ nhiệt liệt. Vợ lại chống đối quyết liệt. Vợ nói với chồng: “Trước đây người ta chia thửa ruộng nhỏ bé nhưng rất công bằng, nhà nào cũng có ruộng tốt, ruộng xấu, được mùa cùng hưởng, mất mùa cùng chịu. Chia lại ruộng để mỗi cán bộ xơ múi một vài sào à, “xé mắm” họ phải “mút tay chứ!”.
Buổi chiều. Vợ chồng vừa đi làm về chưa kịp nấu nướng gì, bên nhà bác Dậu đã cãi nhau om sòm cũng chỉ vì chuyển đổi, san ghép ruộng đất. Vợ bác Dậu chỉ lo có bao nhiêu ruộng đẳng điền, ruộng rộng sào các ông cán bộ chiếm cả. Nhận phải chân ruộng xấu và hẹp sào, chăm bón mấy cũng không lại, gọi là chết đói cả lũ. Tất cả những câu chuyện trên đều do giọng lưỡi của ông Tọa mà ra lại được ông Cộng đi rỉ tai khắp xóm, khắp làng.
Hài vừa ăn cơm tối xong thì Hậu tới. Anh nói luôn:
- Tôi cũng định sang chú để chúng ta cùng bàn và giải quyết một số vấn đề còn tồn tại.
Sau tuần trà thuốc xã giao, vợ Hài mang trầu ra mời Hậu. Hậu rất thích ăn trầu. Vừa vê miếng trầu, Hậu vừa nói trước, vẻ thân thiện, cởi mở:
- Bác Hài ạ! Tuy là bàn công tác nhưng ở trong gia đình xưng hô thế cho thân mật - Hậu kém Hài ba tuổi - Sau cuộc họp Đảng ủy mở rộng chiều qua, tôi thấy rất ân hận và thấm thía câu nói của bác Hiền Bí thư Đảng ủy là: “Đồng chí Hậu và đồng chí Hài rất hăng hái và nhiệt tình với công cuộc chuyển đổi và san ghép ruộng đất, thể hiện được cái tâm của người cán bộ luôn biết chăm lo đến đời sống và hạnh phúc của nhân dân. Nhưng cũng vì thế đồng chí Hậu nôn nóng quá, không nghĩ tới đồng chí mình, cứ nói gì cũng không nghe còn quy người ta ngại khó khăn, thắc mắc làm nhụt ý chí của quần chúng”. Em thành thật xin lỗi bác.
Được lời như cởi tấm lòng, Hài nói:
- Tôi cũng có lỗi, mà lỗi lớn hơn cả lỗi của chú. Thứ nhất: Quá cường điệu khó khăn. Thứ hai: Việc chưa đâu vào đâu tôi đã phản ánh với Đảng ủy nên mới có cuộc họp chiều qua.
Hậu cười khà khà:
- Thế là hòa bác nhá. Bài học về chữ Nhân và chữ Tâm không chỉ của riêng ai mà của chung anh em mình. Nhất trí - hòa - bắt tay. Bác Hài ạ! Hôm trước bác nói “Cái phao nổi dễ nhìn thấy, ai cũng nhìn được. Hòn đá chìm sâu dưới nước, khó tìm lắm”. Người chống đối quyết liệt, nói năng có tình, có lý lẽ lọt vào tai mọi người... điển hình là ông Sa, ông Tọa. Ông Tọa có chiều sâu, tác hại của nó lớn lắm. Người chống đối ngầm là ai, em đố bác? Riêng em, hành vi của người ấy không qua nổi mắt em.
- Chú Hậu à! Tôi với chú bắt chước Gia Cát và Chu Du viết tên kẻ ấy vào tay xem có giống nhau?
Hai người cùng cầm bút, viết vào tay mình. Rồi xòe tay ra. Cả hai cùng cười vang, hỉ hả. Vì trong tay đều là chữ: Cộng. Hậu hỏi:
- Bác Hài này, công việc chuẩn bị hoàn tất chưa? Còn trở ngại gì nữa không? Bác định đến ngày nào thì công bố toàn dân biết.
Hài đáp ngay:
- Mọi việc đều hoàn thiện rồi, rất tốt đẹp. Mười ngày nữa thì công bố trước toàn dân. Việc còn lại, chuẩn bị một số người tích cực làm nòng cốt thật hùng hậu để áp đảo những ý phá rối, chống lại.  
Hợp tác xã họp phiên toàn thể để công bố kết quả chuyển đổi san ghép ruộng đất. Sự chờ đợi đã lâu, xã viên lũ lượt rủ nhau tới hội trường, mọi lần khác Hợp tác xã triệu tập các gia đình thường cử đại diện, hoặc nhờ nhau họp đỡ. Hôm nay không vắng một ai. Hội trường chật cứng như nêm cối, nghẽn cả lối đi lại. Một số người ngồi cả ngoài hè. Đồng chí Hậu đại diện chi ủy cũng tới dự.
Chủ nhiệm Hài đọc báo cáo kết quả chuyển đổi, san ghép ruộng đất và những nguyên tắc, quy định, tiêu chuẩn rõ ràng ưu tiên các gia đình chính sách. Chủ nhiệm trao bản đồ diện tích cho từng đội, từng gia đình. Nếu như trước đây gia đình có ba khẩu với bốn sào ruộng mà có tới 12, 13 thửa ở khắp mọi cánh đồng thì nay chỉ có hai đến ba thửa, ở hai cánh đồng là cùng; chấm dứt tình trạng ruộng đất manh mún, chia nhỏ, xé nát thành từng mảnh vụn, bờ vùng, bờ thửa bè như thân cau, trở ngại người và trâu bò đi lại, ảnh hưởng đến sản xuất.
Chủ nhiệm vừa dứt lời, ông Sa đứng phắt dậy nói như lệnh vỡ chẳng cần chủ tọa có cho nói hay không. Lời nói mạnh mẽ hùng hồn lắm, nhưng cũng chẳng có gì mới, vẫn là không tán thành chuyển đổi ruộng đất, cuối cùng là lời hăm dọa, nếu ai đụng đến ruộng của ông sẽ bị đánh gãy cẳng.
Bác Tư liền đứng dậy nói như chính thức tuyên chiến với ông Sa:
- Ruộng đất là tài sản của quốc gia, nói hẹp lại là của Hợp tác xã. Hợp tác xã chia cho ai thì người ấy được, không ai có quyền ngăn cấm. Đánh người đã có pháp luật.
Mọi người ào ào đứng cả lên và đồng thanh:
- Đúng! Bác Tư nói phải lắm, chí lý lắm. Ban quản lý Hợp tác xã cứ thế mà làm, đừng có chùn tay.
Ông Sa trong lòng tấm tức nhưng không làm gì nổi. Bác Tư được nhiều người ủng hộ, còn ông chẳng có ma nào. Ông nhìn khắp hội trường chẳng thấy lão Cộng đâu. Thì ra lão ngồi sau mấy chị đàn bà ở cuối hội trường, đầu gục xuống gối. Không lẽ mình cứ đơn thương độc mã vác nạng chống trời?
Khi ông Tọa đứng dậy xin có ý kiến, nhiều người la ó:
- Ngồi xuống! Chúng tôi không nghe ông nữa.
Nhưng ông Tọa cứ chai lỳ cố tình nói bằng được. Khi ông nói, phải nhiều lần dừng lại vì những tiếng ồn ào, thậm chí có người kêu toáng lên: Ngồi xuống! Ngồi xuống cho chúng tôi nhờ! Ông Tọa cố “tuôn” bằng hết cái lập luận cũ rích của mình.
Ông Sa, ông Tọa như lạc vào giữa đám đông. Thái độ của mọi người khiến ông Sa ân hận, xót xa vì đã chót làm đơn kiện bác Tư, bắt thằng Hải cắt đứt cái Đào. Thật tội nghiệp cho con trẻ. Ông càng căm tức lão Cộng. Ông phải vạch mặt nó trước mặt mọi người mới hả. Nhưng ngay lập tức ông nghĩ lại: Nói nó xúi giục thì ai làm chứng, mình dại thì chết. Nói ra chỉ tổ cho thiên hạ chê cười.
Tiếp đến bác Thân, bác Hòa có ý kiến đề nghị:
- Việc chuyển đổi, san ghép ruộng đất được toàn thể xã viên thông qua, coi như kết thúc tốt đẹp. Kẻ nào chống đối sẽ có công an, dân quân và luật pháp.
Hội trường đứng cả dậy nhiệt liệt vỗ tay ủng hộ. Phía cuối và ngoài hè đã có nhiều người bỏ về. Ông Tọa đực mặt ra, sức dân như nước vỡ bờ, chống sao nổi. Im lặng là thượng sách. Ông rất căm ghét lão Cộng nhưng chẳng làm gì nổi hắn. Già đời người còn dại, mắc mưu hắn. Ông thấy họ chia như vậy rất công bằng có thể chấp nhận được ruộng đẳng điền là 1 thì các loại khác là 1,1 hoặc 1,2; 1,3.
Chủ nhiệm Hài đề nghị mọi người ngồi lại. Chủ nhiệm thông báo một số quy định của Ban quản lý Hợp tác xã và tuyên bố kết thúc cuộc họp.
Ngày hôm sau, mới sáng tinh mơ, mọi người đã lũ lượt kéo nhau ra đồng. Cánh đồng nào cũng đông nghịt. Người nào, người ấy cầm dây, cọc. Họ căng dây phân chia, cắm mốc để xác định chủ quyền và làm lại bờ. Một quanh cảnh tấp nập, phấn khởi ngang tầm với hồi cải cách ruộng đất.
Năm năm sau. Cánh đồng Bợ chiêm khê, mùa thối, có cấy mà không có thu hoạch, có làm mà chẳng có ăn đã biến thành những cái ao rộng mênh mông, bờ nối bờ, chạy thẳng tăm tắp. Từng đàn cá tung tăng bơi lội. Kết hợp một vụ lúa chắc ăn, thóc người ăn, rơm rạ cá ăn nhất cử lưỡng tiện, không phải cắt cỏ mà cá vẫn lớn. Những vườn cây sum sê, xanh tươi phủ khắp cánh đồng. Những hàng cây soi mình dưới ao, toả bóng mát che chở cho cá. Đàn lợn hàng trăm con béo tròn. Đó là trang trại của gia đình các ông Thân, Tư, Hòa, Cường…
Cánh đồng Cốc ngày xưa chết khát chết khô, lệ thuộc vào thiên nhiên, năm được mùa, năm không, có làm mà chẳng có ăn. Gia đình ông Vân tự nguyện nhận cả ruộng ở cánh đồng này vì một sào ruộng loại I bằng 1,3 sào đồng Cốc. Gia đình ông tự đào mương dẫn nước về đồng trả lại màu xanh tươi cho nó và cho nó một sinh khí mới. Biến nó thành đồng hai lúa một màu ăn chắc, cũng vườn cây ao cá như mọi nhà. Cha con ông còn nuôi vài ngàn con chim cút lấy trứng phục vụ các “thượng đế”. Nhà ông Cốc thoát cảnh đói nghèo, bước đầu có của ăn của để.
Sau nhiều đêm trằn trọc, suy nghĩ đến mất ngủ, ông Sa quyết định tìm gặp ông Mầu - người anh con ông bác ruột mà ông vô cùng kính mến. Đã hết một tuần trà mà ông Sa vẫn ngồi ngây như phỗng, khó nói quá, không biết mở đầu thế nào. Ông Mầu hiểu được nỗi lòng của em, chủ động lên tiếng:
- Có điều gì, ông cứ nói, đừng ngại. Anh em trong nhà cả.
Ông Sa hắng giọng tới hai ba lần mới nói:
- Em vốn nóng tính, ngay thẳng, thật như đếm, nghĩ sao nói vậy nên xảy ra chuyện đụng độ với ông Tư dẫn đến sự chia lìa giữa hai cháu Hải - Đào. Thằng Hải suốt ngày lầm lì chẳng nói chẳng rằng, làm việc gì cũng hỏng, nhớ nhớ quên quên như người tâm thần thật là tội nghiệp. Cu cậu còn yêu thương cái Đào lắm. Em hết ngọt lại dẳng khuyên nó quên cái Đào đi. Làng này thiếu gì con gái, chết già đâu mà sợ. Bác biết nó trả lời em thế nào không: “Nếu không lấy được Đào, con chẳng lấy ai và xuống tóc đi tu hoặc nhảy xuống…”. Làm cha ai chẳng thương con. Vì thế em tới đây xin ý kiến và nhờ bác giúp đỡ.
Im lặng. Ông Mầu đăm chiêu suy nghĩ và thở một hơi dài buồn não nuột:
- Khó đấy! Gia đình họ còn hận ông lắm. Một đời kiện chín đời thù. Quên ngay sao được. Ông là người đã đánh họ trước lại còn ngang ngược đi kiện.
Ông Sa tỏ ra bình tĩnh và khéo léo:
- Khó khăn em mới phải vào nhờ cậy anh. Em biết sai lầm của mình rồi. Em đã nhẹ dạ nghe lời xúi giục của lão Cộng nên mới ra cơ sự này. Nhờ bác tới xin lỗi và cho cháu Hải làm tôi con gia đình ông Tư. Em lạy bác!
Ông Sa định đứng dậy để lạy ông Mầu, ông Mầu can:
- Ông đừng làm thế. Anh em khó khăn phải giúp đỡ nhau chứ ơn huệ gì. Tôi sẽ lựa cơ để đến xin họ.
Mấy ngày sau, ông Mầu đến thông báo với ông Sa:
- Không ổn rồi. Ông Tư cứ vặn vẹo mãi tôi rằng: Khi ông Sa viết đơn kiện thì có nghĩ đến hậu quả này không? Ông Sa còn muốn tôi rũ tù. Ông ấy đâu muốn thông gia với một kẻ ngụ cư tứ cố vô thân, không cha không mẹ như tôi. Tôi đâu dám thông gia với các ông. Nhà tôi không xứng. Tôi phải thanh minh: Ông Sa nhà tôi vốn nóng tính, thật thà ngay thẳng lại bị ông Cộng xúi giục nên mới mang tiếng với dân làng và dẫn đến hậu họa này. Tôi thành thật xin lỗi ông.
Tôi nói mãi, ông Tư miễn cưỡng trả lời:
- Mình tôi không quyết định được. Tôi phải họp gia đình xem có cho xin lỗi hay không. Kết quả thế nào, thông báo với ông sau.
Ông Sa vì thương con nên nhờ ông Mầu đến xin lỗi, ông Tư chẳng lẽ không vì con mà tha thứ. Cái chính là Hải và Đào vẫn yêu thương nhau.
Đám cưới của Hải Đào được nhanh chóng tổ chức. Hai gia đình cho anh chị hơn một mẫu ruộng ngoài Bợ để làm trang trại.
Năm năm chưa phải là dài nhưng đã mở một hướng đi cho một bộ phận nông dân ở vùng nông nghiệp độc canh cây lúa, xóa đói giảm nghèo hướng tới nâng giá trị ruộng đất cho thu nhập vươn tới mức 50 triệu đồng một hecta một năm. Sự thật ấy đã nằm trong tầm tay đôi vợ chồng trẻ Hải - Đào và một số gia đình khác.
DẠI
Mặt trời chiếu sáng khắp sân. Tôi mặc quần cộc, áo may ô, ngồi tựa lưng vào ghế và say sưa đọc truyện ngắn “Bình minh huyền diệu” của nhà văn Ma Văn Kháng đăng trên báo Văn nghệ. Cũng như tác giả, tôi trăn trở và xót xa khi nghe tiếng rao run run của một em bé từ lúc trời chưa sáng: “Ai bánh mì nóng giòn đi”.
Bỗng ngoài cổng có tiếng lạch cạch. Tôi ngưng đọc, giương kính nhìn ra cổng: Một cô gái chừng 24, 25 tuổi đang đẩy cổng bước vào. Cô đội mũ vải mềm, mang kính râm gọng vàng, quần áo sang trọng, hợp thời trang, vai đeo cái túi to đùng, lặc lè bên người. Cô đã bước qua cổng đi vào sân, gần tới bậc hè thì dừng lại, nói vọng vào:
- Thưa bác! Cháu đi giới thiệu và chào hàng mỹ phẩm.
- Mời cháu vào nhà. Cho bác xin lỗi một chút.
Tôi đi vào trong buồng mặc bộ quần áo dài. Lát sau, tôi bước ra, nhìn thấy cô ấy vẫn còn đứng dưới sân. Tôi tươi cười, niềm nở:
- Mời cháu vào nhà!
Cô gái ngoan ngoãn theo lời tôi. Đặt cái túi xuống nền nhà, cô lễ phép dịu dàng nói:
- Thưa bác! Bọn cháu là cán bộ của Công ty mỹ phẩm cỡ lớn và có uy tín ở Hà Nội. Nhiệm vụ của cháu là đi chào hàng, giới thiệu hàng mới. Thấy bác đẹp lão và phúc hậu, cháu muốn mang niềm vui tới cho gia đình. Bác được mấy anh, chị cả thảy ạ?
- Cảm ơn cháu hỏi thăm. Bác được hai trai và một gái. Các anh, chị đều có gia đình riêng và công ăn việc làm ổn định. Một anh ở Hà Nội, một anh và một chị ở Thị xã Vĩnh Yên. Nhà chỉ có hai ông bà già ở quê.
- Hai bác làm nghề gì ạ?
- Hai vợ chồng bác đều dạy học. Bác nghỉ hưu được 10 năm rồi. Bác gái đáng lẽ cũng được nghỉ từ năm ngoái. Chẳng biết hồ sơ sai sót thế nào nên cuối năm mới nghỉ.
- Hai bác hạnh phúc quá. Bố mẹ cháu cũng xấp xỉ tuổi bác nhưng còn vất vả lắm, vẫn phải cày sâu, cuốc bẫm để nuôi mấy đứa em nhỏ. Thưa bác! Cháu xin biếu bác chai dầu gội đầu và bánh xà phòng thơm!
Tôi vội từ chối:
- Cảm ơn cháu. Ông bà già lại sống ở nhà quê, không quen dùng những thứ này.
- Không! Bác không phải trả tiền. Đây là cháu biếu bác. Bác dùng thử rồi tuyên truyền, quảng bá giúp công ty chúng cháu.
 Em bé gái đi bán bánh mì lúc tờ mờ sáng trong truyện ngắn “Bình minh huyền diệu” của Ma Văn Kháng và cô gái đi giới thiệu hàng, chào hàng mỹ phẩm có điều gì giống nhau chăng nên tôi cảm thấy thương thương, không nỡ từ chối.
Cô gái đưa chai dầu cho tôi và nói:
- Thưa bác! Cháu xin mời bác mở nắp. Nếu thần tài lộc mang may mắn đến cho nhà ta bác sẽ được trúng thưởng một trong các thứ sau: Tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy vi tính, nồi cơm điện và bàn là. Nếu trúng thưởng xin bác đừng quên cháu, cháu chỉ xin chút ít để lấy lộc của bác thôi. Cháu xin nói trước để bác khỏi thắc mắc. Nếu bác trúng thưởng thứ nào thì phải lấy thứ đó. Bác không được vịn vào lí do này, nọ, chẳng hạn nhà tôi có rồi, cho đổi thứ khác...
Tôi cảm thấy vui vui. Vì tự nhiên có người mang của đến tận nhà biếu, lại phải nói khó mãi tôi mới nhận cho. Nhưng cẩn thận hơn, âu cũng là đặc tính của người già, tôi hỏi lại:
- Bác không phải trả tiền thật chứ?
- Bác yên tâm đi! Cháu xin nhắc lại: Bác không phải trả tiền. Nếu trúng thưởng, cháu gọi điện báo về công ty, chỉ hai tiếng đồng hồ sau, phần thưởng sẽ được chở đến tận nhà cho bác. Chúng cháu mời bác ngồi cạnh phần thưởng chụp ảnh và mang về treo tại trụ sở công ty. Ngày 10 tháng sau, công ty sẽ mang xe tới đón bác đi hội chợ. Bác đi hội chợ lần nào chưa ạ?
- Tôi làm gì có tiền mà đi hội chợ.
Cô gái dịu dàng nhắc:
- Bây giờ, cháu mời bác mở nắp chai dầu gội đầu này.
Tay run run, tôi mở nắp chai, một mảnh giấy màu vàng nhạt, to bằng cái lá mạ hiện ra trước mắt. Tôi hồi hộp lật ngửa mảnh giấy lên và vui mừng nói thật to:
- Xà phòng thơm!
Cô gái tươi cười nhìn tôi. Nét mặt cô thật là hiền dịu, rạng rỡ và nhân hậu:
- Cháu chúc mừng bác!
Cô thò tay vào túi xách lấy ra bánh xà phòng thơm hai tay cung kính đưa cho tôi. Đoạn lại đưa tiếp cho tôi một chai nữa và nói:
- Mời bác mở tiếp chai này.
Phần thưởng tuy không lớn nhưng tôi thấy vui vui, quên đứt thỏa thuận ban đầu. Tôi hồ hởi đón chai dầu và nhanh nhẹn mở nắp rồi lại xướng to lên:
- Xà phòng thơm!
Cô gái nói:
- Số bác may thật, mở chai nào cũng trúng thưởng.
Cô gái lại đưa tôi chai nữa và nói:
- Bác được mở nắp cả thảy năm chai.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao nhiều thế? Cháu nói, biếu bác một chai. Bác đã mở hai chai rồi. Như thế là trái với thỏa thuận lúc đầu, tiền hậu bất nhất. Bác mang tiếng là người tham lam.
- Thưa bác! Đó là quy định của công ty. Cháu tưởng cháu đã nói với bác từ đầu. Khuyết điểm tại cháu, thành thật xin lỗi bác. Năm chai dầu này, bác được quyền mở nắp, nếu trúng thưởng những mặt hàng có giá trị, gia đình vừa được nhận thưởng vừa nhận cả năm chai dầu. Nhưng bác phải trả tiền năm chai dầu gội. Nếu không trúng thưởng, bác nhận hàng mà không phải trả tiền.
Đến lúc này, thực tình tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì tôi không mất tiền mà được của. Lo vì biết đâu đây là trò lừa bịp, gian lận mà tôi chưa lường hết. Nhưng đã cưỡi trên lưng cọp thì xuống thế nào được nữa. Tôi tặc lưỡi, thôi đành. Tôi liều mở nắp chai thứ ba, rồi chai thứ tư. Kết quả chỉ là tờ giấy không. Đến chai cuối cùng, tôi vừa hồi hộp vừa lo lắng, tay bật mạnh nắp chai. Trời ơi! Phần thưởng của tôi là chiếc bàn là. Tôi chưa tin vào mắt mình, tôi đọc lại lần thứ hai và kêu to lên:
- Bàn là!
Cô gái vỗ tay nhè nhẹ và nói:
- Cháu xin chúc mừng bác. Bác nhiều lộc quá, may mắn lắm, mở năm chai mà trúng những ba giải thưởng. Cháu làm việc này nhiều năm, đi nhiều nơi mà chưa thấy ai tốt phúc, tốt lộc như bác. Vừa nói, cô vừa lấy bàn là đưa cho tôi. Bàn là đựng trong hộp, hư thực, tốt xấu đâu có biết. Nhìn mẫu mã, tôi thấy dại lắm. Cái tên Nhật dài nhằng nhằng tôi không kịp đọc. Tôi chưa kịp nói lời cảm ơn, cô gái đã đưa tờ giấy và hướng dẫn ghi. Đại loại: Họ và tên, địa chỉ, đã nhận đủ hàng và phần thưởng.
Đến lúc này, tôi ngồi đực mặt ra. Bàn là nhà tôi có rồi còn lấy làm gì nữa. Hai ông bà già dùng đến bao giờ cho hết từng ấy chai dầu gội. Và từ xưa tới nay, vợ chồng tôi chỉ gội đầu bằng bồ kết, chẳng lẽ tôi lại bắt chước cô ấy đi bán rao ngoài đường. Nếu là hàng tốt, hàng “xịn”, tôi có thể đem chia cho mỗi con một chai. Tôi đâu có kiến thức về mặt hàng này để thẩm định nó là của thật hay của giả. Gần bảy mươi tuổi đầu, tôi chưa một lần mua những thứ này. Tôi sẽ tặng cô gái ba mươi ngàn. Nhưng với số tiền ấy mất đứt một tháng lương hưu của tôi. Hiện giờ tôi không có lấy một đồng dính túi. Nghĩ vậy, tôi càng thấy lo, đứng ngồi không yên.
Cô gái nhắc khéo:
- Bác cho xin tiền để con đi kẻo muộn!
Tôi như anh chàng cà lăm chẳng biết nói gì ngồi ngay như phỗng, đầu óc nghĩ lung tung.
Đúng lúc đó, vợ tôi đi dạy học về. Tôi liền kể hết đầu đuôi câu chuyện để mong bà ấy thông cảm và cứu nguy cho. Nghe hết câu chuyện, bà ấy thản nhiên đưa mắt nhìn tôi như muốn bảo: “Tôi biết cả rồi, ông cứ để mặc tôi”, đoạn quay về phía cô gái nói:
- Tiền của tôi đâu phải vỏ hến mà đưa cho cô để lấy năm chai dầu gội và cái bàn là rởm. Nếu thừa tiền, tôi đi làm việc thiện như công đức để tu sửa đình chùa, giúp đỡ người nghèo và trẻ em lang thang cơ nhỡ chứ không lấy của rởm.
Dứt lời, bà ấy đi luôn vào trong buồng. Tôi đành phải đấu dịu, nói nhỏ nhẹ với cô gái:
- Cháu thông cảm! Thực tình, bác không có tiền. Vì cháu không nói trước giá cả nên bác cứ tưởng mỗi chai dầu chỉ giá mươi ngàn là cùng. Từ chỗ cháu biếu bác chai dầu đến lúc phải trả hai trăm năm mươi ngàn thật quá bất ngờ. Bác đâu biết trước mà chuẩn bị. Thôi thì, bác trả lại cháu tất tật, kể cả phần thưởng.
Cô gái nhẹ nhàng “xuống thang”:
- Cháu rất thông cảm với bác. Nhưng bác phải vay mượn đưa cho cháu một trăm năm mươi ngàn. Còn lại, cháu cho bác chịu.
Vợ tôi nói từ trong buồng vọng ra:
- Không! Một đồng tôi cũng không trả. Vì nhà tôi có lấy thứ gì đâu.
- Nếu vậy, bác đưa cho con hai mươi ngàn để mua tem dán vào nắp chai dầu gội!
- Tôi đã nói không là không. Nếu cô còn lôi thôi, tôi sẽ đi báo công an! Vẫn là vợ tôi nói từ trong buồng.
Có lẽ nghe thấy bảo đi báo công an, cô gái liền vơ tất cả mọi thứ nhét vội vào trong túi và đi như chạy.
Vợ tôi từ trong buồng đi ra và nói:
- Cô này chuyên đi lừa gạt. Nó đã lừa mấy nhà ở xóm Đông. Anh Mạnh đã mất năm mươi ngàn mà chỉ được chai dầu gội rởm, hôi mù phải đem vứt bỏ. Hàng của nó toàn là hàng giả. Nếu hôm nay tôi không về kịp thì ông mất không cho nó hai trăm năm mươi ngàn. Rõ thật già mà dại, đầu hai thứ tóc mà còn bị trẻ con lừa.
Tôi đành ngồi im nghe vợ nói. Đúng là già đời mà vẫn còn dại. Không! Nói dại chưa hoàn toàn đúng, mà phải nói là tôi tham lam. Tham quá mới hóa dại và bị lừa.
HẠNH PHÚC MUỘN MÀN  
Nắng chiều nhạt dần. Một vài tia nắng yếu ớt còn vương lại ô cửa sổ. Thông đang cặm cụi làm việc. Chợt tiếng chuông điện thoại kêu: Reng! Reng... liên hồi. Thông vội đứng dậy, chạy tới nhắc máy nghe.
Từ đầu dây bên kia, tiếng em gái anh hồ hởi nói
- Bố cưới vợ! Anh chị về ngay!
Thông nhảy cẫng lên như một đứa trẻ được bố mẹ cho đi thăm ông bà ngoại. Vui quá. Điều mong ước bấy lâu nay đã trở thành hiện thực. Anh đứng ngồi không yên. Ước gì có đôi cánh bay về ngay mừng cho ông bà. Vừa khi ấy vợ anh dạy học về. Anh reo thật to:
- Em ơi! Ông chú nhà mình cưới vợ.
Vợ anh mừng quá, bỏ cả cặp sách ngoài cửa, chạy ào vào, hỏi dồn dập:
- Chú út cưới vợ khi nào? Lấy ai? Ở đâu? Bà ấy làm gì?
Thông đứng nghệt mặt ra, trả lời một câu thật ngơ ngẩn:
- Không biết! Anh chỉ thấy em Nga nói vậy và bảo vợ chồng mình đưa các cháu về ngay!
Vợ anh buồn rầu:
- Mọi ngày, ông tiến sĩ của em thông minh, sáng suốt và bình tĩnh lắm cơ mà. Hôm nay hơi tối dạ một chút.
Thông vội thanh minh:
- Anh mừng quá nên quên mất. Anh chưa kịp hỏi thì Nga đã cúp máy.
Vợ anh giục:
- Anh phải điện ngay cho em Nga hỏi xem bố cưới vợ ngày nào để mình thu xếp công việc đưa các con về mừng ông bà.
Bố mẹ anh mất sớm. Anh ở với chú khi còn bé tí tẹo, lúc anh gọi chú, khi anh gọi bố. Gọi thế nào cũng đúng cả.
Khi bố mẹ anh qua đời, bà nội anh gọi các bác, chú đến hỏi:
- Bác cả hay bác hai nhận nuôi đứa cháu mồ côi giúp mẹ đây?
Im lặng. Một lúc lâu, bác cả ngập ngừng nói:
- Nhà con kinh tế khó khăn quá! Con còn chẳng nuôi nổi lấy gì để nuôi cháu. Chắc phải nhờ đến chú hai nuôi giúp.
Bác hai giật bắn người lên, nghĩ: Ông này thật tồi tệ. Không nuôi cháu thì thôi lại gắp lửa bỏ tay người... Rồi bác hai cũng chẳng vừa, khéo léo thoái thác và đẩy trở lại:
- Nhà em chật chội quá ở thế nào được. Em tính thế này là hợp lý nhất: Bác cả cứ nuôi cháu. Em, chú út và các cô sẽ hỗ trợ cho bác.
Bác cả cảm thấy bực tức. Nó giàu có mà keo kiệt. Nó định “bắn” sang cho mình. Bác cả cũng tìm cách “bắn” trở lại.
- Con tính thế này mẹ ạ! Các cậu, các dì của cháu cũng muốn nuôi hay là ta để cho họ nuôi. Nếu mẹ không bằng lòng thì con lại tính cách khác. Con nuôi 10 ngày, chú hai và chút út nuôi 20 ngày.
Bà nội gay gắt nói to:
- Tôi biết tỏng lòng dạ các anh rồi. Không phải du đẩy nhau nữa. Tôi có cháu thì tôi nuôi. Các anh hài lòng chưa!
Cuộc đời chú út của Thông là bài ca với những âm thanh giai điệu mượt mà về gia đình, tổ quốc. Học xong lớp 10 chú đi bộ đội. Mười năm ở chiến trường, chú đi qua không biết bao nhiêu ngọn núi, dòng sông, con suối, tham gia nhiều trận đánh mặt đối mặt với bom đạn kẻ thù. Nhiều khi cái chết chỉ trong gang tấc. Chú không hề nao núng. Rồi chú bị thương ở cánh tay trái và được chuyển về hậu phương. Chú vào học đại học sư phạm. Ra trường, dù chưa cưới vợ nhưng chú đã làm cha, làm mẹ bởi chú nhận việc nuôi dạy Thông. Với đồng lương giáo viên cấp III, chú tằn tiện nuôi mẹ và cháu.
Thế rồi chú cưới vợ. Vợ chú là cô giáo cấp II, người cùng quê, dạy tại trường làng. Năm năm sau, thím cho ra đời hai đứa con, một trai, một gái: Hậu và Nga. Chẳng may, thím đổ bệnh, rồi ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo. Khi ấy, Thông 12 tuổi, bé Hậu 9 tuổi, bé Nga 6 tuổi. Bà tôi tuổi già sức yếu lại quá thương con nên ngã bệnh rồi cũng theo về với ông. Hai cái tang trong một năm làm chú út suy sụp về tinh thần, người gầy như con mắm. Gia đình khánh kiệt, nợ chồng chất. Vì đàn con, chú gắng gượng dậy để làm tròn trách nhiệm của người cha, người mẹ. Để nuôi bốn miệng ăn, ngoài dạy học, chú nhận làm đủ mọi việc: sửa chữa đồ điện như quạt trần, quạt bàn, bàn là, tủ lạnh, ti vi… kể cả làm ruộng. Rất may, chú học khoa vật lý nên có khả năng làm tốt các việc trên. Thông và Hậu cùng nhau chăm đàn ngan, vịt. Thông đi thả ngan, vịt buổi sáng thì Hậu làm việc ấy buổi chiều và ngược lại. Nhiều hôm cả hai anh em đều đi sinh hoạt tập thể nên không đi chăn ngan, vịt được. Chú lại đi thả ngan, vịt thay hai anh em. Ở quê Thông, chuyện ông giáo cấp III đi chăn vịt là điều chưa từng thấy. Cái Nga phải chăn trâu cắt cỏ cho hợp tác xã để lấy công điểm. Gia đình không làm nông nghiệp, hợp tác xã ưu tiên chú là thương binh, nên cái Nga mới được chăn trâu. Mùa hè, Nga còn phải đi kéo vó tôm kiếm thức ăn cải thiện. Những con ngan, vịt béo tròn đi khạng nạng, những con tôm tươi roi rói giãy đành đạch do ba anh em Thông làm ra. Buổi sáng nào cả nhà Thông có được bát cơm rang chia nhau lót lòng là hạnh phúc lắm rồi. Phổ biến là vác cái bụng lép kẹp đi học và đi chăn vịt ngan. Cả đời, chú Thông chưa có khái niệm ăn sáng. Chú thường giải thích: “Ăn sáng tức bụng chịu không nổi, đôi khi còn bị giun quấy”. Năm này qua năm khác, chú khoác trên mình bộ quân phục do bạn bè tặng hoặc mua ngoài chợ. Chú thường nói: “Quần áo bộ đội mặc mùa hè thì mát, mùa đông lại ấm vì vải nhiều sợi côtông. Mặc quần áo lính đi làm thì lịch sự gọn gàng, đi chơi lại đứng đắn, dân dã. Chú vốn là người lính, mặc quần áo bộ đội hợp quá đi chứ, biết bao nhiêu  kỷ niệm ở đó”. Chú có bộ quân phục bằng vải kaki Tô Châu, chẳng biết từ khi nào, chú chỉ dành mặc vào dịp tết Nguyên đán, ngày khai trường và ngày nhà giáo Việt Nam 20-11.
Chú đã nuôi anh em Thông ăn học đến nơi đến chốn không thua kém bất cứ đứa trẻ nào ở làng quê này. Khi Thông học lớp 6, chú thường nói:
- Nhà này con cháu cả đống, chỉ có thằng Thông là sáng dạ lại chịu khó chăm chỉ học hành. Tôi làm thầy giáo tôi biết chứ. Bằng mọi giá, kể cả phải bán nhà cũng phải nuôi nó học thành tài. Sau này thành đạt nó sẽ có trách nhiệm dìu dắt giúp đỡ các em. Có lần chú lại nói: “Nhà này, không có chỗ ở cho kẻ lười học, lười lao động”. Nhờ thế mà ba anh em Thông đều đỗ vào đại học. Thông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Liên Xô. Khi Thông nhận bằng tiến sĩ, chú xúc động, lau những dòng nước mắt nói: “Cháu đã làm rạng rỡ cho dòng họ và quê hương”.
Khi ba anh em Thông trưởng thành, ai cũng có công ăn việc làm, nhà cửa khang trang ở thành phố và thị xã. Chú út nghỉ hưu nhưng không về ở với con, cháu. Chú sống một mình ở căn nhà rộng rãi, vắng vẻ nơi quê nhà, để thực hiện cái “thuyết”: tự do cho mình và cho con, cháu. Từng ấy tuổi đầu, chú cô đơn, lủi thủi nấu nướng ăn cơm một mình. Bữa ăn bữa nhịn là chuyện bình thường. Hôm có thịt cá lại không có rau. Khi có rau lại không thịt cá. Thậm chí, có bữa chú lấy cơm canh, thịt đậu đổ cả vào bát tô, rồi ngồi trên cái sập giữa nhà vừa ăn vừa xem ti vi. Lại có bữa đứng ngay ở cửa bếp mà ăn. Bát đũa hai ba ngày mới rửa một lần. Thấy vậy, vợ chồng Thông biếu chú cái tủ lạnh. Nhưng cả mấy anh em Thông đều ngay ngáy lo cái điều: Bố ở một mình, tuổi cao, đêm hôm nhỡ trái gió trở trời chẳng ai hay. Lỡ ông thế nào, anh em Thông ân hận suốt đời. Nhiều lần vợ chồng Thông, vợ chồng Hậu khuyên chú đi bước nữa. Chú chẳng nói chẳng rằng. Ông ngồi lặng im như người đang thiền. Thông nghĩ, hay chú có mối tình nào mà chưa tiện nói ra. Không! Thông đã nghĩ oan cho chú. Tất cả tình cảm yêu thương chú đều dành cho người vợ quá cố và đàn con. Tìm hiểu kỹ những người xung quanh, Thông được biết chú chẳng có mối tình nào cả. Cuộc sống thực tại, chú thấy cần phải đi bước nữa. Nhưng lý do nào khiến chú lặng im? 

Mùa xuân năm ấy, trời còn rét đậm. Cành đào trên bàn thờ bắt đầu tàn. Cây quất ở chậu chỉ còn lưa thưa vài quả. Chú xuống Hà Nội thăm vợ chồng Thông và các cháu. Nhân lúc ăn uống vui vẻ, Thông mạnh dạn hỏi chú:

- Chú nghĩ thế nào mà không đi bước nữa? Hoàn cảnh của chú nên quá đi chứ. Mọi người sẽ thông cảm.

Chú thở dài. Im lặng một lúc sau chú nói:
- Cái Nga là đứa tai quái, đáo để, cứ nghe nói chú đến với ai là nó quậy phá. Đầu tiên, nó van xin người ta buông tha cho bố và anh em nó. Nếu người nào tỏ ý quyết tâm xây dựng với chú, nó tìm cách đe dọa… Thử hỏi ai dám lấy chú nữa. Nó sợ chú lấy vợ sẽ lạnh nhạt và bỏ rơi anh em mày. Nga mất mẹ từ nhỏ nay lại sợ mất bố. Nó sợ bố lâm vào cảnh vợ thêm con đèo khổ sở vất vả, con anh, con tôi, con chúng ta. Chú rất thông cảm với nó.
Thông ạ! Khi còn trẻ tuổi, việc xây dựng gia đình phải do cha mẹ lựa chọn thì mới êm thấm và hạnh phúc. Tất nhiêu các con là người quyết định, nhưng nếu bố mẹ không đồng ý gia đình sẽ lỏng lẻo, mất vui. Con, Hậu và Nga đều là theo điều dạy đó. Ngày xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Nhưng ở tuổi chú, hoàn cảnh chú, muốn đi bước nữa phải được các con đồng ý. Thậm chí con phải đi tìm vợ cho bố, làm được như thế gia đình mới bền chặt và hạnh phúc. Vợ chồng con, Hậu đồng ý để chú đi bước nữa, trở ngại chính là cái Nga.
- Con hiểu. Chỉ cốt chú đồng tình, ưng thuận là được. Con sẽ thuyết phục cái Nga!
Tháng sau, tôi về thăm vợ chồng Nga. Buổi tối, ăn uống xong, tôi nói:
- Anh có việc bàn riêng với Nga
Nó ngạc nhiên hỏi: - Có việc gì quan trọng à anh?
- Rất quan trọng là đằng khác - Tôi hắng giọng rồi nói - Bố đã vất vả, khổ sở hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ra ăn học và trưởng thành. Ba anh em mình đã có gia đình riêng, sớm tối vợ chồng hú hí với nhau. Chẳng đứa nào về hầu hạ, chăm sóc bố lấy một ngày. Bố cô đơn, lủi thủi sống đơn độc một mình, bữa ăn, bữa nhịn. Lúc khỏe đã vậy, khi ốm đau thì sao? Ai là người cơm nước cho bố.
Nga gay gắt nói:
- Anh lại thuyết phục em để bố đi bước nữa chứ gì? Không! Một ngàn lần không.
Nói xong Nga bỏ đi.
Đó là chuyện ngày trước, con bây giờ chú út của Thông xây dựng với bà giáo vừa qua tuổi ngũ tuần. Bà kém chú vừa tròn một giáp. Bà chưa một lần lên xe hoa. Thuở xưa, bà là thanh niên xung phong, nhiều năm mặt đối mặt với cái đói, cái rét và bom đạn của kẻ thù. Bà bị thương ở chân phải nhưng không nặng lắm, di chứng của nó khiến bà bước đi hơi tập tễnh một chút, tinh ý mới phát hiện ra. Hết chiến tranh, gần ba mươi tuổi bà mới bước chân vào giảng đường đại học. Bà đã dạy học được hơn hai mươi năm. Bằng sự lao động cực nhọc và tiết kiệm nhiều năm, bà xây dựng được ba gian nhà nhỏ và hai gian bếp ở làng ven thị xã. Bà định khép kín phòng the, xây dựng “tượng đài phòng không” cho cả đời mình và lấy việc dạy học làm nguồn vui. Cũng đã có nhiều người đến với bà nào giám đốc, bác sĩ, kỹ sư có cả sĩ quan cấp tá nhưng không ai khiến bà rung động. Vì người được mặt này, lại thiếu mặt khác. Chú út của Thông là người đến sau cùng nhưng lại lọt vào đôi mắt đợi chờ của bà. Bà cảm thấy trời sinh ra bà là để dành cho ông. Bà thương ông tuổi trẻ gửi cả nơi chiến trận. Khi trở về đời thường, lại phải một mình vừa là cha vừa là mẹ nuôi cả đàn con khôn lớn trưởng thành. Sức lực gửi cả vào đó, dồn cả vào đó. Ông thương bà, chân yếu tay mềm, bao năm đào đắp mở đường cho các đoàn quân ra trận, trong đó có ông, gánh chịu không biết bao nhiêu bom đạn của kẻ thù. Cả tuổi thanh xuân chờ đợi người yêu ngoài mặt trận, cuối cùng là phòng không giá lạnh. Còn bây giờ buổi xế chiều của họ là mối tình tuy muộn mằn nhưng thật đẹp. Cả hai ông bà đều từng là người lính, cả hai đều là thương binh, cả hai đều là nhà giáo. Ông bà đã tìm thấy hạnh phúc của đời mình.
Kể từ ngày ông bà xây dựng với nhau, cuộc sống thay đổi đến không ngờ, ngoài sức tưởng tượng của con cháu. Cái ăn, cái mặc của chú út Thông không như xưa nữa. Mỗi sáng chú ăn một gói mì ăn liền còn thòm thèm cùng hai quả trứng gà hay trứng vịt lộn. Mỗi khi có việc ra ngoài ông đều ăn mặc rất chỉnh tề: Mặc com-plê, ca-vát cài ghim sang trọng, lịch sự. Quần áo bộ đội, ông chỉ mặc khi lao động. Một đôi lần về thăm nhà, thấy ông vui vẻ, hạnh phúc, Thông định hỏi trêu: “Sao bố không mặc quân phục nữa?”. Nhưng sợ bố mất vui nên thôi. Anh thấy lòng dâng niềm vui, hạnh phúc.
Lâu lắm chú mới đến thăm vợ chồng Thông và các cháu. Gia đình Thông mừng hết chỗ nói. Hai đứa con Thông quấn quýt lấy ông. Vợ Thông nấu những món ăn mà ông ưa thích. Hôm sau ông một mực đòi về. Các cháu đứa giữ mũ, đứa giữ túi không cho ông về. Ông phải nịnh các cháu:
- Ngoan nào! Thôi để ông về mai kia ông lại xuống. Ông còn bao nhiêu việc ở nhà, nào cắt chuối, rào vườn, trông nhà cho bà đi dạy học.
Vợ Thông nói:
- Chẳng mấy khi bố xuống với chúng con! Bố ở lại chơi với cháu vài ngày nữa. Hay sợ con không có gạo chứ gì?
- Thế là bố thỏa mãn lắm rồi! Không xuống thì nhớ cháu. Ở đây lại nhớ nhà.
Thông cười, nói:
- Ông nhớ bà thì có!
Bố tủm tỉm:
- Đúng thế! Thông là người hiểu bố nhất.
Vợ chồng Thông đành để bố về. Thông đưa ông ra bến xe.
Sau thời gian bà xây dựng với ông, tự nhiên bệnh đau đầu, biếng ăn và thiếu ngủ của bà chẳng thuốc thang gì mà khỏi tiệt. Bữa nào bà cũng thấy ngon miệng và chấm dứt cái cảnh vào mâm cơm ngồi bên nào cũng lệch, bữa thất bữa thường. Bà tăng 3 ký, béo đẹp và tươi tắn hẳn lên. Đi dạy học về, bà thấy căn nhà ấm áp, vui vẻ. Bà mới về tới cổng, ông chạy ra đón và mở cổng. Mâm cơm ông chuẩn bị sẵn, cơm canh khói bay nghi ngút, chờ bà về là ăn. Bà lựa chọn những miếng ngon gắp cho ông. Ông lại nhường cho bà, Miếng thức ăn chạy đi, chạy lại qua hai cái bát. Bữa ăn đã tàn, câu chuyện còn thèm. Bà kể nốt tiết thực tập sáng nay. Bà đang say sưa giảng bài: “Dáng đứng Việt Nam”… thì trống báo hết giờ. Ông bảo, bài giảng như thế là chưa hoàn hảo, đáng lẽ giảng xong mới trống hết giờ. Bà thanh minh: “Say sưa giảng quá, quên xem đồng hồ”. Ông nói: “Tôi mải rào vườn quá, trưa nay nấu cơm hơi muộn, chưa kịp thay quần áo lao động bà đã về…”. Hằng ngày bà không phải tập tễnh xách nước. Việc ấy đã có ông đảm nhiệm. Bà ngồi giặt, ông đứng kín nước. Buổi tối bà chuẩn bị nước nóng, kem, bàn chải để hai ông bà cùng đánh răng. Mỗi khi đi thăm bà con lối xóm, ông bà dắt tay nhau cùng đi, chuyện trò vui vẻ. Với số vốn liếng góp nhặt bao năm cộng sự giúp đỡ của bạn bè, con cháu, ông bà làm thêm căn nhà đổ bê-tông rộng tới 70m2, có công trình phụ khép kín và các trang thiết bị hiện đại đầy đủ. Ông bà chẳng phải kín nước giếng nữa. Chập tối, sáng mai, ông bà thường dắt tay nhau đi bộ để thư giãn và rèn luyện sức khỏe. Đêm về, ông bà lân nhau đọc truyện cùng nghe. Ông thừa sức đọc cả buổi nhưng mê giọng đọc của bà. Xóm Đậu, có người nói: “Bà Huệ lấy chồng muộn nhưng chắc, vợ chồng trẻ chưa chắc đã hạnh phúc bằng, sướng một đời, các bà quá lứa lỡ thì, hoặc góa bụa noi gương bà ấy đi”…
Trước đây, tuần nào, anh em Thông cũng phải thay phiên nhau về thăm ông, chuẩn bị thức ăn xếp vào tủ lạnh để ông ăn dần. Từ ngày có bà, một, hai tháng an hem Thông mới về thăm ông bà mà vẫn yên tâm. Nghỉ hè các cháu đứa nào cũng muốn về ở với ông bà. Ông bà muốn cháu ở hết hè cho vui nhà. Vợ chồng Thông không dám để các cháu ở lâu sợ ông bà vất vả. Bà và Nga rất hợp tính nhau. Hai mẹ con thường hay thì thầm to nhỏ với nhau khiến các nàng dâu ghen tị.
Ngày giỗ bà già, con cháu về đông đủ. Khi ăn uống vui vẻ, Nga tự bộc bạch:
- Xưa con là đứa quậy phá ngăn cản bố đi bước nữa. Nhưng sau lại chính con là người mở đường và lo từ A đến Z để bố mẹ nên ông nên bà. Bây giờ con mới thấm hiểu: “Con chăm cha không bằng bà chăm ông”. Thông nói thêm: “Mỗi thế hệ, mỗi lứa tuổi đều có nhu cầu hạnh phúc riêng, đừng ai đặt “barie” ngăn cản. Nếu em nghĩ được sớm thì bố và các anh, cả nhà ta còn vui từ trước nữa cơ...
Nga lườm Thông nói: “Em đã nhận lỗi và sửa chữa rồi. Anh còn mát nước thấu xương”.
LÊ THUẦN THẢO
Viên hồng ngọc
Tập truyện ngắn đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
CAM TIẾN VUA 
Ngày ấy mới học cấp hai, chúng tôi đã phải ở trọ. Nhóm con trai chúng tôi trọ ở nhà bà Huê Nhài, ba bạn nữ trọ ở nhà bà Huê Cúc, cách nhau một bờ rào. Chúng tôi chưa đủ khôn để lý giải tại sao cái thôn gần trường, có các bà cụ hiền lành, trông giống các bà bủ nhân hậu ấy lại có tên là Huê. Chỉ biết các bủ tốt lắm, coi chúng tôi như con. Cánh con trai mỗi bữa chỉ nấu duy nhất một nồi: Nồi cơm độn sắn, độn ngô, độn khoai tùy theo khả năng của gia đình cho mang đến. Cơm cạn, chúng tôi thả vào một quả cà chua, đồng thời đặt lên vung một dúm muối trắng. Khi nhấc cơm ra ăn, dúm muối “sấy” được cho vào bát cùng quả cà chua “hấp” dằm với lưng bát nước vối, thế là có bát thức ăn duy nhất sền sệt màu hoa đào. Đó là bữa có thức ăn “sang trọng”. Còn nhiều bữa khác thức ăn là cà muối được bà chủ “úy lạo”, và cũng có khi chỉ có mỗi món muối “sấy” truyền thống. Thế mà cả bốn thằng chụm đầu vào chiến đấu, nhanh, gọn, hết veo. Bọn con gái chắc cũng ăn cơm giống chúng tôi, nhưng hình như các bạn ấy còn nấu thêm thức ăn gì nữa thì phải, vì thấy như có rửa rau, và đỏ lửa lâu hơn. Có hôm bên ấy còn bắt cua cải thiện, tụi bạn cứ xui tôi: “Chúng nó có canh cua đấy, cậu sang “ngoại giao”, kiếm tý chất tươi. Bên ấy có cái Lụa  trông khá hơn cả, nó có vẻ lúng liếng với cậu.
Hôm ấy, y như rằng vừa thấy tôi nhò sang, Lụa đã múc tặng chúng tôi một bát canh đầy, bốn thằng lại vừa ăn, vừa đùa, cười phớ lớ. Thời ấy, lạ thế, không đứa nào kêu ca vất vả, không ai bỏ buổi học nào. Cuối cấp hai đã là mười bảy, mười tám tuổi. Lũ con trai thích làm Paven, bọn con gái tất thảy muốn thành Dôia hay Ri-ta, nên đứa nào cũng ra sức phấn đấu rèn luyện mình. Đời cứ ước được “tôi” trong lửa đỏ và nước lạnh! Mỗi tuần lao động hai buổi để gây quỹ lớp, quỹ đoàn. Mỗi lớp nhận làm một ruộng lúa tăng sản theo kiểu Đại trại, cứ tin rằng lúa sẽ cho hạt bời bời, mỗi ruộng là một đống lúa vun cao, đứng lên không lún. Mỗi buổi lao động, thầy giáo, cô giáo không chỉ, hướng dẫn bằng lời mà cũng mang theo: cuốc, xẻng, quang gánh,… rồi xắn cao quần cùng làm cật lực với học sinh. Hình như các thầy, cô thời ấy muốn giáo dục chúng tôi bằng cả tấm gương lao động của mình. Nhà trường đã tổ chức làm gì là làm tới bến, cấm ai được lơ tơ mơ: học, lao động, văn nghệ, thể thao… Tất thảy phải cật lực hết mình.
Chúng tôi đều tự giác nên các thầy cô cũng chẳng phải nhắc nhở nhiều. Có lúc nào cần bảo ban, nhiều thầy có những động thái sư phạm đặc biệt. Còn nhớ có lần trong giờ học động vật, bạn đang lên bảng kiểm tra bài cũ, tôi mải mê kể truyện phim “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài” cho cậu ngồi cạnh nghe. Thầy nhẹ nhàng đi xuống lớp, đền cạnh vỗ vai tôi:
- Cậu lên bảng vẽ xương đầu bò.
- Thưa thầy, bài ấy học từ tuần trước
- Tuần trước cũng cứ vẽ.
Tôi lên bảng, nhớ lại vẽ chính xác cái xương đầu bò, ghi chú thích đầy đủ. Thầy nhận xét, khen tôi vẽ đúng, và cho 5 điểm (mức điểm cao nhất thời bấy giờ), không nói gì thêm, rồi thầy điềm tĩnh vào bài mới. Ấy thế mà khi tự hiểu ra thì nhớ mãi…
Thời ấy học gì thi nấy, đối với tôi, cam go nhất là môn thể dục: Nam chạy 1.500m, nữ chạy.1.000m. Lũ con gái đã thi từ chiều hôm trước, có đứa lệt sệt mãi, mặt đỏ tía tai mới kéo đủ suất của mình. Cánh con trai phải chạy từ cổng trường, đến cầu Ngòi Lửa, một đoạn đường phẳng, thoáng, mỗi đợt chạy năm người, lớp trưởng đứng ở cổng trường phất cờ, thầy đứng ở đầu cầu theo dõi đồng hồ. Quãng đường này chúng tôi đã được tập, tôi đã chạy vài ba lần, được tụi bạn cho là loại khá. Lần này chạy thi tôi tự dặn mình phải cố, ít nhất cũng phải đạt bốn điểm (điểm loại khá). Tôi chạy ở tốp thứ hai. Khi lớp trưởng phất cờ, tôi cố vượt lên phía trước. Dọc đường chạy có các bạn gái đứng bên đường, hô vang động viên: Cố lên! Cố lên! Chân tôi vẫn guồng, gấp gấp. Tôi thấy mũi nóng rực, rồi dần thấy lồng ngực bỏng rát, tôi vẫn guồng đều đôi chân. Đến lúc cảm thấy sống mũi cay xè như bị sặc nước ớt, mắt căng ra, có cảm giác nghèn nghẹt như bị bóp cổ và văng vẳng tiếng con gái hô “Đến đích rồi”! Nghe như có tiếng vỗ tay, và hình như tôi khuỵu xuống.
Cảm giác trở lại khi tôi nhận ra đôi chân mình bị kéo lê trên đất mịn. Tôi dẫm chân xuống đất, thấy hai chân dài dại, tê tê, trên mặt đất nóng rực. Tôi mở mắt và nhận ra rằng, tay phải tôi đang được khoác trên vai thầy Cảnh dạy thể dục và tay trái đang thườn thượt đung đưa trên ngực Lụa. Như một phản ứng, tôi định rụt tay về, thì Lụa nắm chặt tay tôi ghì xuống. Ít phút sau tôi đỡ hơn, tự đi được. Thầy dặn Lụa:
- Em dìu bạn đi chậm. Tuyệt đối không để bạn nằm.
Sau đó tôi nghe vẳng từ xa một hồi còi dài và tiếng thầy Cảnh hô:
- Tiếp tục…
Tôi xấu hổ, gỡ tay mình ra, và chính lúc đó, tôi thấy Lụa ràn rụa nước mắt. Tôi ngớ ngẩn hỏi:
- Sao cậu lại khóc?
- Mình lo cậu chết mất!
Rồi Lụa bóc cho tôi một quả cam. Từng múi, từng múi, tôi ăn và lạ thay: Lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận ra cam ngọt thế, thơm và mát vô cùng. Cam vào tới đâu mát tới đó, chén hết quả cam thì tôi tỉnh hẳn. Tôi hỏi tiếp:
- Cam Lụa lấy ở đâu?
- Cam nhà Lụa đấy, cam làng Hạ quê mình ngon nổi tiếng. Ngày trước, chánh tổng cứ phải về làng mình đặt cam tiến vua.
Tôi chầm chậm cùng Lụa trở về nhà trọ, suốt dọc đường không ai nói gì thêm. Đợt ấy, môn thể dục tôi đạt điểm 5, Lụa và tôi đều là học sinh giỏi toàn diện của trường. Thi tốt nghiệp, lớp tôi đỗ trên tám chục phần trăm, đạt tỷ lệ cao nhất trường. Khi làm đơn xin thi vào cấp ba, tôi ngạc nhiên không thấy Lụa đăng ký. Tôi hỏi, thì Lụa bảo:
- Mình phải ở nhà làm ruộng, làm vườn vì em mình năm sau đã lên cấp hai rồi. Cậu cố giữ vững mức học giỏi, rèn sức khỏe cho tốt. Còn Lụa phải ở nhà thôi. Nhà chỉ còn hai chị em, Lụa phải đi làm thì em trai Lụa mới đi học được. Cậu sẽ học cao, học nữa, học mãi, nhưng đừng quên lớp 7B, đừng quên cái Lụa quê mùa này nhé.
- Xin hứa! Mình không quên.
- Nói lời thì giữ lấy lời… - Sau một phút im lặng Lụa nói tiếp - Không hiểu sao, gần đây trên đời này Lụa lại thấy thương hai người nhất.
- Ai?! Tôi sốt ruột.
- Đó là em trai mình và cậu.
Tôi định hỏi: Cậu thương tớ như thế nào? Nhưng tôi chợt nóng tai một thoáng tự ái và im lặng. Xin đừng ai bảo “im lặng là vàng”. Đến nay tôi vẫn cho rằng cái im lặng buổi ấy của mình là sự ngu xuẩn nhất trần gian.
Thế rồi khi đang học cấp ba, thì chiến tranh như cơn lốc cuốn  lũ chúng tôi đi. Suốt những năm tháng ở chiến trường, có vài lần tôi gửi thư về làng Hạ cho Lụa mà chẳng thấy hồi âm. Khi Tổ quốc hòa bình, tôi trở về làng Hạ, thì hay tin Lụa đã vào một quân y viện ở phía Nam, thăm nuôi cậu em ruột, hiện là thương binh nặng. Ba gian nhà vắng hoe, vườn cam đã tàn, thay vào đó là vườn cải, trổ ngồng vàng rực.
Tôi chưa kịp tìm lại, thì chiến tranh biên giới phía Nam, phía Bắc xảy ra, hút tôi vào đó mất nhiều năm. Trở về làng Hạ lần sau thì dân làng đã chào tôi bằng bác! Lụa đã bán sào vườn, về Hà Nội làm công cho một nhà hàng để nuôi cháu trai ăn học, sau khi cậu em mất và em dâu đi lấy chồng.
Hà Nội! Hà Nội mênh mang gấp bội ba mươi sáu phố phường ngày trước. Hà Nội bao nhiêu triệu người, bao nhiêu nhà hàng? Bao nhiêu người làm công lam lũ? Tìm Lụa ở đâu?
Tôi ra quân cũng được ở ngay Hà Nội. Hà Nội, hòa bình, đầy hoa, đầy quả, cam Mỹ, cam Tàu, Cam Nam, cam Bắc, vàng ươm, xanh mọng, đầy chợ, đầy đường… tìm đâu cam ngọt tiến vua ngày ấy?
THẢO DÂN 
Chuyện xưa viết tiếp
Tập truyện ngắn đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
THÁNH GIÓNG LÊN TRỜI RỒI ĐI ĐÂU?
Những tên giặc Ân cuối cùng đã bị đuổi ra khỏi bờ cõi. Chàng trai Phù Đổng đang trên đường về kinh đô để tâu với vua Hùng, thì anh tiếp được sứ nhà trời.
Ngọc Hoàng ban chỉ, mời chàng trai làng Gióng về trời báo công diệt giặc nhận ban thưởng. Chàng tiếp chỉ rồi loay hoay với bộ quần áo sắt, nón sắt. ngài Thiên sứ nói:
- Anh hãy cởi bỏ quần áo sắt, nón sắt cho bớt nặng thì mới bay lên được.
Gióng làm theo. Nhưng còn con ngựa sắt thì sao? Anh hỏi Thiên Sứ.
- Ta sẽ có cách! Nói rồi Thiên sứ lấy tay vuốt hai bên sườn ngựa. Lập tức hai cánh của nó mọc ra. Ngựa vẫy cánh quạt gió ào ào, đưa Gióng và Thiên sứ về trời.
Đường lên trời mênh mông cao thẳm. Cánh ngựa rập rờn làm tan những đám mây trắng như bông. Nhìn xuống trần gian, Gióng thấy cảnh non xanh nước biếc, vực thẳm núi cao, lúa vàng dâu xanh, làng xóm đông vui nhộn nhịp. Bên kia là núi Tản sông Đà, bên này là sông Lô Tam Đảo. Dòng sông Hồng như tấm lụa đào vắt giữa mênh mang. Giữa hai miền núi sông hùng vĩ ấy là kinh đô Phong Châu, nơi vua Hùng đang đợi Gióng trở về báo công diệt giặc.
Quê hương! Ôi quê hương! Làng Phù Đổng hiện ra với những mái tranh nghèo, những vườn cau trĩu quả, những cánh đồng chen giữa chân đồi! Ở đó có mẹ già ta, người mẹ nghèo đã sinh và nuôi ta bằng mồ hôi nước mắt của mình. Ở đó có nhân dân đã góp gạo, góp dưa cà nuôi ta trong những ngày đói cơm thiếu muối. Ở đó có tấm lòng nhân nghĩa của xóm làng đã cho ta thêm sức mạnh diệt thù. Ôi! Quê hương yêu thương! Hãy đợi ta về chia vui ngày thắng lợi.
Gió rít bên tai đưa Gióng trở về với thực tại. Nhìn lên, Gióng đã thấy thiên đình thấp thoáng trong mây. Đến cổng thành, Gióng đã thấy đoàn thiên tướng ra nghênh đón. Vó ngựa sắt vừa dừng lại thì đã nghe thấy tiếng loa thét lớn:
- Ngọc Hoàng truyền chỉ: Triệu Gióng vào chầu.
Gióng theo các quan vào bệ kiến. Chàng sụp lạy Ngọc Hoàng tung hô “Vạn tuế”!
Ngọc Hoàng phán:
- Hỡi chàng trai làng Gióng! Ta đã xem nhà ngươi đánh giặc! Thật là tài ba trí dũng chẳng kém gì các Thiên tướng của ta. Xét công lao cứu dân của ngươi ta phong cho ngươi chức Phù đổng Thiên vương, cùng với bạc vàng châu báu và một cung điện ở ngọn núi Kim Quang, gần với vườn đào của Tây Vương Mẫu. Ta sẽ gả cho nhà ngươi một trong những công chúa con ta.
Phù đổng Thiên vương tâu:
- Tâu Thượng Đế! Người ban cho tôi chức tước, nhà cửa, bạc vàng và nàng công chúa. Người cho tôi làm Phò mã Thiên đình. Công ơn này thật cao như núi, tôi đâu dám quên. Nhưng, thưa Thượng đế, tất cả những thứ ngài gia ân, kẻ hạ thần này không dám nhận. Vì hạ thần là kẻ phàm trần, sinh ra trong nghèo khó, lớn lên trong cát bụi lầy bùn. Thần xin thượng đế cho thần được trở lại trần gian, về làng Phù Đổng. Vì ở đó, thần còn mẹ già đang mỏi mắt trông chờ. Ở đó có dân làng đã nuôi dưỡng che chở cho thần trong những ngày nghèo đói. Họ cũng đang mong thần trở về để vui vầy cuộc sống dân dã làng quê. Thần sinh ra từ cái nôi nhân dân. Thần xin được về cái nơi cội nguồn đó, Thần không thể vì giàu sang phú quý mà quên hết nghĩa tình.
Nghe xong lời cầu khẩn của Phù đổng Thiên vương, Ngọc Hoàng thấy có lý. Ngài khen:
- Ôi! Chàng trai làng Gióng! Ôi Phù đổng Thiên vương! Lời nói của ngươi đã làm xấu hổ bao kẻ quên ơn bạc nghĩa. Ta chuẩn tấu nguyện vọng của ngươi. Nhưng dù sao thì ngươi cũng nên nán lại thăm cảnh thiên đình.
- Thần xin tuân chỉ - Thánh Gióng đành chiều ý Ngọc Hoàng. Chàng đi theo quan hướng dẫn du lịch thiên cung, vãn cảnh đẹp thần tiên mà trong lòng vẫn luôn hướng về nơi trần thế. Nơi thưởng ngoạn đầu tiên của Gióng là vườn đào của Tây Vương Mẫu. Vườn đào đang độ đơm hoa, cánh hoa đào đẹp như má phấn các nàng tiên. Gióng chỉ nhìn qua, lòng hờ hững, chàng trở về lò luyện đan của Kim Quân Thái Bạch. Thấy Gióng không vui, quan hướng dẫn đưa chàng đến chốn Bồng Lai. Ở đó có biết bao nàng tiên xinh đẹp ra múa hát đón chào. Nhưng lòng Gióng vẫn lạnh băng. Chàng buồn rầu rời khỏi cung ngà trở về phòng riêng ngao ngán cho cảnh ăn ngon mặc đẹp, chơi bời lêu lổng của chốn thiên cung. Đêm đêm, chàng không ngủ, vén tấm màn mây trông về làng Phù Đổng. Hình ảnh mẹ già còm cõi vẫn vào ra, tựa cửa trông chờ. Nhìn cảnh đó, nước mắt chàng rơi lã chã. Hôm sau, chàng đến xin Ngọc Hoàng cho chàng được phép về nơi hạ giới. Cảm kích tấm lòng hiếu thảo của chàng, Ngọc Hoàng chuẩn tấu cho chàng về quê. Ngài ban cho chàng vàng bạc châu báu. Chàng nhận lấy để về phân phát cho dân. Nam Tào phụng chỉ đưa chàng về núi Ninh Sóc, Chàng từ biệt Nam Tào về quê. Trên đường về, chàng mới có dịp nhìn lại cảnh chiến trường mới xảy ra trước đó. Những làng xóm tiêu điều xơ xác, những lũy tre ngà bị lửa phun nay đã úa vàng. Những bước chân ngựa sắt giờ đã đầy nước và đã lấm tấm những cánh bèo dâu. Làng Phù Đổng đã hiện ra trước mắt. Chàng bồi hồi xúc động bước chân trên đường làng. Mọi người thấy chàng về thì ào ra đón mừng người anh hùng của xứ sở. Chàng cảm động trước tình nghĩa dân làng. Chàng đem số vàng bạc châu báu mà Trời ban thưởng, chia cho dân làng. Chàng dành cho mẹ một viên ngọc minh châu để ghi lại tấm lòng nhân hậu của mẹ đã sinh ra nuôi dưỡng chàng thành người có ích cho dân tộc. Gióng kể lại cho dân làng nghe chuyện chàng lên trời được trời ban thưởng. Nhiều người xuýt xoa tiếc của, tiếc cuộc sống thần tiên. Chàng nói với dân làng:
- Tôi từ đây ra đi giết giặc. Giặc tan rồi thì nơi tôi về là ở đây. Nếu chỉ ham danh vọng, bạc vàng mà quên mất cội nguồn thì đâu có đáng làm người.
Dân làng Gióng mở hội mừng người con tài ba trí dũng đã xả thân cứu nước cứu làng.
Vua Hùng được tin Gióng trở về, liền triệu Gióng vào kinh đô. Vua phong ông là Phù đổng Đại vương. Khi nào trăm tuổi sẽ hiển Thánh, được các làng quanh vùng Sóc Sơn thờ phụng. Tuy nhiên, nhân dân đã tôn thờ ông Gióng ngay khi ông còn sống và gọi ông là Thánh Gióng.

VÌ SAO NÚI TẢN VIÊN LẠI THẮT CỔ CHÀY?
Sau khi thắng Thủy Tinh, Sơn Tinh đưa công chúa Mỵ Nương về sống trên núi Tản Viên. Thần tuyên bố rằng: “Từ nay, ta cùng muôn dân sẽ sống cuộc đời thái bình hạnh phúc, không còn kẻ thù nào dám quấy nhiễu nước ta”
Thế là từ đấy, ngài cùng các quan chỉ chăm hưởng lạc thú ở đời. Tháng ngày yến tiệc triền miên. Nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng. Sưu thuế nặng nề, dân tình ai oán, quân đội tan dần, tướng lĩnh già yếu. Hiểm họa mất nước bày ra trước mắt. Cũng có những trung thần nghĩa sĩ, những thảo dân sáng suốt, thấy được nguy cơ dâng sớ can ngăn, nhưng Sơn Tinh và triều thần vẫn trượt theo lối sống xa hoa mê muội. Thậm chí, ngài còn đuổi tất cả những văn thần võ tướng tài ba dám can ngăn những việc làm nguy hại của ngài.
Trong khi đó thì Thủy Tinh lại hành động hoàn toàn ngược lại. Từ khi thua trận. Thủy Tinh cảm thấy vô cùng đau đớn, tủi nhục và quyết nuôi chí báo thù. Việc đầu tiên ông ta làm là chấn chỉnh bộ máy nhà nước. Ông đuổi hết bọn quan lại bất tài, nịnh bợ, tham nhũng. Ông tuyển chọn và quý trọng nhân tài. Ông tăng cường sức mạnh cho quân đội. Những thần sông, thần biển, hà bá… đều phải nhập ngũ và luyện tập võ nghệ. Những võ tướng kiệt xuất được giao cho trọng trách chỉ huy quân đội. Các tướng đều phải giỏi binh thư và trận pháp. Việc quan trọng nhất để làm cho nước mạnh là phải làm cho dân giàu. Thủy Tinh chăm lo bồi dưỡng sức dân. Ông miễn bỏ nhiều thứ thuế vô lý. Ông lo phát triển nền giáo dục, ông tập trung nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học chiến tranh, nên đã tạo ra nhiều thứ vũ khí mới có sức mạnh ghê gớm.
Thấy mình đã có đủ sức mạnh, ông ta triệu tập văn quan võ tướng về long cung bàn việc báo thù. Cả triều thần đều quyết tâm rửa hận nên sức mạnh được nhân lên.
Thủy Tinh hạ chỉ:
“Các ái khanh văn võ của ta! Hẳn các khanh cũng như ta chưa thể quên cái nhục thua trận và luôn luôn nuôi chí báo thù. Hơn mười năm nay, ta cùng các khanh và thần dân đã cần kiệm để xây dựng lực lượng. Đến nay, ta đã có đủ binh hùng tướng mạnh, đủ lương thực dồi dào, lại được toàn dân đồng lòng dốc sức. Ta tin chắc lần này ra quân sẽ đánh bại được Sơn Tinh. Nhưng để nắm chắc tình hình quân địch, ta đã cho tướng Cua Kềnh đi dò thám nội tình sơn quốc. Nay bá quan hãy nghe tướng Cua Kềnh báo cáo chi tiết”. Thần cua tâu hết về sự sa đọa và yếu đuối của triều đình Sơn Tinh. Đặc biệt là sự mất cảnh giác, chủ quan, mê muội. Nghe xong, Thủy Tinh ra lệnh: Muốn thắng Sơn Tinh, ta phải có kế hoạch phá rừng, vì rừng là trở ngại lớn chống lại sức phá hoại của nước, đồng thời là địa bàn cư trú của dân. Muốn phá được rừng thì phải đốt rừng, chặt gỗ. Hai việc này không khó. Đốt rừng thì ai cũng có thể làm được, còn chặt cây thì chẳng phải thần dân của Sơn Tinh đã và đang chặt gỗ phá rừng đó sao? Xem ra, rừng ở Nam quốc đã bị phá đến cạn kiệt rồi mà Sơn Tinh vẫn chưa tỉnh ngộ. Đó là những thuận lợi cho ta, kế hoạch đánh phá Sơn Tinh lần này cũng phải thay đổi. Ta không chỉ đánh phá ở nhiều nơi để Sơn Tinh không ứng cứu được nhau. Ta sẽ đánh từ trên núi xuống đồng bằng lũ quét, lũ sông. Mưa thật to, thật lâu làm ngập lụt đường sá, chia cắt cô lập mọi vùng. Ta lại dâng nước biển lên làm cho thủy triều lớn mạnh, dồn nước các cửa sông phải chảy ngược dòng, hình thành thế trận hai đầu kẹp lại. Kết hợp với mưa lũ là gây bão lớn để lay đổ mọi nhà cửa, cây cối, phá vỡ mọi đê điều cầu cống, đường sá,  mùa màng làm cho đất nước của Sơn Tinh phải kiệt quệ, đói khát, tan vỡ. Về thời gian tiến công cũng thay đổi. Ta không đánh phá vào mùa hè, thu như trước kia. Vì vào mùa này Sơn Tinh đã chuẩn bị đối phó. Ta sẽ tấn công vào cuối thu, đầu đông. Mùa này đã rét, mà rét thì chỉ có lợi cho ta, có hại cho quân địch. Bị rét, quân Sơn Tinh sẽ hết khả năng chiến đấu. Để thực hiện được kế hoạch này, ta hạ chỉ cho các tướng như sau:
- Các Thái tử con ta, chia về các vùng hút nước, từ biển lên đầy bầu trời, sẵn sàng đổ nước xuống.
- Thần gió ở phương Bắc dồn gió mùa Đông Bắc về xích đạo để gặp dải hội tụ Đông Nam, gây mưa to rét đậm nhiều ngày.
- Thần Biển ở phương Đông, hình thành những cơn bão biển, đem mưa từ biển vào và dâng cao thủy triều để bắt các dòng sông chảy ngược, gây ngập úng mênh mông. Còn toàn bộ quân đội do ta chỉ huy đánh nhau với Sơn Tinh ở vùng núi Tản, làm cho chúng không ứng cứu được nhau. Nhất định chúng sẽ thất bại.
Nghe xong, các quan đều nhất trí hô lớn:
- Long Vương sáng suốt!
- Long Vương vạn tuế!
- Long Vương tất thắng!
Ba ngày sau, chiến dịch mở màn. Trong khi đó Sơn Tinh vẫn mải mê hưởng lạc. Những ngày đầu mùa đông lạnh giá, người ta thấy bầu trời đầy mây đen, sũng nước. Gió Bắc tràn về từng cơn buốt lạnh. Biển động ầm ầm, sóng cao hung dữ sẵn sàng nhấn chìm bất cứ vật nào dám đương đầu. Phía Đông Nam hình thành nhiều cơn bão lớn, dâng triều cường chặn các cửa sông.
Mở đầu trận đánh lớn là hàng vạn tiếng sét lớn long trời lở đất. Bầu trời như được dệt bằng những tia lửa điện giật liên hồi.
Tiếp theo sấm sét là mưa gió mịt mù. Đất trời tối đen như muốn vỡ ra muôn mảnh. Nước đổ! Thác đổ! Núi đổ! Đất đá sụp xuống, bật lên cuốn theo dòng nước hung dữ đục ngầu.
Lũ quét bắt đầu đánh miền rừng núi trơ trọi, cuốn theo các làng bản trên đường nó đi qua. Nước các triền sông dâng lên nhanh chóng. Nước lao nhanh như ngựa chiến điên cuồng phá vỡ các đê đập ven sông. Gió bão làm nghiêng trời, nghiêng biển, lật đổ, bốc đi, hất tung tất cả cây cối nhà cửa. Tất cả vũ trụ đều là nước. Tạo sức mạnh cho nước là gió. Tạo uy vũ cho nước là sấm sét đánh ngang trời dọc đất. Bốn mặt nước dâng cao vây hãm đánh vào núi Tản Viên.
Lúc này Sơn Tinh cùng triều thần mới giật tỉnh giấc mê hưởng lạc. Vua tôi cuống cuồng tìm cách chống đỡ. Nhưng than ôi! Tướng tài chẳng có, quân sĩ nát tan, dân tình phiêu bạt. Xung quanh vua chỉ rặt một lũ tiểu nhân bất tài, tham nhũng. Vua tôi dìu dắt nhau chạy dài lên đỉnh Tản Viên. Thủy Tinh đắc thắng đem quân truy quét. Nhưng vì núi cao đường hiểm, cộng với sự chống cự tuyệt vọng của Sơn Tinh, nên tiến đến lưng chừng núi thì Thủy Tinh phải dừng lại. Hai bên giao chiến hàng tháng trời ở lưng chừng núi. Sóng đánh, đá lở đất nhào, tạo nên một vòng đai nước hòng cắt ngọn Ba Vì. Nhưng sức Thủy Tinh cũng có hạn, không sao cắt nổi. Ông ta đành rút quân về, để lại trên mặt đất một cảnh hoang tàn, chết chóc. Từ đó núi Tản Viên bị thắt cổ chày ở giữa. Ấy là chỗ giao chiến của hai thần do vòng đai nước tạo nên.
Sau trận thua đậm này, Sơn Tinh đã thấy rõ lý do thất bại. Ông thay đổi cách nghĩ, cách sống, ông cải tổ triều đình, tuyên triệu người tài, phế bỏ phường gian nịnh. Ông xây dựng quân đội, bồi dưỡng sức dân. Ông ra lệnh trồng rừng trong cả nước. Ông xử chém các quan kiểm lâm tham nhũng và bọn lâm tặc phá rừng. Ông cải tạo môi trường, sửa sang đê đập, đường sá. Bài học thua trận ông nhớ muôn đời.
Thủy Tinh vẫn không quên hận cũ. Ông ta chỉ chờ cơ hội là sẽ cho Sơn Tinh bài học tiếp theo. Ông ta mở hội mừng chiến thắng. Trong khi cao hứng, ông ta nâng cốc rượu to và tuyên bố: Sơn Tinh hãy coi chừng! Ông đổ cốc rượu xuống, khiến cả biển nước đại dương chuyển động như muốn lật nghiêng trái đất, bầu trời. Chả trách các cụ xưa đã xếp nước là loại giặc mạnh nhất trong bốn loại giặc: Thủy - Hỏa - Đạo - Tặc.
LÝ THÔNG TỰ BÀO CHỮA TRƯỚC TÒA ÁN DIÊM VƯƠNG
Lại nói về chuyện: Mẹ con Lý Thông được Thạch Sanh tha tội. Chúng trở về quê, nhưng Ngọc Hoàng đã sai Thiên Lôi đánh chết ở trên đường. Hồn ma chúng bị quỷ sứ điệu về âm phủ quy án. Vào đến cửa ngục đầu tiên, hai mẹ con hắn bị bốn tên quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa cầm đao kề vào cổ dẫn đi. Qua 18 địa ngục, cảnh rùng rợn hiện ra vô cùng khiếp đảm. Tiếng đao búa chặt đầu người chan chát. Tiếng vạc dầu sôi sùng sục. Tiếng kêu thét inh ỏi, tiếng quát tháo ầm ĩ, tiếng hổ gầm rợn óc… Mẹ con Lý Thông khiếp vía, nghĩ đến lúc mình sẽ bị tra khảo, Lý Thông muốn chết ngất. Lý Thông móc trong túi ra một ít vàng. Cười cười bảo quỷ sứ:
- Hì hì, ông anh nhận cho chút quà! Cho em về, em sẽ hậu tạ.
Quỷ sứ trợn mắt, hất tay hắn, rồi lôi mẹ con hắn đi. Qua những ngục tối om om đầy sợ hãi, quỷ đưa hai mẹ con hắn đến một nơi rộng rãi, nhưng cũng không sáng sủa được là bao. Quỷ sứ quát:
- Quỳ xuống!
Mẹ con họ Lý run rẩy quỳ xuống trước một cái ngai làm bằng xương người. Trên ngai, Diêm Vương ngồi bệ vệ, được che khuất bằng một tấm rèm. Bàn tay đen xì vạm vỡ của Diêm Vương đặt trên hai cái đầu lâu trắng hếu. Quanh Diêm Vương là những quan văn, quan võ và quỷ sứ mặt mày dữ tợn. Diêm Vương cất giọng hỏi lớn:
- Lý Thông! Tại sao hai mẹ con ngươi lại bị đày xuống đây? Lý Thông chắp tay, lê đầu gối đến trước Diêm Vương và bằng một giọng điệu giả dối, pha chút sợ hãi tâu lên:
- Dạ! Dạ! Thưa Diêm Vương, con bị chết oan chỉ vì thằng Thạch Sanh và ông vua ngu dốt trên trần thôi ạ! Diêm Vương “hừ” một tiếng rồi hỏi:
- Mọi việc như thế nào?
Những giọt nước mắt gian giảo của Lý Thông chảy ra. Hắn sụt sùi kể:
“Muôn tâu! Chuyện dài lắm ạ! Vua trên trần bị một con trăn tinh bắt cống nộp mỗi năm một người con trai. Lần đó, đến lượt con phải đi nộp mạng. Con đã trổ hết tài năng chém chết được trăn tinh trừ hại cho dân và được vua phong cho làm quan. Mọi người chúc tụng con rối rít, nhưng con vẫn khiêm tốn đâu có khoe khoang (Hắn ngừng kể để lau nước mắt. Diêm Vương đập mạnh vào cái đầu lâu, quát: “Kể tiếp đi!”. Lý Thông giật thót, đưa mắt nhìn mẹ. Mẹ hắn hất cằm ra hiệu. Lý Thông lại quay lên, tuôn ra những lời dối trá:
- Dạ! Dạ! Con xin kể tiếp: “Trong triều đình có nàng công chúa Quỳnh Nga, xinh đẹp vô cùng. Một hôm, nàng bị một con đại bàng bắt đi. Con đã cất công tìm kiếm và đem được công chúa về. Con đã phải trải qua bao gian khổ nguy nan. Còn Thạch Sanh đã không làm được gì, mà lại ăn cắp của cải của nhà vua. Con bắt được đã giam hắn vào ngục. Thế mà hắn đã dùng tiếng đàn để lừa vua. Vua ngu dốt đuổi con về, và gả công chúa cho hắn… Thật là bất công…
- Câm miệng! - Diêm Vương quát - Ngươi định dùng miệng lưỡi xảo trá để lừa bịp ta chăng? Ngươi nói rằng ngươi chém chết trăn tinh và đại bàng phải không?
- Dạ thưa đại vương, đúng là như vậy! Con đã chém được hai con yêu tinh này để trừ hại cho dân - Lý Thông hí hửng.
- Vậy, quỷ sứ đâu! Hãy cho hồn hai yêu quái vào!
 Lý Thông hoảng hốt, nhưng biết làm sao!
Đại bàng, trăn tinh quỳ trước mặt Diêm Vương.
Diêm Vương hỏi chúng:
- Hai ngươi có quen biết người này không?
Trăn tinh, đại bàng ngơ ngác nhìn Lý Thông rồi tâu:
- Thưa Đại Vương: Chúng con quả thật không hề quen biết hắn.
Diêm Vương cười mỉa:
- Thế mà người này đã khai với ta rằng: Chính hắn đã chém chết bọn yêu quái chúng bay đó!
Cả hai yêu tinh đều thốt lên:
- Ôi! Thạch Sanh! Thạch Sanh!
- Hai ngươi có nhận được mặt Thạch Sanh? Diêm Vương hỏi:
- Thưa Đại Vương - Trăn tinh tâu: Thạch Sanh là lực sĩ tài ba, võ nghệ siêu quần, hắn có bộ mặt đỏ, đôi mày xanh, hắn đã giao đấu và hạ thủ chúng con. Làm sao chúng con quên được! Nhưng tên này đâu có phải Thạch Sanh.
- Người này là Lý Thông nhưng chính hắn đã khai rằng: Hai ngươi bị chết về tay hắn.
Đại bàng tức giận nói: Thưa đại vương, chúng con dẫu bị giết, nhưng là bị chết về tay kẻ anh hào, chứ đâu có chết về tay một kẻ hèn hạ như Lý Thông này!
Diêm Vương nói: Muốn biết sự thực, ta cho Lý Thông lần lượt giao đấu với hai ngươi. Nếu Lý Thông đánh thắng hai ngươi thì điều Lý Thông khai với ta là đúng. Lý Thông sợ cuống cuồng vội tìm cách từ chối:
- Thưa đại vương: Con từ khi bị sét đánh chết, đã mất hết sức mạnh rồi, bây giờ mà thi đấu thì tất nhiên con sẽ thua. Xin đại vương xá cho. Vả lại con không đấu với kẻ đã thua.
Diêm Vương lại phán:
- Lý Thông nghe đây! Ngươi giết chết trăn tinh và đại bàng bằng thứ vũ khí nào vậy!
- Thưa đại vương, con giết chúng bằng một con dao lớn.
Đại bàng vội hét lên:
- Tên Lý Thông xảo trá kia, ngươi nói rằng ngươi chém ta bằng dao lớn ư? Đó là điều nói láo. Ta bị Thạch Sanh bắn chết bằng mũi tên thần, rồi bị hắn chặt đầu bằng búa, dấu vết vẫn còn trên cổ ta đây.
Diêm Vương nói:
- Quỷ sứ đâu! Hãy kiểm định vết thương của yêu tinh ngay!
Sau khi xem xét vết thương trên cổ yêu tinh, quỷ sứ tâu: Thưa đại vương, trên cổ nó có dấu vết của tên bắn và dấu chém bằng búa chặt củi.
Lý Thông gào lên:
Thưa đại vương, hai yêu quái này muốn giữ sĩ diện nên cố tình bảo bị chết về tay Thạch Sanh để báo hại con. Con mong đại vương minh xét.
Diêm Vương phán:
- Ta hỏi Lý Thông, khi ngươi xuống hang để giết đại bàng, ngươi thấy hang động của đại bàng như thế nào, hãy tả lại cho ta nghe.
Lý Thông luống cuống, nói liều:
- Thưa Đại Vương, khi con xuống hang đại bàng, thì con thấy đó chỉ là một cái hang tối tăm, bẩn thỉu trong lòng núi đá.
- Nói láo! - Đại bàng vội hét to. - Ngươi là tên hèn nhát nói mò. Ngươi đưa Thạch Sanh xuống hang theo dây, rồi khi kéo được công chúa lên rồi, ngươi ra lệnh cho quân lính lấp cửa hang lại định giết chết Thạch Sanh để ngươi đoạt lấy công chúa. Nhưng Thạch Sanh đã giết ta và cứu được Thái tử con vua Thủy Tề bị ta bắt nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh sống mà trở về dương thế được. Chính hắn là do Thái tử đưa hắn về Thủy Cung. Vua Thủy Tề đền ơn hắn nhiều thứ, nhưng hắn đã từ chối hết, hắn chỉ nhận cây đàn Tam Huyền. Và chính cây đàn ấy đã tố cáo hết tội ác của ngươi. Còn cung điện của ta mà ngươi dám gọi là cái hang tối tăm bẩn thỉu ư? Ngươi thật là một tên đê tiện dối trá. Ngươi không xuống hang của ta mà dám bịa đặt làm mất sĩ diện của ta.
Diêm Vương phán:
- Ta cho triệu Thái tử Thủy cung thì mọi việc sẽ sáng tỏ.
Một hồi sau, Thái tử thủy cung vào. Thái tử nghe hết sự việc, rồi chàng tâu rõ sự tình:
- Thưa đại vương, tôi không ưa gì đại bàng vì nó là kẻ thù của tôi, nhưng để đại vương xử án đúng sự thực thì tôi xin nói rằng: Tất cả những điều đại bàng vừa khai là chính xác. Còn những lời nói của Lý Thông là bịa đặt để lừa đại vương mong thoát tội.
- Thế là đã rõ - Diêm Vương kết luận: - Tên Lý Thông đã lừa cả ta. Nhưng còn việc Thạch Sanh lấy trộm vàng bị Lý Thông bắt thì sao?
- Thưa Đại Vương - Trăn tinh tâu: Không phải vậy. Hồi đó, con và đại bàng thù Thạch Sanh đến xương tủy, nên đã lấy vàng  từ kho nhà vua ra bỏ vào chỗ Thạch Sanh nằm để vu cho Thạch Sanh, mong vua giết hắn cho hả giận.
Diêm Vương gật đầu, quay ra hỏi Lý Thông:
- Ngươi còn chối cãi gì nữa không?
Thấy hết đường dối trá, Lý Thông quay ra đổ tội cho mẹ hắn:
- Dạ thưa Diêm Vương, tất cả những việc con làm đều do bà này bày ra cả. Bà bắt con làm vậy là để bà được hưởng vinh hoa phú quý chứ con không có chủ tâm.
Mẹ Lý Thông không ngờ đứa con bất hiếu đến vậy, tức giận phản đối:
- Dạ muôn tâu! Không phải thế ạ! Lý Thông là một tên gian ác. Nó làm tất cả, con không can dự.
Hai mẹ con họ Lý cãi nhau, đứa nào cũng mong thoát lấy thân mình. Diêm Vương quát:
- Quỷ sứ đâu! Hãy cùm hai mẹ con họ Lý lại cho ta. Quan Thái sư! Ông hãy đọc to tờ cáo trạng.
Nghe xong, Diêm Vương phán:
- Bây giờ mẹ con ngươi muốn chọn hình phạt nào?
Mẹ con Lý Thông quỳ xuống van xin. Diêm Vương nói:
- Tội của các ngươi là bất nhân, bất nghĩa, bất hiếu không thể tha thứ được. Các ngươi sợ chết thì ta cho các ngươi được sống, nhưng sống trong dơ bẩn như chính cuộc đời của các ngươi. Mẹ con ngươi sẽ biến làm kiếp bọ hung sống trong bẩn thỉu và bị ngàn đời khinh ghét. Mẹ con Lý Thông thu mình nhỏ lại định kêu van thì bỗng trời sập tối. Sau một vài giây, mọi người chỉ thấy hai con bọ hung to tướng thay vào chỗ hai mẹ con họ Lý vừa quỳ. Bây giờ cứ gặp bọ hung thì ai cũng nghĩ: Đó là mẹ con Lý Thông gian ác.
 19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh sau 34 năm 20 Tháng Ba, 2022 Gần 34 năm, kể từ khi Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh trở về cõi tạm, căn phòng hai n...