Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 2a

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 2a

CHƯƠNG BA
1. Chìa tay ra! - Giọng ông giáo dứt khoát, lạnh lùng - Trò Thừa! Chìa tay ra!
Tôi rụt rè chìa bàn tay nhỏ xíu khiến vết tím mực loang trên lòng bàn tay trông có vẻ như to hơn. Thấy tôi nửa xòe nửa nắm, ông giáo giơ cao cái thước làm bằng nhôm, trừng mắt:
- Xòe hẳn ra! Không xòe ba thước thành sáu!
Phép tính nhân đơn giản buộc bàn tay phải nghe lời. Sau mỗi lần cái thước vụt xuống tôi lại xuýt xoa vì đau. Đến cái thứ ba thì mắt nảy đom đóm, mồm méo vẹo chực khóc. Tôi cố mím môi chịu. Tiếng thầy sang sảng:
- Các trò nhìn đấy mà làm gương! Học dốt lại nghịch! - Thầy quay lại phía tôi - Trò Thừa về chỗ! - Thầy nói theo - Lần sau còn thế thầy cho quỳ gai mít.
Tôi không chối tội, học như thế, nghịch như vậy bị đánh là đúng. Nhưng quả thực cái thước nhôm của ông giáo quá nặng. Về tới nhà, dì lấy dầu cao “Con Hổ” nắn bóp cho tôi hồi lâu mà vẫn để lại ba vết tím ngắt chồng chéo lên nhau giữa bàn tay. Dì xuýt xoa:
- Ai lại đánh thằng bé đến thế này không biết? Cũng vừa vừa phai phải thôi chứ! Dẫu sao nó vẫn là trẻ con. Ngồi khoanh tròn trên phản đọc sách, bố ngẩng lên, kính thầy đồ trễ xuống tận mũi, ngước nhìn đứa con năm tuổi bằng con mắt không kính:
- “Nhân bất học bất tri lý”. Thằng này không trị không được. Không dạy nay mai làm tướng cướp.
Dì sợ bố rút roi dâu cài trên nóc tủ liền kéo tay tôi bảo:
- Xuống bếp dì lấy cơm cho mà ăn.
- Mẹ cháu đâu hả gì? - Chân nhảy lò cò, tay bám chiếc bao thắt lưng dì, tôi hỏi.
- Đấy! Bị đau thế mà lại nghịch được ngay! - Dì ca cẩm rồi trả lời - Mẹ mang rắn về quê, tối mới theo tàu ngược lên. Về đến ga Phúc An chắc đêm?
Từ hồi về tề, nhà tôi không còn ở phố cũ nữa. Bọn Tây dồn những người theo Việt Minh quay về vào một nơi, chia đất theo ô, lập thành một phố Mới để dễ quản. Nơi ở mới không thuận cho việc mở cửa hàng. Vả lại, có bao nhiêu của nả tích cóp được bố mẹ đem ra mua gỗ, ngói làm nhà. Không có tiền dựng lại xưởng làm xe kéo tay, bố rèn moóc, đánh thuổng, chẻ tre đan giỏ bồng trở lại nghề bắt rắn.
Đồn bốt mọc nhan nhãn khắp nơi, thợ bắt rắn các làng đi xa sợ bị Tây nghi là du kích bắt bỏ tù nên chỉ dám quanh quẩn ở đồng nhà. Mẹ mua cóp nhặt được vài chục con, chọn ngày dưng theo tàu hỏa Phúc An - Gia Lâm về quê nội bán cho ông bác họ chuyên mổ rắn ngâm rượu xuất cho những cửa hiệu ở Hà Nội. Còn vào chính chợ phiên Phúc An, mẹ ngồi bán nón.
Chuyện cưới xin của chị nhớn bị lỡ dở vì gia đình ông Quảng Đức Lợi dưới Hải Phòng lánh sang Hồng Kông từ dạo xảy ra chiến sự cuối năm bốn bảy (1947) mãi chẳng thấy tin tức gì. Thương chị, mẹ mua bát họ non lấy tiền sắm cho chị gánh hàng sắt đi bán ở các chợ xung quanh tỉnh.
Chị hai và chị ba vào học ở trường nữ sinh do Pháp mở. Anh trai học ở trường học dành cho nam sinh. Mỗi lần thấy các chị và anh mặc đồng phục đi học tôi thèm lắm, nhưng không hiểu vì sao tôi học dốt thế không biết? Tôi đổ lỗi cho thằng “tên”:
- Tại cậu hám danh đòi đi học sớm nên tớ bị dốt đấy mà.
- Bố nghĩ cậu dốt nên năm tuổi đã phải cho cậu học trước, để lúc đủ tuổi vào trường quốc lập đỡ hổ danh cái tên của tớ.
Như vậy kiểu gì thằng “tên” cũng nói được! Lúc nào đấu khẩu nó cũng là kẻ thắng tôi. Chính vì không đua được mồm nó, tôi đành dùng hành động để chống lại.
Mẹ mua cho cái túi vải màu xanh để đựng sách đi học, tôi lộn trái ra rồi mới cho sách vở vào. Lọ mực thắt cổ bồng bằng sứ trắng, cho mực vào nhỡ có lăn nghiêng cũng không bị đổ, tôi quẳng ở nhà, kiếm lọ thủy tinh thay thế. Thước kẻ mới, tôi lấy đồng chinh mài hết lớp sơn và chữ số, trơ lại phần gỗ nham nhở. Cứ khoảng ba ngày tôi lại nhờ dì bảo mẹ mua bút. Mẹ ca cẩm:
- Thằng này gặm bút thay cơm chắc?
Bố cầm bút săm soi: Hạt gạo ngòi bút tòe làm đôi, con cá mè khắc ở lòng ngòi toác thành hai mảnh; đuôi quản bút bị hàm răng tôi nhai giập như đầu chổi xể. Bố rút roi dâu trên mái nhà bắt tôi nằm trên giường, kéo tụt lưng quần xuống. Mỗi tội ba roi, tổng cộng hàng chục roi. Tùy theo từng hôm, lúc vụt ba, lúc vụt năm. Số còn lại bố cho nợ. Nếu cứ tính nợ, mỗi kỳ học tôi còn nợ bố đến mấy nghìn roi.
Sau mỗi lần tôi bị bố cho ăn roi, các chị và anh trai xanh lét mặt đứng nhìn. Mẹ tảng lờ như không biết, nhưng mắt lại đưa sang nhìn dì ra hiệu. Dì đến bên bố:
- Thôi! Anh cho thằng Thừa nó chịu. Nếu lần sau còn phạm phải, anh đánh cháu gấp đôi.
Bố lừ lừ cài roi lên mái nhà. Dì nâng tôi dậy, kéo quần che những vết lằn như lươn như chạch trên mông, đưa tôi ra rửa mặt. Một lúc sau, giọng tôi ê a:
- Hai lần một là hai
- Hai lần hai là bốn...
Bố bảo:
- Có mỗi bảng cửu chương mà học đến hàng tháng trời không thuộc.
Mẹ đến ngồi cạnh tôi, nói:
- Con đừng nghịch, chịu khó học bố sẽ không đánh.
Dì an ủi:
- Cu Thừa học giỏi, hôm nào hội làng Chi Đông dì cho về xem.
Anh trai mon men đến:
- Em cố học sang năm thi vào trường anh, để hàng ngày anh em mình đi cùng.
Ai cũng muốn tôi học giỏi, ngoan. Nhưng mọi người biết đâu rằng tôi cũng muốn lắm chứ! Khốn một nỗi, học khó hơn chơi nhiều. Muốn được một chữ phải bao nhiêu chữ cái ghép vào mới thành. Không như chơi đáo, mỗi đứa chơi góp năm “xèng” thả trúng lỗ, hoặc dùng cái đáo đánh bật quân đáo ra khỏi vạch là ăn.
Nhớ hôm đầu bố đưa đến nhà thầy. Nhà thầy giáo tôi còn lạ gì! Ở ngay chỗ bọn trẻ con hay tụ tập. Bố dáng vẻ rất cẩn trọng. Ông đeo kính trắng, đầu đội khăn xếp, mặc áo the, quần trắng, đi giày da Gia Định dẫn tôi đến. Bảo tôi đứng ngoài cửa chờ, ông bước vào, hai tay vòng lại thi lễ:
- Kính thầy giúp cho việc hôm trước tôi đã thưa.
Thầy giáo vòng tay lại đáp lễ trả, rồi mời bố ngồi xếp vòng cùng ông trên phản:
- Tôi gốc là thầy đồ. Vì chưng thời vận xoay vần nên đành phải theo quốc ngữ. Cũng là bất đắc chí. Nhưng cũng đủ chữ để dạy. Thôi được, nể tình cùng trong Hội tế, tôi nhận răn bảo cháu giúp ông. Ông cho cháu vào nhận thầy.
Bố quay ra cửa gọi:
- Thừa đâu? Vào chào thầy giáo đi con.
Tôi sợ sệt bước vào, lí nhí mấy câu trong miệng, không dám ngẩng mặt vì sợ thày nhận ra đấy là thằng bé chuyên môn hò hét trước cửa lớp thầy dạy học, nhiều lần ông phải dùng đến gậy xua bọn tôi đi cho khỏi ồn ào. Chợt thầy nói to:
- Trò Thừa?
- Dạ... - Tôi ấp úng.
- Phàm là quân tử, ăn nói phải rõ ràng minh bạch. Chào lại!
Tôi vòng tay chào. Ông cao giọng:
 - Chưa phải giọng của trang nam tử đứng chữ Đinh. Nói lại, nói to lên!
Lần này tôi nói to như gào:
- Con - chào - thầy - ạ!
- Được! Cho trò Thừa lui.
Tôi quay ra cửa mà miệng suýt bật cười vì cách nói của thầy giáo: Hệt như nhân vật đóng vua hay diễn ở rạp hát trên đầu phố tôi ở. Vai đóng vua mỗi lần nghe xong cũng nói câu:
- Cho bay lui!
Buổi nhập môn và bài học đạo lý đầu đời mà tôi được dạy là như thế!
Bố cùng thầy giáo đàm đạo lâu lắm. Đứng ngoài được một lúc, chờ mãi chẳng thấy bố ra, tôi mon men đi vào ngôi nhà lợp lá dùng làm lớp học.
Tôi hay đến ngõ này chơi, nhưng chưa bao giờ vào đây. Nóc nhà mạng nhện chăng như lưới vó treo bán ngoài chợ. Trên vách trát đất treo tấm bằng lam nham chỗ đen chỗ bạc phếch, dưới chân bằng treo một mớ giẻ rách khô cong; trong nhà kê lổng chổng mấy bộ bàn ghế, mực tím đỏ như máu quả mùng tơi nhoe nhoét. Tôi ngồi xuống, tay thọc vào ngăn bàn vớ được một cục phấn. Tiện tay vẽ lên mặt bàn mấy nét chẳng ra hình thù gì.
Thằng “tên” thấy vậy hỏi:
- Cậu vẽ rắn hay lươn của nhà mình à?
- Rắn hay lươn là việc của tớ! Can gì tới cậu? - Tôi đáp trả lời.
Thằng “tên” cao giọng:
- Nói thế là không đúng rồi! Bố nộp khai sinh mang tên Nguyễn Văn Thừa vào trước xong mới đến lượt cậu vào đây nhé!
Tôi tảng lờ coi như không nghe thấy, trong lòng bực tức: “Đã đẻ ra rồi lại còn phải đặt tên. Cứ như mình thì mình cóc cần!”. Như đoán được ý nghĩ của tôi, Thằng “tên” nói:
- Trên đời này ai sinh ra cũng phải có tên.
- Cần tên để làm gì? - Tôi vặn lại.
- Có tên để phân biệt giữa người này với người kia -
Thằng “tên” giảng giải - Đặt tên để con ngưòi phải có trách nhiệm với dòng họ của mình. Làm rạng rỡ hay bôi nhọ dòng họ là tại chính con người do mẹ đẻ ra và cái tên do bố đặt ra. - Thằng “tên” giảng giải - Trên đời này, tất cả đều là loài, nhưng chỉ có loài người mới có họ, có tên, còn các loài khác đều không có, cậu hiểu chưa?
Tôi cãi lại bây bứa:
- Cậu bảo chỉ con người mới có tên. Thế sao con chó nhà mình được đặt tên là Lu; con béc giê của lão Đội Tây gọi là Bốp? Con ngựa của lão người Tàu tên là Hồng Ô?
Không ngờ đòn phản công của tôi lại có hiệu quả, Thằng “tên” nghe chừng tắc tị, rụt vào chỗ ẩn thường ngày trên người tôi, lơ lơ ra vẻ không nghe thấy.
2. Trước khi đi Châu Lam thăm hồ Đại Ngọc, Nguyễn Thừa rủ Hải Linh:
- Ăn sáng xong hãy đi!
Dãy hàng ăn ở trong con phố nhỏ nằm giữa trung tâm thị trấn. Nguyễn Thừa rất thích tới đây ăn. Không những bởi các hàng ăn ở đây sạch sẽ, nấu ngon, mà còn vì mỗi lần đến, ký ức của anh lại trở về thuở ấu thơ. Nơi đây, nhà cửa đã thay đổi, nhưng đường phố vẫn giữ nguyên chia theo ô bàn cờ từ hồi Pháp tạm chiếm. Con đường và khu phố nhỏ gợi cho anh nhớ lại bao khuôn mặt bạn bè, vòng xoắn xoáy tít của con quay sừng; vệt bi lăn để dấu trên mái cát mịn màng; đồng xanh-căng và tệp xu đồng cùng những bàn tay lấm lem mực tím xúm quanh lỗ đáo. Lớp học, nơi anh tập tọng đọc những vần quốc ngữ đầu tiên cách đây mấy chục năm, nay là một quán phở ngon có tiếng ở Phúc An.
Mọi lần Nguyễn Thừa đi vào, thể nào cũng nhao nhao những lời mời:
- Bác ăn bún riêu?
- Bác xơi hộp gà tần?
- Bánh cuốn nóng, bác?...
Nhưng hôm nay tuyệt nhiên không một lời chào hỏi. Rặt những con mắt tò mò nhìn hai người. Nguyễn Thừa biết tại mình đi cùng với Hải Linh. Một cô gái trẻ lạ hoắc, đèo một ông già cỡ tuổi cha chú đưa nhau đi ăn. Ở đâu chứ ở thị trấn này, điều đó đối với anh và ngay cả đối với những người biết anh cũng thấy lạ lùng.
Cô bán hàng từng thuộc cả khẩu vị ăn quen của anh cũng giương mắt đứng nhìn. Cô còn trẻ, nhưng trẻ so với Nguyễn Thừa chứ thực ra có lẽ phải hơn Hải Linh đến hàng chục tuổi. Cô mải nhìn quên cả múc nước phở chan vào bát cho khách. Mấy chàng thanh niên, khách quen ăn cùng quán lẳng lặng cúi xuống bát phở, mắt liếc trộm sang hai người. Nguyễn Thừa biết, nếu như mọi bận thể nào mà chúng chẳng lên tiếng: “Chào bố” inh ỏi cả quán. Nhưng hôm nay…
Nguyễn Thừa quyết định mở “đột phá khẩu”:
- Quên cả chào nhau rồi hả các bạn?
- Tại bố hôm nay... lạ quá! - Một cậu thanh niên tuổi chừng đôi mươi nói.
- Lạ là lạ thế nào? - Nguyễn Thừa vờ hỏi, nháy mắt với Hải Linh.
- Thôi anh! - Hải Linh nói nhỏ. Rồi cô ra chỗ người bán hàng - Chị cho xin hai bát. Một bát đừng cho bột ngọt.
Tranh thủ, một cô bé đang húp nước phở xoàm xoạp, ngừng húp ngẩng lên hỏi:
- Bác với cô ấy là thế nào?
Nguyễn Thừa đáp:
- Là bạn!
- Eo ôi... - Kêu xong cô bé quay lại bát phở, tiếng xoàm xoạp lần này hình như nghe to hơn.
Quán đông người, Hải Linh tháo chiếc máy ảnh KÔĐAT đặt xuống gầm bàn, cố lấy bình tĩnh ngồi xuống nhưng vẫn thấy mặt mình nóng ran. Nguyễn Thừa hỏi:
- Đây có phải quán phở em kể không?
Hải Linh cau mày không đáp. Nguyễn Thừa biết câu hỏi của mình rất vô duyên. Chờ người phục vụ rời đi, anh nói với Hải Linh như một lời xin lỗi:
- Anh chợt nhớ ra chứ không có ý...
- Có gì đâu! Thôi, ăn đi anh.
- Hay là em ngại? - Nguyễn Thừa gặng.
Hải Linh gắp sang bát anh mấy miếng thịt.
- Em không có thói quen ân hận việc mình đã làm.
Lúc hai người lên xe đi còn nghe tiếng nói theo:
- Được đấy!
- Già còn chơi trống bỏi!
- Dân văn nghệ mà lại...
Ra khỏi thị xã Hải Linh nói:
- Từ ngày ấy đến bây giờ em mới lại ăn phở ở đây. Cũng là cái quán ấy, nhưng trước kia là một ông già bán. Chắc ông ấy chết rồi?
Hai người dừng lại, cho xe rẽ vào cây xăng. Nguyễn Thừa bảo người bán hàng: “Đổ cho tôi thật đầy bình”.
Người bán xăng hỏi:
- Chắc hai bố con bác đi xa?
Nguyễn Thừa nhìn đồng hồ, móc ví lấy tiền, không thèm trả lời. Khi ra khỏi cây xăng, Hải Linh đập tay nhẹ lên lưng anh:
- Chuyện vặt, nghĩ làm gì anh! - Rồi cô nhắc - Hôm nay ngày nghỉ, thanh niên nam nữ ở Hà Nội vào hồ chơi đông lắm đấy, anh đi cẩn thận.
Vào tới hồ, hai người thuê thuyền bơi ra Đảo Khỉ. Đi sâu mãi vào giữa đảo, không thấy bóng dáng một chú khỉ nào. Hải Linh ca cẩm:
- Mang tiếng là Đảo Khỉ mà chẳng thấy một mống nào!
Nguyễn Thừa dí dỏm:
- Có hai con khỉ thì đã tiến hóa thành người cả rồi, còn lấy đâu ra khỉ nữa mà tìm?
Cả hai cùng cười, tiếng cười vang khắp vùng hồ. Chọn một bãi cỏ Nguyễn Thừa ngồi xuống:
- Bây giờ em kể tiếp cho anh nghe đi.
“Ngoài rạp cưới - Hải Linh kể - Một tốp bạn nghề đến muộn uống rượu sau cùng, tiếng chú rể và khách nâng cốc chúc tụng nhau sặc sụa mùi men. Em lấy lý do mệt xin phép vào buồng nằm nghỉ. Một tay thợ chụp ảnh nhìn theo cười ngả ngớn:
- Cô dâu làm gì mà vội thế? Để cho chú rể uống rượu chịu phạt đã. Đêm tân hôn còn dài.
Để một mình chú rể tiếp khách, em vào buồng nằm ệch xuống giường. Tấm gương gắn ở tủ đầu giường in hình mặt vải ga trắng muốt, chiếc gối đôi thêu hoa hồng và đôi chim cắn mỏ nhau quấn quýt. Chiếc màn tuyn dệt muôn ngàn lỗ tổ ong lấp lánh dưới ánh sáng của bóng điện. Trên tường, dưới chữ “hỉ” và chữ lồngtên cô dâu chú rể cắt bằng xốp trắng là bức tranh hai đứa bé hồng hào ngồi khoanh tròn giữa cây cải bắp, trên đầu đội tàu lá thay mũ trông thật ngộ nghĩnh. Gian phòng thoảng mùi nước hoa. Tất cả thuần khiết trắng trong.
Nhìn những thứ người đàn ông chuẩn bị cho đêm hưởng thụ hoan lạc đầu tiên, em thấy lòng day dứt. Liệu em có quá tàn nhẫn không? Em tự thấy mình không xứng với sự tinh khôi ấy. Ồ... Có sao đâu! Trước khi cưới em, tay thợ chụp ảnh trong trắng gì cho cam? Biết bao đứa con gái và những cuộc tình đã qua tay người đàn ông lọc lõi ấy rồi. Em là kẻ thứ bao nhiêu? Em cố tìm lý do bôi xấu hình ảnh chú rể để biện bạch cho mưu mô và hành động của mình.
Như con thú bị dồn vào ngõ cụt, buộc phải tìm cách thoát thân, em cần một điểm tựa danh dự, cần có người ở vị trí làm chồng để ngụy tạo cho một chỗ đứng trong xã hội. Mầm sống em mang trong người cần có một chỗ dựa để tồn tại.
Mục đích đưa tay thợ chụp ảnh vào tròng, là kẻ lĩnh “trách nhiệm” cái hình hài trong bụng bảo vệ danh dự cho bố mẹ với họ hàng, làng xóm đã hoàn thành. Nhưng đổi lại, khi đối diện với trinh bạch, sự ô uế hiện ra thật bẽ bàng. Em thấy lòng mình day dứt, trái tim hụt hẫng, trống rỗng. Thay cho hưng phấn, là nỗi xót xa thảm hại.
Nhưng, như kẻ đã cưỡi lên lưng cọp, không thể xuống được nữa, đành phải tiếp tục sự dối trá của mình qua cách học được của nhưng người từng trải. Tay vuốt nhẹ mặt vải mềm, mượt như nhung, nơi em sẽ đặt tấm thân không còn là con gái của mình xuống, móc trong túi ra một cái lọ đựng máu gà đã hãm cho khỏi đông, dốc ra, bôi xuống mặt ga. Những vết nhờ nhờ lổ đổ trên mặt ga trắng như khẳng định sự trinh tiết của một người con gái vừa trải lần thử thách. Sờ thử thấy đã khô, em nằm, mông đè lên vết máu, tay vắt trán say nghĩ, trong đầu phác kế hoạch xử trí mọi tình huống. Phần ngụy tạo hiện trường giả cho sự trinh bạch đã xong, điều bây giờ em sợ là sự từng trải của chú rể. Trước ngày cưới, có người bóng gió xa xôi rằng chú rể thuộc vào loại chơi gái khét tiếng. Em lo việc chung đụng sẽ ảnh hưởng đến cái thai sắp hai tháng. Em đưa tay xoa bụng thì thầm: “Cảm thông cho mẹ con nhé! Dẫu thế nào mẹ vẫn phải làm trọn nhiệm vụ của cô dâu trong đêm tân hôn”.
Gần nửa đêm đám ăn nhậu mới tan. Chú rể loạng choạng bước vào, như bị dồn nén từ lâu, không kìm nổi, chồm qua người, chống tay sang hai bên đắm đuối nhìn em. Đôi tay lần cởi từng chiếc cúc áo. Bỗng nhiên chú rể nhấc bổng em lên, vục đầu vào ngực hà hít. Mớ tóc xoăn của gã cù vào da thịt làm em nôn nao, em vặn vẹo, gã nhẹ nhàng đặt em về chỗ cũ như đặt một vật dễ vỡ. Vết máu gà bôi trên mặt ga gờn gợn ve vuốt lưng em. Đôi mắt chú rể nhỏ như sợi chỉ, đỏ đọc, đắm đuối, mê muội, hơi rượu phá nồng nặc. Em nhắm nghiền mắt mặc cho đôi tay, đôi môi thèm khát sục sạo lên mặt, lên môi và hai núm vú cương cứng trên vầng ngực. Em oằn người từ chối bàn tay nồng nàn khi định cởi nốt mảnh vải bé xíu trên người. Sự phản ứng của em làm bàn tay chú rể ngập ngừng:
- Sao thế em?
- Không, không, anh ra khép cửa, cứ mặc em.
Trong lúc chú rể ra khép cửa, em liếc mắt xuống mặt tấm ga kiểm tra, rồi co chân, tụt nốt cái xi líp, đặt mình đúng vị trí, hai chân khép lại chờ đợi.
Chú rể lên giường, quỳ gối trên đệm, khóe mép đùn ra một đám bọt, mặt đờ đẫn trước vẻ hoang sơ trần trụi đầy cám đỗ. Như kẻ mua được vật quý, mắt ngắm nghía, tay ve vuốt những đường cong mềm mại trên vật thể mình ham thích. Như một kẻ sành chơi hoa, dùng mũi hít hà nhụy hương trước khi tận hưởng. Như con vật kiếm được con mồi hợp khẩu vị, vần vò cho dịch vị tiết ra mới nhấm nháp.
Em oằn người, hơi ưỡn lên khi thân xác đàn ông chạm vào da thịt. Nhiệt lượng tưởng có thể bốc cháy vì sự cọ xát, nhưng không vì thế mà em quên mất vai diễn của mình khi chú rể mang đến hành động ân ái. Em chú trọng cố tình làm sao cho chú rể nhận ra sự sợ sệt các cô dâu có cảm giác “lần đầu bị phá trinh”. Em xuýt xoa rên, thảng thốt tạo ra động thái như người bị dao cứa toạc. Chú rể luồn cánh tay từng trải vòng xuống lưng em siết chặt vì vui sướng và không một chút nghi ngờ. Đang vào vai diễn, đột nhiên, hình ảnh Tổ trưởng và cuộc tình trên bãi cỏ trước sân đình hiện rõ mồn một... Quên bẵng vai mình đang đóng, quên sự e thẹn giả tạo, cơn nứng trong em bừng lên mãnh liệt, tay em vô thức cấu vào lưng chú rể, ghì xuống, gồng lên... Cảm xúc cùng Tổ trưởng trở về trỗi dậy, bạo liệt như nước vỡ bờ tràn ra ào ạt muốn nhấn chìm tất cả.
Trong khoảnh khắc, em hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: ngụy tạo sự trinh bạch, hiến dâng ái tình và hưởng thụ niềm hoan lạc. Đáp lại, chú rể ùa vào dòng chảy, đôi tay ra sức khoát, hai chân đập cuồng loạn trên sóng, rồi bỗng nhiên như vận động viên bơi lội về đích đầu tiên, nấc lên từng hồi sung sướng, thỏa mãn.
Chú rể đã bước đến được vị trí làm chồng và cô dâu đã bước qua ngưỡng để trở thành vợ. Cả hai kẻ đều đạt được mục đích của mình trong đêm tân hôn.
Không ngủ được vì lạ giường. Vả lại, tiếng ngáy rền rĩ làm em khó chịu. Em lấy tay khẽ động vào người chồng. Tiếng ngáy im bặt được một chút rồi lại nổi lên như thợ rèn kéo bễ. Em nhổm dậy tìm quần áo mặc. Tìm được cái áo còn chiếc quần bị chân chồng đè lên. Em lấy tay nhấc ống chân đầy lông lá ra, người đàn ông đổi tư thế nằm, lật ngửa tênh hênh, hai chân dạng háng dạng hếch, cái “của nợ” chun, rụt, quặn quẹo như đầu con chạch bị phơi nắng. Mồm lẩm bẩm ú ớ mê sảng, họng phát ra âm thanh “khục, khục”, mùi rượu nồng lẫn mùi tanh của uế khí xộc lên khiến em buồn nôn. Vớ vội cái quần, không kịp mặc, tụi khỏi giường em mở cửa ra đầu hiên ngồi ọe. Và đấy cũng là lần đầu tiên em biết thế nào là ốm nghén. Ậm ọe mãi bã cả người mà không nôn nổi. Mệt quá, em gục đầu xuống đùi, nỗi buồn vò xé, nước mắt tự nhiên chảy ra xối xả. Quá khứ hiện về như một giấc mơ...
Bố mẹ và họ hàng rất ngạc nhiên khi tay thợ chụp ảnh đèo xe máy em về nhà báo cáo và xin phép cưới. Không đầy một tháng, kể từ lúc gặp lại tay thợ chụp ảnh, đám cưới được tổ chức. Bố mẹ chia cau, báo cho cả làng biết mình có con gái sắp đi lấy chồng.
Đêm trước hôm đón dâu, mẹ nằm ôm em thì thào:
- Con có... rồi phải không?
Em rúc vào ngực mẹ thút thít thú nhận, mẹ xoa lưng nựng:
- Âu cũng là cái số. Có cái lúc con đi lấy chồng, bố mẹ nghèo chẳng có gì làm của hồi môn.
Mẹ không nói hết câu. Bố ngồi bó chân trên phản thở dài:
- Nếu có con sớm, mẹ sẽ lên trông nom cho.
- Chồng nó làm thuê cho hiệu ảnh chứ có phải nhà ở của nó đâu mà lên được?
Em thưa:
- Chồng con bảo: Cưới xong thôi không làm ở đây nữa! Anh ấy về quê mở hiệu ảnh và xin cho con chuyển về công tác ở xã dưới ấy.
- Dưới ấy sao bảo vùng bãi sông Hồng?
Em cười buồn:
- Thì không trồng lúa thì trồng ngô, đỗ tương, rau mầu... Cũng trong ngành nông nghiệp cả mà mẹ.
- Giá ở gần đây vẫn tốt hơn.
Bố góp chuyện:
- Cách có hai chục cây số chứ mấy? Vả lại, con gái là con người ta... - Bố khóa câu ca dao bằng một tiếng thở dài.
Pháo đón dâu nổ vang trời. Xác pháo nở bung, bay như hoa rụng. Đám trẻ con tranh nhau nhặt quả xịt. Đứa đứng gần dây pháo nhà trai đốt bảo pháo nhà trai kêu to; đứa đứng cạnh dây pháo nhà gái cãi pháo nhà gái nổ giòn, chúng cãi nhau chí chóe. Ông cựu Chủ nhiệm kiêm chỉ huy dân quân được bố nhờ làm chủ hôn đành xuống làm trật tự viên dẹp lấy lối cho nhà trai vào.
Chú rể, nơ cài ngực, mặt rạng rỡ, tay ôm hoa đi vào phòng đón cô dâu. Em được một người phụ nữ ăn mặc lối tỉnh do nhà trai thuê mang váy cưới cho em mặc và trang điểm làm cho em xinh đẹp hơn mọi ngày. Chị ta bảo gì em làm nấy, như con trâu, vắt thì vắt, dệt thì dệt... Chú rể dìu em ra chào mọi người cho kịp giờ đón. Tiễn con ra cổng, mặt mẹ thẫn thờ, bố cười gượng như mếu. Cả hai người không muốn chụp ảnh cùng em sợ vì mình mà ảnh xấu. Vợ chồng bác cả phát vốn và căn dặn, em cúi đầu không dám nói, sợ nói sẽ òa khóc, nước mắt túa ra làm phấn son hoen ố khuôn mặt.
Tiếng xe máy nổ và tiếng nói cười của đám phù rể ầm ĩ. Cả đoàn rầm rộ kéo ra khỏi làng như đội quân giành được chiến thắng. Ra khỏi ngõ, ngoảnh lại em nhìn thấy ngọn cây ổi bà trồng trồi khỏi nóc nhà, chùm lá xanh biếc rung rinh như vẫy chào. Em nấc lên nức nở.
Khi tới ngã ba, một ngã rẽ về làng Quyết Chiến và một ngã rẽ về làng Quyết Thắng. Bất giác, linh tính như báo cho em biết có người nhìn. Qua tấm khăn choàng, Tổ trưởng mặt buồn rười rượi, đứng lẫn trong đám đông ven đường xem đám rước dâu. Em quay ngoắt đi coi thường khinh bỉ. Và, như đã trả thù, em xoay lại bó hoa, ngả đầu áp vào lưng chú rể ra vẻ mình hạnh phúc lắm. Đi được một quãng, nhìn lại vẫn thấy Tổ trưởng đứng nhìn theo. Nỗi xót xa, cay đắng, tủi hổ tràn ngập trong lòng em.
Có tiếng trở mình rồi tiếng chồng từ trong buồng vọng ra:
- Em đâu rồi Linh? Vào đây với anh!
Em vội lau nước mắt, đứng dậy. Nhưng cứ nghĩ tới mùi tanh tưởi trên giường cưới lại nhủn cả người. Không thấy em thưa, người đàn ông cứ thế tồng ngồng chạy ra. Em chưa kịp nói đã bị bế thốc lên đưa vào giường. Nỗi đam mê của ái tình và sự cuồng khát mãnh liệt của dục tính cuốn hút em vào cuộc truy hoan. Phút chốc, em quên mình đang ốm nghén.
3. Cứ mỗi khi gió từ vùng núi Thằn Lằn thổi về, sớm sớm giăng mùng trên đường phố Phúc An, hơi lạnh cuối thu nhuộm đỏ lá bàng, gốc cây sần sùi, chuyển sang màu xám bạc. Thi thoảng vài chiếc lá héo sớm lác đác rơi xuống mặt đường đá. Mẹ lại thở dài:
- Sắp đến giỗ bà Lang và Thầy Mo rồi đấy!
Dì lẩm bẩm:
- Giỗ này là giỗ thứ năm.
Bố nói:
- Thoắt một cái đã thành người thiên cổ. Cu Thừa chắc chẳng còn nhớ gì nữa.
Tôi ngồi học bài, tay viết nhưng tai vểnh lên nghe lỏm. Thấy bố nói vậy tôi quay lại:
- Sao con lại không nhớ?
- Nhớ gì mày! Có bài học thuộc lòng còn chẳng nhớ nữa là chuyện xửa chuyện xưa.
Dì nghe hai bố con nói với nhau, quay lại:
- Nếu nó không nhớ, nay mai khi lớn cũng nhắc lại cho nhớ.
Tôi chẳng cần ai phải nhắc! Những gì xẩy ra vào hôm ấy làm sao tôi quên được! Học có thể tôi dốt, và dẫu năm tháng đã trôi qua xa rồi, nhưng hình ảnh về bà Lang với ông Thày Mỏ đã khắc ghi vĩnh viễn vào cái đầu nhỏ bé của tôi.
... Bọn quỉ đội lốt người ngây dại trước sắc đẹp của người đàn bà thân khỏa trần dưới làn nước trong vắt, giữa non ngàn trùng điệp. Bà hất mái tóc lên để lộ khuôn mặt rắn rỏi, đôi mắt căm hờn nhìn thẳng vào lũ quái vật.
Sau cơn ngây lả những tiếng cười sằng sặc. Lũ quái vật ùa đến lôi bà ra khỏi dòng nước. Cả bọn lột phăng áo quần trần trụi như bầy đàn nguyên thủy râu tóc, lông lá xồm xoàm, hiện hình thành lũ quỷ dâm dục. Tồng ngồng điên loạn, miệng hét lên từng âm thanh man rợ sâu chuỗi thành điệp khúc vang dội núi rừng; chúng nhẩy nhót cuồng loạn, chờn vờn quanh con mồi.
Chúng muốn biến bà thành vật hiến tế cho sự ô trọc.
Lũ quỷ vác kim bài của ma vương địa ngục. Lớp ngoài kim bài được che đậy bằng vỏ bọc hào nhoáng; trương khẩu hiệu nhân danh cho nền Văn Minh đến đây “Bảo hộ”, “Khai sáng” mở lối cho Bác ái, Tự do. Trước bà, chúng trần trụi hiện nguyên hình là những kẻ xâm lược, đem chết chóc, tang thương, đau khổ cho dân lành. Chúng muốn đóng đinh lên mảnh đất này cây Thập tự của Tử thần.
Mặt trời lẩn sau những đám mây; chớp lóe sáng, tiếng sấm ì ầm vọng lại. Đất trời cố kìm nén cơn phẫn nộ. Ngàn vạn cây rừng ủ rũ như cờ tang rủ. Mạch nguồn ngập ngừng lúc ào ào lúc ắng lặng...
Nữ Thủy thần sắp bị một bọn người xa lạ từ đâu tới làm hoen ố danh tiết. Như bông hoa rừng bị bàn tay cuồng loạn bóp nát. Như hạt sương long lanh đậu trên vạt cỏ non mềm chứa sắc màu rực rỡ bị bàn chân quỷ Sa-tăng chà đạp.
Bầy đàn man rợ dùng vũ điệu khởi đầu để chuẩn bị cho lễ hội hành quyết. Một thằng quỷ cao to, râu đỏ như râu ngô, ức trần rực như máu, đôi mắt xanh lè như mắt thú bắt đèn tiến đến. Bà lùi lại, liền bị những con quỷ từ phía sau đẩy về phía trước. - Con quỷ muốn bà làm đồ dâng hiến cho thần dục vươn hai bàn tay lông lá về phía bà...
Bỗng từ trong khe suối, một mũi tên căng sức bay, cắm “phập” vào lưng con quỷ. Đôi bàn tay lông lá chưa đặt được lên tấm thân tuyệt đẹp của nữ Thủy thần đã bị ngấm thuốc độc của mũi tên làm cho lỡ đà chới với... Đầu con quỷ ngẩng lên, đôi mắt mở to, từ trạng thái ngạc nhiên đến tuyệt vọng. Cả tấm thân như khối đá gục xuống dưới chân nữ Thủy thần. Máu từ lưng con quỷ phun thành vòi.
Cả bọn bàng hoàng vì sự việc xảy ra quá nhanh, chúng ngơ ngác chưa kịp hiểu ra sao, thì từ rừng xanh, một con người, đầu đội mũ lông chim, lưng khoác nỏ, tay cầm dao dài cán nhảy ra, xông vào giữa lũ quỷ. Con dao bản to, lưỡi sắc như cật nứa, loang loáng như tia chớp đầu nguồn, mạnh mẽ như hổ, như gấu, nhanh nhẹn như con báo, con trăn của rừng núi Châu Lam… Cả nhà tôi cùng reo:
- Thầy Mo!
Thầy Mo hiện thân thành tráng sĩ Thạch Sanh đánh trăn tinh. Con dao: Xưa phát cây làm nương rẫy; nay biến thành vũ khí trừ tà diệt ác.
Tôi ngắm nhìn ông như ngắm nhìn một Thiên tướng trên trời xuất hiện. Hôm qua, ông đuổi thần chết mang sự hồi sinh cho tôi. Hôm nay, ông tung hoành ngang dọc, cứu người đàn bà yếu đuối mảnh mai thoát khỏi bàn tay hung bạo, dâm loàn của lũ quỷ háo dục. Cả bọn quỷ run sợ trước sự xuất hiện đột ngột và oai phong lẫm liệt của ông. Những con quỷ bị ông chém kêu la thảm thiết. Giọng chúng ồ ồ như tiếng bò rống.
Có mấy thằng nhảy đến chỗ để súng, hò gọi nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Tiếng lên đạn “rụp roạp”. Mặc! Thầy Mo quay lại cầm lấy tay bà Lang. Bà chợt nhận ra trên người mình không mảnh vải che. Bà ngượng ngập ẩy tay thầy, hai tay ôm mặt xấu hổ ngồi thụp xuống. Thầy Mo như không để ý, ông giằng tay bà quát:
- Đi nhanh à... Đứng ở đây bọn Tây làm bẩn cái người mình à...
Nói rồi ông kéo bà chạy về phía cửa rừng, nơi có hai cây thông cao vút, ngọn cây như hai mũi dao chĩa thẳng lên trời xanh, còn những cành thấp là là, chìa ra như bàn tay của từng xanh giơ ra đón. Từ xa nhìn, hai người dắt tay nhau, hệt như đôi tình nhân rủ nhau vào rừng tìm nơi tình tự. Bước chân của họ đã sắp tới cửa rừng, họ đã dắt nhau đến chỗ có đường nước dẫn ra. Chỉ còn vài bước nữa cây rừng sẽ che cho họ... Có tiếng súng nổ. Hai người đã chạy đến gần hai cây thông. Thêm những tiếng nổ liên tiếp. Thầy Mo dừng lại đẩy bà Lang chạy lên phía trước, cả thân người ông che cho bà. Bỗng Thầy Mo khựng lại, loạng choạng... Ông cố lấy lại thăng bằng, nhưng người cứ nghiêng như muốn ngã, con dao rơi xuống đất. Bà Lang quay lại, tay Thầy Mo hất hất ra ý cho bà Lang “Chạy đi”.
Bố thảng thốt:
- Thôi chết! Thầy Mo
 trúng đạn rồi.
Bà Lang không chạy. Bà cúi xuống đỡ ông. Ông đưa tay quàng lên vai bà. Máu từ bờ vai ông nhỏ lên tấm lưng trần trắng muốt của bà. Bà nâng Thầy Mo dìu đi... Bỗng lại liên tiếp những tiếng nổ chát chúa. Thầy Mo buông tay ngã xuống, bà Lang oằn lưng, ưỡn người về phía sau giật giật.
Dì lấy tay dụi mắt:
- Không có nhẽ...
Bà Lang cố đứng vững, nhưng không được. Cả thân người bà lảo đảo. Bà xoay lại tựa lưng vào thân cây thông cho khỏi gục xuống, mắt nhướng về nơi gia đình tôi ẩn náu. Cả người bà nhuộm máu. Nắng sang tầm chiều rực rỡ, thân thể bà hồng rực như bó đuốc đang cháy. Một cánh tay gắng gượng giơ lên làm dấu phép.
Hình như trước khi ngã xuống cạnh thân thể Thầy Mo, bàn tay bà vẫy vẫy như muốn gửi lời chào từ biệt những người thân lần cuối?
Cả nhà tôi chết lặng. Gió rừng ào ào thổi, tiếng lá thông vọng vi vút giữa tầng không như tiếng rừng nức nở.
Bọn giặc lăm lăm tay súng, dàn hàng ngang tiến lên. Chúng dò dẫm từng bước.
Chúng sợ người con của núi rừng sống lại, sợ lưỡi thép của con dao rừng vung lên dồn lòng căm hờn vào chúng; sợ đôi mắt chất chứa sự hận thù, sợ ý chí kiên cường, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của nữ Thủy thần. Còn cách một quãng, chúng giương súng, xả đạn như vãi trấu vào chỗ hai người nằm rồi hò nhau rút lui.
Chúng cho thằng chết vào bao buộc túm lại rồi bắt hai thằng khiêng. Bọn què tựa vào bọn lành thất thểu dìu nhau ra khỏi cánh rừng. Một lúc sau, từ phía làng khói lửa bốc rần rần, tàn than bay mù nịt, tre nứa gặp lửa nổ như tiếng súng.
Mẹ hỏi bố:
- Bây giờ làm thế nào?
- Chờ lúc nữa - Bố trả lời - Mình trông các con, tôi ra tắm rửa cho họ rồi tìm cách chôn chứ bỏ mặc thế nào được.
Dì nói:
- Em ra cùng anh.
Mẹ lắc đầu:
- Cả nhà cùng ra. Ơn nghĩa lắm mọi người ơi! - Nước mắt mẹ rơi lã chã.
Người lớn thì không nói làm gì. Riêng chị hai, chị ba và anh trai đã từng nhìn thấy chó gặm xác người, tranh nhau với người chết trôi một cây chuối hồi năm bốn nhăm nên không sợ. Chỉ còn tôi là chưa bao giờ thấy cảnh người chết. Biết tôi có ý sợ, thằng “tên” khích bác:
- Cậu vãi tè ra rồi chứ gì?
Lòng tự trọng của tôi bị tổn thương:
- Đứa nào sợ chứ thằng này không sợ!
Lời tôi nói quả quyết, thằng “tên” im bặt, tịt ngắc.
Bố hỏi:
- Còn nắm hương nào không dì?
- Có đấy, nhưng lúc vội chạy, em không kịp mang theo.
Bố im lặng đi trước, đến gần chỗ hai người nằm. Bố dặn:
- Tất cả ngồi đây, chờ rửa ráy cho hai người xong, mọi người hãy đến trông mặt lần cuối coi như là phát tang.
May nhất là chỗ hai người ngã xuống gần khe nguồn. Bố kéo ống bương nước chảy lại gần. Máu sệt đông lại từng đám. Bố lấy khăn rửa mặt, lau người cho Thày Mo, còn dì tắm rửa cho bà Lang. Dì cởi chiếc yếm đang mặc che ngực, cởi khăn vuông đội đầu che chỗ kín của bà. Dì cùng bố bế từng người đặt lên chỗ cao. Sườn núi nghiêng hai người nằm sóng đôi, trông như đôi tình nhân đang ngủ.
Mẹ lấy chiếc áo trắng đang lót cho tôi, gỡ chỉ khâu, xé thành từng mảnh làm khăn tang bảo chị nhớn đeo cho các em. Mẹ lấy cái to nhất quấn một vòng quanh đầu tôi. Mẹ và dì chực khóc. Bố khuyên:
- Thấy cảnh này ai chả đau lòng, thương tâm? Nhưng khóc bây giờ bọn Tây nghe thấy, quay lại đây thì chết cả.
Chỉ còn nghe tiếng thút thít, nghẹn nấc cố ghìm lại. Mẹ than trách:
- Chết mà chẳng có nổi cỗ áo quan.
Bố dùng dao đào đất cạnh gốc hai cây thông, nói:
- Chỗ này bán sơn địa, âm dương hài hòa. Táng ở đây cho ông bà luôn được mát mẻ.
Bỗng Trưởng làng xuất hiện. Mọi người chưa kịp hoàn hồn vì sợ hãi, đã thấy ông quỳ bên cạnh xác hai người. Ông cúi xuống thì thầm nói mấy câu bằng tiếng dân tộc, rồi đưa tay rờ rờ lên mặt từng người. Ông tháo cây nỏ đeo trên người, cởi tấm áo đang mặc phủ lên người Thày Mo, nhổ ba chiếc lông chim trên mũ Thầy Mo cài vào ống đựng tên của mình. Bố giảng giải:
- Ông ta lấy đem về để vào nơi thờ cúng.
Ông Trưởng làng rút con dao đeo cạnh hông cùng bố đào huyệt. Đất núi gần khe ẩm, dễ đào. Nhưng đào sâu được chừng hơn thước gặp rễ thông mọc ngang không đào thêm được nữa. Ông Trưởng làng xua tay ra hiệu có ý bảo bố thôi không đào nữa.
Hai người, mỗi người một đầu, khiêng từng người xuống. Bố đặt bà Lang bên phải, Thầy Mo bên trái. Mẹ thì thào:
- Giai tay trái, gái tay phải.
Không hiểu sao, mẹ nói cứ như hai người đã là vợ chồng?
Trước khi lấp đất, cả nhà tôi cùng ông Trưởng làng đi xung quanh ba vòng, mỗi người cầm ít đất ném xuống mộ. Tôi được dì đưa cho hòn đất cầm ở tay, dì bảo:
- Cháu sống được là nhờ ông bà đấy! - Nói rồi dì cầm tay tôi vẩy mạnh, hòn đất tí xíu rơi xuống huyệt.
Đấy là lần đầu trong đời tôi biết thế nào là người chết.
Xong việc, bố hỏi ông Trưởng làng:
- Bọn Tây còn đây không?
Ông lắc đầu rồi nói:
- Bọn chúng đốt làng xong về bốt Thằn Lằn rồi. Lũ này ác quá!
Đấy là câu đầu tiên ông nói kể từ khi xuất hiện. Bố bàn với mẹ:
- Cu Thừa còn yếu lắm! Theo Việt Minh lên rừng không thuốc men chữa, có mệnh hệ gì biết làm sao? Chi bằng ta quay về Phúc An xem sao đã?
Mẹ đưa mắt nhìn ông Trưởng làng. Ông Trưởng làng nhìn khắp lượt cả nhà rồi nói:
- Không đi cũng được mà. Chờ tối mình đưa đi theo đường tắt không phải qua núi Thằn Lằn à.
Trước khi đi, cả nhà tôi bùi ngùi lưu luyến nhìn hai ngôi mộ như không muốn rời xa. Gió từ thung sâu ào ào, lá thông reo “Uuuuu...” như tiếng âm hồn vọng về.
Trưởng làng đến gần bố:
- Đi thôi vớ!
Cả nhà lầm lũi bước theo ông.
Nhờ ông Trưởng làng dẫn lối theo đường tắt, gần sáng, chúng tôi đến lối rẽ về Phúc An. Lúc chia tay, thấy bố cúi chào, ông Trưởng làng lắc đầu:
- Mình làm nhiệm vụ của Kháng chiến giao cho mà. Ông nắm hai tay gật lên gật xuống như làm lễ, chân bước giật lùi vài bước, rồi quay lại, hướng về rừng núi Châu Lam mà đi. 
4. Ngôi nhà chúng em thuê gần quê chồng em. Vợ chồng chủ nhà đi làm ăn ở nước ngoài. Nhà ba gian, mặt chính phố thị chạy dọc đường 23, chân đê sông Hồng, sát bến phà Chèm. Xưa, đây là huyện lỵ. Từ ngày cắt về thành phố Hà Nội, phố huyện trở thành xã ngoại thành. Phố thưa nhà, chừng vài chục nóc. Từ ngày về đây mở hiệu ảnh, chồng em ra dáng một ông chủ. Thời ấy ảnh màu mới phát triển, đối với vùng quê đó là khoa học hiện đại. Chụp xong đem vào nội thành in rồi mang về trả cho khách.
Ủy ban xã nằm ngoài bãi ven sông, cách nhà dăm cây số. Ngày mưa bùn ngập đầu gối, bữa nắng bụi lút bàn chân. Em vác bụng đi làm, có lần ngã thai bị động, nằm liệt hàng tuần. Sợ hỏng đứa bé, chồng em bắt ở nhà dưỡng thai và giúp chồng chụp ảnh.
Tiếng là cán bộ Nông nghiệp do huyện tăng cường, nhưng em không đi làm. Thời buổi bao cấp, nơi em công tác mang tiếng gần Hà Nội nhưng lại xa trung tâm huyện. Trình độ dân trí thấp. Nhưng người “thức thời” như chồng em là mẫu người hiện đại. Chỉ cần giúp vợ chồng ông Chủ tịch xã một cuộn phim khi nhà có đám hoặc thuê hộ con gái ông Bí thư bộ váy cưới là họ “cười như nghé”. Bỏ làm, nhưng năm nào em cũng được bầu là cá nhân xuất sắc. Cuối năm đến nghe tổng kết, nhận khen thưởng, liên hoan. Việc đánh trống ghi tên bấy giờ là thường.
Chồng em ít học nhưng va chạm xã hội nhiều. Sống với nhau, dần dần em hiểu bản chất người đàn ông đang ở với mình.
Về nghĩa vợ, tình chồng, chồng em dứt khoát:
- Đạo chồng như đạo cha! Bố chết con thờ ba năm, chồng chết vợ thờ ba năm. Đàn ông khi vợ chết chỉ phải thờ có một năm thôi!
Về tình yêu, chồng em bảo:
- Chỉ cần một thằng con trai nào chạm vào gấu áo của em, anh đã không chịu nổi.
Về bạn bè đồng nghiệp, chồng em khẳng định:
- Bạn bè gì? Đàn ông chỉ muốn “xơi” vợ của nhau, đàn bà chỉ muốn lợi dụng để vay tiền.
Về kinh tế, chồng em triết lý:
- Thằng chồng ngu mới để vợ nắm hầu bao.
Và còn vân vân... những mớ lý luận chồng em đưa ra để dạy em. Chồng em cấm em quan hệ giao du với bạn bè. Viện lý do sợ em mang thai vất vả không cho em tham gia công tác xã hội. Nhất nhất mọi hành vi của em bị quản lý.
Khẳng định cho việc dạy vợ, chồng em nói:
- Các cụ xưa bảo: “Dạy con từ thuở còn thơ - Dạy vợ từ thủa bơ vơ mới về”.
Em cam chịu, gắng làm tròn trách nhiệm người vợ, cố quên tình cũ để vui duyên mới, giống như ngày xưa các cụ lấy nhau không tìm hiểu mà sống rất hạnh phúc. Nhưng sao không được? Hình như đó là sự trả giá cho những lỗi lầm lừa dối của em? Em có ý định thú nhận nhưng không biết bắt đầu như thế nào? Em không muốn lương tâm mình bị giày vò, không muốn sống trong dối lừa. Nhưng sự dũng cảm của con người đâu phải lúc nào cũng sẵn?
Thời gian dần trôi, khi đứa con trai đầu lòng cất tiếng khóc chào đời, bà mẹ chồng lên chơi nói với con trai:
- Tôi đẻ mấy bận, chẳng đứa nào ra sớm như thằng bé này?
Câu nói là dây cháy châm ngòi nỗi hoài nghi, ngờ vực. Chồng em săm soi từng tế bào da thịt tới đôi mắt, cái mũi và mọi thứ của đứa trẻ. Ghen là con dao găm tự giết hại con người, nhưng lại là dịch men ủ bầu cay đắng. Nó luồn trong dòng máu người đàn ông, khuếch đại hình thành những chuỗi sự kiện và được mã hóa từng chi tiết có góc cạnh. Nó buộc được giải thoát bằng nhiều cách. Chồng em chọn cách giải theo phương pháp của một thợ ảnh đen trắng. Một bước đi, một bước theo dõi. Với quá khứ, bất chấp, đốt và phá hết những gì liên quan tới những mối dây quan hệ xưa kia của em.
Trong quan hệ vợ chồng, để khỏa lấp, lên giường trong những cơn say, bắt em làm tình và dâng hiến theo lối phương Tây, dùng thân xác thực hành những động tác gây hưng phấn tình dục trái với sinh hoạt bình thường. Liên tiếp là các cuộc truy hoan như vậy. Em bị dìm trong những lớp sóng tình nhầy nhụa. Ngoài tình cảm đơn thuần của tình vợ chồng, còn là sự thể nghiệm đến tận cùng của cách ái ân. Trước khi làm vợ, em không nghĩ người đàn ông có thể ngủ với vợ một đêm nhiều lần như thế.
Sau những lần ân ái như vậy em sợ. Em sợ khi màn đêm buông xuống, sợ bóng tối đồng lõa với những lạc thú bệnh hoạn kỳ quái lạ lùng... Tránh né, chồng em dằn hắt:
- Cô để dành cho thằng nào?
Em không để dành cho ai, nhưng em cũng không chịu nổi cách làm tình và đành đối phó bằng cách ì như khúc gỗ, mặc kệ chồng muốn làm gì thì làm. Em như cái bao cát cho võ sĩ tập đấm bốc, như quần áo bị vò nhàu trong chậu giặt...
Chán chường vì sự ham thích không được hưởng ứng, chồng em tìm thú vui nơi khác. Những buổi em đi làm, chồng em đưa gái về nhà hành lạc. Biết, nhưng em không dám phản đối. Cái người đàn ông cần ở người đàn bà, em không đáp ứng được, em có quyền gì mà nói?
Một lần, quay về lấy cuốn sách để quên, em bắt gặp hắn cùng hai người phụ nữ trần như nhộng trên giường. Em trừng mắt nhìn lũ khốn. Hắn thản nhiên:
- Cô là gì mà có quyền đuổi họ? Họ có cái để cho tôi. Còn cô? Hơn con chó đực là có cái l...
Đêm ấy em ôm con khóc suốt. Em biết lỗi lầm do mình, nhưng sự tàn nhẫn của cuộc sống dành cho em mới khốn nạn làm sao. Em muốn tự lột mặt nạ mình. Nhưng...
Nhưng, như kẻ ăn cắp có tâm trạng: nửa muốn đem vật trót lấy mang trả lại, nửa muốn giữ lại làm của mình mãi mãi. Cuộc sống gia đình và nơi làm việc an bài như mặt sông phẳng lặng. Em sợ khua mái chèo làm mặt nước bị khuấy lên thành những lớp sóng. Nhuệ khí của lòng tự trọng tan biến khi sợ bị mất những gì mình đã ăn cắp được. Cứ vậy em lần lữa mãi... Biết lừa dối là xấu, nhưng tay nhúng chàm lại thấy màu chàm có vẻ đẹp riêng của nó.
Thực oái oăm, lúc em muốn giấu thì đứa bé lại là vật chứng tố cáo. Càng lớn, hình ảnh của Tổ trưởng càng nổi rõ trên khuôn hình đứa trẻ như mũi dao chích vào trái tim em. Nó chích vào em một, nó chích vào chồng em hàng chục, hàng trăm...
Với em, sự thật như một phép tính cộng đơn gian: 1 + 1 = 2. Nhưng sự nghi ngờ của chồng em là phép nhân có nhiều số 0 để biến thành nỗi ghen thường trực.
Sẵn xe làm phương tiện, lợi dụng nghề chụp ảnh, chồng em mở cuộc dò xét, lục tìm quá khứ. Mỗi lần đi về đem theo một mớ tài liệu “nửa thực, nửa hư” cộng với men rượu. Nửa thực, nửa hư và men rượu là thang thuốc được chưng cất ra một loại thuốc vừa để quên, vừa để nhớ. Thực ra, những người biết sự việc về em chỉ có Tổ trưởng. Còn ai cũng chỉ trả lời cho qua chuyện hoặc tránh né. Kẻ cáo cạnh, lọc lõi nghe hỏi, buông một câu lửng lơ, hầu kích thích lòng ích kỷ và sự ghen tuông. Con bệnh luôn kịch phát, và thang thuốc nhớ, quên là thứ ma túy chồng em nghiện cần sử dụng hàng ngày để tăng dũng khí. Chỉ cần một chuyện nhỏ chồng em cũng sẵn sàng vè vặc...
Ngày chủ nhật, em đạp xe đạp đưa con về thăm ông bà ngoại. Đến ngã ba đường rẽ về làng, một chiếc xe Honda 67 vượt lên rồi đỗ lại. Em nhận ra ngay khuôn mặt Tổ trưởng, dẫu bây giờ đẫy đà hơn, tóc húi cao, dáng người thấp, hệt như vị chỉ huy làng Quyết Thắng cầm gậy phang vào trán vị chỉ huy dân quân làng Quyết Chiến hồi bắt giặc lái Mỹ. Tổ trưởng hỏi:
- Em cho con về chơi chủ nhật à?
- Anh cần gì? - Em trả lời, tay tóm chặt lấy thằng bé như sợ Tổ trưởng cướp mất nó.
- Có chuyện này anh muốn nói với em.
- Tôi không còn chuyện gì để nói! Anh dẹp ra để tôi về.
- Không! Anh chỉ muốn đưa cho em ít tiền để nuôi con...
- Mẹ con tôi không cần. Nó không phải là con của anh. Nói rồi em vằng mạnh gói tiền, tiền tung ra, gió thổi bay tứ tung. Mấy đứa trẻ chăn trâu ở làng chạy đến. Vài người làng làm có lúa dưới ruộng chạy vội lên. Một thằng bé hô:
- Thằng cán bộ người làng Quyết Thắng bắt nạt chị Linh chúng mày ơi!
Tổ trưởng cuống cuồng:
- Thôi, chào hai mẹ con, hẹn lúc khác gặp lại... - Nói rồi, Tổ trưởng lên xe vù ga phóng vội.
Em nói với mọi người:
- Không có chuyện gì đâu, anh ta trả tiền nợ tôi đấy mà.
Tưởng thật, lũ trẻ nhặt tiền đưa cho em.
Câu chuyện đến tai chồng. Bão tố, phong ba đổ ập xuống đầu em. Tiếng rít lọt qua hai kẽ răng xít lại:
- Cô lấy lý do về nhà để thì thụt gặp người tình cũ phải không?
Không nhận được câu trả lời, cơn giận dữ bùng như lửa gặp gió:
- Tôi có đói đâu mà khiến cô ngủ với trai để lấy tiền nuôi tôi?
Em không hẹn hò với người tình cũ, nhưng có gặp. Em không ngủ với trai nhưng có cầm tiền của đàn ông. Em biết nói thế nào? Sự im lặng không thay được lời thanh minh. Mà thể như lời thừa nhận.
Khi cơn giận vượt qua, sẽ biến thành hành động cụ thể: Chồng em mặc cho đứa trẻ khóc, túm tóc em vật ngửa, dí sát đôi mắt như sợi chỉ căng ngang và đỏ màu máu, hỏi:
- Mày có dám nhận không?
Im lặng.
- Có phải thằng bé kia của nó không?
Im lặng.
Chân tóc của em bị căng ra như sắp đứt khỏi da đầu:
- Đồ đĩ bợm. - Kèm sau lời rủa, cái tát át cả tiếng con khóc. Mắt em hoa lên vì tác động của xương thịt.
Cái tát như cốc nước ứ tràn khỏi ly, là bước chân quá đà vượt khỏi vạch đích trên đường đưa cuộc sống.
Đánh xong, chồng em dắt xe ra.
- Ngày mai đưa thằng bé về. Nếu còn ở đây “ông” sẽ băm nát cả hai mẹ con.
Sáng hôm sau, em xin phép cơ quan nghỉ đưa con về gửi ông bà ngoại. Chiều về, không thấy đứa bé, chồng em gầm lên.
- Thế là cô thừa nhận nó không phải con tôi nhé!
Em cãi:
- Anh bảo sao tôi làm vậy!
- Á! Bây giờ cô lại dám xưng “tôi” cơ à? Bố cô dạy cô thế phải không?
- Anh muốn làm gì tôi thì làm. Anh đừng động đến bố tôi.
- Sợ cái con c... tao đây này. Con đẻ mẹ mày. Đồ đĩ!
- Thế này thì quá lắm! Em xấu, em tồi, muốn làm tình làm tội thể nào em cũng chịu! Nhưng động vào bố mẹ em là không xong! - “Lành làm gáo, vỡ làm muôi”. Em vớ cái máy ảnh ném thẳng vào mặt hắn. Hắn né, cái máy ảnh bay vào chiếc tủ có tấm ảnh ngày xưa hắn chụp em làm mẫu. Tấm kính nát vụn như tải ngô, tấm ảnh rơi xuống, lẫn trong mảnh vụn thủy tinh, đôi mắt người thiếu nữ ngây thơ, ngơ ngác nhìn em như một dấu hỏi...
Hồ Đại Ngọc đẹp và tĩnh lặng. Từ xa, nắng rực rỡ trải trên sườn núi; tiếng lá thông reo như muôn tiếng vĩ cầm vi vút vọng trên không; từng thung lũng, màu sẫm loang lổ chỗ đậm, chỗ nhạt. Nguyễn Thừa nằm thả dài trên bãi cỏ, Hải Linh ngồi tư lự, nhặt lá thông đưa lên miệng, dùng răng bứt từng đốt, từng đốt.
Thời gian trôi qua bao lâu rồi hai người không biết nữa! Đêm ập xuống, bức tranh thiên nhiên chuyển thể. Cả vùng hồ chìm trong màn sương, những dãy nhà bậc thang phía trên như chồng lên dãy nhà dưới thấp, ánh sáng điện từng quầng trắng cài vào nhau lấp lóa. Nhạc từ hộp đêm phía bờ xa vọng tới tan trong ngàn tiếng thông reo. Hải Linh ngồi như hóa đá, cô thôi bứt lá thông, đầu gục xuống đùi. Nguyễn Thừa ngồi dậy, cố xua đi những ý nghĩ vẩn vơ. Câu chuyện Hải Linh kể làm lòng anh trĩu nặng. Anh cố đứng về phía người đàn bà yêu quý để biện minh cho hoàn cảnh. Nhưng anh ngại sẽ lầm lẫn giữa sự vô tình và sự cố tình gây ra lỗi của từng con người, của trái tim đau khổ vì tình yêu và sự dối trá vì cuộc sống cần tồn tại.
Nguyễn Thừa quay sang nhìn Hải Linh. Bờ vai cô rung rung. Anh muốn tìm lời an ủi, nhưng chưa nghĩ ra một câu nào thích hợp. Thường là vậy, những con tim dạn dầy khổ đau không chấp nhận sự thương hại. Trái tim ấy dễ bị dị ứng với chính cả sự xót thương của người mình yêu quý nhất.
Một làn gió lạnh từ dưới hồ ùa đến, Nguyễn Thừa cởi áo ngoài khoác lên người Hải Linh. Cô giật mình:
- Mấy giờ rồi anh?
- Em có đói không? - Anh che tay xem dạ quang trên mặt đồng hồ. - Gớm, tám rưỡi rồi.
- Em đoảng quá, rủ anh đi chơi mà để cho anh đói.
- Không sao đâu em. Lát nữa ăn cũng được. Đêm nay chúng ta sẽ căng võng ngủ tại đây, sáng sớm mai bơi thuyền sang đảo Hai Người.
- Chuyện của em kể buồn lắm phải không anh?
- Tất cả đã qua rồi em. - Nguyễn Thừa an ủi.
- Đêm nay, em sẽ kể cho anh nghe nốt chặng đời em đã đi qua. Sắp bước sang kỷ nguyên mới rồi. Em muốn giũ bỏ dĩ vãng, giã từ quá khứ, sống thanh thản với những gì mình yêu quý. Anh đồng ý chứ?
- Cảm ơn em - Nguyễn Thừa thì thầm.
Trăng lấp ló trên đỉnh núi, mỏng và mảnh như con diều chao gió. Tiếng cầm thu não nuột thả vào đêm từng sợi buồn sâu lắng.

5. Một buổi sáng, bõ già giúp việc trong nhà thờ ở xứ đạo nhặt được một hài nhi đẹp như Chúa hài đồng nằm trước cổng. Thiên thần nhỏ lớn lên trong sự chăm sóc của trại tế bần. Cha xứ rửa tội, lấy tên Maria đặt cho bé. Ngay từ thuở ấu thơ, ngoài những lúc đến trường học, bé chắp tay thành kính, ngước đôi mắt trong veo hướng lên tượng Chúa ngắm nguyện. Dòng kinh thánh và những điều răn dạy của Chúa chảy trong huyết quản nuôi sống đức tin.
Maria như mầm non rực rỡ dưới nắng ban mai. Người đời vứt bỏ, nhưng Chúa lại tạo cho trần gian một nàng Eva xinh đẹp. Nhiều chàng trai xứ đạo ước muốn được là Ađam dẫu có phải mắc tội bị đày ải xuống địa ngục trần gian. Nhưng hình như Chúa Trời muốn giữ cho vườn địa đàng nơi xứ đạo sạch sẽ, nên đưa Maria vào ở với các xơ. Đức tin chồng chất đức tin. Maria nguyện hiến dâng cả phần hồn lẫn phần xác. Hàng ngày Maria đến nhà hộ sinh làm việc, cô không nề hà gì sự bẩn thỉu, ghi nhớ những động tác khéo léo của các xơ khi đỡ các thai nhi ra khỏi bụng mẹ.
Cô thầm ước một ngày nào đó sẽ tự tay mình nâng niu chào đón những sinh linh xinh xắn. Với cô, mỗi hài nhi ra đời là một Thiên sứ do Chúa Trời ban tặng. Cô còn nói với các xơ rằng: một lúc nào đấy cô muốn tự mang trong bụng mình một vật thể do Chúa ban. Các xơ nghe niềm ao ước chảy trong lòng cô, rồi nhìn cô bằng đôi mắt của Mẹ Đồng Trinh, và nói với cô bằng một giọng hà khắc:
- Đó là ý nghĩ tội lỗi! - Và khuyên cô lấy cuộc sống của các xơ để làm gương soi.
Dẫu cố gắng lấy phẩm hạnh của các xơ làm mẫu, nhưng bản năng trong cô tự thức. Nhiều đêm, trong mơ, cô lạc vào vườn địa đàng. Bàn tay Chúa biến thành bàn tay tình nhân giang rộng ghì chặt cô vào lòng... Cô bàng hoàng thức giấc, xấu hổ vì sự ham muốn tội lỗi. Cô đứng dậy, thắt lưng, ép xác khỏi mọi điều cám dỗ, quỳ trước tượng Chúa sám hối hàng trăm lần. Nhưng những quyến rũ mơ hồ mang tính dục đêm đêm vẫn luẩn quẩn vương vất trong giấc chiêm bao.
Bởi Maria chưa hình dung ra được những tội lỗi của Ađam và Eva mang xuống trần gian, nên mỗi lần sự khao khát thèm muốn dâng hiến trỗi dậy, bào mòn đức tin, cô lại đến phòng rửa tội.
Cha Phêrô, người cai quản phần hồn cho các con chiên nơi xứ đạo. Cha trẻ đẹp, hiển thị như tranh treo trong giáo đường. Khuôn hình cao, dáng thanh thoát, mái tóc quăn lượn sóng, màu mắt xanh, sống mũi dài, da trắng. Cha nói tiếng Việt rất sõi. Mỗi lần rao giảng, giọng trong vắt, rõ ràng, khúc chiết. Nếu không nhìn mà chỉ nghe, sẽ nghĩ Cha là người bản xứ.
Maria thổ lộ:
- Thưa Cha, con cố xua đi những thèm khát của bản năng, nhưng càng xua đi, thể xác của con càng đam mê cám dỗ.
- Tối tối trước khi đi ngủ, con hãy đọc thêm vài trăm lần kinh để củng cố đức tin.
Maria:
- Thưa Cha, con có thể sống như người đời không ạ?
Cha Phêrô:
- Con đang bị ma dẫn lối, quỷ đưa đường. Con đã thuộc về ta, tức là con đã thuộc về Chúa. Chỉ có Chúa mới định đoạt được đời con.
Sợ Maria lầm đường cha bảo:
- Ta thấy đức tin nơi lòng con đang lung lay. Hình ảnh Chúa trong con bị lu mờ. Nhân danh Chúa, hàng ngày cha mở rộng cửa cho con đến để cha răn dạy. Đem ánh hào quang của Chúa soi đường cho con khỏi u mê lầm lạc...
Trong phòng, nơi Cha soạn kinh, một bức tượng Chúa tử nạn bằng gỗ đứng trong vòm tủ, trên đầu Người muôn ánh hào quang tỏa chiếu, dưới chân, hai ngọn bạch lạp sáng lung linh. Những bức tranh treo trên tường kể về đời sống vĩnh hằng dành cho người ngoan đạo sau khi chết sẽ được tới. Tất cả huyền ảo, mung lung.
Maria quỳ gối, hai tay cô đặt lên nơi có trái tim đang đập, khuôn mặt Eva cúi xuống sùng kính lắng nghe. Tiếng bổng trầm và lời thuyết giáo của Cha đưa cô đến với thánh đường, nơi Chúa tạo dựng ở Thiên Đàng. Tâm hồn Maria biến thành đôi cánh, bay lượn quanh vòm trời kỳ diệu. Cùng bay lượn với cô là Đức Mẹ Đồng Trinh. Đức Mẹ Đồng Trinh vẫy đôi cánh trắng hướng cô tới nơi các Thiên thần đang tụng ca bài hát “Chúa sinh ra đời”. Hào quang và sự nhẫn chịu của Chúa xua tan bóng tối, xua đi những cám dỗ tầm thường.
Mỗi lần như vậy, lòng Maria vơi nhẹ, ánh sáng của Chúa soi rọi vào tâm hồn, thổi bay lớp bụi u mê, lạc lõng. Trái tim thiếu nữ nhỏ nhoi được bao phủ bóng nhoáng lớp men đức tin.
Cha Phêrô là Chúa Đức Tin nơi cô. Chính vậy, lòng sùng kính nhiều khi làm cô lầm lẫn giữa Chúa và Cha. Chúa ở trên trời và chưa bao giờ Maria được thấy. Có chăng, đó là hình hài giáo dân đắp gọt, đặt vào nơi tưởng niệm trong những ngày lễ trọng - rồi thành kính tưởng tượng ra những quyền lực vô song... Còn Cha, không có quyền lực phi phàm, nhưng hiển hiện bằng xương bằng thịt. Ngôn từ toát ra thuyết phục, cuốn hút, làm cho trái tim cô se thắt, cuồng tín đến ngây dại.
Theo thánh kinh, tất cả vạn vật đều do Thượng Đế sinh ra. Không hiểu sao, khi sinh ra vạn vật. Đấng Tối Cao lại không nhào nặn cho mọi thứ Toàn Thiện, Toàn Mỹ. Mà cho mỗi thứ chịu một nửa kia của một nửa này? Sự dở dang trở thành một quy luật đối nghịch giữa đêm và ngày; tối và sáng; thiện và ác; vui và buồn; trái và phải; được và mất; cao và thấp, béo và gầy; đẹp và xấu. Mọi thứ theo một quy luật đồng hành nhưng không đồng nhất. Thỏa thuận tưởng có lý mà vô lý. Mọi điều kiện dẫu lý giải bằng mọi luận chứng đều phản bác lại ý muốn đòi hỏi của Đấng Tối Thượng. Luôn xảy ra sự tranh chấp, giành giật nhằm duy trì, bảo thủ cho một sắc thái riêng.
Chắc bản thân khi Thượng Đế được Vũ trụ sinh ra chưa Toàn đủ, nên vạn vật được Người nặn ra cũng không hoàn thiện? Hoặc giả Thượng Đế muốn vạn vật của Người phải biết vươn lên cái đích Vô cùng bằng những cuộc chiến dài lâu không khoan nhượng?
Cha Phêrô là người thay mặt Chúa quản lý giáo dân vươn tới cái đích ấy! Để đạt được sứ mệnh của Đấng Tối Cao trao cho, Cha Phêrô phải chăm sóc từng góc tối của mọi linh hồn. Qua phần hồn, Cha muốn hướng phần xác của giáo dân luôn làm việc Chúa răn dạy. Maria hiểu nỗi nhọc nhằn nơi Cha đến. Những gì Cha làm cho xứ đạo giống như Chúa làm cho nhân loại.
Tuy vậy, trong xứ đạo, không phải ai cũng hiểu Cha Phêrô như Maria. Có người hoài nghi ý thiện của Cha Phêrô. Họ thì thầm:
- Cha cố là mật thám.
- Trước khi làm Cha cố, Cha Phêrô đã từng bắn giết Cộng sản, cắt lấy tai xâu thành chuỗi.
Họ đặt điều:
- Trong nhà thờ có hầm tra khảo những người Cách mạng.
Maria không thanh minh giúp Cha Phêrô, nhưng lòng phiền muộn vì trong xứ đạo còn những kẻ không tường ý Chúa. Cô ra sức cầu kinh mong đức tin thay thế cho sự nghi ngờ. Dù chưa bao giờ Maria biết Cộng sản mày ngang, mũi đọc thế nào, nhưng cô tin Cha Phêrô nói: Cộng sản là kẻ vô đạo, họ muốn xứ đạo không có Chúa! - Cộng sản không có đức tin, họ muốn đưa con người trở lại thời ăn lông ở lỗ. Vậy giáo dân không tẩy chay Cộng sản để có lúc bị Cộng sản làm ruỗng lòng tin ư? Để mất Chúa ư?
Càng nhiều người nghi ngờ, cô càng thương Cha. Cô đem chuyện trăn trở nói lại cho Cha nghe. Cha nói:
- Giu-đa phản bội chỉ mình Chúa chịu. Cộng sản bắt được Chúa thì cả cõi thế bị nạn đại hồng thủy.
Đâu phải Cha thay Chúa coi sóc một xứ đạo. Cha còn lo số phận cho cả loài người đấy thôi! - Maria liên tưởng giữa cha và đấng Tối Thượng về đức hy sinh vì nghĩa cả với sự sống còn của loài người dưới trần gian.
Cha Phêrô ngước đôi mắt xanh biếc nhìn thân thể Chúa Cứu Thế, buông tiếng thở dài nói với đức tin:
- Con đừng thương xót cha. Đây là lúc Chúa đang thử thách lòng tin nơi cha. Con giãi bày lòng con là con đang đứng về nơi Chúa đúng. Cha với con có trách nhiệm tìm ra kẻ hưởng ân huệ của Chúa lại rắp tâm phản bội Chúa. Cùng giáo dân xứ đạo tìm ra bọn Cộng sản đội lốt con chiên.
- Thưa Cha - Maria băn khoăn - Những người con biết đều là giáo dân một lòng kính Chúa, chăm lo việc lễ, hiền lành, chất phác. Những người đó chẳng lẽ lại là Cộng sản ư?
- Chỉ có đấng Toàn Năng mới biết đâu là Quỷ đâu là Người. Ta có biết, cũng là để mang lời của Chúa răn dạy cho kẻ lầm đường rời cõi u mê đi theo đường sáng.
Maria lo sợ bọn Cộng sản tà đạo cướp mất linh hồn của giáo dân. Tự bản thân đức tin thấy cần có trách nhiệm bảo vệ, che chở, cứu giúp họ. Maria thổ lộ cho Cha biết về những con chiên đang lầm lỡ. Mắt Cha Phêrô sáng rực khi nghe cô nói.
Đức tin của lòng trung thành là đức tin tuyệt đối.
Khi lòng tin của con người trở thành chân lý, khoảng cách được đồng nhất. Giới hạn bằng 0. Giữa cha đạo và con chiên là khoảng cách của người truyền đạo và người nhân đạo. Mối tương tác đồng hành làm nghĩa vụ giám hộ của Đấng Tối Thượng ủy thác.
Mấy ngày sau, những người dân nơi xứ đạo từng buông lời phỉ báng Cha đêm đến đều bị bắt mang đi. Maria đem điều thắc mắc đến nơi tôn nghiêm. Cha Phêrô ra dấu phép trả lời:
- Những kẻ quá u mê lầm lạc, cần phải đưa đến nơi có quyền lực vô song để giáo dưỡng.
Maria không hỏi nữa nhưng sương mờ giăng trong lòng cô, trái tim đập thắc thỏm. Những người giáo dân bị bắt đi lâu quá chưa về. Xứ đạo bao trùm một màu ảm đạm, dân xứ đạo nhìn Maria như Chúa nhìn lũ tà giáo. Khi họ đang nói, thấy cô lại gần họ im bặt. Cửa nhà đang mở, thấy cô đến, họ đóng vội. Ngay cả các xơ cũng xa lánh, nhìn cô bằng con mắt sợ sệt, hoài nghi...
Maria mất ngủ, hành động và thái độ xa lánh của dân xứ đạo cho lòng cô hẫng hụt. Maria thấy mình cô đơn, lạc lõng dẫu vẫn sống giữa bầy đàn của Chúa. Dân xứ đạo mặc nhiên coi Maria sinh ra để dành riêng cho Cha Phêrô.
Đêm dần trôi... Vũ trụ choàng lên đất thánh tấm áo nhung đen, vòm trời như chiếc mũ miện, mây trắng quấn quanh tua te tựa vành nguyệt quế, trên vương miện gắn những ngôi sao lấp lánh. Vườn cây nhà thờ nép vào tà áo đêm. Dường như tất cả chìm trong giấc ngủ triền miên. Tiếng côn trùng nỉ non, sương đậu trên lá thả từng giọt xuống lối đi. Maria ngước nhìn lên đỉnh tháp, nơi ngự trị cây thập tự Vĩnh Hằng của Đấng Sáng Tạo.
Đêm nay, dẫu đã hàng trăm lần ngắm nguyện, lòng cô vẫn vật vã, trăn trở. Đã bao nhiêu ngày Chúa Nhật, những con chiên có tội phải đi giáo dưỡng chưa về.
Cô không dám nhìn vào đôi mắt những người thân của họ. Trước thánh đường: bạc nhược, khiếp đảm; sau Chúa: hờn căm, oán giận; với Maria: khinh bỉ, tởm lợm. Maria những tưởng làm thế cho xứ đạo thanh bình. Ai ngờ, cô thấy mình đem đến cho họ sự đau khổ vì chia ly. Nỗi niềm giằng xé trái tim người thiếu nữ.
Cô ngồi xuống gốc cây sứ hoa vàng. Xơ già thường nhắc:
- Cây hoa này bằng tuổi con.
Maria tựa lưng vào thân cây, cô nhặt hoa rụng dưới gốc cầm lên ve vuốt, cô tưởng tượng ra những bông hoa, cánh cong nửa trắng nửa vàng non mềm tinh khiết, kết thành vòng dâng lên Gia đình Chúa vào những kỳ Lễ Trọng. Sắc của hoa, hường của nhụy ngây thơ, dịu dàng trong trắng biết bao nhiêu...
Bỗng có tiếng động ngoài cổng nhà thờ. Một tốp người mở cổng phụ bước vào. Khi toán người đi ngang chỗ cô ngồi, cô thấy đầu hàng, một người vai khoác súng, tay cầm dây dắt tốp người đầu bị trùm kín, hai tay bị trói giật cánh khuỷu. Còn một người nữa đi sau, tay lăm lăm súng, nòng súng áp sát người bị trói đi cuối.
Cô ngạc nhiên khi thấy họ đưa toán người đi về phía cửa buồng hầm chứa đồ. Đây là nơi bõ già trông coi. Tiếng cửa sắt rít trong đêm tối nghe lạnh người. Maria định nhỏm dậy đi theo thì cửa phòng ngủ của Cha Phêrô mở. Có hai người đi ra. Dáng quen thuộc của Cha Phêrô nổi bật giữa màn đêm.
Họ dùng đèn pin soi, đi về phía cửa tầng hầm. Trước cửa hầm, người lính bồng súng đứng đón. Khi Cha và người kia đến, người lính giơ tay lên vành mũ chào. Rồi tất cả đi xuống hầm. Tiếng cửa rít lạnh tanh, vô hồn, ghê rợn.
Người Maria run cầm cập, cố lấy lại bình tĩnh đứng lên. Một chút lưỡng lự... rồi cô quyết định men theo tường rào đi về phía căn hầm.
Cửa hầm khóa trái, im lìm như nấm mồ.
Maria chợt nhớ đến lối vào hầm sau thánh đường. Hồi còn bé, trong lúc chạy nhảy đùa nghịch, đã bao lần Maria trốn các xơ chui xuống đấy. Maria vòng về phía cửa phụ nhà thờ vào nhà thờ, đi qua những hàng ghế dành cho con chiên ngồi, qua phòng rửa tội, theo cánh gà vào góc trong thánh đường, cúi đầu chui qua gầm cầu thang gỗ làm lối bước lên bục giảng đạo. Đã lâu, một lớp bụi dày phủ trên mặt sàn. Cô lấy tay gạt, bụi bay xộc vào mũi, Maria nén ho, nhấc tấm ván, miệng hầm lộ ra, sâu hun hút. Cô chống tay co mình đu xuống. Lối đi hẹp, hai bên là tường. Nhiều lúc cô phải ngồi xuống dò dẫm từng bước. Qua hết dãy hành lang đến phòng đựng đồ thờ. Gian phòng rộng, chứa toàn những thứ phục vụ cho công việc nghi lễ thờ đạo. Phòng này có lần cô đã theo bõ già xuống lấy nến thắp. Cửa phòng khóa, cạnh cửa tựa chiếc thang gỗ chuyên dùng để thắp nến trên chùm đèn treo trong nhà thờ.
Từ cánh cửa ra vào ở cuối căn phòng, ánh sáng mé bên kia tường hắt lên sáng rực. Maria đến gần. Cánh cửa đóng ván bưng kín. Thoáng trông tưởng đó là cửa lách cùng căn phòng để đồ, nhưng thực ra nó là cửa thông sang một căn phòng khác. Tiếng động phía bên kia vọng sang. Maria quyết định tìm cách xem sự thể ra sao. Cô bỗng thấy mình bình tĩnh lạ thường. Cô cảm tưởng đây là câu trả lời giải tỏa nỗi mung lung đè nặng trong lòng cô từ mấy tháng nay.
Maria quay lại theo lối hành lang đi vòng về phía sau. Đã lâu cô không xuống nên ngạc nhiên khi nhìn thấy căn hầm được xây dựng lại như vậy. Cô đến gần bức tường ngăn. Ánh sáng soi rõ những mảnh thủy tinh cắm chằng chịt trên mặt tường, nhọn hoắt như hàng ngàn mũi dao chĩa ngược. Cô sờ vào tường, hơi lạnh làm cô rùng mình, tay cô đụng phải nhiều chỗ rêu mọc trơn tuột, mùi ẩm mốc bốc lên.
Loay hoay mãi Maria không làm sao tìm cách nhìn được sự thể bên kia tường. Chợt nghĩ tới chiếc thang dựng trước cửa phòng để đồ, cô vác về dựng vào chỗ giáp giữa tường căn phòng để đồ.
Cô thận trọng trèo lên. Gan bàn chân đặt lên thanh tre đau nhói. Cô tựa người vào góc tường lồi ra của căn phòng, nghiêng mặt nhìn xuống: Một người trong đội linh kèn của nhà thờ, tay xách đèn măng-xông giơ lên ngang mặt. Cha Phêrô đứng cạnh viên sĩ quan Pháp mặc quần soóc, áo phanh ngực. Viên sĩ quan này có lần Maria đã gặp khi hắn ăn cơm cùng với Cha. Tên lính người Việt còn lại lăm lăm chĩa nòng súng vào tốp người bị bịt mặt, tay bị trói, máu me bê bết đứng úp mặt vào tường. Cha Phêrô quay lại xì xồ với viên sĩ quan rồi rút trong tấm áo lễ ra một khẩu súng lục.
Cùng lúc, viên sĩ quan Pháp rút súng ra khỏi bao. Cả hai bước lên, gí nòng súng vào dưới góc bao trùm đầu những kẻ bị trói. Liên tiếp năm tiếng nổ vang lên. Tiếng súng nổ trong hầm nghe chát chúa. Bốn người ngã, chết ngay. Còn một kẻ giãy giụa. Cái bao bố bít kín mặt tuột khỏi đầu. Maria suýt thét lên kinh hoàng vì nhận ra đấy là người đã nói với cô: Cha Phêrô là mật thám! Thân hình ông quằn quại, đầu lắc liên hồi, cái khăn bị nhét vào mồm vung như phất cờ. Viên đạn bắn trượt xuống vai, khuông ức ngực trần đẫm máu, kẻ vệt theo từng giẻ xương căng dây trói. Máu từ chỗ bị đạn xuyên phun thành cột, chảy ròng, tuôn như suối. Ông cố nhỏm dậy, đầu ngật ngật ra phía sau.
Cha Phêrô bước đến chĩa súng thẳng vào mặt ông bóp cò. Viên đạn thứ sáu trúng đích, cả thân hình đầy máu đổ ập, đầu kẻ bị bắn giật giật mấy cái, rồi lật ngửa mặt lên, mắt mở trừng trừng nhìn về nơi Maria đang đứng. Cô co rúm người, cái nhìn của ông như cái nhìn của Chúa nhìn sự phản bội của tông đồ Giu-đa.
Chiếc thang rung bần bật. Maria cắn chặt môi, cấu tay bám vào bờ tường cho khỏi ngã. Sự thật vượt quá sức tưởng tượng.
Dưới kia:
Người trao đức tin đang cướp lại lòng tin nơi cô. Con người ấy hiện nguyên hình là quỷ dữ.
Trên này:
Từng dòng kinh thánh trong người Maria tan loãng chảy theo máu của những kẻ bị hành quyết. 
6. Buổi mít tinh được tổ chức tại bãi cỏ sau chùa làng Quyết Thắng. Vô tình, chỗ dựng kỳ đài chính là nơi em và Tổ trưởng tình tự. Vì bụng to, em ngồi tận dưới. Tuy dân làng đã được thông báo trước hai làng giờ đây đã được hợp nhất thành một xã, nhưng khi tập trung, mọi người vẫn cố tình chia làm hai nơi. Duy đằng trước, sát kỳ đài, là các em thiếu niên, nhi đồng của toàn xã hòa đồng, kết vào nhau riu rít như đàn chim non - như hàng trăm bông hoa xinh xinh muôn màu, muôn sắc. Mùa thu nhả tơ, nắng vàng óng mượt, rực rỡ tỏa trên tấm phông trang trí cờ sao và ảnh lãnh tụ giữa kỳ đài. Gió từ đầm Vực thổi về, mang vị nồng nồng hương lúa hết đòng từ những thửa ruộng. Từng ngọn tre uốn câu lả lướt trên nên trời xanh vời vợi. Dãy cờ đuôi nheo cắm tràn đỉnh tấm phông vẫy phần phật... Hương vị và màu sắc quê hương trên ngập, thấm đẫm. Chương trình văn nghệ chào mừng được mở đầu do các em học sinh biểu diễn. Bầy chim non ríu rít, tíu tít hát những bài ca bằng âm thanh của riêng mình. Cảnh vật thổi vào hồn em một luồng sinh khí mới! Em nhớ đến những gì đã lãng quên từ lâu. Giữa những tâm hồn thơ ngây, em tìm lại chính mình. Nếu không có đứa con năm tuổi bằng xương, bằng thịt và cái bụng đang chửa thì em ngỡ mình đang là những đứa trẻ vô tư trong sáng kia.
Nhớ hôm cầm quyết định đến văn phòng Ủy ban xã. Bà Phó Chủ tịch xã để tóc dài. Chiếc cặp tóc bằng nhựa màu nâu nằm vắt chéo trông như con đỉa trâu bám. Bà mặc áo sơ mi vải pôpơlin xanh trứng sáo, ngoài khoác vỏ áo bông màu tím than, ve cổ hình cánh sen, không cài khuy. Bà đón tiếp em bằng hai hàm răng vẩu, thịt lợi trơ đỏ au:
- Thế chồng đâu mà không lai đi?
Em nói dối chồng em bận đi chụp ảnh. Bà Phó Chủ tịch xã nhanh nhảu:
- Ừ, mùa này thợ ảnh “trúng quả” phải biết! Đám ma lắm, đám cưới nhiều, tha hồ “nháy” - Bà cười khơ khớ.
Em trình cho bà tờ quyết định.
- Nhận rồi! Quyết định thuyên chuyển của cô, Ủy ban nhận được từ hôm kia rồi - Bà nói như reo - Sao không ở lại quê chồng? Chắc vùng bãi ven sông Hồng vất vả lắm hả? - Không thấy em trả lời, bà nói tiếp - Nhưng sao đận trước lên họp, thấy Trưởng phòng nói chỗ này ưu tiên dành cho con, cháu ông nào trên mạn ngược chuyển về cơ mà?
- Dạ, thưa cô, cháu không biết.
- Thôi, thế càng tốt! Người cùng làng cùng xã càng dễ bàn bạc. Vừa qua Quốc hội điều chỉnh lại khu hành chính các tỉnh. Cắt trả huyện mình về Vĩnh Phú. Lợi dụng giao thời, nhiều vị đang “chạy” vào nội thành, tranh thủ chuyển người thân quen của mình ở mạn ngược về gần. Cán bộ, nhân viên các phòng ban nháo nhào vì không biết rồi sẽ thế nào? Mặc kệ! Đâu cũng cơm gạo Nhà nước cả! Em về cùng chúng tôi gánh vác công việc chung.
- Phải cái... - Bà liếc nhanh xuống cái bụng chửa của em  - Tháng nào nằm ổ?
- Dạ thưa cô, năm tháng nữa ạ!
- Chắc sau tết! - Phó Chủ tịch xã gật đầu. - Còn việc này nữa. - Ngưng một chút rồi bà nói quả quyết - Mâu thuẫn của hai làng thuộc về quá khứ. Nay Quyết Chiến và Quyết Thắng hợp nhất thanh một xã, chị em mình có trách nhiệm vận động bà con đoàn kết lại để đẩy mạnh nền nông nghiệp của xã đúng với tinh thần chỉ đạo của cấp trên.
Em buột miệng:
- Cháu nghe nói chưa thống nhất được tên gọi của xã phải không cô?
Bà Phó Chủ tịch trả lời:
- Xong rồi! Chờ tổ chức mít tinh công bố quyết định cho tất cả dân làng là xong. Gớm! Bàn có mỗi việc lấy tên xã là Quyết Thắng hay Quyết Chiến thôi mà Đảng ủy, Ủy ban họp hai ngày mới xong - Bà chép miệng - Bây giờ gọi là xã Chiến Thắng. Mỗi làng lấy một chữ. Kể ra bên Quyết Thắng còn ấm ức, vì tên của mình lót sau. Nhưng thế mới vần chứ chẳng lẽ lại gọi là Thắng Chiến à? Nghe sao được? Ngang phè! - Bà Phó chủ tịch nói xong cười ha hả, đến nỗi cả răng lẫn lợi tưởng nhảy ra khỏi miệng - Đấy - Bà nói thêm - Em đến không gặp Chủ tịch ở nhà là vì hôm nay cậu ấy phải lên mời lãnh đạo huyện về dự Lễ hợp nhất hai làng và công bố tên xã mới đấy!
Em thắc mắc:
- Thế cán bộ giải quyết thế nào ạ?
- Huyện đành phải đứng ra dàn xếp chứ làm thế nào? Tên làng đổi thành tên thôn. Thôn nào cũng muốn người làng mình giữ vị trí chủ chốt của xã. Căng đến đận cấp trên phải cử người thôn Quyết Thắng làm Chủ tịch còn Bí thư là người làng Quyết Chiến. Cán bộ nghiệp vụ phân cho đều, chia cho sòng.
- Thế sao Phúc An đang là thị xã lại thành trị trấn hả cô?
- Ờờờ... Ààà... - Cái này... - Bà Phó Chủ tịch ấp úng - Chắc mấy ông lãnh đạo huyện muốn thị xã trở thành phố huyện?
Ơ... Hay nhỉ? Tuy vậy câu trả lời của bà không làm em thỏa mãn.
... Tùng... tùng... tùng... Tiếng trống dứt em ra khỏi ý nghĩ. Trên lễ đài, ông Bí thư người làng em vung dùi đĩnh đạc nện mạnh vào mặt chiếc trống một hồi với ba tiếng lẻ. Âm thanh chuyển động vang dội trong không gian. Chờ cho thanh âm lắng hẳn, ông sang sảng đọc quyết định của tỉnh công bố hợp nhất hai làng và công nhận tên mới của xã. Tiếng trống và lời tuyên bố của Bí thư làm rạo rực lòng người. Sau khi đọc xong, em nghe ông phân tích lợi ích của việc hợp nhất hai làng, về nghĩa vụ công dân, rồi vụ chiêm xuân sắp tới, thoắt cái ông nhảy sang đề cập  những vấn đề Quốc hội vừa họp; nói đến nhiệm vụ quốc phòng toàn dân. Ông còn mở rộng đến vấn đề chiến sự tại Trung Đông, tình hình Hồng Kông chuẩn bị được bàn giao trả về cho Trung Quốc...
Quả thật, người ta bảo vì Bí thư có tật nói nhiều và dai cũng chẳng quá! Mặt trời nhô cao, gió ngừng thổi, nắng rãi lên mặt các em thiếu niên học sinh xếp hàng dưới sân, mồ hôi ròng từng giọt. Đứa lớn lấy khăn quàng đỏ lau, đứa bé lấy vạt áo quệt. Chúng nghe nhưng không hiểu nên chúng ngoảnh đầu, chun mỏ vào nhau hót chuyện. Nơi em ngồi, các bà, các chị ngồi dãi thẻ nói chuyện vặt, mặc cho Bí thư nói Bí thư nghe. Họ kể cho nhau nghe chuyện gia đình này có cô con dâu hay cãi mẹ chồng, nhà kia chuẩn bị cho con ra ở riêng...
Mấy cậu thanh niên đeo băng đỏ làm trật tự chạy xuống nhắc:
- Đề nghị giữ trật tự.
Nhưng chỉ sau một lát, những cái mỏ chim xinh xinh lại ríu rít, chí chóe. Chúng chưa hiểu được những vấn đề xã hội phức tạp của vị lãnh đạo đang nói. Em nhìn lên hàng ghế đại biểu: Đại biểu ngồi chia thành hai phe. Quyết Chiến một bên, Quyết Thắng một bên. Giáp giữa hai hàng ghế, ngay đầu, ông cựu Chủ nhiệm kiêm chỉ huy dân quân, bây giờ đang giữ chức nhân viên tạp dịch ở Ủy ban xã cùng bố em, mặc quần áo bộ đội vải Tô Châu ngồi cạnh nhau. Thỉnh thoảng, hai người chụm đầu thì thào nói chuyện. Nắng xiên vào cái hõm sẹo trên trán ông cựu Chủ nhiệm trông rõ mồn một, bóng nhẫy. Bên hàng ghế đối diện, tác giá sinh ra cái sẹo, ngồi vênh mặt, dùng hai ngón tay vê vê cái cằm nhẵn thín không kém gì vầng hói trên đầu. Nhìn, em thoáng nhanh một ý nghĩ: “Sao bố con nhà ấy giống nhau thế không biết!”.
Tiếng vỗ tay lẹt đẹt tiễn vị Bí thư về chỗ. Rồi tiếng người dẫn chương trình vang lên:
- Xin trân trọng kính mời đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã lên phát biểu ý kiến.
À, chẳng kém cạnh miếng nào! Gà nhà mình gáy, gà hàng xóm cũng lên tiếng “cúc cù cu... cu”. Thế này chỉ khổ người nghe. Em nhìn người đại diện cho chính quyền xã bước lên khán đài ngờ ngợ... ngỡ đây là vị chỉ huy làng Quyết Thắng lên phát biểu. Em quay lại nhìn hàng ghế ông ta vừa ngồi. Không! Ông ta vẫn ngồi nguyên. Hai tay vẫn đang vê cằm... Em bỗng bàng hoàng nhận ra người đứng trên kỳ đài không phải ông mà chính là con trai ông ta. - Trời ơi! Đúng là nguyên mẫu. Chưa tin, em ngẩng lên, nhìn lại để khẳng định cho chính xác. Và, quả thực câu nói “trái đất tròn” có lý! Đã lâu em không gặp. Tổ trưởng (bây giờ là Chủ tịch xã) mặc bộ vét màu tím, cái trán di truyền được chải, phủ những sợi tóc mai loăn xoăn che bớt chỗ hói. Khuôn hình đẫy đà chững chạc, tiếng nói mạnh vừa đủ vang lên trong không gian. Tai em ù, mặt cúi gằm như ngại người phát biểu nhìn thấy. Nếu biết thế này mình sẽ không xin về đây. Em cúi xuống, giấu mặt vào hai đùi, không nghe thấy vị đại diện chính quyền nói những gì và xong lúc nào chẳng biết.
Bỗng có tiếng nhắc:
- Đề nghị cô Linh, cán bộ Trung cấp Nông nghiệp do Phòng Nông nghiệp huyện tăng cường cho xã lên sân khấu.
Nghe tên mình, em ngẩng phắt lên. Hóa ra đã tới phần giới thiệu thành phần cán bộ xã. Thấy em ngần ngừ, một người lên tiếng giục:
- Lên đi, người ta nhắc mấy lần rồi kìa.
Cực chẳng đã, em đứng dậy, ngay người cố che bớt lùm bụng, mặt cúi xuống nhìn đường đi. Tai em nóng ran, mường tượng; trong hàng trăm con mắt, có đôi mắt Tổ trưởng đang nhìn...
Nhưng tại sao em phải thế chứ? - Em xấu hổ, đấu tranh với ý nghĩ bạc nhược của mình. Em đâu phải là “kẻ chạy làng” mà em phải ngượng? Sự phản bội, tráo trở không nằm ở phía em. Em quyết định thả lỏng bụng, thậm chí còn cố tình ưỡn phưỡn bụng, mặt vênh lên như vừa trêu ngươi vừa chọc tức người đang nhìn.
Đó là ngày 5 tháng 9 năm…  
7. Maria bỏ xứ đạo. Cô đi mà không biết mình sẽ đi đâu? Lầm lũi, vật vờ như tàu lá bị gió thổi. Khát, vục nước ven đường uống. Đói, nhặt được gì ăn được là ăn. Đêm nằm vạ vật nơi nhà ga, bến xe, quán chợ, lề đường. Thân thể bẩn thỉu, hôi hám, áo quần tơi tả, dở mê, dở tỉnh, dật dờ lang thang khắp nơi, mọi chốn. Mắt nhìn về phía trước, bước gấp gáp, cố xua đi những hình ảnh xảy ra dưới tầng hầm nhà thờ. Và cũng không hiểu sao, từ hôm bỏ xứ đạo cô thôi cầu kinh? Không phải quên, mà cô không định thần được. Những lời kinh lộn xộn trôi tuột khỏi tâm trí cô.
Ra khỏi xứ đạo cô mới thấy thế giới của Chúa Trời tạo ra vô cùng rộng lớn. Trước đây, cô nghĩ nơi đâu cũng giống xứ đạo, dân chúng như đàn cừu hiền lành được chăn dắt. Bây giờ, trên đường đi, cô gặp nhiều nơi không có nhà thờ, kẻ ngoại đạo cũng đông hơn. Ngực không đeo thánh giá và mở mồm là văng tục, đánh, chửi nhau. Cô đi qua, họ nhìn, coi cô như một loài trên vật, dưới người. Ai xót thương bố thí cho bát cơm, manh áo. Kẻ khinh bỉ, xua đuổi như xua đuổi một con thú hôi hám tanh tưởi.
Maria đói, cô vào sân đợi trong nhà ga xe lửa tìm, nhặt cái ăn. Giữa đống rác rưởi, một mảnh dưa hấu ăn dở nằm chềnh ềnh, cô nuốt nước bọt đưa tay định nhặt. Đám ruồi nhặng bu lẫn trong đám hạt dưa đen nhánh và trên đống rác vù vù bay lên. Hình như chúng phản đối không muốn cô giành khẩu phần ăn mà người đời đã bố thí cho chúng. Maria chợt nhớ tới lời răn “... cởi nốt chiếc áo sơ mi còn lại...”. Cô bỏ đi, lũ ruồi lập tức đáp xuống bậu lên miếng dưa. Còn một vài con vo ve bay lượn trước mặt cô tỏ vẻ cảm ơn. Cô mỉm cười lấy tay bóp bụng, tựa vào hàng rào nhà ga, lơ đễnh nhìn đoàn người nối đuôi nhau xếp hàng ra ga. Trong hàng, một chú bé hồng hào chừng hai tuổi được mẹ bế. Đứa bé cầm nửa chiếc bánh mì vẫy vẫy đùa nghịch. Đói quá, mũi cô thoảng mùi bánh nướng, lưỡi thấy vị bột bùi, ngậy, cô ứa nước dãi... cô mong chú bé đánh rơi. Đột nhiên cô xấu hổ vì ý nghĩ tham lam của mình. Cô rời khỏi chỗ đứng, lắc đầu cố xua hình ảnh chiếc bánh. Nhưng không hiểu sao chân cô lại bước theo. Vô tình, cô lọt vào hàng, đi sau hai mẹ con, xếp hàng sau cô là một người đàn ông da tái, môi thâm xịt như người mắc bệnh sốt rét; tóc thưa, xác như rơm vò; quần áo may bằng vải diềm bâu màu cháo lòng; ngón tay dài bợt như bị ngâm nước. Hàng người chậm rãi nhích lên. Tiếng ồn ào náo động cả sân ga:
- Ai ăn bánh bột lọc không nào... - Tiếng rao kéo dài giọng.
- Ai mua mía không nào? Mía tím đây, mía tím đây...
Có tiếng hỏi:
- Phải tàu Phòng về không các bác?
- Phải! - Tiếng đáp cộc lốc.
- Tàu đỗ ở ga có lâu không hả các bác?
- Nửa giờ!
- Chiếc bánh trên tay chú bé như cục nam châm hút hồn, cô lọt vào hàng người, đi sau chú bé, mắt chăm chăm ngước nhìn cái bánh trên đôi bàn tay bé xíu. Người mẹ bế vác lên vai, mặt nó ngoảnh về phía Maria. Tay nó cầm bánh vung lên, vung xuống đập lên mặt Maria. Tưởng chú bé bón cho mình, cô há miệng, nhưng mỗi khi sắp ngoạm được thì cái bánh lại nhấc lên. Ngỡ Maria đùa, chú bé ngoạc miệng cười. Bụng Maria nhộn nhạo, không chịu được nữa, cô giằng phắt lấy cái bánh, đút vào mồm mình. Đứa bé bị cướp đột ngột, ré khóc ngặt nghẽo. Người mẹ quay lại, dang tay tát vào mặt Maria:
- Đồ ăn cướp!
Cái bánh văng xuống đất. Má Maria đỏ lựng hằn vệt ngón tay. Người đi sau Maria lên tiếng:
- Chấp làm gì người rồ.
- Còn trẻ mà đã mắc vào tình duyên ngang trái! Rõ khổ.
Người đàn bà bế con tru tréo:
- Rồ gì nó! Rồ mà biết ăn cướp à?
Thấy đứa bé khóc, Maria cúi xuống nhặt nửa cái bánh rơi cầm đưa trả. Người mẹ ghê tởm dùng chân đạp mạnh vào người cô, mồm tru tréo:
- Xéo đi, đồ điên! Người ngợm thế mà đứng gần người ta.
Cú đạp làm Maria mất thăng bằng ngã ngồi xuống.
Thấy ầm ĩ, một culít chạy tới, sau tiếng còi “toét, toét” là câu hỏi:
- Có gì vậy?
 Người đàn bà phân bua, tay chỉ vào Maria:
- Nó định ăn cắp đồ của tôi.
Khuôn mặt nhà chức trách đanh lại:
- Alê vào đồn - Cái dùi cui vung lên...
Maria nhắm mắt tránh. Nhưng có một bàn tay xòe ra đỡ lấy cái dùi cui:
- Người ta quẫn trí, sao lại đánh?
Dùi cui nện hụt, mắt culít trừng trạo:
- Định dây vào nhà chức trách hả?
Người đàn ông nói câu gì đó, nhưng tiếng nói của ông bị khỏa lấp trong tiếng mọi người phản đối tên culít:
- Người ta điên biết gì mà bắt vào đồn?
- Đừng vu oan cho người ta mà phải tội!
- Người quê đâu mà khổ thế?
Maria chống tay nhổm người đứng lên, tay nắm chặt mẩu bánh.
- Trật tự! - Tiếng còi “toét toét” trấn an vang lên. - Điên cho vào nhà thương điên - Người culit nói, rồi dùng dùi cui thúc vào lưng cô - Đi! Cút mẹ mày đi! Toa còn thấy mày ở đây toa cho vào tù - Nói rồi, nhà chức trách vung dùi cui dứ dứ vào mặt Maria mấy cái và bỏ đi.
Maria quay lại nhìn người đàn ông bênh cô, như thấy Chúa lòng lành vừa xuất hiện. Maria thở phào. May quá! Chiếc bánh mì trong tay cô vẫn còn. Cô định quay lại trả bánh cho chú bé, nhưng chợt nhớ tới cái dùi cui và viên culít. Cô đi ra đường, tìm lối ra ga. Trong đầu cô vẫn văng vẳng tiếng khóc ngặt nghẽo của đứa bé. Cô quên cả đói. Nỗi dằn vặt ân hận dâng lên trong lòng. Cô tránh đi vào hàng người xếp hàng, sợ người culít bắt được. Cô vòng xuống phía dưới nhà ga một đoạn, đi qua chỗ bẻ ghi, rẽ đường sắt, xoãi chân bước lên những thanh tà vẹt bằng gỗ bắc ngang. Đi qua nơi cấp nước cho đầu máy, cô đặt miếng bánh xuống, bụm tay hứng vào đầu ống tong tỏng nước vốc uống. Một người cầm cờ hiệu đi ngang qua chỗ cô quát:
- Tàu chuẩn bị vào ga. Tránh xa ra.
Maria cầm vội miếng bánh đi về phía sân ga. Len lỏi vào đám người đợi tàu, nghển cổ tìm nhưng không nhìn thấy chú bé đâu. Bỗng cô giật mình vì tiếng còi tàu hú vang, và tiếng rít của kim loại xiết vào nhau lẫn trong tiếng “xình xịch” từng nhịp. Rồi đoàn tàu như con rết khổng lồ bò vào ga. Hơi nước giật nhịp thành từng vầng thổi thẳng lên trời. Maria dán mắt nhìn theo “con rết” biết chạy, người lâng lâng như muốn chạy theo toa tàu... Một người nắm áo kéo cô lại:
- Muốn tự tử hay sao, mà lao vào đấy?
Quay lại, cô nhận ra đấy là người đàn ông đã đỡ cái dùi cui của tên culít định đánh cô. Đoàn tàu chạy từ từ rồi dừng hẳn, người lên xuống tấp nập. Có tiếng gọi:
- Toa đen dưới kia, đây là toa hạng nhì.
Maria ngơ ngác nhìn cảnh người đi lại hỗn loạn. Cô nghĩ: Chắc chú bé đã lên tàu. Nghĩ vậy, cô leo lên bậc.
Bỗng có tiếng:
- Vé đâu?
Người soát vé đứng trên sàn giơ đèn lên hỏi. Maria ngơ ngác không hiểu. Chừng như nhận ra đây không phải là người bình thường, người soát vé giơ bàn chân đi giày lên:
- Xuống! Đây là toa dành cho các ông lớn, bà lớn hiểu chưa? Cút xuống toa đen!
Maria tụt xuống ngơ ngác đứng nhìn. Người đàn ông bước đến gần cô:
- Cô đi về đâu? Nếu lên tàu thì theo tôi.
Maria đi theo ông ta về phía cuối đoàn tàu. Cô bắt chước ông ta trèo lên toa, leo vào trong. Toa đen không có ghế, lổn nhổn những đầu là đầu. Maria bị những người phía sau chen ẩy đu đi đu lại, chân bổng lên, đạp bừa phải những cái đầu. Tiếng làu nhàu, chửi bới, đéo xíu ầm ĩ. Có ai đấy huých vào sườn cô một cái rõ đau, cô ngã xuống sàn tàu, nhiều cái chân giẫm lên người cô. Dù vậy, bàn tay cô vẫn không buông mẩu bánh. Có ai đấy nâng cô dậy, nhích ra cho cô ngồi, Maria nhận ra người nâng mình là người đàn ông ban nãy.
Đây là lần đầu tiên Maria được đi xe lửa. Tiếng chuyển động “xình xịch” và tiếng va đụng của các toa đập, dội thành một hợp âm nhức nhối. Cây cối, nhà cửa hai bên đường như biết đi, khoảng trời ở khoang cửa hiện ra chạy loanh quanh như đèn cù. Mọi người trong toa chen chúc như lợn bị nhốt chặt trong lồng. Maria co hai tay ôm bầu vú, khép chặt hai đùi. Người đàn ông bảo:
- Cô ngồi vào phía trong cho khỏi gió - Nói rồi ông ta nhổm dậy.
Maria nghe lời, xoay người tựa lưng vào thành tàu, người ông khách như tấm chắn, chắn luồng gió lọt qua khe cửa của tàu thốc vào. Thân thể tạm được nghỉ thì cái bụng nhắc bị đói. Cô cầm cái bánh đưa lên mũi ngửi, nước bọt trong miệng đùn cộn đầy lưỡi. Ý định tìm đứa bé để trả lại mẩu bánh tan biến. Cô ăn, miếng bánh lấm cát, lạo xạo trong mồm. Không dám nhai, răng dứt từng miếng một và nuốt chửng.
Tiếng tàu chạy đều đều như ru ngủ. Maria thỉnh thoảng lại tỉnh giấc vì tiếng ồn ào của hành khách lên xuống mỗi khi tàu dùng ở ga. Cô hé mắt một chút rồi lại nhắm nghiền lại. Ông khách bó gối ôm chiếc túi cói, thi thoảng đảo mắt nhìn quanh như trông chừng bọn ăn cắp.  
8. Mít tinh xong, em thoái thác, lấy lý do vì mệt không ở lại liên hoan. Thực ra, sau mặt nạ bất cần là tâm trạng buồn nản, chán chường. Về tới nhà, mẹ ôm thằng bé đang ngủ ngồi trên hiên hè. Em lặng lẽ ngồi xuống cạnh, nhìn vào khuôn mặt đứa trẻ. Quá khứ đè nặng trong lòng. Mối tình đầu như chiếc dằm ẩn sâu trong da thịt; thi thoảng nhói, xé rách miệng làm vết thương nhuốm máu. Ý định toan tính đào sâu chôn chặt kỷ niệm không thành. Tưởng cố quên là xong, ai ngờ, càng cố quên, kỷ niệm càng hiện ra, trỗi dậy vò xé tâm can. Cuộc gặp gỡ sáng nay như sự trớ trêu của định mệnh. Em không thoát nổi phải đối mặt với chứng nhân lịch sử của đời mình. Như bức tranh vẽ vội, xóa nhưng không sạch, đốt nhưng tro tàn còn vương lại. Lòng dấy lên nỗi niềm cay đắng. Em thề với mình không chấp nhận gì hết ở con người bạc bẽo ấy.
Càng không thể khi bà Phó Chủ tịch xã vô tình nói về Tổ trưởng:.
- Tốt nghiệp Trung cấp nông nghiệp xong, lên huyện công tác. Học xong Đại học tại chức, bây giờ được bổ nhiệm về làm Chủ tịch xã. Nói năng đâu ra đấy! Vùng này mấy ai được như cậu ấy? Vợ đẹp nõn nà, phải cái mãi mà chẳng đẻ đái gì.
Hay bởi tại em ghen? Không! Chỉ có lòng thù hận tràn ngập. Những người đàn ông em đã gặp, em đong vào một duộc. Tổ trưởng - tay thợ ảnh - ông Trưởng phòng, em tưởng tượng họ như ba con giòi bơi trong tương, nổi phềnh, ngo ngoe, ngọ nguậy. Giòi bọ nào mà chẳng giống nhau? Nếu có khác, chẳng qua được phối giống sinh nở ở từng nơi - ở tương là giòi tương; ở phân là ở giòi phân... với em, cả ba là giòi đời! Những con giòi đời còn ngoe nguẩy trong cuộc sống của em đến bao giờ? Cho đến ngày em xuống mồ chăng?
- Sao thế con? Có chuyện không vui à? - Mẹ hỏi.
Em lau vội nước mắt:
- Có gì đâu mẹ!
- Con người ta có số con ạ - Mẹ an ủi. Trời cho gì mình được nấy. Cứ vui lên mà sống. Có gì đã có bố mẹ. Em nhìn mẹ xót xa. Những tưởng nuôi con lớn để nhờ cậy. Ai ngờ, em mang gánh nặng cuộc đời mình chất chồng lên vai bố mẹ. Ai đã từng phải giả vờ vui mới thấy nỗi khổ đau vì phải lấy hạnh phúc giả ngụy trang lên cuộc đời thật.
Bố về, thấy mẹ con, bà cháu ngồi tụm trên hè, ông hỏi:
- Sao lúc liên hoan con lại về?
- Con mệt.
- Cậu Chủ tịch đến chào bố, hỏi mãi về con.
- Con có gì mà hỏi?
- Cậu Chủ tịch còn gửi cho thằng bé quả quýt đây này. Gớm! Quýt đâu mà to lạ?
Nghe bố cứ một điều “cậu Chủ tịch” hai điều “cậu Chủ tịch”, làm em khó chịu, đâm bẳn:
- Bố chỉ thấy người sang bắt quàng làm họ thôi! - Em xẵng giọng, rồi đứng dậy đi vào nhà.
Mẹ mắng:
- Con Linh ăn nói với bố hay nhỉ?
Bố cười:
- Ngày trước thấy hai đứa chơi thân với nhau bố mới nhận. Chứ có phải cậu ta là Chủ tịch mà bố nhận đâu?
Mẹ nói:
- Ông đừng nói chuyện ngày xưa nữa. Bế cháu cho tôi vo gạo. Ông ăn liên hoan no chán rồi, định để cho mẹ con tôi đói hử?
Bố đón đứa bé lên nựng:
- Nào, ông bế cháu của ông nào. Ăn no chóng lớn, nay mai học giỏi mà đi thoát ly làm cán bộ Nhà nước cho sướng, làm nông dân như ông khổ lắm.
Mẹ bưng rổ gạo ra đến giữa sân, nghe bố nói, đứng lại cười:
- Gớm! Con Linh nghe bố mày nói xem. Từ ngày được phụ trách Hội cựu chiến binh ăn nói ra dáng.
Em ngồi đọc sách trong nhà, mắt nhìn vào sách nhưng tai lại vểnh lên nghe bố nói:
- Cậu Chủ tịch khá ra phết. Nói năng đâu ra đấy. Nghe cậu ấy phân tích về tương lai các khu công nghiệp mà sướng cả tai, thế mà dân làng ta cố chấp chửi là đồ phò mã tốt áo.
- Con nó đã không thích nói đến cậu ta, ông cứ nhắc! - Mẹ ngắt lời.
- Ấy... có thế nào tôi nói vậy chứ có tô vẽ gì đâu? Yêu ghét phân minh, xấu tốt rạch ròi, đâu cứ vơ đũa cả nắm thế được. Hai làng bây giờ là một rồi, phải đoàn kết lại thì mới khá được. Đời bố khác đời con khác!
- À - Bố nói như chợt nhớ - Cậu Chủ tịch bảo tôi về làm đơn trình bày trường hợp hy sinh của bà ngoại gửi lên để xã xem xét lại.
- Chắc gì được? Hồi trước nhờ mãi ông Chủ nhiệm làm đơn kêu đấy thôi - Mẹ nói.
- Thì trên đã phổ biến mình cứ làm. Được thì tốt, chẳng được mình cũng chả ân hận. Hồi xưa bận đánh Mỹ, bây giờ chắc Nhà nước có điều kiện?
- Được rồi, mai tôi nói con Linh làm đơn - Chợt mẹ kêu - Thôi chết! Nồi cá kho cháy rồi - Sau câu nói và tiếng chân bước thình thịch của mẹ là mùi cá cháy khét lẹt bay vào tận buồng.
Tiếng bố nựng thằng bé:
- Cá cháy mặc cá cháy cháu nhỉ! Hai ông cháu cứ vào buồng kềnh kềnh cang làm một giấc đã. Vài hôm nữa ông cho cháu ra Ủy ban nghe phổ biến chính sách đền bù cháu nhỉ.
Nghe bố nói, em chột dạ. Hay là bố biết chuyện? Em không chắc, nhưng có điều này em biết; khuôn mặt của đứa bé y hệt khuôn mặt Tổ trưởng, đôi mắt màu tro, khóe miệng đỏ và tươi hồng như môi con gái, và đặc biệt là cái trán, hai bên nhẵn và hói, được phân đôi bởi một mớ tóc non tơ mềm mại, quăn tự nhiên rủ xuống. Đối với người từng trải như bố, điều em muốn giấu kín đâu có thể dễ dàng qua mặt được ông. Vả, lối quan tâm trên mức thông thường của Chủ tịch và xem thái độ cố tình xa lánh của em đã mách bảo cho ông một điều gì đó chăng? Bất chợt em nói to thành tiếng:
- Chuyện đâu để đấy! Họp hành hay ăn uống ở đâu, bố đừng vui chuyện mà nói linh tinh.
Không có tiếng bố trả lời. Mẹ từ bếp đi lên:
- Chắc hai ông cháu ngủ tít rồi? Thằng bé bện ông ngoại lắm!
Em đứng dậy, phủi quần, ngó qua cửa sổ; đứa bé gác chân lên ngực ông ngoại; ông ngoại ngoẹo đầu, mồm há, ngáy như kéo bễ.
Em ra sau nhà, ngồi xuống gốc cây ổi. Gió thổi, cành lá rì rào như một lời nhắc, sắp đến giỗ bà ngoại rồi.
9. Tiếng náo động đánh thức Maria dậy. Nắng kẻ vệt lọt qua thành cửa chạy loang loáng theo nhịp bánh tàu lăn. Hành khách nhốn nháo nhìn về cuối toa. Người đàn ông kiễng chân, nghển mặt, mông đít chìa sát mặt Maria. Màu quần vàng ệch như màu da làm Maria ngỡ ông ta cởi truồng. Maria vịn thành toa đứng dậy. Người đàn ông quay lại:
- Cô thức rồi à? Giữ hộ tôi cái bị để tôi xuống xem có việc gì.
Nói rồi ông đưa cho Maria chiếc bị cói. Có tiếng đàn bà:
- Đàn ông đàn ang biết gì chuyện đẻ đái mà mò tới chỗ ấy không biết?
Thêm một tiếng giễu cợt:
- Biết đâu ông ta biết đỡ đẻ thì sao?
Tiếng cười rộ lên. Người đàn ông lấy tay gạt, rẽ lấy lối đi. Hai từ đỡ đẻ kích thích trí tò mò, Maria ôm cái bị trước ngực bước theo,
Góc toa xe, một người phụ nữ độ tuổi ngoài hai mươi, bụng chửa, nằm vật vã, tóc xõa bết mồ hôi, mặt nhăn nhúm, tay ôm bụng. Một người đàn bà trung tuổi ngồi cạnh, đang xoa bụng người chửa:
- Chọn lúc nào chẳng chọn, lại chọn đúng lúc đi tàu mà đẻ?
- Giời ơi là giời, đau thế này thì chết mất thôi... Người phụ nữ chửa kêu.
Người đàn ông hỏi:
- Hai bác về đâu?
Người đàn bà trung tuổi dừng tay xoa:
- Tôi cũng như ông, thấy người ta vậy thì chạy đến chứ quen thuộc gì.
Người đàn ông nghe giọng biết ngay gặp phải người đàn bà đáo để. Ông lựa lời:
- Bà khuyên chị ấy cố nhịn, đẻ ra ở đây thì chết cả mẹ lẫn con.
Người đàn bà trung tuổi nói xấn xổ:
- Nhịn là nhịn thế nào? Nói thế mà cũng nói. Đàn ông các người chỉ biết “ấy”... là giỏi, chứ biết gì đẻ đái mà nói? Gái này cữ mấy bận biết rồi; có bận, mải làm, thấy chuyển dạ, chửa kịp cởi quần trèo lên giường, thằng cu đã tọt ra suýt thì rơi.
- Tưởng còn ít ngày nữa mới vào cữ, ai ngờ lại sớm thế. - Người chửa rên rẩm kể lể rồi bỗng thét lên - Ối! ối, ối đau quá các ông, các bà ơi! - Rồi chị ta víu chặt vào tay người đàn ông thở dốc.
Người đàn ông lẩm bẩm thành tiếng:
- Không biết tàu sắp đến ga chưa?
- Chuyến này không đỗ ga xép, mà chạy thẳng đến ga Phúc An mới dừng lại để tiếp nước - Người đàn bà trung tuổi nói, ra vẻ người bôn ba.
Maria đăm đăm nhìn người đàn bà chửa lăn lộn.
Hình ảnh nhà hộ sinh nơi xứ đạo hiện về trong tâm trí. Cô nhớ đôi bàn tay mềm mại, ướt đẫm nhớt máu của xơ già và tiếng oa oa khóc của những sinh linh bé nhỏ. Đột nhiên như bừng tỉnh, cô xô mọi người giạt ra:
- Làm ơn cho tôi vào. - Quay lại cô bảo người đàn ông - Tìm cho tôi ít giẻ để lau - Ngồi thụp xuống, cô lấy cái bị cói kê đầu người phụ nữ chửa - Thôi nào... thôi nào... bác cứ nằm ngửa ra cho dễ thở. Đừng thẹn! Con so hay con dạ?
- Dạ, dạ, con, con, đầu. - Người chửa hổn hển trả lời.
Maria nắn bụng:
- Đầu đứa bé đây rồi. May! Thai thuận! Đừng lo, chị nằm ngửa dạng hai chân ra - Maria kéo hai chiếc túi của hành khách đi tàu kê vào khoeo chân bà chửa - Đâu rồi?
- Maria hỏi - Đã chuẩn bị giẻ cho tôi chưa? - Cô cởi phắt tấm khăn trùm đầu, nâng mông người chửa, luồn tấm khăn xuống dưới.
Người đàn ông nhìn quanh, bàn tay bụm miệng làm loa gọi:
- Đề nghị bà con ai có mảnh vải hay quần áo thì giúp đỡ - Ông cởi phăng cái áo đang mặc trên người đưa cho Maria.
Nhoáng cái, có vài tấm áo chuyển tới. Người đàn ông đưa cho cô:
- Thế này đủ chưa cô?
- Để đấy rồi ra ngoài kia! Đàn ông ai lại xem bà đẻ? Phải tội... - Maria nhắc y như lời xơ già thường nói khi đỡ đẻ.
Người đàn ông đỏ mặt lùi ra phía sau. Chợt Maria gọi giật giọng:
- Này, bác!
Ông ta quay lai. Maria đưa cái áo ông vừa cởi:
- Bác mặc vào, ngần này đủ rồi.
Người đàn bà trung tuổi xuýt xoa:
- May nhá! Phúc tổ bảy mươi đời thế nào trên tàu lại có mụ đỡ.
- Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh - Tiếng một người đế vào.
Trong phút chốc, Maria thành mụ đỡ. Mụ đỡ nhìn quanh:
- Lấy cho tôi ít nước.
- Tàu đang chạy thế này thì lấy đâu ra? - Người đàn bà trung tuổi trả lời. Mụ đỡ kéo dải rút quần của bà chửa:
- Ối vỡ rồi! Đừng thẹn! Đừng kêu! Dành sức, khi nào tôi bảo rặn mới được rặn!
Người chửa mím môi, đầu nhổm lên đặt xuống, vai vặn và vặn vẹo, da bụng căng, mạch máu xanh nổi trông tựa chùm rễ cây:
- Đã thấy “nó” chưa?
Mụ đỡ hỏi vọng:
- Ai có chanh cho xin một quả!
Tiếng người đàn ông đứng ngoài xướng theo:
- Ai có chanh cho bà đỡ xin một quả!
Mụ đỡ như chợt nhớ:
- Kiếm cho tôi con dao thật sắc!
Những thứ mụ đỡ yêu cầu được người đàn ông chuyển vào. Không chỉ có một mà hàng chục quả chanh và vài con dao được chuyển tới. Tay mụ đỡ lựa, đặt tay vào mom đầu tí xíu nằm thập thò ở cửa mình bà đẻ:
- Tốt rồi... Bây giờ chuẩn bị nhé! - Mụ đỡ bảo bà đẻ. - Khi nào tôi bảo rặn là rặn. Nào... - Mụ đỡ hô. Rặn... rồi... rồi... thế... thế... cố... cố nào...
Người chửa bám chặt tay vào đống hàng hóa để cạnh, gồng người, khuôn mặt rúm ró, hai chân co ngược, bàn chân khua khó khăn, tiếng ậm è nặng nhọc như người đẩy thuyền ngược thác - Ự, ựựựự. Ự!
- Ẹẹẹ. Oeoeoeoeoe - Tiếng đứa trẻ đột ngột tức tưởi át cả tiếng tàu chạy. Tiếng mụ đỡ vang lên:
- Giêsuma! Con gái mọi người ơi! Con gái! - Mụ đỡ cầm hai chân dốc ngược đầu đứa bé reo.
Hành khách trong toa nghển cổ nhìn, trút một hơi thở dài. Tiếng khóc của đứa trẻ làm giãn nếp nhăn trên mặt, trả lại sự thanh bình trong lòng họ - Đứng là trời có mắt! Không hiểu sao trong lúc khó khăn lại có sự tình cờ như vậy! Hay là trời phật đã xếp đặt sẵn?
Mụ đỡ khòng khuỷu tay ẵm đứa trẻ, tay kia gại lưỡi mấy con dao - Lưỡi nào cũng cùn! Cắt thế này thì đứa trẻ sẽ đau, mà rốn sẽ không đẹp! - Mụ đỡ nghĩ. Chợt nhìn thấy cái liềm. Mụ đỡ cầm lên, ngón tay cái chạm hơi lạnh của lưỡi liềm sắc lẹm. Mụ đỡ tì đầu ngón tay vào sát bụng đứa trẻ ngoắt tay: “Xoẹt” một nhát gọn, búi nhau rơi xuống sàn toa. Nhìn máu nhướm từ cuống ruột vừa cắt, mụ đỡ kêu to:
- Ai có chỉ khâu cho xin một đoạn?
- Trên tàu lấy đâu ra kim chỉ? - Có tiếng ai đấy trả lời.
Người đàn bà trung tuổi lấy răng xé tấm áo, rút lấy vài sợi đưa cho mụ đỡ:
- Chỉ ở đây chứ chỉ ở đâu!
Mụ đỡ ngoằng hai vòng thắt cuống rốn, rồi nói với người đàn bà trung tuổi:
- Bổ giúp tôi quả chanh.
Bà trung tuổi xăng xái bổ liền mấy quả, mùi chanh làm miệng bà ứa nước dãi:
- Tôi chưa thấy ai đỡ đẻ dùng chanh bao giờ cả?
- Bảo bổ thì cứ bổ, sao mà lắm nhời? - Có tiếng phụ nữ đứng ngoài nói.
Bà trung tuổi ngoắt lại, nhưng tiếng khóc rật rã của đứa trẻ khiến bà ta quên phắt ý định tìm người vừa nói để cà khịa.
Mụ đỡ vắt nước chanh vào mắt đứa bé, nó gào như phải bỏng. Mụ đỡ nựng:
- Khóc nữa đi con, khóc nhiều càng nở phổi - Mụ đỡ lấy tay gợt nhớt, dùng vải mềm thấm cho khô, quấn nó vào một chiếc áo sạch, rồi đặt xuống cạnh người mẹ - Ôm lấy con!
Người mẹ gượng sức nói:
- Cảm ơn cô. Không có cô hôm nay mẹ con tôi chết
- Ơn Chúa trời chứ ơn gì tôi? - Maria nói đặc sệt giọng xơ già. Nói rồi cô kéo quần mặc cho sản phụ, thu dọn các thứ bẩn thỉu gói vào một gói. Người đàn bà trung tuổi đứng cạnh bảo cô:
- Gói riêng cái nhau để cô ấy đem về nhà chôn ở giọt gianh cho đứa bé được mát da mát thịt.
- Ôi dào! Tàu bè thế này đẻ được đã là phúc rồi còn lo chuyện vớ vẩn! Tàu đang chạy, quẳng mẹ nó xuống! - Có tiếng đai lại.
- Bà bảo ai vớ vẩn? - Người đàn bà trung tuổi vặc - Đã không biết lại còn gàn dở.
- Bà biết sao lúc nãy không vào mà đỡ?
Người đàn ông đứng ngoài thấy vậy gàn:
- Thôi đi các bác! Có gì mà cãi nhau? Cùng là hành khách cả, ai giúp được gì thì giúp - Ông quay sang nói với Maria - Cô gói lại, chốc nữa tàu đỗ ở ga tôi đem xuống bỏ cho.
Người đàn bà trung tuổi ra chừng vẫn còn bực. Mở bao tượng lấy cối trầu ra nghiền lấy nghiền để.
Đứa bé được hưởng hơi ấm của mẹ thôi khóc nằm im. Người mẹ nhờ người đàn ông:
- Trong đẫy của tôi có cơm nắm muối vừng, bác làm ơn lấy giúp.
Mùi muối vừng thơm đánh thức cái đói. Maria cảm thấy như lâu lắm rồi mình mới được ăn. Cô quên cả làm dấu phép, lau tay qua loa, cầm lát cơm chấm vừng ăn ngon lành. Bà mẹ dúi vào tay người đàn ông:
- Không đói bác cũng phải ăn với cô ấy một miếng. Không có vợ chồng bác hôm nay là mẹ con em chết!
Người đàn ông đỡ lời:
- Tôi với cô ấy cùng lên tàu ở ga Gia Lâm. Có quen biết gì cô ấy đâu!
- Thế mà em tưởng bác và cô ấy... - Người đàn bà trung tuổi góp chuyện, đưa tay quệt nước trầu cạnh mép.
 Chợt có tiếng cười reo:
- À... Phải rồi, cô này bị thằng culít đánh ở sân ga đây mà! Thế sao ai cũng nói cô ấy bị rồ? Rồ mà biết đỡ đẻ thế này thì ai mà chả muốn rồ?
Maria đã ăn xong, không chú ý tới mọi lời bàn tán. Miệng cô vẫn còn vương vị bùi của cơm và mùi thơm của vừng. Cô bâng khuâng nghĩ: “Không ngờ ước mơ được tự tay đón một sinh linh bé bỏng ra đời diễn ra như vậy trên một chuyến tàu này”. Theo thói quen, cô lần ngực tìm thánh giá, nhưng rồi cô chợt nhớ đã quẳng nó đi rồi. Một chút ân hận nhen vào tâm trí, Maria chắp tay lên ngực như muốn hối lỗi và tỏ lòng cảm ơn Chúa trời đã ban cho cô sức lực và trí tuệ để vượt qua thử thách đầu tiên.
Nhìn Maria, chừng như hiểu cô đang gặp hoàn cảnh éo le, sản phụ nói:
- Đến ga Phúc An, mời cô xuống thăm nhà để gia đình tôi cảm ơn đã. Muốn đi mai tôi lại đưa ra ga.
- Phải đấy! - Có tiếng phụ họa - Cô xuống chơi cho biết nhà cô ấy.
Maria lưỡng lự nhìn người đàn ông như hỏi. Người đàn ông chủ động:
- Tôi cũng xuống ga đó mà. Đến ga, cô bế cháu bé, còn tôi đỡ cô ấy xuống. Tàu đỗ ở ga này mười lăm phút để tiếp nước cơ mà.
Tàu chạy từ từ vào ga. Người đàn ông rút chốt đẩy cửa, ló đầu ra quan sát. Trên sân ga lố nhố lính Tây và cảnh binh đứng. Một người thở dài:
- Chắc lại có chỉ điểm nên lính mới ra đông thế này?
Tàu đỗ, mọi người rẽ lối cho Maria xuống, tất cả hành khách nhìn theo cô thân thiện, trìu mến. Đứa bé được mọi người trên tàu chuyển tay nhau đưa ra cửa. Từng người vạch tấm áo ủ đứa bé lên nhìn nó một chút như gửi lời chào tạm biệt, có người còn cúi xuống thơm vào đôi má gây gây mùi nước ối. Người đàn ông xách hành lý nhảy xuống, ông cầm chiếc bị cói đưa cho Maria, nói nhỏ:
- Cô che kín giúp tôi cái bị, đừng để bọn lính nhìn thấy.
Maria làm theo, cô vắt dọc tấm khăn, buông xõa che kín đứa trẻ và chiếc bị. Mắt cô nhìn, thấy người đàn ông khác với mọi người; lòng dâng trào sự cảm mến không cắt nghĩa nổi...
Người mẹ được người đàn ông dìu, chị ta còn yếu, da trắng xanh vì mất máu và mệt mỏi. Chị khoanh tay cúi chào mọi người, những giọt nước mắt tạ ơn trên mí mắt của chị lăn từ từ trên má rồi rơi xuống. Nắng chiều tắt hẳn. Xa xa, ba ngọn núi nhọn hoắt, in trên nền trời tím sẫm. Ngang chừng núi, một dải lửa cháy, cách quãng từng khúc như thân con rồng quấn quanh sườn núi. Người phụ nữ trung tuổi xách cái gói đựng nhau đưa cho người đàn ông;
- Bác nhớ chôn giúp vào chỗ giọt gianh cho cháu nhỏ. - Giọng nói méo xệch.
Tàu hú còi, tiếng vọng đập lại nghe âm vang. Người đàn bà giơ tay lên vẫy. Đoàn tàu chuyển bánh, “xình xịch, xình xịch...” lao vào màn sương chiều lãng đãng rồi xa khuất.
Trời tối nhanh, trên sân ga nhìn đã nhọ mặt người ở cửa kiểm soát, ánh sáng từ chiếc đèn đất treo trên cao tỏa rộng. Nhân viên soát vé mặt cau có như khỉ, cầm vé giơ lên soi vào đèn như soi bạc giả. Bên ngoài, nhân viên thuế vụ lục soát tất cả hàng hóa hành khách gồng gánh.
Nhìn người đàn ông dìu bà đẻ, ai cũng ngỡ họ là vợ chồng. Ông ra vẻ cúi xuống nhìn để bước, nhưng thực ra, ông cố tình đi chậm, có ý tránh con mắt của bọn lính. Maria bế đứa bé đi về phía cửa kiểm soát, ông muốn gọi bảo cô chờ, nhưng ngại bọn lính để ý.
Maria theo hành khách đi ra cửa. Cô bị chặn lại:
- Vé đâu?
Maria ngơ ngác, không hiểu vé là cái gì? Người soát vé gạt cô ra:
- Dẹp, lấy lối cho người khác! - Hắn dùng tay đẩy cô sang bên cạnh - Có vé mới được ra!
Một gã đội mũ phớt, lưng tựa bờ tường nhà ga, khuất trong bóng tối nhập nhoạng, chiếc kính đen mù mịt như mắt xẩm, liên láo soi mói hành khách xuống tàu. Thấy điệu bộ Maria, đôi mắt đen của gã dừng lại. Linh tính nghiệp vụ bảo cho gã biết đây là người xứ khác lạc tới. Rời khỏi chỗ đứng, gã lượn qua lượn lại, lấy tay lật khăn trùm đứa bé. Hơi lạnh lùa vào làm đứa bé ọ ọe... mùi gây hôi sục vào khứu giác nhạy như chó của gã chỉ điểm làm gã khó chịu:
- Lên tàu từ đâu mà không mua vé?
Maria lắc đầu, gã chỉ điểm nghĩ mình gặp phải một kẻ vừa câm vừa điếc, chửi:
- Đồ con tườu... Câm điếc mà biết đẻ? Lên tàu biết trốn vé?
Nói rồi - gã lượn về nơi gã vừa đứng, đôi kính đen chuyển sang những khách xuống tàu đang trả vé.
Người đàn ông dìu người đàn bà đến chỗ Maria. Ông nói nhỏ với hai người:
- Không có vé không chừng sẽ lôi thôi to. - Ông đưa cho người đàn bà tấm vé - Chị thông cảm với hoàn cảnh của cô ấy. Nếu cưu mang được thì giúp hộ...
- Thế còn bác? - Người đàn bà hỏi.
- Tôi đã có cách - Ông dúi vào tay người đàn bà túi hành lý và bọc nhau - Nếu bọn lính hỏi, chị trả lời không quen tôi - Ông nói với Maria - Cho tôi xin cái bị. À, em tên là gì? Cho tôi biết để nay mai còn tìm.
- Maria. - Cô trả lời lí nhí.
- Maria, Maria - Người đàn ông lẩm bẩm - Cái tên đẹp và dễ nhớ quá - Chợt ông đặt tay lên vai cô, giọng ấm áp - Em đừng đi lang thang nữa! Theo về nhà với bác ấy. - Những ngón tay nóng hổi của ông riết róng lấy vai cô - Thôi, tôi đi Maria nhé! Hẹn có ngày sẽ gặp lại nhau.
- Người đàn ông cầm bị, đi nhanh về phía mấy toa hàng nằm lù lù trên đường ray phụ, rồi lẩn nhanh vào đêm tối.
Gã chỉ điểm quay lại, nhìn hai người đàn bà dìu nhau đi qua cửa soát vé. Gã cau mặt, cố nhớ xem như thiếu một cái gì mà mắt hắn vừa chụp và óc vừa ghi nhận được? - Người đàn bà đi cùng với con mụ câm điếc! Thế còn gã đàn ông đâu? Thôi chết rồi! Hắn sững người tự trách mình mất tập trung. Hắn rảo bước đến chỗ mấy thằng lính đang đứng, tay chỉ trỏ ra hiệu. Maria lo lắng nhìn tụi lính đi về phía các toa hàng.
Thằng chỉ điểm chặn hai người lại:
- Các người có quen người đàn ông đi cùng không?
Mặt Maria ngây thuỗn như không hiểu, còn người phụ nữ trả lời:
- Chúng tôi không biết!
- Không biết mà để nó dìu?
- Thấy tôi không đi được ông ta giúp đỡ chứ quen biết gì?
- Thế hắn ta có nhờ các người cầm hộ gì không?
- Không có gì cả.
Gã chỉ điểm giơ đèn soi:
- Cái gì đây? - Gã hỏi.
Người đàn bà trả lời:
- Không có gì.
Gã chỉ điểm giằng bọc nhau:
- Đưa đây xem. - Hắn thọc tay vào cái bọc, chợt rút vội - Cái gì thế này? - Hắn giơ tay lên - Năm ngón tay nhuộm máu và nước bẩn.
 Người đàn bà nói:
- Tôi đã bảo không có gì mà ông còn khám.
Gã chỉ điểm hầm hầm:
- Sơ ý một tý để sổng mất thằng Cộng sản nòi. - Gã bỏ đi, mồm văng lại một câu chửi tục.
Nghe hai tiếng “Cộng sản”, Maria hỏi:
- Sao họ ghét Cộng sản thế nhỉ?
- Tại vì Cộng sản hay thương người. - Người đàn bà trả lời.
Người ấy là Cộng sản? - Maria nghĩ - Thế sao Cha Phêrô lại căm thù người Cộng sản? - Khuôn mặt người đàn ông hiền lành hiện ra trong tâm trí cô: bờ vai cô, nơi bàn tay của người đàn ông đặt lên còn ấm nóng; tai cô văng vẳng lời người đàn ông ước hẹn... “Tôi đi nhé! Hẹn có ngày sẽ gặp lại nhau”. Maria ghì chặt đứa bé vào lòng, ngước mắt nhìn bầu trời sao. Trong triệu triệu ngôi sao, có hai ngôi sao nhìn Maria nhấp nháy.
Đó là mùa thu Phúc An năm 1936.

10. Em xót xa nhìn những thửa ruộng trồng thử nghiệm giống lúa mới. Vừa hôm trước cấy, sáng nay ra thăm đã thấy bị đổ xiêu đổ vẹo. Tiếng vịt quàng quạc báo cho em đấy là nguyên nhân. Bực bội, em xăm xăm chạy đến chỗ con bé chăn vịt có ý định mắng cho một mẻ.
Nhưng khi đến nơi, em ngây người nhìn con bé, nó nhỏ và gầy như một que tăm, mái tóc rối bù, mặt nhem nhuốc, vết bẩn ở mũi chảy ra không được lau đọng thành ngấn trên gò má. Hai ống tay áo thõng thẹo, đung đưa, phơ phất như hình nhân làm bằng giấy đặt trước gió. Thấy em tới, con bé luống cuống:
- Cô ơi, cháu quát mãi mà chúng chẳng nghe. Cháu cháu cháu... Cháu sẽ bảo bố cháu ra cấy lại...
Nhìn con bé, em quên phắt ý định. Em nói:
- Nhà cháu ở đâu?
Cái vai con bé cụng cựng theo đôi mắt hướng về vườn chuối, nơi có một chiếc lều mái lợp rạ nằm gần đầm Vực:
- Thưa cô, nhà cháu chỗ có bờ rào bằng dâm bụt kia kìa.
À, em chợt nhớ có ai đã kể: Có người thương binh sau khi bị vợ bỏ đi, bế con ra đầm Vực dựng lều làm nhà, phá đất làm vườn để sinh sống. Dân làng thấy hoàn cảnh của anh ta vậy không ai nỡ nói. Nhìn cạnh nó có cuốn sách và cây bút chì, em hỏi:
- Thế cháu cũng đi học à?
- Thưa cô, nhà trường họ không nhận. Đây là bố cháu dạy. - Con bé trả lời:
Em ái ngại nhìn vào hai ống tay áo nó. Như biết ý, nó nói:
- Cháu viết bằng chân được mà cô. Cháu còn biết cả đuổi vịt cơ!
Rồi như sợ em không tin, nó cặp chiếc que có buộc mảnh vải nhảy lò cò trên bờ ruộng xua đàn vịt. Tiếng “mà cô” của đứa bé tật nguyền nghe não lòng. Cùng với hành động của nó làm tim em nhói lên một cảm xúc vừa thương xót vừa đau đớn. Em lấy khăn mùi xoa lau mặt và lấy tay vuốt mái tóc nó.
- Thế cháu muốn đi học lắm hả? Để cô xin giúp cháu!
- Tại một lần cháu nghe đài kể chuyện về anh Nguyễn Ngọc Ký, thế là tự nhiên cháu muốn được làm như anh ấy. Cô ơi, cháu muốn làm được như anh Ký. Nếu cháu được đi học, cháu chỉ xin ngồi ghé thôi mà cô. Ngồi đất cũng được, cháu sẽ mang chiếu đến.
Giọng nói và ngôn ngữ của con bé vừa trẻ con lại già dặn làm em chạnh lòng:
- Để hôm nào cô trình bày với bà Phó Chủ tịch xã xem có giúp được cho cháu không! Thế bố cháu có đồng ý không?
Con bé nhảy cẫng lên vì vui sướng:
- Thế mà bố cháu bảo người chửa khó tính lắm. Người bình thường chửa mới khó tính cô nhỉ! Còn cô là cán bộ nhưng cũng làm ruộng nên có chửa cũng khác cô nhỉ? - Giọng con bé trong veo, còn thân người nó nghiêng ngả như sắp ngã.
- Ấy kìa, ngã bây giờ - Em giơ tay ra như muốn đỡ lấy nó.
Con bé cười:
- Cháu còn biết bơi cơ! - Nó nói như khoe - Cháu còn đi chăn trâu thuê đấy cô ạ.
Nghe em kể về con bé, bà Phó Chủ tịch bảo:
- Cậu ấy người làng Quyết Thắng, bố mẹ chết sớm, đi bộ đội về lấy một cô rõ xinh xắn. Đẻ đứa đầu bị chết lưu, đến con này thì bị tật nguyền. Mẹ nó đẻ xong thấy vậy bỏ hai bố con đi biệt tăm biệt tích. Gia đình xa lánh, anh ta bế con ra đầm Vực phá đất làm nhà. Rõ khổ, chẳng có chế độ gì. Nhà nước ta sao ấy? - Bà phàn nàn, quên cả mình đương chức Phó Chủ tịch. - Toàn bộ tuổi trẻ và sức khỏe của họ hy sinh, để cả trong chiến trường rồi. Con vậy, bố thì nay cấp cứu, mai cấp cứu, rõ khốn nạn cái thân! May mà được cậu Chủ tịch can thiệp, hằng tháng đề nghị xã trợ cấp theo diện hộ nghèo chứ không thì đói. Nếu em nhận đỡ đầu thì tôi sẽ nói với các đồng chí trong Ban Giám hiệu nhà trường. Có cái em làm là tự buộc khó cho mình đấy!
Mẹ biết chuyện ca cẩm:
- Làm phúc thì phải tội con ạ! - Nói vậy nhưng hôm nào em ở tổ thí nghiệm về mẹ cũng hỏi - Nó học được không? - Rồi mẹ lẩm bẩm giọng thương xót - Ai đời viết bằng tay đã vất, bây giờ lại dùng chân mà viết.
Bố nói:
- Thà không có thì thôi, còn đè ra thiếu cái này cái nọ hoặc lại chẳng biết gì thì khổ người nuôi.
Em biết nói câu này bố có ý nhớ tới lần đưa mẹ đi đẻ ở bệnh viện Phúc An. Hình như bố mẹ rất sợ nhắc đến chuyện đau lòng ấy. Tuy vậy, đến giao thừa năm nào cũng vậy, cúng xong mẹ đem trang phục trẻ con làm bằng giấy mua ở chợ Phúc An cùng với đồ cúng cho ông bà ngoại ra sau nhà hóa. Em để ý thấy mỗi lần mẹ mua, áo quần năm nay to hơn năm trước. Có lần mẹ nói:
- Giá em nó thành người thì năm nay cũng học cấp ba rồi đấy!
Chắc mẹ nghĩ trần sao âm vậy, đứa em không hình người của em ở dưới âm phủ cũng lớn lên như vậy.
Khi làm giấy tờ nhập học, em mới biết con bé đã mười tuổi, nhưng vì tạng người và chắc bởi ăn uống không đầy đủ nên trông nó còm nhom, yếu rớt. Con bé dùng chân trải chiếu giữa hai hàng ghế ngồi của học sinh. Trông nó viết, cảm tưởng, như đang đánh vật với từng con chữ. Hai ngón chân gân guốc cặp chặt cán bút, chân kia đè lên, mông con bé nhấp nhổm, lưng gập thấp, đầu gối chân nhô cao hơn, ngực của nó tì sát xuống làm căng giãn vạt áo lưng, in từng rẻ xương sườn thành hình cong vát sang hai bên lườn, đôi vai luôn ngọ ngoạy khổ sở; mồ hôi từ thái dương chảy, nhỏ thành giọt tong tong rơi xuống cuốn sách; mớ tóc xém cháy vì nắng trời và gió của đầm Vực, thưa và mỏng xõa xuống trán chạm vào những dòng chữ màu tím. Thi thoảng em đến, đứng ngoài cửa sổ nhìn vào. Nó ngẩng lên nhìn em, nét mặt rạng rỡ, em có cảm giác con bé vui sướng lắm! Và, đôi mắt của nó trở nên không bình thường nữa, giống như công việc nó đang làm, đôi mắt hóa thành hai ngôi sao rực cháy, ngời ngời, chói sáng, cả khuôn hình như bông hoa nắng, được sinh ra từ ánh sáng ban mai ấm áp.
Buổi sáng đi học, buổi chiều nó lùa vịt ra đồng chăn. Lúc rỗi em kèm cặp dạy thêm cho nó. Được cái con bé nhận thức nhanh. Hình như đấng sáng tạo thấy mình vô lý nên cho nó phép bù trừ. Thân thể thiếu một phần, nhưng đôi chân của nó như biết làm phép. Những lúc em bận, nó làm cỏ, tung phân bón ruộng, tháo nước từ bờ mương vào... Còn bố con bé thì cảm ơn em bằng cách chặt cành rong tre rào phần ruộng thí nghiệm.
Một hôm, bà Phó Chủ tịch xã gọi em sang phòng:
- Em biết chụp ảnh phải không?
- Dạ, thưa cô, cháu biết võ vẽ chứ không giỏi.
- Thì phải dần dần chứ ai mà giỏi ngay được. - Phó Chủ tịch nói - Thế này nhé! Tôi được cậu em đi Nhật về cho cái máy ảnh. Nhưng ở Ủy ban xã chẳng ai biết chụp cả. Từ đây lên phố huyện lại xa. Các đồng chí lãnh đạo bên Ủy ban nhờ em có hội nghị quan trọng nào của địa phương thì chụp để làm kỷ niệm hoặc bức ảnh nào giá trị thì lưu vào tài liệu trong nhà truyền thống xã. Ý Linh thế nào?
Một ý nghĩ và hình ảnh Chủ tịch thoáng nhanh trong đầu, em ngập ngừng:
- Thưa cô, cháu bụng mang dạ chửa thế này...
- Ối dào, thi thoảng mới chụp chứ chụp như ở hiệu đâu mà sợ? - Bà Phó Chủ tịch nói như đóng sống cho em phải nhận.
Nhưng khi nhìn thấy cái máy ảnh nhãn hiệu Canon đẹp như một tạo vật trong tay và em đã bị nó hút hồn. Em cảm thấy nó là vật dành cho mình. Nó là cái máy mà đối với nhiều thợ ảnh chuyện nghiệp còn là niềm ao ước.
Ngay chiều hôm ấy, em được lệnh sang phòng họp Ủy ban xã chụp ảnh hội nghị. Chủ tịch xã mon men tới:
- Linh vào uống nước.
Em quay ngoắt không thèm trả lời, lẳng lặng chụp. Xong việc em ra đầu hè đứng, mặc cho ông nhân viên Ủy ban mời thế nào cũng không vào văn phòng. Thấy vậy, bà Phó Chủ tịch góp ý:
- Dù không hợp nhau nhưng vì quan hệ công tác, em cần tỏ ra là người có văn hóa. Nhất là mình lại là cán bộ dưới quyền.
Em cãi lại yếu ớt:
- Cháu đang có chửa nên ngại vào chứ có gì đâu cô?
Phó Chủ tịch khuyên:
- Muốn gì cũng phải đối mặt với sự thật Linh ạ.
Linh tính như mách bảo em rằng bà Phó Chủ tịch xã biết chuyện quan hệ giữa em với Chủ tịch xã. Chẳng gì hai người cũng là họ hàng với nhau. Chủ tịch xã gọi Phó Chủ tịch là cô họ. Quả vậy, trừ những ngày em ra đồng, còn hầu như ngày nào em có mặt ở phòng, Chủ tịch xã cũng lấy cớ sang chỗ em xin số liệu hoặc hỏi tình hình về phát triển nông nghiệp. Nếu không, thì Chủ tịch cũng cố tình lấy lý do sang phòng Phó chủ tịch. Phòng làm việc của em nằm sát với phòng bà Phó chủ tịch nên đi qua chỗ em mới sang đấy được. Dẫu không muốn em vẫn phải nhìn, mỗi lần thoáng nhìn thấy, em quay ngoắt vào phía trong có vẻ như không để ý. Nhưng lâu mãi thành thông lệ, như một thói quen khó quên, nếu hôm nào Chủ tịch không sang là em lại thấy như thiêu thiếu. Và như cố tình, cuộc họp nào Ủy ban cũng yêu cầu mang máy sang chụp. Dần dần em không tránh né nhưng cố tình không tiếp chuyện. Thậm chí, có lúc đứng trước mặt, em coi như không có, lúc đi em còn đung đưa cái bụng như trêu ngươi. Em đã chạm vào đúng nỗi đau nhất của anh ta: Lấy nhau lâu rồi mà vợ vẫn không có thai.
Nhờ có cái máy ảnh, cuộc sống của em được cải thiện. Thấy em có máy, bà con hai làng có việc cần chụp ảnh đều đến nhờ. Tuy còn kỳ thị làng nọ làng kia nhưng việc em nhận đỡ đầu cô bé bị tật nguyền nên dân cả hai làng coi em như một ngoại lệ còn chuyện xích mích của hai làng vẫn âm ỉ.  
11. Ngày giỗ, tôi theo mẹ và dì mang lễ vào chùa. Từ sau tuần cúng thứ bảy, mẹ mời các vãi làm lễ cầu siêu rước vong hồn bà Lang và Thầy Mo vào chùa Nhuế. Có người hỏi mẹ:
- Sao không đưa hồn hai người lên chùa Cẩm hay chùa Thập Phương có phải vừa to vừa đẹp hơn chùa làng Nhuế không?
- Lúc sống bà Lang nương nhờ chùa Nhuế. Sư già muốn đưa vong linh ông bà về đây cho gần gặn, sớm khuya hương đèn cho ấm cúng.
Không biết ngôi chùa xây dựng từ đời nào? Những gốc duối móc ken nhau, già đáu đía, thân mốc thếch, vỏ xù xì, cành ngắn cũn, lá xanh ngắt. Sân chùa rêu mọc kín, chừa lại một vệt đi nhẵn thín, cánh giại che nắng bằng tre, đan lóng mốt thưa huếch hoác. Không khí lặng tờ, quạnh hiu, rờn rợn như trong truyện trinh thám tả.
Nhìn cảnh chùa cô quạnh, mẹ nói:
- Từ ngày Tây cấm hội họp, nghe chừng chùa vắng. Con nhang đệ tử ít đến hương khói?
Dì đẩy cửa, ngó cổ nhòm vào, tiếng cửa kẹt làm tóc gáy tôi dựng đứng. Có tiếng khản đục trong buồng vọng ra:
- Ai đấy? Người làng hay khách thập phương đến vãn chùa?
- Cụ ơi, con đem hương hoa, nhờ cụ nhang đèn, siêu sinh tịnh độ cho bà Lang và Thầy Mo - Mẹ trả lời.
- Thế hử? Mở rộng cửa ra cho sáng.
Dì mở cửa, ánh sáng ùa vào. Trên mái, ánh nắng xuyên qua những chỗ ngói thủng, chiếu rọi, như hàng trăm tia hào quang phủ lên mình Phật Bà nghìn mắt nghìn tay tọa lạc trên đài sen và những đồ thờ rực rỡ sơn son thếp vàng. Dì thắp đèn, đốt nến, mẹ sắp sửa đồ cúng. Một lát, tiếng mõ nhặt khoan và lời lầm rầm đọc kinh của sư già. Mẹ, dì và tôi quỳ đằng sau. Tôi cảm tưởng, trên ngai thờ, Đức Thánh Mẫu đang lắng nghe tiếng ngâm nguyện của mẹ và dì. Trong óc tôi, hình ảnh những giây phút cuối cùng của bà Lang và Thầy Mo hiển hiện. Mỗi khi nghĩ tới bà, tôi ân hận vì thái độ kỳ thị, vô ơn của mình.
Tụng kinh xong, ba người ngồi uống nước. Sư già chép miệng:
- Giá ngày xưa bà Lang nghe lời tôi xuống tóc, tu thân tĩnh tại ở chùa thì đâu nên nỗi. Có nhẽ bà ấy còn nặng lòng với bên đạo? Chẳng vậy hưởng lộc chùa bao nhiêu vẫn không quên làm dấu. Được cái, ngày rằm, mồng một siêng lễ lạt lắm. Bà ấy nói với tôi: “Bạch cụ, con nghiệm bên giáo hay lương đều khuyên nhủ người ta làm điều thiện. Kẻ nào ăn ở hai lòng mới có dã tâm phản lại rời răn của Đức Chúa, phản lại lời dạy của Phật Tổ”. - Sư già đưa cho mẹ và dì mỗi người miếng trầu - Nói cho bằng tâm, chùa này được như bây giờ cũng nhờ tiền cắt thuốc, đỡ đẻ cung tiến của bà ấy. Nam mô A Di Đà Phật. Từ ngày bà Lang theo hầu Phật, cây thuốc sau vườn chùa chẳng ai chăm nom, còn mỗi cây ngải cứu chẳng cần ai chăm bón mà cứ mọc tràn lan.
- Con nghe nói bà Lang ở với cụ ăn lộc giời, học được nghề cứu thế từ cụ? - Dì hỏi.
- Tôi truyền cho bà ấy một, bà ấy học thiên hạ mười. Đi đâu thấy bài thuốc hay lại mang về ghi ghi chép chép. Ai phải bệnh nào chữa trị bệnh ấy. Con người thế mà chết oan chết ức. Thôi, âu cũng là số phận. Bà Lang sớm được về với Đức Phật ngày nào đỡ phải nhìn thấy cảnh trái ngang nơi trần thế!
Lời của sư già thật khó hiểu. Những người đáng kính và giàu lòng nhân ái như bà Lang và Thầy Mo có tội tình gì mà không đáng sống? Tại sao Đức Phật nghìn mắt nghìn tay, quyền phép vô song, uy vũ khôn lường không hóa phép ra tay giết hết lũ quỷ Tây đội lốt người, từ đâu sang đây ức hiếp những người dân vô tội?
Trên đường về, tôi hỏi mẹ:
- Sao ngày đó mẹ không cho bà Lang ở nhà mình?
Mẹ đáp:
- Lúc ấy cô Maria chưa làm nghề đỡ đẻ và làm bà Lang. Hàng ngày cô nấu cơm thợ, giặt giũ giúp mẹ và dì. Nhưng thằng chỉ điểm nghi ngờ, cho người theo dõi, thấy cô Maria không câm điếc, nó tư giấy cho Lý trưởng bắt cô lên đồn Cảnh binh tra xét. Nó buộc tội cô giả vờ câm điếc để lừa mật thám và lính Tây đánh tháo cho người đàn ông Cộng sản chạy. Bố phải mất bao nhiêu tiền lo lót cô ấy mới được thả. Cô Maria không có giấy tờ tùy thân, Lý trưởng không cho cô ở. Để được yên thân, mẹ nhờ sư già chùa Nhuế cho cô vào nương nhờ cửa Phật, hàng ngày phụ sư già bốc thuốc, học nghề, có người đẻ gọi thì làm mụ đỡ.
- Từ ngày ấy có thấy người đàn ông tìm về không chị? - Dì hỏi.
Mẹ đáp:
- Cho tới ngày Việt Minh cướp Chính quyền vẫn không thấy anh ta về. Mấy lần có người trong làng đánh tiếng muốn hỏi cô làm vợ, nhưng cô ấy nói với họ: “Con gái bên đạo không lấy hai chồng. Em tin thể nào rồi anh ấy cũng tìm về. Anh ấy chẳng rồi đấy thôi?”
Đêm ấy ngủ, tôi mơ:
Bà Lang dắt tay người đàn ông về nói với mẹ:
- Anh chị làm lễ cưới cho chúng em. Đám cưới của hai người được tổ chức ở phố cũ. Nhà tôi còn nguyên lành như lúc chưa xảy ra chiến sự. Rạp cưới chăng đèn, kết hoa rực rỡ. Người các phố ở thị xã Phúc An đến đông nghịt. Ngoài sân, bố và tốp thợ ở xưởng, cởi trần thịt lợn, thui bò. Dưới nhà ngang, mẹ và mọi người tấp nập giã bánh dày, thổi xôi, đóng oản. Lũ trẻ con mặc quần áo mới chạy xung quanh hát trêu: “Cô dâu chú rể, đội rế lên đầu...”. Pháo nổ giòn rã, ông Thầy Mo dắt tay bà Lang đi giữa những tiếng hoan hô và tiếng hò reo náo nhiệt của mọi người. Ông Trưởng làng cùng dân xứ Châu Lam dắt trâu bò, đồ lễ, khênh kiệu đến rước dâu, ai nấy tươi cười, hát ca, nhảy múa rộn ràng...
Tôi len lỏi đi tìm người đàn ông Cộng sản và cô Maria nhưng không thấy. Tôi òa khóc nức nở bắt đền. Mẹ cười, nói:
- Con nhìn xem, hai người ở kia thôi.
Ông Thầy Mo hóa thành người đàn ông Cộng sản, bà Lang biến thành cô Maria. Cả hai người nắm tay nhau, người đàn ông mặc quần áo, diện như cậu Phán trên Tòa Chánh sứ, cô Maria mặc áo tân thời như nữ sinh trường con gái. Nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt thiên thần. Đứng quây tròn xung quanh là bộ đội và tự vệ. Tất cả mọi người vỗ tay bắt nhịp hát, tiếng hát bay vút, ngân nga như tiếng chuông nhà thờ mỗi khi chiều buông...
Bỗng nhiên, ông Trưởng làng xuất hiện hô vang:
- Bà con ơi, bọn Tây đến... bọn Tây đến... - Kèm theo lời ông là tiếng quát tháo ầm ầm.
Tôi choàng dậy, mặc dù vậy, trước khi tỉnh hẳn, tôi còn kịp mơ thêm một chút: Cô Maria dắt tay người đàn ông của mình bay thẳng lên trời...
Dụi mắt, tôi ngơ ngác, rồi nhận ra lão Lý trưởng Phúc An cầm tờ giấy, đứng cạnh là quan Chánh cẩm, đầu đội mũ phớt, mắt đeo kính đen, mặt áo ka ki cộc tay màu vàng, vạt áo nhét trong quần, bụng phồng to, lặc lè vòng thắt lưng nhà binh. Mấy tên lính đang lục lọi, khám xét. Những thứ trong nhà tôi bị chúng lật lung tung bành. Dì đến giường bế tôi, một thằng lính quay ngang khẩu súng lùa hai dì cháu:
- Cút ra ngoài kia. - Hắn bật cười nhìn theo bước chân cà nhắc của dì.
Bố, mẹ, và mọi người trong nhà bị dồn ra đứng ngoài hè. Người hàng phố đứng xem đông nghịt. Một tên lính quát:
- Xê ra cho các quan tìm đồ quốc cấm.
Lão Lý trưởng từ trong nhà đi đến chỗ bố đứng:
- Có tài liệu hay truyền đơn gì của Cộng sản thì nộp. Đừng để đến khi các quan khám được thì tù mọt gông.
- Bẩm ông - Bố nói - Nhà tôi làm gì có gì mà nộp.
Lão Lý trưởng ngoắc ngoắc chiếc ba toong:
- Hừ... tùy ông thôi! - Lão quay ngoắt, nói vọng vào nhà - Khám thật kỹ.
Từ ngày nhà tôi ở ngoài vùng tự do trở về, Lý trưởng nghi bố làm gián điệp cho Việt Minh. Lão cầm giấy đến nhà:
- Quan Chánh cẩm yêu cầu những gia đình dinh tê mỗi lần ra ngoài phạm vi tỉnh Phúc An phải trình chính quyền sở tại.
Nhiều gia đình đi tản cư bỏ về, sợ, phải đem quà lễ đến nhà lão. Riêng bố tôi không làm vậy nên lão thù. Bố tôi nói với ông Ký ga:
- Làm thế không nhẽ người quân tử phải lụy kẻ tiểu nhân?
Thế là kẻ tiểu nhân hôm nay được ngày đắc chí. Lão Lý trưởng xông vào, cùng tụi lính bới móc, lục lọi từng khe, kẽ và các đồ đoàn mà lão và bọn chúng nghi ngờ. Khi một tên lính định cạy nắp hòm gian kê làm bàn thờ, bố nói:
- Trong ấy có rắn độc đấy!
Tên lính Pháp không nghe hoặc giả nó không biết tiếng Việt, gạt đôi cây nến gỗ rơi xuống đất rồi bật nắp, thò tay vào... Bỗng nó rú lên hãi hùng, tay rút vội, mặt xám ngoét:
- Ố la la... ố la la... - Khẩu súng tuột khỏi vai, tay ôm tay lăn lộn dưới đất gào khóc.
Bố nói to:
- Tôi đã nói trong hòm có rắn độc mà các vị không nghe.
Miệng hòm, vài ba cái đầu rắn nhô lên, ngóc cao, phùng bạnh mang, giương đôi mắt vô cảm, lưỡi phóng liên tục, trông như những tia chớp màu đen. Bọn lính cùng một lúc ồ lên chạy giạt ra, đứa nọ xô vào đứa kia. Lão Lý trưởng nháo nhào chạy, vập phải quan Chánh cẩm, cái ba-toong vô ý đập bốp vào lưng quan. Quan Chánh cẩm quay phắt lại, rút khẩu súng bé xíu chĩa vào mặt Lý trưởng:
- Đồ con lợn! Bắt nó đậy lại.
Quả thật, dân Phúc An đồn quan Chánh cẩm nói tiếng An Nam sõi hơn người An Nam là không ngoa. Nghe lệnh, lão Lý trưởng quát:
- Quan lệnh nhốt rắn lại.
Mẹ đi vào, mấy cái đầu rắn hổ mang cụp lại, lủi xuống đáy. Mẹ nhặt nắp hòm đậy lại. Quan Chánh cẩm há hốc mồm ngạc nhiên, rồi bỗng nói to:
- Đàn bà An Nam tốt! Tốt!
Quan Chánh dùng từ “tốt” thay cho từ “giỏi” để khen mẹ.
Lúc này, tên lính bị rắn cắn đã được khiêng ra đường, nằm sõng soài, mặt mày tím tái, xanh như vỏ quả đu đủ; bên cánh tay bị rắn cắn sưng to vì dây buộc ngăn nọc độc chạy vào tim. Bố lật bàn tay, lấy dao nhíp rạch vết rắn cắn cho rộng, rồi áp miệng hút mạnh. Những người đứng xem ghê sợ nhắm mắt lại. Bố nhổ máu đen lẫn nhớt rãi ra đất.
Được một lúc, tên lính thôi kêu, hơi thở đều, mắt lim dim. Lão lý trưởng hỏi:
- Liệu thể có khỏi không?
Bố không trả lời, hai tay nhúm nắm lá dì vừa giã, đắp vào chỗ rắn cắn, rồi bảo:
- Dì buộc hai nút cho chặt - Bố dặn tên lính - Mỗi ngày đến đây thay hai lần lá. Làm hai chục ngày là khỏi.
Tên lính nhổm dậy, quỳ gối, chắp hai tay lễ. Bố nói:
- Tôi cứu chữa vì cái tình con người chứ đâu vì sợ.
Lão Lý trưởng hầm hừ:
- Lại định huyên truyền phải không?
- Ngu! Tuyên truyền chứ không phải huyên truyền. - Quan Chánh cẩm mắng Lý trưởng. - Tiếng mẹ đẻ còn không thuộc.
Những người dân phố quay đi, giấu nụ cười khinh bỉ kẻ tay sai ngô ngọng.
Nhưng, không phải việc làm nào dẫu là tốt cũng được mọi người nhìn nhận một cách quang minh chính đại. Việc bố chữa rắn cắn cho người lính Tây đồn ra khắp tỉnh, dân trong thị xã có kẻ nhìn bố với con mắt miệt thị và khinh bỉ. Thấy bố băn khoăn, mẹ nói:
- Cứu một người phúc đẳng hà sa.
Dì đồng tình:
- Mình ăn ở thế nào đã có giời, ai nghĩ thế nào thì nghĩ.
Người lính sau khi được bố chữa khỏi tỏ ra ân cần với gia đình tôi lắm. Chủ nhật nào cũng mang bánh mì và pho-mát cho chị em tôi. Thấy vậy người hàng phố ra nguýt vào lườm, có kẻ còn đổng đảng:
- Tưởng thế nào? Bỏ Việt Minh về ôm đít Tây.
Bố nhờ ông Ký ga phiên dịch nói với anh ta:
- Việc cứu chữa cho anh là vì tình người. Còn bây giờ khỏi rồi, anh đừng đến nhà nữa.
Người lính Pháp nói:
- Tôi sang đây làm nghĩa vụ vì nước Pháp. Chẳng may bị nạn. Ông bà là người sinh ra tôi lần thứ hai. Tôi muốn làm con nuôi.
Bố lắc đầu không chấp nhận:
- Tôi là người Việt Nam máu đỏ da vàng; anh là Tây da trắng, không cùng chủng tộc, nuôi được nhau ngày nào đâu mà nhận.
Ông Ký ga thay bố nói với người lính Pháp một hồi. Cuối cùng chừng như anh hiểu, nhưng tỏ ra lưu luyến lắm, mắt đỏ hoe như muốn khóc. Khi anh về rồi, ông Ký ga nói với bố:
- Anh ta kể với tôi: anh ta hết hạn rồi nhưng không được về mà sắp phải ra trận.
Một hôm, anh ra nhà mang theo rất nhiều kẹo bánh cho chúng tôi, và tặng bố mẹ tôi một bức ảnh. Trong ảnh một người phụ nữ trẻ, da trắng tóc vàng, mắt xanh, ngả đầu tựa vào ngực anh. Anh nói tiếng Việt trọ trẹ:
- Vợ tôi đấy!
Sau lần ấy cả nhà tôi không gặp lại anh nữa. Nhưng bức ảnh anh tặng gia đình tôi lại gây cho bố tôi rất nhiều phiền phức. Đấy là chuyện về sau, còn bây giờ xin độc giả cùng tôi quay lại những gì đang xảy ra.
Một hôm thầy giáo lên chơi với bố. Sau một tuần trà, thầy giáo nói:
- Có nhẽ tôi phải đóng cửa trường. Hôm qua có giấy báo gọi khám quân dịch.
- Thầy tuổi vậy mà Chính phủ vẫn bắt? - Bố hỏi.
Thầy giáo thì thào:
- Quân đội Pháp đang xây dựng cứ điểm ở Tây Bắc. Thiếu người, tổng động viên, không đánh nhau thì làm phu - Rồi thầy giáo nói rất nhỏ vào tai bố.
Thầy giáo về, bố đem chuyện nói lại với mẹ. Mẹ hỏi:
- Phải đóng cửa trường à? Thế còn chuyện học hành của cu Thừa nhà ta?
- Ở nhà chứ biết làm thế nào. Muốn đi học phải chờ hết năm.
Đối với bố mẹ, con cái không được học là một thiệt thòi, nhưng với tôi không phải đi học lại là một điều thích thú. Thấy thái độ tôi vậy, thằng “tên” lên tiếng miệt thị:
- Đồ lười, không chịu động não. Nay mai lớn lên chỉ chuyên ăn bám, rồi hổ danh tên tớ.
Dào ơi, tên với tuổi! Mặc, cần gì! Tôi cầu trời khấn phật cho thầy giáo phải đi lính. Như vậy, rồi tiện chân đá bay cái túi đựng sách vào gậm giường như đá quả bóng. Nếu thầy giáo đi lính tôi sẽ thoát cái cảnh suốt buổi hơi một tý là:
- Trò Thừa ngửa tay ra! - Năm thước vì tội viết ẩu.
- Trò Thừa úp tay xuống! - Năm roi vì tội không thuộc bài.
- Trò Thừa quỳ gai mít! - Vì tội đánh nhau gây mất trật tự trong lớp.
Nếu không phải đi học, tôi trở thành người tự do, muốn đi đâu chơi chả được.
Tôi nói với thằng “tên”:
- Cậu cần danh, cần tiếng chứ tớ chỉ cần ăn và chơi thôi.
Vài ngày sau, điều tôi mong đã thành sự thật. Nhưng khác là thầy giáo không đi lính mà bỏ trốn. Còn đi đâu không ai biết. Chỉ thấy khắp thị xã dán cáo thị truy nã và lão Lý trưởng dẫn lính ngồi trên xe gíp chạy loạn phố, con chó béc giê chồm hổm ngồi cạnh, tai con chó dựng đứng cao hơn cả đầu lão. Chiếc xe chạy loạn xị ngậu khắp phố Phúc An rồi đỗ xịch trước cửa nhà tôi, con chó nhảy xuống trước hung hăng lôi lão Lý trưởng xềnh xệch theo sau. Mấy tên lính sục thẳng vào nhà, nhìn sau, ngó trước. Lý trưởng ngồi phịch xuống phản, hỏi:
- Có người bẩm với quan đồn: trước khi đi anh ta có đến gặp ông bà?
Bố trả lời:
- Tôi với thầy giáo cùng ở trong Hội tế; con tôi là học trò của thầy. Chúng tôi đi lại chơi với nhau cũng là lẽ thường.
Lý trưởng gườm gườm nhìn bố, con chó béc - giê ngồi cạnh chỉ chực chờ lệnh:
- Nếu tôi biết lão giáo trốn đâu mà ông cố tình che giấu thì đừng trách chúng tôi - Lão nói thêm - Thầy giáo gì mà toàn huyên truyền tư tưởng Việt Minh Cộng sản? - Rồi lão hằm hằm dọa. - Sáng sớm ngày mai ra pháp trường mà xem xử tử Cộng sản.
Nghe lão Lý trưởng nói ngoài trường bắn hôm sau có vụ xử tử Cộng sản, anh trai nhảy cẫng lên:
- Mai rủ mấy thằng trốn học đi xem mới được.
Tôi đòi theo, anh dọa:
- Em còn nhỏ, ra đấy tụi lính đuổi chạy không kịp nó bắt được thì đi tù - Và anh nhét cho tôi một nắm kẹo cao su và mấy quả bóng bay - Ở nhà, bao giờ lớn anh cho theo.
Anh trai biết thóp tôi sợ bị tù lắm và tưởng cho tôi kẹo là tôi sẽ sướng mà không đòi đi theo anh nữa.
Quả thực hồi bé cứ nghe tiếng “tù” là tôi sợ. Chả là hồi được ba tuổi, một lần lính Tây giải một xâu tù nối nhau bằng dây xích thành chuỗi đi qua cửa nhà. Chân tay của người tù bị xích. Sợi xích to chằng qua hai chân, làm cho những bước đi càng vướng víu nặng nề, mỗi lần bước tiếng xích kêu loảng xoảng. Mắt người nào cũng hõm hòm hòm, đầu cạo trọc lốc, da sần sùi, mụn mọc nham nhở chỗ trắng chỗ đỏ. Thi thoảng mấy người lính áp giải giơ dùi cui quật xối xả vào đầu, vào mặt tù nhân khiến máu me chảy ròng ròng. Tôi cùng lũ trẻ lấm lét nhìn. Từ đó, đêm nào tôi cũng mê, rồi vùng dậy chạy, mồm la hét thất thanh. Mẹ sợ tôi bị mắc bệnh tâm thần phải đến nhà lão Tàu ô cắt thuốc cho tôi uống mới đỡ bệnh.
Nhưng chuyện xử tử Cộng sản lại kích thích trí tò mò của tôi. Vả, bây giờ tôi đã lớn, những đứa bằng tuổi anh trai ở phố tôi “mày, tao” hết. Cứ theo chuyện anh trai kể, thì hồi anh trai cùng hai chị trốn nhà đi xem người chết, rồi bị nước lụt cuốn thì anh trai còn bé hơn tôi. Thế mà bây giờ lại ra vẻ... Có cái là anh, tôi phải chịu, nhưng kiểu “cậy lớn” là không được! Nghĩ vậy, tôi nhổ toẹt thanh kẹo cao su ra khỏi miệng, ném phắt mấy quả bóng bay vào gậm giường và hậm hực nghĩ cách. Thằng “tên” nghe chừng cũng muốn đi xem nên im lặng, nhưng nó không kìm nổi hồi hộp, tôi nghe rõ tiếng tim đập thình thịch, tôi bảo:
- Liệu ra đấy nhìn thấy máu cậu có tè ra người tớ không đấy?
Thằng “tên” ngóc cổ ra đối lại:
- Chẳng biết đứa nào vãi tè ra trước đấy! Có còn nhớ lần bị “Tào Tháo đuổi” ở trong rừng không? Lúc ấy đứa nào sợ chết?
Tôi cáu:
- Cậu có câm đi không? Đồ tiểu nhân! Chuyện cũ rích rồi mà còn nhai nhải nhắc đi nhắc lại.
Thấy tôi nổi khùng, thằng “tên” thụt cổ vào. Tôi không thèm nói nữa. Vả, tôi còn phải tính làm sao ngày mai không ngủ quên để khỏi nhỡ giờ xử tử. Tôi nghĩ mình sẽ phải dậy trước và ra khỏi nhà trước anh trai, nếu để ai bắt gặp thì đừng hòng mà đi.
Đêm ấy, tôi cố tình nằm xa dì. Thấy vậy, dì cười:
- Cu Thừa hôm nay lại không thèm dì xoa lưng cho cơ đấy!
Tôi im re, làm sao dì biết được âm mưu của tôi? Buổi chiều, trèo lên cây khế, tôi vặt lấy hơn chục quả đem về giấu dưới gậm giường. Tôi còn tước một sợi dây chuối rõ dài, lừa lúc đi ngủ buộc vào chiếc dép của anh trai rồi luồn qua giát giường cầm sẵn vào tay, để phòng nếu có ngủ quên khi anh trai dậy xỏ chân vào dép tôi sẽ biết liền. Tôi căng mắt cố chống đỡ cơn buồn ngủ. Thi thoảng lại cắn một miếng khế. Khế non, vừa chát xít lại vừa chua gắt làm răng và lưỡi tôi ê ẩm. Đầu tiên còn được, sau, nhấm được một lúc trong miệng trơ khấc, mất hết cảm giác, nước khế vào miệng chẳng còn thấy mùi vị gì nữa, mắt cứ díp lại. Sợ ngủ quên, tôi vùng dậy mở cửa sau đi đái. Nhưng ra ngoài trời tối om, cả bầu trời đen kịt, gió thổi xào xạc, những thân cây chuối và cảnh vật trong vườn sau trở nên huyền bí, khoảng vườn hẹp mà sao thấy mênh mông? Óc tôi lại tưởng tượng ra những hình ảnh kinh dị đầy ma quái, tôi vụt chạy vào nhà, trèo vội lên giường ôm lấy dì. Tiếng động gây cho chiếc giường lâu ngày cọt kẹt, cọt kẹt. Dì cằn nhằn:
- Uống cho lắm nước vào...
Sợ dì phát hiện ra âm mưu, tôi lật ngửa, một tay xoắn vòng đây buộc dép vào tay, tay kia vắt lên trán, mũi khò khò giả vờ ngáy, còn óc lẩm nhẩm bài học thuộc lòng trong sách Tân quốc văn mà tôi thuộc nhất:
“Trần Bình Trọng anh hùng ngàn thu bước
Đem tấm thân bảy thước, chống sơn hà
Mạng lo đền nợ trước trả thù nhà.
Trong tâm khảm nặng tình yêu Tổ quốc.
Nhưng than ôi! Tài trai dầu thao lược
Hùm thiêng kia khôn địch một bầy hồ
Vì sa cơ nên bị bắt cầm tù...”
Đọc đến đấy, tôi tưởng tượng ngày mai ra pháp trường sẽ gặp được một người Cộng sản, hiên ngang như ông Trần Bình Trọng nhìn vào kẻ thù mà tuyên bố:
... “Quân bay lầm! Dù dâng cả ngai vàng
Không lay chuyển lòng ta thờ Tổ quốc
Nếu còn sống ta làm dân đất Việt
Chết ta thề làm quỷ nước Nam ta...”
Tôi chưa gặp người Cộng sản, nhưng tôi tin người Cộng sản nào cũng tốt như người Cộng sản đã hẹn với cô Maria và dũng cảm như ông Thầy Mo đã xua tà ma cứu sống tôi trong rừng núi Châu Lam. Cứ thế, tôi ư ử đọc chán, tôi cố nhớ xem có bài nào nữa không, nhưng chẳng có bài nào tôi còn nhớ cả. Suốt mấy năm học, có mỗi bài này là tôi thuộc nhất. Chả thế mà khó tính như thầy giáo cũng phải khen và cho tôi điểm mười.
Thấy tôi vậy, dì làu nhàu:
- Ngủ đi, hôm nay giở chứng à? Có nghe thằng anh mày ngáy như kéo bễ không?
Bên kia giường đối diện, anh trai thở rõ to. Tôi có cảm tưởng như anh trai đang thức và cũng giả đò ngáy. Tôi thôi đọc, nằm tưởng tượng ra cuộc xử tử ngày mai để chống lại cơn buồn ngủ. Thằng “tên” cũng hồi hộp không kém gì, nó luôn luôn trở mình có ý bảo với tôi rằng: ta cũng đang thao thức đây! Từ chiều, nó có vẻ biết điều, thấy tôi giở mọi thủ đoạn chống buồn ngủ nó không nói, chắc nó không dám gây sự gì sợ tôi tự ái bỏ cuộc là cả hai thằng mất xem. Nó thủ thỉ:
- Cậu mệt cứ ngủ đi, có gì tớ sẽ gọi.
Nghe vậy, tôi có phần cảm động về sự quan tâm của nó, nhưng nghe chừng không tin tưởng lắm, tôi nói:
- Tớ mà ngủ rồi thì có thánh cũng chẳng đánh thức nổi?
Thằng “tên” im lặng ra vẻ xác nhận điều ấy là đúng. Từ ngày mẹ tôi theo đơn thuốc của lão người Tàu, lấy thần sa hấp với tim lợn, cho tôi ăn để chữa tính ngủ mê, tôi ngủ đúng như con vật tôi cầm tinh. Chả thế sáng nào đi học chị tôi cũng phải hò tôi như “hò đò sông cái” (chị tôi nói vậy) tôi mới tỉnh. Tôi vừa nghĩ vừa lơ mơ, thấy vậy thằng “tên” hỏi:
- Cậu ngủ đấy à?
- Đâu? - Tôi lẩm bẩm rồi lại thiếp đi.
Trước khi lịm hẳn tôi còn nghe thằng “tên” ca cẩm:
- Đúng là cầm tinh Trư Bát Giới, vừa nói nhem nhẻm đã “tít” ngay được.
Đang say sưa, bỗng có ai vằng mạnh tay. Tôi choàng bật dậy, ngơ ngác không hiểu mình đang ở đâu? Sợi dây buộc ở tay nhắc tôi nhớ ra mọi điều. Chợt tiếng dì thì thào:
- Nằm xuống ngủ đi con. Gớm, ban ngày đùa nghịch cho lắm vào rồi đêm lại mê ngủ.
 À... ra là tại dì tôi dậy đi giải nên vướng vào sợi dây tôi buộc cổ tay. Mặc cho dì tưởng tôi mê ngủ, tôi nằm xuống, xoay người nhìn sang giường anh trai, tiếng ngáy của anh vẫn rõ to. Tôi yên chí định ngủ tiếp nhưng đột nhiên nghe tiếng con gà trống trong chuồng sau nhà vỗ cánh phành phạch rồi cất tiếng: “Cúc cù cu cu... cúc cù cu cu... cúc cù cu cu”. Nó gáy ba tiếng. Như vậy mới đến cạnh ba (dì tôi bảo gà gáy mấy tiếng là ngần ấy canh). Tôi nằm im chờ dì vào, nhưng nằm mãi không thấy. Hay là dì bị ngã cảm? Chân tay thế dễ ngã lắm! Trong óc tôi tưởng tượng ra mọi điều. Tôi định gọi bố nhưng lại sợ mọi người dậy sẽ phát hiện ra âm mưu. Tôi trở dậy, tụt khỏi giường đi ra sân sau.
Khác với hồi đêm, trời mờ sáng, mọi vật nhìn rõ hơn, tôi định vòng bờ giếng ra nhà xí, lúc qua bếp, tôi nghe có tiếng động lục cục và tiếng người lào thào trong bếp. Tôi áp sát tai vào vách nhưng không nghe rõ. Tôi bỗng nhớ phía tường bếp đằng sau bố khoét một lỗ nhỏ cho chó chui, từ ngày Tây cấm nuôi chó, cái lỗ vẫn chưa lấp. Tôi cúi xuống nhìn vào, tối om, nhưng rõ ràng có những tiếng thở hổn hển và huỳnh huỵch như vật nhau ở trong ấy. Tôi đang không hiểu thế nào thì thấy im ắng, rồi tiếng dì thổn thức:
- Làm thế này là em có tội với chị.
Đáp lại lời dì là tiếng bố:
- Tôi biết, nhưng tôi thương hoàn cảnh dì chân tay thế nay...
Tôi nghe dì khóc, tiếng thút thít to dần... rồi tiếng bố dỗ dành;
- Thôi nín đi, đừng khóc to, mọi người biết đấy!
Lát sau nghe dì nói:
- Anh lên trước đi, mặc em ngồi đây một lúc,
Nghe vậy, tôi đứng vội đi lên nhà. Lúc sau, nghe tiếng kẹt cửa, cái bóng to lớn của bố hiện ra, rồi ông mở cửa vào buồng, có tiếng mẹ hỏi:
- Canh mấy rồi mình?
Không nghe bố trả lời. Tôi thắc thỏm suy nghĩ không hiểu chuyện gì xảy ra giữa bố và dì mà hai người lại giấu mẹ?
Nhưng thôi, đấy là chuyện của người lớn, còn bây giờ đây tôi nóng lòng sợ dì mà cứ ngồi mãi dưới bếp thì làm sao tôi đi được.
Thao thức hồi lâu thì dì lên. Dì rón rén nằm xuống giường, ôm tôi vào lòng riết chặt, cái cằm thon nhỏ nồng nàn ấm áp xoa xoa dịu dàng lên má tôi. Tôi im lặng tận hưởng và định đánh một giấc như mọi khi. Nhưng chợt có tiếng gà gáy, tôi đếm được năm tiếng “ò ó o...” liền giả vờ ú ớ đẩy dì ra. Bên giường anh trai chắc đã ngủ say nên không thấy tiếng ngáy nữa. Một lúc sau, tiếng dì thở đều đều. Tôi vờ động vào người xem dì ngủ chưa? Dì lật người ngoảnh vào vách, tôi ngồi dậy. Thằng “tên” lào thào:
- Đi hả?
Không trả lời, tôi dò dẫm tìm dép, chân quờ phải cái dây buộc dép anh trai, cái dây tuột từ bao giờ không biết!
Trong lòng hơi ngạc nhiên không hiểu vì sao lại bị tuột ra? Thây kệ! Tôi lò dò ra xoay quả đấm khóa, mở cửa thông ra phố, ló đầu nhìn đường; chưa có cửa nhà ai mở. Tôi nhẹ nhành lách ra rồi khép cửa lại lon ton chạy về phía cuối phố, rẽ lên dốc xuống chợ. Tôi quyết định đi tắt.
Cũng phải nói với độc giả một chút về khu chợ mới này. Từ ngày Tây chiếm lại Phúc An, chúng dồn dân, xây dựng lại chợ mới ở trước phố Đệ Nhất, sát cổng chùa Thập Phương. Còn chợ cũ, nơi anh trai kể chuyện gặp chó ăn thịt trẻ con hồi năm đói và bãi tập liền kề đấy, nay bọn Pháp san thành bãi đá bóng.
Còn sớm, nên trong chợ mới có dãy bán thịt lợn đang dọn hàng. Những con lợn bị cạo lông, da trắng lốp, phanh bụng nằm chềnh hênh trên bệ xây, máu đỏ chảy loang cả đường. Tiếng liếc dao pha thịt của đồ tể nghe rợn tóc gáy. Tôi nhảy lò cò qua những vũng máu rồi men theo lối ruộng rau muống cạnh cổng chùa. Từ hồi chiếm lại Phúc An, Tây ra lệnh cấm không cho khách thập phương đến tụ tập cúng lễ nữa! Trong chùa còn một sư già và ông “người thật” mà thôi. Tuy vậy, tôi chưa được gặp lại ông ta bao giờ.
Lên đến đầu phố Đệ Nhị, tôi gặp nhiều toán người đi, ai nấy bước lặng lẽ. Thấy tôi, họ nhìn có vẻ tò mò. Tôi kệ! Vào gần đến khu nhà tù, tất cả rẽ về phía đồi thông. Đây là chỗ Tây dựng pháp trường xử án và làm trường bắn gần nhà tù cho tiện và cũng vì sợ Việt Minh đánh tháo tù.
Trên đỉnh đồi, cạnh ngôi chùa cổ, tán cây đa xum xuê, rễ thả từng chùm từ trên cành cao xuống đất. Tôi nhớ chuyện chị hai kể vào những năm Việt Minh giành được chính quyền, đội thiếu nhi của các chị sau khi hội họp xong thường chạy lên đồi, vào chùa xin lộc, và chơi đùa dưới gốc đa, túm rễ đa đánh đu. Nhưng bây giờ Tây cấm, chùa hoang vắng, cây cối um tùm, mái ngói xô lệch. Phía mé đồi có khu mả Tây, so với thời kỳ gia đình tôi ở đấy thì mộ bây giờ nhiều hơn. Những cây thập tự bằng đá dựng trên những hàng mộ chạy dài đến tận gần sát đường. Còn mé dãy phố, nơi tôi được bà đỡ đón ra, bây giờ bọn Pháp xây thành pháo đài và kho tàng chứa xe cộ và vũ khí. Cứ cách một đoạn lại có một cái lô cốt đổ bê tông cốt thép, xù xì như da cóc nằm nửa chìm nửa nổi chạy dọc đến giáp đường quốc lộ. Lỗ châu mai tông hống như những con mắt nhìn ra các hướng. Trên nóc lô cốt đặt một khẩu súng quay tròn, mũi nòng súng đen xì ghếch lên trời, họng súng loe to như miệng gương sen.
Tôi cố nhận ra phố cũ, nhưng không tài nào nhớ được chỗ nào ra chỗ nào. Mà thực ra, khi tôi mới được sáu tháng, thì đã phải chạy tản cư nên làm sao tôi nhớ được. Những chuyện trên tôi nghe người lớn và anh trai kể, tôi cố tưởng tượng để có dịp bốc phét với bạn bè đấy thôi.
Pháp trường dựng ngay ở bãi cỏ dưới chân đồi. Khi tôi tới, có bốn người tù mặc quần áo sọc đen trắng khênh một cái bục gỗ khum khum hình móng ngựa từ trên xe cam nhông xuống, bê vào đặt trước lều bạt căng thành hình chữ A. Trong lều đặt ba cái bàn gỗ. Những tên lính mặc quần áo màu xanh xám, đầu đội mũ sắt, lăm lăm súng cầm tay, mặt lạnh như nước đá cây. Ngăn giữa những người đến xem xử tử và pháp trường là hàng rào dây thép gai. Chắc mới giăng vì tôi thấy những đầu gai còn sáng lóa và nhọn hoắt. Tôi lách qua đám đông chui vào phía trong, đến sát hàng rào chọn chỗ ngồi thì thằng “tên” bỗng thì thào:
- Anh trai kìa!
Tôi nhìn theo hướng nó nói: anh trai cùng mấy đứa bạn đã có mặt từ lúc nào rồi. Lạ nhỉ! Rõ ràng là tôi ra khỏi nhà trước cơ mà! Tôi đang thắc mắc tự hỏi thì anh trai cũng nhìn về phía tôi đứng. Anh dụi mắt như chưa tin, nhưng sau khi khẳng định đó là em mình, anh giơ tay ngoắc ngoắc ra hiệu có ý bảo: “Lỏi con, lại đây!”
Tôi lưỡng lự, nhưng rồi quả quyết đi tới. Anh phủ đầu:
 - Ai cho mày đi?
Tôi:
- Em khắc đi!
Anh:
- Tao về mách bố đánh cho mày một trận!
Tôi:
- Em cũng về mách mẹ!
Thấy tôi cãi, anh giơ tay định bợp tôi một cái, vừa lúc đó đám đông ồ lên:
- Xe tù ra rồi! Xe tù ra rồi!
Anh trai và tôi quên cãi nhau, quay phắt về phía cổng pháp trường: Từ trên chiếc xe hòm kín mít, cánh cửa mở rộng, tên sĩ quan Pháp mặc quân phục bằng ka ki màu vàng, đội mũ lưỡi trai nhảy xuống, theo sau là một toán lính, chúng dàn thành hai hàng, tay bồng súng trường lê tuốt trần. Cuối cùng, là một người tù mặc quần áo màu xanh nhạt, bị bịt kín mặt bằng một cái mũ có chóp nhọn hoắt như chóp mũ của ông già Nô - en trong lễ Giáng sinh, có cái khác là chiếc mũ của ông già màu đỏ, còn của người tù thì màu trắng phủ trùm quá vai và được khoét hở hai mắt. Người tù được hai tên lính đỡ từ trên ô tô xuống. Đôi chân trần bị xích, còn tay bị còng bằng chiếc khóa sáng loáng. Người tù không bước mà lê từng chân, những ngọn cỏ đẫm sương đổ rạp thành vệt theo chân lết nặng nhọc của người tù.
Cả pháp trường lặng ngắt. Những người xem căng thẳng theo dõi: Người tù đi về phía cái bục hình móng ngựa, khi gần tới, hất hàm ra ý hỏi tên sĩ quan. Tên sĩ quan gật đầu. Người tù điềm tĩnh bước vào đứng giữa chỗ hõm của chiếc bục. Hai tay người tù đặt hẳn lên mặt gỗ. Tôi cho rằng người tù cố tình để tay như thế cho đỡ mỏi.
Bỗng lại có tiếng người ồ lên:
- Quan án ra rồi! Quan án ra rồi!
Một tốp người vừa người ta vừa người Pháp đi vào. Tôi nhận ra ngay lão Lý trưởng đi sau, mặc áo chùng đen, quần trắng, đội khăn xếp, tay cầm ba - toong. Hôm nay không thấy lão dắt theo chó. Tất cả đi vào lều bạt, ngồi xuống ghế, riêng lão Lý trưởng đứng, hai tay vo vo vào nhau, lưng cúi thấp vẻ khúm núm. Tên sĩ quan chỉ huy toán lính chạy bộ đến trước mặt giơ tay chào. Tên quan tòa gật gật đầu rồi đứng lên cầm tờ giấy đọc. Hắn đọc gì tôi nghe lõm bõm toàn tiếng Tây. Tên sĩ quan rập gót quay lại tiến tới chỗ người tù tháo cùm tay và nhấc bỏ chiếc mũ trùm đầu người tù ra.
Cả đám đông ồ lên:
- Tù là đàn bà... tù là đàn bà.
Người tù đứng quay lưng về phía những người đến xem. Mái tóc buông thõng bung ra che gần kín lưng, dài đến ngang thắt lưng, dày dặn mượt mà. Trên đôi vai đầy đặn hở ra phần cổ cao tròn trĩnh da trắng nõn nà như một đường viền đỡ cái đầu được chải rẽ ngôi, có cài chiếc lược sừng cong hình lưỡi liềm.
Tôi cố nghển lên để nhìn cho rõ nhưng không được. Cả đám đông cũng vậy. Ai cũng muốn nhìn rõ người đàn bà bị kết án. Ở thị xã Phúc An, từ trước tới nay, việc bắt bớ, tra tấn, tù đày đối với người Việt xảy ra là chuyện thường, cơm bữa! Việc Tây xử án, bắn nhiều người, nhưng toàn Cộng sản đàn ông thôi! Còn bắn Cộng sản đàn bà thì lần này là một! Bỗng anh trai kéo tay tôi:
- Thừa! Kìa kìa...
Tôi vằng tay anh trai:
- Gì?
Anh trai chỉ tay:
- Ông ấy kia kìa!
- Ai? - Miệng hỏi nhưng mắt tôi nhìn về phía tay anh chỉ: ngay gần chỗ góc pháp trường, một người cao to, mặc quần áo nâu sồng kiểu nhà chùa, một bàn tay của ông chắp lên ngực, còn một tay bám chặt hàng rào dây thép gai. Tôi thấy từ bàn tay ông nắm hàng rào, một dòng máu ứa ra, nhưng đôi mắt không chớp đăm đăm nhìn người tù. Anh trai nói:
- “Ông người thật” ở chùa Thập Phương đấy!
Ừ, đúng rồi! Đúng là nhân vật trong chuyện anh trai kể cho tôi nghe hồi bé, thế mà tôi không nhận ra. Thế thì... tôi vừa chợt nghĩ ra thì anh trai đã kêu lên:
- “Bà mặt đẹp” Thừa ơi!
Tiếng anh trai thảng thốt như bị nghẹt lại giữa muôn ngàn tiếng kêu thảm thiết của đám đông. Anh trai ngồi thụp xuống, tôi lấy tay đỡ kéo anh đứng lên, anh như bị mất hết sinh lực, ôm ghì lấy tôi riết róng... Bỗng nhiên, tôi thấy mình có bổn phận phải che chở, tôi dùng tay xoa xoa vào lưng anh, như người anh vỗ về khi đứa em bị sợ hãi. Anh trai nép vào ngực tôi nhìn về phía “người đàn bà mặt đẹp”.
“Người đàn bà mặt đẹp” quay về phía nhân dân. Khuôn mặt bừng rạng trong vầng sáng ban mai; bà cười, hàm răng đều đặn trắng ngần, khóe miệng xinh xắn, đôi môi tươi tắn như bông hoa bừng nở; bà lấy tay vuốt những sợi tóc vương lòa xòa trên mặt. Vầng trán cao thánh thiện, đôi mắt hiền từ, phúc hậu đúng như lời anh trai kể “đẹp như Đức Mẹ trong nhà thờ”, bà nhìn bao quát đám đông, bà như muốn tìm ai? Chợt bà dừng lại chỗ anh em tôi đứng. Cả thân người bà nhướn về phía trước, đôi mắt nhạc nhiên, như muốn hỏi vì sao nơi đây lại cho trẻ con tới? Nhưng rồi, bỗng bà như nhận ra - Tôi cảm giác (hay là tôi tưởng thế?) bà nhận ra anh trai tôi - đứa bé đã thay con bà rúc rúc khóe miệng như chim non, hớp vào bầu vú tròn trịa, hồng hào có những hạt sần sụi, đón dòng sữa nóng hổi và thơm mát... Đôi mắt bà bao trùm lên anh em tôi, bất giác, anh trai giơ bàn tay lên vẫy, “người đàn bà mặt đẹp” đáp lại bằng cái nhìn hiền từ như người mẹ nhìn con. Anh trai ôm ghì lấy tôi nức nở...
Rồi bà giơ cao bàn tay bầm giập vì gông cùm đưa lên vẫy, bà dừng lại rất lâu ở chỗ “ông người thật” đứng, đôi mắt như muốn gửi gắm một điều gì. Lúc này “ông người thật” không chắp tay trên ngực nữa, mà ông úp đôi bàn tay vào mặt, vai run run, tấm áo nâu sồng thấm đẫm nước mắt lẫn trong máu thấm từ bàn tay. Ông không dám nhìn vào sự thật phũ phàng sắp diễn ra. Những người đến dự như đồng cảm, họ quây lại phía sau ông, có người đặt tay lên vai ông an ủi. Ông ngước nhìn lên trời như muốn cầu mong điều huyền diệu sẽ xảy ra, nhưng bầu trời chỉ có mây bay và gió thổi. Ông cúi xuống nhìn đất, đất lặng im, cùng cỏ cây cảm nhận vào mình những giọt lệ biệt ly...

CHƯƠNG BỐN
1. Các cán bộ chủ chốt xã được triệu tập ra đầm Vực. Chờ mọi người đứng dồn vào một chỗ, Chủ tịch xã khoát tay về phía đầm nói:
- Đây chính là “nội lực” của xã ta. Tôi mời các đồng chí ra đây để cùng nhau phân tích sự lãng phí, thói quan liêu trì trệ của chúng ta. Trong khi cứ tìm mãi phương cách để “xóa đói giảm nghèo” nhưng của cải ở ngay dưới chân thì ta lại không để ý tới! Vì lẽ gì chúng ta không khai thác vốn tự có của mình?
Mọi người ngơ ngác chưa hiểu Chủ tịch xã có ý gì? Gớm! Vừa mới sang Trung Quốc tham quan về mà đã ra dáng! Khu đầm Vực một thời xã đã rùm beng duyệt phương án cho đấu thầu nuôi cá, nhưng ai nhảy vào khai thác cũng chỉ được một vài vụ là xin phá hợp đồng. Đầm rộng, nước sâu, quản lý khó; thả cá nhỏ bằng làm mồi nuôi cá trời; thoát được con nào lớn bằng nuôi giúp thiên hạ. Thuê nhiều nhân công không đủ trả tiền công, thiếu bảo vệ, dân tứ nơi ngày câu trộm, đánh điện, đêm quăng chài, lưới vét. Đã có nhiều vụ ẩu đả, gây đổ máu. Làm chả bõ đền thương, hầu kiện!
Trong báo cáo ruộng đất của Ủy ban xã trình cấp trên lúc nào cũng gọi đấy là “tiềm năng”. Nhưng thực tế, cả một khu vực đầm rộng lớn bỏ không, hoang hóa mặc cho dân chúng thả rau muống bè, ven bờ trồng khoai mon; trẻ mục đồng tắm trâu chơi trận giả; từ ngày đất đai có giá, một vài hộ gia đình bất chấp đất công, tự ý ra dựng nhà, lập vườn. Vậy thì bây giờ Chủ tịch lại “vẽ” gì đây? Bán hay lấp?
Em cầm máy ảnh tách khỏi đám đông tìm góc chụp, nâng máy ảnh điều chỉnh đầu tê-lê, toàn bộ khuôn hình Chủ tịch xã được thu gọn trong ống kính. Em cảm tưởng thấy lại vị chỉ huy làng Quyết Thắng mẹ kể trong đêm bắt phi công Mỹ, cũng bên bờ đầm này giơ gậy phang vào đầu vị chỉ huy làng Quyết Chiến. Giống thật đấy! Cả thằng bé nữa! Cứ hiển hiện từ bước đi dáng đứng, phoóc người và tiếng nói y xì! Cả ba như được tạo từ một khuôn đúc:
Có lần em buột miệng hỏi:
- Vợ chồng Chủ tịch xã không có con do ai? - Dứt lời em chợt thấy câu hỏi của mình vẻ tọc mạch.
- Tại cô vợ chứ tại gì cậu ấy! - Phó Chủ tịch xã trả lời rồi nhướng mắt ngạc nhiên như thể nói: Cậu ta thế nào làm gì cô chả biết mà còn hỏi?
- Không có con kể cũng buồn - Em nói ngoài miệng vẻ cảm thông, trong bụng lại đắc thắng.
- Khổ, mọi cái đều bên nhà vợ nâng đỡ, cũng khó giãy ra.
- Có tiền sao không về Hà Nội nhờ bệnh viện cấy?
- Gớm! Còn thiếu? - Phó Chủ tịch xã nguýt dài - Đi chẳng còn chỗ nào, bệnh viện, thuốc men, chùa chiền, cầu cúng, đủ! Kể cũng vất, người thì hãm chẳng được, kẻ thì cầu chẳng thấy.
Nhưng bù lại, đường công danh ra chiều suôn sẻ. Công việc xã dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch xã được cả hai làng công nhận. Em có cảm giác Chủ tịch xã lấy công việc để khỏa lấp nỗi buồn riêng? Phải thôi! Ông trời công tâm lắm, có cho ai hết cả đâu, được cái này thiếu cái nọ. Ngày xưa hèn nhát từ chối giọt máu của mình vì danh vọng, quyền chức, thì bây giờ cứ bám vào cái đó mà sống! Cứ theo cái đeo đuổi mà tôn thờ! Chắc giờ có đủ công danh rồi mới lại thèm người nối dõi? Tìm đâu ra cơ chứ! Vô tình, em có đứa bé làm vật để gặm nhấm trái tim người tình cũ.
Càng ngày, em càng hiểu ý đồ của Chủ tịch xã. Mọi đối xử với em thông qua bà Phó Chủ tịch xã  tưởng là nhiệm vụ tình cờ và một sự ngẫu nhiên, nhưng thực ra mọi việc đều do Chủ tịch có ý xếp đặt cả. Ngay cả việc Chủ tịch xã nhờ bà Phó Chủ tịch xã đưa khéo cho em chiếc máy ảnh cũng vậy. Em biết nhưng lờ đi như không biết.
Cái máy ảnh là vật vô tri nhưng chính nó lại cho em biết thế nào là nghệ thuật. Cho tới khi có giấy báo về Hà Nội nhận giải em mới biết. Đó là lần đoàn phóng viên trên tỉnh về xã. Khi vào nhà truyền thống, mọi người trong đoàn chăm chú xem những bức ảnh em chụp cô bé bị di chứng chất độc màu da cam. Một người trong đoàn nói với Chủ tịch xã:
- Hiện đang có đợt thi ảnh do Trung ương tổ chức, những bức ảnh này nghệ thuật chụp tuy còn yếu nhưng có giá trị về mặt tinh thần.
Chủ tịch xã ngấm ngầm xin địa chỉ rồi gửi. Ai ngờ tấm ảnh “Vượt lên số phận” được giải. Chủ tịch xã thuê xe ô tô đưa em và cô bé nhiễm chất độc màu da cam cùng bà Phó Chủ tịch xã xuống dự lễ trao giải. Mang giải về, Ủy ban xã còn tổ chức liên hoan chúc mừng. Trong lúc vui, Phó Chủ tịch xã nói:
- Công đầu là của Chủ tịch xã đấy!
Em thoáng nhìn, mặt Chủ tịch đỏ lựng, không hiểu vì rượu hay vì lời tụng?
Sau thời gian ấy, bà Phó Chủ tịch xã nói:
- Xã có ý muốn em phấn đấu trở thành đảng viên.
- Liệu cháu có đủ tiêu chuẩn không cô?
- Sao không? Đích thân Chủ tịch xã gợi ý cho tôi là người giúp đỡ cho em đấy - Rồi bà nói thêm - Không phải ai cũng được cậu ấy quan tâm thế đâu!
Vào Đảng ư? Em về hỏi ý kiến bố, bố bảo:
- Con còn trẻ, phấn đấu được là cái tốt! Xã hội tiến lên, có “chuyên” lại càng cần có “hồng”, như vậy mới đáp ứng yêu cầu của quê hương, đất nước!
Bố không phải đảng viên mà nói như Nghị quyết. Vả, mấy khi có điều kiện thế này! Em còn trẻ, cũng cần chỗ đứng trong xã hội để tồn tại chứ! Cái ngày xưa, Tổ trưởng từ chối, thì bây giờ em sẽ lấy đó để lợi dụng. Ý nghĩa nếu viết ra có vẻ tàn nhẫn, nhưng ngẫm nghĩ về những gì em phải chịu có lẽ cũng đúng thôi. Tất nhiên chỉ ở một phương diện nào đó! Có thể người đời cho ý đồ và hành động của em là bất nhẫn và khốn nạn, nhưng nếu ở địa vị em mọi người sẽ làm gì? Tha thứ ư?
Không! Một ngàn lần không! Không bao giờ em quên được những giây phút càng quẫn định quyên sinh xuống đáy đầm Vực; không bao giờ em quên bước chân lang thang và lời rủa “Đồ rồ tình!” của người chủ hiệu nọ; không bao giờ em quên được mình phải trả giá danh dự bằng sự dối trá để có chồng, rồi lại chia tay trong đau khổ và còn đeo đẳng thêm giọt máu khi chưa đầy ba mươi tuổi! Mọi tội lỗi và sai lầm bắt đầu từ sự tránh né tình yêu và trách nhiệm. Còn bây giờ?
Tự hỏi. Và em lập luận: Giá thư người vợ Chủ tịch đẻ ra vài đứa con thì liệu người tình cũ của Tổ trưởng ngày xưa và hòn máu rơi bây giờ có giá trị không? Em có được quan tâm và săn sóc thế này không? Hay lại mưu mô tống khứ mấy mẹ con em đi nơi khác như đã từng khước từ lời cầu khẩn?
Có ai đấy đã bảo: “Đừng đùa với tình yêu!” Em đã trải chán thứ tình yêu đùa giỡn rồi, giờ đây mỗi lần nghĩ tới em chỉ thấy ghê sợ! Em không phải là cái hũ tương mở mãi miệng để ruồi muỗi đẻ vào. Người đàn bà một nách hai con sống đã khổ chứ nói gì đến yêu thương? Đã đành cái mất không lấy lại được, nhưng tội gì không dựa vào đấy để đòi lại một chút và để thỏa mãn lòng căm hận? - Em nghĩ vậy!
... Tiếng Chủ tịch xã sang sảng:
- Thưa các đồng chí, vừa qua, tôi có dịp được theo phái đoàn của huyện sang tham quan Trung Quốc. Có thể nói công tâm rằng: Chúng ta còn quá lạc hậu so với nước láng giềng! Một đồng chí đi trong đoàn nói với tôi: “Nếu tốc độ phát triển của ta mãi thế này thì Trung Quốc hôm nay là Việt Nam hàng trăm năm nữa!” Tôi nghiệm thấy đúng quá! Chính vì thế cho nên công cuộc “mở cửa” của Nhà nước hiện nay là sự đổi mới to lớn. Từ khẩu hiệu “tự cứu lấy mình” để liên hệ với hoàn cảnh của xã, tôi ngẫm thấy rằng: xã Chiến Thắng của chúng ta có tài sản trị giá nhiều tỷ đồng mà tại sao chúng ta lại phải chịu sống nghèo hèn? Các nơi đang rầm rộ khí thế tìm đối tác, khai thác thế mạnh của chính vùng dân cư mình đang sống. Vậy, xã Chiến Thắng cũng có thể làm được chứ! Tại sao không?
Cuộc họp bên đầm Vực tác động mạnh vào các cán bộ và nhân viên Ủy ban. Mọi người im lặng lắng nghe, như bị hớp hồn. Nắng sớm chiếu lên vầng trán cao của Chủ tịch, mồ hôi lấp loáng. Em nhận ra bên cạnh sự đạo mạo là những nếp nhăn hằn sâu rạn nứt vết chân chim cạnh đuôi mắt. Công việc xã hội đè nặng lên vai và trách nhiệm kế tục dòng họ như nỗi lo truyền kiếp. Tự nhiên lòng nhen nhúm một chút thương cảm. Cảm giác như con người kia cô đơn lắm! Vất vả lắm! Sự mủi lòng se thắt nơi trái tim, động lòng trắc ẩn, đột nhiên quên lãng khổ đau, mà dâng trào cảm xúc muốn chia sẻ, muốn đồng lòng với vất vả, với nỗi cô đơn...
Chủ tịch xã dẫn mọi người đi đọc bờ đầm. Em vượt lên trước, tìm một chỗ thích hợp để chụp một kiểu cả đoàn. Trong khi đó, Chủ tịch xã vừa đi vừa nói.
- Chúng ta cần phải thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách làm... - Bỗng Chủ tịch vấp vào một mô đất ven bờ, loạng choạng, người nghiêng về phía đầm, chới với... Một phản xạ tức thì, em chạy lại giơ tay đỡ. Bàn tay đang chao đảo quờ vội lấy tay em, hơi nóng ấm truyền nhiệt sang tay cho cảm giác vừa lạ lùng vừa quen thuộc. Nhờ cái níu tay, Chủ tịch lấy lại được thăng bằng, khuôn mặt hồng trong nắng ấm, bàn tay vẫn nắm chặt bàn tay em như chẳng muốn rời... Chợt bừng tỉnh, em giật phắt tay ra, quày quả bước đi. Một giọng nói truyền cảm vang từ phía sau - Cảm ơn Linh, nếu không có em, tôi đã bị ngã xuống đầm rồi!
Câu “ngã xuống đầm” thức tỉnh nỗi đắng cay em từng chịu. Em ân hận tự rủa thầm mình sao dễ mủi lòng? Linh ơi, sao mày chóng quên thế? Cũng nơi này, cô sinh viên vừa tốt nghiệp ra trường là mấy đã định quyên sinh cho xong đời đấy! Tại ai? Vì ai? Nếu hôm nay Chủ tịch xã chẳng may bị ngã xuống nước, thì sẽ có bao nhiêu con người nhảy xuống vớt, bao nhiêu bàn tay chăm sóc, nâng niu, bợ đỡ... Còn mày? Linh ơi, nếu không có cánh chim đêm ngày ấy, giờ đây tuổi ma mày đã cỗi; xương cốt mày đã nục nhừ; hồn vía mày đã táo loạn nơi đâu. Thế mà... Bỗng em nghe tiếng Chủ tịch xã gọi:
- Linh!
Em quay lại, cái nhìn như thách thức và vô cảm:
- Chủ tịch cần gì?
- Linh... àààà - Nhìn ánh mắt thiếu thiện cảm của em, Chủ tịch xã thay đổi cách xưng hô - Đồng chí chụp lấy toàn bộ khu đầm Vực, lấy ảnh làm tư liệu, và trưng bày trong Nhà truyền thống xã, để nay mai các thế hệ con em chúng ta xem mà nhớ về quá khứ.
Em y lời, nâng máy chụp. 
2. Tôi gặp em trong khu sơ tán của Ủy ban tỉnh. Em thảng thốt:
- Anh! Anh lên lâu chưa?
- Đến từ sáng, vừa làm việc xong.
- Thế lúc nào anh về?
- Bây giờ.
- Nói chuyện với em một lát đã! Lâu lắm rồi còn gì? Được không anh?
- Thôi, để lúc khác! - Tôi ngập ngừng - Mà giữa chúng ta còn chuyện gì đâu?
- Anh vẫn giận em đấy à?
Tôi im lặng như thừa nhận. Em nắm tay vào ghi-đông xe đạp xoay xoay:
- Biết nói sao cho anh hiểu Thừa ơi? - Giọng em nghẹn nấc.
Tôi lảng:
- Dạo này Bí thư khỏe không em?
- Thế tuần trước chú xuống Phúc An anh không gặp à?
- Khi biết thì Bí thư đã vào Châu Lam rồi, chắc chú xuống thị sát tình hình? Công trình đang thi công thì phải dừng lại vì dân địa phương ở dưới công trường đang có chuyện mà!
- Phức tạp lắm! - Em nói - Đụng vào vùng dân tộc thiểu số mà anh!
- Ừ, tỉnh đang yêu cầu thủ trưởng của anh viết báo cáo và trình bày phương án xử lý. Nhưng binh tình này có lẽ tỉnh phải trực tiếp ra tay mới ổn - Vừa lúc ấy từ dưới chân dốc có mấy người dắt xe đạp lên. Thấy vậy, tôi chủ động - Anh về nhé! - Tôi dắt xe xuống dốc, được một quãng chợt nghe gọi:
- Anh Thừa!
Tôi dừng lại, em vượt lên đến ngang tôi:
- Sao anh không hỏi xem mẹ con em sống ra sao?
- Việc đó đã có chồng em lo rồi còn gì!
- Ừ nhỉ! - Em xịu mặt - Cho em xin lỗi. Thôi, anh đi đi, nhớ cẩn thận, về đường tắt cho an toàn. Dạo này máy bay bắn dữ lắm đấy!
Em quay đi, tôi nghe rõ tiếng thở dài để lại sau lời dặn dò.
Tôi không nghe lời em mà cứ thẳng quốc lộ 2 để đi. Thời chiến, vắng xe và ít người qua lại, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe ô tô trùm lá ngụy trang chạy vội vã. Bụi cát tốc mù mịt. Trời nắng như đổ lửa. Ổ gà gập ghềnh, xích xe đạp thiếu dầu cót két kêu như rên. Nhà hai ven đường đóng cửa chặt, trên tường có treo những tấm biển viết “nhà đi sơ tán” nét chữ xệch xoạc. Vẻ tiêu điều vắng lặng, chẳng tìm đâu ra một hàng quán. Đạp non chục cây số mà dăm bảy lần kẻng báo động. Kệ! Tôi cứ đi! Những người làm nhiệm vụ cảnh giới nhìn tôi đeo xà-cột, đội mũ rơm, khoác khăn dù ngụy trang, quần xắn quá gối, hối hả đạp, cứ nghĩ tôi mang “lệnh khẩn” nên kệ không hò hét bắt xuống hầm trú ẩn. Trên trời, tiếng máy bay ầm ì lúc gần, lúc xa; tiếng súng phòng không vọng lại. Mãi gần về tới Phúc An, đói mềm cả bụng mới gặp một hàng quà ẩn kín trong một lùm tre xanh mướt. Tôi mua phong bánh bột ngô, vài cái kẹo bột và bi đông nước chè “bánh xe” rồi lững thững rẽ lên đê sông Cà Lồ, đường vào Trại Vải, nơi cơ quan sơ tán. Đi được một quãng, tôi tựa xe vào bụi tre gai cạnh hố tăng-xê rồi xuống bãi cỏ gần mép nước ngồi. Bây giờ về cơ quan cũng muộn, chắc đã hết cơm? Vả, cuộc gặp gỡ với em như dòng chảy quá khứ và những vui buồn cứ lảng vảng trong đầu. Tôi nhai bánh, nhấp từng ngụm nước chè hôi xì xịt, cảm giác như nhấm nháp lại quá khứ đang trôi dần về dĩ vãng.
Hòa bình! Đấy là câu nói chính của những người sống ở thời kỳ 1954. Cơn lốc của cao trào cách mạng và những đoàn quân rầm rập tiến về giải phóng, tiếp quản thị xã Phúc An. Hôm qua, xe nhà binh Pháp còn chạy náo loạn đường phố, những tên tính Tây say rượu vạch quần đứng đái tồ tồ giữa ngã tư, thì hôm sau đã chẳng còn mống nào. Đêm hôm trước, một đoàn xe, trùm bạt kín mít lặng lẽ rời khỏi thị xã. Sáng sớm, những đoàn quân mặc áo trấn thủ, đội mũ nan bọc vải, quàng khăn dù, mồm hát vang những bài hát “Vì nhân dân quên mình”, “Giải phóng Điện Biên”, “Qua miền Tây Bắc”... hiên ngang tiến vào thị xã trước con mắt của dân hàng phố. Đầu tiên những cánh cửa còn he hé, sau đó là không khí náo nhiệt, cửa nhà nào nhà nấy mở rộng, dân thị xã ùa ra đường, chạy theo hàng quân, mồm hô vang khẩu hiệu. Không hiểu cờ đỏ sao vàng may từ bao giờ mà rợp trời rợp đất? Không biết hoa ở đâu mà tưng bừng nở rộ? Không biết biểu ngữ chuẩn bị từ bao giờ mà giăng ra đầy đường, đầy phố? Khí thế chiến thắng tràn ngập, tất cả già, trẻ, lớn bé ùa theo “anh bộ đội Cụ Hồ” vào tận trại lính Tây ở. Ngày xưa, làm sao dám tới đây? Bây giờ thì thoải mái, những anh bộ đội hiền từ, ôm lấy các mẹ già, các em thiếu nhi mà khóc - Nước mắt của hòa bình, tự do và dân chủ.
Bố phấn khởi lắm! Chẳng gì bố cũng là người bị chính quyền cũ coi là “người thân Việt Minh”. Giờ đây, đoàn quân ấy đã trở về. Nghe binh tình này, nhìn khí thế ấy, chắc hòa bình vĩnh viễn chứ chẳng còn phải chạy tản cư như thời bốn nhăm, bốn bảy nữa! Người như bố chẳng tự hào thì niềm tự hào ấy dành cho ai? Những người hàng phố tập trung bàn nhau về lại phố cũ. Nói là làm, bố cùng mọi người trở về chân đồi thông, cái tên phố Đệ Nhị nay không còn ai nhắc nữa! Họ gọi bằng cái tên hồi cướp chính quyền năm bốn nhăm đã đặt: Phố Văn Miếu. Cái tên nghe nó mới nhân văn làm sao! Sướng thật! Hòa bình có khác, chẳng sợ áp bức bóc lột nữa. Lối lên đồi thông quang cỏ, chùa tấp nập người lên cúng vái; rằm, mồng một chuông rung, mõ thỉnh, hương hoa thơm ngát cả vùng. Nhà nhà căn cứ vào những vết tích cũ để chia ranh giới. Bộ đội tiếp quản còn cử bộ đội công binh dò mìn, cùng bà con san gạt đồn bốt, giúp đỡ nhân dân làm nhà. Lính thế mới là lính chứ! Ai cũng hiền từ, nói năng lễ độ.
Bố dựng một nếp nhà tre, mái lợp gianh, còn nhà ở phố giao lại cho vợ chồng chị nhớn. Lại nói từ sau khi về “tề”, nhờ người mối lái, chị nhớn lấy một người chăn vịt mồ côi cha mẹ, quê tỉnh Hà Đông. Do hoàn cảnh, hai người không cưới cheo gì. Cả nhà ngậm ngùi mãi cho số phận hẩm hiu của chị. Dì nói:
- Nếu không có chiến tranh, chắc đám cưới của chị cả với cậu con ông Quảng dưới Hải Phòng, có là nhất tỉnh Phúc An.
Nhưng bố lại bàn:
- Con người ta có duyên số cả!
Mẹ thì mừng:
- Thôi, không có của chìm của nổi nhưng ơn Đảng, ơn Chính phủ có cái nhà cho con lấy chỗ chui ra chui vào là tốt rồi!
Bàn bạc việc làm ăn sinh sống, bố có ý muốn trở lại xưởng làm xe kéo tay, mẹ gàn:
- Chờ xem binh tình thế nào đã? Liệu có phải chạy tản cư như hồi bốn bảy (1947) không?
Bố cười:
- Hiệp định Giơ-ne-vơ ký rành rành giấy trắng mực đen rồi! Từ vĩ tuyến mười bảy trở vào trong Nam là của nó; từ bên này ra Bắc là của ta. Phe ta lại có cả Trung Quốc với Liên Xô, sợ gì chúng? Vài năm nữa thống nhất hai miền là xong! Giờ hòa bình tự do rồi, tha hồ mà làm ăn.
Bố gom được một số xe hỏng và cũ mang về sửa chữa lại rồi cho thuê. Còn mẹ nhân dịp về quê góp giỗ, đem ý định khôi phục lại nghề. Họ hàng của bố ở làng Lệ Mật thấy có người con dâu vậy quý và nể lắm. Chả là họ sợ nghề rắn bị thất truyền mà.
Ai nghe hoàn cảnh xuất xứ của mẹ cũng khâm phục.
Vốn sinh ra ở làng Chi Đông, một vùng nông thôn đặc sệt, không một chút nghề phụ, thế mà khi lấy bố, không biết do vì yêu thương bố hay vì tính tình dạn dĩ mà mẹ theo ngay được nghề của bố. Khi bố mẹ đưa nhau đến lập nghiệp ở Phúc An, mẹ còn quyết định mở cửa hàng thu mua lại của các thợ bắt rắn ở quanh vùng, chứ không để bố phải dậy sớm thức khuya làm nghề nữa.
- Quê mình (làng Lệ Mật) tiếng là có ông tổ nghề rắn đấy, nhưng nào xem ai ở làng theo nghề ấy mà mở mày mở mặt được? Nhà nào cũng rớt mồng tơi. Trong khi ấy ngoài Hải Phòng chẳng biết đến mai, đến thuổng, đến sào, đến móc mà người nào cũng giàu ú hụ. Phải buôn bán mới khá lên được mình ạ! “Phi thương bất phú”.
Chí của mẹ lớn lắm, chả thế hồi năm bốn mươi (1940) mẹ đã đem rắn sang tận Hồng Kông để bán rồi. Nếu không vì chiến sự xảy ra, chắc mẹ đã thành bà chủ hiệu lớn rồi chứ chả chơi.
Bố lo xa:
- Cứ thấy cảnh đấu tố như vừa qua tôi lại hãi.
 Mẹ gạt phắt:
- Họ “đánh” là “đánh” những kẻ nhiều ruộng, bọn cường hào ác bá chứ đánh gì nhũng người buôn bán tẹp nhẹp? Mà mình chỉ nhặt nhạnh thu gom, mua đi bán lại chứ bóc lột ai đâu mà sợ?
Để manh nha mở lại cửa hàng thu mua các loại động vật, mẹ tới các làng có thợ bắt rắn để thông báo cho họ. Được một thời gian, tuần nào mẹ cũng có rắn, ba ba, tắc kè... mang về quê nội bán cho những người ngâm rượu làm thuốc.
Tuy công việc nhà bận như vậy mà bố không hề quên chuyện học hành của con cái. Chính quyền vừa thông báo khai trường, bố làm đơn xin cho anh trai và tôi đi học. Không mất tiền nhưng phải thi.
Anh trai học giỏi, thi một nhát vào ngay lớp năm, còn tôi ì ạch mãi mới được nhận vào lớp ba. Thằng “tên” nhìn bài thi của tôi chép miệng:
- Tưởng cậu học thế nào? Đến diện tích cái hình thang còn không giải nổi.
Tôi chìa bài chính tả cho nó xem:
- Chẳng qua tại bọn Tây tớ phải bỏ học nên lâu ngày quên, chứ cậu không thấy bài chính tả của tớ chữ đẹp như thế này à?
Thằng “tên” bĩu môi:
- Cũng may có những mảnh gai mít, cái roi dâu, cái thước sắt của ông giáo mà cậu mới viết đẹp được như thế. Tớ ghi nhận - Nó gật gù nói tiếp - Nhưng cuộc sống cần gì chữ đẹp? Như mẹ đấy! (hơi tí nó lại đưa mẹ ra ví) chữ chẳng biết mà tính toán giỏi như thần. Dốt toán như cậu chắc nay mai tớ phải đói lây?
Kể ra nó nói cũng đúng. Một nửa vì tôi dốt toán, còn nửa kia nếu thầy giáo trường tư không rèn làm sao chữ tôi viết đẹp như thế được? Có cái, chữ đẹp không gánh được toán dốt. Mười điểm chữ viết không san cho điểm 0 toán. Nhưng cần gì! Không vào nổi lớp bốn thì học lớp ba! Đằng nào mà rồi chẳng học đến? Tôi mặc cái tên lải nhải, lấy túi dết dì khâu bằng vỏ bao vải đựng rắn cho sách vở, bút mực vào. Bố dặn:
- Trường này do Nhà nước mở, không như trường của ông giáo ngày xưa đâu mà nghịch ngợm. Bị đuổi học là bố không xin lại được đâu!
Tôi hỏi bố:
- Ông giáo có dạy học nữa không hả bố?
Giọng bố buồn như người đưa đám:
- Ông ấy chết ở chiến trường Điện Biên Phủ rồi. Trốn lính ở đây về quê cũng không thoát. Lão Lý trưởng tư giấy về tận quê truy nã. Giá ông ấy còn sống thì tốt biết bao. Nghe nói các trường học bây giờ thầy giáo thiếu lắm. Có người phải dạy một ngày hai lớp. Con cố mà học Thừa nhé!
- Gớm! Dặn gì mà dặn nhiều vậy? - Mẹ nói vào - Cu Thừa bây giờ lớn rồi, đâu như hồi Pháp thuộc mà phải dặn mãi.
Nỗi buồn vì tin thầy giáo cũ chết thoáng qua nhanh, tôi vênh mặt như thừa nhận mẹ nói đúng! Dì đưa tôi ra hè dúi cho quả hồng ngâm:
- Buổi học đầu tiên cu Thừa cố lấy điểm mười nhỉ!
Tôi cầm quả hồng tung hứng trên tay, đầu chợt nghĩ: “Có cái làm lựu đạn để nện nhau rồi đây”.
Một con bé lạ hoắc ngồi trước mặt. Nó không phải dân thị xã. Ở thị xã này đứa nào mà tôi chẳng biết? Con bé chải tóc rẽ ngôi tết đuôi sam thành hai dải, không thắt nơ mà buộc dây nịt, đuôi tóc vàng như lông bò cong vắt như khiêu chiến; cái gáy trắng nõn như gáy dì mỗi lần gội đầu. Tôi bỗng thấy ngứa tay, liền rút trong túi quần ra sợi dây nịt cao su màu đỏ đã được ngâm xăng trương phềnh; mở vở xé giấy gấp “đạn”. Dùng hai ngón căng dây cao su làm súng, mắc đạn nhằm cái gáy trắng ngần... bắn. Viên thứ nhất trúng đuôi gà ngỏng. Mặc! Nó coi như không có gì. A, con này gan lỳ. Tôi mắc thêm một viên, co, bật mạnh. Lần này “viên đạn” trúng đích, cái gáy trắng giật mạnh, in một nốt đỏ lừ. Tôi giấu nhẹm “khẩu súng” xuống ngăn bàn. Con bé ngoảnh lại. Tôi sung sướng nghĩ sẽ được ngắm khuôn mặt cau có như khỉ ăn gừng kèm theo câu chửi đổng hoặc một lời văng tục gì đấy. Nhưng không, trên khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt ngơ ngác như bê non và tiếng nói còn nhẹ hơn gió thoảng:
- Đừng anh! Đau em.
Tôi thề với bạn đọc rằng, chưa bao giờ tôi được nghe lời nói dịu dàng, êm ái có sức thuyết phục đến như vậy. Tôi vẫn thường cho lời ru hời của dì là êm dịu nhất. Nhưng, so với bốn tiếng vừa thoát ra từ miệng con bé ngồi kia, thì lời ru của dì chưa là gì cả! Âm thanh ngưng đọng trong veo, hơn cả nước mưa bố hứng; thì thầm da diết, hơn cả những câu đồng dao dì nựng. Lời nói nũng nịu kia làm tôi lúng túng, cho tôi thấy mình là kẻ tầm thường, nhỏ nhoi... Tôi bỗng biến thành chàng Dế Mèn trong truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” của ông Tô Hoài; kệch kởm, hợm hĩnh và trơ tráo. Giá lúc đó có gương soi, tôi tin chắc khuôn mặt của mình không khác gì khuôn mặt của chàng Dế Mèn bị võ sĩ Bọ Ngựa dạy cho một bài học.
Giờ ra chơi, tôi tránh gặp con bé, rủ mấy đứa bạn ra sân đá cầu chinh. Tụi tôi cởi phắt quần dài cho dễ đá. Nói về tất cả các môn chơi thì đá cầu tôi “mả” hơn cả! Bao giờ chơi tụi bạn đều bị thua. Cả bọn xúm quanh nhìn tôi đá, có đứa còn làm trò cho tôi đá hụt. Nhưng, tôi đá như múa, hai chân như một, lúc bổng lúc sa, quả cầu tua rua bay rập rờn, rơi xuống đầu, vai, bàn chân, gót... Đã sắp thắng, còn gần một trăm lần nữa. Bỗng dưng, tôi có cảm tưởng như có ai đang nhìn. Liếc, tôi bắt gặp đôi mắt bê non nhìn chằm chằm. Lúng túng, mất đà tôi để quả cầu rơi xuống đất. Bọn bạn ồ lên tiếc rẻ:
- Còn có năm mươi quả nữa là hết “phùa”. Hôm nay mày sao thế hả Thừa?
Tôi không trả lời, chấp nhận thua, lấy quần mặc định bỏ đi. Tụi con trai thấy tôi không chơi, quay ra chỗ con bé cà khịa. Một đứa trong bọn nói:
- Ê! Con phản động!
Con bé đỏ bừng mặt:
- Không phải!
- Không phải mà bị xử bắn? Ê! Đồ cường hào ác bá!
Tôi hỏi thằng vừa nói:
- Ai bảo với mày nó là con nhà phản động bị xử tử? - Bố tao chứ ai! Nó quê tận Lập Thạch. Bố bị Đội cải cách xử bắn, chú nó gửi xuống đây cho đi học.
Con bé, mặt tím sẫm, không nói không rằng, lẳng lặng đi đến gần. Nhanh hơn tôi nhìn thấy, con bé rút phắt chiếc guốc dưới chân, bất thần nện “bốp” vào mặt thằng vừa nói. Đánh xong, con bé hất hàm nói:
- Có đứa nào muốn nói nữa không? - Đôi mắt đầy uất hận quét lên mặt tôi.
Chuyện thành to, thằng bị đánh giập sống mũi, máu me đầy mặt, nó ôm mặt nhảy tưng tưng kêu gào. Cả trường náo loạn vì vụ xung đột. Cả bọn bị gọi lên văn phòng. Thầy hiệu trưởng già khọm, gọng kính trễ quá sống mũi, gằm mặt nhìn cả bọn qua đôi mắt không kính:
- Ngày đầu tiên đi học đã thế này rồi! Đồ quạ cái, giặc con chứ không phải học trò! Thời này chứ thời trước thì gai mít, roi dâu.
Thầy không đánh nhưng tra hỏi như tra hỏi tội phạm. Con bé không một lời ngoài câu:
- Bố em bị bắn oan, bố em không phải là phản động?
- Gan như cóc tía! - Thầy lầm bầm rồi quay sang hỏi đám học trò để phân định phải trái.
Tụi con trai về hùa với những thằng bị đánh. Thầy Hiệu trưởng không biết bên nào đúng bên nào sai. Nhưng có ý nghiêng về phía thằng con trai. Thầy phân tích:
- Đa số thắng thiểu số!
Khi biết bố thằng con trai đã từng là Đội trưởng đội cải cách, Hiệu trưởng đứng hẳn về phía nó:
- Con cốt cán nòi nói là đúng! Lập biên bản đuổi học!
Con bé bắt đầu khóc. Lạ! Cái lũ con gái hơi tí là khóc! Chắc chúng cứ nghĩ mang nước mắt ra dọa là mọi người sợ, là đổi sai thành đúng? Tôi đang định khó chịu, nhưng nghe tiếng khóc nghẹn ngào, nức nở đầy oan ức và thương tâm tôi lại thấy mủi lòng, giống như khi nghe tiếng nó nói lúc bị tôi dùng nịt bắn. Âm thanh tuy khác, nhưng đồng vọng khắc khoải vì đau đớn, oan khuất. Tôi nhìn ông Hiệu trưởng ngần ngại. Sự ngập ngừng của người trò với người thầy, của trẻ nhỏ với người lớn. Tôi chờn chợn, ngập ngừng sợ sệt. Thằng “tên” từ nãy lặng lẽ theo dõi, thấy thái độ của tôi nó lên tiếng:
- Sao hèn thế cậu? Đọc bao nhiêu sách kiếm hiệp, nào “Giao chì hiệp nữ”, “Bồng lai hiệp khách”, “La Thông tảo Bắc”, “Thủy hử”... Thế bây giờ khí tiết trượng nghĩa nam nhi để đâu hết cả rồi?
Tôi cúi mặt, ra vẻ không thèm để ý. Thằng “tên” nổi đóa thét:
- Đồ hèn! Thật uổng cho công lao Bà Lang và Thầy Mo cứu cậu! Biết thế này ngày ấy tôi và cậu chết quách cho rồi. Sống mà không dám nói ra sự thật thì nhục lắm! - Nói rồi nó chui vào chỗ thường trú vừa gào thét vừa đập chân đập tay ầm ầm.
Nghe nó rủa, tôi bừng bừng lửa giận. Chưa có kẻ nào dám hạ nhục tôi vậy. Nhưng điều nó nói lại khích lệ lòng tự trọng của tôi. Tôi tiến lên trước mặt thầy giáo:
- Thưa thầy!
Cái kính trễ thêm một nấc, đôi mắt thầy như hỏi?
- Thưa thầy! - Tôi nói tiếp - Thằng kia gây sự bắt nạt con bé đầu tiên.
Thầy khó chịu bởi có một đứa dám phản đối lại quyết định đã phán quyết:
- Lúc ấy trò có ở đấy không?
- Thưa thầy, con tận mắt chứng kiến nó khà khịa trước! - Tôi nói dứt khoát.
- Đã nhắc thời đại bây giờ học trò không được xưng “con”! Phải xưng “em” hiểu chưa - Nhắc nhở xong thầy hỏi tiếp - Thế tại sao đa số các em lại nói vậy?
- Con... ààà em sẽ bắt chúng nó phải khai thật! - Tôi quay lại trừng mắt nhìn tụi con trai.
Chúng nó co cụm thủ thế, người quay nghiêng hướng ra cửa văn phòng định chạy, còn mắt thì hết nhìn thầy lại nhìn tôi. Tôi quắc mắt:
- Chúng mày là đồ hèn! Bắt nạt một đứa con gái mà không biết xấu hổ! Thằng nào không nói sự thật sẽ “ăn” cái này! - Tôi vén tay giơ nắm đấm cố lên gân cho thớ thịt căng ra.
Hiệu trưởng sợ sẽ có đánh nhau to, tiến lên ngăn tôi lại:
- Không được gây sự, để thầy hỏi - Ông quay lại - Các em, trò này nói có đúng không?
Tụi con trai đứa nọ đùn đứa kia, mồm lí nhí:
- Thưa... thưa... thưa thầy - Một đứa miệng lắp bắp, chợt nó nhìn thấy tôi trợn mắt, khuỳnh tay dứ nắm đấm dọa, nó nói vội - Thưa thầy, thằng Thừa nó nói đúng đấy ạ! Thằng kia gây sự trước!
Hiệu trưởng gườm gườm nhìn đám học trò một lượt rồi quay về bàn vo viên tờ biên bản:
- Tạm thời bảo lưu ý kiến lại. Bây giờ các trò về lớp - Rồi gửi theo một câu dọa - Nếu lần sau còn thế này thì tôi sẽ đuổi cả hai.
Con bé chạy theo tôi:
- Em cảm ơn anh Thừa! - Mắt nó chớp chớp vẻ cảm động.
Tôi ngoảnh đầu thoáng nhìn nó rồi quay lại rảo bước. Người quân tử, kẻ trượng nghĩa làm ơn không cần trả! Tôi bước đi, tưởng tượng bắt chước một nhân vật trong truyện kiếm hiệp, nhưng không tài nào nhớ ra rạch ròi được, vì trong truyện chưa thấy tả cách đi mà chỉ kể: sau khi làm xong việc nghĩa, những bậc đại trượng phu hay hiệp khách đều bay lên nóc nhà hoặc phi thân lên cây rồi khuất dần mà tôi thì chưa luyện được khí công, chưa học cách phi thân nên đâm ra luống cuống, chân phải bước vội, đá vào chân trái suýt ngã. Đang khi, bên tai vang lên lời nói của thằng “tên”:
- Được đấy!
Tôi nghe mà không hiểu nó khen hay nó giễu? Mặc!
Mặt tôi vênh váo, tỉnh bơ như chưa nghe thấy gì 
3. Có mỗi chuyện Chủ tịch xã đưa cán bộ ra tham quan đầm Vực, mà hôm sau có tin đồn ầm xã chuẩn bị bán đất cho công ty nước ngoài. Dân chúng xô nhau ra san đất dựng lều, đào hố trồng cây để mong được đền bù.
Nghe báo cáo, Chủ tịch xã lắc đầu:
- Không ngăn lại sẽ xảy ra đánh nhau.
Quả vậy, cả hai thôn ùa nhau ra tranh cướp đất. Hôm nay rào, mai bị phá. Mối hiềm khích từ đận tranh chấp phi công Mỹ lại bùng phát. Cán bộ xã bất lực, dân chúng bỏ cả đồng áng để mưu lợi.
Mẹ hỏi bố:
- Dân làng ra xí đất cả, còn nhà mình thế nào?
Bố dênh đứa con gái nhỏ của em cho nó ngồi lên vai:
- Ai thích tranh ra mà tranh, mấy ông cháu tôi chả thèm!
Con bé thích chí nhảy nhảy trên vai ông, toét miệng cười, thằng anh từ trong nhà chạy ra nói như khoe:
- Hôm qua thanh niên thôn mình đánh nhau với thanh niên thôn Quyết Thắng, một đứa bên ấy chảy cả máu đầu. Cháu thấy cả con lớn của ông cả, bác ấy đánh có võ lắm ông ạ!
- Chết! Sao cháu dại thế? “Nhỡ chẳng phải đầu cũng phải tai” - Bảo cháu xong mẹ quay lại hỏi bố - Sao chuyện tày đình vậy mà bố cái Linh không biết?
- Chỗ ấy bây giờ là “tự do”, đánh nhau là chuyện cơm bữa! Còn thằng con ông cả nhà mình thì ngỗ ngược lắm! Bố nó nói nó không nghe huống gì là tôi? Biết thế ngày xưa cứ “tống” đi cho bộ đội rèn giũa.
- Thế Chính quyền đâu mà cứ để vậy? - mẹ hỏi.
- Các anh ấy còn đang bàn mẹ ạ! - Em nói - Làm cán bộ mà dân tình thế này cũng vất vả lắm - Em kéo thằng bé vào lòng - Lần sau đi học về thẳng không được rẽ ngang rẽ ngửa hiểu chưa!
- À, mẹ ơi, bác Chủ tịch xã có họ với nhà mình hả mẹ?
- Ai nói với con vậy?
- Bọn cùng lớp với con bên Quyết Thắng nói.
- Chúng nó nói bậy đấy! Con đừng nghe.
- Nhưng bác ấy gặp con ở trường hay hỏi chuyện lắm.
- Con không được gặp! - Em cáu - Ai cho cái gì không được lấy nghe chưa? - Nhưng nói xong em chợt thấy mình vô lý.
Thằng bé tiu nghỉu ngồi phịch xuống hè. Nghe, mẹ nhìn bố nói lảng:
- Những người ấy thế nào chứ nhỉ? Không phải đất của mình cứ làm phứa!
- Thế mới nên chuyện - Bố trả lời, con bé gục trên vai ông ngủ, dãi chảy dề dề.
Em đứng dậy:
- Bố đưa cháu cho con đặt nó vào giường - Em đón nó nựng - Con gái ra với mẹ nào, lớn quá rồi mà vẫn bắt ông bế.
Vào đến giường em còn nghe tiếng bố dỗ thằng bé.
- Bác Chủ tịch xã thấy cháu của ông ngoan và học giỏi thì quý, chứ có phải tại cháu đâu mà mẹ mắng nhỉ!
Em ôm đứa bé nằm xuống, nước mắt ứa ra.
Chiều, đến Ủy ban nộp ảnh, Phó Chủ tịch xã than phiền:
- Rõ khổ! Hết chuyện này lại tới chuyện khác. Suốt ngày giơ đầu chịu báng. Năng lực cán bộ xã yếu, chi chi hà sự độc một tay cậu ấy lo.
Em hỏi:
- Tình hình vậy giải quyết ra sao hả cô?
- Mình thì lo quýnh còn cậu ấy cứ bình chân như vại: “Đâu vào đấy hết!”.
Em về, ra tới cửa đối mặt, Chủ tịch xã dựng vội xe máy:
- Có ảnh rồi hả Linh?
Em lạnh lùng:
- Tôi giao cho Phó chủ tịch xã rồi!
- Linh sang lấy ảnh mang giúp tôi sang phòng - Không để cho em kịp từ chối, Chủ tịch xã đi vào nhà. Lưỡng lự một chút, em đành quay lại phòng Phó Chủ tịch xã lấy tập ảnh mang sang. Phó Chủ tịch xã dặn:
- Tế nhị một chút Linh ạ! Dạo này cậy ấy vất vả lắm đấy!
Tế nhị! Ai mà thèm? Em đặt tập ảnh lên bàn rồi quay ngoắt đi ra. Một tiếng gọi níu chân em lại:
- Ấy, tôi nhờ Linh cái này.
Em quay lại:
- Anh cần gì?
- Thì Linh cứ ngồi xuống đây một lát đã - Chủ tịch kéo ghế.
Em đẩy rộng hai cánh cửa rồi mới ngồi. Chủ tịch xã cầm cốc nước.
- Linh uống nước.
- Tôi không có thời gian, nói gì anh nói đi! Nhưng tôi giao hẹn trước: Không nói chuyện riêng tư.
- Tôi đồng ý! Chủ tịch xã mở đầu - Thế này Linh ạ, Ủy ban muốn giải tỏa khu đầm Vực, nhưng trước khi cưỡng chế muốn giải thích cho dân hai thôn hiểu đã...
- Đấy là việc của Ủy ban, can dự gì đến tôi? - Em ngắt lời.
- Đúng là việc của Ủy ban, nhưng trách nhiệm là trách nhiệm chung...
- Cần gì anh cứ nói thẳng! Đừng “vòng vo Tam Quốc”.
- Ủy ban ra nghị quyết tổ chức một ban giải tỏa khu vực đầm Vực, muốn Linh tham gia.
- Thì Ủy ban cứ làm công văn cho Phòng Nông nghiệp huyện. Ngành dọc đồng ý thì tôi làm.
- Không, tôi muốn Linh giúp đỡ xã.
Em đứng dậy:
- Đấy là ý của anh, còn tôi phải suy nghĩ đã! - Nói xong em đứng dậy bước ra cửa.
Về nhà, em kể, bố trầm ngâm:
- Thế là cậu ấy khôn đấy! Kết hợp vận động là đúng! “Lạt mềm buộc chặt”. Đất vùng này từ xưa có tiếng là “nghịch”, nhỏ nhẹ mới được chứ đao to búa lớn không được đâu.
Em nói với bố:
- Con là đảng viên, bị phân công chẳng nhẽ lại không tham gia, chứ nếu chỉ riêng ý kiến của Chủ tịch xã con thèm vào.
Bố mắng:
- Ăn nói hàm hồ! Không phải là đáng viên thấy việc lợi vẫn phải nhảy vào. Phải tự nguyện chứ! Tao là Bí thư mà mày có tư tưởng ấy, tao khai trừ!
Mẹ nguýt:
- Con Linh sang nói với Ủy ban kết nạp ông ấy vào Đảng!
- Ấy chớ! - Bố xua tay - Nếu vào tôi đã vào từ trong chiến trường rồi! Nhưng nghĩ mình chẳng học hành gì, trình độ a, b, c, vào chỉ tổ vướng chân.
- Thế sao ông thông thế? - Mẹ hỏi.
- Thì Đảng cũng từ dân mà ra chứ có phải người ở trên trời rơi xuống đâu! Thấy cái gì lợi cho dân cho nước thì làm.
Bố nói như giảng viên trên huyện về nói chính trị ấy! Em nghĩ.
Ban giải tỏa được thành lập. Bí thư Đảng ủy xã người làng Quyết Chiến làm Trưởng ban; phân công Phó Chủ tịch xã làm phó; tổ viên chia đều, mỗi thôn một nửa. Chủ tịch xã khôn thật, chơi chéo giò. Chả là họ hàng Bí thư có đến nửa trong danh sách lấn chiếm; bên Quyết Thắng họ hàng Phó Chủ tịch xã cũng chẳng kém là bao. Em được phân công với tư cách vừa là thành viên đồng thời chụp ảnh lấy tư liệu.
Khu đầm Vực nhộn nhạo, những ngôi nhà làm vội, quét vôi nham nhở, vậy mà đã có mấy cái lều kịp đề biển sửa xe máy, cắt tóc gội đầu, thậm chí còn có hẳn một cửa hàng chôn cọc gỗ trải sạp gỗ lên mặt đầm. Không biết làm thế nào mà họ kéo được cả điện lưới để hành nghề. Đêm đêm không khí sinh hoạt nhộn nhạo, tiếng loa đài ầm ầm. Bí thư gãi đầu, vuốt tai:
- Trước tiên phải cắt điện - Ông làm công văn gửi Chi nhánh điện.
Không có điện danh chính ngôn thuận, tối, họ rải dây lấy sào “câu trộm”. Phó Chủ tịch đưa ra biện pháp tuần tra, kiểm soát, nhưng lực lượng mỏng, được mấy hôm ai nấy nản, đâu lại đóng đấy. Họp rút kinh nghiệm, không có lối thoát. Về nhà, em phàn nàn, bố bảo:
- Các vị ấy dốt! Sao không lấy hương ước của thôn ra vận dụng?
Em mang sáng kiến của bố nói lại với lãnh đạo. Bí thư Đảng ủy xã  vỗ đùi:
- Tốt! Thử xem sao?
Bí thư Đảng ủy xã và Phó Chủ tịch xã triệu tập những người già trong làng đả thông, lấy làm nòng cốt, ai nấy đồng ý, nhưng đều có ý kiến:
- Xã phải công tâm. Giải tỏa không được thiên vị. Còn kế hoạch sử dụng khu đầm Vực thế nào, xã phải báo cáo công khai cho dân cả hai thôn biết được, được sự nhất trí của toàn dân mới thực thi.
Chủ tịch xã nghe Ban giải tỏa báo cáo, cười:
- Bám chắc vào các cụ, xã sẽ mở “Hội nghị Diên Hồng” để xin ý kiến thống nhất các bô lão. 
4. Nhá nhem, tôi về tới nơi cơ quan sơ tán. Trưởng phòng hành chính bảo tôi lên gặp thủ trưởng. Tôi đập tay vào cánh cửa tre ép cót.
- Thừa phải không? Vào đi!
Tôi phải công nhận ông ta thính tai, chỉ nghe chân bước đã biết là ai. Tôi đẩy cửa:
- Báo cáo...
- Ngồi... ngồi... ngồi, chuyện báo cáo để lúc khác! Bây giờ thế này nhé! - Ông đặt chiếc đèn phòng không xuống bàn uống nước rồi rút điếu cày để trong bồ, nhúm thuốc lào vê vê - Mình thảo xong báo cáo rồi, đêm nay cậu viết lại cho mình, khi viết có gì ta trao đổi luôn. Tình hình căng lắm rồi, không có hướng giải quyết dễ bị tụi phản động xuyên tạc lắm! - Thủ trưởng nhìn tôi như cảm thấy lỡ lời.
Tôi vẻ không chú ý, châm đóm đưa cho ông:
- Tất cả độ mấy trang hả thủ trưởng?
- Chữ tớ tính trang làm gì! - Cái đóm bùng lên soi bóng lớp da lực điền trên mặt, ông dụi bớt tàn - Cứ bận thế này chưa biết bao giờ mới học hết đít nôm? - Ông rít một hơi dài rồi ngửa cổ thổi thẳng lên trần nhà.
Thủ trưởng đang học giờ bổ túc lớp bốn, đọc quốc ngữ chưa thạo, hành văn lủng củng, sai lỗi chính tả be bét, nhưng được cái nói tiếng Tây bồi rất giỏi, khi phát ngôn thường pha, đệm, anh em trong cơ quan đùa gọi là ông Tây quăng. Một lần tôi hỏi vì sao thủ trưởng nói tiếng Tây bồi giỏi vậy, ông trả lời: Ngày trước làm cu li đồn điền cao su mãi trong Nam, ai biết tiếng dễ sống hơn nên tập nói thành quen.
Có tiếng xe đạp lạch cạch, thủ trưởng cười:
- Mađam mang cơm cho tớ mănggiê đấy!
Tôi xin phép về nhà một lát, vợ thủ trưởng níu lại:
- Tôi nấu nhiều cơm lắm, hai người ăn đủ.
Tôi liếc “cái đủ” của vợ thủ trưởng đem tới: Cơm độn khoai lọt thỏm trong âu sành, vài miếng cà muối nửa đen ủng, nửa trắng nhợt, kèm vào đấy là bát canh rau tập tàng, hoa mỡ óng ánh dưới ánh sáng đèn:
- Dạ, nửa tháng qua tôi chưa về nhà, phải báo cho dì tôi khỏi nóng ruột.
- Thế sao bà không đi sơ tán?
- Dì tôi bị què nên ngại.
- Thế cậu về đi, nhanh lên rồi đến làm cho kịp - Thủ trưởng giục.
Tôi chào rồi khép cửa ra sau nhà dắt xe, khi cúi xuống gỡ mấy sợi rơm vướng ở xích, nghe tiếng vợ thủ trưởng hỏi:
- Sao cậu ta không lấy vợ ông nhỉ?
- Đã suýt làm cháu rể Bí thư tỉnh đấy!
- Thế sao lại thôi?
- Vướng thành phần gia đình, kết hôn thế nào được!
- Thế cô kia bây giờ ở đâu?
- Lấy chồng rồi! Bây giờ công tác ở văn phòng Ủy ban tỉnh, chồng người miền Nam tập kết, hơi cứng tuổi nhưng là cán bộ cốp.
- Rõ khổ, bố làm con chịu, sao cái thói đời lại ác nghiệt vậy! - Tiếng vợ thủ trưởng buông nặng nề.
- Nghi vấn vậy thôi chứ nào có chứng cớ gì.
Ngại vợ chồng thủ trưởng cho là kẻ nghe trộm, tôi nhấc bổng chiếc xe đạp ra một quãng xa mới bỏ xuống. Câu chuyện của vợ chồng thủ trưởng bất giác hơi dậy quá khứ và nỗi niềm sâu kín tự đáy lòng tôi...
*
*       *
Hàng ngày nhà tôi có rất nhiều khách tới, bộ đội và cán bộ, chủ yếu là do hiếu kỳ. Họ tới là muốn xem mẹ bắt rắn. Những người phụ nữ dám bắt rắn như mẹ thời ấy hiếm lắm! Mẹ chẳng nề hà, thậm chí còn tỏ vẻ tự hào, mẹ bắt và giảng giải “tính nết, sở thích, đặc thù” của từng loại rắn cho người đến xem. Mẹ nói:
- Dữ nhất là rắn “săn chuột” còn gọi là “rắn dọc dưa” vì trên da nó có những vệt kẻ dài, hay cắn nhưng không độc. Hiền lành nhưng nguy hiểm là rắn “khúc đen, khúc vàng” mà thợ rắn gọi nó là “cạp nong”, loại rắn này có đuôi giống đầu, nên nhiều người dễ tưởng là nó có hai đầu, hiền nhưng nếu đã cắn là trúng. Ai bị cắn không buộc chặn nhanh là nọc độc chạy lên đầu. Tuy độc nhưng chữa được. Còn một loại nữa giống nó nhưng khác ở chỗ một khúc trắng, một khúc đen, gọi là rắn “cạp nia”, thợ bắt rắn kêu “con đen trắng”, dân Tầu ô gọi là rắn “ngũ hành”, nghĩa là ai bị nó cắn chỉ bước được năm bước là chết. Loại này gặp, người ta thường đánh chết. Còn loại này - Mẹ bắt một con rắn hổ mang đặt nó nằm xuống nền nhà - Đây là con hổ mang chúa, loại này độc nhất hạng, nhưng cũng đắt nhất hạng. Khi gặp người, nó nhô đầu cao lên - Mẹ lấy tay dứ dứ, con rắn ngóc cao đầu, phè mang, lưỡi phóng nhổ “phì phì”, trên đầu con rắn, những nét hoa văn trông như hoa của chiếc cân Tàu ở hiệu thuốc Bắc - Người Hồng Kông ưa loại này, vì nó hiếm và quý nhất trong bộ “ngũ xà”.
Một anh bộ đội hỏi:
- Hồi hành quân cháu đánh được một con “hổ mang chì”, thế loại ấy có quý không hả bác?
Mẹ trả lời:
- Hổ mang có nhiều loại, loại “hổ mang chì” cũng lấy được nọc độc, nhưng không quý bằng hổ mang chúa, thường để ngâm rượu là chính! - Nói xong mẹ móc trong túi vải ra một con rắn mầu vàng ươm, dài như cái đòn gánh - Đây là loại rắn “leo cây”, loại này còn có tên là “rắn ráo” không độc, nhưng nhanh nhẹn nhất trong các loại rắn.
Có người hỏi:
- Thế rắn “hổ trâu” cắn có chết người không hả bác?
Mẹ móc trong bồng tre của người thợ bắt rắn vừa đem tới ra một con rắn to và đen xì:
- Đây là con rắn “hổ trâu”, có con nặng đến chục cân. Loại này họ hàng với loài trăn, còn một loại nữa gọi là “hổ chuối”, mầu da như bẹ cây chuối bóc, thịt thơm như thịt gà, hiền như đất - Mẹ còn để con rắn lùa lên người quấn quanh đầu, vào cổ trước sự ngạc nhiên và khâm phục của mọi người.
Nhiều rắn, xuất không kịp, bố mua gỗ đóng thành chuồng để nhốt, lấy cót quây tròn thả rắn vào đó rồi úp mẹt lên trên. Những con bị chết, mẹ thuê người thuộc da cất đi. Công việc làm ăn buôn bán có chiều suôn sẻ. Mẹ ước ao:
- Thể nào rồi cũng có chuyến tôi mang hàng sang tận Hồng Kông.
Nhưng ước ao của mẹ không thành sự thật, mà nỗi lo của bố bỗng hóa thành sự thật. Một hôm, bố nhận giấy gọi lên Ủy ban. Khi về, mẹ hỏi:
- Họ bảo sao?
- Họ yêu cầu kê khai tài sản, chờ cán bộ xuống từng nhà kiểm tra. Kiểm tra xong sẽ cho buôn bán tiếp tục.
Bố thật thà có gì khai thế. Khai xong đem nộp. Được vài hôm sau, một đoàn cán bộ đại diện các ngành, các giới tới nhà, đọc lệnh đóng cửa hàng kiểm tra, lập biên bản thống kê hàng hóa và tài sản:
Xe vận tải kéo tay: 12 chiếc.
Hàng ngoại thương gồm:
Rắn: 1200 con.
Trăn: 10 con.
Ếch: 500 con.
Ba ba: 50 con.
Rùa núi: 10 con.
Tắc kè: 150 con.
Tê tê núi: 5 con.
Kỳ đà: 2 con.
Da rắn đã thuộc khô: 20 kg.
Một người trong đoàn yêu cầu bố, mẹ ký biên bản. Bố biết chữ: ký, mẹ mù chữ: điểm chỉ. Trưởng đoàn tuyên bố: Tịch thu. Cả nhà bàng hoàng khi một vị cán bộ nói:
- Mầm mống Tư bản bóc lột!
Chợt mắt ông dừng lại tấm ảnh vợ chồng người lính Pháp tặng gia đình làm kỷ niệm:
- Những người Tây này quan hệ thế nào với ông bà?
Bố tình thực kể. Nghe, vị cán bộ chau mày:
- Ông không biết như vậy ra ông đã giúp bọn xâm lược à?
Câu hỏi khó, bố bậm bục không biết trần tình ra sao. Vị cán bộ ra lệnh:
- Các đồng chí tháo ảnh đem về chuyển sang công pháp để điều tra!
Lệnh ông được cấp dưới chấp hành tắp lự. Còn mẹ sụp xuống, dì nắm chặt vạt váy, mấy chị em thập thò sợ hãi nhìn.
Những người lao công sợ rắn không dám bê. Cán bộ bắt bố làm thay. Thật đúng “nhất cử lưỡng tiện”, hàng hóa nhà mình chất lên xe nhà mình. Nhìn lao công kéo xe đi, xót của, mẹ khóc nấc. Vị cán bộ mặc mặc áo Tôn Trung Sơn, mặt dài như lưỡi cày bĩu môi:
- Giành độc lập tự do cho các vị làm giàu hả? Còn oan lắm hay sao mà khóc?
Cán bộ yêu cầu bố áp tải hàng hóa lên Ủy ban. Mẹ nghĩ bố bị bắt đi tù, chạy theo gào như hóa điên. Một người công an chặn lại:
- Nếu không có tội sẽ trả về.
Mẹ đổ bệnh, ốm liệt giường, cơm không ăn, nước không uống. Dì giã rau má chắt cho mẹ uống vẫn không đỡ. Nửa tháng sau bố về, mặt buồn rượi:
- Nghe họ giảng giải thì đúng là nhà mình thuộc diện bóc lột thật! Không cẩn thận còn bị quy thành phần tiểu tư sản - Bố kể - Họ nhân số động vật thành tiền; đánh giá trị mười hai chiếc xe kéo hoán vị thành tiền cộng gộp lại rồi công bố nhà mình có nhiều tiền nhất phố.
- Còn cái ảnh? - Mẹ hỏi.
- Họ nghi tôi làm gián điệp cho Pháp, cấm không được ra khỏi thị xã trong khi đang điều tra.
Chết nỗi, bị quy thành phần lớp trên, lại mắc tội phản động khó mà thoát vòng lao tù. Mẹ rũ rượi:
- Tôi đã bảo mà ông chả nghe, cứ xe mới chả cộ.
Bố thanh minh:
- Chết là chết cái chỗ rắn, ba ba, tắc kè ấy! Họ nói nó thuộc vào hàng hóa ngoại thương, nhằm phục vụ cho giai cấp tư bản. Chứ giai cấp công nhân là giai cấp cần lao không cần hưởng mấy thứ đó.
Lý lẽ của họ được bố truyền lại làm mẹ không khóc nổi. Dì gàn:
- Thôi mà anh chị, đằng nào sự việc cũng xảy ra rồi!
- Còn dì nữa! Dì ám cái nhà này đến bao giờ nữa? - Mẹ vặc dì.
Đúng là “giận cả chém thớt”, “chuyện nọ dọ chuyện kia”, dì lấm lét nhìn bố trách móc rồi đi ra sau nhà sụt sịt bưng vạt áo chấm nước mắt. Tôi đồ rằng việc mẹ quặc dì thể nào cũng dính dáng tới chuyện xảy ra giữa dì và bố.
Đêm đêm mẹ ôm đầu kêu gào vì đau, bố phải lấy kéo cắt trụi tóc cho mẹ đỡ; dì mang hương hoa lên chùa Thông khấn vái, rồi xin nước thải cho mẹ uống, lấy lá ngải cứu rang với muối bóp thái dương, lót đầu cho mẹ gối nhưng không đỡ. Bệnh tình hành hạ mẹ ngày đêm. Người đến chơi khuyên đi tìm thầy cao tay hơn. Dì nhìn bố, bố thở dài. Người tài có thể chữa được bệnh cho mẹ toàn ở tận Cao Bằng, Bắc Cạn... Bố lấy đâu tiền mà đi?
Mắt mẹ lòa dần rồi mù hẳn, những thứ thuốc lá trong vườn, vệ cỏ và hoa thải hương thừa, nước thải xin ở đình chùa không chữa được cho mẹ khỏi. Bố nhờ người võng mẹ vào nhà thương. Một người mặc quần áo bờ - lu trắng hất hàm hỏi bố:
- Thành phần gì?
Bố ấp úng:
- Thưa... thưa còn đang chờ ạ?
- Đang xét hả? Như vậy thuộc diện nghi vấn, chưa rõ thành phần. Thôi, khênh về! Có xác nhận của địa phương hãy mang vào. Nhà thương chỉ dành cho nhân dân lao động. Tầng lớp bóc lột không có tiêu chuẩn!
Bố làm đơn trình địa phương, không ai dám xác nhận. Việc bị thu giữ tài sản loang khắp thị xã, gia đình tôi thuộc tầng lớp khác mọi người, nên mẹ không được vào nằm viện. Bố mời thầy lang, thầy lang ngại liên lụy từ chối khéo:
- Bệnh bà nhà để quá mất rồi, tôi cũng bó tay.
Bố thở dài:
- Giá Bà Lang còn sống đến bây giờ chắc bệnh mẹ qua khỏi.
Nghe bố nhắc, hình ảnh Bà Lang và Thầy Mo lướt nhanh trong óc tôi. Ừ, giá mà còn cả hai người thì mẹ tôi khỏi ngay! Đến sắp chết như tôi mà còn khỏi nữa là... Nhưng ước thế thôi, mong thế thôi. Bà Lang và Thầy Mo bây giờ chắc đã đầu thai sang kiếp khác.
Cuối năm ấy, gió bấc thổi lạnh như chưa bao giờ lạnh như thế. Mưa quất trên mái gianh từng chập, từng chập, sàn sạt, sàn sạt. Rét quá, tôi xuống bếp nằm ổ rơm với dì, vừa ấm vừa được nghe kể chuyện. Một đêm, đang ngủ say thì dì lay:
- Thừa! Dậy đi, mẹ cháu mất rồi.
Tôi ngồi phắt dậy dụi mắt ngó ra: đèn đuốc sáng trưng, lố nhố những người là người. Dì quấn vào cổ tôi chiếc khăn mỏ quạ:
- Có thương mẹ thì cũng đừng khóc vội, chờ đến khi phát tang nhập quan hãy khóc! - Dì dặn tôi đừng khóc nhưng lời dì nghẹn ngào còn hơn cả khóc.
Mẹ nằm duỗi dài trên tấm phản gỗ kê giữa nhà, mặt đậy tấm vải xô, hai ngón tay cái được buộc bằng sợi vải đặt lên ngực, hai ngón chân cũng ràng vào nhau. Bố ngồi bên, tay bó gối mặt úp xuống đùi, vai rung từng hồi như người bị lên cơn sốt. Đầu giường, đặt bát cơm, quả trứng, cắm thanh tre vót thành từng sợi cong vút cùng vài nén hương cháy lập lòe, mùi thơm tỏa mang cảm giác cô quạnh, lạnh lẽo. Cạnh giường mẹ, chiếc quan tài há hoác miệng chờ.
Ai đó khoác lên người anh em tôi tấm áo xô, đội lên đầu chiếc mũ rơm, và ấn vào tay cây gậy gỗ xoan đã lột vỏ. Anh trai nắm tay tôi thật chặt, mắt đỏ hoe, răng bậm môi muốn bật máu; các chị gái ngồi bệt xuống nền nhà, ấp khăn trắng vào mặt nấc nghẹn. Tôi nhìn thấy tất cả mà ngỡ mình mê ngủ.
Tiếng kèn, trống đột ngột vang lên, cùng với tiếng kèn, trống là tiếng nấc nghẹn cổ kìm nén nay bung òa thảm thiết; thanh âm hỗn hợp quyện chặt không lớp lang mà thảm khốc, mà ai oán làm sao! Dì và các chị lăn lộn dưới đất nức nở, giọng lạc đi trong lời than trách số phận người chết và ân hận kể lể, tự vấn tội lỗi của người đang sống.
Nhạc liệm đánh thức sự u mê, tôi không khóc mà nước mắt rơi lã chã, cố kìm nén nỗi buồn thương não nuột ùa vào trái tim xót xa. Khi thân xác mẹ được nhấc lên đặt vào quan tài, trong khoảnh khắc, tôi bỗng thấy buốt nhói tâm can, cảm giác hẫng hụt, bơ vơ, côi cút ứ trào. Không kìm nổi, tôi bật lên tiếng gào thảm thiết:
- Mẹ ơi!...
Đồng thanh cùng tôi là tiếng thét đớn đau của thằng “tên”. Bản mệnh cùng một mẹ cho hai đứa xích lại, hòa nhập nỗi tiếc thương vô hạn, âm hưởng tôi, nó trong lúc quá khổ đau đã tìm được tiếng nói chung. Mẹ ơi! Tôi, nó lăn xả vào quan tài, muốn níu mẹ lại. Sự hiếu đễ của chúng con đối với mẹ chẳng nhẽ chỉ là những giọt nước mắt thương tâm này thôi ư? Bài học dạy về đạo lý làm người chúng con vừa học thuộc, chưa kịp lớn lên mong báo đáp công sinh thành, sao mẹ nỡ ra đi?
- Đáp lại lời than trách: Gió thổi, mưa bay, cả bầu trời tối đen như mực.  

5. Một chiếc xe con bốn chỗ ngồi màu trắng đỗ giữa sân Ủy ban. Khi em bước vào văn phòng, Chủ tịch xã nói như reo:
- A, cô Linh đây rồi - Chủ tịch xã quay sang nói với ông khách trung tuổi, cao lớn, ăn mặc sang trọng - Đây là người tôi vừa nói với ông. Còn ông đây - Chủ tịch xã giới thiệu - Là kiều dân từ Mỹ về thăm Tổ quốc.
Ông khách đứng dậy nghiêng mình chào rất lịch sự làm em ngượng:
- Do quan hệ ngoại giao của hai nước - Ông Việt kiều nói - Nên mặc dù trao đổi thư từ với ông Chủ tịch xã từ lâu, nhưng bây giờ tôi mới có điều kiện. Mong các vị thông cảm.
Tuy chưa hiểu, nhưng tự nhiên con tim em đập loạn xạ, linh tính như mách bảo sẽ có điều hệ trọng xảy ra.
Ông Việt kiều trịnh trọng đặt lên bàn một chiếc hộp sắt tây đã gỉ cũ:
- Thưa, đây là di vật của cha tôi để lại, và cũng là lời di huấn ông muốn chúng tôi thực hiện trước khi qua đời.
- Thưa ông - Em hỏi - Thực tình là tôi chưa hiểu.
Vị Việt kiều quay sang nhìn Chủ tịch xã. Chủ tịch xã gật đầu với ông quay sang em, nói:
- Thế này Linh ạ. Tôi có nhờ đài Tiếng nói Việt Nam nhắn tìm thân nhân, và được ông đây gửi thư phúc đáp về trường hợp mất tích của bà ngoại Linh. Thời gian trao đổi cũng đã lâu, nhưng vì quan hệ quốc tế có những điều kiện chưa thể. Vả, ngày xưa tên làng mình tên tục thường gọi Kẻ Đống, làng tôi là Kẻ Gò, sau thời Cách mạng Tháng Tám mới đặt lại tên là Quyết Chiến, Quyết Thắng như bây giờ. Tôi ngại có sự lầm lẫn nên muốn để xác định thật chính xác mới nói cho gia đình bên nhà biết. Sáng nay khi nhận điện thoại, tôi có ý định tổ chức mời cả ông bà thân sinh của Linh đến Ủy ban, nhưng sợ ông bà bị sốc, nên muốn báo tin cho Linh trước...
Em không còn nghe Chủ tịch xã nói gì nữa. Tình cảm máu thịt và những nỗi niềm sâu kín trĩu nặng ùa vào lòng quặn thắt, nước mắt trào ra xối xả. Bà ơi! Mẹ cháu đã tưởng mất bà vĩnh viễn. Quá khứ như vầng mây u ám che kín bầu trời, không một tia hi vọng, không một lời giải đáp. Đã bao năm, mẹ cháu sống trong nỗi dằn vặt, thắc thỏm vì dĩ vãng và những lời đồn hư hư thực thực.
Chủ tịch xã đến bên em nhỏ nhẹ:
- Nín đi Linh, chúng ta còn phải làm rất nhiều việc nữa để cho bà được ở đúng vị trí xứng đáng với công lao mà bà đã hy sinh vì đất nước này.
Bất giác, em gục vào vai Chủ tịch xã nghẹn ngào, bờ vai vững chãi và thân thiết làm sao. Bao hờn giận xưa tan biến, nhường cho niềm cảm kích và lòng biết ơn. Ngước đôi mắt nhòa nhạt nhìn Chủ tịch xã, em thấy lại bóng hình Tổ trưởng, cũng khuôn mặt và vầng trán cao ấy, cũng lời nói đầm ấm dịu dàng ấy! Bất giác em muốn nhào vào lòng mà hờn mà dỗi... Nhưng em không dám, giữa em và Chủ tịch xã là khoảng cách, ví như đầm Vực và Bãi Giữa, tuy cùng khoảnh nhưng cách biệt mênh mông là nước và bùn lầy. Em bải hoải như lả đi.
Vị Việt kiều cúi xuống nâng em dậy, em sụp xuống ôm ghì lấy chân ông mà nói:
- Ngàn vạn lần cháu cám ơn chú! Chú ơi! Mẹ con cháu mong chờ cái ngày này mãi. Chú là ân nhân, là thánh sống cứu cả gia đình cháu! Suốt đời này mẹ con cháu sẽ chẳng bao giờ quên ơn của chú.
Vị Việt kiều lần nữa, cúi xuống nâng em lên, nước mắt ông trào ra, giọng ông nghẹn ngào:
- Sinh thời cha tôi kể lại, trước đây ông là người coi chùa Thập Phương ở tỉnh Phúc An. Sau đấy vì thời cuộc, cha tôi phải lưu lạc tha phương cầu thực vào tận miền Nam rồi bị bắt đi lính. Năm bảy nhăm (1975) ông đưa gia đình di tản sang Mỹ. Những năm cuối đời, ông rất muốn hồi hương, nhưng phần vì quan hệ của hai nước, phần vì bệnh nặng nên ông không thực hiện được ước muốn. Trước khi mất cha tôi có dặn: Đời cha không về được thì con phải thay cha mà về. Nếu đời con cũng không làm được thì phải di chúc lại cho đời sau. Chính vì vậy, tôi hứa phải thực hiện bằng được ý nguyện của Người là trao tận tay mẹ cháu chiếc hộp này.
- Thưa, chú có biết trong hộp đựng gì không ạ?
- Tôi có hỏi nhưng cha tôi nói: Trong đó có một thứ không đáng giá là bao, nhưng vàng bạc hay tiền của bao nhiêu cũng không sánh nổi.
Chiếc hộp hình bầu dục, màu thời gian ố vàng, ngoài vỏ còn sót lại hình vẽ một con cá nhỏ với hàm răng nhọn hoắt, xung quanh được hàn một lớp thiếc mỏng. Tất cả mọi bí mật về đời bà ngoại em ở trong đó. Cảm ơn trời, hãy cho những điều sâu kín ẩn giấu trong đó là điều tốt đẹp nhất. Em chắp tay lên ngực khấn cầu. Cô Phó Chủ tịch xã đến cạnh vỗ về:
- Linh ơi, cô tin chắc bà ngoại của em là người anh hùng xứng đáng với niềm tin yêu của quê hương mình.
Em cũng tin vậy! Ngoài trời nắng rỡ ràng, gió đầm Vực thổi về lồng lộng, lũy tre làng rập rờn như cờ phướn trong ngày hội in trên nền trời xanh thẳm. 
6. Giữa lúc đó em đến với tôi. Nỗi đau mất cha cho em sẻ chia cùng tôi nỗi đau mất mẹ. Đôi mắt em như ngọn lửa rực cháy sưởi ấm nỗi đơn côi, niềm xa xót trong lòng vơi bớt, tôi nhìn em, em nhìn lại, đôi mắt như muốn nói: Hành động bênh vực của anh còn cao thượng hơn những gì em đang làm! Tôi nhìn em như muốn đính chính: nỗi đau mất cha của em còn đau đớn hơn nỗi đau mất mẹ của anh! Thấy vậy, thằng “tên” nói:
- Đừng so sánh ai đau đớn hơn ai! Đã lâm vào cảnh chia ly tử biệt thì nỗi đau làm gì có giới hạn, làm gì có cung bậc thương tâm.
Tôi thừa nhận điều này thằng “tên” nói đúng.
Em tới, dì tỏ ra thân thiết, các chị coi như người ruột thịt. Riêng anh trai nhìn hai đứa bằng con mắt ngỡ ngàng. Và, anh trai bỗng nhận ra thằng Thừa của anh đã lớn! Anh trìu mến nhìn tay em, tay tôi cùng nắm chiếc gậy gỗ xoan đang chống. Mưa ngày thêm nặng hạt, gió mỗi lúc một thốc tháo; phướn cờ của các vãi trong chùa Nhuế phần phật như muốn bứt bung khỏi tay. Cả đoàn người liêu xiêu, dẹo dọ. Mây trên trời tầng tầng xám ngắt, những túi nước treo lơ lửng nặng trĩu. Thi thoảng, từng vệt chớp xanh lẹt loằng ngoằng vẽ ngang vẽ dọc, kèm sau đấy là tiếng sấm sét ùng oàng giận dữ. Nước sũng sượi từ chiếc mũ tang chảy xuống ròng ròng. Em cởi khăn quàng cổ lau mặt cho tôi. Có em dường như tôi thấy bớt lạnh, những bước đi giật lùi nhẹ nhàng hơn. Tôi không nhớ em dìu tôi đi như thế bao lâu mới ra tới huyệt mộ? Chỉ biết hôm ấy, hai đứa như hòa làm một, không khoảng cách, không e dè. Có lẽ bởi em và tôi có cùng một nỗi niềm chăng?
Tôi bàng hoàng khi sợi dây thừng của người phu huyệt thả chiếc quan tài xuống sâu ba thước đất. Tiễn mẹ đi là tiếng vọng não nùng của kèn nhà đám. Đất chưa lấp mà tiếng khóc đã tràn đầy ứ huyệt; dưới đáy huyệt, thần chết nở nụ cười mãn nguyện! Đám cưới của vương quốc Âm phần Địa phủ bắt đầu; những mảnh đất đen lăn bồm bộp, nghe khô khốc, lạnh lùng đưa mẹ vào hố sâu ngăn cách giữa thế giới vô hình và hiện hữu.
Thằng “tên” cùng tôi như không biết gì nữa, lả ngất trước sự cười cợt của gã Thần Chết - Ma Vương của địa phủ. Tiếng cười của gã không thanh âm mà sao rùng rợn; vô cảm, lạnh lùng, tàn nhẫn.
Tôi thấy mẹ từ trong mộ bước ra, ngước mắt trăng trối lưu luyến nhìn những người thân đưa tiễn. Trước giã từ, mẹ hoàn nguyên như thuở thời con gái, nơi thôn trang yêu dấu. Cô thiếu nữ có khuôn mặt bầu bĩnh non tơ duyên dáng, rực rỡ như nụ tầm xuân, dịu dàng óng ả, cổ kiêu ba ngấn, yếm trắng trễ, hé mở vầng ngực thanh xuân trắng nõn trắng nà, eo lưng thắt đáy. Xênh xang trong chiếc váy nhuộm bùn và tấm áo cánh mầu huyết dụ, chiếc khăn nhiễu như kén chín ươm vàng rập rờn trước gió. Tiếng hát của cô nhuộm sắc hoa gọi tiết xuân về. Biết bao trai làng thầm mơ trộm nhớ, muốn tắm mình trong lời ru nựng, trong nhịp điệu dân ca mượt mà, muốn cùng cô thả lời nguyền xe tơ kết tóc. Nhưng không hiểu vì sao trái tim của cô chỉ rung động một lần trong ngày hội làng, khi tình cờ chàng trai vùng Kinh Bắc làm nghề bắt rắn, vào lễ hội du xuân, buông lời đối đáp, mà lời ca như tỏ tình, như khêu gợi...
Và chỉ một lần rung động cũng đủ cho cô tin tưởng tựa vào vai người đàn ông thật thà chất phác, mạnh mẽ, nhưng gặp cảnh trớ trêu: Vợ chết để lại một đứa trẻ con ẵm ngửa. Cô thiếu nữ chấp nhận làm mẹ trước khi làm vợ. Tình yêu chắp cánh, người thiếu nữ nơi thôn trang theo chồng về xứ lạ.
Trong gió mưa não nùng, mẹ nhìn lại gia đình của mình lần cuối. Lần cuối cùng làm người để rồi thoát trần về với âm phần địa phủ. Con mắt mẹ mới buồn khổ làm sao. Để lại đằng sau những dở dang khắc khoải, để lại cho người chồng những đứa con thơ dại trước những biến cố lớn của cuộc đời. Những người thân của ta ơi! Đó là số phận! Đó là định mệnh! Ai rồi cũng sẽ bước tới phần huyệt của đời mình. Không mấy ai được mãn nguyện trọn vẹn khi nhắm mắt xuôi tay. Mọi sự không rạch ròi như biến thiên của tạo hóa. Chỉ có nỗi lòng không bao giờ bị chôn vùi! Vẫn ở bên tất cả mọi người. Dù mẹ có đi xa, các con vẫn là con của mẹ, của tình yêu mẫu tử nồng nàn sâu đậm. Kiếp sống là hữu hạn, còn tình đời là vô hạn.
Lãng đãng nhạt nhòa, đối diện linh hồn, những giọt máu chắt chiu từ lòng mẹ gào kêu, muốn níu lại. Sự giằng xé giữa con người và ma quỉ, giữa buộc trói của số mệnh và lòng khát khao đấu tranh với sự còn mất của linh hồn. Đành là thế, nhưng mẹ là tất cả sự luyến tiếc trong con. Từ núm nhau đến lời ru à ơi là những gì con thèm muốn. Con không muốn mất mẹ, dẫu biết rằng đó là số mệnh mà thiên cơ đã định, nhưng làm sao ngăn được tình con với mẹ? Nếu có thể được thay, chúng con xin được là vật cống nạp cho tử thần ngày hôm nay.
Tôi lịm đi không biết gì nữa.
Lúc tỉnh đã thấy mình ở nhà, nằm trên giường, em ngồi cạnh, mùi dầu gió bay thơm lạnh, bàn tay em ấm nồng nhẹ nhàng mơn trớn thái dương tôi. Thấy tôi tỉnh, em nói:
- Anh làm em sợ hết cả hồn.
- Mẹ đâu em?
- Thôi anh! Đám ma xong rồi mà anh! Đừng làm em sợ nữa.
Tiếng nói nài nỉ làm lòng tôi mềm lại. Trong mất mát, lẻ loi, sự bù đắp của em như khoảng trống được vun đầy. Mất mẹ, nhưng bây giờ tôi đã có em. Tôi hỏi:
- Mọi người đâu rồi hả em?
- Đang làm cơm cúng ba ngày.
Đã ba ngày rồi sao! Mẹ ơi! Nước mắt tôi lại ứa ra. Thấy vậy, em nói:
- Đấy, bêu chưa? Ứ chơi với đồ khóc nhè.
Giọng dỗ dành hờn mát như liều thuốc xoa dịu nỗi buồn đau. Tôi nhìn đôi con ngươi màu huyền ngọc lung linh, hàng mi cong vút chớp chớp, rung động; mặt em sát mặt tôi lắm! Nghe rõ cả hơi thở và nồng nồng mùi da thịt. Tự nhiên, cảm giác lạ trong cơ thể xuất hiện, lang mang, lâng lâng không rõ rệt. Tự thấy như hiệp khách đang lúc nguy khốn được kẻ trượng nghĩa ra tay cứu giúp. Nhưng kẻ cứu giúp không phải là nam nhi mà chính là hiệp nữ. Tôi tưởng đang đọc truyện “Bồng lai hiệp khách” đoạn: Hiệp khách Vũ Trấn Phương được Nữ hiệp Kim Hồ Điệp giả trai đến cứu.
- Anh mơ mộng gì đấy?
Tôi giật mình:
- Không, có gì đâu!
- Đọc kiếm hiệp vừa vừa thôi “ông tướng” ạ!
- Những lúc buồn chẳng làm gì thì đọc chơi vậy thôi.
- Sao anh không đọc truyện khác? - Em hỏi.
- Truyện gì?
- Những truyện xuất bản sau hòa bình ấy! Thư viện thị xã khối! Đọc mãi trinh thám kiếm hiệp anh không chán à? Mà loại truyện ấy Nhà nước ta đang cấm đấy!
Tôi co chân nhổm người dậy:
- Anh làm sao mà mượn được?
Em lấy mền chăn kê sau lưng cho tôi tựa vào tường:
- Được rồi, anh hứa với em không được đọc lung tung nữa, em khắc mượn truyện cho. Đồng ý không?
Lần đầu tiên trong đời tôi ngoéo tay với một người con gái, dẫu lúc đó em và tôi còn thơ dại, và cũng chưa hiểu thế nào là tình trai gái. Nhưng rồi những ngày sau đó, nếu không gặp nhau, nói với nhau được một lời, thấy trống vắng, thiêu thiếu hoặc giả như còn một việc gì quên chưa làm thì phải.
Tôi và em cùng nhau đi qua thời niên thiếu bằng sự cảm thông, bằng hoàn cảnh tự tại. Để cho cái ngoéo tay và lời hứa kia trở thành lời thề thiêng liêng giữa hai đứa, tôi đọc nghiến ngấu những quyển sách em đưa. Quả thực, nếu không vì em, tôi sẽ không biết trên đời này còn có những câu chuyện được viết ra hay như vậy. Tôi đắm mình vào mối tình của chàng Paven và cô thiếu nữ quý tộc Tônhia. Tôi đam mê sắc thái huyền diệu của những cánh rừng Taiga tuyết trắng phủ đầy và bước chân những chiến sĩ đi diệt trừ cái ác. Tôi lâng lâng thương tiếc lãnh tụ Ruồi Trâu hy sinh vì sự nghiệp, để lại cho đời một mối tình cao thượng...
Đêm đêm, tôi ghép em và tôi hóa thân thành nhân vật của bao mối tình đẹp đẽ nhường kia, để mà mơ mà mộng, để mà nhung nhớ... Căn nhà đơn sơ vắng bóng mẹ, nay có em, sự bù trừ mới thánh thiện làm sao. Em vào đời tôi hay tôi vào đời em không biết nữa? Và, cứ thế, theo năm tháng dần trôi, cơ thể tôi lớn lên cùng với tình yêu em ngày thêm đầy đặn.  
7. Trong chiếc hộp khi mở ra có một bức thư và một tấm bản đồ đánh dấu nơi chôn cất bà.
Thư kể:
Sau khi xử bắn, bọn Pháp đóng cọc phơi xác bà để làm gương cho những người theo Việt Minh. Lý trưởng dán yết thị khắp thị xã Phúc An. Một tốp lính được lệnh thay lân nhau canh giữ.
Cả thị xã Phúc An chìm trong không khí nặng nề tang tóc. Bầu trời ảm đạm, âm u, lạnh lẽo, từng hàng cây khép tán rủ lá đứng mặc niệm. Buổi xử tử đè lên trái tim từng người dân. Hành động dũng cảm kiên cường đối mặt với kẻ xâm lược và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của người chiến sĩ Cộng sản cho họ nhớ về người nữ cán bộ với khuôn mặt rạng ngời và nụ cười đôn hậu trên kỳ đài giữa thị xã Phúc An ngày đầu tiên tuyên bố thành lập chính quyền khởi nghĩa, chấm dứt chế độ phong kiến và sự đô hộ của thực dân Pháp hiện ra. Bầu không khí độc lập tự do và khí thế ào ào của phong trào cách mạng trở về trong tâm trí mọi người. Họ đau đớn nhìn những viên đạn của kẻ thù găm vào người bà, cảm nhận như chính người yêu thương của mình ngã xuống. Tất cả những người dân sống trong thị xã, không ai bảo ai, nhà nhà nghi ngút khói hương, màn khói bay, kết vào nhau từng vầng bay quanh các phố, là là quấn quít trên từng nóc nhà. Mọi người bảo nhau. Kẻ thù phơi bà bao ngày, hương tưởng niệm sẽ cháy ngần ấy thời gian.
Cũng đêm ấy, một người đàn ông cố nuốt đau thương, cởi áo nhà chùa, trát bùn lên người, hóa thân thành đêm tối, nhanh nhẹn như con báo, dũng mãnh như loài hổ, mạnh mẽ như con gấu của núi rừng Tam Đảo. Ông leo lên đồi thông, vào chùa thắp hương lễ phật. Rồi buộc dây vào gốc cây đa, tụt xuống men sườn đồi, trằn mình lẹ làng băng qua lưới thép gai, bò gần vào nơi bọn giặc canh giữ. Nỗi căm hờn giặc Pháp và tình yêu thương đồng loại tiếp cho ông nguồn sức mạnh, cho ông sự khôn khéo. Lừa lúc bọn lính canh không để ý, ông cởi dây trói, buộc xác bà vào người, đu dây trèo lên đồi. Khi bọn lính phát hiện ra thì ông đã đi xa.
Sáng hôm sau, tin đồn xác người nữ Cộng sản mất tích lan khắp tỉnh. Bọn Pháp cho quân lính khám xét các nơi. Có người quả quyết rằng bà bị xử tử nhưng không chết, nửa đêm bà tỉnh dậy trốn thoát. Có người còn khăng khăng đã gặp bà ở vùng tự do. Không biết tin đồn có thật không, nhưng ai cũng mong và tin những người như bà không bao giờ chết được!
Chuyện của bà là bức màn bí mật được giấu kín trong suốt mấy chục năm qua. Và bây giờ bức màn ấy được vén lên. Cuối thư còn dặn:
- Trong mộ chôn theo bà có một cái triện đồng của Lý trưởng Thái Bình bị chết đói do mấy cháu bé ở Phúc An nhặt được đưa cho bà hồi năm Ất Dậu.
Trong tấm bản đồ vẽ nguệch ngoạc bằng muội đèn, đánh dấu:
Nơi chôn thi thể bà ở đằng sau chùa Thập Phương, cạnh gốc ổi đào.
Trái với dự đoán của mọi người, nghe xong, mẹ bình tĩnh lạ lùng, trân trọng đặt bức thư và tấm bản đồ lên bàn thờ, lặng lẽ châm nhang, chắp tay trước ngực, đăm đăm nhìn bức truyền thần của bà. Ngoài sân, bà con hai làng kéo tới rất đông. Cái tin tìm thấy di vật về bà để lại được truyền khắp. Mẹ nói với vị Việt kiều:
- Đã bao năm tôi chỉ sống trong mơ, luôn ao ước được tìm thấy mẹ. Và hôm nay, ông là ân nhân của gia đình tôi. Xin cho tôi được thay mặt gia đình lễ ông một lạy. - Nói xong mẹ sụp xuống.
Vị Việt kiều vội vàng chạy lại đỡ mẹ.
- Xin bác đừng làm vậy. Tìm được mộ, nỗi oan khuất của bà bao năm nay được sáng tỏ. Đâu chỉ là ước nguyện của riêng gia đình ta? Mà còn là phúc ấm của cả gia đình tôi nữa. Nếu không, có chết tôi cũng chẳng dám gặp lại người cha đáng kính của tôi dưới suối vàng.
Hai người ôm nhau khóc. Nỗi đau nén chịu và sự chờ mong từ lâu vỡ òa. Khói hương nghi ngút, mùi trầm thơm man mác, tất cả mọi người có mặt ngùi ngùi, đưa tay lên chấm mắt. Ai cũng mừng cho cuộc gặp mặt của người đang sống, sự trở về của những linh hồn.
Em bế đứa con gái nhỏ đứng cạnh bà Phó Chủ tịch xã, nước mắt nhạt nhòa. Chủ tịch xã đến bên thằng bé lớn, nó đã cao ngang ngực bố. Bàn tay non nớt của nó tin tưởng xiết chặt bàn tay to lớn vững chãi của Chủ tịch xã. Hình như có ai nói nó cho biết Chủ tịch xã chính là bố đẻ, nên nó quấn quít ra chiều thân thiết lắm! Cuộc đoàn viên hôm nay cho những tâm hồn đang sống xích lại gần, còn cho những nỗi đau vì giận hờn vợi bớt. Em biết trong niềm vui gặp mặt nay có công rất lớn của Chủ tịch xã. Em nhìn hai cha con đứng cạnh nhau, bất giác thấy tim mình nhói đau.
Trên ban thờ, bức truyền thần huyền ảo lung linh, bà nhìn em âu yếm. Không biết khi người ta chết linh hồn còn tồn tại không? Điều đó chưa ai dám khẳng định. Nhưng với em, bà thật linh thiêng! 
8. Tôi bụm tay lên miệng gọi:
- Dì ơi dì!
Không thấy tiếng thưa. Tôi đẩy cửa vào nhà, ánh sáng từ chiếc đèn chai treo trên xà nhã hắt thành quầng, mọi thứ trong nhà trở nên mờ ảo. Mùi trầm thơm ngát, nén hương mới cháy được một nửa. “Chắc dì chạy sang nhà hàng xóm?” Nghĩ vậy, tôi ngồi xuống phản, tiện tay nhấc ấm tích lên tu một hơi. Mùi nồng nồng và vị đắng dịu của lá vối thấm vào lưỡi mát lịm. Khoan khoái, tôi ngả người nằm, vắt tay lên trán, cơn buồn ngủ thiu thiu ập tới kéo mắt tôi ríu lại.
Tôi bỗng bừng tỉnh, ngồi bật dậy. Không nằm được!
Còn bao nhiêu công việc phải làm. Tôi lấy đèn pin ra sau vườn kiểm tra lại căn hầm chữ A. Từ ngày giặc Mỹ leo thang ra bắn phá miền Bắc, những lúc vắng nhà, điều tôi lo lắng nhất là dì. Ở nơi cơ quan sơ tán, mỗi lần có báo động, tôi lại ngóng về phía thị xã. Tôi sợ thị xã bị oanh tạc, nhà còn có hai dì cháu, dì có làm sao thì tôi ân hận suốt đời. Tính dì gan lì, nhiều lần tôi nhờ chính quyền sang vận động dì đi sơ tán, nhưng dì một mực kiên quyết không đi.
Tôi chui qua khuôn cửa hẹp vào hầm, ánh sáng đèn bừng lên. Trên bờ tường, mấy bó cây ngải cứu phơi khô nằm chồng lên nhau, mùi thơm sực lên mũi. Tôi không ưa mùi ngải cứu lắm, nhưng dì lại như bị cái mùi hăng hắc ấy mê hoặc. Chả thế đất trong vườn chỗ nào trống là dì trồng. Những lúc rỗi rãi, có hai dì cháu dì nhắc lại:
- Không có cây ngải cứu làm thuốc, anh Thừa ra ma từ lâu rồi! - Và rồi như người mộng du, dì kể chuyện ngày xưa chạy Tây như kể chuyện cổ tích.
Những lúc ấy, tôi nằm gối đầu lên dùi dì nghe. Mùi nâu nhuộm bùn từ vạt váy dì mặc tỏa ra nồng nồng, ngai ngái. Tôi như kẻ mắc nghiện mùi bùn nâu mộc mạc. Vào những đêm xa nhà, tôi nhớ dì da diết, thèm được dì vuốt vuốt mái tóc cứng quèo khô ráp, còn mũi tôi tha hồ hà hít cái mùi quen thuộc ấy. Tôi biết, bây giờ không ai còn mặc loại vải ấy nữa, nhưng dì không bỏ. Dì mua vải trắng và củ nâu về nhuộm lấy. Những lúc ấy dì lại lẩm nhẩm đọc thơ.
Tôi soi đèn, lật chiếc bao cói trải thay chiếu và chiếc gối bông không vỏ xem có rắn rết gì không. Cạnh đấy là mấy chai nước mưa vừa làm nước uống vừa để chống khói bom. Mỗi lần về tôi lại nhắc:
- Trường hợp chúng thả bom khói, dì nhớ đổ nước vào gối rồi úp mặt vào tránh chết sặc.
Dì cười:
- Con dặn thì dì nhớ! Nhưng rồi con xem: Đất Phúc An chẳng hòn tên mũi đạn nào động đến được đâu!
- Thế sao dì kể hồi khởi nghĩa cướp Chính quyền đánh nhau dữ lắm?
- Ối dào, bọn Bảo chính đoàn vừa nho nhoe bắn mấy viên đạn đã phải đầu hàng rồi còn đâu!
- Nhưng bây giờ bom đạn của tụi Mỹ không có mắt đâu dì ạ!
Nghe tôi nói dì cười:
- Anh lại dọa dì phải không? Thôi được, có mắt hay không có mắt cứ báo động là dì sẽ xuống hầm để anh yên tâm công tác, được chưa?
Tôi biết dì nói thế để động viên tôi, chứ chỉ khi nào máy bay bay rát hoặc bom nổ gần thị xã lắm dì mới chịu xuống hầm trú ẩn. Tôi nhặt mấy hòn đất lăn lóc trên chiếu quẳng lên miệng hầm rồi ngồi xuống. Dì ơi, dì có làm sao con biết nói với các chị và anh con thế nào? Cả một đời dì vất vả. Hạnh phúc của mọi người thì thừa mứa chứa chan, còn niềm vui cuộc sống dành cho dì thì nhỏ nhoi dè dặt. Những thứ dì được nhận, có khác chi kẻ thèm muốn phải len lén vụng trộm, luôn luôn lo sợ bị bắt quả tang.
Bất giác tôi thở dài, tắt đèn pin, tựa vào vách hầm, đầu óc lan man với những ký ức xa xưa:
Cũng may, các loài động vật bị coi là tài sản không được trông nom nuôi nấng nên chết dần chết mòn cả. Đến khi cán bộ tỉnh về thì không còn con vật nào con sống để định tài sản. Còn số xe kéo tay mối mọt đến đục khoét ruỗng mục. Không đủ tư liệu kết luận. Ban cải tạo công thương nghiệp quy gia đình tôi thuộc thành phần tiểu thương.
Nhưng nặng nhất vẫn là bức ảnh người Tây tặng. Bố như kẻ chờ án. Ra khỏi thị xã phải trình báo. Nỗi oan khuất của bố chẳng biết đến bao giờ mới được thanh minh. Dì thương bố, lẩm bẩm:
- Làm ơn nên oán, cứu người hóa phải tội! Cha bố đứa mắt mù vu oan giá họa!
Và, sự hẫng hụt góa bụa của bố cùng sự ra đi của mẹ cho dì có điều kiện gần gũi bố hơn. Trong gia đình, một lúc dì phải đóng nhiều vai. Mặc người đời nhìn bằng con mắt ghẻ lạnh, đố kỵ, ngày qua ngày dì sống và làm công việc của người chết để lại. Mọi sự lo toan trong nhà dồn lên đôi vai nhỏ nhắn và bước chân cà nhắc của dì.
Bố mắc bệnh đau dạ dày kinh niên, không có tiền mua thuốc. Nghe người ta mách, dì nhặt vỏ trai, vỏ hến về đốt, tán nhỏ cho bố uống. Đêm đêm bất cứ thức dậy lúc nào, tôi lại nghe tiếng dì dỗ dành bố. Gian buồng nghèo nàn, đất bùn trát mộc mạc, trơ những thân cây sậy đã chứng kiến những năm tháng bố sống với tình yêu thương vô bờ bến của dì.
Vài năm sau, nhờ người mai mối, chị hai lấy chồng mạn Lào Cai; chị ba theo một người quê mãi Nam Định. Anh trai đang học dở cấp ba thì bỏ đi làm thợ phu hồ. Tôi cũng có ý định bỏ học nhưng bố bảo:
- Cả nhà còn có mình con, nếu con bỏ chẳng hóa nhà mình mất gốc ư?
Anh trai khuyên:
- Em cố học để khỏi phụ công bố. Còn anh, trước sau sẽ đi bộ đội.
- Lý lịch nhà mình thế họ có tuyển không? - Tôi hỏi.
- Anh đã có cách.
Một hôm anh trai rủ tôi lên đồi thông chơi, anh chỉ xuống bãi đất trống dưới chân đồi:
- Thừa còn nhớ chỗ này không?
Sao tôi không nhớ! Đây là nơi gây ấn tượng nhất của đời tôi. Hai anh em ngồi xuống cùng nhau ôn lại chuyện đã qua, nhưng xoay quanh lâu nhất vẫn là chuyện “Bà mặt đẹp” bị Tây xử bắn và ngay sáng hôm sau thì mất tích. Bọn Tây tuyên bố thị xã bị giới nghiêm, huy động quân lùng sục hàng tháng trời. Lý trưởng dắt chó đánh hơi, dẫn lính tưởng như đào hết đất Phúc An lên tìm mà không thấy. Cho tới giờ cũng chưa ai rõ việc “Bà mặt đẹp” bị mất tích ra sao. Câu chuyện về bà được đồn đại như một huyền thoại. Cái óc luôn được nhồi những mớ sách li kỳ phiêu lưu mạo hiểm của tôi được thể tưởng tượng ra.
Anh trai khoác tay lên vai tôi:
- Có chuyện này anh nói nhưng Thừa phải giữ kín, không cho bố và dì biết - Nói rồi anh bắt tôi ngoéo tay thề.
Anh rút từ ngực ra tờ giấy gấp tư đưa cho tôi xem. Nắng cuối chiều hắt ngược vào những dòng chữ màu đỏ sẫm làm tôi thấy ớn lạnh, phía lưng gai ốc nổi rần rần. Tôi lặng người chăm chăm nhìn tờ đơn:
- Anh viết bao giờ?
Hôm qua, sau khi dự mít tinh phản đối bọn Mỹ cho máy bay bắn vào một trường học làm chết hàng trăm em học sinh ở Vĩnh Linh - Anh trai chìa đốt tay bị băng ra cho tôi xem - Đơn thường người ta không nhận. Phải viết bằng máu mới có giá trị. Anh phải đi em ạ! Cuộc chiến này còn kéo dài và sẽ rất ác liệt! Anh đi “Một xanh cỏ, hai đỏ ngực” - Giọng anh đang sôi nổi chợt hạ xuống - Anh chỉ lo cho bố thôi, dì nói dạo này bố yếu lắm.
Tôi đăm đăm nhìn anh, chợt thấy mình bé nhỏ lạ thường. Khuôn mặt có nước da ngăm ngăm của anh trở nên rắn rỏi, đanh cứng; mái tóc xoăn xanh mướt, mượt mà lượn làn rủ xuống trán, đôi mắt mơ màng nhìn mãi về phía cuối trời như một thi sĩ tìm ý làm thơ chứ đâu phải người chiến sĩ vừa dùng máu mình viết đơn. Tôi ve vuốt những con chữ trên trang giấy, những vết máu khô, nham nháp. Tôi không muốn xa anh, nhưng chẳng dám nói gì. Anh trai vốn ít nói, nhưng đã nói là chắc như đinh đóng cột! Đã quyết việc gì cấm ai gàn được! Tuy vậy, nhưng chưa bao giờ anh ỷ lớn bắt nạt tôi. Có cái bánh cũng phần cho em. Tôi gây lỗi, anh giấu bố không mách. Tôi hỏi:
- Thế bao giờ anh đi?
- Sáng mai anh nộp đơn. Nếu không có gì thay đổi chắc chỉ tháng sau là lên đường.
Cho tới trước ngày lên đường, anh trai mới thưa chuyện với bố. Nghe xong bố nói:
- Trai thời loạn... cái gan, cái chí của con người ta phải được thử thách trên sa trường mới biết được kẻ nào có lòng trung quân ái quốc. Con cứ an tâm lên đường, nhà đã có dì và em Thừa.
Dì lấy đồng chinh trên bàn thờ khâu thành chiếc bùa đeo vào cổ anh:
- Con đeo cái này vào là tránh được hòn tên mũi đạn. Nhớ viết thư về cho bố mừng nghe con! - Giọng dì nghẹn nấc.
Anh ôm lấy dì, miệng méo xệch:
- Trăm sự con cậy nhờ dì. Chiến thắng con trở về sẽ lấy vợ đẻ nhiều cháu cho bà bế.
Chị nhớn mang gạo nếp vào nấu xôi cho em trai ăn trước khi lên đường. Chị nói như tiếc nuối:
- Giá trước khi đi em lấy vợ có một đứa cháu nội cho nhà đỡ quạnh thì tốt biết bao nhiêu.
Anh trai bế đứa con nhỏ của chị lên quá đầu nựng:
- Cậu đi bao giờ chiến thắng cậu về lấy vợ cũng chưa muộn cháu nhỉ.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...