Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 1a

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 1a

LỜI ĐẦU SÁCH
20 năm qua, kể từ sau tái lập tỉnh (1997) đến nay, đồng hành cùng với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Văn học Nghệ thuật (VHNT) Vĩnh Phúc đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Những sáng tạo của văn nghệ sĩ Vĩnh Phúc hướng con người tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Khẳng định và ghi nhận bước phát triển mới của VHNT Vĩnh Phúc, nhân kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Hội VHNT Vĩnh Phúc xuất bản bộ Tuyển tập tác phẩm đoạt Giải thưởng VHNT giai đoạn 1997 - 2016 và một số cuộc thi khác, bao gồm các thể loại: Tiểu thuyết, Truyện ngắn - Ký, Thơ - Trường ca, Âm nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Văn nghệ dân gian... Đây có thể coi là hệ thống tư liệu về tác giả, tác phẩm của một chặng đường VHNT, tiếp thêm hành trang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã xác định: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh túy của văn hóa; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam” (Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị). Đây chính là động lực, là cơ hội tốt để văn nghệ sĩ Vĩnh Phúc tiếp nhận nguồn sinh khí mới, tiếp tục phát huy tính tích cực và trách nhiệm xã hội, nỗ lực sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị mang đậm dấu ấn Vĩnh Phúc, cho hôm nay và mai sau...
Ra mắt trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh (1/1/1997 - 1/1/2017), bộ sách là món quà tinh thần của VHNT Vĩnh Phúc dâng tặng bạn đọc với tất cả sự trân trọng.
Vượt qua những khó khăn về nguồn tư liệu, các thành viên trong ban tuyển chọn đã có nhiều cố gắng biên soạn, sắp xếp, diễn đạt, để tuyển tập đạt được mục tiêu cao nhất, song chắc chắn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được sự chia sẻ, góp ý, bổ sung của bạn đọc để kỳ vọng một sự hoàn chỉnh hơn trong những lần tái bản bộ sách sau này.   
HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VĨNH PHÚC
NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG
Đồng vọng ngược chiều 
Tiểu thuyết đoạt Giải B,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ II (2000 - 2005)
Tất cả sẽ trôi đi, còn dòng sông ở lại
Tác giả
CHƯƠNG I
1. Cứ mỗi lần tắm cho tôi xong, dì lại lấy ngón tay búng nhẹ vào đôi má phính sữa:
- Trông cái mặt thế mà gan lì tướng quân.
Rồi dì áp đôi môi hồng như cánh sen thơm lên chỗ vừa búng hà hít làm tôi cười khanh khách. Trong mấy chị em, tôi là người được dì thương nhất, chắc bởi lúc mẹ đẻ tôi ra vất vả, hoặc có lẽ như bố nói:
- Thằng bé này hợp với tuổi dì.
Chuyện mẹ đẻ tôi ra khó khăn, vận hạn thế nào dì nhớ vanh vách, kể nhiều đến nỗi tôi nghe và thuộc lòng từ lúc nào không biết:
“Lúc ra đời mi ngược ngạo nanh nọc lắm! - Bao giờ kể chuyện dì cũng bắt đầu như vậy - Không biết xoay xở thế nào mà khi chui ra khỏi bụng mẹ, mi lại thò tay ra trước, làm bố và mọi người cuống quít sợ hãi. Còn mi cứ tỉnh bơ, lấy bàn tay tí xíu ngọ ngoạy vẫy vẫy như trêu ngươi. Nhìn mọi người lo lắng mụ đỡ bảo bố:
- Anh chạy chín vòng xung quanh nhà cho chị ấy lấy sức rặn...
Bố hỏi: - Con gái hả bà?
Mụ đỡ gắt: - Đã sờ thấy gì mà gái hay trai? Bảo chạy cứ chạy!
Bố vặn lại mụ đỡ:
- Thế sao bà bảo chạy chín vòng?
- À... ừ... - Mụ đỡ lấy tay móc móc vào cửa mình mẹ, thọc sâu ngón giữa thăm dò, miệng quát: - Con trai bảy vòng! Con gái chín vòng. Chưa biết con nào, chạy càng nhiều càng tốt! Trèo qua nóc nhà, lội qua ao, vượt qua chuôm...
Tiếng bố thở phì phà phì phò mỗi lần chạy qua cửa. Còn mẹ nhăn nhó ôm bụng. Mẹ thấy trong người khó ở từ chiều. Nhưng vốn là người ham công tiếc việc, trong khi chờ dì đi gọi mụ đỡ, mẹ tranh thủ giúp bố bắt mấy con rắn trong chuồng cho vào túi để sáng sớm mai kịp xuôi xe lửa Hải Phòng. Mẹ nói:
- Chẳng biết lần này thế nào? Chứ mấy đứa trước, tôi rặn ào cái xong.
Đang khi, bỗng mẹ hét to:
- Ối giời ơi là giời...
Sau tiếng kêu, mẹ buông đuôi con rắn, đưa vội tay ôm bụng dưới. Nhanh như chớp, con rắn ngoằn ba ngoằn trên không rồi rơi xuống nền biến mất tăm, mất dạng sau cánh cửa ra vào. Hai tay bố đang cầm túi, chỉ kịp xoắn vòng dây thắt miệng túi lại để cho những con khác khỏi xổng ra, quăng vội túi xuống đất, giơ tay đỡ mẹ dìu lên giường.
Chưa kịp lên được giường, nước từ trong người mẹ chảy ra xối xả. Bố vần vã, loay hoay, xoay xỏa với cái bụng to kềnh của mẹ như người đánh vật. Bỗng có tiếng nói rõ to:
- Vỡ ối rồi... sắp ra rồi... Chuẩn bị cho tôi chậu nước.
Đó là tiếng của bà lang vườn kiêm đỡ đẻ ở chùa làng Nhuế. May mắn sao, dì mời bà vừa về kịp.
Bà không có tên. Hoặc giả có tên người ta cũng không gọi. Đến khám bệnh, xin thuốc, người ta gọi bà Lang. Mời đi thăm thai, đỡ đẻ người ta gọi mụ đỡ. - Bà Lang kiêm mụ đỡ nguyên là lang vườn, chuyên chữa bệnh bằng các loại lá, chủ yếu bằng lá ngải cứu. Đỡ đẻ dùng tay trần, cắt rốn bằng một mẩu liềm gãy, mài sắc lẹm. Thế mà cả tỉnh Phúc An này, bao nhiêu trẻ con nhà nghèo đều được mụ đỡ ra.
Cách đây ít ngày, khi thấy hiện tượng chuyển dạ, mẹ khệ nệ vác bụng đến nhà bà Lang. Bà Lang vén áo sờ sờ, nắn nắn, ấn đúng vào cái đầu của mi đang xoay: - Thai thuận! Dì mang nắm lá ngải cứu về, cho vào ấm đất mà đun, cho chị ấy uống đến nhạt thì thôi! Con dạ, dễ đẻ, không lo lắm! Khi nào đau dồn đau dập hãy gọi tôi! - Dặn dò xong, bà Lang nhìn mẹ chép miệng: - Chửa đẻ giữa lúc thời loạn, giặc giã thì vất đới.
Lúc ấy dì vừa dưới quê lên, mới gặp mụ đỡ đôi lần, cứ nghe mụ đỡ nói thì việc mi ra đời là dễ như bỡn. Nhưng cứ ngẫm chuyện ngày trước bà ngoại đẻ dì ra dì biết. Mụ đỡ làng Chi Đông cũng chẳng nói vậy sao? Nên khi nghe mụ đỡ nói thao thao dì vẫn nghi nghi hoặc hoặc. Chuyện giặc giã, loạn lạc thế nào không cần biết! Nhưng việc đẻ dễ hay khó thì phải xem đã! Được, để khi đẻ xem có dễ như nói không? Cái thứ cây ngải cứu dễ mọc như cỏ đồng không biết tốt đến thế nào mà bà lang vườn tuyên truyền không biết mệt, làm như cây ngải cứu là thứ dược liệu thần tiên chữa được bách bệnh không bằng! Có lần dì nếm thử, đắng ơi là đắng! Hắc xì hắc xịt! Lưỡi cứng ngắc, khó nuốt ơi là khó nuốt!
Mẹ mi nằm bụng phưỡn to như cái trống làng. Mạch máu, gân cốt nổi từng đụn từng đụn. Mụ đỡ bảo bố ra ngoài. Rồi cởi quần, sửa lại tư thế nằm cho mẹ, lấy bao vải chuyên đựng rắn lót thêm dưới mông mẹ cho êm rồi nói:
- Đứa bé này nếu sinh ra được trót lọt mà là con gái ắt ngày sau sẽ được vào làm dâu nhà quyền quí. Còn như con trai... Mụ đỡ không nói hết câu.
Dì chúa ghét nhũng kẻ ăn nói lấp lửng, nhưng bởi lúc bấy giờ mi sống chết trong tay người ta nên dì mặc kệ. Mà hình như lúc ấy mi còn chưa muốn ra? Cái chân mi đạp làm bụng mẹ nổi cộn từng vòng từng vòng, gân cốt xanh lét lằn ngang lằn dọc. Ai đời, đứa trẻ khi lọt lòng thường chui đầu ra trước. Đằng này mi thật oái oăm, xoay ngang, lật chéo, y hệt ngày xưa bà ngoại đẻ dì. Quả thực lúc ấy dì nhìn mi lo lắm, nhỡ khi đẻ ra mi không bị chết nhưng lại giống ta thì cơ cực.
Vậy mà mi còn không biết sợ. Năm ngón tay xòe ra ngọ nguậy như năm cánh hoa mới nở bay bay vẫy gió đùa cợt. Mụ đỡ mặt tỉnh bơ, lấy tay kia vạch cửa mình mẹ cho thêm rộng, còn ngón tay bên này cong lại như cái móc của những người thợ bắt rắn làng Lệ Mật lựa, nhích dần lên phía trên đầu mi. Loay hoay một lát bỗng mụ reo to:
- Cha đẻ mày! Bà tóm được mày rồi! - Mụ đỡ reo lên mừng rỡ. 
2. Nguyễn Thừa quen Hải Linh trong trường hợp khá thú vị. Cách đây một năm, anh nhận viết bài cho một doanh nghiệp. Thấy cần có ảnh đăng kèm để bài viết có sức thuyết phục hơn, anh phàn nàn với đồng nghiệp: - Ở cái thị trấn “cà là tèng” này chẳng có một tên săn ảnh nào để nhờ.
Anh bạn đồng nghiệp bảo: - Ông hơi nhầm đấy!
Nguyễn Thừa hỏi: - Ở đâu?
Người bạn: - Tôi sẽ hoa tiêu cho ông một thợ săn ảnh nghiệp dư. Nhưng với một yêu cầu!
Nguyễn Thừa cao giọng: - Xong! Kể cả hai!
Người bạn: - Không được “chết!”
Nguyễn Thừa chột dạ: - Đàn bà à?
Người bạn đáp: - Nửa đàn bà, nửa con gái! Sao? Sợ hả?
Nguyễn Thừa ngập ngừng: - Không sợ, nhưng dính vào mệt lắm!
- Chưa chi ông đã vơ vào - Người bạn đồng nghiệp cười - Già như cái chổi sể cùn còn ra dáng. Thôi, thế này: Trước hết, do nhu cầu công việc ta yêu cầu bạn giúp. Sau đấy… tùy.
Nguyễn Thừa gật đầu: - Đồng ý!
Hải Linh đang ngồi, cô nghe ngoài cửa có tiếng đàn ông hỏi thăm nhà mình. “Ai nhỉ?” Đứng dậy, cô đẩy cánh cửa sắt hé ra... Anh bạn đồng nghiệp reo:
- Đây rồi! Thế này mà không hỏi thăm thì chịu! Gớm! Nhà nào cũng giống nhà nào. Có việc cho em đây.
Hải Linh mở rộng cửa, mời: - Anh vào nhà… - Cô ngập ngừng, vì chưa biết nên xưng hô với Nguyễn Thừa thế nào thì người bạn đồng nghiệp đã liến láu:
- Định gọi bằng bác, chú, hay bố hả? Này, không có đoán ấy đâu nhé! Thi sĩ “xịn” - môn đệ chính cống của cụ Xuân Diệu đấy! Ăn nói cẩn trọng không lại “giận” bỏ về bây giờ.
- Vâng, thì chào các anh... mời các anh vào chơi. - Hải Linh kéo dài giọng.
- Có vậy chứ! Xin giới thiệu với em: Đây là Nguyễn Thừa! Thừa ván, thừa thơ, thừa thời gian, thừa... tất cả... trừ hai thứ không thừa. - Nói rồi người bạn quay sang Nguyễn Thừa - Con xin giới thiệu với ông. Đây là nông dân “cày đường nhựa” kiêm nhiếp ảnh gia Hải Linh “thợ nhòm” chính hiệu!
Hải Linh tủm tỉm: - Sao anh không giới thiệu nốt hai thứ không thừa nữa?
Người bạn trả lời: - Em tự tìm hiểu rồi khắc biết!
Hải Linh đáo để: - Chúng em “nông dân chi điền” làm sao dám tìm hiểu các nhà văn nhà thơ? Anh không nói em cũng chả tìm. - Vừa nói cô vừa liếc nhìn khuôn mặt lơ ngơ, đỏ rần của Nguyễn Thừa.
- Nhưng sao lại là nông dân? - Nguyễn Thừa hỏi.
- À - Hải Linh thấy thái độ anh tồi tội liền đỡ lời - Chẳng là vì em đang công tác ở phòng Nông nghiệp huyện nên anh ấy trêu vậy.
- Tôi hiểu, tôi hiểu - Nguyễn Thừa gật đầu rồi hỏi - Nhưng sao cháu... à à à... à em lại biết chụp ảnh?
- Hỏi “tẩm” thế ông bạn? - Người bạn nói chen vào - Thế sao ông đã làm thơ lại còn viết cả báo?
Nguyễn Thừa ngượng nghịu gãi đầu:
- Mình cứ tưởng nông dân...
Hải Linh cướp lời:
- Tưởng chúng em chỉ biết “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” thôi chứ gì? Rồi cô hỏi - Thế các anh cần gì?
- Thế này Linh ạ! Người bạn đỡ lời cho Nguyễn Thừa - Anh bạn Thừa đây muốn nhờ em chụp hộ kiểu ảnh minh hoạ cho bài viết.
- Em có biết chụp ảnh đăng báo đâu?
- Thi thoảng trên bản tin chả có ảnh của em là gì?
- Em làm tin cho ngành thì cứ chụp nhì nhằng vậy thôi.
- Thì bọn anh cũng chỉ cần cái nhì nhằng ấy thôi.
Sau khi bài được đăng, Nguyễn Thừa lấy cớ mang báo tặng để gặp lại cô. Lần ấy, không có anh bạn đồng nghiệp cùng đi. Nguyễn Thừa lúng ta lúng túng. Hải Linh đọc ngay ra vị. Chủ động ứng xứ để xóa bớt cho anh ngượng ngùng, cô nói:
- Nếu bài nào cần đăng ảnh, anh cứ tới gặp Hải Linh. Được Hải Linh “bật đèn xanh”, Nguyễn Thừa lao vào tìm đề tài để viết. Hầu như không bài nào anh không nhờ Hải Linh chụp ảnh. Anh nói: - Nhìn bài có đăng ảnh sướng cả mắt! - Nghe, Hải Linh biết anh rất vui. Cô có cảm giác Nguyễn Thừa thích mình. Anh là mẫu người không biết che giấu tình cảm. Khuôn mặt thô nháp ít khi dám nhìn thẳng vào mắt đàn bà, nhưng những biển hiện thường phản lại làm cho đôi lúc anh trở nên ngu ngơ, ngồ ngộ. Hải Linh quý lòng say mê, nhiệt tình thái quá đối với nghề nghiệp và rất khó chối từ khi Nguyễn Thừa đưa cô “duyệt” bài của anh. Anh nói:
- Anh không có thói quen cho người khác đọc bản thảo.
Hải Linh hiểu theo nghĩa: “Anh dành cho em là người đầu tiên!”
Người bạn đồng nghiệp có lần gặp Nguyễn Thừa cười, đe: - Này, thỏa thuận rồi nhé! Đừng có “chết”!
3. Mặc dù mụ đỡ đã tóm được vai, mi vẫn lì lợm, tay chân lúc duỗi ngang, lúc duỗi dọc, quyết không chịu ra. Mụ đỡ loay hoay đảo người như đánh vật; xoay, lựa, kéo, vần vã, mồ hôi trán túa ra như tắm. Cái yếm sồi nhuộm nâu trễ trãi, cái bao lưng vải nhiễu tụt xuống ngang hông. Mi mệt nhoài, mới thoát thai nên không dai sức bằng mụ. Cho tới khi bị ngạt, ngất lịm mi mới chịu duỗi dài chào thua. Chọn đúng thời cơ, mụ đỡ tóm lấy gáy, rút đánh “tụt” một cái y như tuốt lươn. Mặc cho mẹ nằm lả vì kiệt sức, mụ đỡ ngoắc mẩu liềm “xoẹt” một nhát! - Quãng dây liên hệ chín tháng mười ngày giữa mẹ và mi đứt phựt! Rất nhanh, mụ ngoằng hai ngoằng chỉ, thắt xéo cái đầu ruột vừa bị cắt thòi ra, buộc thành một nụ hoa nửa tươi, nửa héo. Xong! Mụ cầm chân, dốc ngược đầu mi quay ba vòng. Mặc! Mi không thèm tỉnh! Mụ giơ tay phát mạnh vào mông đít mi:
- Tỉnh! Tỉnh dậy mà chào đời!
- Tỉnh! Tỉnh dậy mà chào đời!
- Tỉnh! Tỉnh dậy mà chào đời!
Mỗi một câu hô là một cái phát! Lúc đầu mi lì lắm, đau thế mà cũng không khóc. Nhưng đến cái phát thứ ba thì mi không chịu được nữa. Chắc mi thấy mụ đỡ nhẫn tâm quá hay tại mi thương xót mọi người? Thể xác bị hành hạ đã đành, nhưng còn nhục thì chắc mi không chịu được? Còn mẹ nữa chứ! Mẹ thương mi nhưng không biết làm thế nào. Bố mặt buồn thiu, đứng lấp ló ngoài cửa. Cả mấy anh, mấy chị của mi, dáng vẻ rất căng thẳng. Họ sợ mi chết? Nhìn mi, dì biết mi không chết được, nhưng mi muốn thi gan với mụ đỡ. Nhưng vì bao khuôn mặt buồn bã, lo âu của những người ruột thịt đang chờ đợi, nên mi động lòng trắc ẩn. Mi ré lên: “Oa... oa oa oa...” Âm lượng cao vút; mi tru tru: “ẹc... ẹc ẹc ẹc ẹc...” tiết tấu trầm khàn. Hai âm thanh rõ ràng, riêng biệt. Tiếng khóc “Oa... oa... oa” để chào cái gia đình nhỏ bé, nghèo khổ, khốn khó. Tiếng tru: “ẹc... ẹc...” như lợn kêu để báo với thế gian này là mi đã có mặt. Cộng hưởng hai âm thanh với nhau thành giọt nước mắt vui mừng của người mẹ đáng thương đang nằm lả trên giường, và tiếng thở phào nhẹ nhõm của bố; bật lên tiếng reo hò mừng rỡ của người chị gái:
- Là con trai! Cả nhà ơi… Cả nhà ơi! Là con trai!
Thấy mi đã chấp nhận “chào đời”, mụ đỡ vật ngửa mi ra, lấy khăn lau nhúng vào chậu nước dì để sẵn. Mụ lau rửa cho mi bằng mảnh vải, không ra giẻ cũng chẳng ra khăn. Đấy là lần tắm đầu tiên trong đời của mi nếu không kể cơn lũ nước ối do mi gây ra lúc còn nằm trong bụng mẹ. Mặc dù dì đã pha cho mi chậu nước cho đỡ lạnh và còn thả vào chậu chùm lá hương nhu mùi thơm nức để cho mi tắm. Nhung mụ đỡ không cho mi tận hưởng. Mụ vớt mảnh giẻ sũng sượi nước quét lên mặt mũi còn sền sệt nhớt làm mi sặc sụa lắc lắc cái đầu tí xíu ra chiều không đồng ý. Kỳ cọ qua loa, mụ hét:
- Lấy cái áo của thằng anh mặc cho nó! Cái nào cũ rách nhất ấy!
Không mặc quần áo mới cho trẻ mới đẻ, đó là tục kiêng. Thời ấy, người ta cho rằng mặc quần áo mới cho trẻ lọt lòng về sau sẽ bị hại. Thấy dì cầm áo đem tới, mụ lại hét:
- Không chọn người đón tay à? - Hỏi, nhưng rồi mụ trả lời luôn - Không hử? Thôi, dì đón cũng được! Đã què rồi thì không què nữa! Quàng kín nó vào. - Mụ vừa trao mi cho dì vừa nói như bắn súng. Như vậy, mi được dì đón tay. Vẫn là một tục kiêng. Người ta quan niệm người đón tay có ảnh hưởng nhất định tới nhân cách và cuộc sống sau này của đứa trẻ. Dì là người không biết chữ lại quê mùa tộc tệch. Nhưng lúc ấy ngoài bố ra còn có ai là người lớn đâu mà chọn?
Tùm hum trong tấm áo rộng, toàn thân mi xoăn như vỏ đỗ, da mặt nhăn nheo như ông lão tám mươi, đỏ lựng như một kẻ dị ứng rượu. Mũi mi “hắt xì” ba cái liền vì mùi hôi bốc ra từ vải áo. Dì nâng niu mi như của quý, kéo cổ áo che mắt cho mi khỏi chói ánh đèn, dứt mảnh lá trầu nhấm nhấm nước bọt dán lên trán. Dì làm chẳng qua bắt chước mụ đỡ làng Chi Đông thôi, chứ thực ra dì cũng không biết tại sao phải làm thế? Hay đấy cũng là một tục kiêng? Nhưng dì đồ rằng: Cứ việc nào các cụ truyền lại cho con cháu làm theo là tốt. Chẳng thế mà khi dì dán lá trầu cho mi xong, dì thấy mi im lặng nép vào lòng dì tin tưởng.
Trong khi ấy mụ đỡ giúp mẹ rửa ráy, thay quần áo. Vừa làm mụ vừa lầu bầu: - Sướng cho lắm rồi khổ nhiều. Khổ rồi lại kêu. - Chợt nhớ, mụ hét - Bố thằng cu đâu? Đã sẵn đồng chinh chưa? Có thì đóng ở ngưỡng cửa bảy đồng! Bảo đứa nào đi lấy ít gai tầm soọng, cắt mấy tàu dứa dại treo trên cánh cửa. Đứa nào đem vào đây cái nồi. Đã dặn mua chả biết có chưa?
Mụ nói làm cho bố cuống quýt. Lẽ ra dì không phải bế mi thì mọi việc xong xuôi trôi chảy cả. Bố hỏi: - Cái nồi đất hôm nọ tôi mua dì để ở đâu?
Dì đáp: - Em để dưới gầm chạn bát ấy!
Bố quay mặt về phía cửa, nơi có mấy cái đầu thập thò:
- Đứa nào xuống bếp lấy cho bố cái nồi.
Có tiếng trả lời: - Tối lắm! Con sợ...
Bố hỏi: - Sợ cái gì?
Tiếng rụt rè: - Ma
Mụ đỡ gắt: - Nhanh lên! Để núm nhau thối ra ở đây à?
Bố bỏ đối đáp, chạy vội xuống nhà dưới. Dì nghe đánh “oạch” một tiếng. Dì chép miệng: - Đàn ông với đàn ang, chẳng biết việc gì ra việc gì.
Bố cầm lên cái nồi đất vàng ruộm như gạch cua đồng, nhưng đầu gối quần rách toạc, khuỷu tay rướm máu. Dì xót xa: - Có đau không anh?
Mẹ nghiêng mặt, đưa đôi mắt mệt mỏi nhìn chồng vừa giận, vừa thương đượm một chút ân hận vì mình và con nên chồng khổ.
Mụ đỡ cầm chiếc nồi, cong ngón tay búng búng vào cạnh như khách hàng quen thử chất lượng ngoài chợ. Tiếng nồi đất vang như tiếng chuông ngân, mụ chậc chậc: - Tốt! Dễ đến hai xu?
Cho núm nhau vào nồi mụ dặn: - Đem chôn dưới giọt gianh cho thằng bé sau này lớn lên được mát tính.
Bố hỏi: - Chôn đồng chinh trước hay chôn núm nhau trước?
Mụ đỡ càu nhàu: - Mấy mặt con rồi còn hỏi! Chôn núm nhau trước! Tiền chinh với gai tầm soọng để mai làm cũng được. Bây giờ khuya rồi ai đến chơi mà sợ!
Bố vặn lại: - Sao lúc nãy bà nói phải chôn ngay?
Mụ đỡ đỡ trả lời: - Nhắc cho khỏi quên. Quên mà gặp người bị đau cảy vào thăm thì mẹ nó lại khổ vì đau - Mụ đỡ dọa - Đã bị đau cảy nhiều thì ba tháng, ít cũng phải ba bẩy hai mươi mốt ngày mới đỡ.
Dì thêm vào: - Anh đem nồi nhau chôn đi, nhớ chôn chính giữa giọt gianh ấy! Còn các việc để chốc nữa chị đỡ mệt ôm cháu, em sẽ làm cho.
Mụ đỡ lại như chợt nhớ: - Con nhớn đi đâu mà không thấy mặt?
Dì đáp: - Cháu sang bên bà Cả. Hôm nay ông ấy ở Tây về.
Mụ đỡ kể lể: - Ở Tây về khối! Trong làng con cụ Tổng về oách lắm! Đem cả vợ đầm theo. Cao hơn lão ta một tầm đầu, tóc quăn tít, váy xòe xoẹt, hút thuốc lá như vẹm... - Chợt nghe tiếng rên, mụ quay lại đi đến bên giường cầm lấy tay mẹ: - Đau hả? Chịu khó uống lấy mấy ngụm ngải cứu, nghỉ đôi hôm là lại sức ngay đấy mà... Thôi, đứa nào soi cho cô cái đèn ra cổng.
Mẹ gắng sức cầm lấy tay mụ nhét vào mấy đồng bạc. Mụ giãy nảy:
- Đã bảo ai tôi cũng lấy! Nhưng riêng nhà chị tôi không lấy! Đẻ năm đỡ năm, đẻ mười đỡ mười... Khi nào thằng “cún” con nhớn, có vào lễ chùa Nhuế thì công đức vào chùa đồng bạc lấy khước cho thằng bé. Còn giờ mà chị bắt tôi cầm tiền, lần sau đẻ gọi mụ đỡ làng Chi Đông đến mà đỡ! - Nói rồi mụ vơ cái túi đựng mẩu liềm cắt rốn nhổm dậy, đến chỗ dì bế mi đặt mấy đồng bạc vào cạnh có ý bảo: Cho thằng cu con! Rồi bước vội ra cửa như sợ bị giữ lại bắt phải cầm tiền.
Khí lạnh thoảng qua cửa lùa vào nhà. Dì nghe tiếng mi “ọ ẹ” liền nhè nhẹ vỗ về. Chắc khí lạnh lọt vào khe rách tấm áo, cứa lên da thịt nên mi nhớ chỗ nằm trong lòng mẹ phải không? Dì biết ở ngoài này làm sao bằng trong ấy! Hơi ấm nồng nàn, chẳng phải làm gì cả! Thức thì chơi với mấy đoạn nhau, vài khúc ruột; đói, khát đã có thức ăn, nước uống truyền ngay vào cuống rốn; buồn ngủ lúc nào là lăn ra làm một giấc. Bây giờ ra ngoài mới thấy khổ, áo hôi mù, lạnh buốt da, muốn ngủ thì hết tiếng mụ đỡ lại đến tiếng bố; thi thoảng, ầm ì tiếng máy bay trên trời; ùng oàng tiếng súng nổ từ mạn xuôi vọng tới. Thể nào mi chẳng ước ao: giá bây giờ được quay lại nằm trong bụng mẹ thì tốt biết bao... Mi ngọ nguậy hờn dỗi ý muốn tỏ điều gì đấy cho dì biết. Cảm thông với nỗi niềm của đứa bé phải xa lòng mẹ. Nhưng ngoài tình yêu thương ra, dì chỉ còn những câu thơ, lời ca học được của những đôi trai gái thi hát đối nhau vào ngày hội làng Chi Đông mở:
“Trên thị Gia Cát cầu phong
Dưới thì lập trận hỏa công đánh Tào
Hai bên tả hữu đánh vào
Tào thua Tào chạy Tào nhào xuống sông”.
Tôi không hiểu vì sao lời ru hời đầu tiên dì ru cho tôi nghe lại là một câu đố viết bằng thơ? Lúc đó tôi chỉ thấy lời dì ngọt ngào, êm ái. Khi lớn lên, tôi mới được nghe dì giải nghĩa, tôi hỏi: - Câu đố ấy của ai? Dì đáp: - Dì không biết! - Về sau này tuy đọc và hỏi nhiều, tôi chưa thấy sách nào in hoặc có người biết tác giả bài thơ. Tôi đành phải nghĩ bài thơ đố ấy do dì nghĩ ra. Còn đến bây giờ, nếu có ai đã tìm ra tác giả, xin cho tôi được cáo lỗi và cầu mong:
- Không vì tôi! Hãy vì hương hồn người dì kính yêu của tôi mà im lặng.   

4. Ai “chết” ai thì chưa biết! Nhưng chỉ biết sau một thời gian hai người rất thân nhau. Nguyễn Thừa dừng lại ở ngưỡng cửa sự nhớ và mong được gặp Hải Linh để nói chuyện văn chương. Còn Hải Linh dừng ở ngưỡng tôn sùng sự hiểu biết và lòng chân thành với Nguyễn Thừa. Người nào cũng thầm mong người này chủ động bước thêm một bước. Nhưng hình như rất khó. Cái khó của những số phận đã trải qua những mối tình dở dang, trắc trở.
Nguyễn Thừa nói với Hải Linh:
- Nếu khi nào thấy cần anh phải xa để em có một gia đình theo ý muốn thì nói với anh.
Hải Linh trả lời: - Hiện tại em chưa có ý định “đi bước nữa” nên anh đừng ngại. Bây giờ nhiệm vụ của em là nuôi dạy con cái em khôn lớn.
- Và chụp ảnh nữa chứ? - Nguyễn Thừa nói chen vào:
- Hải Linh đáp: - Vâng! Vừa nuôi con vừa làm nghệ thuật.
- Hay! Anh chắc phải tôn em làm sư phụ để chuyển sang nghề ảnh, chứ viết văn tiền nhuận bút còi thế này có ngày chết đói.
- So sánh như thế em e hơi khập khiễng. Theo em, chấp nhận làm nghệ thuật phải vậy. Anh có biết bức ảnh “Được mùa” em nhận giải thưởng ở báo Phụ nữ được bao nhiêu tiền không? Tính ra trị giá ba trăm nghìn. Ba trăm nghìn chia cho hàng tháng trời lang thang, chờ đợi, chọn, tìm cảm hứng; chụp hết chục cuốn phim. So sánh như anh thì lỗ chỏng gọng. Nói rồi cô cười, nụ cười pha một chút bùi ngùi chua xót.
- Nếu tính giá vật chất không ai dám làm em ạ! - Nguyễn Thừa an ủi - Em còn có thu nhập khi người ta thuê làm chân dung hay đám cưới, đám ma. Chứ bọn anh ai đặt viết? Đến tin “Người tốt - Việc tốt” muốn viết họ không cho viết cũng phải chịu. Có người còn nói: “Hôm nay tốt ngày mai không tốt thì sao? Anh không thấy vài hôm trước báo Nhân dân đăng tin ca ngợi Công ty này giỏi, kinh doanh mỗi năm nộp lãi cho Nhà nước vài tỉ! Mấy hôm sau báo Công an nhân dân lại đăng tin vị Giám đốc công ty ấy bị bắt vì trốn thế, tham ô, hối lộ hàng chục tỉ đồng à?”
- Thế anh trả lời sao?
- Ậm ừ cho qua, hoặc nói: Không thế sao gọi là xã hội!
Đến lượt Hải Linh an ủi: - Mình thích mình làm, chẳng tội gì mà nghĩ. Nghĩ nhiều già người anh ạ!
Nguyễn Thừa nói như cho riêng mình: - Ừ, nhiều khi “giận” muốn bỏ nhưng rồi không bỏ được. Hình như cái nghiệp nó vận vào người rồi? Gác bút một tuần là nhớ không chịu nổi. Chẳng hy vọng để lại cái gì cho đời mà sao đắm đuối thế? Mỗi lần về Hà Nội, nhìn tác phẩm các văn sĩ có tầm cỡ nằm ven đường bụi phủ dầy từng lớp mà nản. Như họ còn vậy huống chi mình! Biết thế nhưng vẫn không dứt ra được.
- Cụ Tiên Điền chả nói rồi à: “Trót mang cái nghiệp vào thân - Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa...” Thôi, “ông tướng” ơi, mơ mộng vậy được rồi. Bây giờ đưa em về làng - Hải Linh chủ động kéo Nguyễn Thừa đứng dậy.
Ra tới đường, Hải Linh nói. - Em được Phòng Nông nghiệp thưởng ba ngày vì có thành tích giới thiệu giống lúa mới cho bà con trong huyện. Chương trình thế này: Bây giờ em sẽ đưa anh đến một gia đình diện chính sách. Anh viết bài, em chụp ảnh. Xong ta đi chơi, ăn cơm quán. Ngày mai đi Châu Lam, vào hồ Đại Ngọc, sang đảo Khỉ; thuê thuyền ra đảo Hai Người thăm miếu Vợ Chồng.
Nguyễn Thừa hỏi: - Thế bọn trẻ, em gửi đâu?
Hải Linh trả lời: - Hôm qua em cho chúng nó về với ông bà ngoại rồi! Tranh thủ trốn con vài buổi.
- Hải Linh chỉ đường cho Nguyễn Thừa rẽ vào một ngõ nhỏ hai bên giậu trồng dâm bụt. Những bông hoa đỏ thắm chìa ra chạm vào mặt. Nguyễn Thừa nhanh tay ngắt bông hoa đưa cho Hải Linh: - Tặng Thạc sĩ Nông nghiệp tương lai!
Hải Linh khẽ cấu vào lưng anh: - Em hỏi anh: đã dâm sao còn bụt?
Nguyễn Thừa bật cười: - Em bẻ ngoéo ngôn từ thành từng vế để hỏi, ai trả lời được!
Hai người xuống xe chờ mở cổng. Một con chó mẹ vú thổn thện gần chạm đất xồ ra sủa... đằng sau chừng bốn, năm con chó con nhanh nhách sủa theo. Một cô bé chừng mười ba, mười bốn tuổi từ trong nhà chạy ra quát quầy quậy: - Vào, Lu! Lu, vào...!
Nguyễn Thừa sững người khi nhận ra cô bé không có tay. Hai chiếc ống tay áo thõng thẹo thả từ khuỷu vai rủ xuống, đung đưa phất phơ vô hồn. Cô bé dùng chân mở chiếc then khóa cổng.
Như đọc được ý nghĩ của anh, Hải Linh nói khi hai người đã vào trong sân: - Đây là cô bé em nhận đỡ đầu, nhà có hai bố con. Còn đây - cô quay sang nói với cô bé - Giới thiệu với cháu: Chú Nguyễn Thừa, bạn cô.
Cô bé ngượng, ấp úng, Nguyễn Thừa chủ động: - Trước hết em phải để cho hai chú cháu làm quen với nhau đã! Bố cháu đi đâu?
Cô bé trả lời: - Bố cháu ra đồng làm cỏ lúa.
- Cô Hải Linh không cho chú biết trước nên chú không chuẩn bị. Hôm nay chú cháu mình chỉ làm quen với nhau thôi nhỉ.
Cô bé lí nhí: - Vâng!
Kỳ diệu! Thật kỳ diệu. Những ngón chân của cô bé không có tay như múa trên bàn máy vi tính. Nguyễn Thừa đọc hàng chữ hiện trên màn hình: “Cháu chào chú nhà báo”. Trời ơi là trời... Mắt anh như bị thôi miên trước những động tác thuần thục, chính xác tới không ngờ. Cô bé rất tự tin: đầu và người hơi ngả về phía sau, lưng tựa vào chiếc ghế được đóng khá đặc biệt: Đôi bàn chân đang thực hiện những phép toán trên chương trình Excel. Anh quay lại Hải Linh trách: - Sao bây giờ em mới nói cho anh biết?
Hải Linh đáp: - Em muốn cho anh một thú vị bất ngờ.
- Bất ngờ thật! Nguyễn Thừa quay lại nói với cô bé - Cháu là điều kỳ điệu nhất từ xưa tới nay mà chú gặp.
Cô bé còn thực hiện những động tác chải đầu, rửa mặt, đan rổ, rá, thái rau, vo gạo, sàng, sẩy gạo. Động tác nào cũng đẹp và khéo léo như người làm bằng tay vậy. Vừa làm nó vừa nhoẻn cười thân thiết với Nguyễn Thừa.
Chia tay cô bé anh nói, - Cố gắng lên, cô bé kỳ diệu của tôi.
Cô bé tiễn hai người ra tận đầu ngõ. Thân người nghiêng, xô lệch, bồng bềnh như người di chuyển ở nơi không trọng lượng. Đôi mắt màu tro lưu luyến nhìn mãi theo hai người.
Hải Linh nói: - Anh giỏi đấy! Bao nhiêu người đến không khai thác nổi một từ. Anh tới không biết nói gì mà nó “biểu diễn” hết?
Nguyễn Thừa hỏi: - Nó bị từ nhỏ hả em?
Hải Linh đáp: - Bố nó bị nhiễm chất độc màu da cam trong chiến trường miền Nam.
Nguyễn Thừa ngớt ga giảm bớt tốc độ: - Nhà nghèo thế lấy đâu ra tiền mua máy vi tính?
Hải Linh trả lời: - Một cán bộ công tác ở sân bay Nội Bài gửi tặng qua lời kêu gọi của Đài Tiếng nói Việt Nam.
- Thế còn tiền học và phương tiện đi lại? Đây cách thị trấn hàng chục cây số!
Hải Linh không trả lời. Nguyễn Thừa như sực nhớ, tay vỗ vỗ trán - Sao mình ngốc thế nhỉ! Người đỡ đầu! Người đỡ đầu. Thế mà mình quên khuấy đi mất! Được, tiền nhuận bút bài báo này xin ủng hộ, gọi là tấm lòng.
Ngồi đằng sau, Hải Linh ngả đầu áp má vào lưng anh mỉm cười.
Nguyễn Thừa cho xe rẽ xuống quán cơm cạnh bờ sông. Anh nói với gã chủ quán:
- Có còn cá chép vây đỏ không?
Gã chủ quán có cái đầu mái bằng như thể đặt bát nước lên không đổ, xun xoe, nháy nháy mắt với Nguyễn Thừa như có ý nói: - “Ông mang theo con cá chép người ngon đấy...”
Nguyễn Thừa quắc mắt: - Tôi đến ăn cơm chứ không đến để ông tọc mạch.
Gã chủ quán dúm lưng lại như đỉa phải vôi: - Dạ... dạ em còn con cá anh vũ nhập từ ngã ba Việt Trì về ạ.
Một thanh niên mặt non choẹt, áo trắng sơ- vin, cổ thắt nơ, miệng toe toét, hai bàn tay chắp trước ngực như bị cùm; nghiêng người khúm núm mời hai người xuống phòng ăn được xây nửa trên cạn nửa dưới mặt sông.
Nắng chiều nhạt, gió nhẹ, nước chảy lững lờ, rác bẩn từng đám trôi lềnh bềnh... Phía bên kia sông là bãi vải. Mấy chùm quả chín muộn sót trên cây đỏ ối rung rinh như những chùm lửa. Dưới gốc cây sát bờ, một chú bé con cởi trần ra sức nhấc sào vó. Chiếc sào dài và bốn thanh gọng trĩu cong như cố níu cái thân hình bé choắt của chú xuống sông.
Hải Linh hỏi: - Anh đã sang bãi vải bao giờ chưa?
Giọng Nguyễn Thừa tư lự: - Đó là hồi chiến tranh đánh Mỹ, cơ quan đi sơ tán. Thế mà cũng đã hơn ba mươi năm rồi.
Hải Linh thảng thốt: - Eo ơi, lâu thế á? - Nói rồi cô tháo chiếc máy ảnh nâng lên chĩa ống kính về phía chú bé kéo vó - Em chụp ảnh còn anh đặt tiêu đề.
Nguyễn Thừa nheo mắt: - Anh đặt tên bức ảnh này là “Kiếm tìm”
Hải Linh xoay máy bấm liền mấy kiểu: - Kiếm tìm! Vâng, cái tên thật gợi cảm. Em cảm ơn anh vì cái tên.
Nguyễn Thừa rót đầy hai cốc bia: - Hôm nay chúng ta uống vì cô bé sử dụng máy tính bằng chân; uống cho cả người đỡ đầu nữa! Uống cho một văn sĩ nửa mùa với một Thạc sĩ Nông nghiệp tương lai kiêm nhiếp ảnh gia tay trái.
- Và cho bức ảnh mang tên “Kiếm tìm” của tương lai phải không anh? - Hải Linh nâng cốc chạm rồi ngửa cổ uống cạn.
Bên kia sông, chú bé khệ nệ vác vó đi chỗ khác. Nguyễn Thừa nhìn theo, mặt anh đỏ lựng trong ráng chiều. Hải Linh đăm đăm nhìn hình mình trên thành cốc:
- Hình như chưa bao giờ anh hỏi vì sao em công tác ở ngành nông nghiệp mà lại biết chụp ảnh phải không?
Nguyễn Thừa quay lại:
- Anh sẽ không hỏi những điều gì mà em chưa muốn nói.
- Hôm nay em sẽ kể cho anh nghe chuyện về đời mình, và vì sao em biết chụp ảnh. Chuyện không vui nhưng em muốn anh nghe.
Nguyễn Thừa gắp vào bát Hải Linh chiếc vây cá:
- Hôm nay cá chép vượt vũ môn. 
5. Dì có khuôn mặt tròn như trăng đêm mười sáu. Da trắng, đôi mắt hiền vẻ nhẫn nhịn, chiếc mũi thanh tú hài hòa với khóe miệng xinh xắn, hàm răng nhuộm đen, bóng như hạt na, cái cằm thon nhỏ hất hất ra phía trước mỗi lần dì nói.
Tôi chưa biết thế nào là đẹp. Nhưng cứ theo tôi, nếu dì chân không bị thọt thì mấy bà ở cái phố Đệ Nhị này làm sao đẹp bằng dì! Từ vợ ông Thuận Lợi đến vợ ông Đức Lợi hay bà Quản Thìn, người này ục ịch, mặt béo xệ, người kia gầy nhom, mặt quắt queo. Suốt ngày ngồi nhai trầu nói chuyện vặt. Hơn dì hai chân bằng nhau và mặc được quần. Nhưng cần gì? Dẫu hai chân không đều nhau dì vẫn bước tốt, thậm chí vẫn chạy được, rất nhanh là đằng khác! Dì luôn tay, luôn chân, làm việc gì cũng khéo. Mặc váy thì đã sao! Mặc váy càng tiện. Vừa ra khỏi bụng mẹ, tôi đã được nằm vào vạt váy của dì đấy thôi! Bồng bềnh như nôi, đu đưa như võng, êm ái như giát giường tre ông ngoại ken gửi lên cho bố mẹ nằm.
Tôi nhớ câu: “Què rồi thì không què nữa!” của mụ đỡ nói. Chắc có ý nói về cái tật cà nhắc của dì đây? Nếu bình thường không ai nỡ mang tật của dì ra đùa. Duy nhất có lần này mụ đỡ dám nói. Hay đó là lòng đố kỵ, ganh ghét nghề nghiệp? Chả là có lần mẹ kể cho mụ nghe chuyện hồi trước bà ngoại đẻ dì cũng ra ngược. Dì được cứu sống nhưng hai chân của dì không bằng nhau, còn bà ngoại chết vì băng huyết. Thế là chưa đầy ngày tuổi dì đã mồ côi mẹ. Sau tang, ông ngoại bế dì đi khắp làng xin bú. Mọi người vẫn bảo dì là con của cả làng Chi Đông.
Mụ đỡ làng Nhuế nghe xong dứt khoát đổ tại bà đỡ làng Chi Đông không biết cách xoay thai. Mẹ lắc đầu ra ý không phải rồi chép miệng: - Tại cái số. - Mụ đỡ làng Nhuế không tin đó là số phận. Mụ nói:
- Thế mà cũng đòi đỡ đẻ! Ở trên tỉnh có mà ăn cám.
Dì đi từ dưới nhà ngang lên. Thấy bố ngồi trên phản bó gối tư lự. Dì hỏi:
- Anh chưa đi nghỉ ạ?
Bố hỏi lại:
- Mấy đứa trẻ ngủ chưa dì?
- Dạ, ngủ cả rồi ạ! Anh đi ngủ cho đỡ mệt, chị và cháu cứ để em trông. Mai anh còn phải trông thợ “cháy vành”.
“Cháy vành” là cách gọi của thợ làm xe kéo tay. Đây là công đoạn hoàn thành phần bánh của chiếc xe. Người ta dùng than đốt, nung đỏ đai sắt đã khoan lỗ ép vào bánh xe bằng gỗ. Khi ép, kim loại bị nung làm cháy gỗ, sau đó nhúng xuống nước rồi tán đinh. Công việc này rất vất vả; vài tháng mới làm một lần. Mỗi lần như vậy không khí xưởng cơ khí nhộn nhịp, tất bật, khẩn trương. Cửa hiệu nào có nhiều ngày “cháy vành” như vậy chứng tỏ công việc làm ăn phát đạt.
Bố mồi điếu thuốc rít một hơi, mùi thuốc tỏa lan mấy gian nhà. Tôi chun mũi, mùi thuốc sao mà hôi thế! Hơn cả mùi lá ngải cứu. Mẹ nói với ra ngoài:
- Dì bảo đứa nào đái cho tôi một bãi.
 Dì chạy đến bên giường mẹ:
- Chị nằm nghỉ! Gần sáng em xi cháu lấy cho. Bà đỡ bảo uống nước đái sáng sớm tốt hơn!.
Lại bà đỡ! Sao cái gì cũng bà đỡ nhỉ? Ngải cứu cũng bà đỡ! Đến bây giờ uống nước đái cũng bà đỡ. Mà sao mẹ phải uống nước đái nhỉ? Không hiểu bà đỡ còn bảo những gì nữa đây? Tôi thu lu nằm trong lòng mẹ nghĩ vậy.
Dì lấy que cời mấy hòn than đang cháy trong chậu rồi đẩy sâu vào gầm giường nơi mẹ và tôi nằm. Hơi ấm làm tôi dễ chịu, có cảm giác như còn đang nằm trong bụng mẹ. Chợt mẹ hỏi:
- Con nhớn có biết tôi đẻ không?
Dì đáp:
- Cháu nó chưa biết! Nó mà biết chị đẻ nó đã về! Ban trưa, trước khi đi cháu dặn em: Sáng mai dì nắm cho cháu thêm cơm, dạo này cháu ăn khỏe lắm!
Mẹ chép miệng:
- Con nhà đến lạ! Đã bảo đem hàng đi tầu vất vả, có tiền mà không bao giờ dám tiêu. Người hàng tỉnh không hiểu lại bảo dì ghẻ con chồng.
Bố chưa ngủ, nghe mẹ nói, góp chuyện:
- Mẹ nó cứ lo xa. Ăn ở thế nào cả tỉnh Phúc An biết chứ ngại gì? Chắc nhìn cảnh người chết đói, chết rét năm bốn nhăm, nó sợ nên không dám tiêu... Dì thổi thêm ca gạo, nắm cho cháu hai nắm to hơn mọi khi. Thêm cơm, thêm cả muối vừng.
Tôi biết mọi người đang nói tới người chị lớn - con riêng của bố. Mẹ đẻ chị chết lúc chị mới được ba tuổi và  khi chị được sáu tuổi thì bố lấy vợ khác - tức là mẹ tôi bây giờ. Năm nay chị đã mười bảy tuổi. Chị không gọi mẹ là dì như các gia đình khác. Mười ba tuổi chị theo mẹ gánh hàng đến bán ở chợ trong vùng; mười sáu tuổi đã đảm nhận việc giao dịch với mấy chủ hiệu có tiếng ở Hải Phòng. Buôn bán giỏi nhưng chị rất tằn tiện. Mẹ bảo chị:
- Tiền buôn bán được con thích gì cứ mua, không các ông, bà bên ấy lại bảo mẹ đối xử ác với con chồng.
Nghe, chị không nói mà chỉ cười. Khuôn mặt trái xoan, đôi mắt giống bố, lanh lợi quả quyết; môi ăn trầu cắn chỉ, răng nhuộm đen, nước da bánh mật. Chị hay mặc quần vải láng đen, áo cánh tay búp măng màu gụ. Ban đầu gặp, ai cũng nghĩ chị là người nhà quê, nhưng khi tiếp xúc mới thấy chị nhanh nhẹn, hoạt bát, sành sỏi.
Đang thiu thiu ngủ bỗng tôi nghe tiếng chị:
- Con trai hả dì?
Thì ra chị về từ lúc nào không biết. Tôi nghe dì đáp:
- Ừ, se sẽ cho mẹ ngủ! Thế tình hình bên ấy thế nào?
Chị đáp:
- Bác ấy kể chuyện đánh nhau ở bên Tây rồi nói: Nhờ Chính phủ Cụ Hồ can thiệp nên những người Việt theo Tây mới được về nước.  Bác còn nói: Nước Việt Nam độc lập, dân Việt Nam tự do rồi! Có Cụ Hồ lãnh đạo đánh đuổi hết bọn Tây, bọn Nhật, bọn Tàu Tưởng là dân mình ấm no, không bị chết đói như đận bốn nhăm nữa!
- Thế thì phúc đức quá! - Dì khẽ reo rồi hỏi chị - Dì thấy bà đỡ kể con dâu ông Tổng làng Nhuế theo chồng về là đầm Tây hả? Tây sao lại lấy người mình?
- Đầm gì mà đầm! Là me Tây thì có! Mụ ta đẻ ở bên Tây, nhuộm tóc, hút thuốc lá, nói tiếng vừa ta, vừa Tây. Bác cháu bảo: Người mình ở bên Tây cũng khổ lắm! Con dâu ông Tổng ở bên Tây làm nhà thổ chứ danh giá gì?
Dì trợn tròn mắt nghe chị kể, chép miệng: - Thế mà bà đỡ...
Nằm trong lòng mẹ nghe dì ca cẩm, tôi cười thầm: Dì cứ tin bà ấy đi.
Tiếng chuông đồng hồ thong thả điểm nhịp ba tiếng.
Chị cả hỏi dì:
- Mẹ cháu có dặn gì không?
- Mẹ dặn cháu giao hàng thanh toán thu hết tiền về không cho nợ nữa! - Dì nói thêm - Thời buổi loạn đảng này biết thế nào mà cho nợ. Nhỡ có cơ sự gì lấy tiền đâu trả cho thợ?
- Vâng - chị đáp - Anh em nhà Quảng Đức Lợi ở đầu cầu Ca-rông làm ăn có tiếng là đứng đắn. Cả ba người đều có cửa hiệu, cửa hàng to cứ gọi là nhất Hải Phòng. Hàng ngày nhập rắn, lươn, ba ba, tắc kè, rùa, tê tê... từ các tỉnh đổ về đến vài nghìn con - Bỗng giọng chị thì thào - Mỗi lần cháu xuống buồn cười lắm dì ạ! - Chị cười khúc khích - Cậu hai con trai ông Quảng Đức Lợi cứ xoắn lấy cháu. Có lần cậu bảo: - Em đồng ý lấy tôi, tôi nói với mợ đem trầu cau lên Phúc An thưa chuyện với bố mẹ.
- Thế ý cháu thế nào?
- Cháu chả biết thế nào? Lấy ai do bố mẹ cháu quyết chứ cháu biết gì.
- Ừ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy! Xưa nay vẫn vậy. Còn do duyên số đấy cháu ạ!
- Chuyến trước cháu mang hàng xuống thấy ông Quảng tư giấy cho bố cháu hẹn sẽ lên nhà ta chơi.
- Thế thì sang năm nhà mình có đám cưới rồi chị cả nhỉ! - Dì hóm hỉnh nói.
Không thấy chị trả lời. Dì cũng im lặng. Tôi nghe rõ tiếng nhai trầu tóp tép của hai người vọng qua màn. Mẹ trở mình... Mẹ chưa ngủ hay vừa mới thức? Bỗng mẹ lên tiếng:
- Ba rưỡi chưa con? Gọi bố dậy chuẩn bị ra tầu.
Chị đi tới bên giường:
- Mẹ cho con xem nó một tý! Nào ngẩu con ra chị xem nào.
Chị vạch áo, lấy tay sờ sờ vào cái chim cũn cỡn của tôi: - Cu con thích quà gì về Phòng chị mua cho nào! Mẹ ơi, chuyến này xuống Phòng con mua cho mẹ củ sâm Hàn nhé! Thấy bảo sâm Hàn tốt lắm!
Bố đã dậy, nghe chị nói bố gàn:
- Sâm lạnh! Người đẻ không dùng được. Con nhờ bà Quảng mua cho mẹ lạng tam thất.
- Đắt lắm! Không phải mua gì cả! Tôi uống mấy ấm ngải cứu là khỏe ngay thôi mà. - Mẹ nói tỏ vẻ không bằng lòng.
Bố nói với mẹ:
- Thằng này đẻ giờ Hợi, chữ Tân, ngày Dần, chữ Nhâm, sao Giốc trực; tháng Dậu, chữ Kỷ, sao Tinh chiếu: năm Hợi, chữ Đinh, sao Cang phục vị, da con lợn bọc xương con gà. Kín! Nhưng bởi lúc ra đời gặp sao xấu nên hậu vận khôn lường. Đường học hành, công danh dễ bề ngang trái; lỡ dở vì hoàn cảnh, đứt đoạn vì thời cuộc. Được cái sao chiếu mệnh nằm chính cung an nên không bị đói rách, hồ đầy hồ lại vơi: hết rồi lại có, nhưng không có của để dành.
Mẹ hỏi:
- Thế còn đường vợ con?
- Chưa nứt mắt ra đã... - Bố lườm mẹ, nhưng trong bụng lại sướng vì mấy khi được đem sự hiểu biết giảng giải cho vợ - Căn cứ vào cung này: Ngày sau nếu vô sư, vô sách lấy phải người không hợp tuổi một là chồng “đi” trước hai là vợ “đi” trước.
Mẹ cười:
- Ông bói toán dớ dẩn thật. Chẳng lẽ hợp tuổi thì cả hai vợ chồng cùng chết à?
- Mình chẳng hiểu gì sất! - Bố cự lại - Tôi nói là nếu không xem tuổi sẽ xảy ra chết trẻ chứ không phải hai người cùng chết!
- Thế ngày xưa bố nó cưới bà cả có xem tuổi hay không?
Bố thanh minh: - Tôi lên đây bắt rắn, bắt ếch. Các cụ thấy thật thà, chất phác thương gả con gái cho chứ có mối lái xem xét gì đâu. - Bố kết luận. Không xem bà ấy mới “đi” trước đấy thôi.
Mẹ vặn hỏi: - Thế còn người vợ ở quê xem xét hẳn hoi sao lại bỏ nhau?
Bố ậm ừ: - Ời... ời... không hợp! Mà có ai xem đâu! Bố mẹ chết sớm, nhà có ba anh em, bác trưởng sợ tôi bỏ làng lấy vợ xa lừa tôi về ép gả chứ ai lấy!
Mẹ cười: - Không phải chối! Thế còn tôi? Ai xem tuổi cho ông?
Thầy tướng kiêm bói dịch nửa mùa bí không trả lời. Thấy vậy, mẹ nói rỡn: - Tại... tại cái đêm hội làng Chi Đông xem tuổi cho phải không?
Bố đỏ mặt, tảng lờ ý chừng không để ý tới câu nói của mẹ. Bố vờ cúi xuống ra vẻ như chăm chú bận xem sách.
Tôi đang ngoắc miệng ngậm vú chờ đợt bố đặt tên, nghe bố giở chuyện ngày xưa ra nói, tôi cáu, ưỡn người chu choa. Mẹ vỗ vỗ vào sườn tôi nựng: - Thằng cún ngoan của mẹ, chờ bố đặt tên cho con nhé!
Bố gập lưng dán mắt vào quyển lịch vạn niên: - Năm nay năm nhuận. Lấy chữ nhuận đặt thành tên nó cũng hay. - Bỗng bố ngập ngừng - nhưng nếu đặt tên là Nhuận e không ổn. Sở Lục lộ Phúc An có lão cai tên Nhuận. Nếu đặt tên thằng bé như vậy nó tưởng mình xỏ xiên, đểu với nó. Nhà mình lại có hiệu cho thuê xe kéo, khi có việc phải trình Sở xin giấy tờ sợ nó làm khó dễ, tăng thuế thì khốn. Thôi, đặt tên con mình là Thừa. Nguyễn Văn Thừa. Thừa hay Nhuận vẫn cùng một ý! Về sau này thừa ăn, thừa mặc, thừa mọi thứ. Đời chúng nó mai kia sướng hơn mình. Mẹ nó đồng ý không?
Mẹ không trả lời bố mà nâng tôi lên thơm đánh “chụt” vào má nựng: - Thế là con có tên rồi nhé! Thằng Thừa yêu của mẹ.
Thừa! Nguyễn Văn Thừa! Cái tên nghe ngồ ngộ thế nào ấy. Tôi chưa quen với “nó” - “nó” là tôi hay tôi là “nó” thì chưa rõ. Như bộ quần áo vừa may, mặc vào thấy nham nháp, lành lạnh, nhột nhột, gượng gạo.
Tôi nói với thằng “tên”: - Thế là từ nay tớ phải cõng cậu suốt đời!
Thằng “tên” cãi: - Lêu... lêu... tớ phải cõng cậu suốt đời mới đúng!
Không ngờ, mãi mãi về sau này, “tên” và tôi mặc dù cùng ăn, cùng ở với nhau nhưng chưa bao giờ hòa hợp đoàn kết cả. Lúc “nó” vượt lên trước bỏ lại tôi đằng sau; lúc “nó” tụt lại phía sau tôi vượt lên phía trước. Tôi có lý khi nói: Tôi do mẹ đẻ ra! Thằng “tên” có lý khi bảo: Tên do bố sắp đặt! Lý sự của đứa nào cũng đúng. Nhưng có một điều hai đứa không tranh cãi mà đều thống nhất: Có bố, có mẹ mới có tôi và “nó”. Tuy hai là một.
Nhưng tất cả đó là chuyện hồi tôi mới sinh ra. Còn bây giờ tôi đã là thằng Thừa gần bốn tháng tuổi. Hàng ngày bố bận trông nom việc sửa chữa ở xưởng và viết biên lai cho thuê xe kéo. Thi thoảng có người mang ếch, rắn hay các loại động vật rừng đến bán thì mua. Việc mua, bán lẽ ra là của mẹ, nhưng mấy hôm nay dì về quê, không có ai nấu cơm cho thợ. Chị cả bận thu mua gom nhặt rắn ở các làng. Các anh chị trên tôi đi học, còn một người anh sát tôi gần ba tuổi động tý là lỏn tỏn đi chơi.
Gần trưa, cho tôi bú no, mẹ đặt tôi vào tấm mền chăn cuốn tôi lại như tổ tò vò, lấy gối kê hai bên để khỏi lật người lẫy ngã xuống đất. Tôi trằn người uốn éo không đồng ý. Mẹ vỗ vỗ vào vai tôi rủ rỉ: - Cu Thừa ngoan hỉ, nằm đây trông nhà cho mẹ hỉ, mẹ gọi anh về chơi với con hỉ.
Mẹ đi rồi, trong nhà vắng lặng, chỉ còn nghe tiếng “cục cịch... cục cịch...” từ trên xưởng vọng xuống. Ở trên ấy người ta suốt ngày cục cịch, chan chát chói cả tai. Mặc dù mẹ đã đội cho tôi cái mũ trùm kín cả tai mà tiếng động vẫn lọt vào. Tôi rất muốn ra xem mọi người làm nhưng lại nhớ lời mẹ dặn: Nằm đây trông nhà cho mẹ. Vả lại, tôi mới được mấy tháng tuổi làm sao đã đi được! Tôi đành “trông nhà” đúng ý mẹ tôi vậy.
Với con mắt của tôi thì nhà tôi rộng thênh thênh, vút hết tầm mắt mới nhìn thấy chiếc tủ đứng sát tường. Trên nóc tủ treo cái đồng hồ quả lắc. Từ hôm ra đời tôi chỉ nghe nó gõ chuông chứ chưa biết nó có thể đung đưa như thế kia. Ngắm chán, tôi quay nhìn phía dưới: một chiếc bàn học kê ở góc nhà, mực tím dây nhoe nhoét; mặt bàn có một ống cắm bút và lọ mực cổ loe bằng sứ trắng, miệng cũng loang lổ mực. Cạnh đấy là chồng sách, tôi định ngó đọc nhưng chợt nhớ mình đã biết chữ đâu! Tôi ngước trông lên ban thờ: Một bức hoành phi treo ngang to như cánh phản sơn son thếp vàng có ba chữ nét ngoằn ngoèo rối mù. Hai bên, mỗi bên treo áp tường một câu đối nhỏ, nền đen chữ vàng. Chính giữa kê chiếc hòm gian chân cao kiểu nông thôn chứa thóc. Nửa phía trong mặt hòm đóng ván liền đặt ngai thờ và đôi chân nến sơn son. Dưới chân ngai đặt ba bát bình hương, cạnh đấy xếp bộ chén thủy tinh và một chồng chục bát sứ Giang Tây. Nửa mặt hòm ngoài là nắp; mở lên là nắp, sập xuống là nơi đặt mâm ngũ quả hoặc bày cơm cúng. Tôi thì có cho kẹo tôi cũng ứ mở nắp cái hòm ấy! Độc giả có muốn biết tại sao không? Xin trả lời ngay: Nông thôn lấy hòm làm kho chứa thóc, nhà giàu lấy làm kho chứa của, nhưng nhà tôi dùng hòm: Trên làm bàn thờ, trong hòm làm kho nhốt rắn.
Vâng! Đấy là nơi chứa, nuôi dưỡng loài rắn độc nhất hạng. Những con rắn hổ mang chúa - Loại rắn quí nhất trong các loài rắn, bố nhốt vào đấy để chờ xuất buôn sang Hồng Kông.
Nhiều lần lựa rắn, phân loại, mẹ phải đứng áp sát vào thành hòm mới thò tay xuống được. Eo ơi, cái đầu con rắn hổ mang bình thường nhỏ như đầu quả chuối ngự, nhưng khi thấy động nó phản ứng, cong mình phè mang ra rộng hơn bàn tay người lớn, hai lỗ mũi đỏ nọc, lưỡi đen xịt phóng ra, thụt vào nhanh như chớp, miệng phun nghe rõ tiếng “phì... phì...”. Trông nó, tôi phát khiếp! Nó luôn luôn di chuyển, đuôi liên tục cử động ngoằn đi ngoằn lại; cái đầu nhô ra thụt vào sẵn sàng mổ bất cứ lúc nào, vào bất cứ chỗ nào... Nhưng mẹ coi chúng chẳng là gì cả! Muốn bắt con nào mẹ túm trúng con đó. Nhưng thôi, chuyện về rắn xin bạn đọc kiên trì theo dõi, tôi sẽ kể vào những chương sau. Bây giờ, xin được trở về với nhiệm vụ “trông nhà” mẹ tôi giao.
Kê trước cái “kho” rắn là chiếc phản hai mảnh bằng gỗ sung bố vớt được từ nạn lụt năm Ất Dậu (1945). Bộ phản được đóng ghép hình khuôn tranh, quét sơn ta thay bàn uống nước, hút thuốc. Đây là chỗ tiếp khách hoặc lúc rỗi bố cùng mấy người bạn chơi tổ tôm, chơi chắn.
Trong những đồ vật trong nhà, cái giường nơi tôi đang nằm quý hơn cả. Nó được gọi là giường Tây, màu cánh gián, chân tiện cầu kỳ, hai đầu giường lắp con song gỗ tiện thắt cổ bồng và những vòng tròn nối tiếp chồng nhau. Có lần mẹ kể cái giường được mua tận Hải Phòng nhân một chuyến mẹ được lái buôn người Khách đặt mua ba nghìn rắn các loại, hơn vạn ếch, gần nghìn con ba ba, chưa kể bao nhiêu tắc kè và tê tê.
Nhưng đấy là chuyện của hơn chục năm về trước rồi. Bây giờ cái giường đã cũ, mộng rơ rão, bộ giát gỗ đã mọt được thay bằng bộ giát tre do ông ngoại ken ở dưới quê gửi lên. Nhưng dẫu sao, cái giường vẫn là đồ kỷ niệm tự hào của mẹ. Bởi tất cả anh chị em cùng mẹ với tôi đều ra đời trên cái giường ấy.
Tôi bỗng muốn tè... Sao mẹ đi lâu thế nhỉ? Tôi đã “trông” nhà chán rồi mà chẳng thấy ai về. Không lẽ mọi không biết còn có tôi hay sao mà đi vắng cả? Tủi thân, tôi chực khóc... Chợt có tiếng chân “bịch... bịch...” chạy vào và một tiếng “òa” rõ to. Tôi giật mình, cái “ngẩu” đang ngổng vọt cả nước ra trước khi tôi nhận ra đấy là anh trai sát tôi. Anh ùa vào xoăn xoe đưa tay vuốt vuốt má tôi miệng xuýt xoa: Ăn tơi tới tu té, ăn tơi tới tu té. Có mấy câu: Anh chơi với cu nhé, anh chơi với cu nhé. Mà ngọng líu ngọng lô. Tôi lại càng khó chịu vì anh gọi tôi là cu. Hơn nhau có ba tuổi mà ra dáng! Tôi là thằng Thừa! Nguyễn Văn Thừa nghe chưa?
Nhưng hình như anh không để ý tới thái độ của tôi: - Ăn tể tuyện té, anh tể tuyện té - Tôi phải luận mãi mói hiểu anh muốn nói: - Anh kể chuyện nhé, anh kể chuyện nhé. Nghe anh gạ kể chuyện, tôi quên ngay việc anh gọi tôi là cu, quên cả việc anh nói ngọng. Cho dù anh nói ngọng tôi cũng nghe. Tôi vốn mê chuyện ngay từ lúc lọt lòng rồi. Ngoài những lời hát ru, tôi được kể cho nghe bao nhiêu chuyện cổ tích. Mấy hôm nay dì về quê ngoại không có ai kể tôi nhớ lắm, nhưng không biết vòi ai, may bây giờ có anh.
Tôi nằm im chờ đợi... Chờ mãi không thấy gì, quay lại, tôi thấy anh đang chăm chú mê mải nhìn ra ngoài sân: nơi có chuồng chim thi hội của bố. Ngoài cửa chuồng, một đôi chim đang gù nhau. Tôi sực nhớ anh trai rất mê chim và các loại thú. Tôi động động chân có ý nhắc anh về lời hứa. Anh quay lại đưa bàn tay nhỏ xíu ôm lấy mặt tôi, ghé sát vào tai thì thầm:
- Ăn tể tuyện té, ăn tể tuyện té.
6. 
- Mùa xuân năm Mậu Thân, khi bố em đang chiến đấu ở phía đông thành cổ Quảng Trị thì em cất tiếng chào đời.
Mẹ kể: - Trước khi nào chiến trường bố được về thăm nhà một ngày. Mọi người trong nhà cảm thông tình cảnh bộ đội lén đi chơi để dành thời gian cho mẹ và bố. Chín tháng sau khi bố vào chiến trường con ra đời.
Như vậy, em sinh ra cũng do chiến tranh. Nhưng chiến tranh là gì, hình thù nó ra sao em không biết! Được bảy tuổi em cùng các bạn học lớp hai trường làng cầm hoa, vẫy cờ đỏ sao vàng tưng bừng hát bài hát: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.
Về đến nhà mẹ ôm ghì chặt em vào lòng reo: - Chiến thắng rồi con ơi! Hết chiến tranh rồi con ơi! Mẹ con mình hết khổ rồi... nay mai bố sẽ về...
Mẹ mừng như điên dại, nước mắt đầm đìa, mí mắt sưng mọng.
Biết bao người khóc như mẹ.
Em là đứa ít nghĩ từ nhỏ. Em vui với niềm vui của mọi người; hát cho mọi người biết mình biết hát; hô theo lời hô của người lớn bảo hô; mẹ khóc em khóc theo mà chẳng hiểu vì sao mình khóc.
Ừ, em nghĩ: Hết chiến tranh bố sẽ mang chiến thắng trở về, có gì mà phải khóc?
Anh ạ! Nào em có biết chiến tranh hay chiến thắng là thế nào đâu? Em mường tượng chiến tranh chắc giống như hồi làng Quyết Chiến vác cuốc, xẻng, gậy gộc ra đánh nhau với làng Quyết Thắng để tranh chấp thẻo đất gần đồi Thanh Tước. Còn chiến thắng? Em nghĩ nó giống như làng Quyết Chiến thắng kiện giành được thẻo đất ấy! Tuy vậy, dân làng Quyết Thắng không phục, trong lòng căm lắm! Họ chửi đổng:
Làng chúng bay cậy có người nhà làm trên huyện “quân sư” chứ phải trái cái nỗi gì.
Em lơ mơ vậy đấy. Nói anh đừng cười, trong mắt em không tồn tại sự đau khổ, mất mát. Em được sinh ra giữa một vùng quê nghèo nàn lạc hậu thâm căn cố đế do hủ tục phong kiến bao đời để lại. Lũy tre làng ru khúc hát êm ả, buồn thương cam chịu.
Thế rồi đến ngày bố em trở về. Đó là hồi cuối năm 1976, em đang ngồi học ở lớp. Người anh con bác em hớt ha hớt hải chạy ra xin phép cho em nghỉ học về trước.
Một ông mặt xám ngoét, tay chân lòng khòng, da vàng như xát nghệ; mặc quần áo bộ đội rộng thùng thình, chân mốc thếch đi dép cao su đen; mắt nhìn em không chớp.
Mẹ nhắc: - Chào bố đi con.
Em không chào. Đây là người nào lạ hoắc chứ không phải bố! Chắc mọi người đánh lừa, nói dối? Trong tâm trí em: Bố là người cao to, dáng vẻ hùng dũng, mặc quân phục trắng phau, phẳng lỳ, đeo tua rua mầu vàng lấp la lấp lánh. Một tay bồng súng, một tay vung lên như trong tranh duyệt binh chứ sao lại thế này?
Ông người lạ dỡ ba lô, lấy con búp bê tóc vàng, mặc váy xòe đưa cho em. Em hất tay làm con búp bê rơi bộp xuống nền sân gạch. Con búp bê kêu nhoe nhóe lăn hai vòng rồi ngửa mặt lên trời, mi mắt xanh lòe chớp lấy chớp để.
Mẹ đánh vào tay em mắng: - Linh! Sao con hư thế nhỉ!
Em bướng bỉnh: - Không phải bố của con!
Mọi người đến chơi cười ồ, còn mẹ lại mắng: - Con này hư tệ.
Ông người lạ độ lượng: - Thôi em, con nó chưa quen. Từ ngày anh đi đây là lần đâu tiên bố con gặp nhau mà.
Nói rồi ông nháy mắt với người anh họ. Người anh họ hiểu ý ra nhặt con búp bê rủ em ra đầu chuồng trâu ngồi xuống chân đống rơm. Anh đưa cho em con búp bê:
- Bố của em đấy! Bố chiến đấu ở miền Nam bị bệnh sốt rét vàng da, bị ngã nước nên da mới vàng và ủng thế! Nhiều người bị lắm, không phải chỉ có một mình bố em đâu!
Em nguôi ngoai dần. Trẻ con mà anh! Dễ giận, mau quên. Nhưng lúc ấy, quả thực em thích con búp bê nhiều hơn là thích bố. Lúc đầu, nhìn nó em ghê ghê, nhưng nhìn mãi thành quen, quen lại thích. Thích vì nó biết chớp mắt, biết kêu tiếng người. Phần thích nữa là vì trẻ con trong làng cùng lứa với em không đứa nào có. Tụi nó xúm đến nịnh để được em cho bế ru hời. Con búp bê thành đứa con chung của lũ trẻ con trong làng mà em là chủ nhân. Em có quyền cho đứa này bế, không cho đứa kia động vào.
Cũng chính vì con búp bê mà khoảng cách xa lạ giữa bố và em được xóa bỏ. Chiều, lúc ăn cơm, em dạn dĩ ngồi giữa mẹ và bố. Bố gắp thức ăn, lấy tay xoa mớ tóc bù xù cứng queo của em khen: - Nay mai lớn lên Linh của bố xinh lắm.
Tối, bố ngồi ở tấm phản kê giữa nhà bế em trên lòng. Con búp bê nằm trên ngực em thi thoảng kêu nhe nhé. Mọi người sang chơi ngồi xung quanh, chật quá phải ngồi cả ở bậu cửa, trải chiếu ngoài hè.
Em bỗng thấy tự hào vì mỗi mình mình được nằm trong lòng bố. Em đưa tay xoa xoa cái cằm gầy tóp, sạm xì, đen đúa và lởm chởm râu ria của bố. Bố vừa nói chuyện với mọi người vừa lấy tay vỗ về cho em ngủ.
... Em chợt thức giấc vì có ai thúc vào người và tiếng nói lào thào bên tai. Mở mắt: nhà tối om! Em cố nhớ xem mình đang ở đâu... Mọi người đến chơi ra về từ lúc nào không biết. Em đang nằm trong giường - vẫn chỗ mọi khi! Nhưng sao hôm nay giường chật chội thế này? Em định càu nhàu thì nghe thấy những tiếng thở đan xen hổn hển rồi giọng bố rên rỉ: - Anh... anh không thể... anh không thể...
Tiếng mẹ van vỉ: - Trời ơi sao lại thế này... anh ơi em chết mất... bao năm em chờ... trời ơi là trời...
Tiếng bố trăn trở rền rẫm: - Không thể... không thể... không được đâu em ơi... anh không thể... anh không thể....
Trộn lẫn trong tiếng thổn thức thầm thì tuyệt vọng là hành động cào cấu của mẹ; sự vật vã đau đớn của bố... em nghe tiếng mẹ bật khóc...
Em chưa hiểu vì sao bố mẹ lại vậy. Nhưng em lơ mơ biết đây là điều hệ trọng xảy ra của những người đã lớn. Em chợt nhớ những lần đi thả trâu nghe tụi trẻ chăn trâu nói những điều bậy bạ: gán đứa nọ với đứa kia. Tụi lớn đưa nhau vào bãi tha ma giữa cánh đồng bày trò chơi vợ vợ chồng chồng. Em còn bé nên chỉ được đóng vai làm con, tò mò nhìn thì bị mắng:
- “Con”! Nằm im! Đừng phá rối giấc ngủ của “vợ chồng” tao.
Sợ chúng nó không cho chơi, em ngả người xuống bờ cỏ giả vờ ngủ nhưng lúc lúc hé mắt ra nhìn... Những đứa sắm vai vợ chồng nằm ôm nhau, nói với nhau những lời âu yếm, nũng nịu, hái hoa đồng nội cài lên đầu làm cô dâu. Đứa con gái gối đầu lên tay đứa con trai; đứa con trai lấy tay rờ rờ vào ngực đứa con gái; đứa con gái vắt tay che mặt giả tảng như che ánh mặt trời, cả hai cười khúc kha khúc khích.
Em nhìn tụi nó bỗng dưng thấy ngượng, nửa muốn nhìn, nửa muốn quay đi. Tuy vậy, trong lòng tự nhiên xuất hiện một tình cảm khó tả. Háo hức, ước mau lớn để được chơi trò vợ vợ chồng chồng như thế.
Bỗng mẹ vùng dậy vén màn rời khỏi giường. Tiếng bước chân thình thịch lẫn tiếng tức tưởi. Bố nhỏm dậy. Em vờ ngáy khe khẽ như người đang ngủ say. Bố ra khỏi giường, gài lại màn, lặng lẽ đi đến chỗ mẹ ngồi.
Dưới ánh trăng, mẹ ngồi như bất động trên bậc thềm. Lưng dựa cột, đầu gục xuống, mái tóc xõa xượi. Bố nửa ngồi nửa quỳ ôm lấy mẹ, bàn tay ve vuốt nơi bờ vai, cằm dụi dụi vào cổ, vào tai mẹ. Y như tụi trẻ chăn trâu chơi trò vợ chồng ngoài bãi tha mẹ.
Chợt có tiếng khóc. Tiếng nức nở, nghe đầy oan ức, dằn vặt. Bố đập đầu cộp cộp xuống thềm hè. Mẹ quay lại cuống quýt:
- Thôi anh... thôi anh... em xin anh... em qua rồi... em chịu được... vài bữa nữa em ra phố cắt thuốc chữa cho anh... rồi anh lại như xưa... anh sẽ cho em một đứa con trai...
Bố rên rỉ, nghẹn ngào: - Không... không... không bao giờ được nữa đâu em... không bao giờ... anh đã là người đàn ông bất lực suốt đời rồi em ơi...
Bố mẹ ôm lấy nhau, tiếng khóc ôm lấy nhau, ánh trăng bạc và màn sương trắng đêm mùa thu hòa quyện phủ lên hai người.
Tiếng khóc và nỗi đau khổ trong đêm gặp gỡ đầu tiên sau bao năm xa cách, chờ đợi của bố mẹ hằn sâu, đeo đẳng mãi trong lòng em. Nhưng lúc ấy em chưa hiểu và thậm chí còn ngây ngô tự hỏi:
- Bố mang chiến thắng trở về mà sao hai người vẫn khóc?  
7. Sau mấy câu: Ăn tể tuyện té, ăn tể tuyện té, ngọng líu lô, anh trai trèo lên ngồi cạnh tôi liến láu kể: Sau này, anh còn kể nhiều lần câu chuyện đó, đến mức tôi gần như thuộc những chuyện anh kể.
“Anh nhớ dạo ấy vừa tết xong. Không hiểu vì sao các trường học đều bị đóng cửa. Các anh, chị đang đi học phải nghỉ ở nhà. Ngoài đường rặt dân tứ xứ lang thang từ đâu đến xin ăn. Hàng ngày bố đóng cửa hiệu không dám mở.
- Không phải bố mẹ ác đâu! Làm phúc mãi rồi nhưng đông người ăn xin quá! Cho hết thì nhà mình lấy gì mà ăn? Chết đói lây à? Mặc dù có cửa hiệu cho thuê xe, có cửa hàng buôn bán các loại động vật đấy, nhưng mấy năm nay xe kéo tay đóng ra để chất đống chẳng có ai thuê, trong chuồng hàng mấy trăm con rắn không bán được; ếch, lươn, ba ba, kỳ đà nhốt lâu trong chuồng chết dần.
Mẹ bảo: - Dưới Hải Phòng tư giấy lên không nhập hàng.
Bố nói: - Đường biển sang Hồng Kông đang đánh nhau, tàu buôn không dám ra khơi.
Sáng hôm ấy, mẹ mặc thêm cho anh cái áo, cho ti một bụng no rồi đặt anh lên lưng chị hai. Mẹ dặn:
- Trông em cho mẹ làm. Nhưng chỉ được chơi quanh quẩn ở nhà mình thôi. Mấy hôm nay người đói mạn xuôi lên đây xin chết đường chết chợ nhiều lắm, không được cho em ra phố đâu.
Mới đầu nghe mẹ nói ba chị em đều sợ. Nhưng lời dọa của người lớn thường kích thích trí tò mò của trẻ con. Chị hai dỗ dành chị ba: - Em ở nhà, chị cõng cu con đi một lúc rồi về ngay.
Chị ba giãy nảy: - Em ứ vào! Chị không cho em theo, em mách mẹ.
Biết có nói gì chị ba cũng không chịu, chị hai liền bảo:
- Được rồi, có im ngay không? Không im chị nhốt vào buồng không cho theo bây giờ.
Khuôn mặt chị ba hớn hở vì biết lời dọa của mình đã làm cho chị hai đổi ý.
Chị hai xốc anh lên nhìn chị ba đe: - Chị cho hai đứa theo, nhưng cấm đứa nào mách lẻo. Đứa nào hở ra lần sau đừng có trách!
Chị ba và anh im thít! Chị hai nói là làm! Đừng có lơ mơ.
Chị hai cõng anh đi trước, chị ba lỏn cỏn chạy theo. Cả bọn tuồn theo lối đằng sau. Mở cổng vườn tụt xuống chân đồi, men theo con đường nhỏ sát cánh đồng. Đây là con đường riêng của lũ trẻ con phố Đệ Nhị. Mùa mưa, nước trong các phố dồn xuống chảy cuồn cuộn. Tụi anh lấy giấy gấp thuyền thả xuống nước, nhìn thuyền trôi reo hò ầm ĩ. Mùa đông lúa gặt hết, những thửa ruộng trơ lại gốc rạ, mặt đất nứt chân chim. Tụi con trai lớn lấy giẻ cuốn lá chuối khô làm bóng đá hoặc chơi khăng, đánh đáo; bọn con gái chơi nhảy dây hay túm tụm đọc sách, kể chuyện; những đứa bé hơn tha thẩn tuốt mầm lúa nhử bắt cồng cộng.
Phía sau phố, vườn các nhà rào bằng cây sậy hoặc nứa tép. Nhưng rào làm sao được lũ trẻ con? Tụi anh muốn vào nhà nào chẳng được! Đi đến đâu cũng chỉ cần nhìn hay ngửi mùi là đã biết chỗ ấy là nhà ai. Này nhé: Đằng sau nhà mình thối khẳm vì xác các loại súc vật chết ngâm trong hố. Sau nhà hàng xay, hàng xáo mùi chua loét vì vỏ trấu với bao tải mục. Mấy nhà làm nghề thợ mộc vỏ bào, mùn cưa đổ tràn đến nỗi hàng rào đổ nghiêng ngả. Nhưng thôi! - Anh chợt bảo:
- Bao giờ lớn đi chơi em sẽ biết! Còn bây giờ anh chỉ kể cho em nghe những chuyện em chưa biết mà thôi.
Rồi anh tiếp tục kể:
- Bọn anh phải leo một đoạn dốc mới lên được chỗ ngã tư: Một đường rẽ trái sang dinh Tuần phủ; Một đường rẽ phải vào xóm Bái; phía trước mặt là phố Đệ Nhất; phía sau lưng là phố Đệ nhị nhà mình - Cả tỉnh Phúc An có ba phố chính. Những phố này là do bọn Pháp đặt tên. Mãi khi cướp được Chính quyền, quân mình mới đổi tên phố như bây giờ em hiểu chưa?
Giảng giải cho tôi xong anh tiếp tục:
- Chị hai nhìn xuôi, nhìn ngược, nhìn phải, nhìn trái... ngần ngừ một chút, chị quyết định dẫn bọn anh đi về phía phố Đệ Nhất để ra chợ. Chắc chị muốn đưa bọn anh vào chợ tìm người chết đói để xem đây! Anh nghĩ vậy.
Phố Đệ Nhất vắng tanh vắng ngắt. Nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa. Ven hai bên hè đường, xen giữa những hàng cây cao du um tùm lá xanh, vài cây bàng gốc xù xì, vỏ mốc trắng loang lổ, khô khốc; từng quầng cành khẳng khiu chìa ra, đầu ngọn những chồi non mơn mởn đang nhú... vài chùm lá từ năm ngoái còn sót lại chạt nốt rỗ tím thẫm trên mặt phiến lá đỏ, to như cái quạt. Mỗi lần gặp gió cái quạt vẫy phần phật như muốn bứt khỏi thân cành.
Anh nhớ có lần được chị hai cõng đi chơi, gặp những tốp lính đội mũ chào mào, chân đi giày nện xuống đường ầm ầm, miệng hô: “Ốt, ay... ốt, ay...” chộn rộn cả đường phố. Nhưng sao hôm nay tịnh không thấy một toán lính nào? Cảnh binh canh đường cũng chẳng có! Tụi anh sợ mấy ông cảnh binh này lắm! Đầu đội mũ rộng vành, quần soóc, áo cộc tay màu vàng; phanh áo ngực đầy lông xoăn tít, rậm rì rậm rịt, có người râu quai nón vàng ruộm; mặt đỏ tía như da gà chọi, tay lăm lăm dùi cui, mồm xà xà, xồ xồ loạn xì ngậu, lúc lúc đưa còi lên miệng thổi “toét, toét”.
Chợt chị hai hỏi: - Mẹ bảo ở đâu có người chết nhỉ?
Nghe thấy tiếng “chết” chị ba rụt rè: - Hay đi về đi chị ơi.
Chị hai cáu: - Mày về thì về một mình! Tao không về! Bám theo bằng được bây giờ lại còn... - Bỗng chị quay lại giật giọng: - Bây giờ em đi hay về?
Chị Ba mím miệng lí nhí trả lời: - Em... em đi.
Chị hai nói: - Được! Đi thì đi nhưng cấm được đòi về.
Chị ba xịu mặt: - Vâng - Rồi chị sậm sùi lùi lũi bước.
Đi gần tới nhà thờ Thiên chúa giáo chị hai bảo chị ba: - Đi sát gần chị. Đi với chị không đứa nào phải sợ cả! - Chị buông một tay đang đỡ đít anh nắm lấy tay chị ba.
Tít trên cao, bầu trời xám xịt, mây đùn mây thành từng đụn trôi về phía dãy núi Tam Đảo. Gió se lạnh. Đường phố vẫn không một bóng người qua lại. Chị ba đi sát vào chị hai, hai chị nắm lấy tay nhau. Còn anh, ung dung ngồi trên lưng; vừa nghĩ tới con ngựa mầu hồng và lão người Tàu có hiệu bán thuốc ở phố Đệ Tam. Thi thoảng lão ta cưỡi ngựa đi qua cửa nhà mình. Chân gã Tàu ô xỏ giày cổ dập dập theo nhịp. Vó ngựa gõ lên mặt đường lộp cộp, lục lạc đeo ở cổ ngựa kêu leng keng.
Ngồi trên lưng chị hai, miệng anh “Aaaaa...” hai chân nhong nhong có cảm giác mình đang cưỡi ngựa nghe nhạc như lão Tầu ô vậy.
Khi đi ngang qua hè nhà thờ, cả ba chị em ngước nhìn: Hai cánh cửa sơn màu xanh hình khum đóng im ỉm. Nóc nhà thờ cao vút. Trên đỉnh, một cây thập tự gắn tượng Chúa Giêsu cởi trần, cả thân người Chúa ưỡn về phía trước, cánh tay dang ra treo trên thanh ngang; đầu Chúa rũ ngoẹo, chân Chúa một thẳng, một co; mặt Chúa nhăn nhúm, đau khổ, nhẫn nhục... Năm vết thương trên thân Chúa máu tím bầm; to và đỏ nhất là vết ở ngực. Nếu không có cây thập tự giữ lại, anh chắc ông ấy sẽ bị rơi xuống đất. Ngay phía dưới, trên nóc vòm, một cuốn sách to đùng, đứng nghễu nghện, có viết chữ nhưng anh không biết đọc.
Chị ba vừa đi vừa ngóc cổ lên nhìn, hai chân lập cập vấp phải chân chị hai. Chị hai càu nhàu: - Đi đi, nhìn gì?
Chị ba hỏi: - Ông ấy còn sống không hả chị?
Chị hai hỏi: - Ai?
Chị ba chỉ tay lên cao: - Ông kia kìa.
Chị hai bật cười: - Tượng sống thế nào được!
Chị ba lại hỏi: - Thế quyển sách viết gì?
Chị hai đọc liến láu: - “Hãy tin Chúa Giêsu thì được cứu rỗi”. Có thế mà cũng không biết! - Chị bĩu dài môi chê lũ em chưa đi học không biết chữ.
Đi qua nhà thờ một đoạn, bọn anh gặp một ngã ba: Một đi thẳng, một rẽ phải. Chị hai dùng lại ngần ngừ chưa biết nên đi thẳng hay rẽ. Đường nào cũng dẫn đến chợ, nhưng đi thẳng sợ gặp cảnh binh, rẽ sang đường vòng sợ phải đi qua chùa Thập Phương. Chợt nghe tiếng chị ba kêu:
- Đằng trước có người chị ơi!
Trước mặt, cuối phố Đệ Nhất, một toán chừng ba, bốn người đang đi lại về phía bọn anh. Anh nghển cổ để nhìn cho rõ nhưng chỉ thấy loáng thoáng vì vướng vai chị hai. Không nói không rằng, rất nhanh, chị xốc anh, dắt chị ba rẽ xuống mé đường bên phải. Đi được một quãng, gần tới lối vào chùa, cả bọn quay lại nhìn: Không ngờ tốp người ấy rẽ xuống cùng đường với bọn anh. Chị hai giật tay chị ba: - Trốn vào chùa Thập Phương.
Có lần mẹ nói: - Chùa Thập Phương của một gia đình giàu có xây dựng để tu nhân tích đức cho kiếp sau.
Chị nhớn kể: - Trong chùa có hai ông tượng - Một ông tượng Thiện, một ông tượng Ác. Ông Thiện người gầy, mặt hiền lành hay chia oản cho trẻ con. Ông Ác to béo, mặt dữ dằn hay bắt những kẻ đến quậy phá, lấy cắp đồ vật của chùa. Ngoài ra còn có một ông người thật trông coi vườn chùa. Ông người thật này còn dữ hơn ông tượng Ác trong chùa. Ông rất thích mổ bụng trẻ con.
Cổng chùa không đóng, sân chùa vắng tanh. Bọn anh đứng thập thò ở cổng chờ bọn người đi qua sẽ ra. Không ngờ bọn người lại rẽ theo lối vào chùa. Cứ như là họ biết và đuổi theo bọn anh thì phải? Thấy vậy, chị hai lập tức ra lệnh:
- Núp vào đằng sau chùa!
Bọn anh lách rất nhanh qua các bụi chuối ở vườn sau. Sau chùa, có một cái bể hứng nước mưa, cạnh đấy có cây ổi rõ to, tán lá xòe xoẹt che cả một khoảng vườn và nửa khoảng sân, cành nào cành nấy trĩu trịt quả là quả. Giá như không có người thì thể nào bọn anh cũng phải trèo lên hái. Nhưng bây giờ thì không được! Chị hai kéo chị ba ngồi thụp xuống. Thành bể giáp với đầu hồi chùa tạo nên một góc rất kín; đầu phía bể bên kia sát nhà ngang dành cho khách thập phương ở lại qua đêm.
Bọn người đi phía đằng trước ngôi chùa nhưng không vào chùa chính đặt lễ thắp hương mà đi thẳng xuống nhà ngang. Qua khe giữa thành bể và tường, bọn anh nhìn thấy bọn họ, nhưng bọn họ không nhìn thấy bọn anh. Đi đầu là một người nhỏ thó, mặc quần áo ka ki như ông ký ga thi thoảng ghé vào cửa hiệu nhà mình tán chuyện gẫu với bố ấy! - Anh ví cho em hiểu thế, chứ không phải là ông ký quen với bố đâu!
Giảng giải thêm cho tôi hiểu rồi anh kể tiếp:
- Đầu ông ta đội mũ rộng vành, phía đằng trước kéo cụp xuống nên anh không nhìn rõ mặt. Tay ông ta cầm cái bao mầu gụ. Người đi sau cao hơn, tóc chải rẽ ngôi, khuôn mặt bảnh chọe như cậu Phán con cụ Lý làm ở tòa Sứ hay đến ve vãn cô Đào con ông Đồng Lợi phố ta! Tiếp nữa là một người đàn bà trạc tuổi mẹ. Mặt người đàn bà đẹp như tranh Đức Mẹ treo trong nhà thờ hôm lễ Nô-en chị nhớn bế anh vào xem - Người đàn bà mặc quần áo theo lối mới chứ không mặc quần áo như mẹ hay dì đâu! Cái cổ áo có hai miếng chìa ra như tai con chó vàng nhà lão bếp nấu cơm trên dinh cụ Tuần. Hàng cúc màu đen to bằng đồng xu con trẻ làm cái đáo. Còn phía dưới thế nào thì anh không kịp nhìn vì bà ấy và đám người đã khuất sau cánh cửa. Nhưng còn người nữa đâu nhỉ? Lúc nãy có bốn người cũng đi cơ mà? Hay người ta vào thắp hương? Chắc không phải! Nếu thắp hương thì cả mấy người cùng vào chứ sao lại đi một mình? Anh đang không hiểu thế nào thì chị hai nói nhỏ:
- Đi ra đi!
Lúc vào bọn anh đi rất nhanh vì sợ bị phát hiện. Nhưng đến khi ra mới biết đường khó đi - Một bên sát với hàng rào trồng dứa dại; những chiếc lá đầy gai móc áo níu người, một bên sát tường hậu chùa rêu nhẽo nhợt, nền đất dưới chân mấp ma mấp mô... Chị hai nhắc: - Cẩn thận không giẫm phải gai.
Vừa thò mặt ra khỏi bức tường hậu, chị hai giật thót người lùi lại. Cái giật lùi làm chị ba ngã bổ ngửa ra đằng sau. Chị hai quay lại buông một tay đang ôm đít anh ra bịt lấy mồm chị ba, quát khẽ: - Im! Có người!
Chị ba ú ớ chưa hiểu ra làm sao thì chị hai trỏ tay về phía cổng chùa ra hiệu...
Thì ra cái người đi cùng bọn họ đứng canh gác ở ngoài cổng chùa. Ông ta quay lưng vào chùa, mắt dán vào hai cánh cổng khép hờ nhìn ra đường.
Thế là bọn anh không có đường thoát ra ngoài.
8. Tiếng “queng... queng...” từ quả bom câm treo trên cây mít trước cổng làng dóng dã thả từng nhát. Âm thanh kết nối thành từng chuỗi ngân nga lan tỏa khắp làng. Ngày nào như ngày nào - Sáng: Bốn giờ ba mươi; trưa: Mười một giờ rưỡi; Chiều: Mười ba giờ; tối: Mười tám giờ - Quả bom câm theo lệnh chiếc búa ba cân trong tay ông chủ nhiệm hợp tác xã Quyết Chiến lên tiếng. “Ông Chủ nhiệm như chiếc đồng hồ sống”, đó là lời cửa miệng của người dân trong làng thường kháo nhau. Suốt từ ngày ông làm chủ nhiệm, chưa một buổi nào ông điểm sai giờ. Nhịp điệu rõ ràng, minh bạch, giờ giấc ruýt chằn chặn.
Chỉ có thời kỳ chiến tranh giặc Mỹ đánh phá miền Bắc quả bom làm thêm nhiệm vụ báo động máy bay đến, báo an may bay đi.
Mặc dù nằm trong vùng trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ nhưng làng Quyết Chiến chưa bao giờ bị máy bay đánh trúng. Bom rơi đạn nổ mới chạm tới đầu làng thì Mỹ phải ký hiệp định ngừng ném bom miền Bắc. Chuyện đáng nhớ nhất là cái đận cả làng tìm bắt phi công bị bắn rơi. Đó là hồi cuối năm bảy hai (1972) trong đợt 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”. Nửa đêm, một chiếc B52 bị không quân ta bắn cháy, văng thành hai mảnh. Phần đầu cắm xuống sông Cà Lồ, phần đuôi rơi giữa cánh đồng. Trên trời một cái dù đeo người lơ lửng bị gió tạt về phía đầm Vực nằm giữa hai làng Quyết Thắng và Quyết Chiến.
Ông Chủ nhiệm kiêm Xã đội trưởng dân quân Quyết Chiến nện búa vào quả bom câm không thương tiếc. Vừa nện ông vừa hối thúc:
- Khẩn trương tìm bắt giặc lái Mỹ... khẩn trương không làng khác bắt mất... không được để xổng... phải lấy công cho làng mình... bắt được cấp trên sẽ tặng bằng khen... những người có công được thưởng Huân chương... khẩn trương... khẩn trương...
Cả làng nháo nhào ùa ra. Già, trẻ, trai, gái, người lớn, trẻ con, tuốt tuồn tuột có mặt. Có tiếng hỏi:
- Giặc lái Mỹ ở đâu?
Ông chỉ huy chỉ lên trời rồi hạ tay chỉ ngang:
- Ở kia chứ ở đâu.
Mọi người xô nhau chạy ra đầu làng. Hàng trăm khuôn mặt ngửa nhìn lên: Tiếng máy bay gầm rú, pháo sáng từ trên trời soi rõ mồn một từng thước ruộng, từng con người. Ai cũng háo hức chờ phi công rơi để bắt.
Bỗng có tiếng hô:
- Thằng giặc lái rơi xuống Bãi Giữa ở đầm Vực rồi, bơi ra bắt đi các đồng chí ơi... Không nhanh lên làng Quyết Thắng bắt mất.
Nghe vậy, tống chỉ huy làng Quyết Chiến quăng vội cái búa xuống đất, xốc khẩu K44 lên vai, Âm thanh kẻng còn đang ngân nga ông đã nhảy vọt lên trước đoàn người, phóng qua cánh đồng, đến bãi tha ma, chọn cái mả cao nhất nhảy phắt lên. Bóng ông lừng lững oai nghiêm in trên nền trời. Ông như võ tướng!
Đúng ông là võ tướng! Võ tướng của đội quân làng Quyết Chiến! Quần túm khoeo, áo bông Bát lộ quân Trung Quốc, mũ tai bèo quân Giải phóng miền Nam, tay trái cầm ngang khẩu súng, tay phải giơ lên trán xoay người quan sát.
Ông nhìn sang phía làng Quyết Thắng, thấy có bao nhiêu người đang chạy về phía đầm Vực - Cái đầm ngăn cách và là biên giới giữa hai làng từ bao đời. Là bãi “chiến trường” để kẻ chăn trâu và dân chúng hai làng xăm xe rình nhau từng miếng một.
Ông lập tức ra lệnh:
- Tất cả dân làng theo lệnh tôi! Các đồng chí dân quân tiến lên! Phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm, vì danh dự của cả làng, chúng ta quyết chiến đấu để giành lấy thắng lợi.
Đáp lại lời ông là cơn sóng người tràn tới. Vị tổng chỉ huy từ đỉnh mả nhẩy xuống, bàn tay ông hướng về phía đầm Vực.
Ông trở thành vị chủ soái thực sự của dân làng Quyết Chiến.
Trận giao tranh bắt đầu.
Tiếng máy bay trên trời vần vũ, ánh sáng từ những chiếc đèn dù tỏa rộng. Bên kia bờ, dân làng Quyết Thắng reo hò. Bờ bên này, dân làng Quyết Chiến hò reo. Cá đầm Vực lấp loáng, sương bay là là trải bạc trên mặt nước; từng bầy chim cư trú trong những bụi cỏ lác mọc trên bãi sình lầy nháo nhác bay lên.
Có tiếng gào lớn:
- Thằng giặc lái đang ở Bãi Giữa bà con ơi...
Tất cả, không ai bảo ai ầm ầm lao xuống đầm. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, miễn là biết bơi. Dân sống cạnh đầm Vực ai chẳng biết bơi! Họa chăng trẻ lên ba lên bốn mới không biết! Mà lên ba, lên bốn chưa biết thì năm, sáu tuổi phải biết. Biết bơi để khỏi bị chết đuối. Nhưng trước hết là để mò cua, bắt ốc, riu tôm, câu cá, quăng chài kiếm sống.
Đầm Vực như người thầy hướng dẫn môn bơi lội, lặn ngụp cho cả hai làng. Sự hữu ích giờ đây được phát huy tối đa cho công cuộc chống giặc ngoại xâm.
Tất cả chưa biết “mô tê” ra sao nhưng cứ nhảy đại xuống. Họ tin bơi ra được đến Bãi Giữa là bắt được giặc lái! Mục đích đã rõ! Cấp trên đã quán triệt, niềm phấn khích trong lòng người nhân lên gấp bội.
Chủ soái làng Quyết Chiến như con cá măng rẽ nước lao oan oát. Tất cả dân làng bơi theo ông. Dòng người tạo thành hình cánh cung nhằm Bãi Giữa lao tới.
Mé bên kia đầm, dân làng Quyết Thắng cũng vậy! Một đợt sóng hình mũi tên đối chiều vọt lên.
Bãi Giữa như lưng con rùa nằm nổi giữa đầm Vực. Như đầm mẹ: Có một cái tên cả hai làng cùng gọi. Nhưng chung tên mà không chung ý. Từ lâu, hai làng đã tranh giành nhau. Ra trước công đường làng nào cũng mang gia phả ra để chứng minh rằng đầm Vực và Bãi Giữa do Thành hoàng làng mình có công khai khẩn. Không bên nào chịu nhường bên nào. Vì vậy, đầm Vực như con thú hoang, những gì tự nhiên phát triển là tài sản chung của cả hai làng: Củ ấu, củ súng, cỏ lác, rong, rêu; tát vét, quăng chài bắt cá, đặt vó, nhữ tôm không ai cấm! Nhưng nếu có ý định chiếm hữu độc quyền là không được! Không bị phá ngày thì bị phá đêm. Làng này làm làng kia triệt.
Lúc này vị chỉ huy làng Quyết Chiến đã sang tới bờ Bãi Giữa, cả đoàn người theo sau dàn hàng ngang. Mé bờ đối diện dân làng Quyết Thắng cũng vậy. Không khí chùng xuống, không ai bảo ai tất cả đều im lặng khi phát hiện ra trên đỉnh Bãi Giữa có một chiếc dù. Không thận trọng sao được? Trước mặt là dấu vết quân thù để lại! Đã là quân thù hắn sẽ có vũ khí! Quân này ngoan cố lắm! Trên bàn đàm phán ở Pari chúng nó bí bức không trả lời được phái đoàn ta nên liều lĩnh cho máy bay B52 rải bom miền Bắc. Chúng ngạo nghễ tuyên bố: “... Đưa Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá...”. Vì vậy cần phải cảnh giác.
Sự căng thẳng hun nóng người, không ai để ý tới từng đợt gió mùa đông bắc ù ù thổi. Trên bầu trời những ngọn đèn dù tắt dần, cả đầm Vực chìm trong bóng đêm. Chợt vị chỉ huy làng Quyết Chiến dừng lại. Mọi người theo phản ứng dây chuyền cũng dừng lại. Vị chỉ huy căng mắt nhìn vào màn đêm đen, cái đầu của ông đang tính toán... Quay sang nói nhỏ với người bên trái, quay lại nói nhỏ với người bên phải, lập tức mệnh lệnh được truyền tới tận người cuối cùng.
Chừng như biết mệnh lệnh đã thông suốt, vị tổng chỉ huy hét lớn:
- Xung phong, tất cả dân làng Quyết Chiến tiến lên!
Đáp lại lời ông, đoàn người ào ào xông tới. Bên dân làng Quyết Thắng nghe tiếng thét chững lại... Rồi chợt hiểu ra ý định của đối thủ, tất cả vùng dậy lao lên phía trước không đợi lệnh của chỉ huy bên mình.
Tiếng reo hò vang dội. Cuộc tranh giành thực sự diễn ra khi hai đội quân tràn tới chiếc dù. Hàng trăm bàn tay tóm vào cố giật về phía mình. Chiếc dù bị căng ra bốn phía, có người cuộn vào người mấy vòng, có người xoắn vào tay ghì chặt xuống đất. “Toạc... toạc...”, không chịu được sức co kéo, chiếc dù bị đứt từng mảnh, nhiều thân hình lỡ đà ngã bổ ngửa.
Tách ra khỏi sự hỗn độn, vị chỉ huy làng Quyết Chiến dẫn theo hai dân quân lao về phía vùng sình lầy toàn cỏ lác. Bài tập huấn quân sự học được bây giờ mới có điều kiện thực hành.
Ba người thận trọng đi vào vùng cỏ mọc lút đầu. Nơi đây thiên nhiên giăng bẫy, bước chệch là bị hút xuống hố lầy. Chẳng thế mà đi ra ngoài Bãi Giữa dẫu là ban ngày phải có hai người cùng đi.
Trên đỉnh Bãi Giữa, dân hai làng vẫn say sưa với việc “giành giật chiến lợi phẩm”. Đám đông tạm quên mất nhiệm vụ tìm bắt giặc lái. Chỉ còn có ba người không quên. Họ lầm lũi dò dẫm, căng mắt quan sát. Đèn dù trên đầu họ tắt hẳn, mặt đầm Vực đen ngòm nhưng phía đằng đông vừng dương đã hé rạng báo hiệu một ngày mới bắt đầu.
Vị chỉ huy làng Quyết Chiến chợt dừng lại. Dường như ông đã phát hiện ra điều gì giữa cái bãi lầy lội ngút ngát lau sậy và cỏ lác. Hai chiến sĩ của ông quỳ thấp xuống giơ tay lên che trán.
Một cái bóng trông như người lấp giữa hai bụi cỏ. Nó đang có tư thế nhằm bắn. Ông khoát tay ra hiệu. Lập tức hai chiến sĩ theo hướng tay ông mở rộng vòng vây theo thế gọng kìm. Còn ông, ông nhận nhiệm vụ thu hút hỏa lực địch. Đây là lúc thể hiện bản lĩnh người chỉ huy. Vả, trong tay ông có súng! Vũ khí duy nhất của dân quân được trao cho ông. Gọi theo cách hoán dụ thì đây là “vợ” và “con” của ông. Trong thực tế, từ lúc ông được giao nhiệm vụ chỉ huy dân quân và được trọng trách giữ vũ khí, ông coi khẩu súng K44 và mười viên đạn hơn cả bà vợ chân lấm tay bùn và năm đứa con lít nhít của ông. Đêm ngủ ông ôm ấp, ngày thức ông quàng vai. Vợ con có lúc ông quên nhưng súng đạn bất ly thân.
Ông cho đạn lên nòng, tiếng quy lát rập đánh “roạt” làm ông vững tâm hơn. Ông trườn nghiêng, bùn nước bết vào da thịt làm toàn thân tấy lạnh, cánh tay phải rã rời vì phải nâng súng để cho súng khỏi dính bùn. Trong lúc đó, đầu óc ông cố nhớ lại những khoa mục đã học để ứng dụng. Ông ngoảnh sang nhìn hai chiến sĩ: Trong tay họ không một tấc sắt, nhưng lòng hừng hực lửa chiến đấu. Ông chỉ huy dành một phút để tự hào về những chiến sĩ của mình.
Còn cách chừng mươi mét, không ai bảo ai, ba mũi tiến công đứng lại, họ chỉ còn cách kẻ thù trong gang tấc. Vị chỉ huy khoát tay chồm lên hô lớn:
- Hen sấp... Giơ tay lên! Hàng thì sống chống thì chết!
Câu đầu ông hô bằng tiếng Anh, sau ông hô bằng tiếng Việt, nhưng thái độ dứt khoát.
Khẩu súng lăm lăm chĩa vào cái bóng, hai chiến sĩ vận nội công xuống thế chảo mã tấn chờ đợi đối thủ phản ứng.
Đúng là tên phi công Mỹ. Nhưng trái với dự đoán của ông và hai chiến sĩ, tên giặc lái không giương súng, không một chút chống cự, mà nó đang trong tư thế quỳ, hai bàn tay chắp trước ngực như con chiên đang cầu kinh. Nó giật mình khi nghe tiếng mẹ đẻ. Và, dù âm vực của vị chỉ huy làng Quyết Chiến ngọng líu ngọng lô nhưng nó vẫn nhận ra đầy đủ ý nghĩa. Ngay lập tức, người hùng của không lực Hoa Kỳ vội vã đưa hai tay lên trời. 
9. Chị Hai thì thào: - Đừng sợ! Đã có chị!
Chị Ba lổm ngổm bò dậy, một tay vẫn túm chặt vạt áo chị hai. Anh sợ, hai tay bíu ghì làm cổ áo trước ngực chị hai bị kéo, co lên xiết chặt đến nỗi chị phải kêu: - Tóm chặt thế chị thở làm sao được!
Ba chị em nhìn nhau. Đi theo lối cổng thì dứt khoát không được rồi. Cái lão kia mà nó tóm được ấy à, có mà đi đứt! Còn vào trong liệu có lối nào ra không?
Chị hai nói khẽ: - Lui vào phía trong!
Nói là làm, chị cõng anh cúi thấp người lần theo đường hậu chùa bươn về phía sau. Chị ba lỏn tỏn theo. Bọn anh dừng lại ở đầu bể quan sát: Trước mặt là khoảng trống sân chia rồi tới đầu hồi nhà ngang. Dưới sân, lổng chổng mấy chiếc chậu sành, một chiếc chứa đầy nước vo gạo ngầu ngã trắng. Nhìn màu nước gạo anh chợt nhớ tới bầu sữa sáng nay mẹ cho anh ti... Miệng bỗng thèm thuồng vì khát, bụng bỗng cồn cào vì đói.
Chị hai nói nhỏ: - Bò qua cạnh bể ra phía sau tìm chỗ hàng rào có lỗ chó chui mà ra.
Chị cõng anh nằm rạp bụng sát trườn như rắn cạp nong, Chị ba không trườn mà nhảy như con ếch bị nhốt lâu ngày được thả. Còn anh rất khó chịu vì những tàu lá mọc trong vườn quết vào mặt, anh không dám buông tay ở vai chị hai ra, vì bỏ ra là ngã. Nói thật với em, nếu được đi bình thường thì chỉ ba bước nhảy là chị hai đã sang được bên kia, hoặc như chị ba dăm cú phốc lò cò kiểu ô ăn quan là cùng. Nhưng đây là chạy trốn nên bọn anh không thể đi bình thường được! Nhổm cao một tý, động to một cái là bọn người biết ngay! Họ bắt được chỉ có chết! Cái lão người thật trông coi chùa thể nào cũng xé xác đem cho ông Ác ăn thịt chứ chả chơi.
Anh chưa kịp nghĩ xong cả hai chị đã sang được đầu hồi nhà ngang rồi. Chị ba mệt quá ngồi thụp xuống đất thở lấy thở để, mồ hôi chảy thành dòng trên mặt. Chị hai đưa tay lau cho chị ba, không ngờ đất bẩn từ tay chị lại làm cho mặt chị ba thêm nhem nhuốc. Chị hai nhìn chị ba suýt bật cười, nếu không có tiếng nói từ trong nhà vọng tới, rồi có người từ trong nhà lẹp kẹp đi ra.
Không ai bảo ai, chị hai trườn nhanh như con mèo, chị ba trườn trơn như con lươn, cả hai thót một cái đã ở phía sau ngôi nhà.
Bọn anh ló đầu theo dõi người vừa ở trong nhà ra. Đấy là người lúc vào đi thứ hai, có khuôn mặt bảnh chọe như cậu Phán. Ông ta ra thẳng bể, lấy cái gáo dừa cán dài gác trên mui thò xuống múc lên một gáo nước mưa ngửa cổ tu một hơi.
Ra thế! Ông ta khát nước.
Chờ cho ông ta vào nhà, chị hai giơ tay ra hiệu cho bọn anh đi về phía sau. Cách bức tường hậu sau nhà là khoảng vườn trồng toàn na rồi đến hàng rào dứa dại. Mới chớm thu mà lá cây trong vườn đã úa vàng rụng đầy mặt đất, vài ba quả na trên cành khô khốc, đen thui như cứt chó phơi nắng. Bọn anh tới bờ rào, gốc cây dứa xếp hàng trệt đất, bẹ trắng nhởn, phiến lá dài cong vút, chìa ba cạnh gai tím đen sắc nhọn.
Đi đến bờ ao cuối vườn vẫn không thấy một cái lỗ chó chui nào. Tới góc ao, chị hai nhặt một cành rong tre chọc xuống ao. Mặt ao toàn bèo tây kết bè. Chị lấy hết sức cố xiên thủng đám bèo, cành rong tre cong vút như muốn gẫy. Bỗng, hẫng một cái, đám bèo nghiêng lệch, đầu ngọn tre tút lụt, cả thân người chị chúi về đằng trước. Ngồi trên lưng, anh bị hất chồm lên đỉnh đầu chị, cằm vập đánh “cục”, hai hàm răng sữa bập ngay phải mớ tóc, lạo xạo như nhai phải sạn. Thấy chị hai chới với chực ngã, chị ba rất nhanh tóm chân anh kéo lại, nhờ vậy chị hai khuỵu người xuống lấy thăng bằng đứng thẳng dậy, cả người anh trôi tụt về chỗ cũ. Chị hai dồn dập thở, lẫn trong tiếng thở anh nghe rõ tiếng đập “thình thịch... thình thịch...” dưới lần áo của chị.
Bớt thở chị nói: - Ao sâu lắm! Không lội qua được.
Bọn anh quay lại ngôi nhà. Gần đến nơi đột nhiên chị hai bước chậm lại, lấy tay ra ý bảo bọn anh đi nhẹ, không được nói.
Từ trong nhà ngang vẳng ra tiếng người. Chị hai áp tai vào bờ tường, anh bắt chước áp tai vào, nhưng chỉ nghe tiếng lao xao vọng ra chứ không nghe rõ tiếng gì ra tiếng gì.
Chị ba đến gần đưa tay bấm vào tay chị hai. Chị hai quay lại ra ý hỏi? Chị ba chỉ lên cánh cửa sổ cuối nhà. Lúc nãy, vì vội đi ra đằng sau nên không ai phát hiện ra ngôi nhà có cửa sổ gỗ hai cánh khép. Chị hai nhìn chị ba gật gật đầu tỏ vẻ khen ngợi rồi rón rén đi tới cạnh cửa ghé sát tai để nghe. Thấy vậy, anh cũng bắt chước chị nghiêng người áp đầu vào cánh cửa sổ.
Từ trong nhà có tiếng đàn ông nói rất mạnh mẽ:
- “... Các đồng chí nên nhớ, Thượng cấp đã nhận định: Lợi dụng tình thế “đục nước béo cò” quân đội Nhật tiến vào giải giáp vũ khí quân đội Pháp, chúng sẽ không từ một thủ đoạn đê hèn nào để đàn áp. Kẻ thù của chúng chính là những người yêu nước và Cách mạng Việt Nam chứ không phải là đế quốc Pháp. Dẫu lính Nhật có đánh nhau với lính Pháp thì vẫn là hành động của hai con chó tranh một miếng mồi. Thượng cấp vạch rõ: Quân thù lợi dụng nạn đói đang hoành hành làm chết bao nhiêu sinh mạng đồng bào ta ở Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên và các tỉnh lân cận. Không những thế, nếu đê ngăn sông Hồng bị vỡ, sẽ gây ra những hậu quả khôn lường... Căn cứ vào chỉ thị của Mặt trận Việt Minh, tôi đề nghị các đồng chí vận động mọi tầng lớp nhân dân, trên tinh thần hữu ái giai cấp, lấy phương châm “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, tương thân, tương ái, cứu giúp đồng bào vượt qua trận đói này...”
Người đàn ông nói được một lúc lại tới người đàn bà có khuôn mặt đẹp như Đức Mẹ nói:
- “... Hơn lúc nào hết! Các đồng chí phải luôn bám sát, bám chắc, nắm vững tình hình các cơ sở ở trong nội tỉnh Phúc An và các vùng lân cận để chuẩn bị đợi lệnh Tổng khởi nghĩa, tiến lên giải phóng quê hương. Dù có phải hy sinh tính mạng chúng ta quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Đây là thời cơ ngàn năm có một. Phần giành lấy chính quyền về tay nhân dân...”
Những lời người đàn bà nói anh không hiểu, nhưng giọng của bà êm ái, nhẹ nhàng thánh thót, như ru, như hát, lúc trầm, lúc bổng. Nằm trên lưng chị hai anh ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Anh mơ thấy mình ấm tròn trong lòng mẹ, một tay mân mê núm vú có những nốt sần sụi, mồm tóm tém hà hít mút lấy mút để những giọt sữa trắng phau thơm phức, vị ngòn ngọt thấm đẫm đầu lưỡi, những cánh cò, vánh vạc, bờ tre, ngọn gió trong lời ru của mẹ hiện ra.
Bỗng anh giật thót người choàng tỉnh vì có tiếng người quát to:
- A... lũ bán nước! A... lũ Việt gian! Quân phản động... ai cho chúng mày vào đây?
Anh dụi mắt ngơ ngác. Chị hai run rẩy mặt xám ngoét; chị ba lập cập mặt tái dại, cả hai miệng méo vẹo chực òa khóc, anh hãi quá són cả nước đái ra lưng áo chị.
Trước mắt ba chị em: Một ông đầu trọc, áo quần nâu nhà chùa, tay nhăm nhăm gậy, mắt trợn trừng trợn trạo gào:
- Các đồng chí ơi! Có một lũ Việt gian bán nước, một lũ chỉ điểm rình nghe trộm, tôi bắt được quả tang bọn chúng.  

10. Tin bên phía làng Quyết Chiến bắt được giặc lái lan khắp Bãi Giữa. Không ai bảo ai đều đổ xô về cuối bãi. Trời hửng, người đã rõ mặt người. Tình trạng nhộn nhạo được xếp đặt lại. Người Quyết Chiến quây vào nhau, vênh vang khoe chiến công của làng mình; người Quyết Thắng túm năm, tụm ba bàn bạc. Không có lý nào cùng đi bắt kẻ thù người có công, kẻ tay trắng? Bãi Giữa và đầm Vực là địa phận chung của hai làng. Thằng giặc lái rơi xuống đấy ắt phải chia đôi, không có lý bên Quyết Chiến hưởng tất! Nghĩ thế nào nói thế ấy, nói thế nào làm theo vậy, dân làng Quyết Thắng hò nhau đuổi theo những người dẫn giải tên giặc lái.
Lúc này vị chỉ huy làng Quyết Chiến cùng hai chiến sĩ áp tải tên tù binh. Khác hẳn với lúc lái máy bay gầm rú, nghiêng cánh ấn nút điện thả bom đạn vung vãi xuống phá hoại, giết hại dân lành, giờ đây, trước ba chiến sĩ, thằng giặc lái thảm hại như cỏ lác trong đầm bị rạp. Thân hình nó lênh khênh như gã khổng lồ nhưng chân tay run rẩy, mặt cúi gằm tránh những ánh mặt rực lửa căm hờn. Vị chỉ huy làng Quyết Chiến như chú lính chì dũng cảm trong truyện cổ tích của Anđecxen, súng lăm lăm, mặt ngẩng cao, ngực ưỡn lẫm liệt - dáng tự hào của người lập chiến công.
Bỗng từ xa vẳng đến tiếng reo hò khác lạ. Chững lại quan sát, thoáng chút, ông đánh giá tình hình sẽ trở nên phức tạp. Lập tức ông lệnh:
- Các đồng chí Quyết Chiến quay lại làm rào, cản “tụi” Quyết Thắng. Không để tên giặc lái rơi vào tay bọn họ, còn hai đồng chí theo tôi.
Đáp lệnh, dân làng Quyết Chiến dàn cánh cung. Bên phía Quyết Thắng thấy vậy chững lại thúc thủ.
Cả hai bên như mãnh thú rình miếng, lừa thế, không khí căng thẳng đến nghẹt thở, mắt gườm gườm, chân xuống tấn, người giỏi võ tiến lên, kẻ yếu hơn lùi lại.
Tranh thủ thời cơ, vị chỉ huy làng Quyết Chiến lấy mũi súng vừa đẩy vừa ra hiệu. Mặt thằng tù binh đuỗn như ngỗng ỉa. Vị chỉ huy tức giận. Ông tức tên tù binh không hiểu tiếng Việt; ông tức ông không biết tiếng Mỹ. Ngôn ngữ bất đồng gây ra sự không hiểu. Ông cáu chửi tên Mỹ:
- Đồ ngu như con lợn! Mày không chạy nhanh tụi Quyết Thắng nó xé xác ra từng mảnh.
Tên giặc lái chập choạng, đôi giầy trệt bùn đất làm nó bước rất vất vả. Vị chỉ huy ra hiệu cho nó tháo giày. Nó lắc: “No... no...”
A! Câu này thì ông hiểu. Ông quát:
- No cái mả mẹ mày! Mày mà no tao nã cho mày một phát bay giờ!
Ông giơ khẩu súng chĩa vào đầu nó. Thằng giặc lái cuống quýt quỳ lạy như tế sao, thấy vậy ông bảo hai chiến sĩ:
- Thằng Mỹ này ngu lắm. Thôi, khẩn trương! Mỗi đồng chí một bên dìu nó xuống nước cho nó bơi vào bờ, nhanh lên không tụi Quyết Thắng đuổi kịp cướp mất.
Quân lệnh như sơn. Tên Mỹ bị hai chiến sĩ xốc nách, nhờ vậy nó bước đi dễ dàng hơn. Đến bờ, tên Mỹ sững lại vì trước mặt là đầm nước mênh mông. Nó tưởng người ta quẳng nó xuống, liền quay phắt lại gạt hai chiến sĩ văng sang hai bên. Nhưng nó không nghĩ họng súng của vị chỉ huy đã ghìm nó lại:
- Mày định trốn sang với tụi Quyết Thắng hả? Quay lại!Ông hất hất mũi súng ra hiệu. Tên giặc lái nghe không hiểu, nhưng động tác của mũi súng thì nó hiểu. Nó ngoan ngoãn chấp hành.
Lúc này, trên Bãi Giữa, trận chiến đấu của hai làng bước vào đỉnh điểm. Một bên quyết ngăn đối thủ lại không cho tiến lên cướp mất “chiến lợi phẩm”; một bên quyết đòi phải chia đôi thành tích. Cả một vùng náo loạn tiếng gào thét. Từng cặp người xoắn vào nhau như đô vật ngày hội, bùn đất văng tung tóe, bám vào người trơn trượt. Bao nhiêu bức bối từ thuở nào nhân đà này họ trút giận lên đầu đối thủ. Mải quần đảo, đám đông quên cả người dẫn giải và tên giặc lái.
Phúc tổ bảy mươi đời nhà mày - Vị chỉ huy nghĩ - May dù rơi giữa bãi, nếu không thì tong đời rồi con ơi! Ông bật cười nhìn thằng Mỹ chắp tay vái lia lịa khi bị dồn xuống nước, nó chới với, thụp lủm, giã gạo liên hồi, miệng phun nước phì phì. Đang lúc bí, cái áo của tên Mỹ căng phồng không khí gợi cho ông nghĩ đến kiểu tập bơi của trẻ chăn trâu. Ông bảo hai chiến sĩ kéo nó vào sát bờ.
Ông ra hiệu nó cởi quần áo, người nó rúm ró như con sâu đo. Thấy vậy, ông nói với một trong hai chiến sĩ: “Nó ngu lắm! Cậu cởi quần áo làm mẫu cho nó bắt chước, nhanh lên!”. Thằng Mỹ khá thông minh, người chiến sĩ làm gì, nó bắt chước làm theo, anh cởi áo, nó cởi áo, anh cởi quần, nó cởi quần. Anh du kích không mặc quần lót nên thành ra tồng ngồng, của trời cho thổn thện. Thằng Mỹ cúi xuống định lột xi líp ra để cho giống anh thì vị chỉ hay quát: “No... no”. Trong lúc khốn cấp không ngờ ông phát ngôn tiếng Anh cực chuẩn. Tên Mỹ dừng tay ngơ ngác, da trắng nhễ nhại, lông vàng như lông bò, cái đùm Chúa ban phưỡn ra. - Mẹ cha đồ xâm lược, cái gì cũng khác. Vị chỉ huy liếc xéo qua háng tên phi công, mồm nhổ nước bọt đánh “toẹt”.
Ông lấy chiếc quần của thằng Mỹ buộc túm từng ống. Quần gì rặt túi là túi, được cái vải tốt, không dễ rách như quần vải ta. Buộc xong, ông lộn trái úp thật manh xuống mặt nước. Hai ống quần hơi căng như phao cứu hộ, trông như chân thương binh bị cụt chổng ngược trên mặt nước. Ông ra hiệu, tên tù binh hiểu ngay và nhanh chóng thực hiện. Nó bám rất chặt, chồm người, cằm gác giữa háng phao, chân đạp nước làm cái mông to bự, trắng lốp nhấp nhổm, nhấp nhổm. Hai chiến sĩ mỗi người một bên bơi sát nó vừa kéo, vừa dìu. Vị chỉ huy hộ tống đằng sau, một tay giơ khẩu súng lên cao, một tay bới nước hiểu chó bơi, hai chân đẩy, đạp, thi thoảng dùng tay ủn vào chân thằng Mỹ một cái rõ mạnh.
Trên Bãi Giữa, trận chiến xung đột dữ dội hơn. Tương quan lực lượng hai làng bằng nhau, nhưng khí thế bên Quyết Thắng có vẻ mạnh hơn. Hình như họ phát hiện được ý đồ của những kẻ có “chiến lợi phẩm” định sử dụng kế “Mạnh Lệ Quân thoát hài” để đưa tên phi công Mỹ vào bờ.
Một tiếng hét dội vang cả khu đầm Vực:
- Nhảy xuống nước đuổi theo thằng giặc lái đi bà con ơi! Quyết Chiến sắp đưa nó đến bờ rồi.
Một chút ngừng, rồi không ai bảo ai họ buông địch thủ ào ào nhảy tùm xuống đầm. Kẻ phi thân, người lao vun vút như nhái, nước tung bọt dựng cột, xòe bung nở như hoa. Đánh nhau chán trên cạn bây giờ đến thủy chiến. Họ xoắn lấy nhau, giằng giật, bụm tay nhằm mặt đối phương té nước, có người chồm lên dùng tay vít đầu địch thủ.
Nhưng sức người có hạn, không kẻ nào chịu kẻ nào, không có ai bị thua. Dìm nhau gần ngạt lại buông nhau ra. Nhiều người bỏ cuộc khoát tay bơi vào bờ, có kẻ mệt quá nằm ngửa mặt lên trời... thở.
Lại nói tới ba người làm nhiệm vụ dìu tên tù binh Mỹ: Họ bơi rất chậm vì thằng Mỹ quá nặng. Và, nói như danh nhân nói “Gần đến thắng lợi càng nhiều gian nan...”. Chỉ còn cách bờ mấy sải tay mà tưởng như xa hàng cây số.
Trên bờ, ngay gần bến, những kẻ không biết bơi đứng háo hức chờ. Khi phát hiện ra tên Mỹ bị du kích làng mình áp giải, dân Quyết Chiến nhảy cỡn lên reo hò.
Nhưng người dân Quyết Thắng đứng gần đấy tỏ vẻ ganh ghét, khó chịu. Họ quay ra khà khịa. “Hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại”. Không ai chịu ai thành ra xô xát, sự việc xảy ra ngoài dự kiến của vị chỉ huy. Lúc này, phía trước đấu khẩu, đằng sau xung đột, rượt đuổi. Ba người và tên tù binh đã vào sát bờ, chân dẵm bùn, tay gạt bèo và bè rau muống rẽ lấy đường lên. Khi tên Mỹ nhô người lên khỏi mặt mặt nước, lừng lững xuất hiện cũng là lúc mọi người ngừng khiêu chiến nhìn nó.
Tên Mỹ như vật thể lạ, đây là lần đầu tiên dân trong vùng mục kích tận mắt một thằng “giặc trời”. Nó không giống các đồng chí chuyên gia Liên Xô hay cố vấn người Đông Đức chiếu trong phim tài liệu. Trên người nó, mỗi cái xi líp bó sát bẹn, phơi mình trong nắng sớm, chỗ trắng bợt, chỗ đỏ nhờ, lông lá vàng quạch, nham nhở, đám bệt, đám dựng tua tủa, lỗ chân lông như da lợn cạo sống. Ngực đeo thánh giá như cha đạo nhà thờ, chân xỏ giày như Táo quân trong tuồng diễn, mắt xanh lét như mắt mèo ngơ ngác nhìn mọi người.
Tất cả quây vòng, dồn thằng Mỹ vào giữa. Mắt nó tránh những cái nhìn căm thù. Đây là đại diện cho bè lũ xâm lược, với những câu tuyên bố ngạo nghễ, láo xược của Tổng thống Hoa Kỳ - Một nước cách xa nước ta hàng ngàn dặm dám tự vỗ ngực thay Chúa trời hành đạo “dạy cho Việt Nam một bài học...” và định “... đưa Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá...”
Bay nhân danh ai vác bom đạn ném xuống đầu dân lành? Bay nhân danh điều khoản, hiệp ước nào can thiệp chủ quyển của Tổ Quốc Việt Nam? Cách đây hàng bao nhiêu thế kỷ trong Tuyên ngôn đầu tiên của nước Đại Việt chả từng đã khẳng định:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Tổ tiên, ông cha ta đã vậy, há gì bây giờ con cháu không giữ được! Quân này hỗn! Đã ăn cướp còn già họng. Phải đánh cho chúng chết, cho chừa thói hung hăng, làm càn, làm bậy.
Tự nhiên, cả những người bắt được tên Mỹ lẫn những người đuổi theo đòi chia phần dồn hết thành một khối. Họ quên bẵng sự hiềm khích bao lâu giữa hai làng, quên đi những lá đơn kiện tụng, tranh chấp đầm Vực và Bãi Giữa. Tất cả dồn lòng căm thù vào ánh mắt, nét mặt, trút căm hờn lên cái nhìn thằng Mỹ, sẵn sàng dùng bất cứ cái gì có trong tay để băm vằm nó cho hả giận. Cảm tưởng vạc đầu đang sôi sùng sục, chỉ cần một tia lửa là bùng cháy, bùng cháy dữ dội.
Vị chỉ huy làng Quyết Chiến biết nếu không ngăn được lòng căm thù ắt sẽ xảy ra sự trả thù. Khi đi tập huấn có bài học giảng giải kinh nghiệm này. Nếu để tù binh chết là vi phạm điều lệ quốc tế chứ chả chơi. Để nó chết, chỉ huy còn phải chịu án kỷ luật. Nhanh như cắt, ông nhảy lên mô đất cao, bụm tay làm loa:
- Thưa tất cả bà con hai làng, chúng ta đã bắt được tên giặc lái. Nhưng chúng ta phải bảo vệ cho nó sống để cấp trên lấy khẩu cung. Đề nghị mọi người dãn ra để chúng tôi thi hành phận sự.
- Được! Nhưng công lao phải chia đều cho hai làng. Đồng ý thế thì được?
Vị chỉ huy nhìn xem kẻ nào đưa ra điều vô lý ấy. Thì ra đó là gã chỉ huy bên Quyết Thắng, vừa từ dưới đầm lên, người hắn lướt thướt như chuột lột, cái sủ to quá khổ, mái tóc ướt xõa xuống trán, đôi mắt trắng như mắt lợn luộc, cởi trần, phì nộn như một miếng mỡ tách khỏi phần nạc; trong tay gã cầm một cây gậy gỗ. Cha này trước học cùng lớp ở trường cấp hai. Hay gạ đánh nhau khi còn là trẻ chăn trâu ở đầm Vực và là kẻ đối đơn kiện cáo với ông khi tranh chấp đất đai giữa hai làng trên bàn Tư pháp Ủy ban huyện.
- Không vô lý thế được! - Một công dân làng Quyết Chiến phản đối: - Làm gì có chuyện chia đôi? Làng nào bắt được thì công của làng nấy. Không chia bôi gì cả!
Không ngờ nhưng câu nói không có lửa mà như châm, tưởng vô tình mà gây cố ý. Mối bất hòa tạm quên nay thành ngòi nổ. Mỗi người một câu, mỗi người một ý, chẳng bên nào chịu bên nào. Có kẻ còn vác chuyện đời xửa đời xưa nhắc lại. Con gà còn tức nhau tiếng gáy nữa là chuyện thành tích bắt giặc lái. Tiếng đối đáp ăn miếng trả miếng đã tới hồi quyết liệt.
Hai bên co cụm chia thành hai phe rõ rệt. Trong khi đó tên tù binh nép vào hai chiến binh dẫn giải. Có vẻ như nó tin vào sự bảo hộ của những người đã dìu nó ở dưới nước. Nhưng nó đâu hiểu chính hành động dựa dẫm ấy gây ra sự phẫn nộ của đám người bên Quyết Thắng. Họ bất bình vì thằng tù binh dám về hùa với phe bên kia. Thình lình cả đám người chồm đến, một hai người lao vào túm, co kéo, giằng giật tên tù binh về phía họ.
Vị chỉ huy thấy vậy nhảy vội xuống đẩy đối phương. Lấy khẩu súng làm lá chắn... Bất nhờ một nhát gậy phang thẳng vào đầu ông, mắt vị chỉ huy xuất hiện muôn ngàn bông hoa lửa, vừa kịp nhận ra kẻ phang ông chính là địch thủ đánh nhau với ông từ bé. Và, trước khi ngất lịm, ông còn nghe ba tiếng nổ chói tai, đinh óc, kèm một tiếng thét:
- Yêu cầu tất cả giải tán! 
11. Nghe tiếng gào, từ trong nhà mọi người chạy ra, anh không ngờ có nhiều người thế. Dễ có đến mấy chục người. Bọn họ lố nhố quây xung quanh ba chị em. Anh chực khóc mà không khóc nổi, tay bấu chặt vai áo chị. Trong khi đó lão người thật tóm xếch cổ hai chị, mắt trừng trạo, mồm bẩm báo:
- Thưa các đồng chí, tôi bắt quả tang bọn gián điệp đang nghe trộm. Quân này phải bắn!
Mặt hai chị cắt không còn giọt máu. Cứ như tội mà lão gán có lẽ bọn anh chỉ có chết! Bỗng có tiếng nói:
- Bác bỏ các cháu ra, còn các đồng chí, vào nhận chỉ thị rồi phân tán, ta cần đề phòng.
Đó là tiếng nói của bà có khuôn mặt đẹp như Đức Mẹ.
Mọi người lặng lẽ nhìn bọn anh rồi nhanh chóng đi vào nhà, lão người thật bỏ tay giữ bọn anh nhưng vẫn quanh quẩn cạnh đấy. Người đàn bà mặt đẹp ngồi xuống cầm lấy tay chị hai hỏi:
- Sao các cháu vào được đây?
Chị hai lấm lét nhìn lão người thật, người đàn bà nói:
- Cháu đừng sợ! Đã có bác! Ai bảo các cháu vào đây?
Chị hai lí nhí trả lời:
- Tại các bác đuổi bắt chúng cháu...
- Ai đuổi bọn bay? - Lão người thật nói chen vào - Tụi phản động ngoan cố!
Chị hai ôm choàng lấy bà, bà ôm lấy chị, ôn tồn bảo lão người thật:
- Bác lên điện thờ xin sư cụ cho tôi ít xôi, oản đem xuống dưới nhà việc!
Ông người thật vừa đi vừa ngoảnh lại trông chừng. Người đàn bà mặt đẹp dẫn bọn anh vào nhà. Trong nhà không còn ai. Bà cho bọn anh ngồi ở chõng tre rồi chìa tay đón anh. Lúc đầu anh sợ, nhưng rồi không hiểu vì sao anh lại đồng ý cho bà ta bế. Bà ôm gọn anh vào lòng vạch vú lên.
Anh tóp tép miệng... hết nhìn bà rồi lại nhìn cái ti hồng hồng có những nốt sần sụi y như của mẹ. Người đàn bà mặt đẹp nựng:
- Bú đi con! Chắc khát sữa lắm rồi? Bú đi con.
Anh ngước nhìn chị hai, chị gật gật đầu ra ý: “Em bú đi!”. Anh quay lại vục đầu rúc mặt vào bầu sữa nóng hổi. Sữa của bà y hệt sữa mẹ. Thơm phức, ngọt lịm, anh bú lấy bú để, bú như chưa bao giờ được bú. Thấy vậy người đàn bà nói: - Bú từ từ thôi con, không lại bị sặc.
Tay bà nâng bầu vú để sữa tuôn chảy vào mồm anh, bà nhẹ nhàng hỏi chuyện hai chị. Nghe câu được câu chăng, nhưng anh đoán chắc bà muốn biết vì sao ba chị em lại vào chùa.
Lúc sau, ông người thật bê một đĩa oản, xôi và chuối xuống. Bà bảo:
- Bác múc giúp tôi chậu nước để rửa mặt cho các cháu!
Ông người thật nhíu đôi lông mày lưỡi mác ra ý không hiểu sao người đàn bà lại tốt với bọn anh như vậy? Nhưng ông ta vẫn đi ra sân lấy chậu múc nước bể mang vào.
Người đàn bà mặt đẹp vừa cho anh bú vừa lấy khăn lau mặt cho hai chị. Rửa xong, bà lấy xôi, chuối đưa cho hai chị ăn, anh liếc thấy hai chị mồm phùng phạo nhai, nuốt.
Bà đảo anh sang bầu vú bên kia cho ti thêm. Anh rúc một hồi no nê rồi đẩy vú ưỡn người vươn vai. Người đàn bà nắn chân nắn tay khen:
- Thằng bé kháu quá! Mai này cách mạng thành công các cháu sẽ được sống trong hòa bình - Mắt bà đăm đăm nhìn ra ngoài sân.
Ông người thật hỏi:
- Con chị chắc cũng bằng này? Đi công tác thế này chị gửi nó cho ai?
- Cháu mới được ba tháng - Người đàn bà mặt đẹp trả lời - Tôi gửi cháu trong một gia đình cốt cán ở ngoài Bãi Sậy. Vài hôm mới được gặp một lần, nhiều khi nhớ ơi là nhớ!
Thảo nào bà ấy có sữa cho anh ti. Ông người thật bưng mời bà bát nước vối, bà uống xong dặn ông:
Các cháu bé vô tình vào chứ không có ý gì. Lát nữa, sau khi tôi rời khỏi đây, bác dẫn các cháu ra cổng. Nhớ đừng dọa các cháu làm chúng sợ. - Nói đoạn bà bảo chị hai - Cháu đưa hai em về, và nhớ không được nói những điều đã nghe thấy ở đây! Nếu gặp cô ở ngoài đường nhớ đừng gọi, coi như chưa quen cô bao giờ hiểu chưa?
Chị hai “vâng” rồi chìa tay đón anh. Ông người thật đưa cho bà chiếc túi, người đàn bà quàng qua vai, sửa lại quần áo đưa mắt ra hiệu cho ông. Ông người thật quay lại bảo bọn anh:
- Ở yên đấy! Không được chạy lung tung!
Nói đoạn ông bước xuống sân chạy ra phía cổng chùa. Người đàn bà mặt đẹp cúi xuống thơm vào má anh đánh “chụt”, lấy tay xoa đầu hai chị.
- Bác coi chùa trông thế nhưng tốt bụng lắm! Cả nhà bác ấy bị Tây bắn chết, quẫn chí đi lang thang, sư cụ thương tình nhận vào giúp việc trông coi nhà chùa. Các cháu nhớ nghe lời bác ấy!
Nghe bà dặn, bọn anh thấy vững tâm hơn. Một lát sau, ông người thật quay lại nói:
- Thưa thượng cấp, không có gì đáng nghi cả. Xin mời thượng cấp lên đường!
Người đàn bà hiền từ nhìn bọn anh, giọng âu yếm:
- Cô đi các cháu nhé! Nói rồi bà rảo bước đi sau ông người thật.
Bọn anh lưu luyến nhìn theo, hình như lúc ấy anh thấy chị hai chực khóc. Còn anh chỉ tiếc những giọt sữa trắng tinh, ngọt ngào và thơm phức trong bầu vú tròn trịa của bà... Được một lúc ông người thật quay lại. Khác hẳn lúc bắt được bọn anh, ông nói nhẹ nhàng: - Xôi và chuối hết mất rồi, bác gói cho các cháu mấy cái oản và mấy quả ổi gọi là lộc chùa. Chị em nhớ đưa nhau về nhà, không được đi lung tung nhỡ gặp Tây thì khổ.
Ông lấy mảnh vải nâu bọc oản và mấy quả ổi, thắt lại như tay đẫy khoác vào vai chị ba rồi rảo bước đi trước. Chị hai cõng anh, dắt chị ba chạy gằn mới theo kịp. Khi ngang qua cửa chùa, bọn anh nhìn thấy ông tượng Ác tay cầm đao, mặt đỏ tía, mắt lồi, trừng trạo nhìn theo như muốn nuốt sống, ăn tươi... còn ông tượng Thiện gầy nhom, khuôn mặt điềm đạm, đôi mắt hiền từ như muốn nói: “Các cháu yên tâm đi đi... Ta sẽ phù hộ cho các cháu”.
Ra khỏi cổng chùa, trước khi quay vào, ông người thật dặn: “Nhớ không được nói với ai về chuyện gặp thượng cấp nghe chưa? Lộ ra, lần sau bắt được bác không tha”.
Lên tới ngã ba, chị hai dừng lại lưỡng lự... Trên đường vẫn tịnh không một bóng người. Chị hai hỏi:
- Bây giờ đi hay về hả hai đứa?
Chị ba lí nhí: “Chị đi đâu em theo đấy!”. Nghe vậy chị hai bảo: “Chuyện hôm nay không đứa nào được mách với mẹ. Còn bây giờ, chị dẫn hai đứa ra chợ xem thế nào rồi về”. - Nghe chị hai nói, anh đoán chừng chị vẫn muốn thực hiện bằng được mục đích “xem người chết đói” lắm.
12.
- Về sau thế nào? - Bố hỏi.
- Bộ đội tỉnh nổ súng chỉ thiên giải tán đám đông, cho thằng Mỹ lên xe chở đi. Thế là hai làng mất tranh nhau. - Mẹ trả lời.
Bố hỏi:
- Làng mình có được thưởng gì không?
- Chờ đấy mà thưởng! Mẹ nguýt môi- Khổ mỗi ông Chủ nhiệm, bị một gậy nện chí chết! Cấp cứu mãi mới tỉnh, giập sống mũi phải cắt lá mía, trán khâu hàng chục mũi trông như con rết bò trên mặt. Tội nợ nhất là đến bây giờ thỉnh thoảng còn ngớ ngẩn. Có lần đi mua thóc giống cho hợp tác xã để quên cả xe đạp ở cửa hàng.
- Thế sao vẫn để ông ấy làm Chủ nhiệm?
Mẹ cười:
- Làng còn người đâu. Đàn ông đi bộ đội hết lấy ai thay?
- Ông ấy có được xếp hạng thương binh không? - Bố hỏi.
- Nghe nói làm đơn trình bày, hết ra huyện, lên tỉnh cũng chẳng ăn thua gì. Mãi chán, bỏ - Mẹ nhìn bố chép miệng - Lăn lộn hàng chục năm ở chiến trường đến thân tàn ma dại còn chẳng nước gì nói chi đến chuyện ta đánh ta?
Em đang sắc thuốc bắc ở bếp ngồi dịch ra cửa, ló đầu nghe bố mẹ nói chuyện. Thấy vậy mẹ nói:
- Sắc đừng để trào, con gái con lứa làm ăn cho đến nơi đến chốn, nay mai mới hòng lấy được chồng con ạ.
- Con ứ thèm lấy chồng
Ở cái làng Quyết Chiến này nhà nào có con gái cũng chỉ sợ ế. Có đứa mới mười ba, mười bốn tuổi đã có nơi có chốn đặt cau trầu dạm ngõ, đánh tiếng; mười lăm, mười sáu khai tăng lên mười tám để cưới. Không đăng ký thì cưới chui cưới lủi. Em mới chục tuổi đầu mà các cụ, các ông trong họ đã nhăm nhe chọn cho mấy đám. Các cụ sợ chiến tranh kéo dài cướp mất người, không cho lấy sớm, đàn ông đi bộ đội hết lấy ai nối dõi tông đường?
Anh tính, mới nứt mắt ra lúc nào cũng bị nhét tư tưởng lấy chồng, thì học hành làm sao được? Dân quê em lạ lắm, rất ít người thi Đại học. Nhất là con gái. Loanh quanh hết cấp hai là “quay đầu”. Tụi con trai có dăm đứa theo đến cấp ba, còn lại bỏ ngang về lấy vợ rồi chờ đi bộ đội. Đứa nào “sứt môi lồi rốn” không đủ tiêu chuẩn nhập ngũ, mới chịu ở nhà “lấy đít trâu làm thước ngắm cuộc đời”. Cả làng bói mới ra đôi người thoát ly. Nhìn vào làng thời chiến rặt đàn bà, người già, trẻ nhỏ. Con gái mười tám đôi mươi con bế con bồng, có đứa còn phây phây đã nhận giấy báo tử thành vợ góa liệt sĩ.
- Đấy! Đã bảo mà, trào hết cả thuốc của bố kia kìa. - Mẹ đứng đằng sau nói giật giọng.
Em giật mình, dụi bớt lửa càu nhàu:
- Sao mẹ không mua lấy đon củi đun cho dễ?
- Con lười! Mày thế này thì ế con ạ!
- “Đắt lo ế mừng” con chả thèm lấy chồng. - Em đứng dậy nhảy lò cò ra sân, mặc cho mẹ với ấm thuốc đang sắc trên bếp.
- Ở nhà ăn cơm còn đi học. - Mẹ nói theo.
Em ra vườn sau nhà leo tót vót lên chạc ba cây ổi với tay ngắt một quả. Ổi lòng đào, thơm phức, cùi dày, ít hột, ruột nhẫy như mỡ, ngọt lịm như đường.
Mẹ nói:
 - Cây ổi này ngày xưa bà ngoại trồng.
Cụ già cùng thời với bà ngoại kể:
 - Bà lấy giống ổi chùa Thập Phương trên tỉnh.
Bố bảo:
 - Mẹ được năm tuổi thì bà ngoại bị giặc Pháp xử tử. Ông ngoại là người quê dưới xuôi lên hoạt động về sau bị mất tích. Có người độc miệng nói ông đi theo Tây.
Em quý cây ổi này lắm. Từ ngày biết, đến giỗ bà, em mang hương ra thắp. Bà không có mộ. Vật duy nhất còn sót lại là bức truyền thần đặt trên bàn thờ. Mẹ bảo bức truyền thần của người coi chùa Thập Phương vẽ lại.
Sau bữa cơm, mẹ nói với bố:
- Tháng sau đến giỗ bà rồi.
- Hồi tôi chưa về nhà có làm giỗ không? - Bố hỏi.
- Có! Nhưng chỉ hương hoa thắp hương để nhớ ngày chứ tiền đâu mà làm cỗ - Mẹ trả lời.
Bố đắn đo;
- May phúc ông bà phù hộ. Bao năm vào chiến trường không vướng hòn tên mũi đạn nào. Mẹ con Linh xem kỳ này làm lấy vài mâm mời họ hàng, coi như vừa cúng vừa mừng họp mặt.
- Nhưng bố nó còn đang ăn kiêng cơ mà? - Mẹ nói.
- Thì tôi kiêng chứ mọi người có kiêng đâu mà lo? - Bố nói - cái chính là nhân tiện chứ tự nhiên bày vẽ ra lấy tiền đâu.
Khoác túi đựng mìn mo bố đem từ chiến trường về cho làm túi đựng sách, em chào:
- Con đi học đây bố mẹ ạ. Mẹ nhớ nhắc bố uống thuốc.
Ra tới sân em nghe mẹ hỏi bố:
- Mình thấy bệnh có chuyển không?
- Chẳng thấy gì, chỉ tức bụng hay đi đái thôi. - Bố trả lời.
- Uống hết đợt này tôi lên ngược tìm thầy lang khác!
Ra cổng, em nhớ lại chuyện đêm đầu tiên bố về, sau đêm ấy em không ngủ chung giường với bố mẹ nữa. Em biết mẹ “thèm” một đứa con trai lắm. Tập tục ở quê vẫn vậy. Nhà nào chưa có con trai coi như chưa có phúc.
Ông bà nội mất hồi năm năm hai (1952). Tây càn, bọn chúng bắt dân làng xếp hàng cho chỉ điểm nhận mặt. Chúng đẩy ông, bà cùng mấy chục người xuống giếng nước ăn của làng rồi lấp đất. Bây giờ hàng năm tới ngày giỗ, cả làng giỗ chung.
Sau ngày ông bà nội mất, bố ở với vợ chồng bác cả. Hòa bình, đợt khám nghĩa vụ đầu, bố trúng tuyển. Sau ba năm hết hạn về. Nhà nghèo lấy vợ không cưới cheo gì, sẵn đất bên ngoại, bố về coi như ở rể. Chiến tranh đến, bố tái ngũ. Em là “sản phẩm” trong ngày phép “tranh thủ” của bố mà em đã kể ở trên ấy!
Hải Linh dừng kể, đăm đăm nhìn ra khoảng tối ngoài sân như muốn vạch tìm trong màn đêm những gì đã qua. Nguyễn Thừa lặng im, mặc cho cô hoài niệm. Anh trân trọng người phụ nữ này qua những từng trải khổ đau... Cuộc đời thực vô lý khi hạnh phúc không mỉm cười với số phận của em. Hơn ba mươi tuổi, lẽ ra đó là thời kỳ rực rỡ nhất của đời người phụ nữ có chồng, có con. Không mấy ai muốn rẽ ngang con đò tình yêu ở lứa tuổi ba mươi; không ai muốn nghe câu hỏi: “Bố không ở với mẹ con mình nữa hả mẹ?”. Lời nói như trăm ngàn mũi kim đâm vào trái tim mẫn cảm; gieo vào lòng muôn vàn trăn trở khi nhìn thấy ánh mắt dại khờ ngơ ngác trẻ thơ.
Đêm thật sâu, gió vờn trên nóc nhà, luồn qua sóng ngói tạo thành những tiếng huýt dài rờn rợn. Âm thanh lạnh lẽo như tiếng cô hồn rên khóc. Chợt có tiếng mèo gào thảm thiết phụ họa ghê rợn, Hải Linh so vai rùng mình, cô lắc đầu xua đi những trĩu nặng trong tâm hồn:
- Trên trần nhà mèo nhiều lắm. Đuổi thế nào chúng vẫn đến. Buổi sáng ở đây còn có cả tiếng chim lợn. Em thấy người ta nói chim lợn thường báo trước cái chết.
Nguyễn Thừa đứng dậy bước đến gần cô. Khoảnh khắc ấy, trong anh xuất hiện một tình cảm vượt qua cảm xúc khác giới, tựa như tình yêu của người cha đối với đứa con, sự bao dung lớn hơn cả nhưng gì anh thèm khát. Anh biết mình không làm được gì cho cô ngoài một chút văn chương đạm bạc và sự cảm thông. Hình ảnh bãi tha ma và những trò nghịch ngợm của trẻ chăn trâu; cô gái nhỏ có đôi chân kỳ diệu với chiếc máy vi tính; đêm đầu tiên gặp lại vợ của người lính; quả bom câm, tên tù binh Mỹ và nhát gậy nện vào mặt ông chủ nhiệm, tất cả như âm bản của cuộn phim được soi qua ánh sáng chập chờn hư thực.
Đôi bàn tay bóp nhè nhẹ bờ vai người đàn bà, có cảm giác toàn thân Hải Linh run rẩy. Sức trẻ trỗi dậy, cánh cửa bản năng hé mở, cái bếp tàn hoang sơ bao lâu nay bừng lửa, đôi mắt thành ý tự nguyện, tấm thân trong trắng hiến dâng...
Nguyễn Thừa cảm nhận sự phản ứng từ cô thật lạ lùng. Có cái gì thúc đẩy anh nên làm một người đàn ông hơn làm một người cha. Buông cái bao dung về với sự khát thèm. Chút dục vọng trần tục ngọ nguậy: hơi ấm nồng nàn nóng hổi từ làn da lan tỏa, nhịp thở nơi vầng ngực phập phồng rạo rực... bàn tay anh ve vuốt, rờ rẫm.
“Xoạt” trên trần nhà có tiếng mèo vờn nhau gầm gào thảng thốt. Nguyễn Thừa bừng tỉnh. Bàn tay lóng ngóng dừng lại trên khuy cúc áo ngực cuối cùng vừa bật.
Hải Linh giật mình, cảm xúc tan loãng theo tiếng mèo. Cô xoay người ý tứ cài lại khuy áo rồi nói:
- Lúc nãy em kể đến đâu rồi anh?
13. Bọn anh xuống đến chợ đã trưa, ông mặt trời lơ lửng, da trời xanh ngắt, gió ngừng thổi, mây mù và hơi lạnh trốn biệt sau dãy núi phía xa. Nhưng lạ, chợ vắng tanh vắng ngắt. Các dãy lều xiêu vẹo trông như người say rượu. Nhiều mái bị gió thổi tốc ngược, rạ lợp chổng lên, xệ xuống như bị tay người rút dở. Chị hai dẫn bọn anh vào chợ. Trên lối đi, một vài vũng nước trong vắt soi bóng trời thăm thẳm... Trên thềm dãy hàng ăn uống ngổn ngang bàn ghế đóng bằng gỗ tạp tre. Anh nhận ra quán bà Ba bán bánh đúc quen mẹ. Mới nghĩ đến mà mũi như ngửi thấy mùi nồng nồng của vôi bốc lên từ tấm bánh tròn trắng đục.
Đột nhiên chị hai bước chầm chậm... Qua vai chị, nhìn về phía trước, anh thấy cuối dãy lều bán thịt lợn, dưới gầm phản có cái gì động đậy như người. Chị ba nép sát vào chị hai, nắm chặt vạt áo. Chị ba vốn nhát, ban ngày ban mặt bố sai vào buồng lấy cái gì cũng chẳng dám nữa là. Anh cũng chờn nhưng hơi nóng từ lưng chị hai truyền sang bụng và ngực nên anh vững tâm hơn, tay siết chặt áo đề phòng chị chạy.
Bọn anh tiến lên. Chị hai thế mà bạo! Bình thường ở nhà chị đã làm “tướng” rồi mà.
Bố bảo: - Con này là trâu sứt sẹo, hổ còn chẳng sợ, gan lì tướng quân, mai lớn lên đứa nào lấy nó bị nó làm chồng.
Chẳng biết nay mai thế nào chứ bọn anh bây giờ nghe chị răm rắp. Nếu không chị cho nghỉ chơi ngay. Ở phố đứa nào định bắt nạt bọn anh là bị chị cho một trận. Nhớ một lần, lũ bạn của chị thách:
- Mày có dám cho sâu đo bò lên áo không?
Tụi trẻ con cho rằng nếu để sâu đo đo lên áo bao nhiêu, người đó chỉ sống được ngần ấy năm thôi. Chị cuộc:
- Tao làm được chúng mày mất cái gì?
- Chúng tao gọi mày bằng “mẹ”.
- Được! - Chị tuyên bố - gọi tao là “mẹ” gọi các em tao là “chú” là “dì” nghe chưa?
Chị chui vào giàn mướp hoa vàng tìm bắt vài con sâu đem ra để nó đo từ gấu quần lên ngực làm bọn ở phố Đệ Nhị trợn tròn mắt thán phục.
Chị với tay rút cây que cài trên mái. Một tay vòng đỡ mông anh, một tay cầm que thế thủ. Khi còn cách một quãng, bọn anh nhận ra không phải là người, mà là một con chó lông đen gầy nhom đang gặm cái gì có vẻ ngon lắm.
Thấy động, nó quay đầu nhe răng trắng nhởn gầm gừ. Chị hai giơ que, con chó không sợ, tiếng gầm gừ to hơn. Chị cúi xuống nhặt hòn đất lên ném, con chó thôi gầm gừ, chị ba buông tay nắm vạt áo cúi xuống nhặt viên gạch vỡ đưa cho chị hai. Sau cú ném ấy, con chó cum cúp lảng ra cách đấy chừng chục thước ngồi chồm hổm cầm chừng...
Bọn anh tiến gần đến xem nó gặm cái gì. Ôi eo, trước mặt ba chị em một đám thịt bầy nhầy. Chị hai bỗng rú lên một tiếng nghe thật hãi hùng, ném que co cẳng chạy thục mạng, chị ba thấy chị hai chạy cũng chạy theo. Em biết không? - Anh hỏi, rồi nói tiếp: Ngồi trên vai anh nhìn rất rõ: Giữa đám thịt bầy nhầy có cái đầu lâu một đứa trẻ con không lớn hơn anh bao nhiêu bị chó gặm nham nhở.
Hãi quá! Chị hai, chị ba chạy không kịp thở... Ngồi trên lưng anh tưởng mình như lão Tàu ô cưỡi ngựa phi nước đại. Phải cái mỗi lần xốc lên xốc xuống dái anh bị đập xuống lưng rất đau nhưng không dám kêu. Cắm cổ chạy không nhằm phương hướng nào nên khi dừng lại bọn anh không nhận ra mình đang ở đâu. Loanh quanh lạc hướng vào một cánh rừng, đường mòn đất đỏ quạch, hai bên lối đi toàn cây là cây. Đi một lúc lâu ra khỏi cánh rừng gặp doi đất cao cắt ngang. Bọn anh trèo lên quan sát:
Doi đất vòng vèo hun hút tầm nhìn. Phía dưới chân doi đất nước mênh mông, sóng từng đợt ì oạp đập vào bờ. Xa xa là dãy núi có ba ngọn núi cao vút. Anh đoán chắc đó là núi Tam Đảo, vì có lần bố kể với mọi người bố đã đến tận đấy tìm bắt rắn.
Chợt chị hai hỏi:
- Bọc oản đâu? Chạy mệt đứt cả hơi, đói quá, bây giờ ăn đã.
May trong lúc chạy trời xui đất khiến thế nào mà chị ba vẫn giữ được bọc oản của ông người thật gói cho.
Chị hai mở bọc chia cho mỗi đứa một cái oản, hai quả ổi còn đâu chị gói lại đưa cho chị ba: “Để dành lúc nào đói lại ăn”. Chị ba nhồm nhoàm nhai khen: “Ổi đào ngọt và thơm quá! Anh cầm oản đưa lên mồm trệu trạo, chị hai bảo: “Để chị bắt chước mẹ nhai rồi mớm cho cu” - Chị cắn oản nhai, bụm miệng lè vào mồm anh. Oản nhạt, khó nuốt, anh nhăn mặt. Chị hai bảo: “Chị nhai lẫn ổi cho em dễ ăn”. Oản nhai lẫn ổi ngon thật, nhưng khi nuốt anh lại nghĩ tới những giọt sữa của bà mặt đẹp cho bú sáng nay.
Ăn xong, chị hai nói:
- Chị em mình bị lạc rồi. Bây giờ phải quay lại tìm đường về kẻo tối.
Đúng thế, mặt trời đã khuất sau rừng cây, hơi sương bay là là trên mặt đầm. Chị hai uể oải ngồi xuống cho anh trèo lên lưng. Chị lấy câu mẹ hay nói khi bế anh để ca cẩm: “Nặng như cối đá lỗ ấy”.
Bọn anh tụt xuống cái dốc vừa leo lên. Chị hai dừng lại trước con đường nhỏ có ba nhánh rẽ. Chị hỏi:
- Có đứa nào nhớ lúc nãy mình đi đường nào không?
Anh đã biết nói đâu mà trả lời, còn chị ba ngước mắt nhìn chị hai bối rối... chị hai “hừ” một tiếng rồi phăm phăm bước vào nhánh giữa. Ba chị em luồn lách dưới những rặng cây, lá cành trên đầu đan che kín tưởng như trời sập tối rất nhanh. Càng vào sâu càng sợ. Đi một thôi một hồi nữa mới ra khỏi cánh rừng. Anh nghe chị hai trút một hơi thở khoan khoái. Trước mặt bọn anh là cánh đồng lúa loang lổ chỗ xanh, chỗ vàng. Chị hai dẫn bọn anh đi cắt ngang một ruộng lúa. Nhìn đồng lúa xác xơ, rời rạc anh nhớ chuyện dì kể cho mẹ nghe: Năm nay mùa màng dưới quê thất thu, có người đói quá đêm ra ruộng cắt trộm lúa non, bị địa chủ đánh chết dìm xác xuống bùn lầy.
Chị hai dẫn bọn anh đi vòng vèo theo bờ ruộng, chị ba bước hụt, tí lại kêu oai oái. Chị hai nhắc: “Bước cẩn thận, giữ bọc oản kẻo rơi mất”. Trời chạng vạng, gió thổi mạnh dần.
Bỗng nhiên chị dừng lại nghe ngóng. Có tiếng ầm ầm như tiếng nước dội. Bỗng nhiên chị hai hô: “Chạy nhanh lên...”. Từ phía sau, nước ào ào cuồn cuộn đuổi theo.
Vừa thoát lên tới mặt đường thì ngọn nước cũng ập tới. Ngọn nước hất lại, cuộn đổ thành dòng. Những bông lúa sót lại trên đồng bị nước dìm lút ngọn, loáng cái mặt ruộng trắng xóa.
Hú vía! Bọn anh nếu không chạy kịp thì chắc bị nước cuốn đi như rác ở cống sau phố Đệ Nhị.
Trời tối sập. Bọn anh đi xuôi theo chiều nước chảy.
Đường gập ghềnh dốc lên, dốc xuống. Chị hai nhắc chị ba bám sát kẻo lạc, nhắc anh túm chặt khỏi rơi. Nước dâng lên rất mạnh, từ xa vọng tiếng nước réo sôi sục.
Bọn anh mỗi lần xuống đến chân dốc là lội phải nước. Đầu tiên láng gót, sau ngập đến ống chân rồi ngang thắt lưng. Cho tới khi nước chảy xiết cắt ngang không tài nào vượt được sang bên kia ba chị em đành quay lại. Bọn anh mắc kẹt trên đỉnh dốc.
Chị hai đặt anh ngồi xuống mặt đường, kéo chị ba ngồi cạnh. Anh nghe chị thở dài. Anh chắc lúc ấy chị ân hận vì không nghe lời mẹ dặn. Chị dụi dụi đầu vào đầu hai đứa, những giọt nước mắt lăn từ mặt chị xuống má anh nóng hổi. Hai tay chị ôm anh và chị ba vào lòng như gà mẹ dang cánh che chở cho lũ gà con vào những ngày mưa bão.
Hơi ấm của ba chị em truyền sang, sưởi ấm cho nhau. Cả ba ngủ thiếp vì mệt.
... Bọn anh tỉnh dậy trời đã tờ mờ sáng. Xung quanh toàn nước là nước, trắng xóa một vùng. Cánh rừng hôm qua bọn anh lạc vào không nhìn thấy đâu nữa, chỉ còn mấy đỉnh dốc nhô cao như đít cái bát bị dìm trong chậu rửa. Chân dốc chỗ ba chị em đứng, nước lem lém bò dần lên.
Giữa dòng, nước chảy mạnh, luồng nước kéo theo bao nhiêu thứ. Những căn nhà nổi lềnh bềnh nối tiếp nhau, dập duềnh như các toa xe lửa đang chạy; cây cối, rác rưởi không biết từ đâu trôi về lộn nhào từng vòng, từng vòng. Một con lợn khoang trắng ngửa bụng, bốn cái móng giơ lên trời quay quay bị hút vào xoáy nước chìm nghỉm, lúc lâu mới thấy con lợn giơ bốn chân tận giữa dòng; từng đám củi gỗ bám bọt gặp sóng tan hòa vào dòng nước xiết chảy.
Chị hai cho bọn anh ăn nốt chỗ oản và ổi còn lại. Chị mớm hết phần dành cho anh rồi mà bụng vẫn đói. Anh nhìn chị mồm tóp tép, chị cằn nhằn: “Chỉ có việc ngồi trên lưng mà ăn rõ nhiều lại còn vòi”. Nói vậy nhưng chị vẫn mớm vào mồm anh thêm mấy miếng nữa.
Ăn xong chị hai lấy mảnh vải bọc oản nhúng nước rửa mặt cho anh và chị ba. Chị nói.
- Nước chắc chỉ lên đến thế thôi chứ lấy nước đâu mà lắm thế!
Ấy là chị tự an ủi thế chứ thực ra anh nhìn xuống, nước đã mấp mé đỉnh dốc.
Đến trưa nước bắt đầu ngập đến chân ba chị em. Chị hai nắm chặt tay chị ba, anh túm chặt vai áo chị hai. Cả ba sợ đến nỗi không khóc được. Chị ba rên thành tiếng: “Thế này chết chị ơi...” Anh chưa biết chết là thế nào, nhưng có lần chị hai nằm dài trên giường nhắm mắt lại dọa anh: “Chị chết đây cu ơi...”. Anh trèo lên người, cạy mồm, cạy mắt chị vẫn không dậy. Anh sợ, òa lên khóc, lúc ấy chị mới mở mắt cười nói: “Chết giống người ta ngủ lâu ấy mà”. Chết mà như ngủ thì sợ gì! Ngủ chán, chết chán lại dậy đi chơi...
Anh không sợ chết nhưng sợ nước, chắc vì lần anh bị ỉa đùn, lấy tay bốc cứt bôi nhoe nhoét khắp người, cho cả lên mồm. Chị chun mũi vì thối, lôi anh ra giếng, múc nước dội từ đầu xuống chân. Anh vùng vẫy, giãy giụa, mũi miệng tranh nhau thở vì ngạt. Sau lần đó hễ thấy nước là anh sợ. Mẹ và dì mỗi lần tắm cho anh khác nào đánh vật. Mồm anh nằng nặc kêu khóc, hai tay cào cấu, chân giãy nảy đạp tứ tung. Mẹ cáu phết vào đít anh mấy cái anh mới chịu. Mẹ ca cẩm: “Thằng này tuổi thân, giống khỉ, thích leo trèo, sợ nước”. Có lẽ mẹ nói đúng vì thế bây giờ ngồi trên lưng chị, anh trợn tròn mắt sợ sệt nhìn dòng nước chảy ngầu ngã.
Chị hai xoa đầu chị ba: “Nếu bị nước cuốn, các em nhớ phải bám chặt lấy chị”. Chị chả nói thì anh cũng đã tóm vai áo chị rất chặt rồi còn gì. Chị ba hai tay đã quàng ôm riết lấy eo bụng chị hai đấy thôi.
Vừa lúc đó, từ phía đầu nguồn nước ào ào đổ về. Bọn anh bị nhấn chìm vào một đợt sóng, anh sợ đến nỗi nhắm tịt mắt lại vì nước chồm lên đầu. Anh chỉ kịp nhớ lời chị hai dặn: “Bám chặt lấy chị”. 

14. Cơn bão tháng tám năm ấy cướp đi một nửa sản lượng lúa.
Ông chủ nhiệm thông báo cho các đội sản xuất:
- Ưu tiên thuế nông nghiệp. Hiện nay có chiến tranh ở biên giới phía Bắc. Mất mùa dân có thể đói. Nhưng quân đội phải ăn no mới đánh thắng được giặc.
Khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân - Quân không thiếu một người” được ông quán triệt.
Mặc dù vụ mùa thất thu, nhưng em để ý thấy dạo này bố mẹ rất vui.
Bố nói:
- Trong chiến trường ba ngày mới được bát cơm, còn ăn toàn rau rừng với lương khô vẫn chịu được.
Mẹ nói:
- Nông dân quen khổ rồi. Qua loa cho xong bữa.
Bố lên chợ Phúc An mua đôi gà mái đẻ. Được quả trứng nào đem vào bồ thóc cất kỹ sợ chuột cắp.
Thèm, em lấy ra luộc: Bố bảo:
- Mẹ có em bé, để dành cho mẹ ăn lấy sức.
Thảo nào bố vui thế.
Chải đầu bắt chấy, mẹ hỏi:
- Con thích em trai hay gái?
- Con thích em trai. Em trả lời.
- Hai bố con giống nhau thế không biết! Nếu con gái thì sao? - Mẹ hói.
Em ậm ừ còn bố cười: Thích con trai. Nhưng nếu không được, nhà mình sẽ có hai cái Linh. Mẹ cười, em cười, bố cười. Lâu rồi nhà em mới có tiếng cười vui thế.
Đội thông báo ra sân kho nhận thóc công điểm. Mẹ bảo:
- Nặng thì mượn xe cải tiến. Con Linh ra đẩy cho bố.
Bố kéo xe, em đẩy, chở thóc về. Ngồi bệt xuống sân, mắt bố thẫn thờ. Mẹ mở miệng tải, bốc nắm thóc ca cẩm: - Sắp mọc mầm, gạo thì nát, cơm thì đắng.
Bố nói: - Mai tôi ra đầm Vực vỡ đất trồng dây khoai lang, không đến khi hết gạo lấy gì mà ăn?
Mẹ gàn: - Đất nhiều nhưng chẳng làm được đâu! Từ bận tranh nhau phi công phi kiếc, hai làng thù nhau hơn. Bố nó đừng ra, nhỡ cái thì khổ.
Tinh mơ, bố vác cuốc, xách theo ấm nước vối. Chọn khoảnh đất ven đầm đánh luống. Dây khoai vừa bén rễ có kẻ đến nhổ sạch. Bố ngao ngán nhìn mầm rễ trắng ngần vứt chỏng chơ.
Bố kiếm màn cũ, chẻ tre vót cần làm vó riu tôm. Trẻ chăn trâu ném đất xuống cho động nước. Bố nói, tụi nó bảo: Đầm của giời, thích ném ở đâu thì ném.
Ngại va chạm, bố im. Ước mơ cứu đói ở đầm Vực của bố bị tiêu tan.
Bụng mẹ thây lẩy, mạch máu xanh lét hằn trên làn da, bụng càng phưỡn, mặt mẹ càng hốc hác. Bố ca cẩm: - Trông mình gầy và xanh quá!
Mẹ hớn hở: - Tại nuôi cả thằng cu nên thế đấy mà.
Thuốc của người dân tộc miền núi công hiệu thật! Cũng bõ công của mẹ. Bố uống được hai chục thang bệnh đã chuyển. Mất tiền cũng đáng! Da bố bớt vàng, cơn sốt dứt hẳn. Ông Chủ nhiệm có lần gặp nói:
- Chuẩn bị tính lao động chính được rồi nhỉ?
Lao động chính đi làm được tính công điểm chính; không làm vẫn phải đóng góp công xã hội bằng những người khỏe mạnh.
- Bác ưu tiên cho em. - Bố nói.
Ông Chủ nhiệm lên lớp:
- Cả nước đi bộ đội chứ mình gì đồng chí! Chẳng nhẽ ưu tiên tất cả lấy đâu sức người sức của chi viện cho tiền tuyến? - Lý lẽ của ông, bố không cãi nổi.
Sáng sáng xã viên tập trung dưới cây mít treo quả bom câm nhận việc. Bà Đội trưởng nhìn bố ái ngại: - Chú còn rớt lắm, đi làm sợ gục ra đấy lại tội mẹ con nó.
Bố nói: - Không đi làm lấy gì mà ăn hở bác? Còn mọi tiêu chuẩn nữa chứ!
Bố nhắc đến những quyền lợi xã viên được hưởng. Bánh thuốc lào Tiên Lãng, bao diêm Thống Nhất, gói chè Liên Hoa, mảnh vải phin, không dùng để lẻ cho quán nước đầu làng cũng dôi thêm được dăm hào lãi.
Em trèo cây hái ổi mang ra gửi hàng nước. Ổi ngon dễ bán. Mẹ nói: - Bà biết trước nên trồng ổi giúp mẹ con mình đấy!
Quả thật tiền bán ổi đủ cho nhà em tiền dầu đèn, muối mắm. Bố nói:
- Mong bà phù hộ cho qua đận này.
Nhưng ổi chín cũng có mùa.
Bố soi lấy trứng có sống cho một mái gà ấp, mười lăm quả nở được mười con. Bố dặn: - Linh, chăm lấy gà, mẹ đẻ tần gà với lá ngải cứu tẩm bổ cho mẹ.
Em đào giun cho gà ăn, bọn gà lớn nhanh như thổi.
Em hỏi mẹ: - Ngày xưa mẹ đẻ con có dễ không?
- Dễ! Đau bụng ra trạm xá được nửa ngày thì đẻ. Chửa lần này mẹ thấy khác lắm. Chắc là thằng cu nên mệt mỏi hơn.
Được thằng cu không những riêng bố mẹ mà cả họ đều mong. Bác cả đằng bố em đẻ năm bận, bốn gái, một trai.
Mẹ sáng nhà nói với bác dâu trưởng: - Em tính tháng thứ bảy rồi mà không thấy động tĩnh gì.
Bác đưa mẹ đến trạm xá, cô y tá vạch áo áp ống nghe vào bụng: - Không rõ tim thai, chuyển lên viện Phúc An.
Giữa trưa bác dâu về thở dài:
- Bác sĩ bảo phải nằm viện để theo dõi. Có tiền nộp mới được nhập.
Bố vét hết tiền nong trong túi được năm đồng. Không đủ, bố đi vay. Trong họ mỗi người giúp đôi đồng, hàng xóm dăm đồng, bác cả cho thêm vỏn vẹn được hai chục đồng. Mẹ nằm dăm hôm, bệnh viện bảo phải đi Hà Nội, ở đây không đủ phương tiện.
Đi Hà Nội lấy đâu ra tiền? Cầm giấy chuyển viện về nhà, lần nữa... Mẹ tặc lưỡi: - Chẳng sao đâu! Thằng bé chắc ngoan không muốn làm đau mẹ.
Mẹ lấy áo rách lựa cắt khâu thành áo trẻ con, mấy người hàng xóm cho tã cũ. Bố mang mảnh dù pháo sáng đem từ chiến trường về đưa cho mẹ khâu làm vỏ chăn.
Tết năm ấy bố không gói bánh chưng, dành gạo chờ mẹ đẻ. Bác cả cho hai chiếc bày bàn thờ cúng gia tiên, thêm cái bánh con cho em.
Ông chủ nhiệm lấy khẩu hiệu “tiết kiệm” nhắc nhở bà con xã viên. Cấm không mổ lợn trộm, nấu rượu chui. Chiều ba mươi tết, hợp tác xã mổ con trâu già, chia cho mỗi xã viên tiêu chuẩn một cân, phân phối mỗi nhà chai rượu cam, một gói mứt, cút nước mắm. Bố bán gói mứt bù tiền mua thêm chai rượu mang sang bác cả thắp hương ông bà nội.
Tối ba mươi, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường. Mấy người đàn ông uống trà ngồi nói chuyện chiến sự phía Bắc chờ giao thừa. Ngoài trời rét đậm. Mạ chiêm xém vàng, hợp tác xã có chủ trương ăn tết xong gieo lại.
Mẹ mơ thấy mình đẻ một bé trai kháu khỉnh, bụ bẫm, da hồng hào, tóc đen nhánh, mặc áo hoa, toe toét cười. Vừa đẻ ra nó đã biết theo chị Linh đến trường. Hai chị em vừa đi vừa hát bài gì không nghe rõ. Bỗng có tiếng kẻng báo động. Có tiếng máy bay lẫn tiếng súng nổ. Rồi một loạt bom rải xuống. Cây mít treo quả bom câm đổ dập. Nhìn về trường học một chùm lửa chụp xuống. Có cái gì thúc mạnh vào bụng mẹ đau nhói, mẹ gào thảm thiết: - Con ơi, con ơi!...
- Mẹ cái Linh, mẹ cái Linh, sao vậy? - Bố lay mẹ.
Mẹ mở mắt ngơ ngác: - Hai đứa trẻ đâu?
- Trẻ nào? Mình mơ gì vậy? - Bố hỏi.
Mẹ đưa tay ôm bụng: - Tôi mơ đẻ con trai. Mọi người đâu cả rồi?
- Về từ lúc nãy. Chuẩn bị giao thừa rồi.
- Có nhẽ tôi sắp đẻ? Đau lắm!
- Cố nhịn đến sáng mai được không? Bây giờ biết nhờ ai?
- Bảo con Linh sang bên nhà gọi bác cả - Mẹ nói.
Bác cả đang cúng, bỏ dở bài khấn giục vợ chạy sang. Mấy người hàng xóm nghe tin chạy đến.
Cái võng bạt bố đem ở chiến trường về đã chuẩn bị sẵn. Bốn người thay nhau khiêng. Bố cầm đèn bão đi trước. Em cùng mấy người chị con bác cả chạy theo sau.
Đúng là tối như đêm ba mươi. Thi thoảng có người bước trượt xuống ruộng.
Lên đến đường cái, gặp trai gái đi chơi giao thừa, rủ nhau hái lộc ở đồi Thanh Tước. Họ rùng mình nghe tiếng mẹ rên, ái ngại nhìn đám người khiêng cáng...
Thị xã Phúc An râm ran tiếng pháo.
Mẹ được đưa vào khoa cấp cứu.
Chiếc loa gắn ở cổng bệnh viện vang lên giọng hát: “Em ơi! Mùa xuân đến rồi đó...”.
15. Miệng anh há rộng đớp đớp, nước trào vào khoang mồm đùn ngược lại đằng mũi, đầu lắc liên hồi vì ngợp, ho sặc sụa mồm phun phì phì, tai ù nghe tiếng cối xay thóc, chuẩn bị lịm thiếp thì đột nhiên như có ai nhấc bổng lên. Mở mắt, nửa người ngâm dưới nước, còn hai tay vẫn bám chặt vai chị hai, Chị hai chồm người trên bè nứa, tay tóm sợi dây buộc bè, một chân gác lên quặp vào khe hở cố đu lên. Lúc ấy không nhìn thấy chị ba đâu. Khi chị hai co nửa người lên mặt bè, anh thấy chị ba hai tay tóm vạt áo chị hai còn người bập bềnh trên mặt nước. Chị hai loay xoay mãi vẫn không trèo nổi lên bè vì vướng. Anh nghe chị hai hét:
- Tóm lấy bè, buông áo chị ra.
Vừa hét, chị hai vừa lấy chân đạp mạnh, Chị ba bị cú đạp bung ra đẩy về phía cuối dòng, nhấp nhô, nhấp nhô giã gạo cách cái bè một quãng nhưng hai tay vẫn khư khư ôm vạt áo bị xé giơ trên mặt nước.
Chị hai nhanh chóng trèo lên bè.
Rất may trên bè có cây sào nứa, chị hai cầm lấy thả một đầu xuống nước. Ngọn cây sào trôi về phía chị ba. Nhưng tay chị ba vẫn không buông vạt áo rách ra, còn đầu thì lắc liên hồi. Chị hai gào:
- Buông mảnh áo ra, tóm lấy đầu sào, tóm lấy đầu sào.
Anh không ngờ tiếng chị hai thét to đến vậy. Chừng như hiểu, chị ba buông mảnh áo, quờ quạng tóm được đầu cây nứa. Chị hai ngoảnh lại bảo anh: “Cu bám chặt để chị kéo”.
Lên được bè, mặt chị ba xám ngoét, đầu rũ rượi, ngắc lên ngắc xuống, bụng phềnh như bụng ễnh ương, nước trong bụng ộc ạo, cuộn thắt từng đợt, mồm nôn ọe, nhổ phì phì. Một lúc sau nước hết, thôi nôn chị òa khóc.
Anh không khóc nhưng nghĩ lại lúc bị dìm trong nước, không thở được mà sợ.
Cái bè chở bọn anh trôi theo chiều nước chảy, đôi lúc nước quẩn lại đảo ngược biến mũi thành đuôi hoặc quay đi quay lại rồi lại lừ lừ trôi. Mặt bè rộng, vững chãi, giữa bè có một cái lều che bằng lá gồi.
Ở trên bè nhìn rõ hơn: Xung quanh cả một vùng mênh mông nước. Những rặng tre bị nhấn chìm còn trơ lại tầm ngọn cong vút, bị nước vít hất lên hất xuống. Bọn anh nhìn xem phố xá, nhà cửa nhà mình đâu không thấy. Cả một vùng nước là nước. Phía dãy núi Tam Đảo xanh thẫm trùng điệp nhấp nhô tít tắp chạy dài. Mé cuối dòng bè đang trôi có mấy ngọn đồi cao, đứng rải rác sắp bị nước nhấn chìm. Chị hai bảo: “Đấy là đồi Thanh Tước, ở nơi ấy có chùa, trôi đến đấy xin được khối oản”.
Mặc chị ba i ỉ, chị hai cõng anh dìu chị ba vào lều. Trong lều chẳng có cái gì ngoài mùi ẩm mốc làm mũi anh hắt xì hơi mấy cái liền. Chị hai nói: “Thoát rồi. Các em ngồi đây, không được ra ngoài nhỡ ngã xuống nước”.
Mắt chị ba đỏ ngầu, những sợi tóc bết ở trán rỏ nước tong tong. Chị hai cởi quần áo của anh và chị ba vắt bớt nước, treo lên mái lều hong cho khô. Chị đứng lên, nửa thân áo bị đứt hở khoảng da lưng bợt bạt, một vết lằn tím ngắt cạnh sườn đang rớm máu.
Nắng to nhưng bọn anh rét vì gió thổi. Chiếc bè vẫn lững thững trôi. Chị ba và anh ngồi nép vào góc lều nhìn ra: Chị hai đứng trên bè, cầm sào thọc xuống nước. Cái sào ngập gần lút ngọn mà chưa tới đáy. Chị rút sào lên đi vào lều hỏi:
- Các em có đói không? Chị đói lắm rồi.
Ai đã được ăn cái gì mà không đói. Bụng cồn cào, rát ràn rạt như phải bỏng, mấy ngụm nước khi nãy nôn hết ra rồi, bụng bây giờ rỗng không. Chị ba hỏi:
- Oản với ổi còn không hả chị?
- Ăn hết rồi còn hỏi! Bây giờ hai đứa ngồi im đấy chị ra ngoài kiếm cái gì để ăn.
Nước mênh mông bể sở như thế này không biết có ăn được để chị hai kiếm không. Chị ba ôm anh, mệt quá gật gà ngủ. Còn anh đói quá không nhắm mắt được. Nhìn ra xem chị hai tìm cái ăn.
Bỗng chị hai mặt xám ngoét chạy vào lều hổn hển: “Có... có người...”
- Ở đâu? - Chị ba choàng tỉnh.
- Ngoài... ngoài kia... - Chị hai lắp bắp
Anh và chị ba nghển cổ nhìn: Phía trước mặt bè sắp trôi đến có những cây cao hơn mặt nước, anh nhìn thấy có vài con chim lượn lờ trên không trung chứ chẳng thấy có ai.
Chị ba nói: - Người đâu mà người!
Chị hai lấm lét chỉ ra: - Người... người... người chết, chết trôi.
Chị ba nghe chị hai nói “chết” rúm lại như con sâu róm. Anh thụt vội đầu vào, ba chị em nép sát nhau sợ sệt nhìn ra.
Lập lờ nổi sát bè, một cái xác người trương phềnh, bị sóng đánh lật lên lật xuống, phướn phườn phườn như cái trống giữ nhịp múa sư tử đêm trung thu, mặt mũi phồng phạo như mặt chú Tểu múa rối nước. Tóc trên đầu lơ thơ rập rờn, vải áo trương căng cứng, đường chỉ khâu giãn như sắp bục, cái quần nhuộm nâu tụt quá hông, chiếc dây thừng thay dải rút thắt ngẩng, bờ thịt hằn sâu che kín miệng cạp. Một tay duỗi thẳng đờ, một cánh tay vắt ngang, khuỷu co ngang, bàn tay nắm chặt đai cạp quần. Sóng nước xô mạnh, đôi khi cái xác vập úp nghiêng như muốn lật người trèo lên bè.
Bọn anh ôm nhau thi thoảng hé mắt nhìn xem cái xác trôi đi chưa. Nhưng cái xác hình như không muốn rời cái bè. Nó giãn ra một chút rồi lại sát gần vào. Ruồi muỗi bu đen kịt, lúc đậu, lúc bay vù vù. Từ tít trên trời, vài con quạ kêu “quà... quà...” lượn lờ chao qua chao lại, là là nghiêng nghiêng cánh như muốn sà xuống bè.
Chị ba rên: “Em đói quá...”, người anh ngọ nguậy đồng tình. Chị hai xoa lưng hai đứa: “Chờ người chết trôi trôi đi rồi chị tìm cho hai đứa cái gì ăn...”
Nhưng không biết bao giờ cái xác mới trôi đi mà bụng bọn anh thì đói...
Chị đứng lên rút quần áo mặc cho anh và chị ba:
- Mặc quần áo vào sẽ đỡ đói.
Quần áo mặc vào đỡ lạnh nhưng không đỡ đói. Cái đói vày vò cái bụng. Chị hai lấy tay ép bụng cho đỡ đói, chị ba cong người vặn vẹo cho đỡ đói, anh há miệng đớp đớp chờ bầu vú với những giọt sữa ngọt ngào thơm thảo cho đỡ đói.
Ngả chiều, mây đen từng đám bay ngang, nước chảy yếu dần, cái bè trôi từ từ.
Chị hai nói đúng: Cái bè đang trôi về hướng núi Thanh Tước. Các xác người chết trôi, trôi cùng bè.
Một cây chuối từ đâu dạt đến rập rờn cạnh cái xác.
Nhìn cây chuối, bọn anh đứa nào cũng ứa nước bọt. Nhớ lần mẹ thái chuối làm rau ghém ăn với riêu cua, chị nhớn lấy nõn chuối non nhét vào mồm anh. Vị ngọt chát. Nhưng bây giờ mà được ăn thì chát mấy vẫn ngon.
Chị hai hình như quên cả đói. Mắt chăm chú hết nhìn cây chuối lại nhìn cái xác... Cả hai đang rập rờn nô đùa; cái xác lật lật như muốn đẩy cây chuối ra xa, cây chuối rỡn sóng ép cái xác dập dập vào thân bè...
Chị hai nói: - Ngồi im đấy, chị lấy sào đẩy “nó” đi.
“Nó” ở đây tức là cái xác. Đẩy cái xác đi để giành lấy cây chuối.
Chị hai bước ra, cúi đầu xuống nhấc cây sào, lò dò tiến đến chống một đầu vào cái xác, bụng cái xác kêu bum bủm như người đánh rắm, ruồi muỗi bay lên vù vù. Mỗi lần cái sào đẩy cái xác, cái xác đẩy cây chuối cùng trôi ra. Sợ cây chuối trôi đi sẽ mất cái ăn chị dừng lại.
Chị vòng lên phía trên, lấy sào chọc vào cây chuối, có ý muốn đẩy cây chuối dịch xuống phía dưới lấy chỗ cho cái xác trôi. Cây chuối trơn, cái sào chọc vào trôi trượt, chị lựa chống đầu sào vào ngọn chuối, cây chuối dừng lại, cái xác trôi theo bè.
Khi giữa cây chuối và cái xác chừa ra một khoảng cách, chị dùng sào chống vào cái xác đẩy. Chọt chị hai khựng lại, ngồi thụp xuống nhìn.
Ngay chỗ thắt lưng, nơi bàn tay cái xác nắm, có một cái túi vải nhỏ màu xanh giống như túi đựng cối giã trầu của bà dưới quê ngoại. Cái túi có sợ dây thắt miệng túi được buộc chặt vào sợi dây thừng thay dải rút của cạp quần cái xác mặc. Để cho chắc, bàn tay cái xác còn nắm chặt sợi dây.
Chị hai lấy sào kều kều cái túi. Cái túi thõng chìm dưới nước, mỗi lần đầu sào nâng lên nhìn rõ có vật gì để ở trong.
Chị hai quên phắt chuyện cây chuối, tập trung vào chiếc túi cái xác đeo. Chị quyết định đến gần. Còn cách một tầm tay, chợt chị giật mình vì tiếng “quà... quà”.
Một con quạ đậu cuối bè vỗ cánh bay vụt lên trời.
Chị đặt tay lên ngực cho đỡ sợ rồi tiếp tục công việc. Nhìn tưởng gần, nhưng khi thực hiện mới thấy khó. Khoảng cách giữa chị với cái xác là nước, nằm ẹp xuống mặt bè, cố với tay về phía cái túi nhưng không được. Có lần tay với sắp được cái xác lại bị sóng đẩy ra.
Mệt quá, chị hai ngồi nghỉ nhìn cái xác tính toán. Chị quay vào lều vẫy:
- Một đứa ra giúp chị.
Chị ba nhìn anh như muốn nói: “Em giúp chị hai”. Nhưng lúc đó anh đã đi vững đâu mà giúp được!
Chị ba đi ra chỗ chị hai. Chị hai nằm xuống bò lết ra sát mép bè. Chị ba một tay tóm chặt dây buộc bè, một tay tóm chặt cổ chân chị hai ghì lại.
Chị hai vươn một tay, tóm lấy cạp quần cái xác, một tay cầm cái túi dứt mạnh... “oạc oạc oạc” vải quần cái xác mủn toạc, sợi dải rút buột ra lên theo. Chị hai nhỏm dậy reo: “Được, được rồi”. Cái túi trong tay chị nhưng đầu dây đằng kia bị tay cái xác giữ lại. Chị hai bảo chị ba: “Ra kéo cùng chị”.
Phải mất một lúc cái xác mới “bỏ tay”. Chị hai cầm vội cái túi chạy biến vào lều như sợ cái xác trèo lên bè cướp mất.
Vào trong lều, chị hai mở ra: Một vật tròn, to hơn nút lọ mực, vàng chóe hiện ra... chị hai vội túm lại nhìn quanh: “Vàng... vàng - Chị nhớn nhác nói tiếp - Cất... cất đi kẻo ai vào thấy họ đòi mất”. Chị thắt miệng túi lại, buộc vào dải rút quần của mình rồi bảo:
- Hai đứa ngồi đấy, chị ra vớt cây chuối lên.
Cái xác bị cái sào đẩy “ngoan ngoãn” rời khỏi chiếc bè, “nó” lượn lờ một lát rồi trôi ra xa. Chị quay lại chỗ cây chuối. Cây chuối to, không tài nào kéo lên bè được. Chị gọi chị ba ra tước bẹ.
Nõn chuối trắng ngần, chị hai bẻ cho bọn anh mỗi đứa một đoạn. Chưa bao giờ anh thèm ăn như thế. Chị hai lấy tay bóp mủn nõn chuối bón vào mồm anh, anh nuốt lấy nuốt để. Vị nõn chuối không ngọt, không thơm như sữa mẹ và sữa của bà mặt đẹp. Nhưng ngon làm sao. Ăn đến đâu, tỉnh đến đấy, phải mỗi cái tơ chuối dính nhằng nhằng hai bên mép.
Trên cao, ông mặt trời thổi lửa xuống mặt bè, cái nóng hầm hập vỗ vào da thịt như phải bỏng. Mặt ba chị em đỏ không kém mặt ông trời. Ăn hết nõn chuối mà bụng vẫn nôn nao, xót như cào, như xé. Chị hai cuộn bẹ chuối thành bồ đài vục lấy nước cho bọn anh uống. Cái lưỡi của anh thè ra tìm vị ngọt, nhưng chỉ nhận thấy vị nhạt toẹt. Bỗng cả ba chị em mồm nôn thốc nôn tháo. Ruột cuộn thắt từng đợt đẩy nõn chuối ọe ra khỏi miệng. Nhớt dãi chảy ròng ròng. Mắt mở thấy hoa nắng nở rộ, nhảy nhót, mắt nhắm thấy sầm xì, mù mịt. Đầu quay như chong chóng làm bằng lá đứa gặp gió trên đồi Thông ở phố Đệ Nhị. Trước khi không nhìn thấy gì nữa, bọn anh nhận ra cái bè trôi qua sườn núi Thanh Tước, còn ngôi chùa lưng chừng núi ngập chìm. Thế là ước mơ của ba chị em được ăn oản ở chùa tan theo dòng nước chảy. 
16. Tin người đẻ ra ma quái đồn khắp tỉnh. Nhiều kẻ bạo gan tò mò vào bệnh viện xem; cửa nhà xác khóa, bảo vệ không cho vào. Nhưng ai ra về cũng khăng khăng tận mắt được nhìn thấy như đinh đóng cột.
- Cái thai có một con mắt ở giữa trán, trước khi đưa xuống nhà xác hai mắt mở trừng trừng.
- Cái thai có mõm như lợn, chân tay mọc lông như khỉ.
- Cái thai có vòi như vòi voi.
- Cái thai không chân tay, tròn ủng như sọ dừa, nhưng sọ dừa trong chuyện cố tích còn sống, chứ sọ dừa của mẹ này là yêu vật nên bệnh viện mang chôn ngay. Khi chôn phải lấp hàng tạ vôi bột.
- Cái thai...
Thôi thì đủ chuyện nói về cái thai.
Ông thầy cúng ở làng quả quyết:
- Âm hồn những người bị Tây chôn sống dưới giếng làng không thoát bây giờ báo ứng.
Gã thầy bói phán:
- Vì thâm thù nên có kẻ thuê thầy địa lý yểm bùa, mướn pháp sư chôn hình nhân hòng triệt hạ dân Quyết Chiến.
Ông không nói hẳn ra nhưng ai cũng biết ông định ám chỉ ở đâu rồi.
Có kẻ độc mồm, độc miệng:
- Hồi ở chiến trường miền Nam, bố bắn chết nhiều người quá nên bây giờ bị các âm hồn trả thù.
Tại..
Theo họ có rất nhiều cái “tại” liên đới đến quái thai mẹ đẻ ra.
Mưa lay phay, rét căm căm. Sợ mùa xuân mất vui, ngại đầu năm xuất hành hướng xấu, dân làng kiêng không ai đến viện thăm mẹ.
Bệnh viện ngày tết vắng người. Gió bấc thổi ù ù vào hốc nứa đòn tay, vào lá cọ lợp mái sàn sạt, sàn sạt, mây xám vần vũ phủ kín bầu trời.
Mẹ tỉnh sau cơn mệt lả vì vượt cạn, mắt lờ đờ nhìn bố như muốn hỏi: - Con của chúng mình đâu?
Bố bậm môi nén nhịn nhưng nước từ khóe mắt chảy ra ràn rụa.
Bác cả nấu cháo ép mẹ ăn lấy vài ba miếng, mẹ lắc đầu, đôi mắt mở to không một chút hồn.
Mẹ mơ thấy hồn mình bay vào cõi u linh, nơi chín tầng địa ngục, lửa hồng hoang trong chảo dầu thiêng lập lòe, thứ dầu ở cõi âm ti địa phủ mới có; ánh lửa chập chờn bay lượn như ma trơi; không sáng, không tối, không nóng, không lạnh. Đứng xung quanh là những hung thần địa phủ mặc giáp đen, tay cầm binh khí áp giải các linh hồn mặc áo dài may bằng giấy màu trắng thướt tha. Âm binh dẫn mẹ ra. Không dây trói mà cảm giác tay chân mẹ không cử động nổi. Cánh cửa tòa đại hình mở. Thú đầu trâu mặt ngựa đẩy cỗ xe nhà táng đặt chiếc quan tài nhỏ. Mẹ ngó vào: Một di hài nửa người nửa thú nhoẻn cười. Nụ cười phù thủy ma quái lanh lảnh cất lên từ đôi môi biến dạng phù ủng nhớp nhúa. Nó thò cùi tay cụt lủn vươn về phía mẹ đau đớn gào thét:
- Trả cuộc đời cho ta!... Trả cuộc đời cho ta!...
Mẹ sợ hãi tay cố đẩy, giọng hãi hùng:
- Tôi không có tội... tôi không có tội.
Đôi cùi chỏ máu chảy ròng ròng vươn dài như mình rắn quấn quanh cổ mẹ:
- Mi có tội không cho ta làm người, mi phải chết... mi phải chết.
Nghẹt thở, mẹ cố vùng thoát... nhưng vòng xoắn ma quái xiết chặt...
- Sao thế, sao thế mẹ cái Linh? Mơ gì đấy? Tỉnh dậy đi, tỉnh dậy đi! - Bố lay vai mẹ.
Mẹ ú ớ, hơi thở tắc nghẹn, trán lạnh ngắt, môi xám ngoét. Bác sĩ vừa chạy vừa la:
- Bớ bác sĩ... Cấp... cấp... cấp cứu...
Bác sĩ trực vạch mi mắt, đồng tử con ngươi mẹ lờ đờ. Những sợi bông đặt sát lỗ mũi bay bay. Người bác sĩ thở phào:
- Còn sống!
Mẹ tỉnh sau mũi tiêm thuốc hồi sinh. Nằm thêm hai hôm nữa bố xin đưa mẹ về, bệnh viện trả lời:
- Ty Y tế công văn xuống: Đoàn cán bộ Trung ương đến điều tra. Đi cùng có cả người nước ngoài và các nhà báo.
Sự kiện đẻ ra quái thai của mẹ vang đến tận Hà Nội.
Một sáng, ba nhân viên y tế đến thay quần áo mới cho mẹ, rồi cáng mẹ lên nằm ở căn phòng được quét dọn sạch sẽ. Bác sĩ dặn:
- Nếu có ai hỏi bệnh viện đối xử với bác thế nào, nhớ nói cho chúng tôi một tiếng “phục vụ tốt”.
Đoàn người đến. Căn phòng sạch sẽ, mùi vôi mới thơm nồng, ve quét màu xanh nhạt, đầu giường kê tủ gỗ đánh véc- ni bóng lộn, trên mặt bày lọ sứ trắng cắm hoa hồng; ngăn tủ dưới đựng phích Trung Quốc vẽ chữ “hỉ”; giường nằm trải ga trắng bốp. Đủ thấy điều kiện thế nào nên không ai hỏi.
Đi cùng đoàn có nhiều người nước ngoài. Họ nhìn mẹ bằng đôi mắt màu xanh lét như mắt mèo. Yêu cầu phiên dịch, dịch bệnh án từ hôm mẹ nhập viện. Các nhà báo, phóng viên ra hiệu mẹ ngồi dậy để chụp ảnh; hỏi han, mở sổ ghi ghi chép chép.
Người đàn ông nước ngoài, da đỏ như ngực gà chọi, lỗ chân lông to đến nỗi có thể xỏ que tăm vào được, có cái mũi khoằm như mỏ diều hâu, hỏi mẹ. Lời của ông được người phiên dịch dịch:
- Chồng bà đâu?
Mẹ ngơ ngác:
 - Nhà cháu ở dưới chỗ mọi khi cháu nằm ấy!
Người phiên dịch không dịch câu trả lời của mẹ, mà quay lại bảo bệnh viện trưởng:
- Anh cho mời chồng bà ta lên.
Bố bước vào. Ông người nước ngoài nhìn chằm chằm:
- Ông làm nghề gì?
Bố đáp: - Tôi là bộ đội đánh Mỹ, bây giờ đã phục viên.
Sau khi nghe phiên dịch, ông người nước ngoài quay sang xì xồ nói với những người đi cùng. Bọn họ xoay sang phỏng vấn bố.
Hỏi: - Ông đi bộ đội bao nhiêu năm?
Bố đáp: - Dạ! Mười năm.
Hỏi: - Ông chiến đấu ở đâu?
Bố đáp: - Dạ! Chiến trường Tây Ninh, Buôn Ma Thuột, biên giới Campuchia.
Một người đi cùng đoàn mở bản đồ Việt Nam hỏi:
- Ông chỉ cho chúng tôi nơi ông đã đánh nhau với quân Mỹ?
Bố nói địa danh, người phiên dịch chỉ. Mấy người nước ngoài nhìn bố, nhìn bản đồ gật gật, rồi lại chụp ảnh, lại ghi chép. Người phiên dịch giảng giải:
- Họ nói: Những nơi ấy ngày xưa máy bay Mỹ thả hàng ngàn tấn hóa chất. Có thể vì vậy nên bác bị nhiễm chất độc.
- Thế họ hỏi để làm gì? - Bố hỏi,
Người phiên dịch trả lời:
- Lấy bằng chứng để nói cho dư luận quốc tế biết.
Bố nghĩ: “Gớm thật! Cả thế giới đều biết cơ đấy!”
Người phiên dịch quay sang hỏi ông Viện trưởng:
- Ông Trưởng đoàn nước ngoài hỏi: Quái thai hiện nay để ở đâu?
Ông Viện Trưởng:
- Chúng tôi ngâm dung dịch bảo quản để tại phòng xét nghiệm. Xin mời...
Đoàn người theo gót ông Viện trưởng. Bố bảo mẹ:
- Dẫu sao cũng là hòn máu của mình, tôi lên nhìn nó lần cuối.
Mẹ nhìn theo bố, gửi cho con mình lời chào vĩnh biệt.
“Nhìn nó lần cuối”. Nhưng không bao giờ bố dám kể cho ai nghe cái lần cuối ấy. Mẹ gặng, bố thoái thác: “Lên đến nơi, họ mang nó lên xe chở đi rồi”.
Thực tình bố nói dối. Bao năm ở chiến trường, bố trực diện những đau thương mất mát của đồng đội. Bố nhớ: Có những chiến sỹ hi sinh chưa kịp chôn, xác trương to, biến dạng, mùi thối khẳn, máu mủ bê bết, xương nát vụn từng mảnh... Bố nhặt nhạnh, sắp xếp lại, rửa mặt, thay quần áo, bó, gói vào ni lông, tăng, võng đem chôn, mà chưa bao giờ bố sợ. Nhưng trước giọt máu của mình đẻ ra, bố rùng mình, hãi hùng, ớn lạnh... nó không mang hình thù rõ rệt. Nửa người, nửa vật, một khúc thịt đông lạnh, trên mang dạng người, dưới mang phần thú. Trong dung dịch màu đỏ, nó đu đưa, bập bềnh như đang bơi trong máu. Đêm, bố mơ những giấc mơ quái đản.
Bố được bệnh viện kiểm tra rất kỹ: lấy máu, lấy dịch tủy, chiếu, chụp Xquang... Bố hỏi: Để làm gì? Bệnh viện trả lời: Xét nghiệm để làm bằng chứng tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ.
Ra thế! Cái thân tàn của bố còn có ích. Sau đoàn nước ngoài còn mấy đoàn nữa đến. Lại chụp ảnh, lại ghi chép... Những hôm ấy bố mẹ được bệnh viện rất quan tâm.
Khi không còn đoàn nào xuống phỏng vấn, bệnh viện cho mẹ xuất viện.
Chờ tối mịt bố và bác võng mẹ về. Pháo hạ cây nêu nổ đì đùng. Đám khiêng không đi đường chính qua cổng làng mà mò mẫm tắt ngang ruộng về nhà.
Không hiểu sao đàn gà em nuôi đẹp thế, bỗng lăn đùng ra chết. Bác cả nói: “Năm nay độc trời”.
Từ ấy:
Lối qua nhà em không ai đi, cửa nhà em không ai tới. Láng giềng trước chung đường, nay mở ngõ mới.
Em đi học, có đứa rủa:
- Mày là chị em với cái quái thai.
Em không dám ra đầm Vực sợ trẻ con làng bên lấy chuyện mẹ đẻ vin vào đấy mà chửi.
Bố đi làm đồng thui thủi, không ai nói chuyện cùng.
Mẹ vật vờ như cái bóng, thi thoảng lên cơn tâm thần hoảng hốt.
Cái quái thai đeo đẳng bố.
Cái quái thai ám ảnh mẹ.
Rằm tháng bảy năm ấy, các vãi ở làng mời một cao nhân đến cúng trừ tà, tế lễ, đốt tiền âm phủ, vàng mã, hình nhân thế mạng, voi giấy, ngựa giấy đủ cả.
Đến ngày giỗ chung, bố tránh gặp mọi người, đến khuya ra mộ thắp hương cho ông bà nội.
Ổi hái, em mang lên tận chợ Phúc An mới bán được. Mấy quán hàng trong làng không mua, sợ âm hồn quái thai nhập vào nằm trong hương ổi.
Nhà em lúc nào cũng buồn như có đám.
Dân làng đồn: Đất ở nhà em có tà trùng ẩn náu.
Một hôm, ông Chủ nhiệm đến nhà. Ông mở túi lấy ra một gói đường, hai hộp sữa để lên bàn:
- Đài, báo đưa tin chuyện bác gái đẻ ra quái thai là do bác trai nhiễm chất độc từ hồi còn ở chiến trường. Chất độc ấy có tên là: Chất độc màu da cam. Như vậy, trăm sự tại thằng Mỹ... Chúng tôi sẽ giải thích để cho bà con trong làng hiểu. - Còn về gói quà, ông thanh minh - Nhân dịp ngày thương binh liệt sĩ, tuy gia đình không ở diện tiêu chuẩn, nhưng xã đội chiếu cố hoàn cảnh gia đình, bồi dưỡng đồng chí cân đường, hộp sữa. Nhà nước có khó khăn, của ít lòng nhiều, mong đồng chí thông cảm.
Bố mẹ mừng được nhận quà một, vui được thoát nạn hai. Vậy là không phải âm hồn, âm binh hay tà ma báo oán. Mà đây là do chiến tranh, do bọn đế quốc!
Mẹ như Thị Kính trong tích chèo cổ, trước cửa chùa giải được nỗi oan khiên.
Lâu lắm rồi nhà em mới vui như thế.
17. Tiếng nói nghe rất quen: - Thằng bé tỉnh rồi.
Mở mắt, trong ánh đèn cháy leo lét anh nhận ra đấy là người đàn bà mặt đẹp. Bà cặp đầu vú ấn vào mồm anh: - Bú thêm chút nữa đi con. May quá, cả ba chị em đều tỉnh rồi.
Hai chị và anh đã được những người cứu sống mặc cho quần áo rộng thùng thình của người lớn. Anh được bà mặt đẹp cho bú, còn các chị được ăn cơm. Vừa bú anh vừa liếc nhìn: trên chiếc thúng úp thay mâm có một bát quả cà muối. Vậy mà trông hai chị nhai ngon lành.
Chợt bà mặt đẹp hỏi:
- Lúc thay quần áo, cô thấy cạp quần các cháu có cái túi vải trong đựng chiếc triện đồng của Lý trưởng Thái Bình. Thế các cháu lấy ở đâu? - Nói rồi bà cầm cái vật mà chị hai tưởng là vàng lên ngắm nghía.
Chị hai thuật lại chuyện lúc ba chị em ở trên bè cùng với cái xác chết trôi cho bà nghe. Nghe xong bà mặt đẹp chép miệng thở dài:
- Đến Lý trưởng còn bị chết đói huống chi là dân lành. - Bà mân mê chiếc triện giọng tần ngần - Cô xin các cháu để giữ lại. Nay mai khi đất nước hòa bình, đưa vào nhà bảo tàng trưng bày làm vật chứng cho các thế hệ sau biết đến nạn đói năm Ất Dậu khủng khiếp như thế nào.
Cửa mở, một người đàn ông cao lớn đi vào. Ông ngạc nhiên nhìn bọn anh hỏi:
- Tại sao lại có trẻ con ở đây hả em?
Người đàn bà mặt đẹp trả lời:
- Đây là mấy cháu bé người Phúc An bị lạc, em gặp ở chùa Thập Phương mấy hôm trước. Không hiểu thế nào mà bị nước lụt cuốn về đây. Khi gặp cả ba chị em đều bị say nắng và đói lả, cấp cứu mãi mới tỉnh. Anh xem - Bà xốc nách cho anh đứng trên đùi bà - Thằng cu này hơn con tủn nhà mình bốn tháng. Thế còn con mình bây giờ ra sao hả anh? Em nhớ nó quá!
À, ra ông ta là chồng bà mặt đẹp.
- Anh vừa về thăm con hôm qua. Càng lớn lên nó càng giống em. - Ông đến ngồi cạnh bà, đưa tay cầm lấy chân anh - Thế em định giải quyết tụi trẻ này ra sao?
Bà trả lời: - Tình hình nước sôi lửa bỏng thế này đành phải cử người mang các cháu theo, đến Phúc An tìm gia đình trao trả. - Nói rồi bà hỏi - Có chỉ thị mới hả anh?
- Anh đến nắm tình hình và truyền đạt chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh cho Ban cán sự tỉnh Phúc An. Đây là thời cơ ngàn năm có một. Dẫu gặp khó khăn, hoặc phải hy sinh cũng phải lãnh đạo nhân dân quyết tâm giành lấy chính quyền. - Im lặng một lát rồi ông nói tiếp - Anh được cấp trên cử về Tổng bộ nhận nhiệm vụ mới. Không biết bao giờ mới gặp lại em và con.
Những giây phút nặng nề len vào giữa hai người. Bỗng người đàn bà mặt đẹp ngẩng lên, tiếng của bà dứt khoát, mạch lạc.
- Anh về báo cáo lại cho cấp trên biết. Hội nghị cán sự toàn tỉnh Phúc An họp tại làng Chi Đông đã quán triệt tinh thần chỉ thị của Tổng Bộ Việt Minh. Ban cán sự tỉnh quyết định triển khai các mũi tiến công. Một từ huyện Kim Anh sang: một do đội tự vệ từ cơ sở cách mạng Châu Lam tiến về. Vũ khí ngoài giáo, mã tấu, dao phay, cuốc, thuổng... còn lại là đòn càn, gậy tre. Ban chỉ huy chủ trương đi tới đâu tuyên truyền vận động lôi kéo quần chúng nhân dân tham gia biểu tình đến đấy. Chớp đúng thời cơ cướp chính quyền, tuyên bố thành lập Ủy ban khởi nghĩa.
Người đàn ông mở túi nói:
- Đây là cờ Tổng bộ việt Minh gửi cho ủy ban khởi nghĩa tỉnh Phúc An.
Người đàn bà mặt đẹp trân trọng đón lấy. Lá cờ phủ lên người anh như tấm chăn mới thơm nồng. Người đàn bà mặt đẹp vuốt ve nếp gập, giọng nghẹn ngào:
- Thay mặt ủy ban khởi nghĩa, chúng tôi xin thề với Tổng bộ Việt Minh: Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc sẽ được cắm trên nóc dinh tỉnh trưởng Phúc An. - Nói rồi bà ôm anh nâng lên cùng với tấm vải cờ, bà nồng nàn hôn lá cờ, hôn má anh - Con ơi! Giờ lịch sử của dân tộc đã điểm.
Người chồng đến gần bà: - Anh đi nhé! Hẹn em ngày toàn thắng.
Hai người sát lại gần nhau, người đàn bà mặt đẹp ngả đầu lên bờ vai chồng thổn thức. Người chồng lấy tay vuốt suối tóc đen mềm mại thả sau lưng người vợ, hơi ấm lan tỏa nồng nàn xoắn quyện vào nhau. Trên má, những giọt nước mắt nhớ thương nóng hổi, thấm đẫm tình chồng, ngọt ngào nghĩa vợ.
Nằm ở giữa, anh ngỡ mình là đứa con do họ đẻ ra, là cầu nối tình yêu cho hai trái tim hát lời từ giã.
Có tiếng gõ cửa. Hai người buông nhau ra, chỉ còn đôi bàn tay siết chặt - Nghĩa vợ chồng giờ đây nhường cho tình đồng chí.
Cửa mở, một chiến sĩ du kích vào đứng nghiêm: - Báo cáo thượng cấp: tất cả đã sẵn sàng chờ lệnh!
Ngoài trời, màn đêm được thức tỉnh bằng những ngọn đuốc.
Bà trao bọn anh cho người du kích. Ông ta dùng quang đòn, cho anh và chị ba mỗi đứa vào một bên thúng gánh. Còn chị hai chạy theo đằng sau.
Ánh đuốc sáng rực, chạy dài như một con rồng lửa. Đầu con rồng, dưới ánh sáng lung linh, người đàn bà mặt đẹp thắt dây lưng gọn ghẽ, quần xắn cao, những bước đi chắc nịch, rắn rỏi... cả đoàn quân rầm rập theo sau bà.
Đi tới đâu, nhân dân từ các làng đổ ra hòa nhập vào hàng quân nối dài...
Sáu giờ sáng quân khởi nghĩa từ làng Chi Đông do người đàn bà mặt đẹp chỉ huy hùng dũng bước trên đường Quốc lộ 2, hành quân hướng về tỉnh lỵ Phúc An.
Bình minh ló rạng, muôn vàn tia sáng rực rỡ xuyên thủng những vầng mây ảm đạm. Gió từ rừng núi Tam Đảo thổi về lồng lộng.
Những cánh đồng nước lụt chưa rút hết, trơ lại từng quầng lúa đen đúa chết đứng. Đường đi lệt sệt lầy bùn. Mùi hôi thối bốc lên tanh nồng.
Bọn anh nhìn thấy tháp chuông nhà thờ cao nhất tỉnh lừng lững in trên nền trời rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời.
Đoàn người rầm rập tiến vào cửa ô, lối rẽ ngay đầu phố Đệ Nhị.
Bọn anh nhìn thấy cây đa xanh cành lá xum xuê và ngôi chùa Thông cổ kính trên đỉnh đồi. Dưới chân đồi là nghĩa địa Tây. Nơi đó có hăng trăm ngôi mộ chôn lính Pháp chết trận.
Dân hàng phố đã dậy. Nhà hai bên đường mở tung cửa, tất cả ùa xuống đường, hòa vào dòng người. Khi qua nhà mình, anh thấy mẹ và dì đứng ở cửa nhìn theo đoàn quân. Anh giơ bàn tay nhỏ xíu vẫy, nhưng chẳng ai nhận ra. Chị hai kéo tay người du kích ra hiệu, người du kích xoay vai gánh, lắc đầu không nghe thấy vì tiếng reo hò ầm ầm vang dội như thác đổ. Bọn anh bị đám đông kéo xô đi.
Đoàn biểu tình tiến thẳng vào trung tâm tỉnh.
Có tin Thanh niên Đại Việt thuộc lực lượng Quốc dân đảng tập trung hơn hai trăm người lợi dụng tình hình tiến về dinh tỉnh trưởng cướp chính quyền trước quân khởi nghĩa.
“Đả đảo bọn Đại Việt Quốc dân đảng!”
“Đả đảo bọn tay sai đế quốc!”
“Ủng hộ việt Minh!”
“Quyết tâm giành Chính quyền về tay nhân dân Phúc An!”
Đoàn biểu tình hô vang khẩu hiệu. Khí thế như thác đổ tiến vào dinh tỉnh trưởng. Tổ chức thanh niên Đại Việt tan rã hoàn toàn trước sức mạnh của quần chúng.
Đoàn biểu tình chia thành hai mũi tiến công.
Một tiến thẳng vào dinh tỉnh trưởng.
Một kết hợp cùng đội tự vệ Châu Lam tiến đánh trại Bảo an binh.
Có tin báo: Trại Bảo an binh nổ súng chống lại quân khởi nghĩa.
Có tin báo: Nhật cho quân từ Vĩnh Yên kéo về.
Tỉnh trưởng bù nhìn Bùi Văn Thiệp có ý chống đối, kéo dài thời gian.
Tình hình cực kỳ khẩn cấp.
Ban cán sự Phúc An quyết định:
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Phúc An.
- Nhanh chóng giải phóng trại Bảo an binh.
- Điều tự vệ chuẩn bị đánh quân Nhật từ Vĩnh Yên kéo xuống.
- Tổ chức mít tinh công bố thành lập chính quyền mới.
Trước khí thế hừng hực của cách mạng, Bùi Văn Thiệp phải tuyên bố đầu hàng, nộp ấn tín cho quân khởi nghĩa.
Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên nóc dinh tỉnh trưởng. Mắt muôn người như một ngước lên nhìn.
Những đứa trẻ chạy theo đội quân khởi nghĩa, không có cờ, chúng cởi áo buộc vào sào tre, sào nứa phất cao thay cờ.
Cuộc mít tinh bắt đầu: Nhũng vị lãnh đạo của ủy ban khởi nghĩa của tỉnh lỵ Phúc An xuất hiện. Bọn anh nhận ra ngay đấy là những khuôn mặt đã gặp tại ngôi chùa Thập Phương.
Người du kích công kênh anh lên vai. Phóng tầm mắt bao quát cả bốn phương tám hướng...
Trước hàng vạn quần chúng nhân dân tỉnh Phúc An, bảy con người giơ tay lên chào... Đứng giữa là người đàn bà có khuôn mặt đẹp như Đức Mẹ, đôi mắt bà âu yếm, bàn tay hướng về bọn anh vẫy vẫy.
Người có khuôn mặt như ông Phán giơ cao tay dõng dạc tuyên bố:
- Nhân danh chủ tịch ủy ban khởi nghĩa tôi tuyên bố:
Xóa sạch chế độ phong kiến đế quốc. Từ nay Chính quyền thuộc về nhân dân tỉnh Phúc An!
- Tinh thần cách mạng 19-8 muôn năm! Một tiếng hô rất lớn.
- Muôn năm!... muôn năm!... muôn năm!... - Quần chúng đồng thanh đáp.
Tai anh ù đặc vì tiếng hô dậy đất.
Mùa thu trời xanh ngắt, giữa khoảng không mênh mông, một đàn chim câu lượn từng vòng, từng vòng. Anh đoán chắc đó là đàn chim hội của bố vừa mới thả.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...