Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 3a

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 3a

XUÂN MAI 

Người về chốn cũ  

Tiểu thuyết đoạt Giải B,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ IV 
(2011 - 2015)

Sử làng Sơn Đông viết về Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn “Thập đại kinh luân mao ức lý, nhân trạch từ miếu” (Sau mười năm đi chinh chiến, về ở lại ngôi nhà cũ)

Lời đầu sách 
Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn là một người “hữu học thức, tinh binh pháp” và đã trở thành anh hùng dân tộc trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn (1418 -1427) do Lê Lợi lãnh đạo… nhưng ông lại không thể là một công thần trọn vẹn của triều Lê! Trần Nguyên Hãn không chết vì kẻ thù bạo ngược trong chiến tranh mà nhiều người cho rằng, ông phải chết vì sự nghi kỵ của nhà vua trong lúc thái bình. Điều này khiến tôi không thể không tìm hiểu để viết về ông.
Đồng tình với ý kiến của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam: … “Các nhà văn không phải là các nhà sử học. Bởi vậy sáng tạo văn học về đề tài lịch sử không phải là công việc ghi chép các chi tiết hay tổng hợp những tư liệu về một sự kiện lịch sử, một giai đoạn lịch sử hay một nhân vật lịch sử. Sáng tạo văn học về đề tài lịch sử là làm hiện lên chân lý và nhân cách của sự kiện lịch sử ấy và của nhân vật làm ra lịch sử ấy… Vì vậy, trực tiếp hay gián tiếp thì cái cốt yếu trong tác phẩm văn học viết về lịch sử là dựng lên nhân cách và tinh thần sống của những con người làm nên lịch sử bằng cái nhìn vừa mang tính khoa học, vừa đầy trí tưởng tượng phong phú của mình” “Chân lý và nhân cách của lịch sử” - Đề dẫn Hội thảo Sáng tạo văn học về đề tài lịch sử - Báo Văn Nghệ, số 37, ngày 15/ 9/ 2012)… Cho nên khi viết “Người về chốn cũ” tôi chỉ tập trung xây dựng nhân cách Trần Nguyễn Hãn, cùng những cống hiến to lớn của ông trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời góp một tiếng nói làm rõ thêm về cái chết của ông. Và, đã viết khác đi so với hai sự kiện được chép trong chính sử. Đó là:
1- Ngày 12 / 2 / 1416, Lê Lợi cùng 18 người thân tín nhất đã tổ chức Hội thề ở làng Lũng Nhai, trong đó có Nguyễn Trãi (Sách Lam Sơn khởi nghĩa - NXB khoa học xã hội, 1977).
2- Nhờ có Lê Lai “liều mình cứu chúa” nên Lê Lợi và các tướng khác mới trốn thoát qua vòng vây hiểm yếu của giặc Minh. Lê Lai cũng không chết vì giặc Minh. Nhưng về sau này, vì tính đa nghi mà Lê Lợi đã giết Lê Lai và nhiều công thần khác (Đại Việt sử ký toàn thư)
Nhân dịp tập sách được phát hành, tôi có lời trân trọng cám ơn bà Trần Thị Phú (Hà Nội), một số bạn bè, đặc biệt là nhà nghiên cứu lịch sử Lê Kim Thuyên đã cung cấp những tư liệu chính sử về Trần Nguyên Hãn để tôi có cơ sở hoàn thành tiểu thuyết dã sử này.
TÁC GIẢ
PHẦN THỨ NHẤT
Những ngày ở Đa Cai   
Vào những ngày đất nước đang có quá nhiều biến động: Nhà Trần suy yếu, Hồ Quý Ly chiếm đoạt ngôi vua và thẳng tay giết hại tôn tộc nhà Trần thì một hôm người dân thôn Đa Cai bỗng dưng thấy xuất hiện một cặp vợ chồng trẻ không biết từ đâu về trú ngụ. Hai người tìm đến một vạt rừng cuối cùng của thôn. Đấy là một khu đất tương đối bằng phẳng, hoang sơ, rậm rạp mọc toàn cây lau, gianh, tế, sim, mua và trăm thứ cây cỏ dại khác. Họ bảo nhau dựng một túp lều, mái lợp bằng cỏ gianh, tường che bằng phên nứa, nép mình dưới bóng mấy cây lim cổ thụ.
Ngày lại ngày, dân làng thường thấy hai vợ chồng nhà nọ phát cỏ, đánh gốc, bốc trà lấy đất tra lúa nương, trồng ngô, khoai, sắn. Họ lại biết vào trong rừng sâu, đi sang mấy vùng đất lân cận nhặt hàng thúng quả dọc đem về phơi khô, lấy hạt, giã mịn như bột ngô, đun sôi nóng, trộn với rơm, đóng thành từng bánh, rồi ép lấy dầu, hai vợ chồng lại đem đi bán ở các chợ Gốm, Bạch Hạc trong vùng... Dầu dọc vừa nhẹ, vừa thơm mùi hương rừng, chỉ cần đổ vào cái đĩa hoặc bát nhỏ, thả bấc vào, châm lửa là có một ngọn đèn dầu sáng lấp lóa nên ai ai cũng thích mua. Nhờ có nghề ép dầu dọc này tuy công phu, vất vả, mất rất nhiều sức lực nhưng bù lại, vợ chồng họ có thêm thu nhập để có cái sinh nhai.
Một thời gian sau vì nhu cầu giao tiếp, vì tò mò mà dân thôn Đa Cai mới biết, hai vợ chồng trẻ ấy là Trần Nguyên Án và Lê Thị Hoàn. Nghe phong thanh hình như họ là dòng dõi tôn thất nhà Trần, quê ở mãi dưới Hải Dương hay Thái Bình, không rõ nguyên do gì  khiến phải lên vùng khỉ ho, cò gáy này sinh sống?
Năm ấy, Trần Nguyên Án ba mươi tuổi. Lê Thị Hoàn kém chàng hai tuổi. Vậy nhưng hai người vẫn chưa có lấy một mụn con. “Có chồng mà chả có con - Khác gì hoa nở trên non một mình”. Theo câu ca dao ấy, nếu như Lê Thị Hoàn buồn héo hắt một, chồng nàng còn nặng nỗi niềm mười. Có một đứa con, nhất là con trai, bấy lâu nay vẫn là nỗi khát khao cháy bỏng trong lòng Án. Nỗi khao khát ấy càng trở nên bỏng rát mỗi khi chàng nghĩ về dòng tộc nhà mình, hay nhìn thấy một người nào đó bế một đứa trẻ.
Giữa lúc hai vợ chồng Trần Nguyên Án hầu như thất vọng hoàn toàn về đường con cái, may sao họ lại gặp bà Mến, người trong thôn Đa Cai. Bà Mến mới ngoài năm mươi, người gầy khô như con cá mắm. Vì biết đỡ đẻ nên dân làng vẫn quen gọi bà là bà Bẫm. Hôm ấy, trên đường đi hái củi trong rừng về, bà Mến ghé vào nhà Trần Nguyên Án xin hớp nước. Qua vài câu chuyện bà biết vợ chồng nhà này chưa đứng số nên Trời chưa cho có con. Bà khuyên họ nếu muốn có con thì phải đi cầu tự. “ Cầu ở đâu hả bà?” Nghe Lê Thị Hoàn sốt sắng hỏi, bà Mến bảo:
- Lên chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo mà cầu. Tôi thấy vô số người đi cầu về đều có mang cả đấy.
Theo sự chỉ dẫn của bà Mến, hai vợ chồng Trần Nguyên Án chuẩn bị đầy đủ lễ vật gồm mười ba tờ tiền, mười ba loại hoa quả khác nhau và mười ba thứ đồ chơi dành cho trẻ con, sau đó chọn giờ tốt, ngày tốt, hai vợ chồng cuốc bộ lên Tam Đảo.
Tam Đảo là một khu danh thắng có từ thời Hùng Triệu Vương. Ở giữa núi Tam Đảo có ngọn Kim Thiên cao chót vót với rất nhiều ghềnh đá. Phía dưới là vực sâu, nước màu xanh chàm, không nhìn thấy đáy. Ngang sườn núi là chùa Tây Thiên. Xung quanh chùa là tre, là thông xanh tốt bao bọc. Cảnh sắc phải công nhận là hết sức thanh bình. Chùa Tây Thiên còn gọi là Quốc mẫu Tây Thiên. Nơi đây thờ bà Lăng Thị Tiêu. Bà là Hoàng phi của vua Hùng thứ bảy. Khi mất bà hiển thánh rất thiêng, nhờ có bà phù hộ mà vua Hùng thứ tám đã đánh thắng Thục Phán. Trong đền thờ bà có bức hoành phi: Mộc bản thủy nguyên”, nghĩa là cây có gốc, nước có nguồn để tri ân quốc mẫu, Lăng Thị Tiêu được coi là Thần chủ núi Tam Đảo.
Vợ chồng Trần Nguyên Án cắm cúi đi mất gần hai ngày trời mới leo lên tới chùa Thượng Tây Thiên. Một thầy sư đầu trọc lốc, mặc quần áo thụng, màu vàng tiếp và dẫn vợ chồng chàng vào đền. Án nhìn thấy trong đền có hai bức nghi môn bằng gỗ, chạm nổi cảnh “Nhạc công - Thiên thần”. Hai bức nghi môn này được làm bằng nhiều mảnh ván nhỏ ghép lại thành chữ U đặt ngược, chắn ngay trước điện thờ. Trên mặt nghi môn chạm nổi hình mười một người, đều là nữ, đang cử nhạc và múa hát trong mây. Những phụ nữ này đầu đội mũ miện, mình mặc áo thụng, cổ khoác những dải lụa mềm. Khuôn mặt ai cũng đẹp, thanh tú. Họ được chia ra bố trí đều đặn trên ba phần của nghi môn., Phần trên, ở giữa có ba người ngồi xếp bằng tròn theo hàng ngang. Tám người còn lại được chia đều sang hai bên, mỗi bên bốn người, bố trí theo chiều thẳng đứng. Người dưới cùng ở tư thế ngồi, hai tay giang rộng ra với những hoa dây rậm rạp. Người thứ hai ngồi bên trên thổi sáo. Người thứ ba một tay cầm quạt, một tay xòe ra như múa. Người đứng trên cùng đánh đàn nguyệt. Phủ kín toàn bộ hai bức nghi môn là các hình cây, lá dày đặc, có điểm xuyết hình chim phượng bay, rùa bò và hoa sen.
Bày biện lễ vật xong, thầy sư bảo vợ chồng Trần Nguyên Án quỳ xuống trước ban thờ. Đến lúc này chính mắt chàng mới nhìn thấy Phật ngồi trên cao, vàng son, đèn nến lung linh, hương trầm quyến rũ, cõi thiêng quấn quít. Và tai chàng được nghe âm nhạc nhà chùa. Chao ôi, mỗi tiếng chuông ngân vang thỉnh lên như khẳng định một nhịp đời siêu thoát, mỗi nhịp mõ đều đều như ru dắt hồn người về nơi vô định.
Trong cái không khí linh thiêng, huyền bí ấy, vợ chồng Trần Nguyên án vẫn nghe được rất rõ từng chữ, từng lời thầy sư đang thay mình bày tỏ nỗi lòng với thần, với Phật.
Nam mô a di đà Phật!
Con lạy chín phương trời, lạy mười phương chư Phật, chư Phật mười phương.
Con lạy Thiên quan - Linh thần nơi bản địa ở khu vực này.
Đệ tử con là Trần Nguyên Án, cùng vợ con là Lê Thị Hoàn, ngụ tại thôn Đa Cai, trang Sơn Đông.
Hôm nay nhân ngày lành, tháng tốt, khí tiết năm Quý Tỵ… Bầu trời cao vút tỏa sáng phúc lành. Vợ chồng con thành tâm thiết lễ, cùng dâng sớ trạng kính lạy Trung thiên mệnh chủ, Bắc cực tử vi, Ngọc đế Thiên quân bệ hạ, giáng trần soi xét cho gia đình con được có con trai, con gái. Hạnh phúc xum vầy truyền vào hậu thế.
 Con lạy cung thái dương, Nguyệt cung Thái âm, Đông phương thánh đế, Bắc phương hắc đế, Tây phương bạch đế, kính cáo tôn thần chư vị, các thần linh giáng trần soi xét chữ cương thường đạo lý vợ chồng cho con được cửa rộng, nhà cao, tiền của dồi dào, có con trai, con gái thông minh, học hành chăm chỉ, một niềm kính thiện.
Con kính lạy quan Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái Bạch, Thái Tuế, Văn Xương, Văn Khúc, Nhị thập bát tú, ngũ hành tinh quân. Trước án liệt vị tinh quân tôn thần Tản viên đại thánh, Trần triều Hưng đạo Quốc tảng đại vương, cùng tiên Phật thánh thần Quan âm bồ tát, chí đức tôn linh hiển thành thần thông tiết độ cho con được có con trai, con gái để trọn vẹn hiếu sinh hạnh phúc gia đình trong ấm ngoài êm để ông bà, chồng vợ chân tình thương yêu chăm sóc. Làm điều thiện được âm dương báo đáp, cây trái thêm hoa sinh sôi nảy nở. Trước án liệt vị các tinh quân tôn thần xa thôi lại theo gần, xin giải trừ vận hạn, tiêu trừ yêu ma, tai ách làm muộn đường con trai/ con gái.
Chúng con người trần, nhục nhãn nan chi, việc trần thế chưa tường, việc âm chưa tỏ. Thánh sinh nơi trần tục, mệnh bởi cung trời cầu xin Thần Phật đức độ cao dày, hạ trần giáng thế cho con điều thiện, cho con hạnh phúc, có con trai, con gái, có của, vượng đinh như vượng tài để trên gánh việc thánh, dưới gánh việc trần, phúc địa đãi phúc nhân, gia đình hai dòng họ vui chữ nghi gia truyền vào hậu thế.
Gia đình chúng con bút son thêm số, số ngọc thêm năm, vượng đinh vượng tài, thêm người thêm của. Hạnh phúc của gia đình dòng họ cùng cuộc đời chúng con lại như nước tràn đầy chảy đến. Một nhà vui vẻ, oanh yến đậm đà, đào hồng thắm biếc. Vậy xin yết cáo tôn thần cùng dâng sớ trạng Cầu tự, xin tỏ tấc lòng thành giáng ban trăm phúc.
Trăm lạy các tôn linh. Cúi nhờ ơn đức.
Sở nguyện thành tâm.
Vạn vọng bách bái Thần, Phật mười phương. Ban ơn phúc dày cho chúng con được toại nguyện đường con cái.
Khấn ba lần xong, thầy sư lại xin âm dương. Xin đến lần thứ ba thầy mới nói, giọng vui như reo: “Được rồi. Một đồng sấp, một đồng ngửa đây nhé”. Thầy vừa nói dứt lời bỗng bát hương trên bàn thờ cũng bùng cháy.
Thầy sư nhìn vợ chồng Trần Nguyên Án đang cúi rạp sau lưng mình bảo:
- Thần, Phật đồng ý phù hộ rồi. Từ nay hai người chịu khó tu nhân, tích đức thì sẽ được toại nguyện. Hai người lễ tạ ba lễ, lạy năm lạy đi.
Với tâm trạng khấp khởi mừng thầm và thắc thỏm lo âu, vợ chồng Trần Nguyên Án xuống núi trở về Đa Cai. Lại phải mất hai ngày cuốc bộ họ mới về đến nhà. Đợi ráo mồ hôi, Lê Thị Hoàn đem váy áo ra bến Đông Hồ tắm giặt.
Bến Đông Hồ ở phía trên ghềnh Đông Hồ, nằm bên bờ sông Lô, cách nhà Trần Nguyên Án vài trăm mét. Đây là bên bồi của dòng sông. Không biết từ bao giờ người dân Đa Cai đã lấy bến sông này làm nơi thay cho cái giếng làng. Bến được kè bằng đá xanh, phía dưới chạy thoai thoải, chìm dần xuống lòng sông, phía trên là mấy chục bậc lên xuống. Nơi đây có hai bến. Bến dưới dành để trẻ con đùa nghịch và tắm cho trâu mỗi buổi chiều về; bến trên dành để người lớn tắm giặt và lấy nước về ăn.
Chiều hôm ấy, mới lưng lửng chiều, người dân Đa Cai còn đang cặm cụi với công việc đồng áng, ruộng nương; còn bọn con trẻ thì đang chăn trâu bò trên các đồi gò và mải mê với đánh khăng, đánh chắt. Thành thử bến Đông Hồ vốn hầu như chiều nào cũng đông vui, tấp nập, rộn rã tiếng nói, tiếng cười là thế mà lúc này lại vắng hoe. Không có ai ngoài con đò cắm bến với chú chim bói cá ngủ gà ngủ gật trên con sào vút cao. Cuối tháng ba, cây gạo bên bến sông vẫn nở hoa đỏ ối. Nắng ong ong trải dài trên triền ngô đang trổ cờ. Phấn hoa ngô bay mù một khoảng trời, đậu xuống vàng ươm trên những vạt cỏ mươn mướt xanh.
Lê Thị Hoàn một mình ra đến bến sông. Vắt váy yếm khô lên một bụi cây, nàng xăm xăm lội xuống. Nước sông trong xanh, mát lẹm, quấn quít quanh hai bắp chân nàng, hai đùi nàng. Nước ngập lên tới đâu, Lê Thị Hoàn vén váy cao lên đến đấy. Cuối cùng, nàng chìm trong nước, nước nâng nàng lên vỗ về. Cứ để nguyên váy áo, nàng bơi qua bơi lại, ngụp lặn thỏa thuê. Lúc lâu sau, Lê Thị Hoàn cởi yếm, cởi váy vắt lên vai. Nàng khỏa thân trong nước. Đúng vào cái lúc nàng cảm thấy toàn thân mình như đang tan ra thành thể khí thì bầu trời trên đầu nàng bỗng lóa sáng. Đồng thời, một đám mây hình rồng từ dưới đáy sông bay vút lên. Rồi cũng vẫn đám mây hình rồng ấy từ mãi trên không trung sà xuống nhằm đúng chỗ nàng đang đứng mà trùm phủ lấy người nàng. Trong tích tắc Lê Thị Hoàn thấy như mình bay lên với một cảm giác đê mê, mãn nguyện. Nàng chợt bừng tỉnh. Không hiểu cái gì vừa xảy ra đối với mình, nàng hốt hoảng vội bơi vào bờ. Quên cả mình không một miếng vải che thân, nàng tồng ngồng như đứa trẻ chạy đến bụi cây. Mặc váy, đeo yếm xong, chân đi như không bén đất Lê Thị Hoàn về nhà.
Hai vợ chồng Lê Thị Hoàn ăn cơm buổi tối xong, nàng bảo chồng đi ngủ sớm. Nhìn hai má vợ chín lựng như bôi phấn hồng, nhất là hai con mắt biết nói của nàng sáng lên long lanh, Án hiểu vợ đang muốn gì. Vốn hiểu biết ít nhiều những chuyện không hay có thể xảy ra trong lúc vợ chồng chăn gối cần phải tránh, đặc biệt là sau khi đi xa về, chàng ngần ngừ bảo vợ: “Đợi nửa đêm về sáng hãy… Nếu không, dễ mắc phạm phòng lắm” - “Nhưng thiếp thấy trong người lạ lắm. Thế chàng không muốn có con sao?”. Miệng hỏi, tay kéo, Lê Thị Hoàn gần như lôi chồng lên giường, bắt chồng làm “chuyện ấy”.
Khác với mọi lần, lần này Lê Thị Hoàn chủ động hoàn toàn. Nàng kéo quần chồng tụt qua cái dải rút. Tay nàng sờ soạng, mâm mê “cậu bé” của chàng. Quên tất những điều cần kiêng kỵ, Trần Nguyên Án ngồi dậy. Chàng kéo váy vợ lên đến ngực. Tấm thân mình cá trắm tròn lẳn, chắc nịch của Lê Thị Hoàn hiện ra lồ lộ trong quầng sáng nhạt nhòa của ngọn đèn dầu dọc chưa kịp tắt. Án chậm rãi, nhẹ nhàng, thận trọng trong từng động tác ái ân với vợ. Vào thời điểm cao trào nhất, Lê Thị Hoàn dướn cong người lên đón nhận từng đợt, từng đợt sinh khí ấm nóng từ chồng truyền sang. Nàng sung sướng rên lên. Nàng mãn nguyện nằm thẳng đượt, cổ ngoẹo sang một bên, tóc xõa ra. Chưa thấy vợ như thế này bao giờ, Án lo lắng hỏi: “Nàng làm sao thế? Nàng mệt quá ư?” - “Không sao. Thiếp không sao. Cho khéo lần này chúng mình sẽ có con. Trong người em lạ lắm kia” - “Lạ là sao?” - “Chỉ biết thế. Thiếp không nói ra được”. Nàng bảo chồng vậy và vít đầu chồng xuống, ghì sát mặt mình, hôn một cái hôn rõ dài.
Ba tháng sau, kể từ tối hôm ấy, Lê Thị Hoàn tắt kinh. Vợ chồng nàng cho là chuyến đi cầu tự đã có kết quả. Hóa ra qua Giao Long phủ nàng ở bến Đông Hồ, ông Trời đã cho Tiên đồng giáng thế xuống làm con. Không dám kể với ai nhưng hai vợ chồng Trần Nguyên Án cứ nghĩ thế, tin thế nên họ mừng lắm. Bao nhiêu việc nặng nhọc hằng ngày Án tranh phần vợ, chàng làm hết. Cả hai khắc khoải mong mỏi từng ngày, từng giờ cái ngày nàng mãn nguyệt, khai hoa.
Mấy tháng đầu mang thai, Lê Thị Hoàn tự nhiên thèm “kẹo đất” quá. “Kẹo đất” đây là bánh ngói, nguyên được làm từ đất sét non. Dân Đa Cai nhiều người nghiện món ăn này. Phần lớn những người nghiện, ngoài các cụ 60, 70 tuổi, còn là đàn ông thuộc lứa tuổi 40, 50, đàn bà 30, 40 tuổi, đặc biệt là phụ nữ có chửa. Theo bà con trong thôn chỉ dẫn, Trần Nguyên Án đi mãi lên tận làng Long Cương nằm ở phía Bắc Đa Cai tìm đào một cái hố sâu như một cái giếng chàng mới khoét được một loại đất sét non có màu xám tro, có vệt màu đỏ, mềm, mịn nhưng không hề có một chút cát, sạn.
Được đất đem về, Trần Nguyên Án thái từng lát mỏng, dài bằng 2, 3 đầu ngón tay. Tiếp đó, chàng phơi khô cho hết mùi bùn, đất. Chừng nào những miếng đất ấy chuyển sang màu xám trắng thì đem hun.
Nơi hun bánh ngói là một cái giàn hình vuông được đan bằng các cành cây tươi và dây rừng đặt lên trên một cái hố tròn, sâu hơn lòng chiếc chảo một chút. Án đặt những miếng đất sét non đã được phơi khô lên trên cái giàn đó. Bên trên cái giàn đất này, chàng úp một chiếc mẹt để giữ được nhiều khói. Dưới lòng hố, Án chất đầy cành cây sim tươi, cỏ tế. Đấy là nguyên liệu dùng lấy khói để hun đất. Trần Nguyên Án hun khoảng một buổi, những miếng đất ám khói, khô giòn, vàng sẫm lại. Vậy là được một mẻ bánh ngói cho vợ.
Lê Thị Hoàn ăn bánh ngói nàng khen “Ngon lắm, thơm bùi như gan lợn”. Nhìn vợ ăn một cách ngon lành, Trần Nguyên Án cảm động. Thương vợ quá. Nhà nghèo, không có gì bồi dưỡng cho nàng. Nghĩ thế, nước mắt Án rơm rớm hai bờ mi.
Trong thôn Đa Cai có thầy Nguyễn Thái An, vừa dạy học, vừa chữa bệnh. Án đưa vợ đến nhờ thầy thăm khám sức khỏe và cố nhặt nhạnh mấy đồng cắt thuốc dưỡng thai cho nàng, nhân đấy nhờ thầy bắt mạch cho Hoàn. Thầy đặt ngón tay chỏ và ngón tay giữa của mình lên cổ tay nàng, nghiêng tai, lặng yên, lắng nghe. Xong việc, thầy Thái An bảo: “Thai khỏe. Sẽ đẻ con trai. Không là con trai cứ đặt kiềng lên lưng tôi mà nấu”. Hẳn chỉ cần nghe tim thai mà thầy cũng đoán biết được là trai hay gái nên mới nói chắc như đinh đóng cột vậy. Vợ chồng Trần Nguyên Án không giấu nổi niềm vui, reo hú lên. Điều này khiến họ mong mỏi lại càng thêm nóng lòng chờ đợi. Và, như trăng đến rằm, trăng phải tròn; hoa đến kỳ hoa phải nở; chín tháng mười ngày mang thai của Lê Thị Hoàn đã hết. Đêm nay nàng trở dạ.
Nửa đêm về sáng, Trần Nguyên Án đang ngon giấc thì bị vợ đánh thức dậy. Nàng bảo: “Thiếp đau bụng quá. Có lẽ sắp sinh con. Chàng đi đón bà Bẫm đi”. Từ khi vợ mang thai Trần Nguyên Án đã chờ đợi, đã hình dung ra cái giờ phút thiêng liêng này sẽ đến mà bây giờ nghe Lê Thị Hoàn nói thế, chàng vẫn không tránh khỏi tâm trạng vừa lo sợ, hồi hộp, vừa khấp khởi, vui mừng. Không kịp mặc quần áo dài, chàng vội vã chạy như bay về thôn Đa Cai. Trong đêm tối mịt mùng, chàng tìm đến nhà bà Mến nằm ở giữa thôn. Nghe bà khuyên, vợ chồng Trần Nguyên Án mới biết đường đi cầu tự, vợ Án mới mang thai, ơn đức ấy của bà đối với vợ chồng chàng thật như trời cao biển rộng. Lê Thị Hoàn mỗi khi gặp bà Mến vẫn dặn bà: “Bà phải giúp con khi sinh nở” nên Án mới dám cậy nhờ bà giữa lúc đêm hôm khuya khoắt thế này.
Trần Nguyên Án cứ cẩn thận, ý tứ giữ gìn thế, chứ với bà Mến, mỗi lần được ai nhờ đến đỡ đẻ là bà sẵn lòng đi ngay. Bà bảo, đỡ đẻ là một việc làm phúc. “Gái chửa, cửa mả”, các cụ dạy vậy, không coi thường được đâu. Với lại, “đàn ông vượt biển có chúng có bạn, đàn bà vượt cạn chỉ có một mình”. Khổ lắm. Thấy người ta khổ thế, mình phải giúp chứ. Luôn thường trực trong tâm mình cái ý nghĩ đó nên chẳng cần Án năn nỉ, nói khó gì, bà Mến giục Án châm một bó đuốc bằng cây nứa ngâm khô, rồi hai bà con bước thấp, bước cao, lúc đi, lúc chạy về nhà Án.
Bà Mến lao vào trong buồng nơi Lê Thị Hoàn đang nằm trên chiếc giường khung tre. Mặt nàng nhăn nhó. Miệng nàng kêu rên. Chân tay nàng lúc co vào, lúc duỗi ra. Nàng đau đớn giãy giụa y như con giun bị người ta xéo lên. Bà Mến bảo Hoàn không được kêu. Phải giữ sức để còn rặn. Vừa nói thế bà vừa kéo váy nàng lên, đưa tay vào vùng kín của nàng sờ sờ, nắn nắn, đoạn quay ra bảo Án:
- Bá ấy vỡ nước ối rồi. Đầu nó quay ra đây rồi. Bác lấy cái niêu đất đun ngay một nồi nước. Chuẩn bị cho tôi một sợi chỉ, một con dao bằng tinh nứa…
Trần Nguyên Án thắc mắc:
- Thưa bà, để làm gì ạ?
- Để tắm, rồi cắt rốn, buộc rốn cho nó chứ làm gì. Nhanh nhanh tay lên kẻo không kịp.
Bà Mến giục như cháy nhà, tưởng như Hoàn đẻ đến nơi. Vậy mà Án đun nước đã xong, dao cắt rốn, chỉ buộc rốn cũng đã sẵn sàng nhưng Hoàn vẫn chưa đẻ được. Bà Mến giải thích:
- Bá ấy lớn tuổi, lại đẻ con so nên mới khó thế. Bác nghe tôi, bây giờ bác phải trèo lên nóc nhà mà cầu Trời, khấn Phật phù hộ cho bá ấy sinh nở mẹ tròn con vuông.
Thương và lo cho vợ quá, Trần Nguyên Án lấy thang trèo lên mái nhà. Đêm đã về sáng. Án ngửa mặt nhìn lên bầu trời xanh đen có ngàn vạn ngôi sao đang nhấp nháy mà lầm rầm cầu khẩn. Khấn ba lần xong chàng mới xuống ngồi đợi ở nhà ngoài. Mỗi lần nghe thấy bà Mến hô “cố lên, cố lên, con cố lên” và vợ chàng ậm è rặn thì trái tim chàng lại như có ai bóp chặt, làm chàng đau đớn đến nghẹt thở.
Đứa bé vẫn chưa chịu ra. Bà Mến lại bảo Án:
- Bác chịu khó nghe tôi lần này nữa xem có được không.
- Bà bảo con lên rừng, xuống biển, hay nhảy vào lửa con cũng chẳng nề hà. Phải làm gì nữa hả bà?
- Bác không phải lên rừng, xuống biển, cũng không phải nhảy vào lửa mà là lội xuống ao. Bây giờ bác vào trong thôn, lội qua ba cái ao để van lạy Thủy thần phù hộ cho bá ấy.
Lội qua ba cái ao vào lúc tiết trời đang còn lạnh, Án không sợ. Cái mà chàng sợ là sợ lội xuống ao nhà người ta, nhỡ người ta tóm được, cho rằng mình đánh trộm cá thì biết ăn nói thế nào? Ngại ngần thế nhưng Án vẫn phải làm theo lời bà Mến. May mà thôn Đa Cai hầu như nhà nào cũng có ao. Ao để chủ nhà lấy nước nuôi cá, lấy nước tưới vườn, lấy nước thả bèo cho lợn, giờ Án lại biết thêm, ao còn là nơi dành cho các đức ông chồng lội xuống cầu khẩn, van lạy thủy thần phù hộ cho các bà vợ dễ sinh nở. Trần Nguyên Án lội qua, lội lại qua ba cái ao của ba nhà, tổng cộng cả thảy chín lần. Vừa lội bì bõm, miệng chàng vừa lẩm nhẩm: “Con lạy thánh mớ bái. Con lạy thần linh, thủy thần nơi đây, rủ lòng thương xót, phù hộ độ trì cho vợ con là Lê Thị Hoàn sinh nở được mẹ tròn con vuông”.
Làm xong việc bà Mến bảo, Trần Nguyên án chạy vội về nhà. Mệt mỏi quá, chàng ngồi bệt xuống cái chõng tre kê ở ngoài hiên, thở như kéo bễ. Không kịp thay bộ quần áo ướt như chuột lột, lòng đầy lo lắng chàng hỏi với vào:
- Nhà con chưa sinh cháu hả bà?
- Chửa. Thôi được rồi. Tôi còn cách này. Bác vào đây giúp tôi một tay.
Lại làm theo lời bà Mến chỉ dẫn, Trần Nguyên Án lấy một cái kẹo bột bọc trong miếng giấy bóng màu hồng. Chàng lại tìm một sợi dây cước, buộc chiếc kẹo ấy vào một đầu, đầu kia buộc vào một cái que tre, tạo thành một cái cần như cần câu cá rô. đoạn đưa cho bà Mến.
Sau hai ba canh đau đớn, kêu khóc, vật vã, quằn quại, dường như Lê Thị Hoàn đã kiệt sức. Nàng nằm im như chết. Nhận chiếc “cần câu” từ hai tay Án đưa, bà Mến ngồi xuống phía cuối giường, nơi Lê Thị Hoàn đang nằm. Bà dứ dứ chiếc “cần câu” cho cái kẹo giống như mồi câu nhấp nhô, lên xuống ngay trước cửa mình nàng và nhắc đi nhắc lại mãi một câu: “Cu ơi. Ra mà ăn kẹo. Ra mà ăn kẹo, cu ơi”.
Lê Thị Hoàn đang nhăn nhó, thấy thế tức cười quá, cửa mình nàng mở rộng thêm. Nàng càng cố nhịn cười, cửa mình nàng càng mở rộng. Nhịn chả được, nàng bật cười lớn, theo đó, nàng mím miệng rặn một hơi thật mạnh. Lập tức đứa bé trong bụng nàng thoài loài ra nhưng không khóc. Bà Mến nhanh chóng bế nó lên, phát vào mông nó ba cái. Bấy giờ nó mới “oa, oa, oa” khóc. Tiếng khóc to, khỏe xé toạc màn đêm yên tĩnh, xuyên vào không gian như muốn báo cho trên thế gian có một sinh linh vừa mới chào đời. Cùng với tiếng khóc, bà Mến cũng reo lên: “Thằng cu. Bác Án đâu? Vào mà lon tay con này”. Đón thằng cu từ tay bà Mến, Trần Nguyên Án mừng đến phát khóc. Còn Lê Thị Hoàn thì thiếp đi nhưng trên khóe miệng nàng vẫn phảng phất một nụ cười mãn nguyện.
Bà Mến tắm cho đứa bé bằng nước đun sôi để nguội chứa trong cái nồi đất. Cắt rốn cho nó bằng con dao được làm từ cật nứa. Buộc rốn cho nó bằng sợi chỉ gai. Sau đó, bà lấy tấm váy vá chằng vá đụp của bà quấn kín cho nó để lấy khước. Xong việc, bà đặt đứa bé nằm bên mẹ. Không thể tưởng tượng được, một bà già trông còm cõi, mắt mũi kèm nhèm lại thao tác những công việc ấy một cách thuần thục, chính xác đến vậy. Quệt mồ hôi rịn ra trên trán, bà Mến dặn Trần Nguyên Án:
- Bác đem nồi nước với cái rau bà đẻ này chôn dưới giọt gianh. Phải chôn đúng vào chỗ nước từ trên mái nhà chảy xuống đấy nhé.
Án “vâng, dạ” làm theo lời bà Mến nói. Đợi chàng làm xong bà lại bảo:
- Trời sắp sáng rồi đấy. Bác nhóm bếp, nấu cơm nếp, thịt gà làm cỗ ăn mừng bắt được thằng cu đi. Các thứ có sẵn cả chửa. Nếu không, sang nhà tôi mà lấy.
Lê Thị Hoàn cố ngóc đầu lên, thều thào bảo chồng gạo nếp để ở đâu, bắt thịt con gà trống nào… Bà Mến xua tay:
- Bá cứ nằm yên mà nghỉ. Gái mới đẻ đừng có nói nhiều. Nói nhiều nay mai bị nói nhịu không ai nhịn được cười đâu.
Uống hết một bát nước vối nóng ấm mà Án mới rót đưa cho, bà Mến nói riêng với Án:
- Thằng bé sinh đầu giờ Dần. Số nó sau này khá. Các cụ dạy: Tuổi Thân thì mặc tuổi Thân, nếu sinh giờ Dần thì vẫn làm quan đấy bác ạ. Hôm nay là ngay bao nhiêu bác nhỉ?
- Thưa bà, ngày mùng một tháng hai, năm một ngàn ba trăm chín mươi (1/2/1390)
- Năm nay là năm Canh Ngọ, phải không bác?
- Thưa bà, đúng ạ.
- Thế thì nhất định số thằng bé sẽ khá. Mà tôi bảo nhé. Ngay sáng hôm nay bác phải đi lấy mấy lá cây lau, hoặc hoa chuối rừng, hay một cành lá xanh cũng được, bác buộc lại rồi đem treo trước cổng. Làm thế, ở đây chúng tôi gọi là làm dấu cấm cữ. Phải cấm cữ một tháng để đứa bé không bị vía độc. Chả may cháu có bị vía độc, không chịu ăn bú và khóc thì bác bá phải bế cháu đưa qua, đưa lại trên bếp lửa. Vừa khấn đốt bóng, đốt vía của người có vía độc đó. Tôi dặn thế, bác nhớ chửa?
- Dạ, con nhớ.
Trời mới hửng sáng. Trần Nguyên Án bước ra sân. Mưa xuân như có ai tung phấn trắng lên trời. Cây đào, cây mận ngoài vườn hoa đang nở rộ. Hoa xoan tim tím rải đầy nơi đầu ngõ. Dòng sông Lô phía trước cổng như tan trong lớp sương mù trắng xóa. Lòng Án lâng lâng như chắp cánh muốn bay. Chàng sung sướng, hãnh diện muốn hét to lên mà kính cáo với tổ tiên rằng: Từ nay tôn tộc nhà Trần đã có người nối dõi. Chợt nghĩ mình đang ở đâu, mình đang phải giữ gìn hình tích nên chàng kịp ngậm miệng lại. Thế nhưng trong lòng chàng thì lại nôn nao nhớ về một vùng rừng xa xôi mãi dưới Chí Linh, cách đây không biết bao nhiêu núi đồi, sông suối mà kể.
Mấy ngày sau, với tấm lòng thành kính, biết ơn, Trần Nguyên Án đích thân đem một ống dầu dọc, mấy ấm trà ngon đến tận nhà thầy Nguyễn Thái An để biếu và cám ơn, nhân thể nhờ thầy đặt tên và xem tử vi cho con trai.
Thầy Nguyễn Thái An  chậm rãi đi xúc ấm pha trà đoạn rót ra hai cái chén hạt mít mời Án một chén, thầy một chén. Uống xong một ngụm trà, thầy nói:
- Ở đời không ai là không mong cho con mình dù gái hay trai đều có được một cái tên gọi hay, hoàn chỉnh, hàm ý phong phú, ngụ ý sâu sắc. Đặt tên cho con là một học vấn có quan hệ đến văn tự học, âm vần học, dân tộc học, thậm chí cả sử học, chứ không phải muốn đặt thế nào thì đặt. Bởi thế, con người ta sinh ra phải được đặt tên một cách trang trọng. Từ khi có tên, người đó mới được coi như chính thức bước vào xã hội loài người với sổ bộ ghi chép, giấy khai sinh và hơn thế nữa, với bao hoài bão, ước mơ chứa đựng trong cái tên đó nữa. Vì cái tên ấy sẽ theo suốt cuộc đời của người mang nó, như luôn soi rọi mọi hành vi mà người đó mang theo, đúng hay không đúng với cái tên mình đã mang.  Cho nên tôi nghĩ là, tên bác là Án thì nên đặt tên con là Hãn. Trần Nguyên Hãn. Bác thấy được không?
Trần Nguyên Án chắp hai tay trước ngực lễ phép:
- Thầy đã dạy vậy, vợ chồng con xin đội ơn ạ.
Thầy Nguyễn Thái An lại mở tráp lấy ra một tập sách chữ nho dày cộp. Gáy sách đã sờn nát. Bìa sách được thầy quét một lớp nhựa sung dày cứng như da bò, bóng lên màu cánh gián. Thầy thận trọng lật giở vài trang, miệng lẩm nhẩm đọc Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Hợi… Vừa đọc thầy vừa bấm đốt ngón tay. Lúc sau, thầy Nguyễn Thái An quay lại nói với Án:
- Cháu bé nhà ta sinh vào giờ, ngày, tháng, năm như bác nói thì là người có cung đoài, trực mãn, mạng lộ bàng thổ, tức là đất đường đi. Cháu là con nhà Huỳnh đế, xương con ngựa, tướng tinh con vượn. Tướng này, Phật độ rằng: “Số này thân tự lập thân - Được người giúp đỡ có phần làm nên - Lộc cao như núi Thái Sơn - Cơ mưu khéo léo chẳng hề ai hay”. Cuộc đời lúc nhỏ có nhiều đảo lộn và sôi động. Được êm ấm và hưởng nhiều tình thương của gia đình. Hạnh phúc bắt đầu ở vào tuổi ba mươi mốt. Nói chung cuộc đời có nhiều phúc đức. Có thể thành công trên bước đường sự nghiệp, công danh nhưng cũng lắm vất vả, nhiều đau buồn trong kiếp sống.
Dứt lời, thầy nhìn thấy mặt Án nghệt ra vẻ hoang mang, lo lắng liền an ủi:
- Ấy là sách viết thế tôi nói cho bác biết thế. Bác cứ chiêm nghiệm xem sao. Còn sống ở đời tôi nghiệm ra nhân định thắng thiên cũng nhiều. Đức năng thắng số bác ạ.
Ở nhà thầy Nguyễn Thái An ra về, loanh quanh với việc nọ việc kia, chùm lá cấm cữ treo ở đầu cổng chưa héo hết đã đến ngày chẵn tháng sinh Trần Nguyên Hãn.
Không biết lễ cúng mụ cho con cần những thứ gì, văn khấn ra sao, vợ chồng Trần Nguyên Án lại đến nhờ bà Mến. Bà Mến bảo, lễ cúng Mụ phải được làm cẩn thận chu đáo. Bác về chuẩn bị các lễ vật bao gồm những thứ này: mười hai đôi hài màu xanh, giống hệt nhau. Mười hai nén vàng xanh, giống hệt nhau. Mười hai bộ váy áo màu xanh, giống hệt nhau. Mười hai miếng trầu cánh phượng, giống hệt nhau. Mười hai bộ đồ chơi: Bát, đũa, thìa, chén, cốc, con giống, xe cộ, mũ, nón làm bằng sành sứ, giống hệt nhau. Mười hai con cua, mười hai con ốc, mười hai con tôm để sống, to nhỏ bằng nhau. Phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả chia đều thành mười hai phần giống nhau. Một mâm lễ mâm có rượu, xôi, gà, cơm canh, các món. Một bát hương, lọ hoa tươi nhiều màu, tiền vàng, bát nước thanh thủy.
Buổi sáng, đúng hôm cách ngày Trần Nguyên Hãn chào đời tròn ba mươi ngày, đúng hẹn, bà Mến từ thôn Đa Cai đi vào nhà Án. Hôm nay bà ăn mặc gọn gàng, áo nâu, yếm sồi, bao lưng gụ thắt quanh chiếc váy màu đen nhuộm bùn mới cứng. Bà kiểm tra xem các thứ lễ vật đủ cả chưa. Bà tỏ ra hài lòng, vui vẻ bởi vợ chồng Trần Nguyên Án đã làm theo đúng lời bà dặn. Tất cả lễ vật dâng bà Mụ chúa, bà Mến đem đặt ở chính giữa phía trên hương án. Gọi là hương án cho đúng ý nghĩa chứ thực ra đấy là tấm phên nứa được Trần Nguyên Án đặt trên hai cái chân mễ cao lênh khênh để làm bàn thờ cúng gia thần, gia tiên. Lễ vật dâng  mười hai bà Mụ, bà Mến chia đều, đặt sang hai bên. Mâm lễ mặn cùng hương hoa, trà tửu, nước thanh thủy bà đặt trên cùng. Bên dưới bà Mến đặt mâm tôm, cua, ốc… Bày lễ vật xong, bà Mến bảo:
- Bác Án ơi, bác thắp ba nén hương. Còn bá Hoàn bế thằng cu Hãn ra đây. Hai mẹ con ngồi ở chỗ này, mặt hướng lên phía hương án nhé. Hương cháy rồi. Tôi bắt đầu làm lễ nhé.
Bà Mến ngồi bệt trên chiếc chiếu, hai tay chắp trước trán, cúi lạy ba lạy dài rồi bà khấn:
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Con kính lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúa
Con kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúa
Con kính lạy Đệ tam Tiên mụ đại tiên chúa
Con kính lạy Thập nhị bộ Tiên nương
Con kính lạy Thập lục cung chư vị Tiên nương
Hôm nay là ngày mùng một tháng ba năm Canh Ngọ
Vợ chồng con là Trần Nguyên Án và Lê Thị Hoàn, sinh được con trai đặt tên là Trần Nguyên Hãn. Chúng con ngụ tại thôn Đa Cai, trang Sơn Đông… Nay nhân ngày đầy cữ, chúng con thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật và các thức cúng dâng bày lên trước án, trước bàn tọa chư vị Tôn thần kính cẩn tâu trình:
Nhờ ơn thập phương chư vị Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị Tiên bà, các đấng thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội ngoại cho con sinh ra cháu tên là Trần Nguyên Hãn, sinh ngày mùng một tháng hai, được mẹ tròn con vuông.
Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu được ăn ngoan, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh, vô tật. vô tai, vô ương, vô hạn, vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh, sáng láng, thân mệnh bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quý. Gia đình chúng con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo.
Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật.
Khấn xong, bà Mến bảo Lê Thị Hoàn chắp tay Trần Nguyên Hãn vái trước hương án ba vái. Đợi cháy hết ba tuần hương, bà lại bảo Trần Nguyên Án quỳ xuống, lễ tạ. Xong xuôi, bà Mến bảo chàng:
- Bây giờ bác đem số vàng mã, váy áo này ra sân hóa đi. Lúc đang hóa nhớ vẩy chén rượu cúng này bác nhé. Số tôm, cua, ốc thì bác đem đi phóng sinh tại các ao, hồ hay ngoài bến sông Lô cũng được, để cầu phúc. Còn những đồ chơi này bá Hoàn giữ lại nay mai cho cháu nó chơi để lấy khước.
Sau buổi cúng mụ cho Trần Nguyên Hãn, các bà, các chị trong thôn Đa Cai mới dám đến chơi với vợ chồng Trần Nguyên Án. Dù vợ chồng chàng thuộc loại dân ngụ cư, thân cô thế cô giữa trang Sơn Đông này nhưng những năm tháng sinh sống nơi đây hai người ăn ở với dân làng như bát nước đầy. Không có đám hỷ nào Trần Nguyên Án không có mặt để chúc mừng. Những cụ già, khi đau yếu, bệnh tật Án quà cáp thăm hỏi; khi qua đời án thăm viếng. Việc thôn, việc trang Án đều tham gia đầy đủ, chu đáo. Sống ở làng quê mà ăn ở, ứng xử được như án là quý lắm. Quý vợ chồng chàng nên người ta mới rủ nhau đến chơi. Người biếu Lê Thị Hoàn nải chuối, người cho chục trứng gà, người đưa cân gạo nếp… Có chị đem cho Hãn mấy bộ quần áo sơ sinh cũ. Chị ấy mắn đẻ, con đông mà đứa nào cũng khỏe, ngoan. Chị cho Hãn mặc để lấy khước. Ai đến chơi cũng có quà, chả mấy người đến tay không, không thứ này thì thứ khác. Vợ chồng Án từ chối thì họ bảo: “Tôi cho “thằng chó con” này chứ có cho hai người đâu mà không nhận kia chứ”. Thằng chó con là Trần Nguyên Hãn mới được hơn tháng tuổi mà dài rộng như con nhà người ta ba bốn tháng. Tóc bé xanh ngần. Miệng bé rộng. Tai bé to. Mắt bé sáng và sếch. Có người tỏ ra biết xem tướng khen, thằng bé có quý tướng. Sau này ắt phải làm quan. Lê Thị Hoàn ôm con vào lòng, nựng nịu:
- Được ăn cơm Đa Cai, uống nước sông Lô, nay mai lớn lên cháu chỉ đi cày như các ông, các bà thôi, thằng chó con của mẹ nhể.
Trước mặt mọi người nàng nói vậy chứ thực tâm nàng đang gửi gắm rất nhiều hy vọng với bao nhiêu nỗi niềm, tâm trạng vào đứa con trai. Chẳng thế mà những lúc đặt Trần Nguyên Hãn nằm trong chiếc chóng tre (*), vừa đưa đi đẩy lại, nàng vừa ru cho con ngủ với những câu ca da diết: “Làm trai vác cuốc, vác mai - Theo ông sư Lãng đua tài một phen - Làm trai chớ giữ phận hèn - Xách điếu bưng tráp ho hen cho người”. Rồi: “Làm trai cho đáng nên trai - Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng”…

Chú thích:
(*) Chõng tre: Nôi đan bằng tre 
2. Đa Cai là một thôn của trang Sơn Đông. Trang Sơn Đông ngày ấy là một vùng quê nằm trong vùng chiêm trũng. Cả miền đất của trang dường như đổ dốc về phía Đông và bờ con sông Lô, còn sau lưng trang lại toàn đồi gò với rừng rậm khiến cho Sơn Đông có cái thế “ỷ dốc”, tựa lưng vào núi đồi mà hiên ngang chống chọi với lũ lụt, hiên ngang tồn tại trước thử thách của thiên nhiên từ hàng ngàn năm trời rồi.
Để sống chung được với lũ lụt, những ngôi nhà ở Sơn Đông đã được dựng lên với một cách làm thật đặc biệt: Tất cả các cột nhà đều làm bằng cây tre tươi, chân cột chôn sâu gần một mét vào lòng đất mà vẫn nảy cành, đâm lá. Mỗi tầng người ta đặt ngang bốn cây tre, bốn mặt, giằng các cột lại với nhau như đóng cũi, cả trên lẫn dưới hai ba tầng, rồi đan đố, không trát vách. Vào mùa mưa nước lũ tự do chảy tràn vào nhà. Không gặp tường chắn, lại tự do chảy đi. Nhờ thế mà nhà mới không bị đổ. Đòn tay gác lên vì kèo. Mái nhà không đóng rui mè. Lá cọ mua về nẹp từng cặp, xếp lên nhau mà lợp thành mái. Nước dâng tới đâu, ván gác lên tới đấy, làm thành sàn để chứa lương thực, cất chăn, màn, quần áo và chỗ người nằm. Gặp khi nước lũ dâng cao sát mái kèo, người ta gỡ bỏ nẹp lá cọ, vạch thủng mái, chui lên nóc nhà và kéo tất cả đồ đạc, thức ăn lên trên mái nhà. Không may nước dâng lên ngập cả mái thì, thuyền buộc quanh nhà cũng đã nổi lên theo, bỏ các thứ vào thuyền, người ta chở cả súc vật và của cải sơ tán sang các làng lân cận…
Để thích nghi được với cuộc sống nơi thường xuyên xảy ra lũ lụt, nhất là vào mùa mưa, chỗ bếp nấu của người dân trang Sơn Đông cũng rất độc đáo: Người ta đóng khung những tấm tre đan chắc chắn có chiều rộng khoảng trên một mét, treo bên hiên đầu chòi. Phủ tro lên trên tấm phên để chống cháy, thay vì không lấy được bùn để trát do nước quá sâu. Trên tấm đan, người ta bắc kiềng lên nấu như thường. Củi rong rêu vớt được dưới dòng lũ đem vứt cả lên nóc nhà. Nắng gió, củi sẽ khô dần. Khi chuẩn bị bữa cơm, chỉ cần thò tay lên mái nhà bẻ củi, rút xuống mà đun nấu.
Một vùng quê sống giữa một vùng đất với thiên nhiên khắc nghiệt tưởng như không thể khắc nghiệt hơn nhưng nhờ người dân biết cách sống hòa nhập với thiên nhiên nên người ta không chỉ sống được mà trang Sơn Đông còn có vô khối người làm rạng danh cho quê hương. Sơn Đông mang hình dáng chiếc “hia”. Các thầy địa lý bảo rằng: Đấy là kiểu đất phát quan. Trong số người thi cử đỗ đạt nhưng lại không ra làm quan có thầy Nguyễn Thái An.
Nhà thầy Nguyễn Thái An ở đầu thôn Đa Cai. Thế đất nhà thầy cao hơn hơn vùng chiêm trũng một chút nên thầy không phải lo nhiều về chuyện ngập lụt. Bởi thế, thầy mới làm một ngôi nhà gỗ ba gian, hai chái. Tường nhà xây bằng đá ong, mái lợp bằng lá cọ. Gian giữa nhà thầy An kê bàn thờ và một chiếc phản được ghép từ những tấm ván gỗ xoan. Bên trên bàn thờ thầy treo một bức hoành phi với dòng chữ nho “Kính như tại”. Nghĩa là con cháu kính trọng tổ tiên như lúc nào tổ tiên cũng tại vị trên bàn thờ. Hai bên bức hoành phi, thầy treo hai câu đối: “Tổ tông công đức thiên nhiên thịnh/ Tử hiếu, tôn hiền vạn đại vinh”. Thầy lược dịch mỗi khi có người hỏi nghĩa hai câu đối là gì, là: Công đức tổ tông nghìn năm thịnh - Hiếu hiền con cháu vạn đời vinh.
Nhà thầy Nguyễn Thái An nhằm hướng Đông Nam, nhìn ra con sông Lô. Để tránh nắng gió và lấy chỗ cho học trò ngồi học, phía ngoài hiên thầy cho che ba tấm cánh dại, đan bằng tre. Phía cuối cái sân đất thầy trồng ba cây cau với mấy cây hoa ngâu, hoa sói. Dưới mỗi gốc cau, thầy đặt một cái chum để hứng nước mưa. Đây là loại nước thầy chỉ dùng vào việc đun sôi, pha trà mỗi sáng.
Như phần trên đã nói, thầy An sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc. Là thầy thuốc ai đến đón thầy về thăm bệnh tại gia thầy cũng đi. Tiền nong thế nào cũng xong. Gặp phải người nghèo, gia cảnh khó khăn, không những thầy không nhận tiền mà còn cho thêm. Là thầy dạy học nhưng thầy vẫn nói, dạy cho lũ trẻ trong thôn thành người chứ thầy không dạy vì tiền. Đến vụ ai đem tới biếu thầy vài đấu thóc, mấy củ khoai, mươi bắp ngô… còn phải nói khó thầy mới nhận.
Thầy An vốn là học trò của thầy Đỗ Khắc Chung. Đỗ Khắc Chung là người làng Cam Lộ mãi dưới Hưng Yên. Thân phụ thầy là ông Đỗ Nhuận, thân mẫu thầy là Vũ Thị Hương, người cùng làng, cả hai đều làm nghề thầy thuốc. Khi thi cử chưa được đỗ đạt, Đỗ Khắc Chung đã có những năm tháng phiêu bạt lên tận nơi sơn cùng, thủy tận này để mở trường dạy chữ và lễ nghĩa cho người dân trang Sơn Đông.
Sau thời gian dạy học ở trang Sơn Đông, Đỗ Khắc Chung về triều thi đỗ và tham gia hàng ngũ sĩ phu, làm quan triều Trần đến năm mươi năm. Bà con trang Sơn Đông tôn vinh thầy Đỗ Khắc Chung làm Thành hoàng làng. Đền thờ thầy được dân làng dựng ngay trên nền chính của ngôi trường xưa thầy dạy học. Nơi ấy có thế đất giống cỗ bút nghiên như là chỉ ra làng này là nơi “đất học”. Trong đền có hai câu đối: “Ô tưởng hùng phong tam thoái xá/  Long vương hồng huống vạn tự niên”. Nghĩa là: Tướng Ô trước gió mạnh, lui về xá/ Long vương gặp sóng cả, sợ đến vạn năm.
Mỗi khi rảnh rỗi, thầy Nguyễn Thái An lại kể chuyện về thầy Đỗ Khắc Chung cho các trò nghe. Sáng nay, thầy An kể về chuyện thầy Chung đối đáp với tướng giặc Ô Mã Nhi.
Chuyện rằng, tháng Giêng năm 1285, giặc Nguyên tiến vào Vũ Ninh, Đông Ngàn, chúng bắt được rất nhiều nghĩa quân nhà Trần. Chúng vô cùng tức giận và giết hại mất khá nhiều người, bởi thấy ai cũng thích vào cánh tay mình hai chữ “Sát Thát”. Trước tình thế chiến sự diễn ra rất phức tạp và bất lợi cho ta, vua Trần Nhân Tông muốn nắm được một cách chính xác thực lực của quân Nguyên, nhưng nhà Vua bối rối vì chưa biết ai có thể thực hiện được nhiệm vụ quá khó khăn này. giữa lúc ấy thì  Đỗ Khắc Chung xin tình nguyện đảm nhận.
Đỗ Khắc Chung đem thư của vua Trần Nhân Tông đến gặp Ô Mã Nhi ở Đông Bộ Đầu để vờ xin giảng hòa. Ô Mã Nhi chỉ mặt Đỗ Khắc Chung nói:
- Vua của nhà ngươi quá vô lễ. Tại sao dám sai mọi người thích chữ Sát Thát vào cánh tay, chống lại quân ta? Cả gan dám chống lại thiên binh, ta nói cho ngươi biết, lỗi ấy nặng lắm đấy.
Đỗ Khắc Chung bình thản đáp:
-  Thưa ngài. Nếu chó nhà có cắn người lạ thì lỗi ấy đâu phải chủ của nó. Vì lòng trung phẫn mà nghĩa quân và người dân nước tôi tự thích hai chữ đó vào cánh tay. Việc làm này, nhà Vua tôi không biết. Còn tôi, là một trung thần, tôi cũng thích hai chữ đó. Đây ngài xem đi.
Đỗ Khắc Chung vạch tay áo mình lên, giơ ra trước mắt Ô Mã Nhi. Ô Mã Nhi liếc mắt nhìn qua rồi hỏi:
- Đại quân ta đã từ rất xa tới đây, tại sao vua tôi nước ngươi không chịu quay giáo đến nhận lệnh mà lại cố tình chống trả? Các ngươi định lấy càng con châu chấu để đá voi sao? Làm vậy sự thể liệu sẽ ra sao, hả?
- Thưa ngài. Là bởi vì ngài không noi theo kế sách của Hàn Tin bên nước ngài, đi dẹp giặc nước Yên, đóng quân nơi biên ải gửi thư báo tin trước. Nếu như vua nước tôi không chịu thông hiểu mới là có lỗi. Nay ngài gây nên sự bức bách lẫn nhau, thế thì như cổ nhân nói, thú cùng đường tất phải cắn lại, chim cùng lối thì sẽ mổ lại, huống chi là con người.
Nghe Đỗ Khắc Chung nhắc đến danh tướng Hàn Tín, người đời Hán, đã nghe Lý Tả Xa bày mưu, trước khi tiến đánh đã gửi thư cho vua nước Yên. Quả nhiên, vừa nhận được thư của Hàn Tin, vua nước Yên đã xin hàng… Ô Mã Nhi nói, giọng có hạ xuống, tuy dọa dẫm nhưng vẻ hung hăng không còn:
- Nhà ngươi hiểu không, đại quân của ta chỉ mượn nước Đại Việt làm đường để đi đánh Chiêm Thành. Giá mà vua của ngươi biết điều xin đến hội kiến với ta thì bờ cõi nước Đại Việt đâu có bị xâm phạm, mà dân tình nước ngươi cũng sẽ được yên ổn. Nay nếu cứ cố chấp, cứ cố tình chống lại thì chỉ trong khoảnh khắc, núi non nước Đại Việt sẽ hóa thành đất bằng, Vua tôi nước ngươi sẽ hóa thành cỏ nát.
Không còn gì để nói, Đỗ Khắc Chung bỏ về. Với vẻ thán phục, Ô Mã Nhi quay lại nói với các tướng đang đứng hai bên:
- Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ ứng đối vẫn tự nhiên. Không chịu hạ thấp danh giá chủ, cũng không thèm nịnh ta. Dám ví việc đánh ta như chó cắn người lạ. giỏi lắm thay. Đi sứ mà như thế thì có thể nói là không làm làm nhục mệnh vua. Nước họ còn có người như vậy thì ta chưa dễ gì mưu tính được.
Nói rồi, Ô Mã Nhi liền cho người đuổi theo Đỗ Khắc Chung để đàm tiếp, nhưng đã muộn.
Kể hết chuyện, thầy Nguyễn Thái An, bùi ngùi nói thêm:
- Thầy Chung qua đời từ năm một ngàn ba trăm ba mươi (1330), hưởng thọ tám mươi tư tuổi. Thầy thuộc hàng quan văn nhưng cái bất diệt mà thầy để lại, được người đời ghi nhận lại chính là dũng khí của thầy trước một kẻ thù hung bạo. Thầy đã thực hiện xuất sắc chiến lược vừa đánh, vừa đàm của triều đình nhà Trần thời bấy giờ.
Trong số ít trò ngồi nghe như muốn nuốt lấy từng lời thầy An kể có Trần Nguyên Hãn. Thầy An hỏi:
- Các trò, sau này lớn lên các con đều noi gương thầy Đỗ Khắc Chung cả chứ?
Chỉ có Trần Nguyên Hãn đứng lên, khoanh tay đáp:
- Thưa thầy, lớn lên con thích làm quan võ hơn quan văn ạ.
Thầy bước tới, xoa đầu Hãn:
- Con có chí như vậy là tốt lắm. Thầy tin con. Đất nước mình đang bị quân Minh xâm chiếm nên người có chí như Hãn thầy quý lắm.
Từ khi lên tám tuổi, Trần Nguyên Hãn được cha mẹ gửi đến học tại nhà thầy Nguyễn Thái An. Biết tử vi của Hãn, lại thấy Hãn sáng dạ, học hành thông minh, có ý chí hơn bạn bè cùng trang lứa, thật tình thầy rất quý Hãn. Nhưng tình riêng ấy thầy vẫn giấu kín trong lòng. Không hiểu sao lần này, trước câu trả lời của Hãn thầy lại nói buột ra?
Mấy thầy trò còn đang sống trong tâm trạng vừa cảm phục, vừa bâng khuâng thương nhớ một con người đáng kính đã khuất núi mấy chục năm thì thầy An có khách. Thầy An cho các trò ra chơi.
Như chim được sổ lồng, ngót chục đứa trẻ ùa ùa kéo nhau chạy ra ngoài cổng làng. Ngoài này là những thửa ruộng bậc thang mới được cày bừa vỡ, đất bạc màu lổn nhổn. Đây là nơi bày trận giả, lấy đất ném nhau thật lý tưởng. Giống những trận “chiến đấu” không phân thắng bại mấy ngày trước, hôm nay Trần Nguyên Hãn lại cầm đầu một bên, thằng Phạm Toán cầm đầu một bên. Thoạt tiên, mỗi bên còn đứng cách xa nhau một mặt ruộng, nhặt những cục đất to bằng củ đậu, ném vù vù sang phía đối phương. Một lúc sau, những đứa bị “ăn” đạn, đau quá, liền liều chết xông lên trả thù. Có lẽ phần thương bạn thì ít mà phần căm thù Hãn thì nhiều, thằng Toán đang lom khom nấp sau bụi cây, bỗng nó nhảy xồ ra, hô to: “Xung phong”. Miệng hô, tay nó tới tấp ném đất như mưa về phía Hãn. Hãn bình tĩnh né tránh. Biết Toán vẫn thù mình từ chiều hôm qua, vì bênh cái Tuyển bị Toán bắt nạt, Hãn đã dìm Toán uống nước đến mấy bận ngoài bến Đông Hồ nên Toán mới liều chết xông ra… nhưng Hãn vẫn chưa phản công lại. Tưởng Hãn sợ, Toán càng xáp tới ném đất, ném cát vào đầu, vào người Hãn. Lùi không được, tránh cũng không xong, bất ngờ, Trần Nguyên Hãn lao vào, ôm chầm lấy Toán. Quân hai bên thấy hai tướng sắp đánh nhau to, vội vàng đứng xúm lại, vỗ tay cổ vũ, reo hò ầm ĩ.
Hãn và Toán ghì chặt cánh tay vào nhau, ra sức đùn đẩy, tiến lùi. Hai đứa tiến lùi đến đâu, mấy đứa đứng xem giãn ra đến đó. Cứ vậy, chúng nó lúc co vào, lúc giãn ra theo nhịp trống mồm “tung, tung, tung” thúc giục dồn dập của thằng Nguyễn Văn Bờ, bạn Hãn. Toán to cao, béo mập hơn Hãn nên mấy lần nó nhấc Hãn lên khỏi mặt đất nhưng không thể nào quật cho Hãn lấm lưng, trắng bụng được. Tức quá, Toán ngoạm vào cổ Hãn một miếng. Hãn đau điếng người nhưng cố chịu.  Lợi dụng lúc Toán đắc chí, nhanh như chớp, Hãn khoèo mạnh một phát vào chân Toán. Bị bất ngờ, Toán ngã bật ngửa, đầu đập vào hòn đá, máu túa ra đỏ lòm ở cổ, ở mặt… Hãn buông Toán, đứng dậy. Toán khóc toáng lên, vừa khóc nó vừa chửi Hãn và chạy về mách thầy. Hãn cùng mấy đứa bạn lếch thếch chạy theo sau. Sợ sẽ bị thầy cho ăn đòn nên mặt mũi đứa nào cũng xanh như đít nhái.
Thầy Nguyễn Thái An lấy thuốc cầm máu đắp vào vết thương cho Toán xong thầy mới nghe Toán thưa bẩm. Nghe xong thầy lại hỏi Hãn. Biết rõ nguyên cớ, thầy bảo Hãn phải đi múc nước rửa sạch vết máu ở cổ, ở mặt cho Toán. Sau đó, thầy bắt hai đứa nằm sấp xuống phía trước dưới chân thầy. Những trò khác, thầy bắt khoanh tay trước ngực, đứng xung quanh. Tay thầy cầm một chiếc roi tết bằng sợi mây. Thầy giập giập, chứ không vụt, xuống mông Hãn mấy cái, rồi lại chuyển sang giập giập xuống mông Toán mấy cái. Tuy thầy chưa đánh mà hai đứa đã cảm thấy đau. Chúng oằn người, cong lưng. Tay chúng đưa lên mông xoa xoa, che đỡ.
Sau một hồi giảng giải, phân tích đúng sai, thầy An bảo:
- Người quân tử có bốn điều hận. Các con có biết là những điều gì không? Đó là hận người độc ác. Bởi loại người này thiếu mất lòng nhân hậu. Đó là hận người dưới dám phạm thượng. Bởi loại người này không biết tôn kính. Đó là hận kẻ có dũng mà không biết giữ lễ tiết. Bởi loại người này dễ phản trắc. Đó là hận những người quả cảm, quyết đoán nhưng kém hiểu biết. Bởi loại người này không tự biết mình đang gây tai họa. Thực tình ta rất hận các con. Vì các con đã phạm vào bốn điều hận của người quân tử nhưng các con còn nhỏ nên hôm nay ta cho hai đứa mỗi đứa nợ mười roi. Ta rất mong các con sau này lớn lên, đứa nào cũng phải làm được như lời Khổng Tử dạy: “Thủy sự ư thân. Trung sự ư quân. Chung lập ư thân”. Một người lúc còn trẻ ở nhà, phải phụng sự tốt song thân. Lớn lên làm quan, phải hết mình phò vua, giúp nước. Khi già cáo lão, hồi hương, phải giữ gìn khí tiết tuổi già. Các trò đã nghe rõ lời ta chưa? - Tất cả cùng thưa: “Rõ rồi ạ”. Thầy An bảo - “Thôi, ta tha cho các con. Từ ngày mai trở đi không được làm thầy phiền lòng như thế này nữa” - Nói rồi thầy đứng dậy, giắt chiếc roi mây lên chỗ cũ, ngay trên cánh dại, dưới mái hiên.
Tan học, thầy An cho các trò về, riêng Trần Nguyên Hãn thầy bảo ở lại. Không biết thầy bảo Hãn ở lại để làm gì hay là bị thầy phạt vì tội đánh Toán? Nghĩ vậy, Bờ cứ lo thay cho Hãn. Cắp sách về trước mà lòng dạ Bờ quay cả về phía Hãn.
Thầy Nguyễn Thái An không phạt Hãn. Trò Hãn đâu có lỗi trong chuyện vật nhau với Toán, làm Toán ngã chảy máu đầu. Vốn cậy mình là con hào trưởng, Toán hay vênh mặt lên, coi thiên hạ chẳng ra gì. Ngữ ấy phải có người  như Hãn kìm giữ may ra mới hết thói ỷ thế cha mẹ bắt nạt bạn bè. Thầy bảo Hãn ngồi xuống tấm phản kê ở gian giữa nhà, nơi mà mỗi lần có khách đến chơi vẫn được thầy mời ngồi. Hãn lẳng lặng làm theo. Thầy chậm rãi châm đóm, rít một hơi thuốc lào, thở khói trắng mù trước mặt, đoạn thầy lại chiêu miệng một ngụm nước chè xong mới hỏi:
- Người ta vẫn bảo, trên thế gian này có ba thế lực, trò Hãn có biết là những thế lực nào không?
Nghĩ rằng mình hỏi để mà hỏi chứ mới lên mười tuổi làm sao Hãn biết mà trả lời. Nhưng thầy đã nhầm. Hãn khoanh tay trước ngực, lễ phép thưa:
- Bẩm thầy, có phải là Thiên, Địa, Nhân không ạ?
- Giỏi  lắm. Mà sao đã biết con còn phải hỏi lại thầy? Hãy tự tin con ạ. Đúng là Trời, Đất, Người là ba thế lực lớn nhất ở trên thế gian này. Người nào muốn nắm được, muốn chỉ huy được ba thế lực ấy thì phải thông tỏ từ cái yếu đến cái mạnh của từng thế lực một. Người đó thường là ai hả con?
- Bẩm thầy, con nghĩ là nhà vua ạ.
- Đúng vậy. Đã làm vua ắt phải thông tỏ ba thế lực ấy. Chính vì thế chữ “vương” mới viết như thế này.
Thầy Nguyễn Thái An lấy bút lông, quệt qua đĩa mực, vạch ba vạch ngang, một vạch dọc nối liền qua ba vạch ngang lên tờ giấy bản, thầy giảng tiếp:
- Đây là Thiên, đây là Địa, đây là Nhân, còn đây là trí tuệ của nhà Vua. Con người nhỏ bé mà đứng giữa vũ trụ đấy con ạ. Thầy biết con là người có chí, ngay từ bây giờ con phải nuôi cái chí ấy lớn lên, chớ nên mất thời gian sa đà vào những trò chơi vô ích. Tuy vậy, lại không được nôn nóng, sốt ruột.
Thầy rót nước, uống một ngụm nữa rồi mới viết thêm một chữ “nho” bên cạnh chữ “ vương” và nhẩn nha nói:
- Chữ “nho” gồm có chữ “nhân” và chữ “nhu”. “Nhân” là người. “Nhu” là dùng. Tức là hạng người bao giờ cũng cần dùng đến để giúp cho nhân quần xã tắc biết đường mà ăn ở và hành động cho hợp với lẽ đời. “Nhu” còn có nghĩa là chờ đợi. Tức là người học giỏi, đợi người ta cần đến, sẽ đem tài trí của mình ra mà giúp việc đời.
Nghe thầy nói, Trần Nguyên Hãn bỗng thấy đầu óc mình sáng láng hẳn ra. Hãn cúi đầu tạ ơn thầy:
- Bẩm thầy. Con hiểu ngụ ý của thầy. Hãn con nguyện sẽ làm theo lời thầy dạy ạ.
- Tốt lắm. Thôi con về đi kẻo ở nhà cha mẹ con mong.  
3. 
Vì mải chơi thêm mấy ván khăng cho cánh thằng Phạm Toán gỡ thua nên mặt trời đã khuất hẳn sau dãy núi Hy Cương, Trần Nguyên Hãn mới dắt trâu về đến nhà. Cho trâu vào chuồng, đóng văng xong thì trời tối nhọ mặt người. Hãn đẩy cửa bước vào nhà. Trong nhà tối om. Muỗi bay vo vo như ong vỡ tổ. Thắp đĩa đèn dầu dọc lên, bóng tối loãng ra nhạt nhòa. Hãn vội vàng vào bếp nhóm lửa, vo gạo thổi cơm. Đợi cơm cạn. vẫn chưa thấy cha mẹ về, Trần Nguyên Hãn lấy đôi quang gánh với hai chiếc rổ mò mẫm ra bến Đông Hồ.
Mùa này dọc đang chín, vợ chồng Trần Nguyên Án phải bơi thuyền theo dọc bờ con sông Lô lên mãi trên Phú Thọ, Tuyên Quang, rồi vào rừng thu hái dọc. Dọc là thứ cây mọc thẳng, cao vút lên với rất nhiều cành nhánh đâm ra ba bề, bốn bên. Quả dọc lấp ló sau những chùm lá to, cứng. Muốn hái được dọc người ta phải trèo lên cây, nhiều khi phải trườn mình trên những cành la, rất nguy hiểm. Chỉ cần sơ sẩy một chút, hoặc bất ngờ cành gãy là có thể quăng mình xuống đất, nếu không chết cũng sứt đầu mẻ trán. Với Trần Nguyên Án, lấy dọc đã thành nghề. Như con sóc, chàng thường đu người từ cành này sang kia, một tay bấu vào cây, một tay bứt từng chùm quả vứt xuống rào rào. Lê Thị Hoàn đứng dưới gốc cây, lúc ngửa cổ nhìn lên nhắc chồng cẩn thận, lúc cúi xuống nhặt những quả dọc chín vàng mọng xếp vào sọt. Lần nào cũng vậy cứ xếp đầy bốn sọt là hai vợ chồng xuống núi. Đưa bốn sọt dọc lên đò, hai vợ chồng chèo thuyền về đến nhà là vừa hết một ngày. Hôm nay bởi cuối mùa, dọc chín đã vãn, bòn mót mãi mới đầy sọt nên họ về hơi bị muộn so với mọi khi.
Thuyền vừa cặp bến, Trần Nguyên Hãn nhảy xuống thuyền cùng cha mẹ đưa dọc lên bờ xong lại nhặt dọc xếp sang hai chiếc rổ. Sợ con gánh nặng quá, Lê Thị Hoàn bảo:
- Con mới tập gánh, gánh in ít thôi kẻo gãy lưng đấy.
Trần Nguyên Hãn hăng hái:
- Không nặng đâu. Đây cha mẹ xem này.
Miệng nói, chân bước, Trần Nguyên Hãn gánh hai rổ quả dọc chạy phăm phăm lên phía trước.
Đổ hết những quả dọc mới hái về ra một góc sân, đợi ngày mai sẽ đập lấy hạt, phơi khô để làm dầu, Trần Nguyên Án giục vợ con:
- Hãn ra chuồng bắt cho cha con gà. Nàng đi đun cho ta ấm nước.
- Bắt gà làm gì hả cha? Thịt gà hả cha?
- Ừ. Thịt gà, làm cỗ cúng ông nội. Cả ngày hôm nay bận quá, đến bây giờ mới bày biện được.
Gọi là làm cỗ nhưng những năm giỗ trước vì nhà nghèo nên vợ chồng Trần Nguyên Án chỉ có bát cơm, quả trứng thắp hương cụ cho khỏi phải tội. Lần này nhờ “nhật nhật sinh nhai, tiệm thành phú túc”. Ngày ngày siêng năng, dần dần trở nên giàu có. Dù chưa giàu, vợ chồng Án cũng dễ chịu hơn trước nên chàng quyết định thịt gà, làm cỗ cúng giỗ bố.
Hai vợ chồng lúi húi đun nấu một lúc lâu thì Lê Thị Hoàn bưng mâm cơm canh đặt lên bàn thờ. Trần Nguyên Án sai con hái một lá trầu, lấy chén nước lã đặt bên cạnh bát hương, còn chàng ra chum nước rửa mặt mũi chân tay, thay quần áo sạch. Xong việc, chàng châm ba nén nhang, cắm vào bát hương, đoạn lại rót ra ba chén rượu. Tiếp đó, với thái độ thành kính, chàng vái ba vái dài, rồi lầm rầm khấn:
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
Con lạy chín phương trời, mười phưng chư Phật, chư Phật mười phương.
Con kính lạy Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị tôn thần
Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
Con kính lạy ngài Thần linh, Thổ địa cai quản xứ này
Con kính lạy Tổ tiên nội, ngoại họ Trần.
Tin chủ con là Trần Nguyên Án, ngụ tại thôn Đa Cai, trang Sơn Đông… Hôm nay là ngày 14 tháng 10 năm 1400, chính ngày giỗ của cha Trần Nguyên Đán.
Thiết nghĩ cha vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ, tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ… Nhân ngày cát kỵ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương, dãi tỏ tấc thành. Tâm thành kính mời cha Trần Nguyên Đán, mất ngày 14 tháng 10. Mộ phần táng tại Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương… Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu an ninh, khang thái, vạn sự tốt lành, gia cảnh hưng long, thịnh vượng.
Con lại xin kính mời các vị tổ tiên nội, ngoại, tổ khảo, tổ tỷ, bá thúc, huynh đệ, cô dì, tỷ muội và toàn thể các hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.
Tín chủ con lại kính mời các ngài thần linh, thổ địa, thổ công, táo quân và chư vị linh thần đồng lai giám cách thượng hưởng.
Tín chủ con lại lại mời vong linh các vị Tiên chủ, Hậu chủ nhà này, đất này cùng tới hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di đà Phật
Nam mô a di đà Phật
 Nam mô a di đà Phật
Lầm rầm khấn vái xong, Trần Nguyên Án cúi rạp người xuống, chắp tay lễ ba lễ dài, rồi lại ra thêm ba tuần rượu nữa, đoạn chàng đưa mắt nhìn Hãn đứng bên cạnh xem cha cúng, nói: “Nay mai con lớn cha sẽ dạy con các bài cúng. Con trai mà không biết cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên, có họa là con hến”.
Đợi tới lúc hương tàn hết Trần Nguyên Án mới bảo Lê Thị Hoàn trải chiếu ra ngoài mái hiên để cả nhà ngồi ăn cơm cho rộng rãi, mát mẻ. Trước khi ăn, Lê Thị Hoàn nhắc chồng xem chân gà để biết chuyện về quá khứ, hiện tại, tương lai của gia đình. Trần Nguyên Án không xem. Chàng bảo “Muốn xem chân gà thì con gà trống ấy phải chưa biết áp mái, lại phải nuôi nó ít nhất là một tháng… Và, khi cắt tiết phải cắt ở ngoài sân, miệng phải cầu khấn về điều gì đó mà mình muốn biết. Có như thế xem mới được chính xác. Đằng này, con gà này là con mái, thế thì xem thế nào được”.
Trần Nguyên Hãn không quan tâm lắm đến chuyện xem chân gà của cha mẹ, Hãn chỉ thực sự lắng nghe khi cha nói chuyện ngày xưa. Mà bao giờ cũng vậy, hễ rượu ngà ngà say là cha Hãn lại nói chuyện ngày xưa. Tối nay, Trần Nguyên Án nói với con trai:
- Hãn ơi. Con hãy nhớ lấy nhé. Thủy tổ họ Trần nhà ta vốn gốc ở An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh. Ông nội của con là Trần Nguyên Đán. Dưới thời Trần Nghệ Tông, ông con làm tới chức quan Tư đồ. Ông là người hiền từ phúc hậu, nho nhã, vẻ người quân tử. Cha nghĩ, ở tuổi con, chưa thể hiểu được đâu nhưng cha vẫn muốn nói cho con biết. Giữa lúc xã tắc rối ren, ông nội con biết rằng, sau này Hồ Quý Ly tất cướp ngôi nhà Trần, giết hại dòng họ Trần. Nhằm tránh họa tuyệt diệt, ông con đã thực hiện câu nói của người xưa: “Quân tử kiến cơ nhi tác, bất sĩ chung nhật”. (Người quân tử thấy thời thì đứng dậy, không đợi đến ngày cuối cùng). Thế là, một mặt ông dùng lối kết thân với Hồ Quý Ly, một mặt ông “phân cư” gia đình. Nhờ vậy, năm một ngàn ba trăm chín mươi chín (1399) Hồ Quý Ly giết Trần Thuận Tông và các tướng Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hãng, Trần Nhật Tôn, tổng số trên ba trăm bảy mươi người, tịch thu toàn bộ gia sản của họ. Con gái bị bắt làm nô tỳ. Con trai bị dìm chết, hoặc bị chôn sống… Nhưng cha thì vẫn còn đây. Đó là lý do tại sao cha mẹ lại lưu vong lên tận nơi này. Đây là nơi đất lành chim đậu. Cha mẹ sống được qua những tháng năm quá nhiều vất vả, chính là nhờ vào sự yêu thương, đùm bọc của bà con Đa Cai. Chuyện cha vừa nói, thiết nghĩ, cha không cần dặn con cũng phải giữ kín. Hãn nhớ chưa con?
- Thưa cha. Con hiểu ạ.
- Con nên biết rằng, họ Trần nhà ta đã sản sinh được nhiều nhân vật xuất sắc, có công với triều đại nhà Trần và cả đất nước như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải…Sinh thời, ông nội con được người ta đánh giá là bậc quan giỏi cùng họ. Tuy có khí phách trung phẫn nhưng ông cụ vẫn phải bỏ việc nước vì  không thể làm thế nào khác được. Ông chỉ lãnh quyền tướng quốc để hòng bảo toàn gia thuộc của mình. Với cái tâm thế ấy, ông xin về ẩn cư ở núi Chí Linh. Dù làm quan tới chức Tể tướng, nhưng ngoài cái dinh của “quan Tư đồ” ở Thăng Long, người ta chẳng thấy ông có điền sản nào khác. Ông nhà mình sống với lương bổng nhiều hơn là tước lộc. Đây là điều khác hẳn với các quan chức tôn thất có điền trang và thái ấp riêng. Cho đến khi đau ốm, mặc con cháu hầu hạ, thuốc thang, ông không chịu uống. Ông mất đúng ngày hôm nay, hưởng thọ có 65 tuổi…
Giọng Trần Nguyên Án nghẹn lại. Nước mắt chàng rơm rớm hai bờ mi. Lê Thị Hoàn nhắc chồng:
- Con còn nhỏ. Chàng kể những chuyện ấy với con làm gì.
- Nàng biết không, bằng tuổi Hãn, Trần Quốc Toản đã bóp nát quả cam khi phải đứng bên ngoài nghe các bậc cha chú bàn việc đánh quân Nguyên Mông rồi đấy.
Nghĩ rằng cha mẹ chưa thật tin mình, vả lại, mình cũng chưa làm gì được điều gì cho cha mẹ vui lòng, Trần Nguyên Hãn bỗng thấy mình có lỗi. Hãn thú nhận:
- Thưa cha mẹ. Sáng nay đi học, con đã bị thầy giáo phạt…
- Bị thầy giáo phạt ư? Vì tội gì vậy con?
Không giấu giếm, Hãn kể lại đầu đuôi cho cha mẹ nghe, từ chuyện dìm Toán dưới nước, chuyện vật Toán, làm Toán ngã chảy máu đầu, đến chuyện thầy Nguyễn Thái An giảng cho Hãn hiểu về chữ “vương”, chữ “nho” Trần Nguyên Án xoa xoa đầu con, khen:
- Con biết bảo vệ người yếu đuối, biết cách đánh lại kẻ mạnh hơn mình, lại biết thành thật với bố mẹ, thế là tốt. Cha tin con. Dù hoàn cảnh nào con cũng phải cố làm theo lời thầy dạy con ạ. Dòng tộc họ Trần nhà ta có khôi phục được hay không, cha nghĩ, phần lớn đều trông đợi vào con. Thôi, ăn đi con. Kìa nàng, nàng cũng ăn đi cho con nó ăn với chứ.
Sáng sớm hôm sau, Trần Nguyên Án thức giấc bởi một con chim chìa vôi không biết từ đâu bay đến đậu vắt vẻo trên ngọn tre ngoài cửa sổ. Chim xòe cánh, cụp đuôi, vươn cổ hót. Tiếng chim rót vào không gian từng chuỗi âm thanh véo von, trong suốt.
Trời rạng sáng. Phía núi Tam Đảo chân mây đang chuyển từ màu trắng sữa sang màu hồng nhạt. Bóng đêm trong các lùm cây xung quanh nhà loãng dần. Mọi vật trên mặt đất hiện ra trong ánh sáng màu trắng thiếc.
Súc miệng, rửa mặt xong, Trần Nguyên Án dặn vợ ở nhà phơi và giã hạt dọc để chiều về đun sôi, đóng bánh. Còn chàng, gánh dầu dọc đi bán ở chợ Bạch Hạc.
Chợ Bạch Hạc ở ngã ba Hạc. Nơi đây được hợp lưu bởi sông Thao, sông Lô, sông Đà, tạo nên dòng trong, dòng đục, sông nước mênh mang như biển cả. Xa xa phía bên trái là dãy núi Tam Đảo hùng vĩ; phía bên phải là ngọn núi Ba Vì mù sương. Hai bên sông là làng mạc, ruộng vườn tươi tốt. Dưới bến Hạc là thuyền bè tấp nập vào ra… Tất cả những phong cảnh này đã tạo cho ngã ba Hạc có cảnh trí vừa thơ mộng, vừa hữu tình. Tương truyền rằng, ngày xưa Ngã ba Hạc là nơi Lạc Long Quân lập đàn tế trời và đã được Tiên ông giáng thế. Ngồi trên tảng đá cạnh chùa Hoa Long Thiên Tự, Tiên ông đặt tên, phân định anh em cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra. Về sau, nơi này trở thành một địa điểm buôn bán, kinh doanh sầm uất, trên bến dưới thuyền đông vui, tấp nập. Nhưng đấy là chuyện của ngày xưa, chợ bây giờ nằm giữa làng Bạch Hạc, cách Đa Cai sáu, bảy cây số. Ngoài dăm ba cái quán xiêu vẹo, tiêu điều dành cho tư thương, còn dân chủ yếu họp chợ ngoài trời. Những hôm nắng ráo không sao, gặp ngày trời mưa gió, thật trăm bề khổ cực. Chợ bây giờ chỉ mang ý nghĩa chợ đổi. Nghĩa là nơi tụ tập để bà con trao đổi hàng hóa, nông sản là chủ yếu, với nhau mà thôi.
Trần Nguyên Án gánh dầu, cuốc bộ đến chợ, trời vừa sáng rõ mặt người. Chàng chọn cho mình một chỗ ngồi, nép dưới gốc cây đa, ngay đầu cổng chợ. Theo Án, ngồi chỗ này là an toàn nhất. Bởi người mua dầu của chàng, không phải đem vào chợ và nếu có biến động gì, chàng rút lui cũng dễ dàng hơn, nhanh hơn. Trần Nguyên Án tính toán trong đầu thế vì chàng biết: Cách đây mấy năm, từ tháng 10 năm 1406, với chiêu bài “phù Trần, diệt Hồ” nhà Minh đã sai Trương Phụ, Mộc Thạnh đưa 80 vạn quân sang xâm chiếm nước Đại Việt. Tháng 5 năm 1047, chúng bắt được toàn bộ vua quan triều đình nhà Hồ đưa về Trung Quốc. Sau đó, bọn chúng lại đem quân đến xây thành ở Bạch Hạc, gọi là thành Tam Giang nhằm khống chế toàn bộ vùng chiến lược Tam Giang - Nơi có ba con sông lớn gặp nhau. Từ đó, trang Sơn Đông đã thuộc sự đô hộ của tướng Trương Phụ.
Trương Phụ vốn là một tướng giỏi của triều đình nhà Minh. Không chỉ giỏi về chiến thuật, Trương Phụ còn biết mua chuộc, thâu tóm các quan tướng của đối phương về với mình, làm suy yếu đối phương, để dễ bề mà tiêu diệt họ. Khi chinh phạt đến đâu, Trương Phụ trừng phạt nghiệt ngã, giết chóc không nương tay đến đó để làm đối phương hoảng sợ, mất hết tinh thần chiến đấu. Lợi dụng cái uy của Trương Phụ, bọn thổ quân xung quanh vùng Tam Giang vẫn thường xuyên đi quấy nhiễu, cướp bóc của nhân dân lành. Trước tình cảnh nhiễu nhương, bát nháo này, mình đang phải giữ hình tích. Thôi thì, “tránh voi không xấu mặt nào”. Nghĩ thế, Trần Nguyên Án luôn yên phận làm một thổ dân hiền lành, cam chịu.
Mặt trời lên đến con sào. Chợ bắt đầu đông. Dường như sợ bọn thổ quân ập đến xách nhiễu bất cứ lúc nào, người nào người ấy mặt mày nhớn nhác. Ai ai cũng bán vội, mua vội, miễn sao được việc để về cho nhanh. Nỗi lo lắng phấp phỏng chưa hết thì từ phía có mấy túp lều, cái lợp mái lá, cái phủ mái bằng rạ, bằng cỏ gianh, bùng cháy. Khói, lửa đùng đùng bốc lên nghi ngút. Trong tiếng nứa, tiếng tre nổ đì đùng, lốp đốp là tiếng la hét, kêu gào ầm ĩ. Người từ phía trong chợ chạy túa ra. Người nọ chen lấn người kia, đổ xô lại. Người ngã, người chạy giẫm đạp lên nhau. Phía sau đám người tháo chạy hỗn loạn ấy là một tốp thổ quân, khoảng trên chục tên, tay gươm, tay giáo, lăn vào cướp lợn, gà, lúa, gạo, thịt, cá của người đi chợ. Một thằng mặt đỏ như gà chọi, vác gậy đuổi đánh một người phụ nữ trung niên, để giật lấy chiếc bu gà. Bị người đàn bà chống lại, hắn ta liền giơ gậy đập một cái thật mạnh vào đầu. Người đàn bà nọ ngã gục xuống. Nhiều người xúm lại, lay gọi, kêu khóc om sòm. Được tận mắt chứng kiến cảnh cướp bóc, đánh đập dân đen của bọn thổ quân, Trần Nguyên Án tức sôi lên. Chàng nắm chặt hai bàn tay vào nhau, cằm bạnh ra, hai mắt long lên, giận giữ. Quên mất mọi người xô đẩy, chạy bán sống bán chết, đã làm đổ hai thùng dầu dọc, cũng quên luôn mình đang là người ở ẩn, Trần Nguyên Án vác chiếc đòn ống bằng một đoạn tre đực cùng mấy thanh niên nữa lao vào đám đông đang ẩu đả, quyết sống mái một phen với bọn đầu trâu, mặt ngựa. Nhưng chàng vừa giơ ống đòn lên liền bị một thổ quân cao to vung kiếm chém vào cánh tay. Máu chảy túa ra ướt đầm tay áo, vạt áo Án. Hăng máu lên, Trần Nguyên Án liều chết lao vào ôm lấy cổ hắn. Bằng một động tác nhanh mạnh, chàng quật tên thổ quân ngã chổng kềnh xuống vũng nước. Án vừa ngẩng mặt lên, chàng liền bị một thổ quân khác lao tới. Hắn đi một đường gươm, đâm trúng vào bên ngực trái của án. Chàng chỉ kịp kêu “ối” lên một tiếng rồi gục ngã! Án mạng đã xảy ra. Mọi người hốt hoảng ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Bọn thổ quân cũng hò nhau khuân vác những nông sản và gia súc, gia cầm vừa cướp được đem vào thành. Chợ chỉ còn lại mấy người ngồi loay hoay với vết thương quá nặng của Trần Nguyên Án. Không biết chữa chạy cho Án bằng cách nào, cuối cùng họ đành hỏi thăm quê quán và cõng tấm thân đẫm máu, mềm oặt của chàng về Đa Cai! 
4.
Càng lớn lên, Trần Nguyên Hãn càng biết nhớ mãi cái buổi trưa có mấy người lạ mặt cõng cha về nhà. Họ bảo, cha Hãn bị bọn thổ quân trong thành Tam Giang giết hại!
Biết tin, bà con trong thôn Đa Cai kéo đến chật nhà để chia sẻ nỗi buồn với mẹ con Hãn và chuẩn bị lễ tang cho Trần Nguyên Án. Lê Thị Hoàn chít vội cái khăn sô trắng lên đầu Hãn, đoạn nằm rũ rượi ở trong phòng. Nàng vật vã than khóc đến khản cả tiếng. Bà Mến cũng vậy. Bà không khóc to được như Lê Thị Hoàn nhưng bà lảm nhảm kể rất nhiều chuyện về Án. Trước cái chết của Trần Nguyên Án, bà đau đớn, xót thương như người rứt ruột đẻ ra. Nhiều người vây quanh bà, vây quanh Lê Thị Hoàn, dỗ dành như dỗ trẻ con mà hai người vẫn không thể nguôi nín. Còn thầy Nguyễn Thái An của Hãn thì ngồi trầm mặc trên tấm phản kê ở gian giữa nhà. Hai hố mắt thầy trũng xuống, đỏ hoe. Hai gò má thầy nhô cao, nhọn hoắt. Thầy xỉ mũi luôn luôn và thở dài thườn thượt. Nhìn thầy như già thêm đến mấy tuổi.
“Người chết thì đã chết rồi, khóc mãi cũng có sống lại được đâu. Bà con nếu có thương bác ấy thì mỗi người mỗi chân mỗi tay, chúng ta giúp mẹ con bá ấy chôn cất bác Án được mồ yên mả đẹp. Đó mới là nghĩa tử là nghĩa tận”. Nghe theo lời cụ giáo, dân làng bảo nhau mỗi người mỗi việc: Người lo đóng áo quan; người đi đào huyệt; người lo nghi tiết thiết linh tọa; người chuẩn bị bát cơm quả trứng với đôi đũa bông; người thịt gà, người nấu cơm bày mâm cơm canh để cúng phục hồn… Ông Nguyễn Văn Bụi, bố của Bờ, làm thầy cúng, lấy một chiếc khăn bông thấm vào nước ngũ vị lau mặt, lau người cho cha, lấy dao cắt móng tay, móng chân cho cha rồi mới mặc quần áo cho cha. Kế đó ông lại bỏ một ít gạo nếp và mấy đồng tiền vào miệng cha. Khâm liệm cho cha xong, chính ông Bụi lại là người cầm chiếc áo cũ của cha, trèo lên mái nhà hua áo hú gọi hồn cha về nhập vào xác. Lễ phục hồn xong, dân làng lần lượt vào thăm viếng hương hồn cha. Đám tang của cha đông lắm. Thôn Đa Cai nhà nào cũng có mặt. Chao ôi, nếu không có tình làng, nghĩa xóm thì mẹ con Trần Nguyên Hãn biết quay quả làm sao?
Cái chết quá bất ngờ, cái chết như bị cướp mất người của Trần Nguyên Án, dù không thể tin được nhưng vẫn là sự thật. Mặt trời vẫn còn đây; nhà cửa, cây cối, vườn tược vẫn còn đây; cái cối, cái chày hằng ngày giã hạt dọc vẫn còn đây… Chỉ có cha Hãn là không còn!
Trần Nguyên Án mất đã sáu năm. Chàng mất bao nhiêu năm là bấy nhiêu thời gian vợ con chàng phải sống trong đau thương và cực khổ. Lê Thị Hoàn thay chồng nuôi dạy con trong bao nỗi đắng cay, vò xé. Vì bọn thổ quân mà gia đình nàng tan nát, đã thiếu thốn, bần hàn càng thêm bần hàn, thiếu thốn. Dù vậy nàng vẫn cố gắng rau cháo nuôi Hãn ăn học, không bao giờ để con phải lêu lổng trong hoàn cảnh thiếu đói. Nhờ vậy, Trần Nguyên Hãn mới có cơ hội “học hết chữ” của thầy Nguyễn Thái An.
Có lẽ suốt đời Trần Nguyên Hãn không bao giờ quên cái buổi học cuối cùng ấy. Hôm ấy, thầy An bảo Hãn nán lại cho thầy gặp riêng một chút. Đợi các trò ra về hết, thầy Nguyễn Thái An mới lấy từ trong tráp ra một tờ giấy, đưa cho Hãn xem và nói:
- Thầy trò chia tay nhau, không có tiền bạc gì cho con, thầy tặng con một chữ này. Đây là chữ gì con nhớ chứ?
- Thưa thầy chữ “nhẫn” ạ.
- Đúng! Đây là chữ “nhẫn”. Con hiểu không, “nhẫn” là sự bền bỉ, không bao giờ nản lòng trước khó khăn, nguy hiểm. “Nhẫn” còn là sự kìm nén tâm trạng trước một áp lực nào đó. Con cũng có thể hiểu, “nhẫn” là một khả năng chịu đựng của con người để nhằm thực hiện một mục đích - Qua lời giảng giải của thầy, Trần Nguyên Hãn mới hiểu: Thì ra, “Nhẫn” có tâm nhẫn, chí nhẫn và lực nhẫn. Thầy giảng tiếp - Con nhìn đây này, tâm nhẫn được ghép từ hai chữ: Chữ “đao” nằm ở trên chữ “tâm”. Chữ “ tâm” được tạo nên từ mấy nét thế này: Bên trái, ta chấm đậm, hất nhẹ lên thành hình một giọt máu đang rơi. Gọi là tà tâm, ứng với kẻ gian hùng. Phía bên phải này, ta cũng chấm một chấm đậm, rồi xoay nửa vòng, vuốt nhẹ lên tạo thành hình đầu một con chim đang thản nhiên rỉa lông. Gọi là muội tâm, ứng với những người an phận thủ thường, chỉ biết lo cho bản thân mình. Còn ở giữa nhô cao lên, ta chấm đậm, xoay tròn tạo nét giống vầng trăng sáng giữa trời. Gọi là chính tâm, ứng với người quân tử… Bản chất người quân tử, kẻ gian hùng hay người ích kỷ đều gói trong một chữ “tâm” con ạ. Các bậc túc nho cho rằng, bản chất của chữ “nhẫn” được quyết định bởi chữ “tâm”. Người quân tử “nhẫn” để thực hiện điều thiện; Kẻ gian hùng “nhẫn” để làm điều ác; người an phận “nhẫn” để lo cho bản thân, anh ta tránh ác nhưng cũng không lo làm, thậm chí không dám bảo vệ thiện. Với chí nhẫn là ý chí quyết tâm thực hiện “nhẫn”. Mạnh hay yếu, cao hay thấp, kiên trì bền bỉ hay hăng hái nhất thời, vững vàng hay chao đảo, chấp nhận mọi thử thách hay né tránh, lựa chọn đều phụ thuộc vào chí nhẫn này con ạ. Còn lực nhẫn lại là sức chịu đựng trước mọi áp lực, từ mọi phía, ở mọi lúc, mọi nơi. Biểu hiện ở lực nhẫn rất đa dạng. Ví như có người bị chà đạp về thể xác thì “nhẫn” được nhưng một khi bị tổn thương về danh dự thì lại phản ứng quyết liệt. Bị xúc phạm nơi vắng vẻ có khi “nhẫn” được nhưng ở chỗ đông người lại không kìm nén nổi. Bị tra tấn dã man “nhẫn” được nhưng nếu kẻ thù đem sinh mạng người thân của mình ra làm áp lực đối với mình thì lại nhũn chí, đầu hàng. Vậy nên mới có câu: “Có khi nhẫn để yêu thương - Có khi nhẫn  để liệu đường lo toan - Có khi nhẫn để vẹn toàn - Có khi nhẫn để tránh tàn sát nhau”.
Sau một hồi giảng giải cho Trần Nguyên Hãn hiểu về ý nghĩa thâm thúy, cao sâu của chữ “nhẫn” thật đầy đủ, thầy Nguyễn Thái An nói thêm:
- Thầy tặng riêng cho con chữ “nhẫn”. Vì thầy thấy ở vào hoàn cảnh của con, không “nhẫn” sẽ không thành. Có điều thầy tin, chắc chắn con sẽ chọn và làm theo lối chính tâm của trang quân tử. Hãn có hứa với thầy như thế không?
Khoanh hai tay trước ngực, Trần Nguyên Hãn lễ phép:
- Bẩm thầy! Con đa tạ thầy đã dạy dỗ. Cả cuộc đời con sẽ làm theo lời thầy chỉ giáo.
- Đã là trang quân tử thì không chỉ biết “nhẫn” mà còn phải biết “nhu” nữa. Nghĩa của chữ “ nhu” có lần thầy nói với con rồi đấy. Mà “nhẫn” và “nhu” cũng chưa đủ. Nếu là người có chí lớn, muốn làm việc lớn, con còn phải tìm đọc và nghiền ngẫm “Binh gia diệu lý yếu lược”.
- Bẩm thầy! “Binh gia diệu lý yếu lược” là sao ạ?
- Sách này còn gọi là “Binh thư yếu lược”. Sách do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn viết về nghệ thuật quân sự. Sách gồm có bốn quyển với ba mươi ba chương. Ngoài ra con cũng cần phải đọc “Tứ thư” và “Ngũ kinh”.
- Bẩm thầy! Thầy giảng thêm cho con hiểu về “Tứ thư” và “Ngũ kinh” ạ.
- Đây là sách hợp lại làm chín bộ sách chủ yếu của Nho giáo. Sự học của Nho giáo vốn có nhiều lý tưởng cao siêu, nhưng có thể nói vắn tắt là: Sự học chú trọng ở luân thường đạo lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ thực tế nên không bàn đến những cái viển vông ngoài sinh hoạt của con người nơi trần thế. Con cố tìm đọc và dành thời gian nghiền ngẫm nhé. Sách trung dung sẽ chỉ cho con cách giữ cho ý nghĩ và việc làm của mình luôn luôn ở mức trung dung, không thái quá, không bất cập và ở đời luôn phải cố gắng theo, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cha ơi! Thầy coi con là người lớn thật rồi, Không thế, thầy nói với con những điều như rút từ gan ruột ra làm gì? Hãn sung sướng, tự hào nữa, muốn reo lên báo cho hương hồn cha biết. Là muốn thế chứ trước mặt thầy Hãn chỉ nhỏ nhẹ thưa:
- Bẩm thầy! Con đâu dám nghĩ mình thành thánh nhân nhưng con biết mình sẽ phải làm gì để cha con ở dưới suối vàng không phải tủi hổ vì con.
- Thầy tin con, hy vọng ở con. Sau này nếu có gì khó khăn cứ đến gặp thầy.
- Con đa tạ thầy.
Câu chuyện giữa hai thầy trò Trần Nguyên Hãn ở buổi học cuối cùng ấy diễn ra khi Hãn vừa bước qua tuổi mười sáu.
Mười bảy tuổi, ở cái tuổi bẻ gãy sừng trâu, Trần Nguyên Hãn đã ra dáng một trang thanh niên. Mái tóc Hãn xanh dày, lông mày Hãn rậm, mắt Hãn sáng, bắp chân, bắp tay Hãn nổi lên cuồn cuộn. Thay cha mẹ, Hãn là lao động chính trong nhà. Mẹ chàng mới ngót năm mươi mà tóc bà đã ngả màu muối tiêu. Lưng bà đã hơi còng. Từ ngày Trần Nguyên Án bị bọn thổ quân vô cớ giết hại, sức khỏe của bà bị suy sụp nhanh chóng. Bà đau yếu luôn. Công việc ruộng nương, ép dầu dọc đều một tay Hãn làm. Bà Lê Thị Hoàn chỉ còn giúp con được một số việc lặt vặt và tìm mua sách cho Hãn đọc. Biết con ngày ngày phải làm lụng vất vả, đêm đêm lại chong đèn đọc sách…Thương con quá, muốn có người đỡ đần con, mấy lần bà giục Hãn nên lấy vợ, nhưng chàng chỉ cười trừ, trong lòng bâng khuâng nhớ về một người con gái.
Người con gái mà Trần Nguyên Hãn thầm yêu trộm nhớ là Lê Thị Tuyển - Cái cô bé cách nay mấy năm, sau lần bị Toán bắt nạt, được Hãn che chở, bênh vực, mỗi khi gặp Hãn lại dành cho chàng cái nhìn với ánh mắt đầy thiện cảm, nếu không dám nói là yêu thương. Tết vừa rồi không biết số trời run rủi thế nào Hãn và Tuyển lại ở cùng một giáp trong hội thi nấu cơm.
Chưa rõ là từ bao giờ cứ vào ngày mùng tám, tháng Giêng hằng năm, ăn Tết xong, trang Sơn Đông lại tổ chức hội thi nấu cơm. Những nồi cơm đoạt giải: Thứ nhất, nồi nấu cơm phải là nồi đồng điếu, thân và cổ nồi phải sạch bóng, đỏ au màu đồng. Cơm chín phải đầy đến cổ nồi. Thứ hai, cơm phải thật trắng, thật thơm và thật dẻo. Khi đơm cơm ra bát, lấy đũa cả đè lên, các hạt cơm phải dính chặt lại với nhau, khi úp bát xuống, cơm phải tuột ra khỏi bát thật róc, khi cắt ra thành miếng, miếng cơm phải vừa mịn, vừa dẻo, vừa thơm như xôi. Thứ cơm này gọi là “cơm in”. Thứ ba, trong nồi không có cháy, lượt cơm dưới đáy nồi không khô cứng, xung quanh nồi không ướt.
Sau khi chấm, các nồi cơm trúng giải đều được “in” ra để cắt thành từng miếng, chia đều cho từng nhà, gọi là phần của làng. Còn các nồi cơm không trúng giải, được đơm ra sau lễ đình mọi người cùng ăn, gọi là tiệc làng.
Muốn có được nồi cơm trúng giải, người ta phải chuẩn bị từng khâu rất chu đáo: Từ việc chọn lúa, xay, giã, giần, sàng làm sao để có được màu gạo trắng xanh, hương thơm mát dịu đến nước nấu cơm phải là nước mưa hứng ở ngoài trời, lưu trữ trong chum, vại đạy kín. Rồi nấu cơm phải bằng củi xoan khô, đượm lửa, bền than lại ít khói, ít bụi. Rồi lại phải lấy mỡ lau nồi trước khi nấu. Vung nồi đậy lọt khít trong miệng nồi, không được đệm lá chuối tươi để tránh bị oi khói và vàng cơm…
Ôi chao, cứ nghe các cụ nói, Trần Nguyên Hãn đã hình dung ra, hội thi nấu cơm vui lắm nhưng để đoạt được giải từ Ban chấm thi, gồm toàn các vị chức sắc và bô lão trong làng, cũng không dễ dàng gì! Vậy mà hội thi năm nay, giáp của Trần Nguyên Hãn đã giật giải. Điều này thật vui cho cả giáp. Với Hãn, chàng còn có niềm vui riêng. Đó là mỗi khi nhớ đến những lần đứng bên Lê Thị Tuyển cùng giã gạo, lòng Hãn lại nôn nao, bồi hồi. Một thứ tình cảm mới lạ, rất mơ hồ đang nảy nở trong tâm hồn Hãn. Chàng vẩn vơ, thầm hỏi: Gió sao gió mát sau lưng - Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này! Nhớ Tuyển quá, đừng không được, buổi chiều vừa mới rồi gặp Lê Thị Tuyển gánh nước ngoài bến Đông Hồ, Trần Nguyên Hãn đánh liều hẹn gặp nàng.
Tối ấy, Trần Nguyên Hãn ra khỏi thôn Đa Cai là tới con đê. Bầu trời xanh đen bổng tít, lốm đốm sao. Con sông Lô đã qua mùa lũ, thu mình lại sáng trắng lên trong đêm, khúc ẩn, khúc hiện sau bãi ngô vụ đông đang xanh rì. Phía bên kia đền Hùng, một vành trăng đầu tháng úa vàng, chới với như sắp rơi xuống dãy núi ConVoi nhấp nhô, trùng điệp.
Lần theo một lối mòn, Hãn đi xuống bãi. Cát lún dưới chân. Không để ý cát còn nóng hôi hổi, Trần Nguyên Hãn nhắm hướng cây si già đứng chơ vơ trên ghềnh đá đi tới. Nơi đây vào mùa lũ, Hãn và Bờ cùng lũ bạn thường leo lên những cành cây la đà trên mặt nước, rồi thi nhau nhảy ùm xuống sông. Bơi lội, tắm táp chán lại bảo nhau lặn, mò bắt cá trong các hang đá ẩn sâu dưới các xoáy nước sục sôi, cuộn chảy. Hôm nào bắt được ít cá, chia nhau không bõ bèn gì, bọn Hãn kéo về nhà Bờ nấu, nướng ăn với nhau một bữa thật là vui vẻ. Những lần ấy, lần nào Trần Nguyên Hãn cũng bắt được nhiều cá nhất.
Lê Thị Tuyển vẫn chưa ra. Liệu nàng có dám ra hay bị cha mẹ giữ chân. Cái câu: “Nam nữ thụ thụ bất thân” liệu có trói buộc nàng? Hay là nàng chỉ gật đầu nhận lời cho ta tưởng bở, chứ lòng nàng lại hướng về người khác? Ôi, nóng quá! Mình hãy tắm một cái đã.
Hãn cởi quần áo, vo tròn lại vứt trên bãi cát, đoạn nhảy xuống sông. Như con rái cá, chàng lặn một hơi dài hàng chục mét, rồi ngoi lên bơi sải rõ nhanh.
Một bóng đen đang đi trên bãi cát. Tuyển đang ra kia! Hãn sẽ sàng ngụp xuống. Lát sau, bất thần chàng vụt dậy đánh òa, khiến Tuyển ở bên mép nước hốt hoảng kêu rú lên. Từ dưới sông, Hãn nói trong tiếng cười: “Nhắm mắt lại! Xin nàng nhắm mắt lại, chỉ một lát thôi!”. Hãn cúi lom khom đi lên. Chàng mặc xong quần áo thì Tuyển đã ù té chạy. Mặc cho Hãn đuổi và gọi với theo nhưng Tuyễn vẫn cắm đầu, cắm cổ chạy như bị ma đuổi. Thế là cuộc hẹn không thành. Đây có thể gọi là tình yêu được chưa? 
5. 
Có thể bị muỗi đốt hoặc vì tiếng con gà trống choai trong chuồng vỗ cánh, te te gáy đã làm Trần Nguyên Hãn bừng tỉnh. Chàng ngồi bật dậy mới hay là mình nằm trên chiếc chõng tre, phơi mặt giữa trời “đánh” một giấc say như chết.
Trời rạng sáng rồi! Phương Đông đang chuyển từ màu đen sang màu trắng sữa. Trên nền trời bổng tít chỉ còn sót lại vài ngôi sao lặn muộn.
Trần Nguyên Hãn sục vào nhà bếp, vét nồi được một bát cơm nguội đem trộn với muối vừng rồi ăn như tọng vào dạ dày cho được việc. Uống thêm một bát nước vối nấu từ chiều hôm qua, chàng vác chiếc cày chìa vôi, dắt trâu đi cày.
Suốt đêm nóng bức không tài nào ngủ được, về sáng mát mẻ mới chợp mắt một tý nên bà Lê Thị Hoàn không biết Hãn dậy từ lúc nào, giờ thấy con dắt trâu đi làm, bà nói với theo:
- Ăn lấy một miếng rồi đi đâu hãy đi chứ con!
- Con no căng bụng rồi. Sáng nay con cày ở gò Rạch mẹ ạ.
Gò Rạch là mảnh đất địa đầu của trang Sơn Đông, đây vốn là miền đồi gò, cách nhà Hãn một cái khe suối cạn. Ngày vợ chồng Trần Nguyên án phiêu bạt lên đây, gò Rạch còn là một vùng hoang dã với núi rừng rậm rạp hoang vu. Nghe nói, hồi ấy gò Rạch còn có rất nhiều hổ, báo, hươu, nai. Đêm đêm mọi nhà trong thôn Đa Cai đều phải gõ nồi, gõ mõ, đập mẹt, đâm cối xua đuổi không cho “chúa sơn lâm” về bắt lợn, gà, trâu bò. Đã có người sơ ý nằm ngủ thò đầu ra ngoài cửa sổ hóng mát, bị hổ vồ suýt chết. Đường lên gò Rạch nhỏ chỉ đủ đặt lọt bàn chân, có đoạn đường như cái ống với những lau lách, cây gai và cỏ dại um tùm... Sau nhiều năm kiên trì khai phá, đánh gốc bốc chà, mỗi năm mở rộng thêm một tý, vợ chồng Trần Nguyên Án mới biến gò Rạch thành cái nương, cái rẫy để mảnh trồng sắn, mảnh tra mộ, mảnh tra ngô.
Nhớ ngày tóc còn để chỏm, Trần Nguyên Hãn vẫn theo cha mẹ lên gò Rạch. Cha mẹ thì cày cuốc, gieo trồng, còn Hãn thì  nghịch đất và bẫy chim. Gò Rạch rất nhiều chim, đủ các loại chim từ chim cu, chim sáo, đến chim khướu, chim họa mi… Nhưng nhiều hơn cả, bạo dạn hơn cả là chim chìa vôi. Chìa vôi hay hót mà lại hót véo von, nghe như có từng chuỗi âm thanh trong suốt rót vào tai. Hãn thích chim chìa vôi nên tìm cách bẫy cho bằng được.
Được cha bày cách, Trần Nguyên Hãn vác thuổng đi đào dế. Dế là loại côn trùng rất hay cắn mầm sắn. Đào dế để vừa cứu sắn, vừa nếu được nhiều thì đem rang làm thức ăn và để lấy mồi bẫy chim. Hãn khoét một cái hố to bằng cái ấm ủ ở cuối nương, lấy sợi chỉ buộc vào cổ con dế, rồi đem thả nó xuống đáy hố. Phía bên trên đặt một cái bẫy, chim chìa vôi đậu vắt vẻo ở trên ngọn cây lau nhìn thấy dế chạy đi chạy lại liền lao vụt xuống bắt mồi. Mỏ chim vừa chạm vào con dế thì cái bẫy úp lại. Dù chim có quẫy đạp, giãy giụa tuột cả lông cánh, lông đuôi cũng không thể thoát ra được nữa! Đúng lúc này Trần Nguyên Hãn nấp sau bụi cây mới lao ra, vồ lấy chim.
Được chim đem về, Hãn hí hửng nhốt nó vào trong một cái lồng tre, đan rất đẹp. Mặc Hãn chăm sóc chu đáo, nào cho ăn cơm, nào cho uống nước, chìa vôi vẫn không chịu hót. Suốt ngày nó đứng ủ rũ, cổ rụt lại, cánh xõa ra. Hai hôm sau thì nó chết. Nó chết như người ta tự tử ở tư thế: Hai chân nó bóp chặt lấy cái mỏ! Tiếc chim thì ít, thương con chim bé nhỏ thì nhiều, Trần Nguyên Hãn hỏi cha, tại sao chìa vôi lại chết như vậy? Cha bảo: “Chìa vôi cũng giống như nhiều loài chim khác là rất thích tự do. Được sống với thiên nhiên hoang dã, chim bay nhảy, chim ca hót. Bị bắt nhốt trong lồng, có con thích nghi, có con không thích nghi với môi trường sống mới. Chim chìa vôi, không những không thích nghi mà nó còn sẵn sàng chết. Cái chết của chìa vôi, con có biết không, đó là tiếng nói phản kháng quyết liệt một khi bị con người cướp mất quyền tự do của nó”. Lúc bấy giờ nghe cha giảng giải vậy, Hãn biết vậy. Lâu nay nhớ lại Hãn đã ngộ ra cái ngụ ý sâu xa mà cha định nói và chàng cũng cảm nhận hết cái nỗi khổ đau, tủi cực khi con người ta bị mất tự do đến như thế nào. Là hiểu ra và cảm thấy vậy thôi chứ Trần Nguyên Hãn cũng chưa biết mình phải làm gì để trả thù cho cha, để có được cuộc sống tự do.
Con trâu đủng đỉnh đi trước, Trần Nguyên Hãn vác cày theo sau. Đến gò Rạch nắng sớm đã tưng bừng trên những ngọn cây và trải vàng trên vạt nương mới được thu dọn hết cành cây, cỏ khô. Gió đuổi nhau chạy rào rào trong mấy bụi lau còn sót lại ở cuối gò.
Tháo thiếu cày, đóng vạy cày vào cổ trâu… Hãn làm những động tác này nhanh chóng, thuần thục y như một nông phu. Lại nhớ hôm Trần Nguyên Hãn mới tập cày bừa, mẹ bảo: “Con cứ mạnh dạn tập cày đi. Tập rồi khắc quen. Làm người con trai ở nhà quê, ai cũng vậy, trước khi biết cầm gươm thì phải biết cầm cày đã. Với lại, con trâu này của nhà ta khôn lắm. Con không biết, nó sẽ “dạy”. Quả thật, cái con của được coi là đầu cơ nghiệp của nhà Hãn khôn thật. Nó kéo cày bước từng bước thong thả, nhẫn nại rất đúng đường, dù Hãn có “vắt, diệt” sai nó cũng chẳng nghe theo. Hôm nay thì Hãn và nó đã là đôi bạn luôn luôn ăn ý. Mỗi lần Hãn giục “đi con”, “đi nhanh lên con” là nó lại dướn cổ, bốn chân sải dài ra. Đất đồi lật lên từng đường thẳng, đường sau úp nghiêng nghiêng lên đường trước nhìn như những con sóng lăn tăn, gợn lên trong nắng.
Trần Nguyên Hãn cày được nửa nương, chàng đang định cho trâu nghỉ một lúc thì không may lưỡi cày lại cày bật lên một thanh sắt, dài bằng một thanh gươm. Hãn “họ” trâu đứng lại, chàng bước lên nhặt lấy thanh sắt có hình dáng hao hao một như thanh gươm.
Nghĩ rằng, thanh sắt này sẽ dùng được vào việc gì đấy, chàng kỳ cọ, lau chùi hết đất, rồi đem đặt ở đầu nương. Hết buổi cày, Trần Nguyên Hãn đem “thanh gươm” về.
Trong bữa cơm trưa có dưa cà với tép  kho, Trần Nguyên Hãn không quên phô với mẹ chuyện mình cày bật lên một “thanh gươm”. Thoạt nghe ánh mắt bà Lê Thị Hoàn sáng lên. Hình như bà có chuyện gì đó liên quan đến gươm mà bà định nói với Hãn nhưng không hiểu sao lại chưa nói. Bà nhẹ nhàng khuyên Hãn:
- Con cứ cất thanh sắt ấy đi. Biết đâu sau này có lúc con cần đến nó - Bà cười, nói vui - Nếu đúng vậy, thì quả là Trời có mắt. Trời trao cho con đó, Hãn ạ.
Không dám tin là Trời trao gươm cho mình, nhưng câu nói vui của mẹ gieo vào lòng Hãn một mơ ước: Giá như Hãn có được một thanh gươm! Phải rồi! Hãn sẽ mài thanh sắt này thành thanh gươm cho mà xem! Cơm nước xong, Trần Nguyên Hãn cẩn thận đem cất “thanh gươm” mới bắt được xuống dưới gầm giường, nơi đêm đêm chàng vẫn ngủ.
Sau một ngày lao động cật lực và tối đến lại chong đèn đọc sách mãi đến lúc gà xao xác gáy canh hai Trần Nguyên Hãn mới tắt đèn đi ngủ. Vừa đặt lưng xuống giường chàng đã ngáy như kéo bễ. “Đánh” một giấc dài và sâu bỗng Trần Nguyên Hãn giật mình, bừng tỉnh. Chàng mở mắt thấy ở dưới gầm giường, từ thanh sắt đang phát ra một thứ ánh sáng, sáng lấp lánh. Không tin vào mắt mình, Trần Nguyên Hãn dụi dụi mắt mấy cái liền. Định thần lại, không còn nghi ngờ gì nữa, “thanh gươm” đang phát sáng thật. Nghĩ đây là báu vật trời cho như mẹ nói, Trần Nguyên Hãn sung sướng lấy “thanh gươm” ra, ngắm nghía, nâng niu tựa như người ta bắt được vàng. Không ngủ lại được nữa, chàng sẽ sàng mở cửa đi ra sân.
Trăng hạ tuần vằng vặc sáng đầy trời. Không gian tịch mịch. Ngoài tiếng giun dế rỉ rả kêu, không có tiếng động nào khác. Trần Nguyên Hãn xách “thanh gươm” đi đến bên hòn đá lớn, nằm cạnh bờ ao Son, ngay phía ngoài cổng, trên đường vào nhà. Chàng ngồi xuống lấy tảng đá làm đá mài gươm. “Quẹt! Quẹt! Quẹt!” Tiếng mài gươm của Trần Nguyên Hãn miết vào đêm thanh vắng từng tiếng, từng tiếng nghe rõ mồn một. Một lúc lâu sau, Trần Nguyên Hãn giơ gươm xem: Lưỡi gươm ánh lên, sáng lấp lóa dưới ánh trăng. Chàng lấy móng tay thử xem gươm có sắc. Gươm sắc lẻm. Chỉ mới đưa một đường lướt qua thôi mà đầu móng tay đã rời khỏi ngón rồi! Tuyệt vời quá! Trần Nguyên Hãn reo thầm và bâng khuâng hỏi: “Lưỡi gươm đây, chuôi gươm ở đâu? Hay là lên gò Rạch tìm lại?”
Nhưng Trần Nguyên Hãn chưa lên gò Rạch ngay được, bởi sáng nay chàng phải đi chợ sớm. Chàng rời nơi có hòn đá mài gươm vào nhà thì trời đã tang tảng sáng. Bà Lê Thị Hoàn chuẩn bị sẵn cho con trai một gánh dầu dọc, một gói cơm nắm và dặn Hãn sớm nay đi chợ Gốm. Chưa muốn cho mẹ biết chuyện kỳ lạ về “thanh gươm”, Trần Nguyên Hãn chỉ “vâng, dạ”, rồi đút “thanh gươm” vào ống đòn gánh, chàng gánh hai thùng dầu đi chợ.
Chợ Gốm thường họp vào ngày 3 và ngày 5 hằng tháng. Muốn đến chợ Gốm, Trần Nguyên Hãn phải qua sông Phó Đáy, nơi có bến đò Phú Hậu. ở bến đò này vì  qua lại nhiều lần nên chàng quen ông Sóng hàng bè. Ngày ngày ông Sóng vẫn cất vó bè trên bến sông này. Trưa nay cũng như những lần trước đi chợ về, Trần Nguyên Hãn dừng chân nghỉ nhờ nhà ông Sóng để ăn cơm. Nhưng trưa nay khác với những lần trước, không hiểu vì lý do gì ông lại vồn vã bảo Hãn xuống nhà bè, ân cần làm cơm mời chàng. Ông Sóng xởi lởi nói: “Hôm nay lão sẽ thết đãi cậu một món canh trai trai. Cậu có thể coi món này là đặc sản vùng sông Đáy quê mình”. Ông nói thêm: “Trai rẻ mà lại ngon, lại bổ nên trai cũng dễ bán. Người mua trai về ngâm trong nước ấm cho nó nhả hết bùn, sau đó rửa thật sạch, đem luộc. Phi hành mỡ với cà chua thật thơm rồi đổ trai đã thái nhỏ vào. Đun đảo đều tay, nêm mắm muối vừa phải, tiếp đó mới cho nước luộc trai vào. Nước sôi, rắc thêm hành răm, thì là là ta được một nồi canh trai ngon tuyệt trần”…
Trong bữa ăn, ông Sóng mời Trần Nguyên Hãn một chén rượu. Ông ép mãi chàng mới chịu uống. Tợp vài ngụm rượu nhắm với thịt trai trai, Trần Nguyên Hãn bỗng thấy hứng, chàng nói:
- Cháu sẽ đọc ông nghe một bài thơ. Ông thích nghe thơ không?
- Thế thì còn gì bằng. Cậu đọc đi.
Trần Nguyên Hãn đằng hắng rồi cất giọng, ngâm nga:
- Hữu nhất giới lân phù thủy thượng
Phi loa, phi lịch, kỳ danh bạng
Hàm châu, đái giáp vũ văn tài
Phún lăng thôn ba hà hải lượng
Kỷ đảo cuồng lan xuất lực phù
Phương thăng hồng nhật khuynh tâm hướng
Giang hồ xứ xứ tổng chi danh
Bỉ duật thế cô an cảm kháng
Ông hàng bè nghe hết liền thật thà bảo:
- Lão chỉ giỏi bẻ lái, chèo thuyền chứ chữ nho thì mù tịt. Nếu có thể được xin cậu dịch sang nôm may ra lão mới hiểu.
Trần Nguyên Hãn lại đọc tiếp:
- Trên sông nổi một vật gì
Không ốc, không hến, ắt thì đúng trai
Hạt châu ngậm, áo giáp ngoài
Tài kiêm văn võ, ít ai sánh bì
Quản gì mưa nắng thị phi
Hướng Đông lòng vẫn kiên trì hôm mai
Bốn phương nổi tiếng anh tài
Cò kia cô thế ngày dài đứng trông… (*)
Đọc xong Trần Nguyên Hãn tợp một ngụm rượu, hỏi:
- Thế nào? Ông nghe có lọt tai không ạ?
Ông Sóng gật gù:
- Hay! Hay lắm! Nghe thơ của cậu, lão lại nhớ đến câu: Con cò mà mổ con trai - Con trai quặp lại nuốt hai con cò. Thế mới biết sống ở đời phải có lòng kiên nhẫn và đừng có vội coi thường kẻ tưởng như là yếu hơn mình. Lão nghĩ vậy có đúng không hả?
- Thưa ông, đúng như vậy ạ.
Trần Nguyên Hãn công nhận. Trong hơi men chếnh choáng chàng đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Mắt chàng như sáng trưng lên khi phát hiện ra lẫn trong đống rác bề bộn ngổn ngang ở cuối sàn bè có một thanh gỗ hao hao như chuôi gươm. Chàng vội chui ra ngoài mái bè, nhặt thanh gỗ lên, quay lại hỏi:
- Ông ơi! Làm sao ông có thứ này?
- Thứ gì? À, cái thanh gỗ ấy hả. Lão vớt củi nhặt được nó từ dưới lòng sông đấy. Nếu cậu cần, lão xin biếu.
Trần Nguyên Hãn lấy “thanh kiếm” từ trong đòn ống ra, cắm vào thanh gỗ thì, trời ơi, vừa khít chặt. Chặt đến nỗi không thể rút ra được nữa! Quá bất ngờ, ông Sóng há hốc mồm kinh ngạc. Sao lại có chuyện ngẫu nhiên như cổ tích, như huyền thoại thế này? Đây có phải báu vật Trời trao cho anh chàng bán dầu dọc không? Ông Sóng kéo Hãn vào trong nhà bè thầm thì, vẻ bí mật:
- Lão nghĩ là Trời trao cho cậu thanh gươm này đấy. Cậu hãy cẩn trọng giữ gìn, biết đâu sẽ có lúc cậu cần đến.
6.
Sinh ra ở vùng quê nghèo: Phía Bắc là nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi, trâu gõ mõ, chó leo thang; phía Nam là nơi chiêm khê mùa thối, chưa mưa đã úng, chưa nắng đã hạn. Bởi vậy, ngay từ thời thơ ấu, Trần Nguyên Hãn đã được cha cho đi theo ra đồng xem mình đánh bắt tôm, cá, ếch, lươn… Và, dạy cho Hãn biết mò cua, bắt ốc.
Trước cổng thôn Đa Cai là những xứ đồng Chằm Xoan, Đồng Đè, Ao May… Bàn chân Hãn đã từng được đi theo cha trên mỗi cánh đồng vào các thời vụ khác nhau: Tháng Sáu, tháng bảy là lúc lúa chiêm đã gặt xong, gốc rạ thối mủn, có nhiều nguồn thức ăn; tháng Mười đã qua mùa mưa lụt, từ đồng cao đến đồng thấp nước đều cạn, lại có nhiều tôm cá, cò, vạc bay về nhiều… Đấy là thời điểm hai cha con Hãn đi đánh vạc, bẫy cò. Tháng Chín âm lịch là thời gian lúa mùa trổ bông, phơi màu, rồi chín. Đó là tháng mà cá rô hoạt động mạnh, Hãn theo cha đi đánh cá rô đồng. Cuối mùa xuân, giữa mùa thu là lúc lúa đã làm đòng, côn trùng phát triển mạnh, lại thường có nước to, sau cơn mưa trời hửng nắng… Hai bố con Hãn đi câu cá thì không có lần nào phải xách giỏ về không!
Có lẽ được thừa hưởng cái gien di truyền từ cha, lớn lên Trần Nguyên Hãn thành người có tiếng là “sát cá”. Hễ Hãn vác cái cần câu hay cái bẫy, cái nơm ra khỏi nhà là y như rằng hôm ấy cả nhà không phải ăn cơm với muối. Hãn có cái biệt tài là chỉ cần nghe tiếng đớp mồi dưới ruộng cũng biết đó là loại cá gì. Hãn bảo, cá chuối đớp “bộp”, cá rô đớp “bọp”, các giống cá khác không đớp mà chỉ sủi tăm. Tăm nhỏ cá nhỏ, tăm lớn cá lớn. Nhìn một vũng nước, một đám ruộng đầy bọt tăm nổi lên là Hãn đoán biết được ở dưới đó thế nào cũng có nhiều trạch Hãn bắt chạch thật kỳ tài. Chả rõ Hãn dựa vào đặc điểm gì của loài chạch mà khi nhìn thấy hai đám bọt tăm nổi lên liên tiếp, Hãn lại nhằm vào đám bọt thứ hai, cúi khom lưng, dùng cả hai bàn tay xòe ra như hai lưỡi xẻng từ từ đào sâu xuống bùn, trong chốc lát Hãn đưa vốc bùn có chạch lên, ghé vào miệng giỏ…
Trong rất nhiều cái tài về đánh bắt của Hãn phải kể đến cái tài bắt ếch. Chỉ cần nhìn thoáng qua cửa hang chi chít ở các bờ ruộng thôi là Hãn biết ngay rằng trong hang có ếch trú ẩn hay không? Hãn biết bắt ếch bằng nhiều cách: Đào ếch nằm trong hang là việc làm quá đơn giản với Hãn. Câu ếch đang kiếm ăn trong đám cỏ râm mát bên bờ ao mới phải dùng đến mẹo. Mẹo ấy là, hai người túm hai bên vó ghé sát vào bờ, một người cầm gậy khua khua vào đám cỏ, thấy động ếch sợ hãi nhảy xuống ao mà sa vào vó. Tuy vậy, Hãn thấy thích thú nhất vẫn là đi bắt ếch trên đồng, sau cơn mưa. Nhưng nếu trời mưa lai rai, nước ngập rãnh cày, ếch sẽ ra thưa thớt, thì đừng có tính đến chuyện đi bắt ếch, vì hễ thấy bóng người là nó nhảy mất tăm. Hay là cơn mưa rào đầu tiên, trời lại tiếp tục mưa nữa, đêm đến tuy ếch vẫn ra đồng, đâu đó vẫn kêu “ộp, ộp” dưới làn mưa lắc thắc thì có đi bắt ếch may ra “trăm bó đuốc mới bắt được một con ếch”. Bởi vì, lúc này ếch đực thì đã bớt si tình, đã trở nên tỉnh táo. Còn ếch cái thì lại cảnh giác với ánh sáng, với bước chân người… Vậy nên, Hãn chỉ đi bắt ếch sau cơn mưa rào đầu mùa, cữ  vào tháng Tư âm lịch hằng năm. Dịp ấy, sau một thời gian nắng hạn giờ mới có cơ hội để ếch từ trong các hang nhảy ra, con đực, con cái tìm nhau giao hoan. Những chàng ếch đực si tình, mê mải ngồi nghe lời mời gọi âu yếm của những nàng ếch cái. Khi gặp bạn tình, chúng chụm đầu vào nhau, hoặc ôm “thắt lưng” nhau mà mải mê tâm sự. Những đôi ếch thấy tâm đầu ý hợp thì vào cuộc giao hoan. Vào thời điểm ấy, dường như họ hàng nhà ếch quên hết sự đời, chúng chả quan tâm gì đến xung quanh…Thế là, người đi bắt ếch chỉ việc tay trái giơ cao bó đuốc, tay phải vươn ra chộp lấy từng con, từng đôi cho vào giỏ đeo bên hông.
Ấy là chuyện của những năm trước đây chứ bây giờ đã là trang thanh niên Trần Nguyên Hãn bận bịu với rất nhiều công việc: Nào đi lấy hạt dọc, ép dầu dọc, nào cày ruộng, làm nương, nào đi chợ, nào đêm đêm lại vùi đầu vào đọc sách với mài gươm… Thành ra chàng không còn mấy thời gian để đi đánh bắt nữa. Mãi đến chiều nay Trần Nguyên Hãn mới có chút rảnh rỗi, nhân sau cơn mưa, chàng tranh thủ vác cần câu ra bến Đông Hồ ngồi câu cá.
Con sông Lô vốn hiền hòa như một cô gái, sau cơn mưa thượng nguồn bỗng trở nên lồng lộn, hung dữ. Nước từ trên mạn Tuyên Quang cuồn cuộn đổ về cuốn theo rất nhiều cành cây gãy và lá khô, củi mục. Mặt sông duềnh lên, sục sôi, ngầu đỏ. Ngồi trên bờ, sát mép nước, ôm cần câu mà ánh mắt Trần Nguyên Hãn không lúc nào rời khỏi mặt sông. Nhờ vậy, chàng mới phát hiện ra ở chỗ vùng nước xoáy ngay trước mặt có một xác người đang nhấp nhô, lúc dâng lên lập lờ trên mặt nước, lúc chìm nghỉm dưới đáy sông. Hiện tượng ấy lặp đi, lặp lại đến mấy lần. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là có người chết đuối không rõ là từ đâu trôi về đây. Phải cứu người ta! Chàng tự ra lệnh cho mình. Không kịp cởi quần áo, Trần Nguyên Hãn quẳng cần câu lên bờ, rồi lao xuống vùng nước xoáy. Chàng lặn sâu xuống một hơi dài, túm lấy tóc nạn nhân lôi lên. Thì ra người đuối nước là một cô gái. Nàng đã chết, mọi động tác cứu chữa đều không còn tác dụng. Không biết làm gì hơn, Trần Nguyên Hãn vác thi thể nàng đặt nằm trên một gò đất cao cao bên bờ sông. Rồi chạy về thôn mượn cuốc xẻng ra, một mình hì hục đào huyệt, chôn cất cho nàng được mồ yên, mả đẹp. Không hiểu tại sao nàng chết? Trên đường lên nương rẫy bị nước lũ cuốn trôi? Hay bị bọn thổ quân vùng nào sát hại, ném xác xuống sông? Cũng chả biết tên nàng là gì, Trần Nguyên Hãn liền đặt tên cho nàng là Thị Duy. Thắp cho Thị Duy ba nén hương, đứng chắp tay trước mộ nàng, Trần Nguyên Hãn thành tâm cầu khẩn:
- Thị Duy ơi! Ta đã chôn cất nàng tử tế. Chỉ mong sau này, chả may ta có gặp nạn, nếu nàng là người sống khôn thác thiêng, nàng hãy cứu ta!
Không gian câm lặng. Chỉ có tiếng gió thổi vi vút trong những bụi lau bên sông và tiếng nước vỗ ì oạp vào bờ đá. Khói hương vật vờ bay lên, tan biến trong không gian như linh hồn người chết hóa thành linh khí. Trời lại lắc thắc mưa. Với tâm trạng trĩu buồn, Trần Nguyên Hãn vác cần câu về không. Đây là lần đầu tiên chàng đi câu về mà không có cá.
Không có cá thì Trần Nguyên Hãn tính đến chuyện đi đơm tôm, tép.
Hãn chạy về vác nắn ra đồng Chằm Xoan. Nước từ ngoài sông Lô đang tràn vào đồng. Năm nào cũng vậy cứ đến mùa này là nước lại tràn vào các dộc đồng thấp, rồi từ đấy nước dâng lên, tràn ngập cả các thửa ruộng ở đồng cao. Dân làng gọi hiện tượng này là nước lên. Những cánh đồng trước cổng làng vào những ngày “nước lên” đã trở thành biển nước mênh mông. Vào thời gian úng ngập, lụt lội ấy, ngoài việc bọn trẻ con trong làng tha hồ ngụp lặn, bơi lội, chúng còn được đi câu cá, đánh bắt cá. Tuổi thơ của Trần Nguyên Hãn đã đi qua với những cuộc vui tưng bừng như thế. Giờ là trang thanh niên rồi, chàng không còn ham nô giỡn nữa. Hãn tìm đến một thửa ruộng, nước đang ngấp nghé tràn bờ, đoạn đặt nắn vào chỗ trũng. Bằng cách đơm bắt này, Hãn sẽ đánh được những chàng cá rô, những nàng cá diếc hăng hái băng theo dòng nước, lao lên phía trước.
Trần Nguyên Hãn vừa đặt nắn xong thì trời lại đổ mưa. Yên tâm là mình đã cẩn thận làm đầy đủ những động tác cần phải làm để bảo đảm sự an toàn cho việc kiếm cá, chàng mới trở về.
“Nắng chóng trưa, mưa chóng tối”. Các cụ nói đúng quá! Vừa mới chiều đấy mà tối đã ập xuống. Không thể đợi mưa tạnh mới đi lấy nắn, Trần Nguyên Hãn mặc áo tơi, úp cái nón rách lên đầu và không quên xách gươm theo, đội mưa ra đồng Chằm Xoan.
Trong làn mưa rơi tầm tã, Trần Nguyên Hãn cố giương mắt to lên mới nhận thấy một người cao lớn lênh khênh đang lúi húi dốc cá, tép từ trong nắn ra, đưa vào mồm để ăn. Ai mà dám lấy trộm và lại ăn cá, tép sống thế kia? Lạ lùng, quái đản quá, Trần Nguyên Hãn bèn giơ gươm lên quát: “Ai?” Và, chàng tiến sát lại. Tưởng người, hóa ra đây là một con ma! “Con ma” có hình dáng thật kỳ dị: Tóc dài, miệng rộng, mắt lồi, chân tay lòng khòng, nghều ngào. Nghe Hãn giận dữ quát, “con ma” run rẩy, sợ hãi van nài:
- Thưa ngài. Tôi biết, nhờ có gươm thần ngài mới bắt được tôi. Ăn trộm của ngài, tôi là người có tội. Xin ngài hãy tha cho tôi.
Tràn Nguyên Hãn tiếp tục dọa:
- Không được! Ta sẽ giết mi.
Nói rồi, chàng vung gươm. Thanh gươm sáng lóe lên hay là bắt ánh chớp mà lóe sáng? “ Con ma” co rúm lại, van vỉ:
- Xin ngài đừng giết tôi. Nếu ngài tha tội chết cho tôi, tôi xin biếu ngài một chiếc áo…
- Áo gì?
- Chiếc áo này có một trăm cái cúc. Một khi người mặc cài đủ trăm cái cúc thì sẽ có sức tàng hình, nghĩa là không ai nhìn thấy được mình nữa. Áo này gọi là áo Ma y, thưa ngài!
Chưa rõ thực hư nhưng vì thương con người kỳ dị, hay là “con ma” đói khát này mà Trần Nguyên Hãn gật đầu đồng ý. Chỉ đợi có vậy, “con ma” trao Ma y cho Hãn và biến mất. Sững sờ mất một lúc, Trần Nguyên Hãn vác chiếc nắn không cá, không tép về nhà. Thế là lại thêm một lần nữa, Hãn đi không, về không! Không biết ngày hôm nay là ngày gì mà chàng gặp bao nhiêu chuyện lạ nhưng có thật, là sao?
Buổi tối, hai mẹ con ngồi ăn cơm xong, Trần Nguyễn Hãn lấy tăm, rót nước mời mẹ, đoạn chàng mới kể cho mẹ nghe về những điều kỳ lạ mà mình vừa mới gặp: Từ chuyện ông Sóng cho chuôi gươm mấy hôm trước đến chuyện chôn nàng Thị Duy bên bờ sông và chuyện “con ma” cho Ma y chiều nay. Bà Lê Thị Hoàn chăm chú lắng nghe không sót lời nào. Chính bà cũng không thể cắt nghĩa, lý giải nổi tại sao con mình lại gặp những chuyện lạ lùng ấy. Bà bảo Hãn:
- Con là đứa con hiếm muộn của cha mẹ. Cha mẹ phải đi cầu cúng ở chùa Tây Thiên, rồi mẹ mơ giữa ban ngày thấy Giao Long phủ… Sau đó mới có con đấy Hãn ạ. Cho nên mẹ tin là sau này Trời, Phật sẽ phù hộ cho con. Con hãy cố gắng lên. Trong lúc chờ thời, như thầy con dạy, con phải kiên trì văn ôn vũ luyện, nghiền ngẫm binh thư để nữa mai có cơ hội mà đền nợ nước, trả thù nhà. Con biết rồi đấy: giặc Minh đã chiếm được nước ta. Chúng nó đang cướp bóc, tàn sát nhân dân ta. Chính cha con cũng bị bọn thổ quan, thổ binh thành Tam Giang giết hại. Mẹ nhắc lại để con nhớ lấy mối thù nhà, không quên đền nợ nước. Tuy thế con không được nôn nóng. Cha con vẫn thường nói: Dục tốc bất thành. Việc gì nôn nóng cũng không thành. Người anh hùng phải có chí của người mười năm trồng tre lấy gậy đánh giặc cũng chưa phải là muộn. Mẹ nói vậy con hiểu chứ?
- Thưa mẹ! Con hiểu lòng mẹ ạ.
Có lẽ đây là lần đầu tiên mẹ nói chuyện với Hãn một cách nghiêm túc đến thế. Qua những lời giáo huấn, mẹ đã gửi gắm vào Hãn với biết bao chờ đợi và hy vọng. Hãn nghĩ thế. Trong lòng chàng bỗng dậy lên rất nhiều dự định mơ hồ.
Đợi trời tạnh mưa, Trần Nguyên Hãn đem thanh gươm ra bờ ao Son. Ngồi bên tảng đá, chàng lại tiếp tục mài. Tiếng mài gươm “xoèn xoẹt” xiết vào màn đêm nghe vừa hối hả, vừa kiên nhẫn. 

7. Lại một mùa xuân nữa về!
Xuân về, dòng sông Lô trở nên dịu dàng, hiền hòa như một thôn nữ. Sáng sáng trong ánh nắng mùa xuân ấm áp, từng đàn chim én xập xòe bay trên bãi ngô non bên sông. Trước cổng làng thôn Đa Cai, những xứ đồng cao, đồng thấp, lúa chiêm xuân đã bén rễ đang lên xanh mởn. Những vạt nương mới đốt trên Rừng Thần mầm cỏ gianh tua tủa đâm lên, sáng xanh như ngàn ngàn lưỡi mác. Và, mưa xuân phơi phới bay. Không gian mờ trắng. Xóm làng nở nang, hồng lên với rất nhiều sắc hoa nở tưng bừng từ trong làng lan tới trên các triền đồi, gò…
Mùa xuân cũng là mùa lễ hội. Giống như nhiều làng quê khác mở hội, ăn Tết xong đến mùng 7 tháng Giêng, trang Sơn Đông lại tổ chức hội đánh phết.
Đánh phết là một trò chơi dân gian có từ bao đời nay. Qủa phết có hình dáng tương tự như quả cầu, được làm bằng gỗ hay gốc tre, cũng có khi bằng gốc cây dứa dại.
Các đấu thủ không cầm tay cướp phết mà dùng bằng gậy tre, dài khoảng một sải tay. Đầu gậy phía gốc được đẽo vát theo hình chiếc thìa.
Trên bãi phết người ta đào sẵn ở hai bên đầu bãi hai cái hố hình tròn, sâu đến đầu gối. Giữa bãi phết đào một lỗ, to vừa đủ đặt quả phết. Lỗ này được gọi là “cối”. Đây là điểm xuất phát.
Khi chơi phết người ta chia làm hai phe. Số người mỗi phe không hạn chế nhưng số lượng mỗi bên phải bằng nhau. Người đánh phết đòi hỏi phải có kỹ thuật, nghĩa là phải biết dùng chiếc gậy tre đánh vào quả phết làm sao cho vừa đủ sức mạnh, vừa điều chỉnh đúng hướng để quả phết rơi đúng vào hố của phe mình thì mới được tính điểm. Bởi vậy, khi có một người trong phe cướp được quả phết thì cả phe phải cùng nhau làm thành một hàng rào, ngăn chặn phe kia để cầu đi đúng hướng, hoặc chuyền tiếp cho nhau, tiến lên từng đoạn một về phía hố của phe mình. Chơi phết kiểu này gọi là “phết bộ”. Nguyên tắc chung của trò chơi phết là vậy. Riêng phết ở trang Sơn Đông lại có những nét khác biệt riêng. Nghe các cụ nói thế, Trần Nguyên Hãn biết thế. Năm nay Hãn hai mươi tuổi. Lần đầu được tham gia chơi phết, tâm trạng chàng không sao tránh khỏi nôn nao xúc động.
Bảo rằng hội phết ở trang Sơn Đông đến mùng 7 tháng Giêng mới khai hội nhưng thực ra công việc chuẩn bị đã được bắt đầu trước đấy một, hai hôm. Tức là từ ngày mùng 5 các cụ đã đẵn tre đem cắm từ cửa đình làng đến một gò đất phía cổng làng. Gò đất này gọi là “mô cắc phết”. Cuộc chơi dẫn phết chỉ được diễn ra trong dải đường đã cắm “vè” ấy. Hễ vượt ra ngoài là phạm luật.
Sáng nay, ngày chính hội phết. Sau khi những giáp vào đình làm tế, lễ Thành hoàng làng xong, Trần Nguyên Hãn mới được cùng các trai đinh vào đình làm lễ phết. Các nghi lễ được tiến hành thành kính, trang nghiêm hoàn tất, các chàng trai tham gia chơi phết mới lại được phép rước hai chiếc kiệu từ trong đình làng ra “mô cắc phết”. Thật tình cờ, không hẹn mà nên, trong số 4 đô tùy khênh kiệu “ Nghinh văn” rước các thần tích, sắc phong thì Hãn và Bờ đứng thành một cặp. Còn kiệu “Bát cống” rước long ngai có Toán và 3 đô tùy nữa. Thế là vô hình chung, một lần nữa, họ lại là đối thủ của nhau.
Bắt đầu cuộc chơi, cụ chủ tế tung quả phết để các đấu thủ tranh cướp nhau trong đường cắm “vè”. Đồng thời, người khênh hai chiếc kiệu cũng phải nhanh chóng và khéo léo rước kiệu đi lên phía trước. Bằng những động tác lúc tiến, lúc lui, lúc tạt bên trái, lúc bạt sang bên phải, phe của Trần Nguyên Hãn cùng với quả phết đã tiến lên. Và, kết cục họ đến “mô cắc phết” trước phe của Toán. Dân làng đứng xem vỗ tay hoan hô, cổ vũ cho phe thắng cuộc rộ lên như sấm dậy. Trong đám người đông nghịt ấy, Trần Nguyên Hãn thoáng nhận ra Lê Thị Tuyển. A! Hôm nay nàng cũng đi xem phết! Hãn phấn chấn, thầm reo. “Thắng 1- 0 chưa nói lên điều gì. ăn nhau là ở lúc chơi phết”. Bờ nói với Hãn vậy. Hãn bừng ngộ. Họ nắm tay nhau, thầm hứa phải chiến thắng!
Trong lúc cụ chủ tế nhận quả phết từ tay Hãn đặt lên chiếc giàn để làm lễ, các đô tùy khẩn trương cắm cờ đuôi nheo quanh “mô cắc phết”. Cụ chủ tế trịnh trọng làm lễ xong, liền đẩy quả phết xuống “cối” ở giữa bãi chơi. Cuộc chơi phết chính thức bắt đầu!
Cuộc tranh cướp dẫn phết về hố của phe mình diễn ra mỗi lúc một quyết liệt. Chẳng bao lâu mồ hôi đã vã ra ướt đầm trên các khuôn mặt bừng đỏ của các chàng trai. Người xem đông như kiến cỏ. Tiếng trống thúc cùng tiếng hò reo ào lên từng đợt thật là cuồng nhiệt,
Ở trong bãi “mô cắc phết”, nhận quả phết từ “cối” do Bờ đánh tới, Trần Nguyên Hãn khéo léo lấy đầu gậy hất lên. Ham phết quá, Toán lao vào. Đúng lúc Hãn vô tình đập gậy xuống. Trời ơi, trúng quả phết không trúng lại phang ngay vào đầu Toán. Toán kêu “ối” một tiếng, rồi ngồi sụp xuống, hai tay ôm lấy đầu, mặt nhăn nhó, miệng méo xệch đi. Sau phút giây bị choáng, Toán đứng bật dậy như cái lò xo, lao tới đấm vào mặt Hãn một quả “thôi sơn”. Hai mắt Hãn nảy hoa cà hoa cải. Định thần lại, chàng vung gậy lên định giáng trả Toán mấy chưởng thì từ phía bên ngoài có tiếng con gái hét to: “Chàng Hãn ơi! Nghe em, đừng làm thế. Hai người không được đánh nhau”. Hãn nhìn ra thấy gương mặt Tuyển tái xanh. Nàng thực sự lo lắng và sợ hãi thay cho chàng. Hãn cầm gậy, lẳng lặng đi ra ngoài “mô cắc phết”. Bờ chạy theo, gọi Hãn vào chơi tiếp. Nhưng ngại va chạm với Toán, chàng lắc đầu xin thôi không tham gia nữa.
Năm mới như vậy là Hãn bị xúi quẩy quá! Thay vì cho cái không may ấy, chàng lại có cơ hội hiểu thêm tình cảm của Lê Thị Tuyển đối với mình. Tự an ủi thế, Trần Nguyên Hãn tìm gặp Tuyển. Hai người hẹn đến tối cùng đi xem hát tuồng. Nhận lời với Hãn rồi nhưng tối đến liệu nàng có dám đi hay lại bị mẹ cha không cho phép?
Lê Thị Tuyển kém Trần Nguyên Hãn một tuổi. Nàng sinh ra trong một gia đình nông dân ở thôn Đa Cai, là con gái thứ của ông bà Loan Nghiêm. Bà Loan, mẹ nàng, làm ruộng. Ông Nghiêm, cha nàng, là một hàn sĩ bất đắc chí. Nhờ từ thủa thiếu thời được cha mẹ nuôi cho ăn học nên ông Nghiêm mới có mấy chữ thánh hiền trong đầu. Sự học dở dang này biến ông thành kẻ sĩ nửa mùa. Vợ con ông tự hào về ông, khốn khổ cũng vì ông, bởi cái tính khí thất thường dở ông, dở thằng ấy của ông. Ông Nghiêm không làm ra của cải vật chất gì đáng kể nhưng ông lại là cái cột cây trong nhà, mọi việc đều do ông định đoạt, nhất là chuyện hôn nhân của các con. Bởi thế, cùng với sự kính trọng, Lê Thị Tuyển rất sợ cha nàng. Hình như cha mẹ nàng thấy nàng càng lớn lên, càng xinh đẹp thì hai người càng có ý lo lắng và giữ gìn tiết hạnh cho con. Mà Tuyển xinh thật. Là con nhà nông nhưng nàng có chiều cao vừa phải; vóc dáng cân đối, thân hình đầy đặn; mái tóc vừa dày, vừa dài, vừa đen bóng. Đặc biệt nàng lại được Trời cho sở hữu một làn da trắng như trứng gà bóc. Tất cả ở nàng toát lên những nét phúc hậu, hiền dịu và thanh tú. Có lẽ vì thế mà vừa bước qua tuổi thiếu niên, Lê Thị Tuyển đã có vô khối trai đinh trong làng ngấp nghé, trong số đó có anh chàng Toán. Tuyển không để mắt đến Toán, mặc dù anh ta vẫn luôn luôn săn đón. Trái tim nàng đã hướng về phía Hãn…
Từ lúc nhận lời Trần Nguyên Hãn rủ đi xem hát, lòng dạ Tuyển bồi hồi đứng ngồi không yên, nàng chỉ mong cho trời mau tối.
Đêm xuống, cơm nước xong, thu dọn mâm bát xong, Lê Thị Tuyển xin phép cha mẹ cùng bạn bè đi xem hát. Ông Nghiêm ậm ừ nửa đồng ý, nửa không. Bà Loan dặn: “ Liệu mà về sơm sớm con nhé!”
Có ra khỏi nhà mới thấy là trời đang mưa. Mưa xuân nhè nhẹ, ẩm ướt, mờ trắng như Trời đang rây bột. Một mình với con tim rạo rực, Lê Thị Tuyển vội vã đi về phía sân đình.
Cũng như mọi năm, năm nay trên đình làng các cụ lại tổ chức hát tuồng. Gánh hát do ông Bụi, bố Bờ, làm ông bầu. Thật là tài khi mà trước Tết mấy hôm các cụ chỉ cần ngồi khớp với nhau một hai tối chứ không cần ai hướng dẫn và tập tành gì, thế mà khi ra sân đình diễn đã thành những Trương Phi, Lưu Bị, Đổng Trác, Lã Bố, Điêu Thuyền với mặt đỏ, mặt trắng, áo quần lụng thụng rực rỡ sắc màu. Sân khấu là mấy chiếc chiếu trải trên sân đình, ngay trước cửa đình. ánh sáng là mấy ngọn đèn dầu dọc. Người xem đứng chật ba bên, bốn bề. Dân làng mải xem các cụ diễn các tích Bao Công xử án Quách Hòe, Sơn Hậu, Đổng Trác hý Điêu Thuyền, Chiêu Quân Cống Hồ…Nếu như không thương bà con, cháu chắt phải đứng dưới mưa phùn mùa xuân thì các cụ có thể biểu diễn suốt đêm trong nhịp trống, nhịp phách, nhịp kèn với tiếng sáo, nhị hòa quyện xốn xang, rộn ràng vang vọng cả một vùng quê.
Đêm tuồng kết thúc. Từ sân đình, người làng túa ra về. Ánh đuốc bập bùng chảy đều về các ngõ. Mãi khuya  thôn trang mới yên tĩnh trở lại. Bấy giờ chỉ còn tiếng mưa rơi rỉ rả ngoài các vườn cây đang đâm chồi, nảy lộc.
Ấy là chuyện những đêm tuồng của những năm trước. Còn đêm nay Tuyển mới đi đến cây đa đầu làng đã nhận ra Trần Nguyên Hãn đang đứng đợi sau búi cây râm bụt. Hai người không vào sân đình xem tuồng mà Hãn trước, Tuyển sau, dẫn nhau lại ngồi dưới gốc cây lộc vừng bên bờ ao làng.
Vừa ngồi xuống trên vạt cỏ mượt êm, Trần Nguyên Hãn “liều chết” choàng tay ôm lấy bờ vai tròn lẳn của Lê Thị Tuyển. Chàng ghé môi đặt một nụ hôn nóng bỏng lên một bên má ấm nóng của nàng. Tuyển hổn hển:
- Em van chàng, đừng làm thế!
- Chúng mình thương nhau mà.
- Nhưng chúng mình chưa là vợ chồng. Chàng có biết tội “gọt gáy bôi vôi” của làng ta không?
Tuyển hỏi vậy là muốn nhắc Hãn nhớ đến lệ làng bắt tội một khi người con gái không chồng mà chửa: Con gái không chồng mà chửa, không những cha mẹ phải nộp nào gà, nào thịt, nào rượu để làng ăn vạ mà còn bị người ta cắt tóc ở sau gáy, bôi vôi vào đó, rồi dắt đi bêu riếu khắp làng. Hồi còn nhỏ, chính mắt Hãn và Tuyển đã không dưới một lần phải chứng kiến cái cảnh làm nhục con cháu ấy của dân làng, mà chủ yếu là do các bô lão đặt ra. Nhớ đến cái cảnh ấy, Trần Nguyên Hãn vội rụt tay lại. Lửa tình đang rừng rực bốc cháy trong lòng chàng tạm thời dịu xuống. Bấy giờ Hãn mới bình tĩnh hỏi:
- Tối hôm nọ hẹn ta ngoài bến sông sao nàng lại bỏ về?
- Tại sao thì chàng phải tự biết chứ. Em là con gái chứ có phải là đàn ông như chàng đâu.
Tuyển không trả lời trực tiếp vào câu hỏi nhưng Trần Nguyên Hãn hiểu rằng, là con nhà nề nếp, gia phong, nàng không thể dễ dàng vượt qua cái rào cản của lễ giáo để đến với chàng khi chàng đang tắm dưới sông! Cảm thông với người thương, Hãn cầm tay Tuyển, nhìn vào mắt nàng và hỏi một câu hơi bị thừa:
- Nàng có yêu ta thực lòng không?
Tuyển lắc đầu nhè nhẹ, mỉm cười trong bóng đêm:
- Em không yêu. Em chỉ thương chàng thôi.
- Lấy ta có thể nữa mai nàng sẽ khổ đấy. Vì, rất có thể ta sẽ phải đi xa. Nàng sẽ phải nuôi con một mình.
- Chàng đi đâu? Đi đâu cho thiếp đi cùng - Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
- Vậy thì tới đây, mẹ ta sẽ nhờ bà mối đến thưa chuyện với cha mẹ nàng nhé?
- Em không biết! Tùy chàng.
Tuy Trần Nguyên Hãn nói, tới đây mẹ chàng sẽ nhờ bà mối đến nói chuyện với cha mẹ Lê Thị Tuyển nhưng hai người vẫn phải đợi đến mùa thu, tức là đến mùa cưới, công việc mới bắt đầu.
Mùa thu!
Mấy hôm trước trời còn nắng nóng, thế mà mấy hôm nay hình như cái nắng nhạt hơn? Trên nền trời xanh cao nhẹ nhõm đã xuất hiện những đám mây trắng nhẹ như bông. Gío thổi lao xao suốt ngày qua lũy tre, có lúc lại đuổi nhau dào dạt trong vườn cây. Tối đi ngủ vẫn phải cầm cái quạt cọ phe phảy, về sáng thức giấc Trần Nguyên Hãn đã phải kéo cái vỏ chăn phủ lên bụng cho đỡ lạnh. Ngủ dậy, chàng thấy ở cuối góc sân, cây cau rụng đầy hoa trắng như những hạt gạo nếp. Trong làn sương mỏng tang lành lạnh, từ đâu đó đưa tới mùi thơm ngan ngát. Trần Nguyên Hãn hít căng lồng ngực và kêu lên: “Lạnh quá! Thơm quá mẹ ơi!” Mẹ chàng đang lúi húi đun nấu trong nhà bếp nói với ra: “Thu rồi đấy con ạ”.
Mùa thu ở thôn Đa Cai đồng nghĩa với mùa gặt. Sau mùa gặt, khi mà rơm lên cây, thóc vào bồ, là đến mùa cưới.
Người mà mẹ con bà Lê Thị Hoàn nhờ đứng ra làm mối cho Trần Nguyên Hãn lấy Lê Thị Tuyển là bà cụ Mến. Cụ Mến đã trên sáu mươi nhưng mắt mũi vẫn tinh tỏng, đi đứng vẫn nhanh nhẹn. Dân làng Đa Cai quý cụ ở cái đức ăn ở hiền lành, phúc hậu nên người ta thường nhờ cụ làm mai mối cho con. Với mẹ con bà Hoàn cũng vậy. Nhận lời với bà Hoàn xong, một mình cụ đến nhà ông Loan Nghiêm.
Là nhà nho nửa mùa, muốn giữ giá cho con gái, ông Nghiêm nói với cụ Mến, dù rất thông cảm với gia cảnh của bà Hoàn nhưng phong tục vẫn là phong tục. Đã là phong tục thì ai ai cũng phải theo. Bởi thế ông yêu cầu phải tiến hành từng bước từ lễ vấn danh, lễ chạm ngõ, lễ xin cưới đến thách cưới, đón dâu, tiền cheo… không được bỏ qua một thủ tục nào. Vì hạnh phúc trăm năm của hai con, bà Hoàn “ xin vâng” tất cả. Và, cuối cùng ngày cưới của Trần Nguyên Hãn và Lê Thị Tuyển đã diễn ra.
Các đám cưới ở nhà quê, ông cầm hương là người quan trọng nhất. Trước hết ông phải là người có tuổi, gia đình nền nếp, con cháu đề huề, sau nữa nếu là người có chức sắc càng tốt. Mọi người quan niệm rằng, ông cầm hương sau này sẽ cho phúc, cho lộc và đem khước đến cho cô dâu, chú rể… Bởi vậy, bất kể nhà nào, dù nghèo đến đâu cũng phải mời được ông cầm hương. Người được nhà có đám mời đi cầm hương là một vinh dự lớn, vì đó coi như là một sự suy tôn của làng xã đối với mình. Thầy Nguyễn Thái An là ông cầm hương trong đám cưới của Hãn. Còn thầy lễ, một người có ít chữ nghĩa, có sức khỏe, từng trải, khéo léo trong ứng xử, do ông Bụi đảm nhận.
Đoàn nhà trai đón dâu về đến nhà, công việc đầu tiên mà Trần Nguyên Hãn và Lê Thị Tuyển phải làm là lễ Tơ hồng.
Bàn thờ Tơ hồng được thiết lập ở giữa sân, có thắp hương nến lung linh. Ông Bụi bảo Hãn và Tuyển: Hãn trước, Tuyển sau, hai người cùng quỳ trước bàn thờ. Rồi ông Bụi chắp hai tay trước mặt và bằng một giọng sang sảng rất thành kính, ông đọc văn tế bằng chữ Hán, rồi chính ông lại phiên âm ra tiếng Nôm:
Năm 1410, tháng 10, ngày 16, tại Sơn Đông trang, Đa Cai thôn.
Tôi là Trần Nguyên Hãn vì có việc lấy vợ là Lê Thị Tuyển người cùng Đa Cai thôn. Nay việc hôn lễ đã thành, kính sửa lễ dâng:
Đức tơ hồng nguyệt lão thiên tiên
Trộm nghĩ:
Đạo đất trời có âm, có dương
Người đời có chồng, có vợ
Trời đẹp, gió nở
Trời đẹp, gió đưa
Việc nghênh hôn nay đã được giờ
Lòng thành kính dâng lên lễ vật
Cám ơn ông Tơ, bà Nguyệt
Không hề thiên vị
Rất mực công bằng
Đem nhân duyên kết nghĩa vợ chồng
Treo gương ngọc xét soi sự thế
Sực nhớ mới ngày nào tin đưa, nhạn cứ
Mà nay đã vui thú uyên ương
Sắt cầm nên chữ đá vàng
Tơ tóc trọn duyên Tần Tấn
Một nhà trong êm ngoài ấm
Dây xích thằng xe thắm mối lương duyên
Đôi lứa phận đẹp, duyên ưa
Nhịp cầu thước bắc vào sông Ngân hán
Ba sinh trọn vẹn
Loan phượng thuận hòa
Họ Trần, họ Lê cho lá đề thơ
Chuyện trò vui vẻ
Trà rượu say sưa
Nhân nay việc hôn đã mãn
Dám mong đức lớn phù trì
Vẹn niềm chung thủy
Nhờ đức ân sâu nhuần gội
Sớm mong hùng bi
Gọi là lễ mọn
Xin người chứng tri
Thượng hưởng!
Đọc xong, ông Bụi quay lại bảo cô dâu, chú rể mỗi người phải cúi đầu lễ bốn lễ rưỡi. Hãn và Tuyển làm lễ xong, ông Bụi lấy chén rượu đã đặt trên bàn thờ Tơ hồng đưa cho hai đứa bảo, mỗi người uống một nửa. Tiếp đó, ông Bụi đưa cho Hãn và Tuyển mỗi người ăn một miếng trầu. Đây là miếng trầu được têm chung từ một quả cau và một lá trầu không.
Uống chung một chén rượu, ăn một miếng trầu… Thế là từ nay hai người tuy hai mà là một, Hãn và Tuyển sẽ say nhau cho tới đầu bạc răng long. Phía bên phải bàn lễ Tơ hồng, bà Lê Thị Hoàn đã ngồi đó từ lúc nào, Hãn cầm tay Tuyển đi đến trước mặt mẹ. Hai đứa sụp xuống lạy mẹ bốn lạy, ba vái. Không ai nói câu nào nhưng mọi người đều hiểu, rõ ràng Hãn và Tuyển đã mặc nhiên nhận lấy trách nhiệm làm con đối với cha mẹ. Xúc động quá, bà Lê Thị Hoàn kéo vạt áo lên lau mắt. Nhớ đến Trần Nguyên Án, nước mắt bà cứ ứa ra không tài nào ngăn được. 
8.
Các cụ thường bảo: “Khôn đâu đến trẻ, khỏe đau đến già”. Cứ theo câu nói ấy mà suy thì  một, hai năm nay bà Lê Thị Hoàn sinh ra ốm đau như cơm bữa cũng là lẽ thường tình. Những lần trước, mỗi khi bị ốm, vì nể vợ chồng Trần Nguyên Hãn nên đến bữa ăn bà vẫn chống gậy lụ khụ tự đi xuống nhà bếp, ngồi cố nuốt bát cơm hay húp bát cháo. Nhưng lần này thì khác. Lần này, bà kêu mình mẩy váng vất lúc nóng, lúc rét, sau đó bà ốm nặng mãi lên. Đã hai, ba hôm nay bà phải nằm liệt giường. Mặc dù Lê Thị Tuyển khi thì bê cơm, khi thì bê cháo đến tận miệng và ngon ngọt, dỗ dành: “Mẹ ơi! Mẹ cố ăn lấy thìa cháo. Nhà con cho thêm trứng gà, ngon lắm mẹ ạ”, bà Hoàn cũng không ăn. Thảng hoặc bà cố húp vài thìa thì cháo chưa trôi khỏi cổ, bà lại nôn ọe ra ngay. Bà đắp tấm chăn mỏng, nằm như dán trên cái chõng tre suốt ngày. Đêm bà ho từng cơn. Ho như rút gan, lộn ruột. Người bà gầy tọp đi, nhìn hom hem như con mèo ốm đói. “Tuổi già như chuối chín cây, như ngọn đèn trước gió”. Cho khéo kỳ này mẹ “về” mất! Vợ chồng Trần Nguyên Hãn cứ nghĩ dại thế chứ chưa dám nói với ai.
Thương mẹ cả một đời vất vả vì chồng, vì con giờ lại bị ốm đau bệnh tật, Trần Nguyên Hãn bồn chồn lo lắng, đứng ngồi không yên. Thôi thì, có bệnh phải vái tứ phương. Ai bảo thế nào Hãn cũng sẵn sàng làm theo: Nhận lời mời của Hãn, thầy Nguyễn Thái An đích thân đến tận nhà bắt mạch, bốc thuốc chữa bệnh cho bà Hoàn. Thuốc sắc uống hết ba thang mà bệnh tình của bà vẫn không thuyên giảm. Nghe bà cụ Mến mách, ở mãi trên Tuyên Quang có ông lang vườn giỏi lắm. Có người ốm sắp chết chỉ cần uống một nắm lá thuốc của ông là hết bệnh. Theo sự chỉ vẽ của cụ Mến, Trần Nguyên Hãn lặn lội đi mất hai ngày đường mới đến nơi lấy thuốc cho mẹ. Tưởng là thần dược hóa ra tiền vẫn mất mà tật mẹ vẫn mang! Lê Thị Tuyển đi xem bói về nói: Năm nay mẹ bị sao Thái Bạch chiếu. Phải cúng giải hạn cho mẹ. Hãn sắm đầy đủ lễ vật rồi mời ông Bụi đến nhà cúng dâng sao giải hạn nhưng bà Hoàn cũng vẫn không khỏi ốm!
Thầy Nguyễn Thái An mấy lần đến thăm hỏi sức khỏe của bà Hoàn đều động viên vợ chồng Trần Nguyên Hãn: “Còn nước, còn tát. Ở đời, nhân định thắng thiên cũng nhiều lắm. Các con phải chạy vạy thuốc thang cho cụ. Nhưng thầy cũng nói trước, nếu không may cụ có mình nào thì, như người xưa nói, chữa được bệnh chứ không ai chữa được mệnh. Mệnh cụ chỉ có thế thì hưởng thế. Các con không phải ân hận gì cả”. Là thầy thuốc, chắc là nghe mạch của bà Hoàn thấy có vấn đề gì đấy không yên tâm nên thầy An mới bảo vợ chồng Trần Nguyên Hãn vậy. Nghe thầy nói, nước mắt Lê Thị Tuyển cứ chảy tràn ra, láng ướt trên hai gò má. Mấy hôm sau đấy, đang nằm im, bà Hoàn thò cổ ra ngoài tấm chăn, vừa rên hừ hừ, vừa gọi con dâu lại gần, nói:
- Bảo chồng con lên đây mẹ bảo.
Trần Nguyên Hãn đang băm bèo chuẩn bị nấu cám cho lợn ở ngoài sân, thấy vợ gọi chàng vội chạy vào nhà. Vẫn để nguyên hai bàn tay ướt át, dính đầy bèo tấm, Hãn nắm lấy tay mẹ, lo lắng hỏi:
- Mẹ bảo gì con hả mẹ?
Bà Hoàn mở mắt nhìn con trai. Chơm chớp mắt mấy lần đoạn bà mới bảo:
- Con hãy ngồi xuống đây. Hôm nay mẹ có chuyện này muốn nói với vợ chồng con.
Đợi vợ chồng Trần Nguyên Hãn cùng ghé ngồi xuống chõng, ánh mắt bà Lê Thị Hoàn sáng lên. Bà âu yếm nhìn con và nói:
- Chuyện mà mẹ muốn nói với hai con hôm nay, lẽ ra cha các còn sống thì mẹ không phải nói nhưng ông ấy đã về với tổ tiên trước mẹ nên mẹ không thể không nói. Chuyện này, nếu Hãn không quên thì đã có lần cha nói với con rồi đấy. Hãn còn nhớ không con?
- Thưa mẹ. Con quên làm sao được ạ?
- Vậy thì mẹ yên tâm. Nhân đây mẹ muốn nói cho Tuyển biết, Trần Nguyên Hãn, chồng con, là cháu nội quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, là hậu duệ của dòng họ nhà Trần, là con cô, con cậu với Nguyễn Trãi đấy con ạ. Còn tại sao cha mẹ lại sinh Trần Nguyên Hãn tại đây, chồng con sẽ nói con biết sau. Lúc này mẹ chỉ muốn nói với vợ chồng con rằng, các con phải luôn luôn nhớ mình là dòng dõi tôn thất nhà Trần, phải nhớ mà đền nợ nước, trả thù nhà. Bản thân mẹ, từ khi mang giọt máu họ Trần trong mình, mẹ đã phải một mình kiên trinh, tiết nghĩa. Mẹ đã phải chịu bao nỗi đắng cay, vò xé, sống trong cảnh gia đình tan nát, thiếu thốn, bần hàn. Dẫu xuất thân từ một gia đình quý tộc nhưng về đây cha mẹ đã phải biết cách nhanh chóng hòa đồng với cư dân trang Sơn Đông. Cha mẹ học cách nấu dầu dọc làm kế sinh sống. Không quản vất vả và nắng mưa, tần tảo để nuôi Trần Nguyên Hãn nên người như ngày hôm nay. Dạo này, mẹ nghe trong người mẹ không được khỏe như trước. Có lẽ mẹ sắp gần đất xa trời để được về với cha các con, được về với tổ tiên nhà Trần rồi - Ngừng lại nghỉ một lát như là để lấy thêm hơi sức, bà Lê Thị Hoàn giục Hãn - Con vào trong buồng, mở cái hòm gỗ có khóa đuôi chuột, lấy cho mẹ cái hộp gỗ ra đây.
Trần Nguyên Hãn đứng dậy làm theo lời mẹ. Lát sau chàng đem ra một cái hòm gỗ nhỏ, dài, được bọc rất cẩn thận bằng mấy lớp vải cũ kỹ. Bà Lê Thị Hoàn lại bảo Hãn: “Con hãy mở ra đi!” Không biết trong chiếc hòm gỗ này là cái gì, sao đến tận hôm nay mẹ mới cho Hãn biết? Thắc mắc quá! Trần Nguyên Hãn hồi hộp, hai tay chàng run run lần mở từng lớp vải… Cuối cùng, hai vợ chồng chàng mắt đều sáng lên khi họ cùng nhìn thấy cái hộp gỗ mà mẹ vừa nói không phải là cái hộp bình thường mà nó được sơn son, thếp vàng óng ánh. Bà Lê Thị Hoàn lại bảo: “Mẹ cho phép, con hãy mở ra xem trong hộp đựng cái gì”. Hai tay Hãn càng trở nên luống cuống. Chàng lần tìm chỗ mở ở phía cuối chiếc hộp. Loay hoay mất một lúc, Trần Nguyên Hãn mới bật mở được nắp hộp ra thì, trời ơi, một thanh kiếm! Thanh kiếm bắt ánh sáng từ bên ngoài hắt vào sáng lóe lên lấp lánh. Chắc hẳn thanh kiếm này là một bảo vật của cha mẹ, quý giá hơn nhiều lần so với thanh gươm mà chàng hiện có? Bà Hoàn vẫy tay, ra hiệu bảo Hãn đưa kiếm cho bà. Lê Thị Tuyển đỡ mẹ chồng ngồi dậy. Giơ thanh kiếm ra trước mặt Hãn, bà nói với một giọng trang nghiêm chưa từng thấy:
- Trần Nguyên Hãn ơi! Con có biết không, đây là một thanh kiếm gia truyền của cụ tổ bảy đời là Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Cụ đã dùng thanh kiếm này để đánh giặc Nguyên Mông và đã lập nhiều chiến công hiển hách. Thế rồi, nhận thanh kiếm này từ ông nội con là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán trao, sinh thời cha con là Trần Nguyên Án, quý thanh kiếm còn hơn cả tính mạng của mình. Cha mẹ đã không quản hiểm nguy rình rập, liều chết đem được thanh kiếm về đây và bí mật giữ gìn nó. Có điều cha con sinh ra không gặp thời nên phải đi ở ẩn, chờ thời. Thời chưa đến thì cha con đã bị bọn thổ quân ở thành Tam Giang giết hại. Nay mẹ thấy con đã trưởng thành, lại là người có chí, đã đến lúc mẹ phải quyết định trao lại thanh kiếm gia truyền này cho con, đặt niềm tin vào con. Hai con đã biết chưa, gần mười năm nay giặc Minh đã sang xâm chiếm nước ta, giết người, cướp của của bà con ta. Nếu con là người có chí, có tài thì con hãy biết giữ lấy thanh gươm này mà làm rạng danh cho tiên tổ.
Trần Nguyền Hãn quỳ xuống, hai tay giơ lên đón nhận thanh kiếm mẹ trao. Chàng xúc động, hứa:
- Thưa mẹ. Con hiểu ý nguyện của mẹ. Xin mẹ hãy tin con. Nếu còn một ngày sống trên đời này, con sẽ không bao giờ để danh tiếng của thanh bảo kiếm bị mai một. Con sẽ dùng nó vào việc đại nghĩa - Linh cảm thấy có điều gì đó chẳng lành sắp xảy ra đối với gia đình mình, Trần Nguyên Hãn nắm lấy bàn tay mẹ, chàng nghẹn ngào nói - Nhưng đó là việc của nay mai, còn bây giờ, mẹ ơi, con mong mẹ đừng bỏ chúng con.
Nói đến đấy, Trần Nguyên Hãn bật khóc. Lê Thị Tuyển cũng không cầm được nước mắt. Nàng gục đầu trên khuôn ngực lép kẹp của mẹ chồng mà nức nở: “Mẹ ơi! Mẹ đừng… Mẹ có mình nào, chúng con biết sống ra sao?” Vừa gạt nước mắt, Tuyển vừa đỡ bà Hoàn nằm xuống. Bà gắng gượng cười - Một nụ cười mếu máo. Bà thều thào nói:
- Ô kìa! Mẹ đã chết đâu mà chúng mày khóc? Mẹ còn phải sống cho đến ngày mẹ có cháu đích tôn và Trần Nguyên Hãn lập công báo hiếu, nếu ông Trời có bắt chết, mẹ mới chịu nhắm mắt.
Bà Lê Thị Hoàn nói với con trai, con dâu chắc như đinh đóng cột như thế nhưng hai hôm sau bà lại qua đời! Một cơn hen suyễn từ trong lồng ngực đột ngột cuộn lên khiến bà nghẹt thở. Giống như người đuối nước, bà Hoàn đã chết đuối trên cạn vào cái lúc hai con bà không ngờ nhất.
Đám tang bà Lê Thị Hoàn được dân làng thôn Đa Cai lo cho rất chu đáo. Ngày đưa bà về với ông trên khu Rừng Thần, dù trời mưa sùi sụt nhưng các hộ trong thôn không vắng mặt một nhà nào.
9.
Vì mải mê cùng Bờ và một vài bạn bè tập võ trên Rừng Thần nên Trần Nguyên Hãn về đến nhà thì trời đã tối mịt. Lê Thị Tuyển vẫn loay hoay cho lợn ăn với băm bèo, thái khoai ở cuối góc sân. Thấy Hãn về nàng hỏi: “Sao chàng về tối thể? - Không đợi chồng trả lời, nàng bảo - Chàng  thắp đèn lên rồi xếp cơm giúp em  với”. Hãn “Ừ” một tiếng và đi nhanh vào nhà.
Trong ngôi nhà ba gian, tường đất, lợp rạ tối om. Muỗi nhiều như trấu, bay loạn xạ, lao vào mặt mũi Hãn. Hãn sờ soạng tìm cái nùn rơm ở góc bếp, thổi phù phù để lấy lửa châm đèn. Bóng tối loãng ra nhưng ánh sáng vàng ối của ngọn đèn dầu càng làm cho cái nóng thêm hầm hập. “Ngồi ăn cơm ngoài hè cho mát nàng nhé?” Hãn hỏi vợ và bưng mâm bát, nồi niêu ra đặt dưới mái hiên.
Bữa cơm của vợ chồng Trần Nguyên Hãn tối nay chỉ có bát tép kho tương và đĩa rau muống luộc mà hai người ăn vẫn thấy rất ngon lành. Đang ăn, Lê Thị Tuyển ngồi chống đũa, hỏi bâng quơ: “Mẹ mất hơn ba năm rồi, chả hiểu các cụ ở dưới ấy có thiếu thốn gì không để em mua sắm gửi cho cha mẹ?” Câu hỏi của Tuyển khiến Hãn lại nhớ đến cha mẹ quá!
Người đời vẫn thường nói, cha mẹ mất ta thành người già.Với Trần Nguyên Hãn, từ khi cha mẹ, nhất là mẹ, qua đời, chàng đã thành người lớn thật rồi! Những ngày còn mẹ, mẹ là chỗ dựa vững chắc của chàng. Mẹ giống như con gà mái luôn biết xù lông, xù cánh che chở, bảo vệ cho con mỗi khi có kẻ nào định xâm hại con mình. Bố mất sớm, một mình mẹ tần tảo sớm hôm nuôi Hãn. Nhớ hôm mẹ sắp về trời, mẹ trao gươm cho Hãn, dặn Hãn phải nuôi chí trả thù nhà, đền nợ nước. Mẹ ơi! Những lời dặn dò trước lúc đi xa của mẹ con luôn ghi lòng, tạc dạ. Từ ngày mẹ mất, con vẫn nghiền ngẫm binh thư, vẫn mài gươm, học thêm võ nghệ và con phải chờ thời. Thầy Nguyễn Thái An đã dạy con: “Nhu” còn có nghĩa là chờ đợi. Tức là người học giỏi, đợi người ta cần đến, sẽ đem tài trí của mình ra mà giúp việc đời! Con nghĩ mình chưa giỏi nhưng con vẫn đang khắc khoải đợi chờ…
Thấy Trần Nguyên Hãn ngồi thừ mặt vì nhớ cha mẹ, Lê Thị Tuyển liền bảo: “Là nhớ mẹ em mới hỏi vậy. Thôi, chàng đừng nghĩ nữa. Chàng ăn cơm đi! Gớm, trời với đất nóng quá. Chập tối nhay nháy, chắc gà gáy sẽ mưa rào đây”. Nhìn đằng Đông trời cứ chớp, vẽ vào màn đêm những tia sáng loằng ngoằng, Lê Thị Tuyển đoán thế.
Như nhiều tối khác, cơm nước xong, bên ngọn đèn dầu le lói sáng, Trần Nguyên Hãn lại giở sách Binh thư ra đọc. Tối nay chàng nghiền ngẫm lại Quyển I, phần Thiên tượng có đoạn: “… Gặp khi gió lớn, mưa lớn, rét lớn, nắng lớn, không nên cho quân đi đánh, phải nên vỗ về quân sĩ mà bền vững dinh trại. Tất nhiên giặc cũng chẳng ra quân. Nếu quân ta đi đường thình lình thấy giặc thì nên gấp đóng dinh trại, đợi cho nó ngày chiều thế kém mà dùng kế sách khác. Sách Tam lược nói: Xét tính thiên thời, rình chỗ sơ hở…”
Gặp khi tuyết bay mù, trong khoảng trăm bước mà chẳng trông thấy người ngựa, địch hay đặt quân kỳ, quân phục ở nơi đường hiểm để đánh vào chỗ ta không ngờ. Nếu ta cho tướng nhỏ ra ứng đối thì nó giả thua, chạy, mong ta đuổi đánh, để dẫn ta vào chỗ phục binh. Nếu ta thấy cơ trời như thế  thì nên sai 5, 7 viên tướng nhỏ, vài mươi đội kỵ giỏi, chờ giặc từ tả, hữu trước sau đem quân đến nhử ta, thì ta cho ngay hai viên tướng ra sau quân, bàn định thăm dò, cho quân và ngựa đi quanh quất tìm xét, liệu tính đường về của giặc, rồi nhắm nơi hiểm ải, dò thăm xem có phục binh hay không. Nếu có thì nên chia binh ra làm hai ba nơi thay đổi nhau mà đánh. Như thế thì chúng phải thua chạy, mà kẻ đến đánh ta trước kia đầu đuôi không thấy được nhau. Quân ta đã đuổi quân phục của địch, dùng binh giỏi lộn lại làm quân đón triệt, thì bọn giặc đến để đánh ta đó không biết quân phục ở chỗ kia hiện đã tan chạy. Vả quân ta đã sai kỵ binh giỏi đến, một đạo tiến, một đạo lùi, thay đổi nhau đuổi đánh. Chờ khi nó vào nơi có quân phục của ta thì đầu đuôi cùng ứng, có thể bắt gọn cả quân. Đấy là nói đại khái, chứ hoàn toàn là phải biến…
Hãn đang đọc đến đấy thì bên ngoài trời nổi gió to và đổ mưa!
Bao giờ cũng thế, hễ mưa là nhà Trần Nguyên Hãn bị dột lung tung. Khổ nhất là hình như nước mưa cứ nhằm vào chỗ đêm đêm Hãn ngồi đọc sách mà rót xuống. Chàng phải ngừng đọc, vội vã thu dọn mấy chồng sách sang chỗ khác. Lê Thị Tuyển cũng thức dậy cùng chồng “huy động” tất cả các loại nồi niêu, chum vại hiện có trong nhà ra hứng nước mưa, đoạn giục chồng: “Thôi, đi ngủ chàng ạ. Sáng sớm, em sẽ đánh thức chàng dậy đọc tiếp”. Hãn “Ừ” nhưng chàng vẫn ngồi lỳ bên chồng sách.
Trời vẫn đang đổ mưa. Tiếng mưa rơi đều ở ngoài sân và tiếng nước rơi long bong gõ nhịp từ trên mái nhà chảy xuống trong mấy cái chum vại nghe êm êm như lời ru khiến hai mí mắt Hãn nặng trĩu, cứ díp lại. Không cưỡng lại nổi một giấc ngủ mệt mỏi, nặng nề kéo đến, Trần Nguyên Hãn gục đầu trên bàn…
 “Chàng vẫn chưa đi ngủ sao?” Nghe vợ hỏi từ phía bên kia giường vọng sang, Hãn bừng tỉnh. Chàng dụi dụi mắt. Chưa hiểu vợ nói điều gì thì nàng lại giục: “Đi ngủ thôi chàng ạ. Trời khuya lắm rồi đấy ạ”. Thì ra thương chồng thức khuya, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe nên Lê Thị Tuyển mới giục chàng đi ngủ chứ thực tình thấy chồng chăm lo nghiền ngẫm binh thư thế này là nàng nửa mừng, nửa lo. Đã có lần nàng nói với chồng, chàng chịu khó thức khuya dậy sớm để đọc sách, em rất vui. Nhưng em chỉ sợ chàng cố quá, nhỡ ốm một cái thì khổ. Nàng cứ lo xa thế chứ Hãn khỏe thế này, ốm làm sao được! Buồn ngủ quá, chàng chỉ chợp mắt một tý thôi. Vừa chợp mắt mà Hãn đã mơ - Một giấc mơ quá đẹp. Không giấu được niềm vui, chàng khoe với vợ: “Ta vừa mơ thấy…” - “Thấy mẹ về phải không chàng?”- “Không phải! Ta mơ thấy một người không rõ từ đâu đến tìm gặp ta. Người ấy tự xưng là Nguyễn Trãi, rủ ta đi tìm minh chủ. Nàng ơi, có thể cái thời của ta sắp đến thật rồi! Tiếc quá! Ta vừa mơ đến đoạn hai anh em chuẩn bị lên đường thì nàng làm ta thức giấc”.
Dường như Lê Thị Tuyển cũng tiếc như chồng nên nàng lặng đi một lúc lâu mới nói: “Việc đền nợ nước, trả thù nhà như mẹ dặn dò chàng trước khi mẹ nhắm mắt, xuôi tay, em không biết làm gì để chia sẻ với chàng. Là phận gái, em chỉ mong chàng đừng lấn bấn về chuyện thê nhi mà sự nghiệp dở dang”. Nói đoạn, nàng lại nằm xuống. Không giục chồng đi ngủ nữa nhưng nàng lại cầm cái quạt mo cau đuổi muỗi phành phạch. Tiếng đập muỗi của nàng làm Hãn không buồn ngủ nữa. Chợt nhớ đến có lần mẹ bảo: “Học khuya, hễ lúc nào buồn ngủ thì lấy nước lã vã vào mặt, đầu óc sẽ tỉnh táo ra ngay”, Trần Nguyên Hãn mở cửa chạy ra sân.
Mưa đã tạnh. Trên nền trời xanh đen lại xuất hiện những vì sao nhấp nháy. Hãn đi đến bên chum nước đặt dưới gốc cây cau. Chàng múc một gáo nước mát dội lên đầu. Sau khi làm mấy động tác võ, chàng tỉnh ngủ hẳn. Trần Nguyên Hãn đi nhanh vào nhà, bày biện lại sách Binh thư và chàng lại tiếp tục đọc cho đến tận lúc gà gáy sáng.
Qua một đêm không ngủ, đầu óc Trần Nguyên Hãn vẫn rất tỉnh táo. Chàng bảo với vợ rằng, sáng nay chàng sang thăm thầy Nguyễn Thái An, nhân đấy sẽ xin ý kiến thầy về một số công việc.
Cụ giáo Thái An thật thiêng. Trò Hãn vừa mới nhắc đến tên, thầy đã có mặt! Từ khi vợ chồng ông bà Trần Nguyên Án mất, lại biết Hãn là dòng dõi tôn thất nhà Trần, thầy rất quý Hãn, coi Hãn như con, thầy An vẫn dành thời gian chủ động đến với Hãn luôn. Mỗi lần đến, ngoài việc giảng giải cho Hãn hiểu thêm chữ nghĩa trong các sách Binh thư hay Tứ thư, Ngũ kinh, thầy còn kể cho Hãn biết vô số chuyện, đặc biệt là chuyện nhà Minh tìm lập con cháu nhà Trần và những cuộc khởi nghĩa của tôn thất nhà Trần nổ ra ở nhiều nơi làm xôn xao dư luận trong cả nước.
Trần Nguyên Hãn mời thầy vào trong nhà, giục Lê Thị Tuyển đun nước, pha trà. Thầy Nguyễn Thái An vội xua tay: “Thôi, thôi! Cứ cho thầy uống nước vối cũng được. Nước vối thơm, ngon mà lành lắm”.
Thắp cho ông bà Trần Nguyên Án nén hương, thầy Thái An quay lại cùng ngồi với Trần Nguyên Hãn trên chiếc chõng tre. Uống một ngụm nước vối xong, thầy An nói:
- Lâu nay thầy vẫn định nói với con chuyện này nhưng nghĩ là chưa đến lúc nên lại thôi. Suốt đêm qua thầy suy đi, tính lại và thấy rằng cần phải nói với con…
- Bẩm thầy! Có chuyện gì con xin thầy cứ dạy ạ.
- Chuyện là thế này: Từ khi nhà Minh đặt được ách cai trị lên đất nước ta, tướng Trương Phụ đã biến nước Đại Việt thành “Quận huyện Giao Chỉ” của chúng nó. Quan lại nhà Minh đã thi hành chính sách triệt để cướp bóc, vơ vét từ trâu bò, voi ngựa, thóc gạo, thuyền bè đến vàng bạc, châu báu. Tất cả các nghề thủ công, buôn bán đều bị bọn chúng đánh thuế. Nhân dân khắp nơi còn bị chúng cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc; xuống biển mò ngọc trai; lên rừng khai thác lâm thổ sản cùng các hương liệu quý. Rồi đi lao dịch. Thợ thủ công, dân phu, phụ nữ, trẻ em, đào hát, phường nhạc cùng nhiều người khác bị bắt đem về Trung Quốc làm nô tì, phục vụ cho bọn quan lại nhà Minh. Quân Minh còn cướp ruộng đất của nông dân xung quanh Trại đóng quân của chúng, biến thành đồn điền cho quân lính đi cày, cấy. Đồng thời, quan lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, toan tính đồng hóa dân tộc mình bằng cách: Bắt mọi người ăn mặc theo phong thục tập quán của người Hán; cấm con trai, con gái không được cắt tóc ngắn, đàn bà phải mặc áo ngắn, quần dài như dân Trung Hoa. Sở dĩ trang Sơn Đông mình vẫn có vẻ yên bình là vì nơi đây là miền sơn cước, cách biệt với triều đình chứ những vùng quê khác, dân tình khổ lắm. Những sự việc này trò đã biết chưa?
- Bẩm thầy! Tội ác của giặc Minh đối với đất nước ta kể làm sao cho hết được ạ. Từ ngày lớn lên, con đã phong thanh được biết. Nay chính tai mình được nghe thầy nói, con càng tin đó là sự thật. Thú thực với thầy, đã từ lâu con nuôi chí đền nợ nước, trả thù nhà mà chưa có cơ hội thực hiện.
- Thầy biết cái chí ấy của con và thầy hy vọng con sẽ lập nghiệp lớn. Thầy còn hiểu con qua việc Minh Thành Tổ đã nham hiểm dùng chiêu bài “Phù Trần, diệt Hồ” nên đã nhanh chóng chiếm được nước mình. Khi đã chiếm được Đại Việt chúng lại yết bảng tìm bắt con cháu nhà Trần. Nhưng đến khi có ông Lê Lợi khởi nghĩa, chúng lại ra chiêu bài “Tìm lập con cháu nhà Trần”. Đứng trước tất cả những lắt léo của chính sự đó con đã không để bất cứ ai lợi dụng được mình. Rồi đến những cuộc khởi nghĩa ở nơi này nơi khác của tôn thất nhà Trần cũng không đủ sức lôi cuốn được con. Bởi vì con vẫn chưa tìm được minh chủ. Thầy nói vậy có đúng không?
Trần Nguyên Hãn không thể ngờ thầy Nguyễn Thái An lại nhìn thấu hết tâm can của mình đến thế. Biết nói với thầy thế nào khi mà thầy đã hiểu Hãn từ chân tơ, kẽ tóc?
- Bầm thầy!  Đúng là như vậy ạ. Chỉ có điều xin thầy hãy hiểu cho con, bấy lâu nay con nuôi chí cứu dân, giúp dân không có nghĩa là con muốn khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Con có ý thức dẹp giặc, muốn lo cho dân, muốn cứu dân khỏi ách lầm than, cũng không có nghĩa là con muốn dựng lại một vương triều đã sụp đổ. Điều này càng lớn lên càng sáng rõ trong con, giúp cho con biết xét đoán, biết ứng xử, biết quyết đáp trước bao công việc hệ trọng mang tính nhận thức về thời cuộc, về cuộc đời của con.
Lần đầu tiên thầy Thái An được nghe Trần Nguyên Hãn bộc bạch nỗi lòng, mà thầy cũng là người đầu tiên chàng hé lộ những nghĩ suy, nung nấu của mình. Điều cơ mật này lẽ ra không nên nói, nhưng với thầy Nguyễn Thái An, Hãn giấu thầy làm sao được?
- Nghe con nói, thầy nghĩ là con đã trưởng thành. Thầy mừng lắm Hãn ạ. Thầy nhìn người không nhầm. Lòng tin của thầy coi như đã có địa chỉ.
10.
Hồi còn nhỏ, hầu như năm nào Trần Nguyên Hãn cũng được cha mẹ cho theo lên Rừng Thần. Đó là vào dịp ăn Tết xong, ra giêng ngày rộng, tháng dài, người lớn, trẻ con bảo nhau lên núi Thần phát rẫy, làm nương, trồng sắn, tra mộ… Những hôm ấy làng đông vui như trẩy hội. Người lớn vác dao rựa, trẻ con cưỡi trâu bò, từng tốp, từng tốp rồng rắn kéo nhau đi. Tiếng nói cười cứ râm ran từ lúc bóng đêm còn vương đầy trên mặt đất. Vào đến rừng, trâu cũng như bò, mỗi con đều được đeo một chiếc mõ tre vào cổ, chạc cuộn trên sừng, đoạn mới thả chúng ra, mặc cho chúng tự do ăn ở nơi nào thì ăn. Đến khi mặt trời xuống núi, ánh nắng tắt dần trên những ngọn cây, người lớn thì vội vàng thu dọn nốt những gốc cây, cành cây bó lại thành từng gánh củi, trẻ con thì đi tìm trâu bò để chuẩn bị về làng. Thông thường bọn trẻ bằng tuổi Hãn chỉ cần nghe tiếng mõ khua “lốc cốc” ở đâu đó là nhận ngay ra trâu bò của mình đang gặm cỏ ở hướng nào trong đám lau sậy um tùm, rậm rạp. Nhưng cũng có hôm vì mải ăn mà trâu bò có đứa bị lạc. Những lần ấy thì cơ cực trăm bề. Cả nhà phải đốt đuốc vào rừng tìm chúng suốt đêm!
Những ngày vào đầu mùa hạ, Rừng Thần còn là nơi mà mỗi lần đi thả trâu bò, Trần Nguyên Hãn và bạn bè cùng trang lứa thường rủ nhau chia ra làm hai phe để đánh trận giả.
Trẻ con ở Đa Cai thường nhận thấy mùa hạ trở lại ngay trên Rừng Thần… Dấu hiệu đầu tiên, ấy là những bông hoa sim, hoa mua nở tím ngát. Rừng Thần vốn sẵn hai thứ cây này. Những búi mua to mọc thành đám lớn. Những cây sim thân bằng bắp tay, với những cành lá xùm xòa mà trẻ con có thể đu trèo lên được. Sau mấy tháng trời âm thầm hút màu từ trong lòng đất cỗi cằn, đợi khi tiếng sấm gọi mưa ào ào trút xuống, dưới ánh nắng chói chang, sim và mua thi nhau vội vã bật nở những bông hoa năm cánh màu tím, báo hiệu mùa hạ đã tới! Mùa chơi trận giả đã tới!
Còn nhớ một chiều cũng như mọi chiều, bọn thằng Toán cùng những đứa giả làm quân giặc, tìm than giã nát, trộn với nước, rồi đứa nọ vẽ lên mặt đứa kia những nét nguệch ngoạc quanh mồm. Đoạn mỗi đứa cầm một thanh gươm làm từ cây sắn khô và kéo nhau sang phía bên kia mấy búi sim, mua. Quân ta do Hãn làm thủ lĩnh, đứa chạy xuống đồng ôm rạ về lợp “nhà”, đứa bẻ cây làm cột. Bọn con gái cái Tuyển vốn nhút nhát cũng bị lôi cuốn vào cái trò chơi trận mạc của con trai. Nhưng con gái thì không phải tham gia đánh trận mà chỉ làm công tác hậu cần. Công việc không có gì phức tạp. Các cô nàng chỉ có việc cạo sạch vỏ những củ khoai lang sống, rồi thái nhỏ, bày ra trên mấy chiếc lá để chuẩn bị khao quân chiến thắng.
Vào lúc tay trinh sát ngồi vắt vẻo trên một cành sim báo tin cho quân ta biết: “Địch bắt đầu tấn công” thì những ngôi “nhà” cũng vừa mới lợp xong. Các nàng hậu cần khẩn trương thu gói những lát khoai, đem giấu vào trong những búi simmua. Tất cả im lặng, chờ đợi!
Một lúc sau mấy tên địch mặt mũi đứa nào cũng nhọ nhem mà đi đứng nghênh ngang, vênh váo quá! Thằng Toán khệnh khạng đi đầu, tay lăm lăm “thanh gươm”. Hai con mắt Toán soi mói nhìn vào từng búi cây. Bỗng nó sung sướng reo lên:
- A! Chúng nó đây rồi! Lính đâu?
- Dạ!
Tụi lính dạ ran và chạy xô tới. Thằng Toán hách dịch, chỉ tay ra lệnh:
- Lôi cổ con mẹ kia ra đây cho ta!
Thôi, thế là chúng nó đã phát hiện ra cái Tuyển nấp sau búi sim. Trong lúc hai thằng lính, mỗi đứa nắm một tay cái Tuyển, lôi đi xềnh xệch thì thằng Toán gắt gỏng hỏi:
- Thủ lĩnh của mày đâu?
Cái Tuyển lặng im. Nó khinh bỉ nhìn thẳng vào cặp mắt gườm gườm của thằng Toán. Toán lại hỏi, giọng to hơn:
- Thủ lĩnh đâu? Tuyển! Mày có khai không? Không khai chúng ông đốt nhà.
Mặt cái Tuyển lúc bấy giờ vênh lên, vẻ bất cần và thách thức. Tức quá, thằng Toán ra lệnh:
- Lính đâu! Đốt nhà!
Rạ khô lại có nắng, có gió nên rất dễ bén lửa. Những ngôi “nhà” liền bốc cháy rần rật. Nhìn cảnh đó, tức không chịu được, Trần Nguyên Hãn hô lớn:
- Các anh em! Tiến lên!
Quân ta từ trong các búi cây được lệnh nhảy xổ ra. Bị đánh bất ngờ, quân địch bỏ chạy tán loạn. Phút chốc tiếng hò reo, hô hoán vang lên râm ran khắp  “trận địa”. Chúng nó rượt đuổi, múa gươm, đâm chém nhau cứ loạn xạ. Riêng Hãn, vốn căm ghét tên giặc cầm đầu nên nhất định phải bắt sống Toán. Nhưng Toán đâu có phải là đứa dễ dàng chịu thua. Vì thế hai đứa vờn nhau mãi mà vẫn chưa tóm được nhau. Hãn đuổi mãi, đuổi mãi, lúng túng thế nào Toán lại vấp ngã. Nhanh như chim cắt, Hãn lao tới, ôm chầm lấy Toán. Toán giẫy giụa, vùng vẫy và đưa chân khoèo Hãn ngã bổ ngửa. Đắc thắng, Toán ngồi đè lên Hãn, nhe răng cười, khoái trá.
Nằm bên dưới Toán, Hãn chưa chịu thua. Hãn nín thở. Rồi Hãn, uốn cong người, ôm lấy ngang bụng Toán và nhanh như chớp, hất mạnh một phát. Bị đối phương phản công quá bất ngờ, không đỡ kịp, Toán đành nằm phơi bụng để Hàn đè lên trên, hỏi dồn dập:
- Hàng chưa? Hàng chư... ưa?
Biết không thể nào thay đổi được tình thế, Toán vừa thở hổn hển vừa nói:
- Hàng!
Thủ lĩnh thua, cuộc chiến nhanh chóng kết thúc! Lúc bấy giờ các nàng hậu cần mới bê nhưng “mâm cỗ” khoai lang ra khao quân. Chẳng phân biệt địch, ta gì nữa, chúng nó xúm lại cùng ăn với nhau một bữa khoai lang sống thật tưng bừng, thật vui vẻ.
Chuyện tưởng như vừa mới xảy ra mà thấm thoắt trôi qua đã hơn mười năm rồi! Lũ trẻ chăn trâu ngày ấy giờ đã là những người lớn. Tuyển là vợ Hãn. Toán đã lấy người khác nhưng chàng vẫn âm thầm thù ghét Hãn. Và, Rừng Thần trở thành nơi để Trần Nguyên Hãn chiêu tập các trai đinh trang Sơn Đông đến cùng mình luyện tập võ nghệ.
Từ hôm nghe Trần Nguyên Hãn bộc bạch hết nỗi lòng, thầy Nguyễn Thái An mời hẳn một võ sư về Đa Cai dạy võ cho Hãn và những người cùng chí hướng với chàng. Nhờ có thầy truyền dạy mà Hãn mới hiểu võ thuật là bộ môn thể hiện rất rõ tính liên hoàn, tinh tế, uyên thâm, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong với bên ngoài… chứ không phải chỉ là chuyện đơn giản múa may, nhào lộn. Không chỉ có vậy, võ còn vận dụng triệt để học thuyết âm dương, có sự phối hợp cả hai phương diện ngoại công và nội công. Đồng thời, võ đề cao những đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thể hiện ở các mặt truyền thống như thượng võ, chống ngoại xâm, trọng nhân nghĩa… Nội dung của võ vô cùng phong phú và đa dạng nhưng tựu trung có bốn điều cơ bản là luyện công, quyền thuật, võ với binh khí và luyện tinh thần. Y hẹn, tối nay võ sư sẽ dạy cho các võ sinh 108 đòn cước Thiếu Lâm võ phái, hay còn gọi là “108 thế cước Thiếu Lâm”.
Võ sư tuổi gần bốn mươi. Người không cao to nhưng nhìn rắn chắc như thanh sắt nguội. Từ ánh mắt đến từng động tác đi đứng của võ sư đều toát lên một tác phong nhanh nhẹn và mạnh mẽ. Hôm mới về Đa Cai, để thử lòng dũng cảm của Hãn, võ sư bảo chàng trèo lên mái nhà, rồi lăn xuống sân, nơi có cắm mấy lưỡi gươm nhọn hoắt và sáng loáng. Hãn không ngần ngại, chàng sẵn sàng làm theo lời thầy. Không ngờ, chàng vừa lăn tới cuối mái gianh thì thầy đang ngồi uống nước ở trong nhà đã kịp thời hiện ra, giơ tay đón Hãn. Trò tròn mắt nhìn thầy kinh ngạc, không hiểu bằng cách nào mà thầy nhanh đến thế! Thầy mỉm cười, gật đầu, hài lòng vì lòng gan dạ của trò. Ngay từ buổi đầu thử thách, lòng tin của võ sư đối với Trần Nguyên Hãn quả là không sai. Càng học thầy càng thấy Hãn là một võ sinh thông minh, có thể nói Hãn là một người có năng khiếu bẩm sinh về võ thuật. Chính vì thế, buổi tập nào võ sư cũng gọi Hãn đứng ra làm mẫu. Tối nay cũng vậy.
Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, sáng đầy trời, sáng như ban ngày, Trần Nguyên Hãn đứng trước mấy chục võ sinh, theo hướng dẫn của võ sư, chàng đang thể hiện những động tác của thế thượng xung cước.
Võ sư hô “chuẩn bị”. Hai chân Hãn đứng rộng bằng vai, chân trái trước, chân phải sau. Trọng tâm dồn lên chân phải. Hai tay Hãn thủ về trước. Mắt Hãn nhìn thẳng.
Võ sư hô “Ra đòn!”. Lập tức Hãn nhấc cao đùi trái lên. Cẳng chân trái co lại, bàn chân cũng co, mũi chân hướng về phía trước theo chiều xiên lên. Liền đó, Hãn hất mạnh cẳng chân trái về phía trước. Đồng thời, Hãn gấp hẳn bàn chân vào, dùng gót chân nhằm vào mục tiêu. Mắt Hãn nhìn theo đòn.
Đợi Hãn trở về tư thế đứng nghiêm, võ sư nói thêm với Hãn và các võ sinh:
- Tập thế thượng xung cước, các con cần lưu ý: Chân phải trụ chắc, người không chao đảo, cũng không ngả ra sau. Khi đá căng chân ra, hai tay hơi kéo rộng ra, ngực căng lên, bụng thót vào. Thế này ứng dụng tấn công vào mặt đối phương sẽ đem lại hiệu quả cao. Đòn này còn có tên khác nữa là “Triều thiên nhất trụ hương”, nghĩa là, một nén hương lên trời. Bây giờ các con bắt đầu tập  theo Trần Nguyên Hãn!
Được thầy gọi ra làm mẫu, rồi lại được thầy tin tưởng giao cho công việc thay thầy hướng dẫn các võ sinh khác, Trần Nguyên Hãn thấy trách nhiệm của mình thật là nặng nề. Không nỡ phụ lòng thầy, chàng càng hăm hở luyện tập. Tiếng hô “hây, hây” cùng tiếng vung tay, đạp chân ra đòn huỳnh huỵch cứ vang lên rộn rã cả khu rừng. Tuy vậy cũng chỉ có trời biết, đất biết và Rừng Thần biết những trai đinh thôn Đa Cai đang luyện võ, chờ thời giết giặc.
Buổi tập mãi đến khi vầng trăng sắp lặn xuống phía Tây mới kết thúc. Trần Nguyên Hãn trở về nhà, gà trong chuồng đã gáy canh một.
Lê Thị Tuyển vẫn chưa ngủ. Từ ngày lấy Trần Nguyên Hãn, biết chàng là người có chí lớn nhưng còn chờ thời và tìm minh chủ nên nàng vẫn khuyên chàng ngày đêm ôn văn, luyện võ. Ông bà Loan Nghiêm, cha mẹ nàng cũng luôn dặn nàng, phải chăm sóc chàng. Là người sửa túi nâng khăn cho chàng, nàng phải gánh vác giang san nhà chàng để chàng rảnh rang dành tất cả tâm sức lo cho sự nghiệp của chàng trong tương lại. Biết rằng không buộc nổi cánh chim trời, đến một ngày nào đó chàng sẽ ra đi nên nàng mong ngày, mong đêm có một đứa con với chàng. Nỗi mong mỏi đến khát khao, đến cháy bỏng của nàng giờ đã thành hiện thực. Mấy tháng nay nàng tắt kinh và nôn ọe luôn. Mẹ nàng bảo thế là nàng đã có chửa. Không thể giấu chồng, nàng phải báo tin vui này cho Hãn biết.
Hãn rửa ráy chân tay, mặt mũi xong, lại ăn hết một loa cháo trai trai nóng do Tuyển nấu, rồi mới lên giường. Vừa mới ngả lưng, Lê Thị Tuyển cầm lấy tay chàng đặt lên bụng nàng và hỏi:
- Chàng có thấy gì không? - Trần Nguyên Hãn xoa xoa trên bụng vợ. Chàng chưa kịp đưa ra phán đoán thì Lê Thị Tuyển đã nói - Chàng ơi, chúng mình sắp có con rồi!
Chỉ thiều kiềm chế một chút nữa thì Trần Nguyên Hãn bật lên tiếng reo. Chàng hồi hộp hỏi:
- Vậy ư? Chúng ta sắp có con thật sao?
Trần Nguyên Hãn sung sướng ôm ghì vợ vào lòng, đoạn lại ghé tai sát vào bụng vợ, lắng nghe. Lê Thị Tuyển nói:
- Đấy! Con nó đang đạp đấy. Chàng có nghe thấy không?
Dẫu chỉ mơ hồ nhận ra hình như có tiếng cựa rất khẽ khàng nhưng Trần Nguyên Hãn vẫn vui vẻ công nhận: “Có, có” và chàng gọi thầm: “Cha mẹ ơi! Cha mẹ sắp có cháu nội rồi!” 
11.
Nếu như trước kia Trần Nguyên Hãn gánh dầu đi chợ là vì cớ sinh nhai thì một, hai năm nay chàng đi chợ không hẳn vì đồng tiền, bát gạo. Bây giờ mỗi lần vào chợ, được hòa mình trong đám đông nhốn nháo, chàng tranh thủ tìm hiểu, nghe ngóng tình hình đất nước qua những câu chuyện mà bàn dân thiên đang bàn tán xôn xao. Nhờ những tin tức truyền miệng ấy Trần Nguyên Hãn chắp nối lại và chàng biết, thì ra từ mấy năm nay con cháu tôn thất nhà Trần của chàng đã có những cuộc khởi nghĩa làm chấn động dư luận khắp nơi. Đó là các cuộc khởi nghĩa ở Tràng An của Gỉan Định Vương Ngỗi, con trai thứ của vua Trần Nghệ Tông. Cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ nổi lên ở Bình Than. Cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng, cháu của vua Trần Nhân Tông, ở La Sơn… Những cuộc khởi nghĩa ấy tuy nhanh chóng bị thất bại nhưng đã làm cho quân Minh sống không yên ổn và khiến Trần Nguyên Hãn càng nóng lòng muốn ra đi cứu nước. Cũng qua những tin tức lan truyền trong dân gian, Trần Nguyên Hãn lại biết, ở Lam Sơn có Lê Lợi đã đứng lên khởi nghĩa. Người ta đồn, Lê Lợi sinh ra đã có thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ. Mắt Lê Lợi sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói vang như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ. Kẻ thức giả đều biết Lê Lợi là bậc phi thường. Người ta còn bảo, Lê Lợi vốn là người có chí lớn và khảng khái, đến mức chính quyền đô hộ nhà Minh từng kêu gọi ông ra làm quan. Tuy nhiên ông quyết không nghe theo. Lê Lợi cho rằng: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người”. Vì thế ông mới cư ngụ ở núi rừng và đang tập hợp hào kiệt về. Tin này thực sự đã làm Trần Nguyên Hãn vui mừng khôn xiết. Trần Nguyên Hãn rất muốn tìm vào Lam Sơn gặp Lê Lợi xin đầu quân nhưng trong lòng còn nhiều nghi ngại. Bởi vậy, gần đây lần đi chợ nào Trần Nguyên Hãn cũng ngủ lại qua đêm tại đền Bạch Hạc để cầu mộng xem thực hư ra sao?
Đền Bạch Hạc nằm ngay bên bờ sông Lô. Đây là một ngôi đền vừa lớn, vừa đẹp. Đền có “ thượng cung”, có “phương đình” tám mái. Trước “phương đình” là sân. Trước sân là “đại bái”. Từ “đại bái” bước xuống là sân đền. Xung quanh sân có xây tường bao quanh. Mỗi ô phía ngoài bờ tường đều có tượng lực sĩ đứng gác. Tương truyền từ thời nhà Đường, có Nguyễn Thường Minh làm đô đốc đất Phong Châu, thấy đất đai nghìn dặm, sông núi như đai vạt ông mới cho xây quán Thông Thánh tại đất Bạch Hạc, nơi có cây chiên thường có chim hạc trắng đậu, và đặt tượng Tam Thanh để cho kỳ vĩ. Đồng thời, Thường Minh mở hai giải vũ trước sau, định tô tượng thần hộ vệ quán. Nhưng hiềm một nỗi chưa biết chỗ nào linh thiêng nên ông đốt hương, rồi khấn: “Các vị thần kỳ đất này, nếu có vị nào linh thiêng, xin sớm hiện hình cho tôi biết mà tạc tượng”. Đêm đến, Thường Minh mơ thấy có hai dị nhân, diện mạo cổ quái, đều đem theo bộ thuộc ủng hộ. Họ quát tháo, xô lấn, chen nhau đến bên Nguyễn Thường Minh tranh được ở quán trước. Không biết chọn ai, Thường Minh hỏi: “ Các ngài tên, tự  là gì” Một người xưng là Thổ Lệnh. Một người xưng là Thạch Khanh. Thường Minh bảo: “ Cho tôi thử tài nghệ của hai ngài. Ai thắng sẽ được ở trước”. Thạch Khanh liền vỗ đùi, nhảy một bước đã đến bờ bên kia sông Lô. Nhưng thật bất ngờ, Thổ Lệnh lại đứng ở đó từ lúc nào rồi! Thạch Khanh liền nhảy một bước trở lại bên này sông thì cũng lại thấy Thổ Lệnh đứng bên này trước mình! Vậy là Thổ Lệnh thắng và được ở quán Thông Thánh, được Thường Minh tô tượng để thờ. Thổ Lệnh được phong là Vũ Phụ Trung Dực Uy Hiển Vương.
Nghe nói, từ thời nhà Đường, đã hơn nghìn năm, quán Thông Thánh nay gọi là đền Bạch Hạc, chốn này là đất quý, thần thiêng, xưa nay đều cầu được báo ứng.
Giống như mấy lần trước, đêm nay sau khi thắp mấy tuần hương, miệng lầm rầm khấn cầu nếu đúng Lê Lợi là người như thiên hạ đồn thì xin thần báo mộng xong, Trần Nguyên Hãn lại ngả lưng nằm ngủ dưới chân tượng Thổ Lệnh.
Đêm trong đền tối như bưng. Muỗi bay vo ve không át nổi tiếng giun dế và trăm loại côn trùng cùng tấu lên bản nhạc buồn triền miên, không dứt. Phía bên ngoài đền, nơi có bãi cây mò, đom đóm bay chấp chới. Những chấm sáng biết di động ấy cứ lao lên, lao xuống vẽ vào không gian tối mịt những đường sáng loằng ngoằng.
Không ngủ được, Trần Nguyên Hãn nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi mung lung. Chàng nghĩ về cha mẹ, hai đấng sinh thành ra chàng đã phải sống cả một cuộc đời nghèo khổ để nuôi dưỡng chàng và đặt bao nhiêu hy vọng, niềm tin vào nơi chàng. Chàng nghĩ về Lê Thị Tuyển, người vợ luôn luôn động viên cổ vũ chàng trong cuộc sống đầy những khó khăn, thiếu thốn. Chàng nghĩ về con trai Trần Trung Khoản, chú bé mới hơn một tuổi mà kháu khỉnh, thông minh. Nó là chắt đích tôn của Trần Nguyên Đán, lớn lên liệu có làm được gì rạng danh cho tổ tông? Chàng nghĩ về thầy Nguyễn Thái An, người đã thắp lên trong tâm hồn Hãn, ngay từ thủa thiếu thời những khát khao đền nợ nước, trả thù nhà. Chàng nghĩ đến nhạc phụ, nhạc mẫu là ông bà Loan Nghiêm, đến bà Mến, đến ông Sóng, đến ông Bụi, chàng Bờ… Toàn là những người đã cưu mang, chia sẻ với Hãn những khó khăn, vất vả từ thủa ấu thơ cho đến tận bây giờ. Miên man nghĩ suy, Trần Nguyên Hãn lại nhớ hết từ chuyện mình đi cày bắt được gươm thần, chuyện vớt và chôn nàng Thị Duy bên bến sông Lô đến chuyện con ma cho chàng Ma y… Kể từ ngày bắt được gươm thần đến nay bấm đốt ngón tay đã là trên mười năm chàng mài gươm nuôi chí, chờ thời. Hai mươi bảy tuổi rồi sao chàng vẫn chưa tìm ra minh chủ? Phải chăng ở chốn sơn cùng thủy tận này đã không cho chàng một cơ hội?
Trần Nguyên Hãn trằn trọc trở mình, trút hơi thở dài. Một luồng gió hiu hiu từ phía cửa đền thổi vào, mơn man trên da thịt Hãn. Chàng thấy mát lạnh, rồi thiu thiu buồn ngủ. Hai mắt chàng khép lại. Mà một giấc ngủ nặng nề đến với chàng.
Đang chập chờn thức ngủ bỗng Trần Nguyên Hãn nhận thấy có một vầng hào quang rực sáng trên ban thờ giữa đền. Nghĩ rằng, lời cầu khẩn của mình đã báo ứng, Trần Nguyên Hãn nhắm mắt, nằm im, lắng tai nghe. Thì ra thần núi Tản Viên (là một trong năm mươi người con trai của Lạc Long Quân theo cha về biển nhưng sau lại xin lên đất) đến rủ thần đền Bạch Hạc lên Thiên đình hội họp. Thần Bạch Hạc nói:
- Hôm nay nhà thần có khách, thần không đi được. Thần nhờ Đại vương cáo với Ngọc Hoàng hộ.
- Khách là ai mà quan trọng vậy?
- Một chàng trai đang nuôi chí trả thù nhà, đền nợ nước nhưng chưa tìm ra minh chủ để đầu quân.
- Vậy ta đi nhé!
Trần Nguyên Hãn chỉ nghe được loáng thoáng hai Thần nói thế, rồi chàng lại ngủ thiếp đi. Lúc lâu sau tự nhiên chàng lại bừng tỉnh và nghe rất rõ Thần núi Tản viên nói với thần đền Bạch Hạc:
- Thiên đình họp lần này, Thượng đế đã ký mệnh cho Lê Lợi, người ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa, làm Vua nước Nam, Tả tướng là người trang Sơn Đông.
Mới nghe đến đấy Trần Nguyên Hãn mở choàng mắt, chàng không nhìn thấy gì ngoài những con đom đóm vẫn chấp chới bay, vẽ vào màn đêm những vòng sáng rối rắm. Nhưng tin rằng mình đã được báo mộng, Trần Nguyên Hãn khấp khởi mừng. Chàng ngồi dậy, thu xếp quang gánh, trở về Đa Cai ngay trong đêm.
Sáng sớm hôm sau, vợ chồng Trần Nguyên Hãn vừa thức dậy thì có một người tuổi ngót bốn mươi, vai đeo tay nải, tóc cuốn búi tó, dáng vẻ nho nhã, thư sinh xuất hiện ngay trước sân nhà Hãn. Người đó là Nguyễn Trãi. Sau mấy câu thăm hỏi, hai anh em nhận ra nhau, tay bắt mặt mừng. Trần Nguyên Hãn đưa Nguyễn Trãi vào nhà giới thiệu với Lê Thị Tuyển:
- Đây là đại sư huynh Nguyễn Trãi. Huynh là con bà bá, còn ta là con ông cậu.
Nguyễn Trãi chỉ dẫn rành mạch hơn:
- Mẹ huynh là bà Trần Thị Thái, là chị gái của Trần Nguyên Án. Cụ Trần Nguyên Đán với huynh là ông ngoại, với vợ chồng đệ là ông nội. Như vậy chúng ta là anh em rất gần, đúng không?
- Thưa huynh, sinh thời cha mẹ đệ cũng đã nói cho đệ rõ mối quan hệ này rồi. Chỉ có điều vì hoàn cảnh đất nước loạn lạc mà đến hôm nay anh em mình mới có dịp gặp nhau. Vợ chồng đệ mừng quá.
Nói xong, Trần Nguyên Hãn giục vợ đi nấu cơm mời Nguyễn Trãi, còn chàng ra giếng kéo nước cho Nguyễn Trãi rửa ráy chân tay, mặt mũi.
Khi Lê Thị Tuyển bê mâm cơm canh lên đặt trên chiếc chõng tre kê gian giữa nhà và lễ phép mời “Bác dùng bữa cơm dưa muối với vợ chồng em” thì Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn vừa uống xong một tuần trà. Gọi là cơm dưa muối nhưng vẫn có một đĩa thịt và một cút rượu. Thấy món ăn là lạ, Nguyễn Trãi hỏi, món gì đây? Trần Nguyên Hãn thưa, món thịt đấy ạ và chàng tranh thủ giới thiệu cho Nguyễn Trãi biết về món ăn sấy đặc biệt này. Chàng bảo, các loại thịt như cầy, cáo, chim, chuột bà con ở đây không ăn tươi mà thường đem sấy khô để dành. Trước khi treo lên gác bếp, người ta lấy nước dấp ướt hết lông con vật rồi vùi trong tro bếp nóng mươi phút, sau đem vặt lông. Lông được vặt sạch xong lại đem thui trên lửa. Thui xong mới mổ, moi bỏ hết lòng gan. Rửa sạch mình con thú bằng nước muối, để ráo, đoạn lấy cặp tre cặp lại. Phun thêm một lần rượu trắng, rồi đưa lên gác bếp. Do hằng ngày khói bếp bốc lên, ám vào thịt nên vi khuẩn không hủy hoại được. Trong khi đó, rượu ngấm dần vào thịt, tạo ra miếng thịt có mùi thơm chua. Miếng thịt dần khô quắt lại. Thịt sấy khô khoảng nửa tháng là ăn được và có thể để dành đến nửa năm. Khi muốn ăn, người ta lấy thịt khô xuống, ngâm trong nước ấm từ hai đến ba mươi phút, rồi rửa sạch, thái mỏng là nấu được ngay. Thường bà con ướp thịt sấy khô với mấy lát khế chua, cà chua, bi chuối, hành hẹ, mẻ, mắm, muối khoảng mươi phút. Sau đó, phi hành mỡ, đoạn cho thịt đã ướp vào xào chín, múc ra đĩa. Chỉ cần một chén rượu nếp nhâm nhi với thịt sấy khô xào, người thưởng thức say mềm lúc nào cũng không biết.
Trần Nguyên Hãn gắp một miếng thịt sấy đặt vào bát Nguyễn Trãi, mời:
- Mời huynh nếm thử xem nhà đệ nấu có ngon không?
- Chà, chà! Ngon quá! Ngon quá! Nếu cứ ở Đông Quan làm sao huynh được thưởng thức miếng ngon như thế này.
Sau mấy ngụm rượu, sắc mặt Nguyễn Trãi hơi hồng lên. Cái mệt mỏi sau mấy ngày đi đường đã nhường lại cho ánh mắt sáng và sự linh lợi thường thấy ở con người từng trải. Muốn để Trần Nguyên Hãn hiểu thêm về dòng dõi bên nội của mình, Nguyên Trãi vừa “nâng lên, đặt xuống”, vừa nói:
- Chắc đệ chưa biết, quê nội huynh ở làng Nhị Khê, dưới Hà Đông. Ông nội huynh là cụ Nguyễn Minh Du. Cụ có ba người con. Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư đều là võ quan dưới triều Trần Phế Đế, sau đều được Hồ Quý Ly trọng dụng. Riêng cha huynh là Nguyễn Ứng Long, mặc dù ông rất thông minh, ham học, nổi tiếng hay chữ, thi đỗ nhị giáp tiến sĩ nhưng vẫn không được nhà Trần tuyển dụng. Ông phải trở về quê dạy học chỉ vì nhà vua Trần Nghệ Tông cho rằng, là kẻ thứ dân mà ông dám lấy vợ giàu sang, làm vậy là phạm thượng. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, cha huynh phải đổi tên là Nguyễn Phi Khanh mới được ra phục vụ triều đình nhà Hồ. Người được giao giữ chức Hàn lâm học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám.
- Hồi còn nhỏ, đệ có nghe cha đệ nói, ông cụ bị bắt sang Trung Quốc, phải không huynh?
- Đúng vậy! Năm một ngàn bốn trăm linh bảy (1407) Minh Thành Tổ phái tướng Trương Phụ đem quân sang xâm chiếm nước ta. Nhà Hồ có kháng chiến  nhưng vì không được nhân dân ủng hộ nên bị thất bại. Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc, trong số đó có cha huynh. Khi cha bị giải sang Trung Quốc, thực lòng huynh muốn đi theo cha để hầu hạ người nhưng lên tới ải Nam Quan, cha huynh không đồng ý. Người nói với huynh: “Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Đâu cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là có hiếu hay sao?”
Trần Nguyên Hãn lại hỏi:
- Dưới triều nhà Hồ, huynh có tham gia làm gì không?
Nguyễn Trãi tiếp tục tâm sự:
- Có đấy! Năm một ngàn bốn trăm (1400).
- Ngày ấy đệ mới lên mười - Trần Nguyên Hãn nhẩm tính.
- Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế. Nhà Trần bị lật đổ. Nhà Hồ được thành lập. Cùng năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, huynh tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư, được nhà vua trao cho chức Ngự sử đài chính đường. Năm ấy huynh hai mươi tuổi - Nguyễn Trãi tợp thêm một ngụm rượu rồi lại kể tiếp - Biết huynh từ Aỉ Nam Quan trở về, tướng Trương Phụ muốn dụ dỗ huynh ra làm quan cho chúng nhưng huynh đã từ chối. Trương Phụ tức giận, hắn muốn giết huynh… Có lẽ vì tiếc huynh là người mà chúng cho là có tài nên nhờ có Thượng thư Hoàng Phúc tha cho và đem giam lỏng huynh ở Đông Quan. Vì giận quân Minh thâm độc, trong lòng huynh chỉ muốn tìm một vị chân chúa để thờ mà chưa biết tìm nơi đâu? Không thể ngồi chờ, cuối cùng huynh đã trốn đi. Một đêm huynh nằm ngủ ở đền Trấn Vũ để cầu mộng và đã được Thần báo cho biết: Ở Thanh Hóa có Lê Lợi là một hào trưởng, ông vốn là người có chí lớn và khảng khái tới cái mức chính quyền nhà Minh phải vời ông ra làm quan nhưng ông quyết không theo. Lê Lợi bảo: “Làm trai ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người”. Hiện ông đang cư ngụ ở núi rừng Lam Sơn để tập hợp các hào kiệt khắp nơi về. Mừng quá, huynh liền rời Đông Quan, lặn lội lên đây tìm đệ, nếu đệ là người có chí, hai chúng ta cùng vào Lam Sơn tụ nghĩa.
Không giấu nổi niềm vui đang dâng lên tràn ngập trong lòng, Trần Nguyên Hãn cũng hào hứng kể cho Nguyễn Trãi biết từ chuyện chàng nghe dân gian đồn đại, ca ngợi về Lê Lợi đến chuyện chàng nằm cầu mộng ở đền Bạch Hạc cũng được Thần báo mộng về ông như thế nào. Hai anh em chàng cả cười và cùng cho rằng, cơ hội đã đến, phải nhanh chóng lên đường. Nghĩ là Hãn còn băn khoăn về việc tại sao mình biết Hãn ở đây mà đến rủ cùng đi nên Nguyễn Trãi nói thêm:
- Đệ chưa biết đâu, lên 6 tuổi huynh đã phải mồ côi mẹ. Thương cha vất vả, huynh về sống với ông ngoại. Ông của chúng mình là người tính tình điềm đạm, khảng khái. Vì là người có công trong việc chống giặc Chiêm thành dưới thời Trần Nghệ Tông nên được nhà vua giao cho chức Tư đồ, quyền hành ngang với Tể tướng. Tuy nhiên, khi ông lên nắm quyền, cơ nghiệp nhà Trần lúc bấy giờ đã suy vi. Buồn chán vì thời thế, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương. Năm một ngàn ba trăm chín mươi (1390) quan Tư đồ mất, huynh lại phải theo cha về sống ở làng Nhị Khê. Mấy năm tháng được sống bên ông ngoại, huynh được ông chỉ giáo nhiều điều, trong đó có việc cha mẹ đệ đã vì sự tồn vong của dòng dõi nhà Trần mà bỏ trốn lên tận đây sinh sống. Thông qua các nguồn tin, huynh biết mình còn có một đứa em, con ông cậu, là đệ, cũng đang chờ thời, nên huynh mới không quản đường sá xa xôi, nguy hiểm tìm về đây để hai ta cùng đi gặp Lê Lợi.
Không còn gì để phải nghi ngại nữa, Trần Nguyên Hãn nói với Nguyễn Trãi, ở Đa Cai này chàng đã chiêu mộ được một số trai đinh, ngày đêm  mọi người vẫn cùng nhau luyện tập võ nghệ, chuyến đi này có nên báo họ đi cùng? Nguyễn Trãi bảo chưa nên và khẳng định:
- Chỉ huynh và đệ thôi. Nếu thuận lợi, chúng ta sẽ đón họ vào sau cũng chưa muộn.
Để bảo đảm bí mật, an toàn cho chuyến đi, Nguyễn Trãi bảo Trần Nguyên Hãn không báo cho bất cứ người thân nào biết, trừ vợ con chàng. Trần Nguyên Hãn không ngờ sau mười năm mài gươm, đọc binh thư và luyện tập võ nghệ chờ thời đến lúc ra đi lại đi nhanh chóng thế này. Vợ chàng, từ khi lấy chàng vẫn nghĩ sẽ đến một ngày nào đó vợ chồng phải xa nhau, vậy mà nàng cũng không tưởng tượng được ngày chàng lên đường lại đột ngột đến thế. Nàng bế con đặt vào lòng chồng, nhắc Trần Nguyên Hãn nhớ lấy tý nước bọt bôi vào lòng bàn tay Trần Trung Khoản để khi xa cha con đỡ nhớ, đỡ quấy khóc. Chàng làm theo ý muốn của nàng, rồi dặn:
- Nàng ở nhà thay ta nuôi con, thay ta hương khói cho cha mẹ, tổ tiên, thay ta gửi lời chào nhạc phụ, nhạc mẫu và chăm sóc hai người chu đáo. Chưa biết khi nào ta mới về, nhưng chắc chắn ngày đó không phải là ngày một, ngày hai.
Lê Thị Tuyển xúc động, hai mắt nàng rơm rớm lệ:
- Em cầu mong chàng ra đi chân cứng đá mềm. Mẹ con em chờ tin chiến thắng của chàng.
Chứng kiến cuộc chia ly kẻ ở người đi tuy không có nhiều nước mắt nhưng cũng khiến Nguyễn Trãi động lòng trắc ẩn. Chàng ngậm ngùi thương xót và nghĩ, giá như không có giặc Minh xâm chiếm Đại Việt thì làm gì có những cảnh vợ xa chồng, cha xa con như thế này! Phải quét sạch bọn giặc thâm độc, tàn ác ra khỏi bờ cõi để đất nước đâu đâu người dân cũng được sống trong cảnh: Trên đồng cạn, dưới đồng sâu - Chồng cày, vợ cấy,  con trâu đi bừa… chứ không phải là chồng ra trận, còn vợ ở nhà trở thành những nàng vọng phu vò võ!
Đợi trời tối hẳn Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn mới ra khỏi làng. Đi được một quãng đường, bấy giờ Trần Nguyên Hãn quay đầu lại nhìn làng quê biết bao yêu dấu lần cuối. Vào giờ này thôn Đa Cai đang chìm dần vào bóng đêm. Trong những ngôi nhà bám bên dòng sông Lô mờ trắng đều đã nhóm bếp, thắp đèn. Ánh lửa sáng lập lòe như bao ánh mắt dõi theo bước chân Trần Nguyên Hãn. Bỗng chàng cúi thụp xuống, hai tay nâng thanh bảo kiếm gia truyền mẹ trao cho ngày nào lên ngang mặt và cúi đầu lễ bái biệt quê hương ba lần. Lễ xong, Trần Nguyên Hãn đứng vụt dậy, giục Nguyễn Trãi với một giọng nói quả quyết, mạnh mẽ:
- Thôi, chúng ta đi đi!
Đấy là một buổi tối năm một ngàn bốn trăm mười bảy (1417), Trần Nguyên Hãn mới hai mươi bảy tuổi, còn Nguyễn Trãi bước lên tuổi ba mươi bảy.

PHẦN THỨ HAI
Mười  năm chinh chiến 
12. Sau mấy ngày cuốc bộ, hai bàn chân Trần Nguyên Hãn hết phồng lên, mọng nước, vỡ ra, tẹt đi, rồi lại phồng lên, vỡ ra, tẹt đi. Đau và rát tưởng chừng không bước nổi nữa. Những lúc như thế, đúng là chàng phải “ đi bằng cái đầu”. Nghị lực và ý chí đã giúp Hãn vượt qua tất cả. Mọi khó khăn, vất vả rồi cũng quen dần, vượt qua dần. Ngày đi, đêm nghỉ, hai anh em Trần Nguyên Hãn đã gần đến đất Lam Sơn. Điều đó khiến hai người càng phấn khích, hăm hở đi không muốn dừng chân.
Trần Nguyên Hãn xốc lại tay nải, mải miết bước theo Nguyễn Trãi. Đang đi, Nguyễn Trãi dừng lại, vẻ nghe ngóng. Phía trước mặt hai người, sau lũy tre làng có mấy cột khói đang cuồn cuộn bốc cao. Từ nơi ấy rất nhiều tiếng nổ “ đùng, đoàng” rộ lên liên tiếp. Không cần hỏi Trần Nguyên Hãn cũng biết, bọn giặc Minh đang đốt nhà, cướp của của nhân dân. Dọc đường vào Lam Sơn, Trần Nguyên Hãn không còn nhớ đây là lần thứ mấy phải chứng kiến cảnh tượng này? Một lúc sau, một tốp lính đông có tới vài chục thằng, đứa cầm gươm, đứa cầm giáo, lùa một đàn trâu bò lốc nhốc chạy ra đường. Trần Nguyên Hãn trừng mắt nhìn, tay nắm chặt đốc gươm thần, cằm bạnh ra đầy vẻ căm giận. Hiểu ý Hãn, Nguyễn Trãi khuyên:
- Chưa làm gì được chúng nó đâu đệ ạ. Đừng vì việc nhỏ mà để lỡ việc lớn.
- Thực tình đệ cứ tưởng phải ở gần nơi hang ổ, ỷ thế đông quân bọn giặc mới dám hoành hành thế, thật không ngờ.
- Không có gì là không ngờ cả. Bất cứ nơi nào hễ có bóng giặc Minh là dân mình sống không được yên và chả gia đình nào là có hạnh phúc hết. Chúng ta nên rẽ vào con đường đồi này mà đi cho an toàn.
Đi được một đoạn, gác lại điều tai nghe mất thấy vừa rồi sang một bên, Nguyễn Trãi nói:
- Chở thuyền là nước mà lật thuyền cũng lại là nước. Dân mình như nước ấy. Giặc Minh đang gieo mầm ác vào dân. Nhất định chúng nó sẽ bị nhân dân đánh đổ. Đệ có tin như vậy không?
- Đệ tin chứ. Nhưng vấn đề là phải có người cầm lái.
Vẫn theo mạch suy nghĩ của mình, Nguyễn Trãi nói:
- Tội ác của giặc Minh đúng là độc ác đến trúc Nam sơn cũng không ghi hết tội và dơ bẩn đến nước đông hải không rửa sạch mùi. Nhưng như ông bà ta dạy: Vỏ quýt dày, có móng tay nhọn. Nhân dân mình thông minh lắm. Họ nghĩ ra trăm nghìn cách đánh giặc. Để huynh kể đệ nghe câu chuyện này nhé.
Trần Nguyên Hãn hào hứng, khích lệ:
- Chuyện gì? Huynh kể đi.
- Chuyện này tạm đặt tên là Người ả đào với giặc Minh. Nàng là người làng Đào ở Hưng Yên. Làng này nổi tiếng có nhiều con gái đẹp và hát hay. Vì hầu hết các nàng con gái của làng đều làm nghề ả đào nên mới gọi là làng Đào chăng? Sau mấy năm hành binh, giặc Minh cho đặt đồn, đóng quân khắp nơi. Cùng một cảnh ngộ với nhiều vùng quê khác, làng Đào cũng có một đồn lớn. Đồn được xây rất kiên cố, bên một con ngòi. Đây là một vùng đầm lầy, có rất nhiều muỗi, mà quân Minh lại rất sợ muỗi. Để chống muỗi đốt, chúng bắt dân nộp vải cho chúng may trang bị cho mỗi đứa một cái túi kín, miệng có dây rút. Hễ tối đến, đứa nào đứa nấy đều chui vào cái túi của mình. Bọn chúng chỉ để lại một đứa ở ngoài vừa làm nhiệm vụ canh gác, vừa thắt dây túi khi chúng ngủ, cởi dây túi khi chúng trở dậy.
Giặc Minh đi đến đâu thì chó, gà vắng đến đấy. Của tha hồ chúng cướp, người chúng tha hồ giết. Đàn bà, con gái chúng bắt vào đồn làm hầu hạ, làm đồ chơi. Ở làng Đào, giặc Minh bắt được một ả đào. Nàng là một cô gái có nhan sắc rất đẹp, lại hát hay, múa khéo nổi tiếng một vùng. Giặc Minh rất thích, chúng thường bắt nàng hát múa để làm vui. Do khéo chiều chuộng nên dần dần nàng đã chiếm được lòng tin của giặc. Chúng giao cho nàng công việc thắt và mở miệng túi chống muỗi.
Vì giặc Minh chiếm đóng nên trai làng Đào đều bỏ trốn đi nơi khác. Làng chỉ còn lại mấy trai đinh, nàng ả đào liền bàn với họ mưu kế giết giặc. Theo cách của nàng, nhân lúc bọn giặc ngủ say như chết trong các túi, họ lọt vào đồn, rồi khiêng túi ném xuống ngòi. Giặc chết, trôi ra sông Cái và mất tích! Theo cách đó, đêm nào mấy trai đinh làng Đào cũng giết được một số giặc. Quân số của giặc đóng ở làng Đào cứ thế mà hao mòn dần nhưng chúng cũng không hay biết gì hết.
Một thời gian sau, mấy tên chỉ huy thấy quân số trong đồn có vẻ hao hụt, chúng nó liền cho đắp bên cạnh đồn một cái “đấu” để “đong” lính. Khi “đong” chúng mới phát hiện được quân lính ngày một vợi dần. Ngờ là có quỷ thần ám hại, bọn chúng sợ hãi, lệnh dời đồn đến một nơi khác. Nhờ thế mà dân làng Đào mới thoát được nạn.
Trần Nguyên Hãn bình luận:
- Xem vậy giặc Minh chỉ được cái đông quân, tàn bạo nhưng quá dốt nát, phải không huynh?
- Đúng thế! Và đấy cũng là những nguyên nhân dẫn đến kết cục sớm muộn gì bọn chúng cũng bị thất bại. Hơn mười năm bị giam lỏng ở Đông Quan huynh đã ngộ ra điều này.
Trần Nguyên Hãn hỏi:
- Trong thời gian huynh ở Đông Quan đã nổ ra mấy cuộc khởi nghĩa của tôn thất nhà Trần làm chấn động cả nước, huynh có biết tin không?
- Biết chứ! Nhưng huynh không theo, bởi huynh nghĩ, khởi binh là một việc lớn. Mà mưu làm việc lớn thì phải biết lấy dân làm gốc. Muốn thành công  phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Cả hai lẽ ấy huynh không tìm thấy trong các cuộc khởi binh. Ngay như cuộc khởi binh của Giản Định Vương Ngỗi, con thứ của vua Trần Nghệ Tông cũng thế, dẫu có danh tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân giúp sức và đã có lúc lấy được Nghệ An, Thuận Hóa nhưng vì người cầm đầu thiếu chính sách đúng đắn, nội bộ chia rẽ, mục đích thì muốn khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần là một việc mà lòng dân không mong. Do vậy nghiệp lớn mới không thành.
Nghe Nguyễn Trãi vừa đi vừa nói chuyện, Trần Nguyên Hãn càng hiểu thêm về người anh con bà bá, chị gái của cha mình. Nguyễn quả là người thông tỏ nhiều điều. Mới sống gần bên Nguyễn Trãi mấy ngày mà chàng đã tâm phục, khẩu phục. Trần Nguyên Hãn không giấu nỗi niềm băn khoăn:
- Huynh nói phải lắm. Chính vì thế mà đệ rất lo. Không biết hào trưởng Lê Lợi có đúng là người có chí lớn như ta hằng mong?
- Phải mục sở thị  mới biết đệ ạ. Nhưng nghe tin đồn và suy xét những việc Lê Lợi đã làm thì chúng ta tin tưởng được - Muốn cho Trần Nguyên Hãn hiểu thêm về người mà mình đầu quân, tôn thờ làm minh chủ, Nguyễn Trãi kể tiếp - Có lẽ đệ chưa biết Lê Lợi vốn là một hào trưởng đang có uy tín, có ảnh hưởng lớn ở vùng Lam Sơn. Ông tổ ba đời của Lê Lợi là Lê Hối, người đã tổ chức khẩn hoang, lập nên trang trại ở vùng này. Bà con địa phương quen gọi Lê Lợi là Đạo Chăm và ca ngợi rằng, tuy gặp thời loạn lớn mà chí ông càng bền. Ông ẩn trong núi rừng, chăm nghề cày cấy. Vì giận quân giặc tàn bạo nên ông càng chuyên tâm về sách thao lược, dốc hết nhà cửa, hậu đãi tân khách. Biết cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng sẽ không thành, Lê Lợi không theo. Không lộ tiếng tăm, ẩn kín hình tích, bấy lâu nay Lê Lợi bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa mới. Người đã dùng trang trại Lam Sơn và toàn bộ tài sản của mình để lo toan việc lớn.
Theo như huynh biết, đầu năm một ngàn bốn trăm mười sáu (1416) tại Lũng Nhai, cách Lam Sơn không xa, hào trưởng Lê Lợi đã cùng một số thân hào, nhân sĩ làm lễ cáo trời đất, kết nghĩa anh em, thề sống chết có nhau, vinh nhục cùng hưởng, đặng mà cùng nhau tự giác đảm nhận trách nhiệm gánh vác xã hội, bảo an giềng xóm, cứu rỗi giống nòi, giành lại giang sơn. Người người đồng chí hướng, hừng hực ý chí đồng tâm cứu nước. Tại lễ thề thiêng liêng đó, họ đã chích máu ăn thề với nhau. Trong lời thề có đoạn: “Nay ở trong nước, chúng tôi là phụ đạo Lê Lợi đứng đấu cùng với bọn Lê Lai đến Chương Chiến, 18 người, họ hàng, quê quán tuy khác nhau, kết nghĩa thân nhau như cùng một tổ liền cành. Phận giàu sang dù có khác nhau nhưng nguyện coi tình như chung một họ không khác. Nay giặc Minh xâm chiếm, lùng nhà Trần, bắt họ Hồ, qua cửa quan mà làm hại, nên Lê Lợi cùng với bọn Lê Lai đến Chương Chiến, 18 người, chung sức đồng lòng, giữ gìn đất nước để trăm cõi được sống yên lành, nguyện sống chết có nhau không quên lời thề sắt son này”… Xem thế đủ biết Lê Lợi là người có chí lớn lắm, phải không đệ?
Vốn bản tính thận trọng, Trần Nguyên Hãn đề xuất:
- Dù sao trước khi ra mắt mình cũng phải thăm dò xem con người Lê Lợi thực, hư ra sao huynh ạ. Trước mắt, chúng ta nên giả làm người nông phu đến xin làm việc cấy cày cho Lê Lợi. Sau đó tùy cơ mà quyết định theo hay không theo. Theo ý đệ từ nay huynh mang tên là Trần Văn, còn đệ là Trần Võ. Huynh thấy thế nào?
- Ý đệ hay lắm. Huynh nhất trí. Nào, ta nhanh chân lên kẻo trời sắp tối rồi.
Đi hết quãng đường đồi với những dốc cao lại xuyên qua con đường mòn luồn lách trong rừng với những suối sâu hai anh em Trần Nguyên Hãn mới tới cửa rừng phía Nam. Phía trước cửa rừng là cánh đồng bậc thang nhỏ hẹp. Cuối cánh đồng có một làng nhỏ. Đêm bắt đầu buông xuống. Trong làng nhấp nháy mấy đốm lửa. Chắc giờ này bà con đang thổi cơm tối? Trần Nguyên Hãn bỗng nao nao nhớ nhà. Vào lúc gà lên chuồng này, vợ con chàng ở Đa Cai đang làm gì nhỉ? Vắng chàng, Lê Thị Tuyển xoay xỏa ra sao? Nhìn nét mặt Hãn bần thần, Nguyễn Trãi bảo: “Chúng ta cố đi đến cái làng trước mặt kia rồi nghỉ nhờ qua đêm. Sáng mai lại đi tiếp”.
Phần trời chạng vạng tối, phần đứng từ xa nhìn về thành ra cả Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi đều nhầm nơi có ánh lửa ấy là làng. Đến gần hai anh em mới biết đó là đồn đóng quân của giặc Minh! Trần Nguyên Hãn vẫy tay ra hiệu cho Nguyễn Trãi nhanh chóng quay lại, tìm lối khác. Nhưng đã muộn! Mấy con chó săn đã phát hiện được chàng, chúng sủa đổ xô lên. Hai anh em Trần Nguyên Hãn cắm đầu, cắm cổ chạy bán sống, bán chết. Phía sau hai người, giặc Minh hô hoán, thổi tù và, thúc giục đàn chó đuổi theo. Nếu cứ chạy mãi cũng sẽ không thoát khỏi sự săn đuổi của bọn giặc và mấy con chó săn, Trần Nguyên Hãn liền nghĩ ra một kế, chàng gọi, bảo Nguyễn Trãi: “Huynh ơi! Trèo lên cây đề trước cửa chùa kia kìa!” Trong bóng đêm, Hãn trước, Trãi sau, hai anh em nhanh thoăn thoắt trèo lên cây đề để ẩn náu. Khi đã yên vị trên cây um tùm cành lá rườm rà, không rõ trời xui đất khiến thế nào, Trần Nguyên Hãn chợt nhớ đến Thị Duy. Chàng liền chắp tay cầu khẩn: “Thị Duy ơi! Trước kia nàng gặp nạn ta đã cứu nàng. Nay ta đang gặp nạn, nếu có linh thiêng, nàng hãy cứu ta với!” Hãn vừa khấn dứt lời thì mấy con chó săn cũng chạy đổ xô đến dưới gốc cây đề. Chúng hậm hực đánh hơi và rú lên những âm thanh hung dữ. Đúng lúc đó, lời cầu khẩn của Trần Nguyên Hãn đã linh ứng: Thị Duy biến thành một con cáo trắng. Nàng vụt hiện ra trước bầy chó, rồi chạy đi. Thế là mấy con chó săn ùa theo đuổi bắt. Tốp quân Minh tưởng là chó sủa vì con cáo nên bỏ đi.
    Chưa rõ nguyên nhân tại sao lại bất ngờ thoát nạn, Nguyễn Trãi vẫn quá mừng, nhưng nghe Trần Nguyên Hãn kể lại chuyện chàng vớt và chôn nàng Thị Duy bên bờ sông Lô mấy năm trước đây, Nguyễn Trãi thở phào, nói:
- Thì ra ông bà mình bảo: Có phúc khắc có phần là hoàn toàn đúng đấy đệ ạ. Nhờ có linh hồn người con gái ấy cứu giúp. Nếu không, không biết sự thể sẽ ra sao?
13.
Lúc bấy giờ, theo tên nôm thì Lam Sơn gọi là làng Chăm, là một hương thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Đây là một vùng đồi núi thấp, nằm xen giữa những dải rừng thưa và những cánh đồng nhỏ hẹp. Phía Bắc Lam Sơn dựa vào núi Dần; phía Nam nhìn ra sông Chu - nơi có núi Chúa làm tiền án, bên tả là núi Hổ, bên hữu là núi Rồng. Nhiều thầy địa lý bảo đó là thế đất xoáy ốc, có long chầu, hổ phục. Tay hữu là Hồ Thủy; tay tả là Long Sơn, núi sông liên kết nhìn như chuỗi hạt châu phát ngôi Thiên tử. Riêng hào trưởng Lê Lợi lại nhận ra đây là vùng “ đất lành chim đậu”. Tại đây sẽ là nơi hội tụ của nhiều anh hùng hào kiệt, đích thân hào trưởng sẽ đứng ra chiêu tập quân sĩ khắp bốn phương về dựng cờ khởi nghĩa.
Sau hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi xưng là Bình Định vương, kêu gọi dân Đại Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh, đồng thời công việc chuẩn bị khởi nghĩa được nghĩa quân tiến hành khẩn trương, thuận lợi. Lam Sơn thực sự trở thành nơi tụ nghĩa của không những nhiều anh hùng hào kiệt mà còn của những người yêu nước từ khắp nơi tìm về cùng mưu đồ sự nghiệp cứu nước. Tất cả những con người ấy, mặc dù khác nhau về thành phần xã hội và dân tộc; về quê quán và cuộc sống nhưng ai ai cũng đều cùng một mối thù không đội trời chung với giặc Minh.
Hai anh em Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang ở Lam Sơn gặp Lê Lợi đúng lúc người đang dùng bữa trưa. Đứng từ xa Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn cùng được chứng kiến cảnh Lê Lợi lấy cả hai bàn tay để xé thịt, đoạn đưa ngay lên mồm nhai ngồm ngoàm. Nuốt xong, người lại bê cả bát rượu uống ngon lành như người ta uống nước. Trần Nguyên Hãn thấy vậy liền bấm vào tay Nguyễn Trãi, ra hiệu quay về.
Dọc đường ra, Trần Nguyên Hãn lắc đầu, nói nhỏ chỉ đủ cho Nguyễn Trãi nghe được:
- Thú thật là đệ thất vọng quá! Sao ông ta lại là người thô lỗ thế? Trần đời đệ chưa thấy ai vừa xé thịt, vừa nốc rượu như thế bao giờ.
Nguyễn Trãi giải thích:
- Không có gì là khó hiểu cả. Đệ quên rằng Lê Lợi xuất thân từ nông dân sao? Những người anh hùng áo vải thường có những khuyết tật vậy. Mới nhìn thoáng qua, đệ thấy ông ta là người thế nào?
- Về tướng mạo, đệ công nhận là đúng như dân gian mô tả. Nhưng có điểm này đệ chỉ nói riêng với huynh thôi đấy nhé, mong huynh sống để dạ chết mang theo.
- Đệ yên tâm. Đó là điều gì vậy?
- Đệ thấy Lê Lợi có tướng hao hao như Việt vương Câu Tiễn. Câu Tiễn là người thế nào, đọc sách hẳn huynh biết rồi chứ?
 Nguyễn Trãi gật gật đầu tỏ ra mình có biết. Nhờ đọc sách mà Nguyễn Trãi biết Việt vương Câu Tiễn là vua nước Việt từ thời Xuân Thu bên Trung Hoa, ông là người nhẫn nhục giỏi và có tài trị quốc nhưng vì quá đa nghi nên đã sát hại nhiều trung thần, kết cục là làm tổn hại đến đất nước sau này. Tại sao Trần Nguyên Hãn lại có nhận xét vội vàng về Lê Lợi như vậy nhỉ?
Nguyễn Trãi chưa kịp hỏi, Trần Nguyễn Hãn mạnh dạn nói tiếp:
- Chính Phạm Lãi cho rằng, loại người có cổ dài, miệng diều hâu thì chỉ có thể chung hoạn nạn chứ không thể cùng hưởng yên vui.
- Đệ cũng biết xem tướng sao?
- Đấy là Phạm Lãi, một trung thần của Câu Tiễn nói.
- Theo huynh, đệ chớ vội tin vào những điều chưa có căn cứ. Ngày mai chúng ta lại xin gặp Lê Lợi lần nữa.
- Là đệ nghĩ sao nói vậy chứ vì nghĩa lớn mà cất công lặn lội vào đến tận đây đâu có dễ dàng bỏ về được.
Nghe theo lời khuyên của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn quyết định “ra mắt” Lê Lợi lần thứ hai. Vì không biết lai lịch và tài nghệ của hai người, Bình Định vương tạm giao cho chàng Trần Văn - người có vóc dáng thư sinh, nho nhã giữ “chân” Ký lục quân lương, còn chàng Trần Võ cao to, khỏe mạnh giữ “chân” chèo thuyền. Với mục đích được sống gần để thăm dò Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi đều vui vẻ nhận công việc mà Lê Lợi phân công.
Thấm thoắt hai anh em Trần Nguyên Hãn vào Lỗi Giang đã được một tuần trăng. Gần ba mươi ngày qua, Trần Nguyên Hãn nhận thấy Bình Định vương là người có tài điều khiển công việc và có tấm lòng độ lượng, bao dung với tất cả mọi người. Tính tình Lê Lợi lại trầm ngâm, kín đáo. Người thường mua dầu nhiều hơn mua rượu và đêm đêm rất hay vắng nhà, không biết là đi đâu. Chỉ biết vậy thôi chứ không thấy Lê Lợi động tĩnh gì! Nguyễn Trãi cũng đồng ý với nhận xét ấy của Hãn. Hãn bàn thêm với Nguyễn Trãi:
- Đệ chưa đến nỗi thất vọng về con người mà huynh và đệ gửi chí nhưng không vì thế mà mình cứ sống mãi trong tâm trạng nửa tin, nửa ngờ về việc dựng cờ, phục quốc của Lê Lợi. Theo ý đệ, ngay đêm nay chúng ta phải quyết dò xem thực, hư về con người Lê Lợi ra sao.
Một lần nữa, Nguyễn Trãi lại nhất trí với cái cách mà Trần Nguyên Hãn đề xuất, tuy biết rằng, nếu bị lộ sẽ rất nguy hiểm cho cả hai anh em.
Trời vừa tối, Lê Lợi lại đóng cửa, ra đi. Không dám bám theo, Trần Nguyễn Hãn và Nguyễn Trãi bảo nhau lặng lẽ vào rừng. Hai người lặng lẽ trèo lên một cây cao, vạch lá, nhìn khắp bốn phương, tám hướng. Trong đêm tối mịt mùng, Trần Nguyên Hãn nhận ra từ phía hang đá trong núi, cách trang trại của nghĩa quân không xa, lập lòe có ánh lửa. Hẳn là Lê Lợi đang họp hội kín với những thân tín ở nơi ấy? Phán đoán vậy, Trần Nguyên Hãn nói với Nguyễn Trãi, phải bí mật đến tận nơi xem sao.
Hai anh em Nguyễn Trãi dừng lại trước cửa hang, nín thở nhìn vào. Trong vầng sáng nhạt nhòa của mấy ngọn nến, Lê Lợi cùng mấy người nữa đang ngồi quây quần bên một tảng đá được kê chông chênh như một chiếc bàn. Trên chiếc bàn đá ấy bày biện mấy chồng sách. Vì đã từng nghiền ngẫm nên cả Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đều nhận ra, đó là sách Binh thư yếu lược. A! Thì ra Lê Lợi cũng đọc binh thư! Sung sướng và hồi hộp, hai anh em Nguyễn Trãi suýt nữa thì cùng reo lên vì đã gặp người cùng chí hướng. Nguyễn Trãi nói nhỏ với Trần Nguyên Hãn:
- Đệ đứng đây đợi để huynh vào trước đã.
Vừa xuất hiện trước Lê Lợi và những cộng sự của người, Nguyễn Trãi hạ mình cúi xuống, giọng vẫn chưa hết xúc động, nói:
- Thưa Bình Định vương! Từ nhiều năm nay tôi nuôi chí đi tìm minh chủ để bàn kế cứu dân, cứu nước. Vậy mà đến hôm nay mới được gặp.
Sự xuất hiện quá bất ngờ, quá đột ngột của Nguyễn Trãi khiến Lê Lợi giật mình. Ông vội tuốt gươm ra, xăm xăm đi tới bên người chưa quen mặt. Nguyễn Trãi bình tĩnh nói:
- Thưa Bình Định vương! Tôi đến đây chịu giữ chân ký lục quân lương chẳng qua cũng chỉ vì công việc phục quốc của Bình Định vương. Vậy ngài định giết tôi sao?
Chợt nhận ra người này là Trần Văn, Lê Lợi liền tra gươm vào bao, mời Nguyễn Trãi ngồi và hỏi chuyện. Được biết đây là danh sĩ Nguyễn Trãi, con trai của Trung thư thị lang, Hàn lâm viện học sĩ Nguyễn Phi Khanh, Lê Lợi không giấu nổi nỗi mừng, người giang tay ôm Nguyễn Trãi và nói lớn: “ Trời ơi! Đúng là Trời đã đem đến cho ta một lương phụ thật rồi!” Rồi Lê Lợi quay lại giới thiệu với Nguyễn Trãi những Lê Lai, Lê Sát, Phạm Văn Xảo, Lý Triện… toàn những người mà Nguyễn Trãi đã từng nghe quý danh đến bây giờ mới biết mặt. Giây phút làm quen nhanh chóng qua đi, Nguyễn Trãi rút từ trong tay áo ra một tập sách, dâng lên trước mặt Lê Lợi:
- Thưa Bình Định vương! Sau nhiều năm đọc binh thư và phần nào thấu hiểu lòng dân, lại xem xét được địch tình nên tôi đã làm ra sách Bình Ngô này. Thiển nghĩ, đây có thể coi là kế sách lớn nhằm đánh thắng giặc Minh, những mong sẽ có ngày được dùng đến. Nay xin dâng để Bình Định vương xem xét - Lê Lợi đưa hai tay trân trọng đón sách. Trao Bình Ngô sách cho Lê Lợi xong, Nguyễn Trãi nói - Nghe nói chúa công chiêu hiền đãi sĩ, kêu gọi dân Đại Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược Minh để cứu nước nên tìm về đầu quân, cùng với tôi còn có Trần Nguyên Hãn...
Lê Lợi vội hỏi:
- Có phải chàng Trần Võ, chở thuyền đó không?
- Thưa Bình Định vương! Đó chính là Trần Nguyên Hãn, dòng dõi tôn thất nhà Trần, cháu nội Đại tư đồ Trần Nguyên Đán, miêu duệ của Thái sư Trần Quang Khải.
Sắc mặt Lê Lợi sáng bừng lên rạng rỡ. Người vui vẻ như bắt được vàng:
- Trời ơi! Trời đã cho ta một quân sư, Trời lại cho ta thêm một danh tướng. Có người hiền tài giúp sức thế này thì việc lớn ắt mau thành. Đây là con cháu của những tên tuổi từng làm rạng rỡ non sông ta nghe nói đã lâu, vậy sao bây giờ quân sư mới cho ta biết? Thế Trần Nguyên Hãn đâu?
Không đợi Nguyễn Trãi gọi vào, mới nghe Lê Lợi hỏi thế Trần Nguyên Hãn đã có mặt. Nghe được hết câu chuyện giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi, không còn nghi ngờ gì nữa, cũng không cần nói thêm gì nữa và do đã dự tính từ trước, Trần Nguyên Hãn liền lấy gươm báu dâng lên ngang đầu, chàng quỳ xuống, nói:
- Thưa chúa công! Đây là thanh bảo kiếm gia truyền của cụ tổ bảy đời là Thái sư Trần Quang Khải. Cụ đã từng dùng nó để đánh đuổi giặc Nguyên Mông. Cha Hãn quý thanh kiếm hơn cả tính mạng của mình. Mẹ Hãn đã liều chết giữ gìn thanh kiếm, còn Hãn bí mật đem được kiếm về đây. Nay Hãn xin dâng lên chúa công.
Quá xúc động trước lòng tin của Trần Nguyên Hãn đối với mình, Lê Lợi nhận thanh bảo kiếm gia truyền của dòng tộc nhà Trần mà hai tay cứ run lên. Nhận xong, Lê Lợi mời Trần Nguyên Hãn ngồi cùng mọi người. Sau những nghi lễ, thủ tục làm quen giữa những hiền tài với nhau, theo lệnh Lê Lợi, rượu, thịt được đem ra. Bình định vương bảo, tối nay là một tối đại hỷ, phải ăn mừng, bởi từ nay có thêm Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn thì nghĩa quân sẽ mạnh lên gấp bội.
Rượu ngà ngà say, Bình Định vương dốc bầu tâm sự với những người thân tín:
- Các huynh, các đệ ơi! Ta biết cuộc khởi nghĩa này của chúng ta sẽ diễn ra trong một hoàn cảnh rất nhiều khó khăn. Trước ta, cũng đã có nhiều cuộc nổi dậy chống quân Minh, điển hình là hậu Trần. Nhưng đều bị dẹp một cách tàn khốc. Rồi đến thời nhà Hồ cũng vậy. Hồ Quý Ly thì bị bắt, nhiều tướng tài, người bị giết, người tử tiết. Nhiều người, từ những người lính theo quân khởi nghĩa đến những người dân thường đều bị tướng nhà Minh cho lính chặt đầu, mổ bụng lấy ruột cuốn vào cây hoặc đốt xác để khủng bố tinh thần người Đại Việt. Đồng thời, các tướng Trương Phụ, Hoàng Phúc đã thiết lập xong bộ máy cai trị và huy động được một lực lượng người Đại Việt giúp việc khá đắc lực. Trong khi đó, tinh thần phản kháng của người dân nước ta xem ra đã lắng xuống khá nhiều so với khi nhà Hồ mới mất. Tuy nhiên vẫn còn một số cuộc khởi nghĩa chống quân Minh nhưng lại chỉ hoạt động lẻ tẻ ở nơi này, nơi khác và không có khả năng mở rộng. Trong bối cảnh như thế, ta đứng lên làm khởi nghĩa tránh sao khỏi những khó khăn ban đầu, đúng không?
Đọc được những nỗi niềm lo lắng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi nâng chén lên, nhấp một ngụm rượu đoạn chậm rãi nói:
- Thưa Bình Định vương! Xin chúa công hãy yên lòng. Tuy anh em tôi không có mặt trong hội thề ở Lũng Nhai nhưng cũng xin được chúa công coi chúng tôi như một tổ liền cành, như chung một họ, nguyện sống chết có nhau, chung sức, đồng lòng, giữ gìn đất nước để trăm cõi được yên lành. Tôi dâng Bình Ngô sách lên chúa công cũng không ngoài mục đích duy nhất ấy. Đọc sách Bình Ngô của tôi, chắc hẳn chúa công sẽ đồng tình với tôi rằng, muốn nghĩa quân có sức mạnh thì chúng ta phải biết dựa vào dân, phải biết phát huy tinh thần yêu nước, phải biết đoàn kết toàn dân và phải biết phát động tinh thần quyết tâm đánh giặc của toàn dân. Đó là tư tưởng về đường lối chính trị, quân sự nhằm tổ chức một cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
Lê Lợi gật đầu khen:
- Hay lắm! Ta hiểu ra rồi. Nếu được lòng người thì sẽ được cả thiên hạ.
Nguyễn Trãi nói tiếp:
- Thưa, đúng vậy. Nếu sách lược của chúng ta đúng đắn lại được lòng người hướng theo thì chắc chắn trăm trận trăm thắng và đất nước tất sẽ hưng thịnh.
Mọi người có mặt đều công nhận những điều Nguyễn Trãi vừa nói coi như một kế sách quá hay và lại cùng nâng chén uống mừng. Từ đầu bữa rượu đến giờ Trần Nguyên Hãn vẫn chưa nói gì. Biết nói gì vào lúc này? Từ ngày cùng Nguyễn Trãi tìm vào nghĩa quân Lam Sơn, quả là chàng đã ngộ ra nhiều điều. Chàng biết thêm về thời cuộc, biết thêm về sách lược, biết thêm muốn thắng giặc đâu chỉ có võ. Thấy Trần Nguyên Hãn trầm ngâm, Lê Lợi thân mật vỗ vỗ vào vai chàng, khích lệ chàng bộc bạch chính kiến. Hãn đặt chén rượu xuống, nói:
- Thưa chúa công và các đại huynh. Những điều muốn nói, đại sư huynh Nguyễn Trãi của tôi đều đã nói cả rồi. Riêng tôi, mười năm mài gươm chờ thời đánh giặc để đền nợ nước, trả thù nhà nay đã tìm được minh chủ, nếu được tin dùng, Hãn tôi sẽ quên mọi riêng tư mà hết lòng vì nghiệp lớn.
Lê Lợi cả cười. Ông rút thanh bảo kiếm gia truyền mà Trần Nguyên Hãn mới dâng cho ra khỏi bao. Lưỡi gươm bắt ánh lửa lóe sáng. Lê Lợi giục người thắp hương. Trước ban thờ, Lê Lợi và các thân tín cùng quỳ xuống. Lê Lợi dâng thanh bảo kiếm lên ngang đầu, kính cẩn nói:
- Xin thề với trời đất: Ta hiểu, đây là thanh gươm mà các bậc tiền nhân có ý phó thác cho ta làm việc lớn. Chúng ta cùng nguyện đem xương da của mình và thanh gươm này để báo đền xã tắc!
14.
Từ lúc được Lê Lợi giao cho một ngàn quân và một số voi cùng với Thượng tướng Doãn Nỗ vào đánh chiếm trấn Tân Bình, Thuận Hóa, Trần Nguyên Hãn bồn chồn đứng ngồi không yên. Đây là lần đầu tiên được Lê Lợi tin tưởng giao Trần Nguyên Hãn đích thân cầm quân ra trận, làm sao chàng tránh khỏi hồi hộp, lo lắng?
Ngày mai lên đường rồi mà đêm nay Trần Nguyên Hãn vẫn không sao chợp được mắt. Trăng thượng tuần cong như một cái lưỡi liềm treo trên bầu trời đầy sao, lặng lẽ tỏa sáng. Qua ô cửa sổ bỏ ngỏ, Trần Nguyên Hãn ngắm trăng và nghĩ ngợi lan man.
Đã 6, 7 năm xa quê hương, đầu quân theo Lê Lợi đánh giặc, Trần Nguyên Hãn đã được Lê Lợi phong chức Tư Đồ. Đó là chức quan võ cao nhất của nghĩa quân Lam Sơn. Vậy nhưng chàng đã làm được những gì? Mặc dù chàng đã cùng nghĩa quân nằm gai, nếm mật, đồng cam cộng khổ để giành được vài thắng lợi ở Lạc Thủy, Mường Một, Mường Chánh nhưng vì lực lượng mỏng, lại bị quân Minh trấn áp quyết liệt nên Lê Lợi phải cho nghĩa quân rút về lập chiến khu mới ở vùng Chí Linh - là một ngọn núi cao, hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu. Tại Chí Linh, nghĩa quân vẫn tiếp tục gặp khó khăn cả về lương thực và lực lượng. Trần Nguyên Hãn còn nhớ như in, cuối tháng 4 năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, giữa lúc quân lương cạn kiệt lại bị quân Minh đuổi theo, vây chặt các lối hiểm yếu… Trong tình thế hết sức nguy cấp ấy, Lê Lợi họp các tướng lại hỏi: “ Nay thế trận của ta hiểm nguy, các tướng có kế gì hay để thoát hiểm không?” Chưa ai có kế sách gì thì chúa công lại hỏi tiếp:
- Thế liệu có tướng nào dám theo gương Kỷ Tín, thân khoác hoàng bào mà giúp thay ta không?
Hầu hết các tướng có mặt hôm ấy đều biết Kỷ Tín là tướng của Hán Cao tổ Lưu Bang bên Trung Hoa, gặp lúc Cao tổ Hạng Vũ vây đánh rất nguy cấp, Kỷ Tín bèn giả làm Hán Cao tổ để đánh lừa Hạng Vũ, nhờ thế mà Cao tổ mới thoát nạn. Tuy biết là biết vậy thôi chứ các tướng đều ngồi im, chưa ai dám thưa gửi gì. Vào lúc không khí đang căng như dây dàn bỗng Lê Lai đứng vụt dậy, thưa:
- Thần nay xin nguyện được thay chúa công. Ví như sau này  giành được giang sơn chỉ xin nghĩ đến công lao của thần, khiến con cháu muôn đời được nhờ quốc ân. Được vậy, thần chết cũng yên lòng nhắm mắt.
Lê Lai là một vị tướng tính tình cương trực, có chí khí. Ông là người gốc Mường, dung mạo khác thường, cùng quê với Lê Lợi. Trước khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lai đã theo hầu Lê Lợi, có nhiều công lao với Lê Lợi. Ông cùng các tướng lĩnh khác tham gia hội thề Lũng Nhai, cùng thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh xâm lược. Biết Lê Lai sẵn sàng chết thay mình, Lê Lợi cúi đầu, thoáng vẻ băn khoăn thương cảm. Thấy vậy, Lê Lai nói thêm:
- Thưa chúa công, đứng trước tình hình nguy khốn như thế này mà chúng ta cứ ngồi khư khư, quân thần chung mạng thì bao công sức đây hãy còn ích gì! Vậy nên theo kế này, may ra có thể thoát được, kẻ trung thần có phải chết vì nước nào có tiếc gì?
Quả thật không còn cách lựa chọn nào khác, Lê Lợi ngửa mặt lên trời mà khấn rằng:
- Thưa Hoàng thiên, Lê Lai có công đổi áo, sau này khôi phục được nghiệp xưa, nếu ta không nhớ đến công lao ấy, xin Hoàng thiên cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần này biến thành dao cùn.
Lê Lai vâng lệnh Lê Lợi đem năm trăm quân và hai voi, kéo quân ra trước trại quân Minh để khiêu chiến. Quân Minh đổ ra đánh. Lê Lai hô to: “Ta là chúa Lam Sơn đây” và thúc ngựa xông vào giữa trận. Ngỡ là Lê Lợi, quân Minh hò reo, xúm lại đánh kịch liệt. Lê Lai xung trận dũng mãnh, giết được nhiều giặc, rồi kiệt sức. Ông bị giặc Minh bắt sống, rồi đem hành hình, nhờ vậy mà Lê Lợi cùng các tướng sĩ mới chạy ra đường khác, trốn thoát.
Cái chết của trung thần Lê Lai khiến Trần Nguyên Hãn suy nghĩ rất nhiều. Càng khâm phục ý chí vì đại nghĩa của Lê Lai bao nhiêu chàng càng tâm nguyện dù khó khăn gian khổ đến mấy vẫn một lòng một dạ theo Lê Lợi đến cùng.
Giữa năm 1419, nhằm gây sức ép trực tiếp tới nghĩa quân Lam Sơn đang ở Chí Linh, quân Minh cho lập căn cứ ngay tại vùng Lam Sơn. Lê Lợi lại phải di chuyển căn cứ của nghĩa quân lên vùng Mường Khôi. Đây là vùng thượng lưu sông Mã và bằng mối quan hệ của mình, Bình Định vương phải xin viện trợ nào lương thực, nào voi, nào ngựa của các bộ tộc bên Lào. Nhưng rồi nghe theo lời gièm pha của kẻ xấu, các bộ tộc Lào không chỉ không giúp mà còn liên minh với quân Minh đánh lại nghĩa quân. Lê Lợi lại phải di dời đại bản doanh của mình về huyện Khôi. May thay đang lúc lương thực bị thiếu nghiêm trọng, nhiều lần nghĩa quân phải ăn rau củ và măng tre thay cơm, cũng có khi Lê Lợi phải cho giết cả voi chiến, cả ngựa chiến của mình để nuôi tướng sĩ, thế mà sức lực tướng sĩ đều kiệt quệ thì vì quân Minh phải giao chiến lớn với quân Mông Cổ ở phía Bắc, nhân đấy Lê Lợi xin hòa hoãn.
Bình Định vương cử hai người làm sứ giả đem năm cặp ngà voi làm lễ vật cùng với thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hòa. Hẳn là đọc được những lời lẽ mềm dẻo, khôn khéo trong thư nên Trần Trí, Tổng binh nhà Minh, chấp thuận ngay. Tận dụng thời gian hòa hoãn, Lê Lợi lệnh cho nghĩa quân tranh thủ đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực, chiêu mộ binh sĩ, đặc biệt là nghiên cứu tìm căn cứ chiến khu mới cho phù hợp với tình hình. Cũng trong thời gian này, để nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi đề xuất một diệu kế: Ông dùng nước cơm trộn với mật, hoặc mỡ, viết vào các lá trên cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần ( Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Nhưng có nhiều tướng lĩnh khác cho rằng viết vậy là coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước nên được đổi là: “Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần” ( Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi). Kiến ăn mật, ăn mỡ, khoét thành chữ trên mặt lá. Rồi lá rơi xuống, theo các dòng nước trôi về khắp các ngả như trời báo tin này xuống thế gian. Nhờ thế, tin Lam Sơn khởi nghĩa được truyền đi khắp các nơi, khiến cho tất cả mọi người đều tin tưởng vào sức mạnh và sự tất thắng của nghĩa quân.
Năm 1424, Tổng binh nhà Minh biết rằng không thể chiêu dụ được Lê Lợi đầu hàng, hắn ra lệnh bắt sứ giả của Lê Lợi, tuyên bố tuyệt giao với Lê Lợi. Từ đây cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bước vào giai đoạn mới. Đó là giai đoạn phát triển lực lượng và mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân. Thời gian đầu của giai đoạn mới này, trong một cuộc họp bàn với các tướng sĩ, nghe Lê Lợi thốt lên, hỏi: “Ta đi đâu làm nên việc nước?” Tướng Nguyễn Chích đứng lên hiến kế: “ Thưa chúa công. Tôi thấy Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay chúng ta hãy đánh trước lấy Trà Lân, sau chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực, tài lực của đất ấy mà đánh ra Đông Quan thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”.
 Nghe nói, từ nhỏ Nguyễn Chích đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ. Ông được cho là người hiền lành, ít nói, ít cười và rất trung thực. Trước khi nhận thư mời của Lê Lợi về cùng tham gia nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Chích từng nổi dậy chống quân Minh, tiến quân đánh chiếm núi Hoàng và núi Nghiêu, xây dựng khu vực này thành một căn cứ lớn với vách núi dựng đứng và sông Hoàng chảy qua là chiến hào tự nhiên, thuận lợi cho việc phòng thủ lẫn tiến công. Từ năm 1420, Nguyễn Chích đem toàn bộ lực lượng của mình gia nhập với Lê Lợi. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết đột hữu vệ, đồng Tổng đốc chủ quân. Sau khi quân Minh tuyên bố tuyệt giao, Nguyễn Chích nhận thấy rằng, nếu nghĩa quân chỉ quẩn quanh mãi ở mấy huyện vùng núi thuộc Thanh Hóa thì không thể phát triển được nên ông đã hiến kế trên với Lê Lợi.
Lê Lợi và các tướng lĩnh phân tích, cân nhắc trước kế sách của Nguyễn Chích, cuối cùng đều thống nhất: Lấy Nghệ An làm chỗ đứng chân là một diệu kế có tầm chiến lược với cái nhìn xa, trông rộng. Bởi vì, lực lượng quân Minh ở đây mỏng, dễ giải phóng. Vả lại, Nghệ An ở xa Tây Đô, càng xa Đông Quan nên sức ép của quân Minh không mạnh. Mặt khác, phía Nam Nghệ An là vùng Tân Bình, Thuận Hóa, lực lượng quân Minh nơi đây cũng không nhiều. Điều quan trọng nữa là, nếu chiếm được Nghệ An thì chính vùng đất này sẽ là nơi cung cấp sức người cho quân khởi nghĩa, và vùng đồng bằng Nghệ An sẽ cung cấp về lương thực. Với những cái lý ấy, Lê Lợi chấp thuận đề xuất của Nguyễn Chích.
Thực hiện kế sách của Nguyễn Chích, mấy tháng trời nay tin thắng lợi của quân Lam Sơn liên tiếp được báo về Bộ chỉ huy: Nào là thành Đa Căng ở Thọ Xuân bị hạ. Tướng Minh là Trần Trí đem quân từ Nghệ An ra cứu Cầm Bành, bị nghĩa quân đánh lui. Nào là Đinh Liệt đánh vào Nghệ An, Trần Trí bị thua liền mấy trận, phải rút vào thành cố thủ. Nào là Lý Lan, Phương Chính từ Đông Quan đem quân vào cứu Trần Trí. Trần Trí cũng đem quân ra đánh. Nhưng bị nghĩa quân dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia, rồi đánh tan, khiến bọn chúng lại phải chạy về Đông Quan và rút vào thành Nghệ An mà cố thủ. Nào là giữa năm 1425, Lê Lợi cho Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu. Quân Minh thua, chạy về Tây Đô. Lê Lợi sai Lê Sát tiếp ứng cho Đinh Lễ, đánh ra Tây Đô. Quân Minh lại thua, phải rút vào thành. Những tin thắng trận ấy càng kích thích thêm lòng yêu nước, chí căm thù giặc của Trần Nguyên Hãn. Chàng tự cảm thấy dường như mình vẫn chưa có đóng góp gì đáng kể nên càng sốt ruột. Đã đến lúc chàng thấy mình phải được cầm quân ra trận, quyết sống mái một phen với kẻ thù. Nguyện vọng ấy đến với chàng ngay sau khi Bình Định vương ra lệnh: Một mặt, nghĩa quân phải siết chặt vòng vây ở Nghệ An và Tây Đô. Mặt khác, cử Trần Nguyên Hãn và Doãn Nỗ đem quân đánh chiếm Tân Bình, Thuận Hóa!
Gặp Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi nói:
- Quan Tư đồ cùng thượng tướng Doãn Nỗ vào miền trong lần này phải hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng đất đai hai xứ Tân Bình, Thuận Hóa và tổ chức, củng cố hậu phương, tuyển chọn nghĩa quân. Thống nhất toàn bộ lực lượng miền trong, cùng với lực lượng của ta đã có để rồi tập trung toàn lực tiến ra Đông Quan.
Trần Nguyên Hãn và Doãn Nỗ không ai bảo ai mà cùng một lúc quỳ xuống trước mặt Lê Lợi, hai tay chắp lại, đưa lên ngang trán, thưa:
- Xin chúa công yên lòng! Nếu không thắng chúng tôi không về.
Nhiệm vụ Lê Lợi trao to lớn quá, quan trọng quá, Trần Nguyên Hãn nóng lòng muốn được thực thi ngay mà sao trời vẫn chưa sáng?
Không ngủ được, Trần Nguyên Hãn trằn trọc trở mình sang bên trái. Tiếng gà đâu đó eo óc gáy nhắc chàng nao nao nhớ về trang Sơn Đông? Mấy năm trời rồi không có tin tức gì về vợ con, làng xóm. Không biết ở Đa Cai có gì thay đổi? Lê Thị Tuyển, vợ chàng, Trần Trung Khoản, con chàng, hiện ra sao? Nỗi nhớ gia đình, quê hương lắm lúc làm chàng rưng rưng hai con mắt. Nhưng Trần Nguyên Hãn hiểu, muốn mau chóng được trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, không có đường nào khác là phải ra trận. Chỉ khi nào đất nước không còn bóng quân thù thì chàng mới hồi hương. Chí làm trai thời loạn là vậy. Trần Nguyên Hãn lại trở mình sang bên phải. Tiếng con ngựa trong tàu hí vang nhắc chàng nhớ đến những ngày chăn trâu trên Rừng Thần cùng Bờ và bạn bè cùng trang lứa, vừa phi trên lưng trâu, vừa múa gươm là những cây sắn, đánh nhau không phân thắng bại. Ai mà ngờ được những trò chơi từ thủa thiếu thời ấy lại giúp cho Trần Nguyên Hãn sau này, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, nhảy lên lưng ngựa chiến là phi như gió được ngay. Ai cũng khen chàng cưỡi ngựa giỏi, múa gươm tài. Nhắc đến gươm, Trần Nguyên Hãn ngồi dậy. Chàng rút gươm thần ra xem. Gươm được Hãn mài trong mười năm ở Đa Cai vẫn sắc lẻm, sáng lòa. Tra gươm vào bao, Trần Nguyên Hãn đi ra sân, vừa hay Nguyễn Trãi đến.
Từ khi dâng Bình Ngô sách, rồi có diệu kế viết dòng chữ “Lê Lợi vi quân, trăm họ vi thần” trên lá, Lê Lợi biết Nguyễn Trãi là một người có học thức cao rộng nên thường giữ Nguyễn Trãi ở bên để luận bàn. Trước ngày Trần Nguyên Hãn lên đường ra trận, Nguyễn Trãi đến chia tay. Hai anh em ngồi xuống dưới một gốc cây. Như muốn động viên Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi nói:
- Đệ đi lần này cùng với Doãn Nỗ là huynh yên tâm rồi. Đệ biết không, Doãn Nỗ xuất thân từ một vọng tộc khá lâu đời ở Kẻ Nưa. Ông nội Doãn Nỗ từng làm quan tới chức Giám sát ngự sử. Cha Doãn Nỗ đỗ tam trường, làm Cung hiển đại phu từ thời nhà Trần của đệ đấy. Doãn Nỗ là một trong số mười tám người chạy thoát trong vụ quân Minh giết ba ngàn người dân ở vùng Nông Cống. Ông ấy tìm về với Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ sau Hội thề Lũng Nhai như huynh và đệ.
- Huynh có biết Doãn Nỗ có công gì với chúa công không?
- Là một trong những tướng tâm phúc của Lê Lợi, đã từng đội cỏ rơm xuôi dòng sông đến đồn giặc tại bến Dao Xá Thượng, lấy lại được hài cốt của tổ phụ Lê Lợi đưa về xứ Phật hoàng chôn cất. Việc làm này đã đánh tan ý đồ của giặc Minh đào mộ tổ Lê Lợi để buộc Lê Lợi phải hàng.
- Ra trận với một tướng như thế, đệ không còn bận tâm gì nữa.
Nguyễn Trãi nắm chặt tay Trần Nguyên Hãn tỏ vẻ tin tưởng, nói thêm:
- Huynh nghĩ, lâu nay Lê Lợi biết đệ là một tướng tinh thông binh pháp, lại nhiệt thành yêu nước nên mới lặn lội từ miền Sơn Đông vào với Bình Định vương từ khi mới là một hào trưởng. Cảm phục trước tấm lòng trung quân ái quốc của đệ mà Bình Định vương trao cho đệ chức quan Tư đồ. Nay lại giao cho đệ chỉ huy tiến công và bình định hai xứ Tân Bình, Thuận Hóa là thể hiện sự sáng suốt và lòng tin của Bình Định vương đối với đệ đó.
- Huynh nói vậy là sao?
- Là bởi vì, Tân Bình, Thuận Hóa là nơi mà các tướng như Đặng Tất, là trung thần của nhà hậu Trần, đã từng nổi lên chống quân Minh và giành được sự ủng hộ rất nhiều của nhân dân. Vì vậy, đệ là một tôn thất nhà Trần về lại nơi đây thì đó là một thuận lợi lớn cho chiến dịch này.
Ánh mắt Trần Nguyên Hãn sáng lên. Chàng chợt hiểu và cảm kích trước cái nhìn thấu đáo và lòng tin của Bình Định vương đối với mình. Chàng xúc động nói:
- Thật vậy sao? Đệ sẽ không phụ lòng tin ấy của chúa công. Huynh hãy chờ tin chiến thắng của đệ.
Trời đã rạng sáng. Chân mây phía đàng Đông đang rực lên một màu hồng. Trần Nguyên Hãn quay vào nhà. Chàng đeo gươm, rồi phăm phăm đi vào tàu ngựa. 
15.
Các triều đại nhà Trần đến cuối đời Trần đều coi hai trấn Thanh Hóa, Nghệ An và hai xứ Tân Bình, Thuận Hóa là trọng trấn nên đều cho đóng trọng binh để khống chế Chiêm Thành. Đến thời nhà Hồ, Hồ Hán Thương còn đổ sức người, sức của để làm đường, sửa đường từ thành nhà Hồ đi Châu Hóa. Cùng với việc dọc đường đặt phố xá để truyền thư, còn gọi là “Đường thiên lý”, Hồ Hán Thương thực hiện di dân vào Nam. Bởi Hán Thương cho rằng, miền “Đàng Trong” phong tục chưa đến lúc mở mang, phong tục còn chất phác, quê mùa. Dân cư thưa thớt, vắng vẻ, thậm chí những nơi xa xôi còn lạc vào cõi khác…
Từ khi tướng Trương Phụ của nhà Minh đem quân sang xâm chiếm Đại Việt, cha con Hồ Quý Ly thất bại thì vùng đất “Đàng trong” trở thành một chiến trường nóng bỏng. Các cuộc giao tranh giữa quân Minh với Giản Định đế, Trùng Quang đế xảy ra liên miên suốt mấy năm liền. Thành Hoá Châu, phủ Thuận Hóa, được coi là mảnh đất đầu sóng ngọn gió phương Nam. Nơi đây có sông lớn ở phía Tây, có sông nhỏ chảy qua giữa thành. Bên hữu là sông La Nga và các nha môn, Đô Ty, Thừa Ty thuộc phú Triệu Phong. Con sông Kim Trà chảy ở phía Nam thành. Bốn  mặt thành Hóa Châu cao chót vót. Vì cái vị trí địa lý này của Hóa Châu mà đã có lần Mộc Thạnh nói với Trương Phụ:
- Hóa Châu là nơi có núi cao, biển rộng, chưa dễ gì mà lấy được.
Tướng Trương Phụ tuyên bố:
- Tôi có sống được là ở Hóa Châu. Tôi có chết là ở Hóa Châu. Chưa bình định xong Hóa Châu thì còn mặt mũi nào tôi trông thấy chúa thượng.
Và sau đấy mấy năm, Trương Phụ đã chiếm xong hai xứ miền trong. Cuộc kháng chiến của Trùng Quang cũng bị thất bại. Cùng lúc thành Nghệ An bị nghĩa quân Lam Sơn vây bọc, tướng Nhậm Năng của quân Minh ở Tân Bình, Thuận Hóa không có tin tức gì về Tây Đô và Đông Quan thì Trần Nguyên Hãn được lệnh dẫn quân đi.
Bây giờ đang là những ngày đầu mùa thu năm 1425. Những cơn gió Lào cùng cái nắng miền Trung hầm hập như có lửa đã bị những cơn mưa cuối mùa cuốn trôi ra biển. Biển xanh ngát và hiền hòa. Rừng bắt đầu thay lá. Mỗi khi có cơn gió tràn qua, lá vàng lại ào ào trút xuống. Đoàn quân của Trần Nguyên Hãn và Doãn Nỗ suốt ngày đêm rầm rập tiến quân về phía Nam trong cái không khí đầu thu ấy. Càng đi họ càng thấy đất nước mình dài rộng quá, non sông nước Đại Việt mình quả là đẹp như gấm, như hoa, nhân dân mình đâu đâu cũng cần cù, lam lũ. Vậy mà sao vẫn khổ? Cứ nhìn những mái nhà tranh tre nứa lá nhỏ bé, xập xệ của những xóm làng tiêu điều xơ xác, những ánh mắt của các bà mẹ, những trẻ em bơ phờ, nhớn nhác là đủ biết cuộc sống của họ ra làm sao? Có lần dẫn quân đi qua một làng nhỏ, nằm bên bờ một con sông nhỏ, Trần Nguyên Hãn đã phải xuống ngựa vì chàng nhìn thấy một đứa trẻ gầy giơ xương sống xương sườn, cùng với một cụ ông râu tóc lờ phờ, gầy còm cũng không kém, nằm đói lả bên đường. Trần Nguyên Hãn đưa cho hai ông cháu khẩu phần của mình là một nắm cơm. Chờ họ ăn xong, xem ra đã hơi tỉnh, chàng mới hỏi em bé:
- Thế cha mẹ cháu đâu mà đến nông nỗi này?
Đứa trẻ lắc đầu bảo “Không biết”. Ông già thều thào nói:
- Cha mẹ nó chết cả rồi!
- Tại sao chết?
- Cha nó xuống biển mò ngọc trai cho quân Minh bị cá mập cắn chết. Mẹ nó lên rừng đãi cát, tìm vàng cho giặc Minh bị sập hầm chết!
- Gia đình chỉ còn lại hai ông cháu thôi sao?
Ông cụ gật đầu, gạt nước mắt, kể lể:
- Dân tình chúng tôi khổ lắm ông ơi! Cùng với phải đóng sưu cao thuế nặng bà con còn phải vào rừng sâu tìm sa nhân, bẫy hươu đen, rồi thì đi xây nhà, đắp lũy. Làm không được, bọn chúng đánh đập rất dã man: Người lớn bị thiêu sống, trẻ con bị chôn sống. Ông cháu tôi may mà trốn thoát, nếu không cũng bị chúng nó giết rồi!
Nghe hết chuyện của ông già, Trần Nguyên Hãn lau nước mắt, đứng dậy. Dọc đường hành quân, chàng bàn với Doãn Nỗ, hãy kể lại câu chuyện thương tâm này cho toàn quân biết. Phải phát động lòng căm thù giặc Minh trong toàn quân. Phải giữ nghiêm kỷ luật, không ai được làm bất cứ điều gì để ảnh hưởng đến hoa lợi cũng như lòng tin của nhân dân! Với lòng căm thù và kỷ luật ấy, nghĩa quân của Trần Nguyên Hãn lúc thì đi theo đường “Thiên lý”, lúc lại luồn vào rừng, lội suối, băng đèo. Nghĩa quân lần lượt hành quân từ Nghệ An vượt qua núi Hoành Sơn, rồi qua Thuận Thần, rồi qua Phù Lưu, rồi đến Bố Chính. Châu Bố Chính là trị sở có từ thời nhà Lý. Tới đây, nghĩa quân rẽ về phía Đông, đi về Lũ Đăng thì gặp sông Bố Chính(*).
Bố Chính là một con sông chảy trên địa phận Quảng Bình. Sông bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi, thuộc dãy Trường Sơn trùng điệp, hùng vĩ, cao trên hai ngàn mét. Từ thượng lưu trở về nguồn, lòng sông rất nhiều ghềnh thác. Đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Nhưng chảy về đến vùng Hà Khương này, Bố Chính lại trải mình rộng ra. Nước sông dào dạt, mênh mông. Đứng bên này sông nhìn sang bên kia sông đuối tầm con mắt. Đây là một khó khăn, thách thức lớn đối với nghĩa quân phải vượt qua để tiếp tục tiến về phương Nam. Chưa có cách vượt sông nhanh nhất, vả lại, trời cũng sắp tối, Trần Nguyên Hãn trao đổi với Doãn Nỗ cho quân lính hạ trại.
Đêm xuống rất nhanh. Trong cánh rừng bên bờ sông bập bùng ánh lửa, nghĩa quân từng đoàn, từng đoàn ngồi bên nhau chuyện trò, nói cười vui vẻ như đi hội. Vẫn biết rằng mình chưa thuộc loại “tướng mà ngoài mặt hăm hở, trong lòng ân cần, biết
 người khó nhọc, thương kẻ đói rét, đó là tướng chỉ huy được vạn người” như Binh thư nói về chọn tướng… Nhưng tự thâm tâm, Trần Nguyên Hãn vẫn muốn đích thân đến thăm các binh lính. Bởi thế, ăn uống qua loa xong, chàng đi ra phía bờ sông.
Dòng sông đen sẫm lại. Sóng nước ì oạp vỗ vào bờ ào ạt. Nơi đây sao giống dòng sông Lô đến thế! Trần Nguyên Hãn lại nôn nao nhớ quê. Chàng nhớ từ những buổi chiều chiều cùng bọn trẻ thôn Đa Cai tắm cho trâu ngoài bến Đông Hồ, những hôm đem quang gánh ra đón cha mẹ đi hái dọc mãi trên Phú Thọ, Tuyên Quang ngoài bến sông đến những lần hẹn Tuyển bên bãi ngô non và đặc biệt nhớ lần vớt, chôn nàng Thị Duy sau khi có lũ thượng nguồn. Để khỏa lấp nỗi nhớ đang dâng đầy, chàng cởi quần áo bỏ trên bờ và nhảy ùm xuống sông. Dòng Bố Chính đón chàng vào lòng. Chàng ngụp lặn, bơi qua bơi lại thành thạo như con cá kình. Thư giãn một lúc, chàng lên bờ, rồi đến với một lán trại nằm ngay bên bờ sông.
Những chàng nghĩa quân trẻ khỏe vừa ăn tối xong, đang ngồi tán chuyện dưới tán cây rừng rợp tối thấy Trần Nguyên Hãn đến đều đứng cả dậy, thi lễ. Trần Nguyên Hãn vẫy tay ra hiệu bảo họ ngồi xuống và cứ tự nhiên nói chuyện cho vui. Biết quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn là một người rất nghiêm nhặt trong hành quân nhưng cũng rất vui vẻ, thoải mái, hòa đồng với binh sĩ những lúc nghỉ ngơi nên các nghĩa quân mời Trần Nguyên Hãn dừng chân, ngồi lại chơi.
Trần Nguyên Hãn ngồi bệt trên một tảng đá, giữa những người sẵn sàng vào sống, ra chết với mình. Chàng đưa mắt nhìn mọi người khắp lượt rồi hỏi hành quân có mệt không, ăn có no không, có ai bị ốm không? Ánh mắt Trần Nguyên Hãn dừng lại hơi lâu trên khuôn mặt của một người lính trẻ măng, bất chợt hỏi:
- Huynh hỏi thật, đệ cũng phải trả lời thật nhé. Tại sao còn trẻ thế này, đã mười tám chưa mà tham gia nghĩa quân?
- Thưa quan Tư đồ…
- Đừng gọi ta thế mặc dù lẽ ra là phải thế, cứ xưng hô với ta là huynh, đệ cho thân mật.
- Vậy thưa đại sư huynh, dân tộc ta từ xưa đã có câu: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, huống hồ đệ là một trang nam nhi và năm nay đã bước lên tuổi mười chín rồi đấy ạ.
- Thế tại sao đệ lại gia nhập nghĩa quân?
- Thưa đại sư huynh vì ở quê cha mẹ đệ bị giặc Minh bắt xuống biển mò ngọc trai nên bị thuồng luồng, cá mập cắn chết. Đệ phải đi giết giặc Minh để báo thù cho cha mẹ.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Và cùng nghĩa quân Lam Sơn dưới cờ khởi nghĩa của Bình Định vương đánh giặc Minh, cứu dân, cứu nước.
Trần Nguyên Hãn gật đầu hài lòng. Nhớ lời người xưa từng nói rằng, người tướng quên mình để báo ơn vua mà không làm cho lòng sĩ tốt cũng như tướng ấy chưa phải là tướng lập công giỏi, Trần Nguyên Hãn hoàn toàn yên tâm với những người cùng chí hướng với mình. Chàng trải lòng mình với mọi người:
- Các đệ đã biết chưa. Huynh cũng xuất thân từ con nhà lao động. Sống ở quê, huynh từng phải đi chợ bán dầu dọc để kiếm sống. Cha huynh cũng bị bọn thổ quân vùng Tam Giang giết hại. Mẹ huynh chết vì ốm không có tiền chữa bệnh. Huynh cũng có vợ, có con nhưng vẫn một lòng theo chúa công - Thoáng nghe có ai đó trong đám nghĩa quân ngồi vây quanh mình thì thào, quan Tư đồ là dòng dõi tôn tộc nhà Trần đấy, Trần Nguyên Hãn nói thêm - Đúng! Ta là cháu nội quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, hậu duệ của Thái sư Trần Quang Khải nhưng ta đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn không phải với mục đích khôi phục lại một vương triều đã sụp đổ mà như các đệ, là để cứu dân cứu nước thoát khỏi ách đô hộ vô cùng tàn bạo, dã man của giặc Minh!
Những người có mặt im lặng lắng nghe. Họ hiểu, quan Tư đồ nói thật lòng. Suốt chặng đường dài từ vùng rừng núi Nghệ An vào đây, Trần Nguyên Hãn đã đồng cam cộng khổ với quân sĩ. Quan Tư đồ ăn như họ, ở như họ, nhiều khi còn nhường cả ngựa cho người ốm yếu, sẵn sàng cuốc bộ như họ… Bởi vậy, họ một lòng tin tưởng, phấn chấn đợi ngày giáp mặt kẻ thù.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...