Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 4a

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 4a

LÊ KHÁNH
Anh hùng giữa đời thường
Tập ký đoạt Giải Khuyến khích,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2006 - 2010)
ANH HÙNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Cách đây gần 3 năm chúng tôi đã vào nhà anh. Khi đó tìm được anh thật khó, bởi cuộc sống anh phải bươn chải giữa nền kinh tế thị trường sôi động và khắc nghiệt. Kiếm được bát cơm ăn cho gia đình không dễ chút nào cả. Sẵn cái bằng bác sĩ thú y, về hưu, lại mang trên mình thương tích của những trận chiến đấu ác liệt ở miền Tây Nam Bộ nên không thể xốc vác hết công việc nặng nhọc. Nhờ có cái “cần câu cơm” anh đem ra chưng giữa bàn dân thiên hạ. Ấy là nghề hoạn lợn. Dù kiếm được chút đỉnh, nhưng cái tên “hoạn lợn” đã làm nhụt chí anh nhiều lần. Họ chế giễu, đùa cợt, nhiều khi ác ý, nếu không vững vàng quyết tâm, có lẽ anh cũng phải bỏ nghề lâu rồi.
Được cánh báo chí “khui” ra anh. Đơn vị cũ mới sực nhớ rằng: Anh được đề nghị xét tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang từ lâu rồi, chẳng hiểu vì lý do gì mà đến giờ anh vẫn chưa được công nhận. Nhờ sự quan tâm của các ngành, các cấp từ xã đến tỉnh nên danh hiệu cao quý đó đã đến tay anh. Niềm vui lớn lao khôn tả, song nỗi buồn lại đan xen. Anh than thở từ khi được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng, đi đến đâu làm nghề anh cũng bị bà con từ chối. Bởi bà con quý mến anh và tôn vinh anh. Ai lại Anh hùng mà đi làm nghề hoạn lợn! Trời ạ, các vị cứ nghĩ rằng: Người Anh hùng thì phải đạo mạo lắm, đi đứng tác phong, công việc phải cao sang, chứ ai lại đi làm nghề thấp kém như thế này?
Từ ấy, "cái cần câu” của anh tưởng như phải gác. Nhưng anh vẫn kiên trì, với tấm lòng yêu nghề nghiệp và thái độ hoà nhã, khiêm tốn dễ gần nên bà con dần hiểu anh hơn. Điều đó càng tôn thêm phẩm chất anh hùng giữa đời thường.
Năm nay chúng tôi về quê anh, xã Cao Đại nơi mảnh đất nửa bãi sa bồi, nửa nội đồng trồng lúa ba vụ. Một vùng quê là đỉnh tam giác của vùng lúa châu thổ sông Hồng. Lúa hè thu đã xanh mượt trời quê. Con lũ đầu mùa đang dâng đỏ phù sa, cuồn cuộn chảy xiết. Anh Minh, phó chủ tịch xã dẫn chúng tôi đến thăm nhà anh. Trên đường đi, anh Minh khoe:
Hôm nay đưa các anh đến trang trại nhà Anh hùng Nguyễn Văn Thoa ở ngoài cánh bãi xã đã cho mượn 2 mẫu đất để làm trang trại chăn nuôi bò và trồng cỏ. Đường dây điện trị giá 1,6 triệu, xã cũng đầu tư cho anh, tất cả mong và dành cho anh mọi thuận lợi để rồi cái trang trại ấy sẽ làm điểm nhân điện rộng lớn hơn.
Khi đoàn cán bộ đến cổng, anh Thoa vừa vệ sinh chuồng trại xong. Đàn bò 12 con, bụng căng tròn đang nhởn nhơ nhai trầu, vung tít cái đuôi theo bản năng của chúng.
Vợ anh Thoa tất tả cho gà ăn. Đàn gia cầm đủ các màu sắc hòa trộn kín sân.
 Căn nhà hẹp 2 gian, nơi anh chị ở và điều hành công việc. Đứa con út của anh chị, năm nay học lớp 11, đang kỳ nghỉ hè cũng bận rộn phụ giúp bố mẹ. Việc cứ bộn bề khiến anh luôn chân luôn tay, như người bận con mọn. Tôi hỏi:
- Công việc này so với đánh giặc anh thấy thế nào?
 Anh cười, để lộ hai hàm răng trắng muốt, nét mặt vui tươi dù vẫn có phần ưu tư:
- Đánh giặc phải đối mặt với gian khổ, hy sinh, mất mát. Giữa chiến trường người lính chẳng có toan tính gì ngoài mục đích đạn đã lên nòng là nhằm thẳng địch mà bắn, bắn trượt là mình thua. Ấy vậy nên phải tập trung cao độ tinh thần quyết chiến và lòng căm thù giặc. Còn ngày nay làm kinh tế lại khó khăn hơn nhiều so với đánh giặc.    
Anh dừng giây lát, rót nước mời mọi người uống như tạo ra khoảng cách để có câu trả lời chuẩn xác và hợp lý hơn. Vẫn ánh mắt hiền từ, anh nhìn chúng tôi chậm rãi tiếp:
Khó khăn ở chỗ, nếu không tính toán chi li, đầu tư không đúng trọng điểm, sử dụng đồng vốn không sinh lời, thì coi như thất bại. Mà đã thất bại trong kinh tế thì gia đình sẽ trở về sự khốn cùng nghèo khổ.
Anh thổ lộ: UBND huyện và xã đã rất ưu ái tạo cho anh mọi thuận lợi, đặt niềm tin ở anh nên đã hỗ trợ gia đình anh 50 triệu đồng không tính lãi 2 năm; lại còn đang điều kiện về cơ sở hạ tầng, cho anh mượn đất đai để anh tạo dựng nên một điển hình trong một đề án tổng thể nhằm phát triển đàn bò thịt cho giá trị kinh tế cao, tạo nên bước bứt phá xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân”.
Vinh dự là như vậy, ưu ái là vậy, nếu không có kế hoạch lấy ngắn nuôi dài, có bước đi cụ thể, dần dần đồng vốn cạn kiệt, nợ nần chồng chất, uy tín và danh dự sẽ sụp đổ theo.
Suy nghĩ trăn trở hàng tháng bàn đi tính lại, vợ con góp ý và ủng hộ, nên anh trút đi được một gánh nặng. Anh càng yên tâm khi có người vợ hiền tần tảo, cần cù cùng kề vai san sẻ trách nhiệm của công việc; cùng tính toán kỹ lấy ngắn nuôi dài, trồng cây gì, nuôi con gì để có được đồng vốn sinh lời.
Hôm chúng tôi về, trang trại của anh hùng Nguyễn Văn Thoa có 12 con bò lớn nhỏ, lứa nhỏ nhất 6 -7 tháng tuổi, lứa lớn đã gần một năm.
Kế hoạch của anh thật rõ ràng: 6 con bò trong 2 năm sẽ cho đẻ ra giống bò lai sind, để từ thế hệ F2 sẽ tạo nên bò sữa. Từ lứa thứ 2 trở đi, anh cho phối tinh giống bò cao sản, mà mục tiêu vừa cho bò thịt, vừa nhân ra bò sữa. Dự kiến sau 2 năm anh sẽ thu hồi vốn để trả cho ngân hàng. Nếu vay tiếp anh đủ sức để “gánh” lãi với ngân hàng.
Trước mắt, anh đầu tư thật thận trọng, số tiền “đổ” vào trang trại đã “vênh” gần trăm triệu. Là bác sĩ thú y nên anh càng cẩn trọng ở khâu chăm sóc, thức ăn nước uống, công tác vệ sinh chuồng trại, môi trường và dự phòng tủ thuốc bệnh. Khi có đàn bò, là anh đã hoàn thiện hệ thống giếng khoan, hầm biogas nhằm thu gom toàn bộ nguồn dư thải từ thức ăn, phân, nước thải vào hầm ủ, để các thứ đó lại phục vụ cho tưới chăm đồng cỏ. Khí mê-tan cho anh đun nấu thả phanh.
Bên cạnh việc đầu tư chiều sâu, anh thực hiện chương trình “lấy ngắn nuôi dài”. Ngoài việc trồng cỏ cho bò, anh gieo xen các loại cây ngắn hạn như đậu tương, vừng, ngô, lạc... những thứ cây này vừa cho thu hạt vừa làm thức ăn cho bò.
Đàn gia cầm như vịt, ngan, gà, lợn trên ba tháng xuất chuồng một đợt. Nguồn thu này đã cho anh đủ lương “nuôi” 3 người phục vụ trang trại.
Cánh bãi phù sa màu mỡ, cây cối mọc xanh tươi, tạo nên phong cảnh mát mẻ đẹp đẽ. Chỉ cần xua đàn bò đi trên các nẻo đường cũng đủ cỏ cho chúng gặm no nê. Chính vì vậy mà ở Cao Đại, nhà nào cũng nuôi bò. Nhà ít một con, nhà nhiều có tới 4 - 5 con. Anh Đặng Quốc Phương, Chủ tịch UBND xã nói với mấy “nhà đài”:
- Dân Cao Đại có hơn 4 ngàn khẩu, mà đàn bò có tới hơn ngàn con. Chúng tôi xây dựng trang trại điển hình như hộ anh Thoa để năm tới nhân rộng toàn xã. Chắc chắn số bò thịt và bò lai sind cho sữa sẽ nâng lên nhiều hơn dân số quê tôi.
Như để chứng minh cái luận chứng có sức thuyết phục ấy, anh Phương giải thích kỹ hơn.
- Nếu bò thịt được giá như hiện nay, chắc chắn đầu tư nuôi bò thịt có hiệu quả cao và không bị rủi ro. Nhất là thịt bò lại là thực phẩm sạch, ngon, đang được thị trường mến mộ.
Chúng tôi hỏi cắt ngang:
- Chăn nuôi mở rộng, môi trường sinh thái ảnh hưởng, bệnh của gia súc phát triển. Đây là vấn đề lớn xã có tính đến không?
Anh Phương cười, đáp nhanh:
- Chúng tôi đã có quy hoạch cả rồi. Nhất thiết phải lo vệ sinh môi trường luôn trong lành. Nhà nào cũng phải xây hầm biogas, hệ thống thoát nước vệ sinh đúng với quy hoạch. Còn cán bộ thú y từ xã xuống cơ sở phải đủ người, đủ thuốc dự phòng. Chúng tôi đã cử hàng chục cháu đi học rồi, tương lai còn phải đào tạo thêm, về vấn đề này đã có anh Nguyễn Văn Thoa là bác sĩ thú y phụ trách.
Khi chúng tôi đem điều này trao đổi với anh Thoa. Anh cười không giải thích, đưa chúng tôi xem quầy thuốc kê chật gian nhà. Ở trong tủ thuốc ấy chẳng thiếu thứ gì. Giống bò mà cũng có cả thuốc cảm cúm, ho, tiêu chảy... Nghe anh kể, chúng tôi tròn mắt nhìn nhau. Hóa ra con người quan tâm chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ, liều thuốc cho chúng để rồi chúng cứ lớn phổng phao, lại sinh sôi nảy nở, trả ơn cho người. Âu đây cũng là quy luật của muôn thuở: Có dưỡng mới có sinh. Người Anh hùng trong đời thường, đang gieo mầm cho dự án đàn bò của vùng quê Cao Đại ngày càng cho tín hiệu vui.
Khi chia tay, anh Nguyễn Văn Thoa nói vui với chúng tôi một câu rất lính:
- Dự án chuẩn, người lính chỉ biết đến chiến thắng.
Chúng tôi tin anh làm được điều đó.
SÁNG MÃI VIÊN NGỌC RUBY
Y hẹn, tôi đáp chuyến bay ATR72 xuống sân bay Tân Sơn Nhất lúc chín giờ sáng. Đón tôi là tài xế của Tổng Giám đốc Công ty thuốc thú y Việt Nam Ruby. Anh mời tôi ngồi, rồi chuyện trò hồ hởi, tạo nên không khí đầm ấm, dễ chịu, làm cho tôi quên đi mỏi mệt sau chuyến bay qua biển.
Chạy mười lăm phút ô tô, chúng tôi đã về đến trụ sở công ty ở quận Phú Nhuận - Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai vợ chồng Tổng Giám đốc công ty đang đợi tiếp tôi ở phòng khách.
Trong lúc chờ làm việc, ngắm trụ sở công ty bề thế, tôi hỏi người lễ tân:
Trụ sở này hoàn thành lâu chưa?
Anh đáp nhanh:
- Dạ, hoàn thành năm 2008.
Rồi anh cao hứng khoe:
- Từ khi động thổ đến lúc hoàn thành trụ sở tính đúng 3 năm 12 ngày. Tổng chi phí hết ba triệu mỹ kim, quy ra tiền Việt Nam cỡ năm tư, năm lăm tỷ.
Quả thật, khuôn viên công ty có mặt bằng khá đẹp và bề thế. Các phòng ban, nơi làm việc, hội trường, phòng truyền thống, bể bơi, phòng tắm xông hơi, sân chơi… đều có cây cảnh cùng ríu ran tiếng chim hót... ví nôm na như một thế giới thu hẹp, tạo nên không khí ấm cúng, thân thiện. Ai bước vào nơi đây đều có cảm giác như vào thiên đường nguy nga, tráng lệ…
Tôi mải ngắm nhìn tấm biển sơn son thiếp vàng mà lòng còn đang vương vấn với cái tên nghe khá lạ: “Tổng công ty thuốc thú y Việt Nam Ruby”.
Bỗng có tiếng gọi từ phía sau, tôi quay lại, thì ra Tổng Giám đốc Cao Văn Triều cùng vợ là Lê Thị Hồng. Hai ông bà mời tôi vào phòng khách.
Bỏ qua nghi thức xã giao, chúng tôi chuyện trò như người thân trong gia đình. Ông Triều mời:
- Ta uống nước, ăn nhẹ rồi mời anh tham quan trụ sở, sau đó làm việc theo lịch.
Nói “theo lịch” là bởi điều hành một công ty độc quyền thuốc thú y Việt Nam có mạng lưới phân phối trên một ngàn đại lý trong toàn quốc, có quan hệ buôn bán với 25 nước, có doanh số hàng ngàn tỷ đồng... thì việc tiếp bất cứ ai cũng phải qua trợ lý xếp lịch, bởi thời gian đối với người lãnh đạo công ty là vàng, là ngọc.
Riêng với tôi, vợ chồng Tổng Giám đốc công ty có “ưu ái” đặc biệt, đó là dành trọn vẹn một ngày để dẫn tôi tham quan tổng kho, khu trang trại dự định xây nhà máy, khu du lịch sinh thái... nghĩa là đáp ứng yêu cầu tư liệu cho bài viết này.
Trong câu chuyện, tôi đặc biệt chú ý đến những tâm tư, suy nghĩ và cách làm việc của Công ty Ruby.
Khi tiếp xúc với những doanh nhân, hầu như ai cũng nghĩ: “Phi thương, bất phú” nghĩa là muốn làm giàu thì đi buôn. Mà buôn bán thì phải cạnh tranh, phải giành giật và bằng mọi cách, kể cả “luồn” luật để trốn thuế. Có thế mới giàu. Nhưng với vợ chồng ông Cao Văn Triều vốn sinh ra và lớn lên bên lũy tre làng với cánh đồng lúa xanh mượt trời quê vùng trung du Vĩnh Phúc. Bao kỷ niệm của thời ấu thơ, ăn miếng cơm thơm với bát canh cua đồng, nghĩ về người nông dân hai sương, một nắng làm ra sản phẩm nuôi sống con người, nhưng phải gánh chịu nhiều rủi ro thua thiệt nhất. Mùa màng phụ thuộc vào trời đất. Chăn nuôi thì quảng canh, nếu chẳng may xảy ra dịch bệnh thì con lợn, con gà, con vịt và các loại gia cầm của người nông dân đành chịu chung số phận phó mặc cho trời, cho đất... Thế nên ông mới bàn với bà: Phải mở công ty chuyên thuốc chữa trị bệnh cho gia súc, gia cầm mà hơn 80% hộ nông dân Việt Nam đang ngóng đợi.
Là bác sĩ thú ý chuyên ngành chăn nuôi, bà Hồng càng hiểu cặn kẽ từng loại bệnh của lợn, của trâu, bò, ngan, và vịt. Nhưng bán thuốc nào phù hợp, giá rẻ, lợi ích cho nông dân. Tư vấn nhóm thuốc nào cho khách về chăn nuôi phòng là chính, chữa là phụ. Riêng xây dựng giá cũng nhất quán từ các đại lý xuống đến cơ sở, không “phết phảy”,  không cho phép nâng giá cả nằm trong hóa đơn đỏ, bất kỳ ai mua, dù nhiều, dù ít đều phải có hóa đơn, để giám sát trách nhiệm và nghĩa vụ thuế của công ty.
Hai ông bà mở rộng quan hệ quốc tế để trao đổi, học tập nhằm hội nhập với thị trường chung, giúp tốt nhất cho người nông dân Việt Nam cập nhật mọi tin tức về phát triển giống, cách chăm sóc, bảo vệ giống cho năng suất cao.
Là một doanh nhân phục vụ hai phần ba dân số đất nước, nên niềm vui và nỗi buồn của người nông dân đều được ông bà chia sẻ và chung chịu.
Nghe tin một vùng quê có dịch trâu bò lở mồm, long móng, ở tỉnh A có dịch lợn tai xanh, tỉnh B xuất hiện dịch gà, dịch vịt thì trên công ty từ Tổng Giám đốc đến nhân viên đều tập trung vào việc làm sao để cân đối thuốc, điều tiết thuốc, quan hệ với nước bạn để có loại thuốc đặc trị nhanh nhất, đưa về các vùng dịch kịp thời chữa chạy, dập tắt mầm dịch, đem đến niềm vui cho mọi nhà, đó cũng là niềm vui của doanh nghiệp.
Kinh doanh bằng cái tâm, cái thiện và bằng trách nhiệm công dân cao nhất, bởi ông Triều luôn quan niệm: “Là nhà khoa học, để lại cho đời kho báu kiến thức, trí tuệ, những thành tựu khoa học giúp con người chinh phục thiên nhiên, nâng cao đời sống cho nhân loại, Vậy thì là doanh nhân cũng phải để lại cho xã hội của cải, vật chất”.
Vậy chỉ có làm giàu chân chính, làm giàu từ giọt mồ hôi đổ ra, để đóng góp của cải cho xã hội, làm nghĩa vụ cộng đồng, ở trong trái tim ông bà không có loạn nhịp kiểu kinh doanh gian lận.
Đi thăm phòng truyền thống, những bằng chứng nói lên tất cả: Mười năm thành lập công ty (2000 - 2010) ông bà đã vinh dự 2 lần được vinh danh là doanh nhân thành đạt trong tốp 10 doanh nhân tiêu biểu.
Ông là còn liên tục là doanh nhân đóng thuế cao nhất trong khối doanh nghiệp tư nhân. Bình quân mỗi cán bộ, công nhân viên trong công ty Ruby một năm nộp thuế từ một tỷ đến hai tỷ đồng. Năm 2009, trong tình trạng suy thoái chung của toàn cầu, nhưng công ty Ruby vẫn nộp thuế trên 50 tỷ đồng. Dự kiến năm 2010 mức thuế đóng cho Nhà nước của Công ty Ruby sẽ tăng lên 100 tỷ đồng.
Khi chúng tôi thực hiện bài viết này, Công ty Ruby đang tấp nập chuẩn bị tổ chức lễ đón nhận Huân chương Lao động cho thành tích 10 năm xây dựng và phát triển.
Ở bất kỳ tổ chức nào, bộ phận nào trong công ty như chi bộ, đoàn thanh niên, công đoàn, phòng kinh doanh, phòng tiếp thị, đội xe, tổng kho... không khí làm việc cũng đều sôi nổi, hào hứng như một cỗ máy vận hành trơn tru, nhịp nhàng.
Công ty Ruby luôn duy trì nề nếp làm việc tự giác, nghiêm túc. Tổng Giám đốc quy định: Mỗi cán bộ, công nhân viên, từ Tổng Giám đốc trở xuống, đều phải hoàn thành chỉ tiêu pháp lệnh là đóng thuế cho nhà nước. Thuế từ mức giao doanh số, trong đó có tỷ lệ giá trị gia tăng của thuế. Vì thế, khó có ai gian lận mà trốn thuế được.
Đó mới thực sự là điều lạ. Bởi trong khi có những doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn có tư tưởng “luồn” từng kẽ hở của luật để lập “quỹ đen”, bỏ ngoài sổ sách những nguồn thu để bớt xén... cho riêng mình; thì ở công ty Ruby này lại sáng lên tinh thần yêu nước, sản xuất, kinh doanh chân chính để “được đóng thuế”.
Tôi hỏi một trưởng phòng làm việc trong công ty được biết mức lương của anh hưởng là trên ngàn đô, nhân viên có thu nhập thấp nhất trong công ty cũng đạt 5 - 6 triệu đồng/tháng. Bình quân, có mức lương trên 10 triệu đồng/tháng. Hằng năm, cán bộ, công nhân viên còn được công ty thưởng tiền, thưởng phép. Nhân chuyến đến thăm và làm việc với công ty, chúng tôi được chứng kiến một công nhân của công ty cưới chồng. Hai ông bà Triều - Hồng đã bố trí hơn mười anh em cán bộ nhân viên công ty có thành tích, mua vé máy bay đi và về từ thành phố Hồ Chí Minh sang Phú Quốc để dự lễ cưới đó. Cô dâu được Phó Tổng Giám đốc tặng 5 chỉ vàng và một số món quà quý giá khác. Quyền lợi người công nhân được đảm bảo, ai cũng tình nguyện làm hết năng lực, làm suốt đời để vì tình yêu công ty, vì thương hiệu của Ruby.
Mỗi khi nhắc đến Công ty Ruby thì từ đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải đến các đồng chí trong Thường vụ Quận ủy quận Phú Nhuận đều dành những lời tốt đẹp nhất, đánh giá về hoạt động của công ty.
Mười năm thành lập, năm nào Chi bộ công ty cũng đạt danh hiệu “Chi bộ trong sạch vững mạnh”. Kinh doanh lành mạnh, với mục tiêu phục vụ nhân dân là trên hết, đóng góp của cải cho xã hội, quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và tích cực tham gia hoạt động xã hội. Với những đóng góp đó, công ty Ruby đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động, nhiều bằng khen các loại.
Gần đây nhất, tháng 10/2009, Giám đốc Công ty Rubi đã vinh dự được Nhà nước vinh danh là doanh nhân "Tâm - Tài".
Tôi gặng hỏi vì sao ông bà lại được nhận phần thưởng đó?
Ông Triều nhìn tôi, tươi cười giải thích:
- Được vinh danh cúp "Tâm - Tài" trước hết phải đạt hai yêu cầu: Một là kinh doanh thành đạt, đóng góp của cải cho nhà nước tốt nhất. Thứ hai làm từ thiện và tham gia đóng góp lợi ích cho cộng đồng.
Bà Hồng tiếp lời chồng:
- Nhân dịp 27/7 "Uống nước nhớ nguồn", thành phố tổ chức đêm thơ “Màu hoa đỏ”, chúng tôi ủng hộ 500 triệu. Làm hơn trăm sổ tiết kiệm tặng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình liệt sĩ, các nạn nhân chất độc da cam, mỗi sổ trị giá ba triệu đồng và xây gần 30 căn nhà cho các hộ nghèo…
Trong câu chuyện, tôi được biết, ông bà Triều - Hồng còn nhiệt tâm đóng góp công sức cho quê hương. Dịp về thăm quê ở làng Vân Ổ, xã Vân Xuân, huyện Vĩnh Tường, ông bà đã ủng hộ trên hai tỷ đồng để làm đường và xây chùa thờ các vị thần linh noi gương sáng cho đời.
Chẳng cứ gì ở quê, bất cứ nơi nào trên đất nước, nếu hai vợ chồng ông bà Triều - Hồng từng đến, thì dù to hay nhỏ ông bà đều có chút gọi là đóng góp. Ví như đóng góp 50 triệu xây dựng chùa ở đất mũi Cà Mau...
Bà tâm sự: Nhờ có đường lối đổi mới của Đảng, như ngọn đuốc soi đường để ông bà nhìn rõ lối đi, mở ra cuộc đời như hôm nay. Nhớ lại ngày đầu về nghỉ hưu, hai vợ chồng có mỗi tài sản quý giá nhất là tấm bằng Tiến sĩ của ông, và bằng Bác sĩ thú y của bà. Ông thì chuyên ngành bò sữa, lăn lộn ở nông trường Ba Vì cùng anh hùng Hồ Giáo, rồi lại vào nông trường Bến Cát. Cuộc đời bươn trải đã cho ông tầm nhìn xa để tìm bước đường cho riêng mình. Vốn liếng là kiến thức, là trường đời. Khi nghỉ hưu, tiền không, nhà không, hai vợ chồng phải lo chạy mối hàng để kiếm sống rồi ông mạnh dạn xin thành lập công ty. Kể ra cũng liều, bởi lúc thành lập trong tay ông bà chỉ là con số “4 không”: Không vốn, không nhân viên, không nhà, không trụ sở.
Nhà phải thuê, rồi đi ở nhờ dưới chân cầu thang nhà một người bạn. Nhờ vốn ngoại ngữ của ông từ những năm làm luận văn tiến sĩ ở Ấn Độ, Cu Ba, nên công việc giao dịch, kinh doanh của ông bà cũng thuận lợi. Bà thì sống giản dị, chất phác, ngay thẳng, dễ gần nên ai cũng quý mến.
Có một cái tết bà nhớ mãi, vì mải bươn chải, lo toan, nên tận chiều 30 tết mà ông bà vẫn chưa có Tết. Thôi thì lấy niềm vui an ủi là chính. Ông nghĩ phải cố vươn lên, đây là thời cơ cho phép mình “bung ra”, sẽ có ngày mở mặt. Còn bà thì lang thang kiếm những cành hoa người đi chợ muộn vứt bỏ, chau chuốt lại thành một bó hoa tươi đem về nơi trọ cắm vào bình mừng xuân. Mười năm xây dựng công ty, mười năm vật lộn với thương trường, bây giờ nhìn lại cơ ngơi của công ty, ông bà có thể thở phào và nở nụ cười rạng rỡ. Toàn bộ vốn liếng, ông đã đầu tư mua hơn 40ha đất. Ở Sa-na-uy Lâm Đồng là 12ha. Đó là khu du lịch sinh thái mang nét văn hóa và hồn Việt của 4 ngàn năm đọng lại. Rồi vài chục ha đất ở thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông bà đang quy hoạch để xây nhà máy thuốc thú y lớn nhất khu vực. Ngoài đảo du lịch Phú Quốc ông bà cũng có dăm ha đang trồng cây cảnh, tương lai sẽ xây dựng khu khách sạn khang trang bề thế.
Bây giờ tôi mới có dịp thắc mắc về cái tên Công ty Ruby.
Bà Hồng cười tươi giải đáp: Đó là tên ghép của mẹ con em đó. Cháu trai em tên là Ngọc. Em tên là Hồng, cái tên ghép Hồng - Ngọc là chỉ viên đá quý Ruby. Đá Ruby phải kỳ công mài giũa, chế tác mới thành quý hiếm. Em đặt tên công ty như vậy là để đặt niềm tin cho mọi người phải giữ tiếng cho công ty thật trong sáng, không có tì vết, mãi mãi trở thành thương hiệu cho đời...
Thì ra tiêu chí bắt đầu từ cái “mỹ từ” đẹp nhưng mang sức sống mãnh liệt của nó.
Trên đường từ tổng kho ở Biên Hòa trở về công ty, chia sẻ với tôi, bà Hồng luôn đau đáu nghĩ về quê hương Vĩnh Phúc thân yêu. Bà không biết làm thơ, nhưng yêu thơ lắm, mở cặp, bà lấy tặng tôi bài thơ bà viết khi về dự lễ khánh thành chùa Vân Ổ ở quê hương Vĩnh Tường. Bà nói với tôi:
- Em muốn dọc hai con đường từ Vĩnh Tường đi Vĩnh Yên được trồng những cây cọ Malaixia, cây xoè tán rất đẹp, cho ta quả để ép dầu, thu nguồn lợi to lớn. Không làm được phí lắm anh ạ.
Khi chia tay, ông bà còn níu kéo tôi:
- Anh gắng ở lại thêm một ngày nữa. Bởi ngày mai bọn em đón đoàn cán bộ huyện Vĩnh Tường do anh Lê Chí Quang - Bí thư Huyện ủy dẫn đầu vào thăm công ty. Mục đích chính của bọn em đưa đoàn đi thăm chợ đầu mối ở thành phố Hồ Chí Minh. Chắc chắn các anh sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm để xây dựng khu thương mại Thổ Tang bề thế và hiệu quả hơn.
Chuyện về vợ chồng doanh nhân Cao Văn Triều và Lê Thị Hồng làm giàu từ hai bàn tay trắng, tới nay đã có số vốn liếng cơ ngơi lớn rất đáng khâm phục, có được bạn hàng ở gần 30 nước trên thế giới kính trọng, chắc phải viết hàng trăm trang. Cuối bài viết này, tôi xin mạo muội được nhắc lại lời bà Hồng thường nói khi làm từ thiện, khi đóng góp cho xã hội hàng tỷ, hàng chục tỷ đồng, để mong sao ai cũng cố gắng vươn lên, tùy sức của mình đóng góp cho quê hương, cho đất nước ngày càng giàu đẹp hơn, đó là ông bà luôn quan niệm: “Cho tức là nhận”...

NGƯỜI BƯU TÁ XÃ

Ông vốn là người dễ dãi, vui tính, nên lũ trẻ con trong làng, ngoài xã hễ nhìn thấy là chúng đồng thanh reo:

- Chúng cháu chào ông Ngọ!
- Ông cho cháu mượn tờ báo!
Lại có tiếng nhao nhao cướp lời:
- Cháu có thư không ông?
Dù có bận mấy đi nữa, ông cũng dừng lại cười đáp:
- Hôm nay báo Thiếu niên Tiền Phong chưa có!
Rồi ông nhìn mặt từng đứa trẻ ngộ nghĩnh ngây thơ, bảo:
- Tốp các cháu không có thư đâu!
Ông trả lời vậy và hứa nếu cháu nào ra điểm Bưu điện văn hóa của xã sớm nhất, ông sẽ ưu tiên cho đọc các loại sách báo trong ngày.
Cứ vậy, ngày lại ngày, ông Lê Văn Ngọ - người bưu tá xã Trung Kiên có cái tên rất hợp với cái nghề chạy thư cần mẫn với công việc được giao.
Chẳng biết có phải ông sinh năm ngựa hay không, nhưng với tuổi 59 vừa bước sang, người ta cũng đoán ông sinh năm 1942 đúng năm Ngâm Ngọ rồi. Các cụ nhà ta thời xưa hay đặt tên cho con đúng vào năm con giáp là vậy.
Nhiều lúc vui tếu ông thường bảo: "Tôi cầm tinh con ngựa, nên số tôi cứ phải chạy suốt ngày, mà cái nghề chạy thư cho xã, thôi thì thập cẩm thứ đều trút lên vai anh bưu tá. Nào là công văn, thông tri của xã, thông báo tiêm phòng, kế hoạch hóa gia đình của Trạm Y tế, thư, báo của các đoàn thể Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Thanh niên. Thậm chí cả giấy báo thuế của khu nhờ đưa đến từng hộ gia đình…
Quê ông Lê Văn Ngọ thuộc vùng bãi ven sông Hồng huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nên cứ vào mùa lũ bão, cái khổ của người đưa thư là phải lội nước, đội mưa, vượt bão để đưa từng loại công văn, chỉ thị đến từng vùng dân cư, kịp thời xử lý các tình huống xảy ra khi "thủy tặc" hoành hành.
Ngồi trò chuyện với tôi, ông nhẩm tính "Tôi đã có thâm niên 28 năm trong ngành rồi đấy. Nếu được cộng 6 năm làm lính thông tin trong quân đội, vị chi cũng có 34 năm công tác rồi. Thôi thì gắng thêm 1 năm nữa. Nếu vết thương thỉnh thoảng trở trời trái gió nó không hành hạ thì tôi sẽ gắng thêm…".
- “Vết thương” mà ông Ngọ nói tới đó là cái chân cà nhắc của ông bị thương trong một trận đánh địch ở vùng đồng bằng Quảng Ngãi, Trung Bộ. Trận đánh ác liệt, pháo bầy và bom địch cắt đứt đường dây hữu tuyến giữa Sở chỉ huy tiểu đoàn với cấp trên. Chiến sĩ Ngọ khi ấy được lệnh cầm thư chạy bộ để truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu kịp thời. Vượt qua làn bom dày đặc của địch, ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhưng trên đường trở về Sở chỉ huy ông bị bom giặc trải thảm chặn đường, mảnh bom cắm vào chân ông gây thương tích. Sau đó, ông được ra Bắc điều trị, an dưỡng. Vết thương lành, ông được phục viên trở về địa phương với thương tật xếp hạng 2/4.
Người thương binh ấy không nghỉ ngơi lấy một ngày. Ông cầm quyết định nộp cho xã, đồng thời cũng xin nhận nhiệm vụ ngay. Bởi giữa năm đó, năm 1972 đất nước ta đang tăng cường mạnh công tác tuyển quân cho tiền tuyến. Ở hậu phương càng cần lực lượng xung kích phục vụ cho các trận địa pháo bảo vệ miền Bắc. Thấy đề nghị của ông hợp lý, xã hoan nghênh và giao luôn cho ông chức bưu tá xã, vừa là hợp với việc trong quân ngũ, vừa hợp với sức khỏe của ông.
Trong 28 năm thực thi công việc, có nhiều kỷ niệm in đậm trong đời ông thật khó phai nhòa.
Đó là kỷ niệm đợt lũ năm 1996, vỡ đê chống tràn mạn Vĩnh Thịnh, Vĩnh Tường. Lũ đổ ập vào 6 xã ven sông, trong đó có xã Trung Kiên quê ông.
Hồi đó, hệ thống thông tin điện thoại và loa truyền thanh chưa có, nên nhiệm vụ của người bưu tá là phải nhanh chân chạy bộ truyền mệnh lệnh của ban chống lụt bão đến từng khu dân cư. Địa thế xã dài dằng dặc, từ đầu xã đến cuối xã có tới hơn 6 cây số.
Suốt đêm đội mưa, đường trơn như mỡ, xe đạp không thể đi được. Ông Ngọ lội bộ bám đường chạy xuống Phần Xa, sang Mai Khê, lên Trung Giang, Tân Bồi.
Đường ngập bùn vữa, mấp mô ổ gà khiến ông nhiều lần ngã đau điếng, nhưng với trách nhiệm nặng nề được giao phó, ông phải chạy trước lúc lũ tràn vào quê, để bà con kịp sơ tán người và tài sản.
Khi những chỉ thị, mệnh lệnh được truyền đến từng cụm dân cư, bà con kịp chạy lương thực, thực phẩm lên nơi cao ráo, kịp đưa gia cầm, gia súc vào đồng, cũng là lúc ông mệt nhoài, bởi sau 2, 3 giờ lo tròn công việc chung, ông mới nghĩ đến việc nhà.
Nhưng thật oái ăm, khi ông về đến nhà thì nước đã đổ ập lưng nhà. Đàn lợn nái không kịp chạy đã bị nước cuốn trôi. Con bò nái bụng chửa kềnh càng nước dâng chấm bụng. Bà vợ ông hoảng hốt cứ chạy đi chạy lại lo thu xếp chổi cùn, rế rách, quần áo cũ xếp nơi này không yên tâm, lại quẳng chỗ kia. Ông thật cảm thông với tâm lý người phụ nữ trước cảnh tượng hãi hùng này, nên bình tĩnh, nhẹ nhàng cùng bà đưa vội lương thực và đồ thiết yếu lên bè chống lụt. Ông dặn bà ngồi tạm, che vải mưa, đợi ông đánh bò vào nội đồng gửi bà con.
Bà giục ông thúc bò nhanh lên, vì "Con trâu là đầu cơ nghiệp" đấy. Hai vợ chồng ăn dè, tích cóp kể cả phụ cấp thương tật của ông mới kiếm được con giống mong ngày mong đêm hy vọng đỡ cho con bê nhỏ thì nay lũ ập về…
Mệt nhoài nhưng ông quên tất cả, ông dặn bà xã "Nhớ cẩn thận đấy".
Nước lũ xối xả chảy ầm ầm. Trời thì mưa giông, gió giật, từng đợt sóng gối nhau như muốn nhấn chìm tất cả.
Trên cánh đồng Miêu Cốc nước lũ đỏ au, cuồn cuộn chảy. Phía xa có chiếc thuyền bị lật úp, có tiếng kêu í ới, có bàn tay chới với mong cầu cứu. Không chần chừ, ông buộc vội thừng bò vào gốc cây ven đường, mặc cho nước xiết dưới chân như muốn xô đẩy tất cả cùng dòng lũ. Trước mặt ông, con người còn quan trọng gấp vạn lần, ông lao nhanh về phía bàn tay chới với lúc nổi, lúc chìm kia. Và thật may, ông luồn tay xốc nách người bị nạn, dùng lực đẩy họ lên khỏi mặt nước. Ông và nạn nhân cùng ngoi ngóp trong dòng nước sôi sục và ông gắng hết sức mình đưa ông già lên mép đường, cũng là lúc ông kiệt sức. Nhưng linh tính mách bảo ông nếu không nhanh chân, nguy hiểm sẽ ập đến tức thì. Nghĩ vậy ông gắng đứng dậy, dìu cụ già cùng xóm, tay dắt bò đi trong mưa giông, nước lụt.
Bây giờ ngồi ngẫm nghĩ lại mà giật mình. Ông cũng không lý giải nổi, lúc lâm nguy con người vươn lên mạnh mẽ, phi thường đến thế.
Nhớ lại một lần ở chiến trường, ông đã từng cõng đồng đội nặng hơn mình tới hai chục cân, băng qua pháo bầy và rốc két từ máy bay địch bắn xuống, vượt qua vài cây số nguy hiểm mà không thấy nặng nhọc, mệt mỏi. Khi đến nơi an toàn, mới thấy hoa mắt, chân tay bủn rủn, người lả đi vì mệt.
Cái cảm giác cứu đồng đội ở chiến trường cũng giống như cảm giác cứu cụ già bị nạn trong lũ bão. Khi hoàn thành công việc, cái mệt nhọc mới đua nhau kéo về bắt tình bắt tội ông.
Trở về đời thường, ngoài công việc của người bưu tá ra, ông cùng vợ con bươn chải vượt bao khó khăn trong cuộc sống để trụ vững giữa thời mở cửa. Lo cho năm đứa con yên bề gia thất, có cuộc sống no đủ quả là một nỗ lực phi thường của người thương binh này.
Trong cuộc đời đưa thư, có lẽ còn một kỷ niệm nữa mà ông không bao giờ quên, ấy là trong tay ông có một lá thư mà phần người gửi ghi toàn chữ Trung Quốc, còn người nhận là ông Lý Cúc ở Trung Kiên.
Cả xã ven sông này, với hơn 6 ngàn dân và 7 thôn, địa giới kéo dài hơn 6 cây số, nhưng chẳng có ai là ông không biết. Dẫu có ghi nhầm thôn, ông cũng dò tìm ra nhưng thực tế cái họ Lý này, cái tên lạ hoắc này, dù có tra soát hàng tuần cũng không thể có. Vậy thì ai đây?
Ra công thăm dò, suy nghĩ ông cố lần tìm cho ra người nhận, bởi ông linh tính ra rằng lá thư này chắc có điều gì hệ trọng lắm. Người nhận hẳn khắc khoải đợi chờ tin người thân từng giây, từng khắc. Hay là… ông chợt nhớ đến chuyện một cô gái bị bán đi Trung Quốc. Chắc bây giờ gặp may đã "yên bề gia thất" nên có tin về. Dẫu sao cũng là nguồn tin mà người thân mong ngóng bao ngày.
Lân la, tìm kiếm ông biết ở khu hành chính số 5 có một cô gái lấy chồng xa, anh chồng vốn ốm yếu, bệnh tật, nên cô gái không chịu được cảnh sống có chồng cũng như không ấy, nên đã nhẹ dạ bị một tú bà lừa đi Lạng Sơn, từ ấy bặt tin.
Ông lại mất công tìm hiểu các cụ già am hiểu Hán Việt được biết âm tiết họ Lý cũng là họ Lê vậy thôi. Thế rồi ông đoán đúng người nhận là cụ Lê Văn Chúc chứ không phải Lý Cúc.
Cụ Chúc cầm lá thư từ tay người bưu tá tận tụy này, khi bóc thư ra, nước mắt cụ chảy giàn giụa vì cảm động, cụ đọc được vài câu, rồi dừng lại nói: "Tôi cảm ơn anh! Đúng là thư của con tôi rồi".
Ngày ngày trên nẻo đường quê. Lúc nắng hạ đổ lửa như rang, khi mùa đông rét cắt thịt, người ta vẫn thấy bóng dáng người bưu tá nhỏ thó, chân đi cà nhắc, nét mặt tươi vui yêu đời, luôn hết lòng vì dân, đem đến niềm vui và hạnh phúc cho mọi người. Thật ít khi thấy ông nói về thành tích của mình - một con người rất đáng yêu quý. Ông là Cựu chiến binh, thương binh - bưu tá Lê Văn Ngọ. 
THĂM LẠI GIA ĐÌNH ANH HÙNG LIỆT SỸ
NGUYỄN VIẾT XUÂN
Đường về thôn Thượng, xã Ngũ Kiên, một địa danh quen thuộc đối với mọi người. Vẫn dải đồng xanh bát ngát viền quanh khu đầm Dưng mênh mông sóng nước. Lớp lớp nhà cao tầng vươn giữa khoảng trời xanh bao la. Tiếng hát ngân nga trầm bổng vang vọng một thời "Qua núi, qua sông, qua đồng lúa chín…" của một nhạc sĩ nổi tiếng đã khái quát bức tranh quê của người anh hùng. Dẫu ai chưa một lần qua đây, chắc hẳn cũng phải thầm yêu, thầm khen một vùng quê trù phú đã sinh ra anh hùng Nguyễn Viết Xuân, người đã hô vang khẩu lệnh "Phản lực Mỹ không có gì đáng sợ. Hãy nhằm thẳng quân thù, bắn!".
Vốn quen lối cũ, đường xưa, tôi "bon" thẳng về nhà anh. Bởi mảnh đất này, nơi sinh ra anh, tôi đã có dịp gắn bó hàng tháng trời để viết về anh, để hiểu về chị, về cả một gia đình đang trao cho chị trọng trách chăm lo bố mẹ già mù lòa, ốm yếu với con đầu lòng hai tuổi và bụng đang mang thai cháu nhỏ thứ hai, với một ý nguyện mong anh cứ yên lòng giữ trời, giữ đất của Tổ quốc thân yêu.
Thế nhưng khi đến nơi, mọi thay đổi làm tôi không còn nhận ra chốn cũ, cảnh xưa nữa.
Gặp một thanh niên trong làng, anh ta nhanh nhảu mách lối:
- Gia đình bà ấy đã chuyển ra khu đất đầu làng rồi chú ạ!
Sợ tôi phải hỏi thăm nhiều, anh bạn nhiệt tình nhấn mạnh:
- Chú đến lối đường rẽ, nơi có ngôi nhà xây lợp ngói xi măng ấy!
Nhìn ngôi nhà ngói khang trang trên mảnh đất khá đẹp, lòng tôi vẫn bâng khuâng nhớ về cảnh cũ, người xưa. Mặc dù đó chỉ là "Nhà anh đây vẫn mái gồi đơn sơ. Hàng cây mọc bên bờ dậu cổng. Cành nhãn xòe thơ mộng làm sao". Những cảnh vật ấy có sức sống mãnh liệt bởi còn đầy ắp kỷ niệm của một thời, nơi hai cụ sinh ra anh, nơi anh lớn lên và trưởng thành tại đó. Bây giờ chị có ra nơi ở mới rộng rãi, khang trang đẹp đẽ mấy cũng không thể phai mờ những dấu ấn đẹp đẽ, thiêng liêng sống động một thời.
Đang dòng suy nghĩ, chị Thanh từ phía sau nhà trở về, thấy tôi đang mải ngắm ngoài sân, chị nhã nhặn mời:
- Anh đến chơi, vào nhà uống nước!
Chị vừa nói, vừa phân trần như thanh minh:
- Nhà neo quá. Cháu Lai vừa có điện nên đã lên trường. Chẳng biết có việc gì mà chủ nhật cũng đi.
Vừa pha nước, chị vừa tiếp:
- Tôi phải trông hai cháu nhỏ, với mấy con lợn, vài con gà. Có vậy thôi mà quay không nổi!
Vốn là phụ nữ chất phác, chị chuyện trò tự nhiên như người trong làng, ngoài xóm. Rồi như sực nhớ ra, chị nhìn tôi hỏi:
- Chú ở đâu ta nhỉ?
Tôi cười bảo chị:
- Có lẽ lâu rồi, nên chị quên em chăng?
Và tôi gợi lại một chi tiết cũ để chị đoán:
- Năm 1965, em về ở tại nhà ta hàng tháng trời đấy. Dạo ấy, mùa khoai sọ luộc ăn thơm, bùi lắm!
Chị Thanh mắt sáng lên, nhoẻn miệng cười hiền hậu, để lộ ra hai hàm răng đen nhánh hạt na:
- A tôi nhớ rồi. Tác giả "Anh - con người Vĩnh Phúc" phải không?
Không khí trở nên thân tình cởi mở như chị em trong nhà lâu ngày mới gặp nhau. Chị bảo:
- Thoáng thế mà đã hơn ba chục năm còn gì?
Thế là chủ và khách chẳng còn khách khí gì nữa. Chuyện cũ, chuyện mới chẳng ăn nhập vào nhau cứ nở ròn. Chị thì nhớ gì hỏi nấy. Tôi cần gì thì lại gợi hỏi. Câu chuyện cứ đan xen không đầu không cuối. Thôi thì đủ các loại chuyện. Có những kỷ niệm của riêng chị kể từ ngày anh hy sinh đến nay chị đều bộc bạch hết cùng tôi. Nào là khi chú ở đây cháu Lâm còn chưa sinh, khi đó tôi mới mang thai cháu 5 tháng. Khi cháu lớn lên chẳng may bị bệnh viêm khớp, chữa trị chẳng lành, cháu mang bệnh, nên chỉ học hết cấp hai, rồi chị chạy vạy cho cháu vào học trường văn thư lưu trữ. Khi ra trường, vác hồ sơ đi xin việc mới khổ làm sao? Ngay cơ quan lao động cũng không chấp nhận người yếu sức khỏe như cháu. Chị phải chạy hàng chục cửa để xin bảo lãnh. Thế rồi trên cũng biết, quan tâm tiếp nhận và xếp cho cháu chân văn thư ở Ủy ban kế hoạch tỉnh.
Chị dừng lời, đưa miếng trầu vào miệng, nhai giập giạp rồi tiếp:
- Các bác biết cháu là con anh Xuân nên thương lắm. Cháu được “cắm” một ô đất ở Việt Trì, tôi cố lo để cháu có một mái ấm!
Rồi chị hỏi:
- Chú thấy chỗ này thế nào?
Tôi cười:
- Rất tốt chị ạ. Nhà nhìn ra cánh đồng bát ngát, bốn mùa đón gió Đông  Nam, nhà lại cạnh đường lớn sạch sẽ, không như nơi ở cũ.
Chị kể:
- Ấy, tôi chuyển ra đây là thế này…
Ngẫm nghĩ giây lát, chị chậm rãi:
- Cách đây gần chục năm, nhân chuyện tôi và ông Chủ tịch xã được đơn vị anh Xuân mời đi dự hội nghị mừng công. Thấy nhà cửa xuống cấp quá lại ở heo hút mãi giữa xóm, ông ấy bảo: đợt này về, tôi báo cáo thường vụ và đề nghị với trên cấp cho chị 300 mét vuông đất đẹp, tiện lợi nhất để chị làm ngôi nhà khang trang.
Tưởng ông Chủ tịch nói vậy thôi, chứ làm được điều đó đâu có riêng ông, còn phải qua nhiều khâu lắm. Nhưng không như tôi nghĩ, chỉ sau thời gian ngắn ông hoan hỷ thông báo việc cấp đất cho gia đình tôi đã được trên phê duyệt. Thế rồi xã lại quan tâm giúp đỡ một phần kinh phí. Kết quả nhà tôi có ngôi nhà mới khang trang trên mảnh đất mới này là nhờ ở tấm lòng của bà con chòm xóm, của xã, của huyện chú ạ.
Chị còn kể lại một kỷ niệm suốt cả đời, có lẽ chẳng bao giờ quên. Ấy là dịp chị được cử làm thủ quỹ tín dụng xã.
Xuất thân từ một phụ nữ nông thôn, nhà nghèo nên được học ít. Chính cái vốn kiến thức nghèo nàn ấy lại làm hại chị. Do sơ suất nên chị đã chi nhầm cho khách 500 đồng. 500 đồng hồi ấy lớn lắm. Chị lo sốt vó. Thôi thế là hết, chị sẽ bị kỷ luật, sẽ bị nghỉ việc. Đối với chị việc khai trừ khỏi Đảng có lẽ đương nhiên rồi, mình không ân hận, vì mình yếu kém về trình độ, mình thiếu trách nhiệm. Nhưng chỉ khổ tâm ở chỗ nếu người đời hiểu lầm cho chị là tham ô, biển thủ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm phụ lòng cả một tập thể đã hết lòng dìu dắt, bồi dưỡng chị trưởng thành, bồi dưỡng chị thành một phụ nữ đảm đang, xứng đáng với danh hiệu vợ người anh hùng liệt sĩ. Chị lại càng tủi hổ hơn, day dứt hơn với hương linh anh. Liệu anh có hiểu cho chị không?
Nhưng mọi việc diễn ra không như chị nghĩ. Lại một lần nữa tổ chức rất sáng suốt đã phân tích, đánh giá đúng sai từng sự việc. Vốn bản chất thật thà, không vụ lợi, tư túi mà chỉ có khuyết điểm do chị trình độ hạn chế dẫn đến sai lầm, thất thoát tài sản. Âu đó cũng là điều dễ hiểu để lý giải một điều muôn thuở: đúng là "cán bộ nhiệt tình có dư trăm lần, nếu kiến thức yếu kém thì công việc khó mà đạt hiệu quả". Sau vụ việc đó, chị được chuyển sang làm công tác phụ nữ đến khi nghỉ hưu.
Chị dừng kể, cầm miếng trầu nhai khô kiệt chỉ còn bã, bỏ vào thúng rác cạnh nhà. Tôi gợi hỏi chị:
- Lâu nay đơn vị ở trong Quảng Bình có hay thăm hỏi gia đình không?
- Cũng có, nhưng ít thôi, vì các chú ở xa quá mà!
Như không muốn tôi khơi lại quá khứ máu lửa, nên chị chuyển mạch:
- Được cái từ ngày tái lập tỉnh đến nay, năm nào các bác cũng quan tâm. Tết nguyên đán đưa xe về mời lên tỉnh ăn tết. Rồi những ngày lễ, ngày tết khác như ngày 27/7 đều có thăm hỏi, tặng quà. Riêng ở huyện, ở xã, các anh ấy lại càng quan tâm.
Chị tiếp:
- Tôi già rồi, chẳng còn sức để phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân nữa. Tôi luôn nhắc nhở cháu Lai, cháu Lâm phải nỗ lực hơn, làm tốt hơn nhiệm vụ được cơ quan giao, gắng đền đáp công ơn trời biển mà Đảng và Nhà nước quan tâm đến gia đình chính sách như mẹ con tôi.
Có lẽ điều chị nói trên đã bao hàm đầy đủ ý nghĩa chân thành của người vợ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân. Điều đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối và đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, luôn chăm lo những gia đình có công với nước để Tổ quốc mãi mãi độc lập, tự do, nhân dân luôn được ấm no, hạnh phúc.
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
5 NĂM LẦN IV (2011-2015)
I. Giải A:
Không có
II. Giải B:
 Không có
III. Giải C: 1 giải
Tập truyện và ký Bách hoa tửu của Nguyễn Nhuận Hồng Phương (Nguyễn Văn Nhuận)
IV. Giải Khuyến khích: 4 giải
1. Tập truyện ngắn Lời hứa lúc cầu hôn của Ngô Mai An
2. Tập truyện ngắn Vũ khúc thiên đường của Nguyễn Thị Minh Ánh
3. Tập truyện ngắn Nước mắt thánh nhân của Đỗ Hàn
4. Tập truyện ký Lai láng tình quê của Lê Tốn (Lê Thuần Thảo)
NGUYỄN NHUẬN HỒNG PHƯƠNG
Bách hoa tửu
Tập Truyện và Ký đoạt Giải C,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ IV (2011 - 2015)
BÁCH HOA TỬU
Không hiểu sao từ hôm lên đây tôi lại tìm tới cái quán nhỏ này để thỏa mãn thói nghiền cà phê và thả hồn tìm thi hứng? Hình như nó sinh ra để dành cho những kẻ lãng đãng, mù mờ, luôn thích sống trên mây, trên gió như tôi. Tôi không lý giải, nhưng chắc hẳn lý do đầu tiên phải bắt nguồn từ cái nhìn đầu tiên, thể như một mối tình được bắt đầu từ cái nhìn sét đánh?
Đúng vậy! Đó là cách đây ít ngày, tôi cùng một số anh em văn nghệ sỹ đi thực tế tìm cảm hứng sáng tác. Khi chiếc xe du lịch ì ạch bò lên dốc rồi quẹo tới chỗ ngoặt. Bất ngờ, một thung lũng tràn đầy mây, tràn đầy nắng, tràn đầy gió hiện ra trước mắt. Giống như một bức tranh khổng lồ với những nét chấm phá do tạo hóa và bàn tay của con người cùng tôn tạo. Thấp thoáng giữa núi non, mây ngàn trùng điệp, những ngôi nhà cũ, mới, mang nét riêng, cao, thấp, nằm lô xô, lếch xếch lúc phơi trong nắng, lúc đằm trong mây, lúc in hình giữa màu xanh ngút ngàn, chạy dọc theo con đường trải dài, uốn lượn quanh co.
Một số người cùng đi tỏ ra thờ ơ, vì họ tới đây đã nhiều lần. Còn tôi, đây là lần đầu. Tôi hạ kính chắn gió, ngó đầu hẳn ra ngoài để ngắm trời, ngắm đất, hà hít tận hưởng cái không khí lành lạnh, rười rượi thấm dần vào da thịt.
Xe lượn lên một khúc cua vừa dốc, vừa gấp, vừa hẹp. Tôi bỗng nhìn thấy em. Không, không phải vậy. Hình như lúc ấy tôi và em cùng nhìn thấy nhau thì đúng hơn. (Có lẽ nên nói như thế mới phải cho một cuộc gặp gỡ tình cờ).
Em mặc áo thun đỏ, tay vịn lan can. Ngôi nhà của em hai tầng, lợp lá cọ, nhỏ nhắn, xinh xắn nằm tựa sát chân núi, bên cạnh là giàn bìm bìm dại, buông dây leo xanh mướt mát, từng chùm hoa tím biếc xòe năm cánh nghiêng nghiêng dáng đợi. Tôi nhìn em như ý hỏi, ánh mắt em như muốn nói sẽ chờ…
Ngay chiều hôm ấy tôi đến, từ trong quán vẳng ra một giọng ca tiền chiến. Thấy tôi, em tắt máy ra cửa đón: “Anh muốn nghe nhạc gì?”. Tôi cố tình trêu: “Nhạc Bethoven, bản giao hưởng số 5 mang tên Định mệnh”. Không đáp, em quay lại đi về phía quầy, một phút sau, tiếng nhạc thánh thót da diết vang lên.
0-1. Tỉ số nghiêng về em, trái tim thi nhân của tôi bị khuất phục. Tôi bưng tách cà phê nhấp để chữa ngượng. Vị đắng dìu dịu tan nhanh trong khoang miệng, mơn man trên lưỡi như nhắc cà phê còn thiếu bạn đồng hành. Tôi quay lại định gọi nhân viên đứng quầy mang cho mình bao thuốc lá, thì thấy em đã cầm ra chính bao thuốc mình muốn. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng không nói gì. Em ngồi xuống ghế đối diện, lấy móng tay gảy băng bao thuốc, vỗ ra một điếu: “Anh hút thuốc”. – “Sao em lại biết tôi thích hút loại thuốc này?”. Tôi hỏi. Em mỉm cười, mắt nhìn vào gạt tàn. Cái cán thuốc tôi bỏ vào lúc nãy nằm cong queo dưới đáy đã mách em. Tôi hiểu ngay và chấp nhận.
Tỉ số đã 0-2.
“Em là chủ nhà hàng này?”. Hỏi xong tôi mới thấy câu hỏi của mình thật vô nghĩa. Em hỏi lại: “Vâng, thế có gì không anh?”. “Không”- Tôi đáp, nhưng rồi không hiểu vì sao tôi lại tiếp tục hỏi thêm một câu còn vô nghĩa hơn: “Cô gái đứng trong quầy kia là nhân viên của em à?”. – “Cứ cái đà này chắc anh sẽ còn lục vấn cả chuyện chồng con của em mất!”- Em liếc nhìn tôi, mỉm cười, nói tiếp – “Có cần thiết phải đặt ra những câu hỏi như thế không anh? Theo em, anh chỉ nên biết những người ở phố Núi, được sinh ra để phục vụ cho các du khách mọi miền tới đây, tìm về những dư vị hoang liêu của vùng đại ngàn cổ xưa này. Còn em, chỉ cần biết anh là người thứ một trăm…”. - “Sao lại thứ một trăm?” - Tôi ngắt lời em. “Đấy, lại hỏi rồi! Anh không nhớ câu ngạn ngữ: Đừng hỏi để khỏi phải nghe nói dối ư? Anh muốn biết, cần có thời gian”.
0-3. Tôi lại thua, tỉ số được nâng lên. Nhưng trái tim gàn dở của thi nhân vẫn cố chấp: “Thời gian ư? Anh còn ở đây đến hết kỳ Uôn cúp mới về. Liệu thời gian như vậy có đủ không em?”. “Thế thì được!”- Em nói - “Nhưng anh đã bao giờ cá độ bóng đá chưa?”. “Chưa. nhưng nếu em muốn, anh chiều”. Tôi cảm thấy thinh thích: “Được, cho anh nhận một đội, còn của em là bất kỳ!” - “Nghĩa là sao?”- “Nghĩa là anh chỉ được chọn nhận lấy một đội, còn tất cả là của em”- “Sao em khôn thế?”- “Anh không dám nhường phụ nữ à?”. Em nói, lông mày nhướn cong như hai dấu ngã. Máu sĩ diện của tôi nổi lên: “Dám! Nhưng thắng, thua ra sao?”- “Anh thắng, muốn gì em cũng chiều. Còn em, có một điều kiện”. Em nghiêng mặt chờ đợi. “Điều kiện gì?”. “Nếu thắng, em sẽ trả lời!”. “Nhỡ…”- Tôi ngập ngừng vì chợt nhớ tới cái túi lép kẹp của nhà thơ… Em như đọc được ý nghĩ của tôi: “Không dính tới tiền nong đâu mà anh lo!” - Có thể đó chỉ là một bông hoa bìm bìm thôi chẳng hạn… - Nếu là hoa, anh sẵn sàng hái một rừng hoa mang về đặt dưới chân em” - Tôi buông một câu có cánh. “Vậy nhé! Ngày mai khi đến đây uống cà phê anh phải đưa ra ứng cử viên vô địch của anh”. Nói xong em đứng dậy vì có khách vào.
Tôi ra về, gọi mấy nhà văn nhà thơ am hiểu và máu mê bóng đá đến hội ý. Sau một hồi cãi vã, tất cả quyết định bỏ phiếu cho đội Bra-xin sẽ vô địch, kèm theo bao nhiêu lời chú dẫn về cách tán tỉnh làm sao để khuất phục được “cô hàng cà phê”.
Hôm sau, tôi mang tập thơ cùng với đội bóng đặt cược tới nhà em. Em đẩy ly cà phê và bao thuốc cho tôi, nói: “Anh đã chọn đội bóng mà cả thế giới nghiêng về phe họ, chắc là em sẽ thua mất!”.
Đáp lại, tôi tặng em tập thơ và cố nặn ra một câu đầy cảm ý: “Tặng em, với tất cả thành ý…”. Cầm tập thơ, em tỏ ra bối rối. “Thế ra anh là thi sĩ?”. Nhìn vào mắt, biết là em chưa tin, tôi đáp lại em bằng cái gật đầu xác nhận. Cứ ngỡ em sẽ dỗi hờn, trách móc khi biết tôi giấu em thân phận mình. Nhưng không, em đứng dậy, đi tới tủ rượu, bê ra một cái bình màu cà phê, sóng sánh một chất lỏng màu xanh dịu, cùng hai chiếc ly đặt lên bàn. “Rượu bách hoa đấy! - Em giới thiệu: Nâng cốc chúc mừng mỹ nhân gặp thi nhân! Chúc mừng uôn cup, chúc đội bóng Braxin với niềm hi vọng chiến thắng của anh”.
Tôi nhăn trán, nhíu mày, căng óc, cố kiểm chứng trong tự điển các loại rượu mình đã uống, đã biết, đã gặp, xem có loại rượu nào là “rượu Bách hoa” không? Thì mỹ nhân đã nghiêng bình rót. Tôi như bị thôi miên, cổ tay mỹ nhân trắng hồng, mịn màng, nổi ngấn, mỗi lần xoay xoay rất điệu, thao tác thành thạo, không rớt ra ngoài đến một giọt, hai thang rượu rót ra ly bằng nhau chằn chặn.
Mỹ nhân lùa đôi ngón tay điệu nghệ nâng ly lên: “Trăm phần trăm nghe anh!” - Câu nói từ miệng mỹ nhân toát ra mỏng như hơi sương bay là là từ khe núi phía xa. Tôi luống cuống cầm ly đứng lên, mỹ nhân lắc đầu: “Nâng ly theo kiểu của em nghe anh!” Tôi chấp hành theo cái lệnh ngọt ngào ấy: xòe kẽ tay, kẹp chiếc ly nâng lên ngang mặt: “Xin mời!” Mỹ nhân lại lúc lắc cổ, nũng nịu ra chiều chưa đồng ý: “Tráo tay rồi mới uống cơ!” Nói rồi mỹ nhân chủ động vòng cánh tay mình vào cánh tay tôi kéo sát lại gần. Hai thành ly chạm, đầu mỹ nhân và đầu tôi chụm vào nhau, có đôi sợi tóc óng vàng, loăn xoăn rũ xuống vương thành ly.
Tôi ngước nhìn, bắt gặp đôi hàng mi cong vút chớp chớp; trong nhãn quan, một màu tro dìu dịu, đôi con ngươi tròn xoe, đen láy, long lanh; xung quanh viên dạ ngọc, chùm tia hình dải quạt lấp lánh phát quang đến kỳ lạ. Tôi đờ đẫn, ngây dại mê man như Đường Tam Tạng bị thứ hào quang ma lực đầy quyền uy của Bạch cốt tinh hút hồn, quyến rũ…
Tôi nghiêng ly định uống, mỹ nhân lại thì thầm: “Ngâm nga từng ngụm nhỏ nghe anh!” Chảy theo âm thanh, hơi thở của mỹ nhân phảng phất một mùi hương lạ. Tôi cố nín thở vì sợ mùi oi nồng, khê khú của kẻ nghiện thuốc lá làm mất đi cái mùi thơm dịu dàng kia, và bỗng nhiên tôi vô thức bắt chước mỹ nhân nhấp nhấp từng ngụm nhỏ…
Tôi bị khuất phục hoàn toàn bởi sự tế nhị của em. Em dành cho tôi một khung trời riêng biệt, một đặc ân riêng biệt, một đặc ân đặc biệt. Cái bàn nhỏ nơi góc nhà, dù tôi chưa đến hoặc đông khách vẫn không có ai ngồi. Rồi như hẹn trước, khi tôi xuất hiện, bản giao hưởng Định mệnh vang lên. Đêm về, tôi cân nhắc, cảm thấy sự ưu ái của em đối với tôi hơi thái quá. Toi trở nên ngốc nghếch khi mang tình em ra cân, đo, đong, đếm. Tôi buồn cười sự huyễn hoặc của mình. Với một người làm thơ thì có gì để mất mà lo! Tách cà phê 7 ngàn, bao thuốc 15 ngàn, có đắt hơn một chút so với miền xuôi, nhưng phù hợp với cái phố Núi cao hơn mặt biển gần hai ngàn mét này. Uống xong, tôi trả tiền đầy đủ, em sòng phẳng không kém, bởi tiền thừa em kiên quyết trả lại, rồi em tiễn tôi ra về kèm theo ánh mắt lưu luyến cùng một câu cảm ơn nhẹ hơn sương núi. Nếu so sánh kiết cùng, tôi thấy mình là kẻ hơn lòng, nếu không muốn tính thành lỗ, lãi.
Kể từ sau ly rượu mừng người đẹp gặp thi nhân, cùng với sự hồi hộp của những trận bóng đá, em và tôi nhích lại gần nhau hơn. Đội bóng Bra-xin “của tôi” lần lượt vượt qua vòng ngoài, tuy khá vất vả khiến nhiều lúc làm tôi lo lắng đến nghẹt thở. Nhưng rồi cũng qua, trên màn hình đội bóng yêu quý “của tôi” bắt đầu bước vào vòng bán kết, còn tôi đang nhâm nhi những giây phút gần kề chiến thắng. Tôi không sợ phải đi hái hoa đặt dưới chân em, mà tôi sợ nếu thua, mình sẽ chẳng được gì. Phần thưởng em tuyên bố “Anh thắng, muốn gì em cũng chiều” kích ứng cho lòng tôi háo hức. Và tôi tin tôi sẽ thắng, cũng như đội “bóng đá ngoài hành tinh” kia tin mình sẽ trở thành vô địch thế giới. Rồi… trong khi họ nâng cao chiếc cúp vô địch, thì ở đây, dưới chân phố Núi, trong căn nhà xinh xắn, bên cạnh mỹ nhân, tôi có quyền chọn phần thưởng cho mình… Dẫu rằng tôi chưa biết sẽ đòi em cái gì? Nhưng chỉ nội những ý nghĩ ấy thôi, đã len lỏi, xuất hứng khiến tình thơ trong tôi dạt dào muốn kết thành tứ, thành câu.
Phố Núi vào chiều, bóng hoàng hôn tím ngắt dần bao trùm lên thung lũng, mây lãng đãng bay, ngàn thông rì rào, ngân nga khúc nhạc… Thiên nhiên thật sự lãng mạn, tự nhiên tôi thấy tâm hồn sao thư thái. cảnh núi rừng nên thơ lại được ngồi cạnh giai nhân, lòng tôi bỗng lâng lâng, tứ thơ dần dần tiết mạch… Tôi hiện nguyên hình là một thi nhân. Với trái tim bi lụy, cảm hứng tuôn trào, dồn nén, nôn nao hy vọng tình thơ phát sáng thăng hoa, câu chữ bật ra những lời châu ý ngọc.
Cũng chẳng dối lòng đâu. Là thi nhân, tôi có nhiệm vụ biến tình yêu cuộc đời thành sự sống trong thơ. Và, ngoài việc làm thơ dâng tặng em, tôi sẽ còn mang về cho anh em văn nghệ sĩ trong đoàn cùng thưởng thức. Tôi mường tượng ra những khuôn mặt ngây ngô như muốn nuốt lấy từng lời, từng chữ, từng ý, từng câu. Có người nghe xong lặng đi, xuýt xoa khen ngợi, rồi so sánh thơ tôi với thơ Hàn Mặc Tử; xếp bài thơ tình của tôi ngang với những vần thơ tình nổi tiếng của cố thi sĩ Xuân Diệu…
Như vậy, em đã không chỉ là cô chủ quán xinh đẹp dịu dàng, mà còn là nàng tiên mang nguồn sáng chiếu rọi vào tâm hồn thi hứng để tôi tha hồ ngụp lặn…
Nhưng tất cả hy vọng đã tan tành, khi đội bóng “ngoài hành tinh” vỡ trận, kéo theo sự vỡ mộng của tôi. Ngày thất trận, đúng giờ như mọi khi tôi tới, quán cuối chiều thưa khách, giọng ca buồn của Duy Khánh lịm tắt, thay vào đó là bản nhạc Định mệnh nhẹ nhàng, thánh thót, ngân nga. Tôi ngồi xuống chiếc ghế nơi góc vắng. Em vẫn đón tôi như mọi khi, dẫu biết rằng mình là người chiến thắng.
Vâng, tôi đến để chờ đợi sự phán xét cuối cùng của người thắng cuộc.
Tôi liếc nhìn “đối thủ”: Em vẫn thản nhiên như người chai sạn, dạn dày trong làng nghề cá cược. Đôi hài cỏ trôi lướt tới quầy tủ, em mở bình, bỏ vào đấy một cánh hoa bìm bìm màu xanh dịu, cánh hoa tím rập rờn.
Em trao ly: “Thành thực chia buồn với thi nhân”.
Tôi run rẩy đỡ, bờ ly nghiêng, rượu sóng sánh tràn ra vài giọt rơi xuống mặt bàn. Em đặt ly của mình xuống, lặng lẽ lấy mảnh khăn lau thấm nhè nhẹ những giọt rượu vừa rơi. Xong, em nâng ly lên chạm nhẹ vào thành ly của tôi: “Uống đi anh”. Thoảng trong tôi là men hương dìu dịu, nhưng vị rượu nhấm vào lưỡi tôi không còn cảm giác.
Còn có vị gì nữa khi chính mình là kẻ bại trận? Trên màn hình ti vi, tiếng người dẫn chương trình đang diễn lại cảnh vũ điệu sam ba của người Bra-xin gẫy cánh, tiếng trống giữ nhịp câm bặt, những giọt nước mắt ố hoen, chảy thành vệt trên những khuôn mặt buồn rượi…
Còn tôi, tin chắc lúc đó mặt tôi cũng nhàu nhĩ không khác chi cái khăn lau trong bàn tay mỹ nhân vừa đặt xuống.
“Anh thua rồi!” - Em uống cạn rồi úp ly xuống mặt bàn. Tôi gật: “Anh chấp nhận mọi điều kiện của em”. “Anh muốn ngay lúc nay?”. “Tùy em, em là người chiến thắng!”. “Không? Đâu dễ vậy? Trước khi hành quyết, em muốn tội nhân của mình được ban hưởng một bữa tiệc cuối cùng”. “Giống kiểu hành quyết thời trung cổ?”. “Rồi anh sẽ biết! Bằng giờ này, mai mời anh đến”.
Thế đấy, thi nhân trở thành “tội nhân”
Hôm ấy, trong bữa tiệc dành cho “tội nhân”, em dẫn tôi lên gác, nơi có chiếc màn hình 29 inch. Chỗ ngồi của tôi là chiếc ghế gỗ đa năng; chếch sang bên cạnh, không quá xa và cũng không quá gần là chiếc ghế mây màu ngà. Khi em thả người xuống, những đường cong của chiếc ghế nhún nhẩy đỡ lấy thân hình óng ả, mềm mại chứa đầy khêu gợi. Không hiểu vô tình hay cố ý, em mặc chiếc áo thun cổ tròn màu đỏ, cái áo gợi cho tôi nhớ tới lần đầu tiên tôi và em gặp nhau.
Em là người chu đáo, bữa tiệc khá thịnh soạn, có thịt rừng miền sơn cước, có rượu bách hoa với màu xanh dìu dịu. Nếu không có chuyện cá cược kia, và tôi không là kẻ thua trận, tôi sẽ tin đây là bữa tiệc của mỹ nhân dành cho hiệp khách thắng trận trở về.
“Uống đi anh - Em nói - Kẻ tội đồ của em”. Kẻ tội đồ nhìn em: “Anh uống rượu kém lắm, em ra điều kiện đi?” Em thì thầm: “Đừng vội anh”.
Em chuốc cho tôi uống tiếp. Men say lan tỏa, khiến tôi chòng chành như con thuyền lạc giữa hai dòng nước. Tôi quên đi mình là kẻ bại trận, trở về với dòng máu thi nhân. Tôi nhìn em đắm đuối, em đáp lại tôi bằng bản ngã trần gian. Tôi mê muội, hồn lâng lâng… Trong men say tôi nhận thấy men tình. Lời phán quyết cuối cùng của người chiến thắng, quyến cuộn nhục thể. Tôi hiểu ra tôi đang đến cùng em bên bờ vực của mọi điều cám dỗ… Tôi chấp nhận “hình phạt cùng em “tên đồ tể ái tình”.
Hình như men rượu Bách hoa không chỉ kích thích cho cảm hứng của thi nhân muốn buông lời nhả chữ, mà còn cho bổn phận khát khao tìm về với bản năng hoang dại, sơ khai. Bản ngã tôi muốn đòi thèm từ em một cái gì không rõ nghĩa. Trong đầu tôi vần điệu thơ thanh thoát trào dâng, còn thể xác tôi lại vô cùng trần tục, ảo giác cho tôi nguồn hứng thi ca, thực tại thúc ép tôi đào bới những khoái cảm siêu phàm. Tôi lâng lâng mặc cho tâm hồn bảng lảng, mặc cho sự thèm ước trỗi dậy râm ran.
Tôi nhìn em, em nhìn tôi, giữa chiều hẹp không gian, khoảng cách mong manh xuất hiện một ma lực vô hình cuốn gợi. Tâm hồn tôi thăng hoa, thân thể tôi bốc lửa… Chiếc áo thun màu đỏ trở nên mỏng mảnh vô nghĩa, thể như bức rào cách ngăn cần gỡ bỏ cho sự tự do siêu thoát… Như bức tường tù túng cần phải đập bung cho không khí ngập ùa...
Ta sẵn sàng làm kẻ “tội đồ”. Cùng ý nghĩ, tay tôi vung, lòng thổn thức, miệng lảm nhảm van xin. Một lối xin van không ý thức mà tràn đầy sự mê lú mong giải thoát. Nếu không có lẽ tôi sẽ trở nên loạn điên vì bức quẫn… Đôi mắt tôi lờ đờ, vô vọng, cái nhìn cháy bỏng thiêu đốt nhưng cũng tràn ngập khẩn cầu. Niềm phức cảm vật lộn giành giật giữa con người và con thú. Sáng láng minh triết là phần người, giông bão mãnh liệt là phần thú. Nửa nào cũng đòi hỏi cho riêng mình một thỏa mãn khát thèm…
Tôi đang mung lung trong cơn mê muội không cùng thì em nhổm dậy. Chiếc áo thun thấp thoáng, tha thướt, lúc gần, lúc xa, lượn lờ, rập rờn, níu vẫy. Tôi chới với, em chìa tay cho tôi ấp lên đó một bàn tay.
Ai dắt ai, ai dìu ai lúc này còn có ý nghĩa gì đâu. Cả hai riết róng quấn lấy nhau, cùng cố vươn tới nơi có mạch nguồn cho kẻ khát, nơi có ngọn gió hoang vu xoa dịu nỗi oi nồng.
Rạo rực và đê mê, tôi ngoan lành làm con thiêu thân lao vào bóng hoa đăng trong đêm kinh trập. Dục vọng hóa thân thành sự cuồng nộ, thè lưỡi liếm, nhe nanh gào, kích hứng, bung phá cho đòi hỏi cuối cùng…
Bỗng có tiếng động rồi tiếng mâm bát rơi loảng xoảng. Em hổn hển: “Mặc!” Sau câu nói bất cần, em chà lên tôi, lăn tròn trên sàn nhà, những hoa văn trang trí dưới tấm thảm lót nền xoắn vòng kéo theo hai thân xác cuồng si, bạo liệt…
Bóng đêm ngoài trời ập xuống nhưng không gian gác hẹp, bình minh của ái tình vụt sáng. Vội vàng hấp tấp, tôi đưa bàn tay mở cánh cửa cuối cùng…
“Thôi anh! Thế đủ rồi!” - Tiếng em nói kèm theo hành động chối đẩy tôi ra khỏi thân xác. - “Dậy đi anh” - Em nói tiếp.
Tôi lóng ngóng đứng lên. Thái độ của em làm tôi hẫng hụt. Mọi thứ trong người tôi đang căng cứng bỗng trở nên nhão nhoẹt, chùng mềm như dây đàn tuột phím.
“Sao thế em?” -  Tôi hỏi, giọng tiếc nuối.
Em không trả lời, đi tới mở tủ, lấy ra chiếc áo măng tô choàng lên người. “Đi với em”.
Tôi định hỏi nhưng rồi ghìm lại được. Mặc! Tôi nhủ thầm, muốn đến đâu thì đến!
Phố Núi, đêm chìm sâu, tĩnh lặng, những ngọn đèn trên mái nhà dưới thung lũng lấp ló ẩn hiện trong màn sương dày bao phủ, khiến cho tôi cảm tưởng như vạn ngàn tinh tú nằm ngay dưới chân mình. Tôi ngửa mặt nhìn lên, bầu trời đen thẳm, trăng hạ tuần lơ lủng mảnh như chiếc lá rơi vào khoảng không bao la.
Lên tới đỉnh dốc, em dẫn tôi rẽ vào đường mòn. Lối hẹp không thể đi sóng đôi, ánh trăng yếu ớt xuyên qua tầm lá thưa rải nhẹ trên mặt đường. Em quen lối nên bước khá nhanh. Tôi lẽo đẽo theo sau, đôi giày “lười” lúc lúc chực tuột khỏi chân. Tới một cánh rừng lá kim. Gió thổi từng đợt, rừng cây xao động, âm thanh u ơ, rin rít nấc nghẹn từng chập, từng chập, như tiếng cô hồn nỉ non lúc xa, lúc gần, vòng vọng theo gió đưa.
Vừa đi tôi vừa tự hỏi: Không biết em dẫn tôi đi đâu và định làm gì? hay em là … ma? Thứ ma lai, ma xó, ma cà rồng… chuyên dẫn rủ những người ưa thích vào rừng sâu để cắn cổ hút máu? Chắc không phải - Tôi tự nhủ - Là ma thì làm sao lại có thể hữu hình như vậy. Tôi chẳng đã cùng em bạo liệt, cuồng si, mê dại đến thế rồi sao? Hay em muốn dẫn tôi vào một bãi cỏ êm, giữa thiên nhiên kỳ thú, nơi hoàn toàn thanh tĩnh để thỏa mãn cơn đăm đắm của dục tình?
Bỗng nhiên, rất nhiều những giả thuyết sáng, tối nảy sinh trong đầu tôi. Trong khi đó, cái bóng mờ ảo của em như ma trơi, lúc ẩn, lúc hiện, thấp thoáng trong rừng cây phía trước.
Tới một triền dốc, em dừng lại. Trước mắt tôi, ven trảng núi trống trơn, một bãi tha ma hiện ra. Dưới ánh trăng, những nấm mồ lạnh lẽo, chơ vơ, lạc lõng, cao thấp, lô xô, lếch xếch ngổn ngang nằm dọc theo triền núi, từng đợt gió hoang từ thung sâu thổi ràn rạt, khiến những phiến lá tầm ma thanh mảnh mọc trên đỉnh mộ phơ phất, vẫy lùa như làn tóc rối bời chưa kịp chải.
Tôi rùng mình hỏi: “Sao lại tới đây? - “Đây là thế giới của em!”
Trời ơi! Câu nói lạnh lùng toát ra từ cửa miệng em làm tóc gáy tôi dựng đứng. Dẫu từng là chiến binh, dẫu từng bao lần gần kề cái chết trong chiến trận, nhưng quả thực chưa bao giờ tôi gặp cảnh này.
“Đây là nghĩa địa dành cho những người mắc bệnh ết (*) -Vừa nói em vừa kéo tôi đi vào giữa lối hẹp của những nấm mồ “Anh có biết lần đầu tiên khi biết mình bị mắc căn bệnh ấy, em nghĩ gì không?” Tôi chưa biết trả lời ra sao, em nói tiếp: “Chán chường và tuyệt vọng. sau bao đêm mất ngủ, em thề sẽ phải trả thù, trút phẫn uất vào đủ một trăm thằng đàn ông. Và… và đêm nay anh chính là người cuối cùng. Khi em bỏ cánh hoa vào bình rượu, anh đã là người thứ một trăm, phần kết cho một nỗi căm hờn… ”
Toàn thân tôi ớn lạnh! Cũng may tôi chưa kịp…
“Nhưng sao em?... ” – Câu hỏi tôi nghẹn nấc.
“Xin anh đừng nghĩ em thánh thiện. Chẳng qua, đó là vì những vần thơ anh đã tặng cho em”. Tôi ngỡ ngàng: “Vì thơ của anh?”. “Đúng!” Em khẳng định - Suốt một đời bán hoa, đây là lần đầu tiên em được một người tặng thơ mà không phải tặng tiền” - “Anh không hiểu?”… - “Anh có biết không? Suốt đêm em đã đọc những bài thơ của anh. Em không nghĩ bây giờ trên đời này lại có thứ người ngây ngô, ngốc nghếch đến vậy. Tình yêu quê hương và tình yêu đôi lứa trong những vần thơ anh viết làm cho em xúc động. Anh đã cho em trở lại đứa bé con ngày xưa khi cắp sách tới trường, anh cho em về với cô thôn nữ lần đầu tiên hẹn hò với người trai làng bên bến sông quê… Lâu lắm rồi, lâu lắm rồi em mới lại tìm thấy cảm giác thèm muốn hiến dâng trọn vẹn. Ôi, giá chi phần người trong em đừng trỗi dậy… Ôi, giá chi anh là thằng đàn ông khốn nạn như bao thằng đàn ông khốn nạn khác, ném tiền rồi vấy lên thân xác em những gì cần giải thoát. Còn em, hân hoan cùng cảm giác là niềm vui đắc thắng được trả thù”.
Em dừng lời, bàn tay em cầm tay tôi nóng rực, có lẽ em quá phẫn cảm. Chợt em buông tay tôi ra, quay lại đứng đối diện với tôi: “Em vốn là gái quê mà anh. Năm mười sáu tuổi em theo gia đình lên đây khai hoang. Lúc ấy, cái phố Núi này mới có dăm nóc nhà, vài chục hộ sống quây quần. Không đông đúc, náo nhiệt mà thanh bình, êm ả làm sao…”
Giọng của em bỗng dưng thật nhẹ, thật nhẹ, âm thanh rên rả khuất chìm vào những vùng tối lịm… Bỗng tôi nhìn thấy nhòa trong màu chết, dưới ánh trăng hạ tuần, phía vực sâu trước mặt, một dải mây bềnh bồng, mỏng tang, hình chiếc khăn phu la theo gió vẫy đùa…
“… Anh nhìn đi, anh nhìn đi…” - Giọng em trở nên nghẹn ngào, khắc khoải: “Những người nằm nơi đây, đa phần là gái làng chơi. Khi sống, họ là những thiếu nữ xinh đẹp, đoan trang, thùy mị. Họ muốn có một cuộc đời thật đẹp, nhưng vì hoàn cảnh và số phận trớ trêu không cho họ sống theo ý muốn. Cũng như em!... Cũng như em!...
Vạt mây hình chiếc khăn phu la tan loãng, lời em nghẹn tắc, chới với, em chực ngã, tôi vội vàng bước tới, dang tay đỡ tấm lưng thon thả, một cảm giác ấm nồng từ người em lan sang, xua đi cái lạnh giá run rẩy từ nơi tôi…
Chú thích:
(*) Nhân vật nói tắt, chỉ căn bệnh HIV/AIDS

TRUYỆN VIẾT Ở ĐẦM CÒ
Gọi Tùng cò, bởi  ngày đầu tiên gặp nhau ở kí túc xá sinh viên trường Đại học, tôi chưa gõ mà hắn đã xưng: Tôi tên Tùng, nhưng vì nhà ở Đầm Cò nên mọi người gọi vậy để phân biệt với những người trùng tên.
Không biết có phải vì sinh ra ở Đầm Cò mà cái biệt hiệu “cò” lại rất đúng với phong thái bề ngoài của Tùng : khuôn mặt dài, lưỡng quyền nhô, xương cằm bạnh như hàm rắn; người cao, dáng mảnh khảnh, “đầu gối quá tai” bước cà nhắc theo đúng nhân gian thường ví: “Trông như cò hương”.
Tùng cò và tôi trọ chung phòng và học cùng khoa Tài nguyên và Môi trường. Tính Tùng cò hiền lành nếu không gọi là nhút nhát. Nói năng nhỏ nhẹ, ít giao du, học bài xong ngồi lì trong phòng đọc sách; thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ không ở lại thành phố mà vội vội, vàng vàng ra bến leo tót lên xe khách về quê, tối mịt chủ nhật hoặc mờ sáng thứ hai mới có mặt ở trường. Một lần tôi hỏi đùa: Có em nào bỏ bùa mê thuốc lú cho cậu hay sao mà tuần nào cũng về? Mặt Tùng cò đỏ ửng, đưa tay gãi đầu: Không về người ta lại tưởng mình ra thành phố quên người nhà quê, phiền phức lắm.
Như vậy đích thị Tùng cò đã có người yêu và hai đứa chắc phải yêu nhau lắm lắm. Tôi đoán vậy và mặc dù rất thân, nhưng nói theo cách nói của bọn sinh viên không “xắn quần lội vào đời tư” của người khác nên tôi không hỏi. Nhưng học dở năm thứ ba thì đột ngột Tùng bỏ học cùng với tin bố Tùng phạm tội bắn chết người phải đi tù. Bặt tin từ ngày ấy, đột nhiên sau gần mười năm, tôi nhận tin Tùng mời về nhà chơi với lí do đơn giản: Nhớ hồi cùng học, tôi có hứa sẽ mời anh về ăn một bữa “lẩu cò”.
Cưỡi xe máy hơn trăm cây số về tới ngã ba phố huyện quê Tùng. Tôi hỏi một em bé chăn bò. Đứa bé nhìn tôi suốt lượt như kiểm chứng rồi hỉ hả: “Vậy chú không phải là dân câu rồi. Chắc chú đến để học tập cách làm kinh tế của chú ấy chứ gì? Tôi ừ hữ, chú bé chỉ tay về dãy núi xa xa nói tiếp - Chú cứ theo dọc con đường kia, khi nào nhìn thấy vết cứt cò là đến cơ ngơi của chú Tùng cò”.
Đúng như lời chú bé chăn bò nói, ngoặt vào lối rẽ tôi bắt gặp những bãi phân cò trắng như vôi rắc. Trước cổng vào có một chiếc lán rộng và một tấm biển ghi rõ: “Khách đến Đầm Cò làm ơn để xe có động cơ ở đây và tránh gây tiếng động cho cò”. Tôi tắt máy dắt xe vào; trong lán đã có mấy chiếc ô tô bốn chỗ và hàng chục chiếc xe máy dựng thành hàng. Quanh bờ đầm, dưới những chiếc lều nhỏ lợp lá cọ nằm xen kẽ giữa hàng cây ăn quả lâu năm, các “đệ tử của Lão Vọng” mắt đắm đuối theo dõi phao câu, im phắc như tượng gỗ trong chùa; tay cầm cần theo tư thế sẵn sàng… giật.
Vậy ra đây là nguồn sống chính của Tùng. Tôi lẩm nhẩm rồi mở cổng đi vào. Đầm Cò rộng mênh mông ngoài trí tưởng tượng của tôi. Mặt đầm trải tít đến gần chân dãy núi. Từng làn sóng nối nhau vỗ bờ ì oạp. Giữa đầm một bãi nổi với cánh rừng bát ngát rời rợi màu xanh. Gió thổi lộng, rừng cây đu đưa, nhấp nhoáng ẩn, hiện trong những cánh cò trắng phau rập rờn giữa màu xanh tinh khiết. Không khí trong lành và cảnh quan thơ mộng gợi trong tôi về với miền cổ tích...
Đang ngất ngây ngắm phong cảnh, đột ngột một con chó to bự, lông xù xồ ra kèm theo tiếng sủa vang. Tôi giật mình nghiêng người thủ thế. Con chó nhe nanh gầm gừ… Một tiếng quát giật giọng từ trong lều ném ra: Lu, hỗn nào, vào! Con chó cum cúp quay lại. Tùng từ trong nhà bước ra.  
Tôi không tưởng tượng nổi sự đổi thay của Tùng: Cái dáng “Trông như cò hương” biến đâu mất, trước mặt tôi là một thân hình vạm vỡ, da cháy nắng, đầu húi cua, bước đi nặng chịch chắc chắn đích thực một tráng nông chi điền.
Tùng mời tôi vào lều. Gọi “lều” bởi vách được ốp bằng những thân cây sậy, lợp cỏ gianh xuôi mái. Trong lều, ngoài chiếc giường, là cái sạp nứa, vật đáng giá duy nhất là cây đàn ghi-ta treo trên vách cạnh bức ảnh một nam, một nữ đứng sóng đôi, cả hai đều mặc đồng phục Thanh niên xung phong thời chống Mỹ. Như đọc được ý nghĩ của tôi, Tùng rót bát nước mời tôi rồi nói: Tôi mua được mảnh đất hơn một trăm mét vuông ở khu giãn dân rồi; gạch, ngói, gỗ lạt, tre pheo, tiền công thợ cũng đủ rồi. Nhưng đợi khi nào bố tôi được ra tù thì sẽ khởi công. Tôi hỏi: Thế ông cụ bao giờ mãn hạn? Ngày mai - Tùng đáp - Bố tôi bị kết án mười năm, nhưng ông cải tạo tốt nên được hưởng chính sách ân xá tha trước thời hạn hai năm. Nhưng thôi, chuyện đâu bỏ đó, bây giờ ta đi ăn đã, chắc đi xa như thế anh cũng đói rồi.
Tùng kéo tôi ra ngồi ở bộ bàn ghế được đẽo gọt thô sơ từ những gộc cây còn nguyên rễ và sẹo mắt xù xì kê dưới tán một cây khế cành lá sum sê, lúc lỉu quả và những chùm hoa tím sẫm. Ngay sát bờ đầm nơi chúng tôi ngồi là chiếc thuyền thúng được neo bằng sợi dây thừng bồng bềnh rỡn đùa cùng sóng nước...
Dường như đã chuẩn bị, trên mặt bàn bày sẵn bát đũa, vò rượu và mấy thỏi cơm lam. Tùng nhấc chiếc lò chứa than củi đặt lên mặt bàn, nhóm lửa, bật quạt thổi cho than hồng rồi xuống rệ đầm xách giỏ cá lên - Tôi mời anh lên ăn lẩu cò nhưng đó chỉ là nói đùa thôi - Tùng mở giỏ bắt ra những con cá rô mình vàng ươm - Từ ngày bố tôi đi tù, tôi thề không bao giờ ăn thịt cò nữa. Thay lẩu cò, tôi đãi anh món cá rô đồng nướng than củi dành dành nhắm rượu và ăn với cơm lam. Cơm lam tay tôi làm, rượu tự nấu, cá bắt dưới đầm, cây dành dành mọc ven bãi nổi ở Đầm Cò lúc nào cũng sẵn.
Tùng xiên cá gác lên bếp than hồng, tiếng than reo tí tách, vẩy cá nở như hoa, Tùng lấy lông gà tẩm nước gừng phết lên từng lượt rồi lật đi lật lại, cá bén lửa tỏa mùi gừng thơm lựng. Cá chín, Tùng bóc, gỡ ruột bỏ đi rồi đặt vào bát tôi: Cá này phải ăn nóng mới ngon. Uống rượu xong thì ăn cơm lam. Các anh ở thành phố thiếu gì đặc sản, nhưng bảo đảm ăn xong bữa này anh sẽ nhớ đời.  
Tùng rót rượu ra bát đưa cho tôi - Anh thông cảm, ở trên này chúng tôi có lệ uống rượu bằng bát. Nào mời anh - Tùng nâng bát rượu cụng vào bát của tôi. Cứ uống xong một ngụm Tùng lại chìa tay ra: Anh thông cảm, trên này có lệ cứ mỗi lần cụng là phải “giật giật, lắc lắc”. Nói rồi Tùng cười, nụ cười như tự giễu với cái “văn hóa nửa mùa” ấy.
Tôi vừa nhâm nhi vừa nhìn Tùng. Quả thực tôi không tài nào nhận ra chàng sinh viên Khoa Tài nguyên và Môi trường ngày xưa nữa. Hết cả sự rụt rè, e nép; hết cả tiếng nói, cười nhỏ nhẹ. Thay vào đấy là một Tùng lanh lợi, tháo vát, vẻ bụi bụi của một người từng trải. Sau ba tuần rượu, Tùng kể:
- Bố mẹ tôi cùng đi thanh niên xung phong một đợt - Tùng ngả người tựa vào gốc khế, nhìn về phía bãi nổi - Lúc ra quân thì ông bà làm đám cưới. Nhưng vì cả hai đều nhiễm chất độc màu da cam, nên chữa chạy thuốc thang mãi mới có tôi. Hồi ấy khu vực này làm gì có người chỉ là khu đầm hoang mà anh. Theo lời kêu gọi vỡ đất hoang hóa, phủ xanh đồi trọc, bố mẹ tôi xung phong ra đây. Mới đầu là vượt bờ, thưng ruộng, cấy lúa. Nhưng anh tính, đất ở đây ngập phèn, chạt váng vàng như đồng thau, bong bóng sủi tăm nổ như rang ngô, không khau nước được, lúa đến thì con gái úa rực như tơ tằm, gặt về những rơm là rơm. Sau mấy lần thất bại, bố mẹ tôi bàn nhau chuyển hướng. Bố tôi bảo: Các cụ ta có câu “Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc” Mình không có gan gá bạc thì chịu khó làm đầm thả cá. Thế là bố mẹ tôi ngày ngày xì xụi khơi dòng, vạ đất đắp bờ. Không có tiền mua cá giống, mẹ tôi ra chợ mua những mớ cá ế mang về; con sống thả đầm, con chết để ăn. Nhưng ông trời không thương bố tôi. Lúc tôi lên bảy tuổi thì mẹ tôi qua đời...
Tùng nhấp thêm ngụm rượu, mặt không còn lựng đỏ mà dài dại, tinh mắt đờ đẫn như gánh nặng quá khứ đang đè nặng lên tâm hồn. Tôi lo lắng sợ Tùng quá chén, nhưng Tùng lắc đầu: 
- Anh an tâm đi. tôi không phải là kẻ mượn rượu giải sầu. Hôm nay có anh nên tôi muốn trở về với những điều từ bao lâu nay ấp ủ trong lòng. Ai cũng có quá khứ, dẫu đó là niềm vui hay nỗi buồn. Và ai cũng muốn được thổ lộ, trần tình cho nguôi ngoai hoặc sẻ chia. Nhưng cuộc đời đâu giản đơn như ta nghĩ. Có những nỗi niềm ẩn khuất không thể thốt thành lời. Phải chăng đó là số phận? Mà sao số phận ấy lại đến với bố con tôi? Bố tôi suốt một đời tận tụy. Một thời tuổi trẻ hiến dâng cho đất nước; về già muốn vượt qua nghèo khó thì lại mắc vòng lao lý. Có đứa con duy nhất thì bỏ trường đại học về đây làm ông chủ hồ câu và trông nom một bãi cò hoang.
- Vậy ra ông cụ vẫn nghĩ anh đi học đại học? - Tôi hỏi.
- Đúng là bố tôi vẫn nghĩ tôi học xong đại học và đi làm rồi. Vì vậy tôi lo sợ cái ngày mai. Cái ngày bố tôi biết sự thật về đứa con mà ông đặt hết niềm hy vọng vào. Bằng cả tình yêu phụ tử và trách nhiệm máu thịt...
Đang nói Tùng dừng lời vì có người tới. Người khách là dân câu vì cái  túi đựng đồ câu khoác trên vai nói lên điều đó. Tùng xởi lởi: Được con nào chưa mà anh về sớm thế? Ngồi làm với bọn em tợp rượu đã. Người khách câu gật đầu chào, hạ túi đồ, ngồi xuống, giọng tiếc nuối: Chán quá, tớ phải về vì vợ điện nhà có việc đột xuất. Hơi tiếc, mồi thả vừa chín, cá lượn vòng quanh, tăm nổi ùng ục... Anh ta vừa nói vừa móc túi lấy tiền ra. Tùng xua tay: Em không lấy đâu. “Luật” rồi mà anh, ai đến câu ở Đầm Cò “bị móm” em không thu tiền, mồi thả xuống coi như để nuôi cá.
Người khách nhét tiền vào chỗ cũ: Đã là “luật” thì phải chấp hành thôi. Nhưng Tùng này - Người khách câu cầm bát rượu Tùng vừa rót chạm đánh “keng” vào bát của tôi, rồi ngửa cổ dốc “ực” một cái vào cổ họng - Cậu có cách kinh doanh khác bọn hồ câu dưới xuôi. Bọn dưới ấy, đã ném mồi, buông cần là nộp hết, được, hay “móm” không “oong, đơ” gì hết. Kiểu kinh doanh như cậu, thiệt trước mắt nhưng được cái về lâu dài - Kết luận xong người khách câu đứng dậy - Thôi, chúc các vị ngon miệng, “bai” nhé! 
Chờ người khách đi khuất, tôi hỏi: Mỗi hôm quân bình thu được bao nhiêu hả Tùng? Tùng cười: Cũng tùy, nhưng vào thứ bảy, chủ nhật hay ngày lễ thì khá hơn. Dân câu thích câu ở Đầm Cò vì cảnh trí ở đây đẹp, môi trường sạch, có dòng đối lưu nên nước sạch, cá không bị ô nhiễm.
Tôi hỏi: Tiền thu thế nào? Tùng mân mê chén rượu: Tôi thu theo ca mà anh. Bốn tiếng gọi là một ca, mỗi ca năm mươi nghìn. Nửa tháng thả thêm cá một lần, loại bé nhất cũng trên cân một con. Đầm Cò sẵn phù du nên cá nhanh lớn. Anh tính, ngồi ôm cần câu cả ngày, không giật được con nào chán lắm. Mà tiền câu, tiền mồi tính ra nhiều hơn cả tiền mua cá ở chợ. Nhưng đã nghiện câu rồi, tuần không ngồi được một lần là không chịu được. Chả thế dân câu thường nói đùa với nhau: Nhìn phao câu nhiều hơn nhìn mặt vợ.
Tôi hỏi: Thế còn đàn cò, thu hoạch khá không? Tùng xiên thêm mấy con cá nữa đặt lên lò than: Không! Cá và cây ăn quả là nguồn thu chính của tôi, còn đàn cò là tôi làm theo ý nguyện của bố tôi. Anh biết không, tôi nhớ hồi còn nhỏ, một lần bồ bơi từ bãi nổi về, ông bế thốc tôi lên chạy ra bờ đầm, chỉ tay vào rừng cây trên bãi, reo: Tùng ơi, có cò tha rác về làm tổ trên cây rồi. Kia kìa... con có nhìn thấy không?
Tôi bé biết gì đâu, vả, những con cò với tôi chẳng là gì hết. Tôi chế súng cao su rình bắn, kiếm nhựa dính giăng bẫy bắt cò. Bố biết, không giận mà bắt tôi ngồi xuống trước mặt giảng giải: Theo cố nội kể cho bố biết, trước kia đây là nơi trú ngụ của các loài muông thú, nhưng nhiều nhất vẫn là đàn cò, vì thế nên mới gọi là Đầm Cò. Sau đợt Tây càn, bãi nổi bị đạn đại bác bắn vào cháy rụi nên muông thú, chim muông bỏ đi hết. Bây giờ tự nhiên có đàn cò về làm tổ, đó là điềm lành cho bố con mình. Con chim có tổ cũng như con người có nhà. Vậy nên con đừng phá, giữ yên ắng cho cò có nơi có chốn...
Những điều bố nói cộng với hành động của ông thấm dần vào tôi. Tôi nhớ mỗi lần đàn cò về muộn, bố không ăn cơm mà ra bờ đầm trông ngóng, cho đến khi những cánh cò như dải chớp trắng theo hình mũi tên bay về tổ ông mới thở phào nhẹ nhõm... Với ông, dường như đàn cò là tất cả. Tôi bị lây tình yêu của bố, nên khi thi đại học tôi quyết định thi vào Khoa Tài nguyên và Môi trường.
Cho đến khi tôi vào đại học, đàn cò ở bãi nổi đã có trên một nghìn tổ. Bố tôi vui lắm. Ông thường ra ngồi ở đây, nhấp chén rượu ngắm đàn cò, gảy đàn và hát những bài hát nói về một thời thanh niên xung phong.
- Vậy sao anh không làm theo ý nguyện của ông cụ? - Tôi hỏi. Tùng nhìn tôi với ánh mắt đượm một nỗi buồn khó tả: Anh còn nhớ hồi còn ở kí túc xá không? - Thứ bảy, chủ nhật nào tôi cùng về. Thú thực với anh, lúc ấy tôi về vì tôi đang yêu. Nàng tên là Khế, học sau tôi hai lớp, nhà ở phố huyện, con út một chủ thầu bất động sản. Tôi bị nàng cuốn hút, nên yêu cả cái tên mà theo bạn bè không xứng với sự xinh đẹp của nàng. Tuy là con nhà giàu nhưng nàng không kênh kiệu. Có lần nàng nói với tôi: Em thích cái Đầm Cò của anh hơn cái biệt thự mà bố em xây làm của hồi môn cho em. Để chứng minh tình cảm của mình, nàng mang đến cho tôi một cây khế non và bảo: Anh trồng và chăm sóc cẩn thận và hãy coi đây là tấm lòng của em... - Tùng vỗ tay vào thân cây khế - Cây khế này chính là cây khế nàng mang cho tôi đấy, đã mấy mùa trổ hoa, đơm quả rồi mà mọi thứ vẫn còn dang dở...
Ngừng một lát Tùng nói tiếp: Chính tình yêu của nàng đã cho tôi vượt qua sự mặc cảm thân phận của mình. Nhưng sự đời thường không như ta nghĩ. Vào một buổi chiều ở trường về, lúc đến đường rẽ tôi gặp anh trai nàng đi từ trong nhà tôi ra, anh ta đỗ xịch xe lại trước mặt tôi, nét mặt hằm hằm: Này thằng Tùng kia, từ nay tao cấm mày gặp em gái tao, nếu không đừng trách tao nói trước. “Đũa mốc lại chòi mâm son”. Buông xong câu thành ngữ anh ta rồ ga phóng vút đi.
Về đến nhà, tôi thấy bố tôi ngồi dưới gốc cây khế mặt buồn rượi. Tôi hỏi: Có chuyện gì đấy hả bố? Bố tôi thở dài: Bố con ông chủ thầu bất động sản muốn bố nhượng lại quyền thuê khu vực Đầm Cò để xây biệt thự mi ni. Trong thời gian ấy bố tôi lo lắm. Ông sợ khu Đầm Cò về tay người khác thì đàn cò sẽ mất. Bố tôi lên tỉnh đưa đơn yêu cầu. Thật may Ban Bảo vệ Tài nguyên và Môi trường cử cán bộ xuống xem xét. Họ đánh giá cao việc cải tạo môi trường và gây lại đàn cò của bố tôi nên làm văn bản đề nghị địa phương cho bố tôi kí lại hợp đồng.
Không chiếm được khu Đầm Cò, anh trai nàng tức giận, ngoài việc ngăn cấm hai đứa tôi gặp nhau, thi thoảng anh ta đi xuồng cao su vào bãi nổi bắn chim. Bố tôi bực lắm, nhưng sức yếu, người bảo vệ không có, mà bố tôi lại sao được với những kẻ cố tình phá phách. Sau mỗi lần như vậy, bố tôi lại đi thuyền thúng ra bãi nổi nhặt cò mang về, con chết thì chôn, con bị thương thì chạy chữa, lành lặn lại thả về bãi. Có nhiều lần, tôi thấy ông vừa chôn xác cò vừa gạt nước mắt...
Kể đến đây, dường như xúc động về những hồi ức được nói ra, đôi mắt Tùng đẫm lệ. Tôi dứt tờ giấy lau đưa cho Tùng. Tùng thấm nước mắt rồi lật tờ giấy nhặt những cánh hoa khế tím biếc rụng trên mặt đất để vào. Anh nói tiếp:   
- Vào cái hôm định mệnh ấy, tôi chèo thuyền thúng sang bãi nổi với mục đích gặp anh ta nói chuyện. Khi đến nơi, tôi thấy anh ta đầu đội mũ nồi đỏ, mặc bộ quần áo rằn ri, miệng phì phèo thuốc lá; súng hai nòng lăm lăm trong tay. Thấy tôi nhưng anh ta coi như không có, giương súng lên ngắm bắn. Một tiếng nổ vang, đạn ghém tỏa thành vầng, khói bay mù mịt; lũ cò xáo xác; những con cò trúng đạn rơi xuống như sung rụng. Không kìm được, tôi kêu lên: Không được bắn! Bất cần, khẩu súng nhả thêm một phát nữa; những con cò đang bay lơ lửng trên bầu trời trúng đạn táp cánh rơi xuống ngay trước mặt. Nhìn những con cò máu chảy đầm đìa, giãy đạp, nhoai nhóp, đôi cánh non tơ vãy vãy, vươn cần cổ, há mỏ ra kêu cứu... lòng tôi quặn đau như chính mình trúng đạn...
Tôi thảng thốt, nghẹn ngào, rên rỉ: Dừng lại đi, tôi cầu xin anh đấy, xin hãy để cho đàn cò được yên. Nhưng anh ta không một chút động lòng, ung dung nạp thêm đạn và tiếp tục giơ lên ngắm. Không chịu được nữa, tôi lao đến chộp khẩu súng. Anh ta khỏe nhưng tôi nhanh, tôi giằng được khẩu súng, giương nòng súng chĩa thẳng vào ngực anh ta: Anh mà còn làm thế tôi sẽ cho anh một phát. Anh ta cười nham nhở, lấy chân di di những con cò đang giãy giụa dưới đất: Bắn đi! Bắn đi! Tao thách cả bố con mày đấy! Nói rồi anh ta vung chân đá những con cò bị thương nằm dưới đất như người ta đá bóng.
Tôi nhìn anh ta, nỗi tức giận ùa lên nghẹn đứng. Tôi cố kìm vì nghĩ dù sao đó cũng là anh trai của người yêu mình. Tôi lấy giọng ôn tồn: Anh đừng vào đây phá phách. Tôi hứa từ nay sẽ không gặp gỡ với em gái anh nữa. Anh ta cười sằng sặc: Mẹ kiếp, cha con mày là hạng “cứt nát có chóp”. Mày về bảo thằng bố mày đừng cậy có vài năm mặc quần áo thanh niên xung phong mà tưởng đã to. Còn mày thì có thè lưỡi liếm gót chân cho tao như một con chó thì cũng đừng có mơ chui vào nhà tao…  
Tôi trừng mắt nhìn anh ta: Anh nói tôi thế nào cũng được, nhưng đừng xúc phạm đến bố tôi. Anh ta kéo mũ lệch về phía sau, cười khẩy: Bố mày là “cái đinh” gì với tao. Cơm không ăn lại muốn ăn cứt. Thằng nào chê tiền của tao thì thằng ấy phải chịu phạt. Tao thề sẽ phá nát cái khu Đầm Cò này. Nói rồi anh ta xông vào tôi cướp lại súng. Theo phản xạ tức thì, tôi bóp cò. Một tiếng nổ vang lên chát chúa, trong màn khói, tôi thấy anh ta gục xuống như cây chuối đổ, viên đạn ghém bắn ở cự li gần xé toang lồng ngực, máu chảy tràn mặt đất...
Tôi đứng sững như trời trồng. Vừa lúc ấy bố tôi từ dưới đầm chạy lên, ông chạy tới cái xác lật lên rồi gào: Tùng ơi, con giết chết người ta rồi. Rồi bố tôi lao đến giằng lấy khẩu súng và nói như một sự tính toán sẵn: Tùng, con trốn ngay đi, mọi việc cứ để mặc bố. Tôi nghe theo chạy đi được một đoạn nghĩ thế nào quay lại: Bố, việc con gây ra cứ để con chịu. Bố tôi quỳ xuống chắp tay vái tôi: Tùng ơi, nghe bố đi ngay về trường, coi như việc này là do bố làm. Tôi cúi xuống nâng bố dậy: Bố ơi, bố già rồi, vào tù bố chịu sao nổi. Bố ôm lấy tôi giọng van vỉ: Tùng ơi, bố có mỗi mình con. Hãy nghe bố, trả lại Đầm Cò đừng bám ở đây nữa. Hãy cố gắng học cho xong rồi tìm nơi khác mà sống. Tôi dùng dằng không nỡ, chợt bố quay ngược súng tì vào ngực, giọng đanh cứng: Nếu con không nghe lời, bố sẽ chết tại đây. Tôi hoảng hốt thất thanh: Bố... bố... bố đừng làm thế, con... con... con sẽ nghe theo bố mà...
Tùng dừng lời, đăm đăm nhìn sang phía bãi nổi. Tôi bàng hoàng về những chi tiết Tùng vừa kể. Không gian như nghẽn lại sau sự thật phũ phàng; gió lặng, bóng cây rừng in hình trên mặt đầm sâu thẳm... Một lát sau, tôi hỏi: Vậy từ trước đến nay Khế vẫn nghĩ người bắn anh trai mình là ông cụ?
- Đấy chính là bi kịch của đời tôi - Tùng nói sau khi bóc thỏi cơm lam để vào bát cho tôi - Anh biết không - Suốt một thời gian dài, cái chết của anh trai nàng luôn đeo đẳng, ám ảnh tôi như một sự trừng phạt. Tôi sợ phải sang bãi nổi, run rẩy đi qua nơi anh trai nàng trúng đạn. Ánh hoàng hôn rãi trên lá cây rừng như màu máu chảy ra từ thân xác ấy. Mỗi khi màn đêm buông, hơi sương bàng bạc trộn màu tăm tối như chiếc khăn tang khổng lồ trùm kín cả không gian. Đầm Cò hoang lạnh, cô độc, tiếng ếch nhái rên rỉ, từng đàn đom đóm chập chờn bay lẫn trong ánh lân tinh nhấp nháy... Tôi cô đơn, nỗi cô đơn làm thân xác rã rời, tâm thần hoảng loạn. Đã không ít lần tôi muốn bỏ Đầm Cò mà đi. Nhưng hình ảnh người cha thân yêu lại hiện về trong giấc ngủ. Người nhìn tôi trìu mến, nắm tay dắt tôi đi từng bước... Xung quanh, cánh cò, cánh vạc chao nghiêng, lượn vòng, ríu rít dưới vòm trời xanh biếc...    
- Thế từ hồi ấy đến giờ Tùng có gặp lại Khế không?  Tôi hỏi. Tùng nhặt những cánh hoa rụng dưới đất để lên lòng bàn tay ve vuốt: Tôi làm gì còn tư cách để gặp nàng. Nhưng lối đời đâu chỉ là oan nghiêt, mà còn trớ trêu, cay đắng biết bao nhiêu. Thà rằng nàng đi lấy chồng, có một cuộc sống êm ả trong ngôi biệt thự của ông bố để lại thì có lẽ tôi cũng được an ủi phần nào. Nhưng không, sau khi tốt nghiệp sư phạm, nàng xin lên vùng cao dạy học, từ chối mọi lời cầu hôn và thề suốt đời không yêu ai nữa... - Tùng buông tiếng thở dài - Người đời thường nói: “Nếu con người còn sống thì vết thương lòng tự nó sẽ lành thôi”. Nhưng với tôi, vết thương ngày càng khoét sâu, chà xát, nhức nhối, còn lương tâm thì luôn day dứt như một kẻ tội đồ trốn chạy, chui lủi trong một nấm mồ hoang lạnh...
Tôi định tìm lời an ủi Tùng, nhưng chưa biết nói sao thì Tùng bỗng đứng phắt dậy, vẻ mặt đanh cứng, bàn tay siết chặt những bông hoa, giọng quả quyết: Tôi nghĩ rồi anh ạ. Dẫu sự thật cay đắng, tàn nhẫn đến thế nào vẫn là sự thật, chờ bố tôi về xong tôi sẽ đến gặp nàng thú nhận. Cho dù tôi nhận từ nàng sự tha thứ hay nỗi hận thù còn hơn suốt đời tôi làm kẻ dối trá...
Đã cuối thu, hoàng hôn xuống nhanh, những tia nắng xuyên qua tán lá quanh bờ, hơi sương bàng bạc bảng lảng trên mặt đầm; một đàn cò từ trên cao sà xuống, chao nghiêng, lượn vòng, những đôi cánh rập rờn, cài xen, nhấp nháy... Để tồn tại những chớp trắng tinh khiết trên vùng Đầm Cò, có những kiếp người phải vượt qua số phận cùng với một cuộc tình mang hương vị đắng đót đến tận lòng...
HÀNH TRÌNH VÀ SUY NGẪM
Khởi động
Nhận được giấy mời từ Ba Lan gửi về, tôi bảo thằng con cả: Thu xếp công việc, đưa  bố về Hà Nội làm thủ tục. Lãnh sự quán nước Cộng hòa Ba Lan nằm trên con phố nhỏ mang tên nữ sĩ nổi tiếng của dòng thơ nôm Việt Nam: “Bà Huyện Thanh Quan”. Lúc hai cha con tôi tới, ngay cạnh bốt gác trên hè phố, cách cổng Lãnh sự quán một quãng, có hơn chục công dân Việt Nam xúm quanh một chiến sĩ công an. Tôi đoán những người đó cũng đang chờ làm thủ tục, hai cha con tôi liền đi thẳng đến.
Chợt có tiếng gọi giật giọng từ hè phố bên kia: Này, này, có phải bác làm thủ tục đi Ba Lan lần đầu phải không? Tôi nhìn sang, thấy một chàng thanh niên miệng cười toe toét, cao tay vãy vãy. Tôi đang chưa hiểu thì chàng thanh niên gật đầu - Đúng rồi, bác sang đây, sang đây! Thái độ vồn vã và câu hỏi của anh ta tỏ ra rất quen biết. Tôi nhíu trán, cau mày cố lục tìm trí nhớ, nhưng tuyệt nhiên không tìm nổi một chút nào hình ảnh quen thuộc của anh ta dù bất cứ ở đâu.
Đang lưỡng lự, con tôi kéo tay: Kệ! “cò” đấy mà bố!  Nghe, ý thức cảnh giác tràn đầy, tôi rảo bước về phía người chiến sĩ công an, lễ phép: Thưa đồng chí, tôi muốn làm thủ tục đi thăm người thân ở nước Cộng hoà Ba Lan. Người chiến sĩ công an chỉ tay vào kệ bốt gác: Bác xếp giấy vào đó rồi chờ.
Tôi lấy tờ giấy ra định xếp vào, một giọng nữ thanh vang lên: Xếp hàng bằng chứng minh thư nhân dân! Tôi hiểu ngay, quay sang nhìn cô gái trẻ: Cảm ơn cháu. Đáp lại lời cảm ơn của tôi, cô giải thích thêm: Bác nhớ xếp lên trên, để lát nữa người ta còn lật. Nghe cô gái nói, ý thức xếp hàng trật tự từ hồi còn bao cấp trở lại, tôi đặt tấm chứng minh thư lên trên cùng và đáp: Dạ, tôi hiểu rồi.
Thấy tôi quanh quẩn ở đấy, người chiến sĩ công an nhắc khéo: Bác ra chỗ kia mà chờ, hôm nay đông, còn lâu mới tới lượt. Tôi đang định quay ra, một thanh niên cầm tập hồ sơ đưa cho người công an, hỏi: Anh làm ơn xem giúp trường hợp của em... Chưa dứt câu, người công an gạt phắt: Anh làm cái trò gì đấy? Đứng xê ra! Anh có biết xung quanh đây toàn là camera không? Anh sán lại gần tôi, nhỡ người ta không hiểu lại tưởng anh đưa tiền hối lộ cho tôi thì sao?
Chà chà... tôi thầm nghĩ. Quả thật là quan trọng, đưa hồ sơ sợ nghi tội ăn hối lộ, hỏi gầm trời này có bao người dễ mắc “oan Thị Kính” như vậy(!). Anh thanh niên định mở miệng nài nỉ, người công an rời khỏi chỗ đứng, tay khoát rộng: Đề nghị tất cả mọi người sang bên kia, chờ!
Sang bên kia, tức là đứng cách xa bốt gác khoảng... 5m và vẫn là hè đường.  Đứng lẫn trong đám người đến làm thủ tục, có một phụ nữ bụng chửa hây hây, cô so vai, rụt cổ, ngọ ngoạy một cách khổ sở, miệng ngáp một cái rõ to: Khổ, mang tiếng đến Lãnh sự quán mà chẳng có chỗ nào ngồi. Thế này nắng đã đành nhưng còn mưa thì sao? 
- Em đừng kêu ca, sắp đến lượt em rồi! - Chàng thanh niên mà con tôi gọi là “cò” đi từ bên kia đường sang, nhăn nhở cười - Đến đây không phải chờ mới là chuyện lạ. Mình cần họ chứ họ đâu có cần mình! Nhưng em yên tâm, hôm nay đúng là lịch giải quyết các trường hợp của em đấy! - Nói rồi anh ta quay sang tôi, lặp lại câu hỏi ban đầu: Có đúng bác đến làm thủ tục đi lần đầu phải không? Tôi bối rối: Vâng, nhưng sao... - Sao gì! - Anh ta cướp lời - Nhìn bác là tôi biết ngay. Nhưng hôm nay đâu phải ngày mà bác đến?
Tôi chỉ vào cổng Lãnh sự quán, nơi có hai người đang đứng chờ: Họ đang chờ đến lượt đấy thôi! Anh ta gật đầu thừa nhận: Thì đúng rồi! Hôm nào họ chẳng làm việc. Nhưng là việc khác chứ hôm nay không phải là ngày nhận giấy tờ của bác - Nhìn vẻ mặt tiu nghỉu của tôi, anh ta nói thêm - Thấy bác là người thật thà thì cháu bảo, chứ bác có chờ cũng chẳng được.
Tôi phân vân hết nhìn thằng con trai rồi lại nhìn anh ta. Cứ tưởng có giấy mời cộng với hộ chiếu hợp pháp là chắc ăn, ai ngờ... Như bắt được trúng mạch của tôi, chàng thanh niên đến gần ghé tai: Bác muốn nhanh chóng, sang bên kia cháu “tư vấn” cho. Tôi lưỡng lự, nhìn anh ta suốt lượt nhằm kiểm chứng tư cách với con mắt của người từng trải: Khoảng trên 30 tuổi, cao, gầy, mặt dài, da sạm, nổi nhiều nốt sần kiểu mụn nhân, mũi tẹt, lưỡng quyền cao, tóc chải ngôi giữa, lông mày nhỏ, mắt sáng, tinh con ngươi đảo hoạt. Anh ta mặc một chiếc quần bò cũ, áo khoác màu đen, hở ra viền cổ áo sơ mi màu trứng sáo, sạch nhưng hơi nhàu nếp. Phong cách tổng thể vẻ bụi bụi. Bề ngoài giống người lái xe ôm, nhưng cách nói trơn tru, bẻo lẻo, thành thạo; đi, đứng nhanh, hoạt, đẩy vẻ tự tin của một kẻ có nhiều thâm niên trong quan hệ giao tiếp.
Hiểu được sự phân vân của tôi, chàng thanh niên tung ra chiêu thức kiểu võ lỡ: Tùy! Bác không tin thì cứ ở đấy mà chờ! Thằng con cả của tôi nói nhỏ: Bố cứ để đấy con. Nói rồi con tôi cùng chàng “cò” rảo bước sang bên kia đường. Qua vài ba phút, tuy không nghe tiếng, nhưng nhìn thái độ  hể hả, mời thuốc lá nhau rất lịch sự, vẻ “tình thân ái ngập tràn núi cao”, tôi đoán con tôi và “nhà cò” đã nhanh chóng đi đến hồi kết. Quả vậy, thằng con giơ tay vãy: Bố ơi, sang đây. Tôi nhìn chồng giấy xếp hàng trên kệ bốt gác, phân vân không biết nên đi hay ở... Người chiến sĩ công an nói giọng cảm thông: Còn hàng chục người nữa mới tới lượt bác. Tôi thì thào hỏi: Liệu anh ta có giúp được không hả đồng chí? Đầu chiến sĩ công an gật nhưng nghĩa của câu nói nằm ở vị trí hai luồng: Tôi cũng chẳng biết, nhưng bác cứ sang đấy xem thế nào. Thời đại tư vấn mà bác! Lời nói của người chiến sĩ công an như tiếp sức mạnh, tôi cảm ơn rồi bước sang bên kia đường gặp hai nhà thương thuyết.
- Bố đưa giấy mời cho anh ấy xem - Con tôi bảo. Tôi móc túi, tờ giấy chưa kịp hở chữ, chàng “cò” đã xua tay: Thôi! Khỏi! Lạ gì nữa mà phải xem. Đây! - Chàng “cò” mở yên xe máy, lấy ra một xấp giấy, đếm cho tôi mấy tờ - Biếu bác,  mang về khai, thứ hai tuần sau đến sớm mà nộp.
Tôi tá hỏa nhìn tệp giấy in toàn chữ nước ngoài. - Thế này thì... - Tôi lắp bắp, hết nhìn tệp giấy lại nhìn chàng “cò”. Chàng “cò” rít một hơi thuốc, thổi khói lên trời Thủ đô, nói tiếp: Ngoài tờ khai bác còn phải lấy giấy chứng nhận tài chính cá nhân, sổ đỏ nhà ở, bản kê nguồn gốc thu nhập đã được dịch ra bằng tiếng Ba Lan…
Ối giời ơi là giời! Tôi thầm kêu trong bụng. Thế này thì đến bao giờ mới xong? Hiểu được binh tình, con trai tôi hỏi chàng “cò”: Nếu anh giúp chúng tôi thì hết bao nhiêu? Chàng “cò” đáp tưng tửng: Hai trăm! Tôi giật mình thốt lên: Tận hai trăm đô la? Miệng chàng “cò” nở rộng, cười phớ lớ, hở ra quầng lợi thâm và những chiếc răng ám vàng khói thuốc, rồi đột ngột thay đổi nhân xưng: Lấy đâu ra mà “mượt” thế hả “cụ”! Được “lĩnh lương” như “cụ” nói thì con đã bỏ hẳn nghề “xe ôm”! - Vậy ra anh làm nghề lái “xe ôm”? - Tôi bật ra một câu hỏi. Chàng “cò” hiện nguyên hình, tay đập đập vào yên chiếc xe Đờ-rim- Việc giúp “cụ”  là “nghề tay trái”, nhân thể trong khi chờ khách. - Chàng “xe ôm” kiêm “cò” kết luận - Nói tóm lại, con giúp “cụ” cho đến khi nào “cụ” nhận được “vi sa”, “cụ” và anh cho con xin hai trăm ngàn Việt Nam đồng!
- Xong! - Con tôi đáp lại chắc nịch. Sau một tuần thuốc nữa, hai bên “ký kết hợp đồng”. Văn phòng là yên xe máy, chàng “cò” điền vào tờ khai bằng tiếng Ba Lan như người Ba Lan vậy. Con tôi nhìn anh ta viết, hỏi: Này, anh tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ năm nào? Chàng “cò” vừa viết vừa đáp: “Đói đầu gối phải bò” chứ đại học đại hiệc gì thứ tôi. Làm mãi quen hết! Nói xong thì anh ta cũng đã “khai” xong. Đưa cho tôi tệp giấy anh dặn: Đây là tờ khai mẫu, “cụ” về theo đó mà “mần”. Các giấy tờ cần thiết, con đã liệt kê hết trong tờ giấy này rồi. “Cụ” cứ căn cứ vào đó; giấy tờ nào cần công chứng thì công chứng, giấy tờ nào cần phô tô thì phô tô; loại nào một bản, loại nào hai bản, con đánh dấu cả rồi - Nói xong chàng “cò” đưa cho tôi tệp giấy, tôi định cầm, bỗng anh ta giật phắt lại đưa cho con tôi - Thôi, “cụ” để anh ấy cầm cho chắc, “cụ” lớ ngớ để rơi mất lại công toi. Trước khi chia tay cha con tôi, anh ta dặn thêm: “Cụ” về nhớ làm khẩn trương! Thời gian lâu đấy. Riêng từ khi nộp giấy tờ vào lãnh sự cho đến khi được phỏng vấn phải mất 20 ngày. Còn chưa tính ngày chờ đợi lấy vé máy bay. Căn cứ vào thời hạn trong giấy mời là gấp đấy! 
Và bây giờ thì tôi đã chễm chệ ngồi ở khoang hành khách của chiếc phi cơ Bô-inh 767 vào bậc hiện đại nhất của Hãng Hàng không Ba Lan. Ghế đôi, tôi ngồi sát cửa sổ. Ngồi cùng hàng là một chàng thanh niên trẻ người Ba Lan, có khuôn mặt dễ thương với cái nhìn thân thiện. Tôi chủ động gật đầu chào, chàng thanh niên Ba Lan nở một nụ cười hào phóng đáp lại và giúp tôi cài dây an toàn rồi sau đó chúi mũi vào cuốn sách. Tôi tò mò liếc nhìn cuốn sách anh ta đọc và nhận ra đó là một cuốn truyện tranh thiếu nhi.
Yên vị, tôi đưa mắt quan sát xung quanh để tìm hành khách người Việt cùng đi. Nhưng ở khoang tôi ngồi toàn người ngoại quốc. Tôi quay ra áp mặt vào cửa kính, vũ trụ bao la, nền trời thăm thẳm, từng chòm sao lấp lánh, nhấp nháy ẩn, hiện trong những đám mây màu sáng. Tiếng động cơ rít gió à à đưa tôi về với một kỷ niệm cách đây đã gần hai mươi năm...
Đó là một ngày hè năm 1994, trong bữa cơm chiều, đứa con trai thứ hai của tôi đột ngột hỏi: Bố có biết ngày nay ước mơ của bọn thanh niên chúng con là gì không? Tôi nhìn nó vẻ chưa hiểu. Vợ tôi dừng tay xới cơm: Vậy con nói xem con ước mơ gì? Thằng bé đưa mắt nhìn ra cửa: Mơ ước của chúng con là “đầu híp, đít béo”. Tôi và vợ tôi còn đang chưa hiểu “đầu híp, đít béo” nghĩa là gì, thì đứa con út chỉ tay ra cửa: Đầu híp đít béo kia kìa bố! Tôi nhìn theo tay thằng bé và nhận ra bên kia đường, trước ngôi nhà hai tầng có một chiếc xe TYOTA mầu nòng súng, cả hai đầu béo múp míp bóng loáng đang đỗ. À, ra vậy, thằng con tôi ước mơ có nhà lầu, xe hơi...
Tôi định vác bài học thường nhật ra để “trình bày hoàn cảnh” nhân đó uốn nắn tư tưởng cho cả bầy con thì nó nói luôn: Bố mẹ cho con đi Tây. Bây giờ chỉ có đi Tây mới đổi đời được. Nghe giọng con, vợ chồng tôi nhìn nhau. Tôi đưa ra chiêu cuối: Thế con không thi đại học à? Nó đáp rất nghiêm túc: Con không học đại học, con muốn “đốt cháy giai đoạn”. Thằng bạn con gửi thư về rủ con đi Ba Lan. Nghe nó nói ở bên ấy dễ kiếm tiền lắm! (!). Lý lẽ của nó làm tôi không sao nuốt nổi miếng cơm đang nhai trong miệng.
Trong ba đứa con trai của vợ chồng tôi, nó là thằng khó nuôi nhất. Lúc sinh, nó chưa đầy 3 kg, vợ tôi lại thiếu sữa, phải nuôi cạn. Ngày ấy thời tem phiếu, thằng bé còm nhom lại mắc bệnh đường ruột. Nó sống quặt quẹo, thiếu thốn đủ mọi bề. Có lần đưa nó đi cấp cứu vợ chồng tôi đã tưởng không nuôi nổi, nhưng may sao, số nó được làm người, qua cơn vận hạn, dần dần cháu khỏe ra tuy so với thằng anh và đứa em, nó là đứa “thấp bé, nhẹ cân”, ăn uống lại kiêng khem đủ kiểu, vì vậy vợ chồng tôi không muốn cho cháu xa nhà.
Suốt một thời gian dài vợ chồng tôi vận động nhưng không sao ngăn được. Và càng không ngăn nổi vì vào những năm 90 cuối thế kỉ trước phong trào đi Tây rất rầm rộ. Và quả thực, nhiều gia đình ở thị xã miền trung du này đã thay đổi khi trong nhà có người sang Tây làm việc. Ở phố tôi, thi thoảng xe lớn, xe bé chở các kiện hàng to, nhỏ từ cảng Hải Phòng về lại càng củng cố hơn cho ước mơ “đầu híp, đít béo” của nó. Vợ chồng tôi đành “thua”.
Hôm tiễn con đi, ở nhà ga sân bay, vợ tôi cứ ôm chặt thằng bé vào lòng và khóc nhiều lắm. Tôi không hiểu có phải đó là điềm báo trước không, nhưng 5 năm sau khi cháu đi Tây, vợ tôi đột ngột qua đời. Và phải mất 8 năm nữa, cháu mới có điều kiện đưa vợ, con về thắp hương chịu hiếu với mẹ. Đôi khi tôi nhớ lại và có ý nghĩ liên tưởng hôm tiễn con, vợ tôi đã khóc bằng những giọt nước mắt của người mẹ lần cuối cùng vĩnh biệt con...
… Những kỉ niệm quá khứ về đứa con đang lộn xộn trong đầu thì đèn trong khoang hành khách bừng sáng. Đến giờ ăn, xe lăn chở đồ ăn tới. Nhân viên phục vụ người Ba Lan tươi cười chỉ tay vào xe đồ ăn và đưa ra một câu nói mà tôi đoán: “Ngài xơi gì?”. Tôi cười ngượng vì vốn ngoại ngữ của mình rồi nhanh trí, chỉ vào suất ăn của chàng thanh niên Ba Lan ngồi cạnh ra ý: “Tôi cũng xơi như thế”.
Một suất ăn theo kiểu Tây. Tôi loay hoay xoay ngang xoay dọc bộ thìa, nĩa trên tay và đang tính sẽ ăn như thế nào? Xơi gì trước, ăn gì sau? Tôi quay nhìn vào cửa kính, bóng chàng thanh niên Ba Lan cùng suất ăn của anh ta hiện ra. Tôi chợt nhớ bộ phim mà vua hài người Anh Rowan Atkinson thủ vai “Mr Bean” đang chiếu trên truyền hình cáp Việt Nam. Vậy là tôi học theo luôn, kín đáo theo dõi và bắt chước “ăn theo” anh chàng người Ba Lan. Anh ta bóc giấy lấy miếng pho mát đặt vào ổ bánh mì, phết bơ, đặt rau, rắc muối tiêu, cuộn bánh mì lại chấm nước sốt rồi đưa lên miệng. Vậy là tôi cũng làm y thế. Anh ta nhấc cốc nước màu cà phê lên nhấp một ngụm, tôi cũng nhấc cốc của tôi lên nhâm nhi. Cứ như thế, qua hình ảnh phản chiếu, tôi hoàn thành suất ăn theo đúng kiểu Tây không chê vào đâu được.
Ăn uống xong, tôi bật đèn bàn, ngả người trên ghế, mở báo ra đọc rồi thiu thiu ngủ lúc nào không rõ nữa. Cho đến khi tỉnh dậy, nhìn qua ô cửa kính máy bay, trời sáng như dát bạc, một vùng tuyết trắng hiện ra. Tôi nhìn đồng hồ: Bây giờ là 24 giờ, giờ Việt Nam, vào khoảng 6 giờ sáng Ba Lan, theo đúng lịch trình, nửa giờ nữa tôi sẽ đặt chân lên đất Ba Lan. Một xứ xở cách đây mấy chục năm tôi đã được nghe tên qua bài thơ nổi tiếng “Em ơi Ba lan” của nhà thơ Tố Hữu.
Cuộc du hí đến xứ bạch dương bắt đầu.        
“Em ơi Ba Lan mùa tuyết… ”
Đón tôi ở nhà ga sân bay Warsaw là vợ chồng đứa con trai và hai đứa cháu gái. Đứa lớn Sara, mười tuổi, học ở trường Năng khiếu Âm nhạc và đứa nhỏ Maija, bập bẹ tập nói. Thấy tôi, cả nhà reo lên mừng rỡ. Anna - con dâu tôi bế đứa nhỏ ùa đến. Tôi cảm nhận sự ấm áp lan trên gò má, và nhận ra ngấn nước xúc động từ khóe mắt của đứa con trai đang trào ra. Tôi hiểu những giọt nước mắt ấy bao gồm cả tình thương và trách nhiệm làm con, cùng với ước mơ dồn nén bao năm muốn được đón bố sang nơi mình sống và làm việc.
Sau giây phút ban đầu, con tôi ra bãi lái xe vào. Tuy chưa phải là một chiếc ô tô “đầu híp, đít béo” nhưng cũng là một chiếc xe thuộc dòng hiện đại. Xe 4 chỗ, của Đức, thiết bị khá hiện đại.
- Con chỉ sợ máy bay không hạ cánh được vì tuyết rơi nhiều quá! Anna nói khi cả nhà đã ngồi ổn định trên xe - Mùa Giáng sinh năm nay có tuyết sớm -  Con trai tôi nói đế vào - Sáng hôm qua chúng con lên đây, nắng còn ấm và thời tiết rất đẹp, đến nửa đêm tuyết mới rơi. Qua đó tôi mới biết: Vì tuyết rơi nhiều, trời mù, đường băng sân bay tuyết phủ dày nên đã có mấy chuyến máy bay phải quay lại ga xuất phát. Như vậy là tôi gặp may. Tôi thở phào nói vui: Thì mục đích của bố sang Ba Lan là để được biết tuyết rơi đẹp như thế nào mà! Nghe tôi nói cả nhà cùng cười. Vì hạn chế ngôn ngữ, đứa cháu gái lớn tỏ tình cảm với bằng cách đưa tay ve vuốt vai tôi, còn đứa cháu nhỏ ngồi trên một chiếc ghế dành riêng mắt tròn xoe nhìn ông nội.
Ngoài trời tuyết rơi mỗi lúc nhiều hơn. Những bông tuyết đáp lên mặt kính gặp hơi nóng tan chảy thành dòng, chiếc gạt nước ngoáy tít, cả bầu trời âm u, mù mịt. Hai ven đường tuyết vun cao, đóng băng; dưới lòng đường tuyết nhão nhoẹt như bùn, nhầy nhụa, đen xịt, lầy lụa, trơn trượt. Con trai tôi dặn vợ lái xe cẩn thận. Nhìn con dâu ngồi lái xe, tôi chợt nhớ tới ngày đầu tiên con về quê chồng. Trước ngày đó, khi nghe con trai báo sẽ đưa vợ, con về Việt Nam ăn tết, cả nhà tôi vừa mừng vừa lo. Mừng, vì đã 13 năm cha con, anh. em chưa gặp nhau. Lo, vì không biết đứa con dâu người Ba Lan tính tình ra sao. Liệu sự sinh hoạt của nó có hợp với người Việt không?
Mọi nỗi lo quẩn quanh nhưng rồi cái gì đến vẫn phải đến. Hôm ra sân bay Nội Bài đón cháu, nhìn thấy con từ xa, tôi cố ghìm tình cảm và tự nhủ: Đừng khóc. Nhưng khi con trai tôi quỳ sụp xuống chắp tay lễ tôi cùng tiếng nói nghẹn ngào: Bố ơi, tha tội cho con, con là đứa con trai bất hiếu. Thì tôi không nén nổi nữa, tôi quàng tay kéo riết nó vào lòng: Con ơi… Thấy vậy con dâu tôi tế nhị dắt con gái đến gần, nói bằng tiếng Việt rất rành rẽ: Con chào bố. Con mang cháu gái Sara về cho bố đây này. Rồi cả hai mẹ con cháu hôn lên má tôi. Tôi ghì chặt lấy hai mẹ con cháu khóc nức nở…    
Và điều không ngờ nhất là thái độ của Anna. Ngoài nói sõi tiếng Việt, Anna là một phụ nữ hiểu biết, khá thông thuộc lễ nghĩa, phong tục, tập quán và tình cảm của người Việt. Ban đầu tôi tưởng đó là do chồng dạy, Nhưng khi nói chuyện tôi mới biết, khi học ở trường đại học, Anna học khoa tiếng Việt. Để nâng cao kiến thức, Anna đến xin làm thuê ở cửa hàng của người Việt vừa kiếm sống vừa học tiếng. Vì vậy Anna hiểu cả những câu thành ngữ, tục ngữ trong dân gian Việt Nam. Thậm chí cả tiếng “phủi”- một thứ ngôn ngữ tự phát của người đời. Có lần nói chuyện, khi nghe tôi nhận xét về bản chất một con người, Anna nói: Theo người Việt nói thì đó là một kẻ “ăn tục, nói phét” hay là “mõm chó, vó ngựa” phải không bố? Làm cho tôi khá ngạc nhiên và thú vị.
Ngay những ngày đầu, Anna đã gây được cảm tình của mọi người trong gia đình. Trong sinh hoạt, Anna mặc quần áo giản dị, không cầu kì, đồ trang sức thì ngoài chiếc nhẫn cưới, trên cổ đeo chiếc dây chuyền có cây thánh giá thể hiện tôn giáo mình theo. Ngày ngày Anna lau dọn nhà cửa, giặt giũ, chăm sóc chồng con; vào bếp nấu ăn với các chị em và dành nhiều thời gian tâm sự, sẻ chia, cảm thông với nỗi nhọc nhằn, vất vả của phụ nữ Việt.  
Trong những dịp đi du lịch đến các thắng cảnh ở Việt Nam, ngoài chuyện lo ngại cảnh ùn tắc và tai nạn giao thông, Anna thường có nhận xét rất sâu sắc, ví như khi nhìn thấy những quả núi bị khai thác nham nhở, Anna nói với tôi: Ở Ba Lan, muốn có núi, sinh viên chúng con phải đi kiếm đất về để đắp. Tôi hiểu ý của con, nhưng thật khó giải thích.
Những kỉ niệm về đứa con dâu tràn về cho đến lúc xe ô tô rẽ lên đường cao tốc. Đường cao tốc thẳng, phẳng, hai chiều, mỗi chiều 3 làn, mặt đường trải bê tông nhựa cao cấp; mùa nắng có xe hút bụi, rửa đường; mùa đông có xe gạt tuyết và rải muối chống tuyết đông; giữa dải phân cách và hai bên đường có đèn chiếu sáng và các loại biển báo hiệu bằng hệ thống điều khiển tự động bằng năng lượng mặt trời và điện lưới. Mặc dù trong xe  gắn thiết bị dẫn đường từ vệ tinh, nhưng ở mỗi độ đường cần thiết, hoặc gần các nút giao thông… người ta dựng những biển chỉ dẫn lớn, chữ nghĩa rõ ràng, rành mạch, sơn phản quang, cách hàng trăm mét người điều khiển phương tiện đã phát hiện ra. Đặc biệt, ở những nơi đi qua khu vực dân sinh, đều có tường chắn âm thanh để giảm tiếng ồn.
Việc phân luồng và quy định cho khả năng các loại xe tham gia giao thông ở Ba Lan rất nghiêm ngặt. Xe tốc độ cao chạy trên làn đường ngoài cùng; làn đường thứ hai dành cho xe có tốc độ vừa phải; làn xe thứ ba dành cho xe chạy tốc độ thấp. Những lái xe vừa học ra trường thường chạy trên làn đường này, và rất dễ nhận ra vì kính hậu của họ có dán hình vẽ một cành lá như ngầm báo: “Thông cảm nhé! Tay lái của tôi còn non”. Điều này là tự phát chứ không phải quy định của luật. Thật là một cử chỉ đáng yêu, lịch sự, có văn hóa. Một hình ảnh nữa cũng rất đẹp, đó là ở những địa điểm xảy ra tai nạn giao thông chẳng may có người chết. Người ta dựng cột, treo vòng hoa, vừa tưởng nhớ người thiệt mạng và cũng là nhắc nhở những người tham gia giao thông hãy cẩn thận.
 19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, như...