Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại (Phần 1b; Quyển 1)

Nhà văn Vĩnh Phúc hiện đại
(Phần 1b; Quyển 1)

ĐỖ HÀN
- Họ và tên khai sinh: Đỗ Văn Hàn
- Sinh năm 1959
- Bút danh: Đỗ Hàn, Hòa An
- Quê quán: Vĩnh Thịnh, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Thương giọt ca dao (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2006)
* Những con đường trong sương (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2008)
* Bức huyết thư (Tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, 2009)
* Với cỏ (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2010)
* Nước mắt thánh nhân (Tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, 2014)
- Giải thưởng văn học:
* Giải B truyện ngắn kỷ niệm thành lập tỉnh Vĩnh Phúc, 2000
* Giải C về đề tài Thương binh liệt sĩ tỉnh Vĩnh Phúc, 2002
* Giải thưởng VHNT Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2005-2010)
* Giải C thơ Hội Nhà văn Việt Nam và Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam, 2011.
- Suy nghĩ về nghề văn:
“Với tôi: Trong mỗi nhà văn có một nhà giáo”
A - TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
THÊM MỘT BÀI THƠ HAY VỀ CHỊ 
Phan Cung Việt
Tết của chị                       
Từ ngày chị lấy chồng xa
Mỗi lần sắp bát dư ra một người
Mẹ trông ra cuối chân đồi
Cành cọ cựa gió ngỡ lời chị thưa…
Tết về hương thắp cuối trưa
Chai rượu tuột nút vừa mua cuối làng.
Đĩa cam quả tím quả vàng
Ngượng ngùng chị gói chiếc làn lên xe…
Ghé ngồi mớm dóng chõng tre
Tay quờ quai nón mắt nghe mẹ cười!
Bóng chị vừa khuất chân đồi
Nhìn tàn hương cháy… mẹ ngồi ngóng tin.
                                                            (Đỗ Hàn)
Như đã thành thiên vị, từ ngày học làm thơ cho đến khi vào đời, hễ thấy thơ đâu là tôi tìm đọc thơ viết về Mẹ và Chị trước. Cái Sery Thơ như chén thuốc bổ, như những gì thuộc về vĩnh hằng. Tôi nghĩ thật hạnh phúc cho những văn nhân thi sĩ khi viết về Mẹ và Chị. Viết hoa.
Những ngày lạnh man mác này, tôi gặp bài thơ Tết của chị, của nhà thơ Đỗ Hàn. Bài thơ đã đánh thức trong tôi nhiều cảm xúc. Và tôi lại đinh ninh rằng Đỗ Hàn là người hạnh phúc.
Có lần tôi đã nói điều đó với anh. Và nhân thể nói luôn về thơ. Viết về Mẹ và Chị, đặt ra cho nhà thơ những gì thật bình dị mà cũng thật lớn lao. Hạnh phúc đấy mà cũng là thử thách. Khai mở vào cái kho vàng ròng này không phải là việc dễ dàng. Vì nó thử thách cao nhất cái tâm, cái tài, cái tình của nhà thơ. Lại còn bản sắc riêng của nhà thơ nữa. Chị và Mẹ của mình, nhưng cũng là của muôn đời…
Từ ngày chị lấy chồng xa/Mỗi lần sắp bát dư ra một người/ Mẹ trông ra cuối chân trời/Cành cọ cựa gió ngỡ lời chị thưa…Lối vào thật là bình dị, thật hay.Câu này đã tự giới thiệu rất sớm một Đỗ Hàn viết về Chị và Mẹ. Cũng hé mở sớm cái chất của Đỗ Hàn. Câu thơ có sức mở như thế.
Tết về, hương thắp cuối trưa/Chai rượu tuột nút vừa mua cuối làng …Tôi tưởng tượng ra một Đỗ Hàn tuổi thơ sinh sắc và ấm áp. Một tuổi thơ đầy chất thơ dân giã. Đầy phong vị quê hương.Từ đó, hình ảnh đầy xúc cảm của Người Chị hiện ra:
                            Đĩa cam quả tím quả vàng
                   Ngượng ngùng chị nhấc chiếc làn lên xe…
Và rồi:
                            Ghé ngồi mớm gióng chõng tre
                   Tay quờ quai nón, mắt nghe mẹ cười
Và câu kết:
                             Bóng chị vừa khuất chân đồi
                    Nhìn tàn hương cháy, mẹ ngồi… ngóng tin
Đỗ Hàn đã thành công khi kết nối Mẹ và Chị. Kết nối những gì muôn thuở !
Cả bài thơ, tự đáy tâm hồn mình, Đỗ Hàn có những từ, những ý thật riêng, thật đắt. Cựa gió. Tuột nút. Mớm gióng chõng tre. Tay quờ quai nón… Đó là một hệ thống từ thơ sớm làm nên một Đỗ Hàn trong thơ viết về Chị.
Thơ, văn Đỗ Hàn chân thành và tươi mới.Một vẻ đẹp chân thành, một vẻ đẹp tự nhiên. Anh là một trong số không nhiều các nhà thơ trẻ có chất riêng trong những gì thuộc về vĩnh cửu.
“NƯỚC MẮT THÁNH NHÂN”, 
CỔ TÍCH MỚI CỦA ĐỖ HÀN
                                                                                                                   Đặng Hiển
Nước mắt thánh nhân, tập truyện ngắn của Đỗ Hàn, NXB Hội Nhà văn 2014 là một cuốn truyện như thế. Tiểu biểu là truyện mà tác giả lấy làm nhan đề cuốn sách “Nước mắt thánh nhân”.
Nước mắt thánh nhân là truyện viết về Thánh Gióng, người anh hùng thần thoại, một trong bốn tứ bất tử của nước ta. Người mà theo trí tưởng tượng dân gian đã có sự sinh ra kỳ lạ, sự lớn lên kỳ lạ, lòng yêu nước kỳ lạ và hành động đánh giặc cứu nước là kỳ tích nhưng nguồn gốc là sự thật lịch sử (sử chép dân ta thời ấy  đã đánh thặng giặc Ân Trung Quốc thời Tần Thủy Hoàng) và bản chất là anh hùng của nhân dân (sinh ra từ người mẹ nhân dân, được nhân dân nuôi lớn (bằng thức ăn dân dã cơm, cà), vũ khí (ngựa sắt, roi sắt…) cũng được rèn đúc từ lò lửa của nhân dân, gậy được nhổ lên từ bụi tre của làng. Nhưng đặc biệt trong truyện của Đỗ Hàn, người anh hùng ấy là người con rất thương mẹ. Đánh giặc xong, anh chỉ muốn về ngay với mẹ. Bà mẹ ôm lấy con – bà chỉ đứng đến ngang gối đứa con khổng lồ. Bà kiếm cho con thức ăn từ quả rừng đến ngô khoai sắn… Dân làng đã mang thức ăn đến đầy nhà. Gióng rất lạ thấy dân làng hôm nay nhìn mình có vẻ khép nép, e sợ, trong khi anh vẫn mang tâm hồn của một đứa trẻ, muốn chơi trốn tìm với lũ bạn. Anh từ chối lên gặp vua để lĩnh thưởng, để được ban chức tước… Anh muốn đưa mẹ đi tìm cha (mặc dù là anh hùng nhưng anh nghe thấy vẫn còn những dư luận định kiến: mẹ anh chửa hoang đẻ ra anh). Anh vô tình để tay lên đùi mẹ làm mẹ bị gẫy chân. Anh bế mẹ lên rừng để chạy chữa và tìm cha. Nước mắt thương mẹ, nhớ cha của anh chảy ròng ròng trên đường dài. Về sau anh được sắc phong Phù Đổng thiên vương và được thờ trên núi Nghĩa Lĩnh cùng với các vua hùng.
Gióng là người anh hùng tiêu biểu của dân tộc trong dã sử, trong tín ngưỡng dân gian nhưng Gióng vẫn là con người bình thường trong nhân dân, người con rất có hiếu với cha mẹ, rất có lễ với dân làng, yêu nước một cách hồn nhiên, vô tư, không màng danh vọng, bổng lộc, chức tước, người anh hùng của nhân dân với nghĩa đầy đủ, cao đẹp nhất của từ này.
Viết mới truyện cổ tích này, Đỗ Hàn đã làm việc việc giải thiêng anh hùng theo nghĩa tích cực, cao đẹp của từ này, ngược với lối giải thiêng bảng bố dân tộc, báng bổ tổ tiên của một số cây bút. Cách giải thiêng của Đỗ Hàn cũng là một thông điệp với hôm nay về tính nhân văn, tính nhân dân cần có của những người có danh, có chức…
Mưa rửa đền là một giải thích mới bằng cách cải biên cổ tích xưa, truyện 101 con voi ở vùng đền Hùng và hiện tượng mưa vào ngày 10/3 hàng năm ở vùng núi Hùng.
Truyện kể vua Hùng có 101 con voi, khi có loạn, 99 con voi đã trung thành quay đầu hướng về núi Tổ nhưng có hai con, 1 nằm ngang, không quay về chầu vua Hùng đã minh oan cho hai con đó, một con bị thương, một con bị sét đánh. Theo lời nguyền khấn của vua, máu từ vết thương của con voi bị thương chảy thành dòng, còn con bị sét đánh thì hóa thành cái bãi nổi giữa sông. Số là khi vua Hùng đưa một nửa số lạc hầu, lạc tướng đi mở cõi thì ở nhà có một lạc tướng tên là Lương Án đã lừa mẹ Âu Cơ, định làm phản thoán ngôi. Hắn đút lót dụ dỗ số lạc hầu, lạc tướng ở lại để hắn được làm chủ lễ tế trời đất và ngầm huy động binh mã về đánh úp kinh thành. 101 con voi của vua Hùng đã không theo y, một con voi đực đã lồng lên giày xéo quân địch và bị trọng thương, một con voi cái thì bị sét đánh khi vượt sông. Sau khi dẹp loạn, vua Hùng đã khấn trời cho mưa xuống để minh oan cho hai con voi trung nghĩa. Đó là ngày mồng mười tháng ba hàng năm. Người ta còn gọi là “mưa rửa đền”.
Truyện rất hay về lòng trung thành với đất nước, nhưng còn hay hơn ở chỗ: tất cả thần dân đều hướng về đất tổ, nếu có ai bị oan thì oan được rửa, công được ghi nhớ. Chỉ kẻ nào thực sự phản quốc mới không đáng so với loài vật.
Huyền thoại đầm vạc là một huyền thoại về sự sinh ra của Đầm Vạc ở gần chân núi Tam Đảo. Đầm mang tên Vạc, tên của cô con gái của cha là vua núi Tam Đảo và mẹ là thần rừng Xạ hương. Vạc yêu Thành Ngạnh, con trai của thần sông là kẻ thù truyền kiếp của thần núi Tam Đảo. Thành Ngạnh đã phản chiến, chống lại lời nguyền xưa và bị quân của cha giết chết. Để ghi công chàng và tránh cho con tiếng xấu là yêu con của kẻ thù, thần Tam Đảo đã phong cho chàng là thần núi của Thành Lanh, còn nàng Vạc hóa thành một cái đầm nước trong xanh hướng về núi Thành Lanh thanh lọc nước mà mọi dòng suối chảy xuống. Vẩy lưng của chàng Ngạnh trôi về đầm Vạc hoá thành đàn tép dầu ngon có tiếng bây giờ. Truyện đã chi tiết hóa, thi hóa truyện dân gian, đặc biệt nhờ ngôn ngữ văn chương (rất giàu chất thơ). Truyện là huyền thoại giải thích sự hình thành địa hình ở địa phương nhưng qua ngòi bút của Đỗ Hàn đều mang một ý nghĩa nhân văn mới: bước qua lời nguyền (hận thù) bằng chiến thắng của tình yêu, tình yêu lứa đôi và tình yêu hoà bình, hữu nghị.
Nhưng truyện còn kết thúc bằng một chi tiết liên hệ thực tế: bây giờ đầm Vạc thu nhỏ lại và không được trong lắm, dân làm nhà lấn sâu vào đầm, trên bầu trời Vĩnh Yên bây giờ có đàn vạc bay về, đêm đêm kêu ràng rạc như lời than của nàng Vạc… Một thông điệp về môi trường và mặt trái của đô thị hóa…
Truyện Sự tích một câu ca dao thực chất là truyện Mỵ Châu, Trọng Thuỷ được kể vừa giống và vừa khác xưa.
- Mỵ Châu vốn thích lấy người nước ngoài (khác)
- Mỵ Châu đã có một thời gian về nhà chồng ở nước ngoài, nhưng sau không chịu được sự xa lạ nên xin về nước (khác). Triệu Đà cho con trai sang ở rể (giống). Triệu cho nhiều người sang giúp Âu Lạc (như làm tàu thuyền, binh giáp) nhưng đều có ý xấu, làm cai thứ sau không dùng được trong điều kiện Việt Nam và nhất là do thám, vẽ bản đồ (bổ sung).
Trọng Thuỷ vốn là kẻ không chung tình (khác), không tự tử mà về lại giếng ngọc, thấy nước trong mát thì cúi xuống, không may bị lộn cổ (khác). Ngọc trai ăn phải máu Mỵ Châu ở bể (giống) khi rửa vào giếng nước quê hương thì trong sáng hơn (chứ không phải trong sáng vì cái chết (tự tử) của Trọng Thủy đã làm rõ nỗi oan của nàng.
Câu chuyện rõ ràng tăng thêm tính chiến đấu chống xâm lược phương Bắc (âm mưu độc hại, ý đồ xâm lược, cướp nước thấm vào máu từ cha đến con) nhưng cũng mất đi một ít thi vị và nhân văn. Âu đây cũng là cách kể mới đáp ứng yêu cầu của thời sự, có điều chưa khéo (ví dụ có thể tăng thêm chi tiết về âm mưu thủ đoạn xâm lược nhưng cứ để Trọng Thuỷ yêu Mỵ Châu nhưng tình yêu không thắng được máu bành trướng và phụ quyền).
Ngự Dội là sự giao duyên giữa cổ tích và hiện đại, giữa chuyện đời xưa và chuyện đời nay, giữa riêng và chung. Nó để lại nhiều dư vị của tình yêu, tình yêu lứa đôi, tình yêu đất nước và cuộc sống.
Truyện kể: Ngựa của Thánh Tản bị thương. Có một cô gái quê đã múc nước bằng chiếc sọt đựng cỏ của cô để thánh tắm và rửa vết thương cho ngựa và thỉnh cầu mẹ núi biển túm cỏ thành sữa, thành thuốc cho ngựa được mau lành.
Chuyển sang vào những năm 40 của thế kỷ trước, có một anh bộ đội bị thương (Bình) được một cô gái chăm sóc bằng vị ngọt của cỏ và dịt vết thương cũng bằng thứ cỏ đó. Về sau, anh lại gặp một cô cắt cỏ khác và thành vợ chồng. Cỏ đã cứu sống cậu con trai của 2 người một lần đã lả đi vì đuối nước. Ông bác sĩ ngày xưa đã chữa cho anh Bình phát hiện ra anh đã được dịt vết thương bằng một thứ cỏ có chất kháng sinh. Vợ ông, bà Loan cũng là bác sĩ sau đó đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về loại thảo dược đó. Về sau anh Bình và bà Loan tình cờ gặp nhau. Ông bác sĩ đã hi sinh trong chiến tranh chống Mỹ, còn vợ ông Bình thì đã mất vì bệnh cách đấy 3 năm. Giữa hai người bất chợ nảy nở sự thông cảm cao hơn tình đồng đội, cao hơn tình nghĩa của người bác sĩ và thương binh.
Cổ tích ở đầu truyện chỉ là một cái cầu để bắc sang một truyện cổ tích thời hiện đại cũng lấp lánh không kém mà đa diện hơn.
Trâu vàng là một huyền thoại liên quan đến lịch sử mà tác giả nói là thời Lý Thái Tông, có tục lệ khi hoàng hậu băng hà thì phải chôn theo một số cung tần mĩ nữ của vua.
Làng Cài ven Hồ Tây có một lão bà sinh được một cô gái đẹp tên Líu. Cô sẽ phải chết theo Ỷ Lan, nhưng cô vốn là công chúa thuỷ cung được vua Thủy Tề giao cho chăn dắt con nghé vàng. Con nghé này khi nghe tiếng chuông được người khổng lồ đúc bằng đồng đen từ khắp vùng, thì lồng lên tìm mẹ và gây ra nạn lụt ở Đại La. Từ lúc được Líu chăn dắt, nó trở lên ngoan ngoãn nhưng khi Líu chết, nó lại quấy đảo làm cho nước Hồ Tây sôi sục. Dân quanh Hồ Tây phải chọn một cô gái đẹp còn trinh để cúng vua Thủy Tề. Tên quan chủ tế nổi lòng dục đã ăn nằm với cô gái và nạn lụt lại xảy ra. Từ đó việc cúng gái trinh đã bị bãi bỏ và cái làng Cài từ đó cũng không sinh ra được gái đẹp nữa.
Câu chuyện nạn lụt ở kinh thành xưa liên quan đến tục hiến sinh nhưng cũng liên quan đến 2 danh nhân lịch sử quan trọng là thái hậu Ỷ Lan và vua Trần Nhân Tông nên tác giả nên cân nhắc thêm.
Yếu tố huyền thoại còn đậm nét trong một số truyện về con người hiện đại như truyện Khối tình còn lại.
Hai anh chị, chị thanh niên xung phong, anh lái xe gặp nhau, yêu nhau trong một trận bom, 2 người ngất đi trong tư thế ôm chặt lấy nhau, khiến người ta phải gỡ chân tay họ ra. Sau chiến tranh, họ lại gặp nhau nhưng anh bị chấn thương sọ não, không còn cảm giác về tình yêu nhục cảm, nhưng vì yêu họ vẫn sống chung với nhau. Anh học đàn để gẩy cho chị nghe. Một hôm anh bị tai nạn. Rồi anh đi buôn, chẳng may bị lợi dụng chở đồ quốc cấm. Anh được miễn tố nhưng bị tổn thương nặng nề về danh dự. Anh tự hủy hoại thân mình và qua đời. Chị héo hon và sống với ký ức về tình yêu.
Có một anh sinh viên giống anh như đúc. Chị nhận làm con nuôi. Chị trẻ lại và có thai phải mổ. Bác sĩ phát hiện chị hãy còn trinh. Chị chấp nhận đổi sinh mệnh mình lấy đứa bé. Nhưng thai nhi chỉ là một khối máu huyết trong như pha lê và rắn như kim cương. Người ta dùng khối đó làm vật chứng để tố cáo chất độc màu da cam. Nhưng thực ra khối đó là khối tình của chị với người chồng.
Đây là một huyền thoại thời hiện đại mà hình tượng của nó đã được Đỗ Hàn sáng tạo từ chi tiết huyền thoại; khối tình trong truyện cổ như khối tình Trương Chi nhưng là để ca ngợi một mối tình cao thượng gắn với lý tưởng của con người Việt Nam hiện đại.
Có một số truyện hoàn toàn hiện đại, hoàn toàn theo bút pháp hiện thực không có yếu tố huyền thoại như truyện Người chỉ biết ngồi xổm, phê phán những quan chức vừa có tính tham vừa có tính sĩ, cuối cùng gậy ông đập lưng ông và tự mình lại mâu thuẫn với mình Lão Cổn mắc bệnh  đau đầu gối không ngồi bệt xuống chiếu được. Khi còn làm Phó Chủ tịch, lão làm cỗ khao thọ mẹ được lãi 100 triệu. Khi lão về hưu, mới 65 lão đã mừng thọ 70, quen mui thấy mùi ăn mãi, hi vọng cũng kiếm được kha khá, không ngờ phải đổ đi mất 30-40 mâm cỗ. Nhưng còn tiếc và tham, lão ứng cử Bí thư Đảng uỷ thị trấn và lại dính vào vài vụ đất đai, bị chuyển sang Chủ tịch Mặt trận. Sang chủ tịch Mặt trận được 2 năm thì vụ khao thọ mình 70 (như đã nói ở trên). Khi đương chức lão luôn rao giảng, hạ giá thơ văn, phê phán những người về hưu, không làm việc gì hữu ích mà sính làm thơ vì rỗi hơi, hiếu danh, nhưng chính lão sau khi bị mất chức chủ tịch mặt trận thị trấn lại thành lập một câu lạc bộ thơ và làm chủ nhiệm mặc dù cả đời không làm được câu thơ nào…
Có một truyện, tác giả dùng thi pháp nhân hóa đó là Đổi kiếp. Con chó sau khi chết báo mộng cho chủ là mình đã hóa kiếp thành quỷ. Chủ trách chó chó nói “Chúng con (quỷ) chỉ hay nghịch ngợm, chứ không ác với ai bao giờ” Chủ hỏi: “Có muốn về cõi người không?” Chó nói “Không bao giờ, con người giả dối, khó sống lắm ông ơi”.
Truyện dài, đoạn trên có chi tiết rất hay: chó biết thương yêu nhau, khi một con ở cùng nhà chết, con kia bỏ ăn bới đào xác bạn. Rồi chuyện con chó biết ăn trộm thịt ở chợ mang về cho chủ, bị chủ đánh bắt mang giả người bán hàng. Như vậy chủ là người tốt, nhưng ở đoạn cuối tác giả đã mượn lời chó phê phán người. Âu cũng là có nhiều người xấu không có tình có đức bằng chó nên chó không muốn đổi làm kiếp người.
Có một truyện mà đến nay tôi vẫn chưa biết thâm ý của tác giả đó là truyện Làng rắn.
Nhà Bân buôn rắn, nuôi rắn để lấy nọc làm thuốc, anh đang bị mất một con rắn hổ mang. Anh gặp một cô gái có chửa đến tháng đẻ. Anh giúp cô sinh nở. Cô cũng là một khách buôn rắn (nọc rắn tinh chế). Vì mẹ cô cũng buôn nọc rắn và là người Hoa đã về Trung Quốc, nên cô nhờ anh mua hộ một ngôi nhà để ở. Chồng cô là một người bài bạc nên cô phải biến tất cả tiền bạc thành tinh nọc rắn để hắn khỏi lấy mất tiền. Cô và Bân có lần đã ăn nằm với nhau. Bân trở về nhà. Một đêm nằm bên vợ anh thấy mềm mềm trên ngực, ngỡ cánh tay cô gái, nhưng hóa ra con hổ mang đã tìm về nhà. Hai vợ chồng đưa con rắn vào lại chuồng.
Ngoại trừ truyện này, còn các truyện khác trong tập đều rõ ý, tất nhiên với những lớp và mức độ quan trọng khác nhau. Đặc điểm chung của tập truyện là sử dụng nhiều yếu tố huyền ảo; chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vốn là đặc sắc của văn học Châu Mỹ La tinh. Ở ta cũng đã có người vận dụng. Đỗ Hàn trong tập truyện này cũng đã sử dụng yếu tố huyền ảo theo cách của anh. Đó là ở Đỗ Hàn ta thấy đậm chất cổ tích, chất truyền thống, chất dân tộc, có khi là phóng tác cổ tích (với sự gửi gắm thông điệp hiện đại), có khi viết hẳn một cổ tích mới, có khi mượn một thoáng huyền thoại, mượn yếu tố ẩn dụ, phóng dụ của cổ tích, có khi kết hợp bút pháp huyền thoại với bút pháp hiện thực, có khi là “kim cổ giao duyên”. Cách kết hợp đó như thế nào cho hay nhất cho hữu hiệu nhất là điều còn phải bàn nhưng ý đồ sáng tạo và gửi gắm thông điệp tư tưởng của tác giả trong tập Nước mắt thánh nhân đã là một thử nghiệm, một nỗ lực đáng khích lệ.
Đ.H
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU 
NƯỚC MẮT THÁNH NHÂN
(Truyện ngắn) 
Gióng ôm xác mẹ khóc rống lên.
Tiếng khóc ồ ồ, có lúc tắc nghẹn; vừa tức tưởi, vừa nghẹn ngào, vừa ngây ngô. Rừng xanh cũng như buồn lây. Im phắc! Chim rừng cũng như chia sẻ. Im phắc!
Gióng lóng ngóng lật mẹ từ bên này sang bên khác, lật đi, lật lại. Miệng gào to “Mẹ … Mẹ ơi….”. Tiếng gọi đập vào núi đá ầm ầm, âm âm rồi tắt ngấm.
Đã bao giờ Gióng gần xác chết thế này đâu. Trong chiến trận, ngồi trên lưng ngựa, Gióng chỉ thấy ngựa sắt phun lửa cháy tóc, cháy áo lũ giặc, khét lẹt. Gióng vung gậy sắt rồi vung cả bụi tre ngà, quơ sang hai bên mình ngựa, lũ giặc chết như ngả rạ. Gióng có biết chôn người chết như thế nào đâu. Việc ấy đã có các đoàn dân binh chạy theo ngựa Gióng lo toan.
Giờ ôm xác mẹ giữa rừng sâu, Gióng sợ và Gióng lóng ngóng!
*
*       *
Hôm đó, trên đỉnh núi Sóc, Gióng ghìm cương ngựa, quay nhìn bốn phía. Lũ giặc Ân đã tan tác, chín phần chết, một phần sống sót chạy vào rừng hay nhảy xuống sông, run như cầy sấy. Quân triều đình đang lo bắt tù binh và thu gom vũ khí. Dân binh các ấp đang lo dập lửa ở các thôn xóm và chôn cất các xác giặc.
Làng xóm cháy miên man. Từ phía tả ngạn sông Hồng sang phía hữu ngạn sông Cầu, sông Đuống, các đám cháy vẫn bốc lên rực trời. Một phần đám cháy là do giặc đốt, một phần là do lửa phun ra từ miệng ngựa sắt của Gióng. Gióng gạt mồ hôi, cởi giáp sắt vắt lên lưng ngựa rồi vỗ vỗ tay vào mông ngựa sắt.
- Mày từ đâu đến thì về nơi đó đi. Giặc chết hết rồi.
Ngựa sắt co hai chân trước, tung bờm hý lên ba hồi thống thiết như chia tay.
Gióng bảo:
- Tao nhớ Mẹ, tao về làng đây!
Ngựa sắt chớp chớp mắt, gật đầu.
Gióng bảo:
- Mẹ tao nghèo lắm, tao thương mẹ!
Ngựa sắt rung bờm, gật gật.
Gióng bảo:
- Đi nhé! Nhớ đừng phun lửa nữa, cháy hết nhà, hết lúa rồi đấy!
Ngựa sắt liếm lên tay Gióng.
Người và ngựa bịn rịn chia tay.
Giữa lúc ấy, một cơn giông kéo đến, trời tối sầm. Gióng luống cuống tìm đường xuống núi. Một tiếng sét rung đất chuyển trời. Lòa sáng rồi tắt ngấm. Một đường sáng chói nối giữa tầng mây xám với đỉnh núi Sóc. Trong nháy mắt, ngựa sắt tan vào trong luồng sáng chói ngoằn ngoèo lên mây….
Gióng về đến nhà thì đã quá nửa đêm. Trăng cuối tháng ròng ròng màu trắng sữa, tỏa khắp cánh đồng, cây đa, mái đình, phủ lên làng xóm huyền ảo. Mẹ vẫn ngồi ở bậu cửa ngóng ra ngõ. Thấy bóng của Gióng lừng lững ngoài cánh đồng, bà lật bật chạy ra đón.
Gióng hét lên “Mẹ…Mẹ…” rồi định sà vào lòng mẹ. Nhưng cậu đứng chững lại. Mẹ nhỏ thó, đen đúa đứng chỉ đến đầu gối cậu. Mẹ giang hai tay, lập bập rên lên “Gióng, Gióng đấy phải không?”. Bà kiễng chân, tay quờ quờ cũng chỉ xoa được vào hai cái đùi chắc như hai cột lim.
Gióng đành đưa một tay xuống, ôm vào lưng mẹ, gần như là cắp mẹ vào nhà.
Nhưng Gióng cũng không thể vào nhà. Thân hình kềnh càng, to cao của cậu, cúi gập xuống cũng không thể lọt qua mái tranh. Gióng đành ngồi giữa sân, nhìn Mẹ.
Mẹ lăng xăng chạy quanh người Gióng. Bà lấy khăn ướt lau cẳng tay, lau ngón tay rồi lau lưng cho Gióng, miệng xuýt xoa: Con bẩn hết người rồi…. đen sạm nữa... khổ thân con… khổ thân con tôi quá!
Gióng trìu mến nhìn mẹ rồi bỗng xịu mặt:
- Mẹ ơi… Con đói!
 
*
*        *
Đúng là lúc này Gióng đói thật.
Đã ba ngày nay, Gióng chưa có một thứ gì vào bụng. Mấy hôm trước, mẹ bỗng sốt xình xịch trên lưng Gióng. Từ ngày cõng mẹ vào rừng, ngày nào mẹ cũng chỉ cho Gióng những quả trên cây có thể ăn được. Gióng nhón chân là với tới. Mẹ lại chỉ cho Gióng biết những củ mài, củ từ nằm sâu dưới đất. Gióng dùng con dao nhỏ, cạy một lúc là có ăn. Mẹ sốt, sốt li bì, mặt mẹ đỏ rần, tóc tai mẹ bơ phờ, người mẹ nóng hầm hập. Mẹ chỉ đòi uống nước. Gióng lóng ngóng chẳng biết chăm mẹ thế nào. Một mình Gióng, không biết tìm quả gì, củ gì để ăn. Gióng đói, đói lả người bên thân hình gầy gò đang hầm hập sốt của Mẹ. Giọng Gióng thì thào:
- Mẹ ơi… Mẹ dậy đi… Con đói!!!   
 
 
*
*      *
 
 
Sáng sớm hôm đó, Mẹ lôi tất cả khoai lang dưới gầm giường ra, khều tất cả ngô giống vắt trên dây xuống, đào tất cả sắn non trong vườn, luộc cho Gióng ăn. Mẹ nghẹn ngào:
- Con ơi, nhà mình nghèo, con ăn tạm thế nhé, lát nữa trời sáng, mẹ đi mò cua, bắt tép về nấu canh cho con ăn.
Gióng ăn một loáng hết sạch khoai, ngô, sắn mẹ vừa luộc ra dù chúng còn nóng hôi hổi.
Gióng vươn vai rồi ngó xuống mái nhà, mái nhà đã dột, lâu không ai dọi lại. Gióng  nhìn vào cái chõng tre mẹ vẫn thường nằm, cái chiếu rách lua tua, thủng ở giữa, nơi mà ngày trước Gióng đái dầm, mặt chiếu thâm lại. Gióng ngẩn ngơ, thương mẹ lắm nhưng chẳng biết làm gì. Tay Gióng lóng ngóng kéo mấy nụn rơm đậy lên mái nhà, như chơi đồ hàng. Mấy nụn rơm lả tả rơi xuống đầy mặt chiếu. Nản quá, Gióng ngồi tựa vào gốc cây sấu ngáp dài rồi ngủ gật. Quá trưa, Mẹ mang một rổ ổi về. Gióng bừng tỉnh, chưa kịp ăn thì nghe tiếng nhiều người xôn xao ngoài ngõ.
Dân làng nghe tin Gióng về nhà, đã ùa theo Mẹ,
về theo…
Thế rồi, người gánh, người đội, người đẩy xe mang gạo, mang bí, bầu, khoai, sắn… ùn ùn kéo đến. Một loáng, gạo chất cao như đồi, ngô dồn vào thành mấy đống.
Nhưng không như lần Gióng sắp ra trận. Dân làng vẫn lúi cúi nấu nướng cho Gióng ăn, nhưng người nào người nấy cứ lấm lét, nem nép nhìn trộm Gióng. Gióng đi đến đâu, dân làng đều chạy dạt ra xa, nếu không kịp thì quỳ thụp xuống, vái lia vái lịa.
Gióng lấy làm lạ lắm!
Gần tối, một đoàn bô lão với áo the khăn đóng, rước một cái hương án và có một cỗ kiệu to đùng đi vào sân.
Đồng loạt các cụ bô lão quỳ sụp xuống trước mặt Gióng, lạy như tế sao. Gióng ngơ ngác rồi gọi Mẹ.
Mẹ Gióng lập bập chạy ra, chẳng biết làm gì, cũng rập đầu lạy các cụ bô lão.
Một cụ già nhất trong làng trịnh trọng thưa:
- Kính lạy đức Thánh! Chúng con người trần mắt thịt, không biết Người về. Nay chúng con thể theo lòng dân, kính xin đức Thánh vui lòng dùng bữa tối, rồi dời gia thất đến ở đình làng để dân làng chúng con tiện bề cung kính!
Gióng đưa mắt cầu cứu Mẹ.
Mẹ vẫy tay ra hiệu Gióng cúi xuống. Gióng đang ngồi giữa sân, người phải gần như nằm nghiêng sang bên hè bếp. Mẹ với miệng gần tai Gióng thì thầm:
- Con ơi! Ngày xưa vì mẹ vào rừng gặp cha con, mẹ mang tiếng không chồng mà có chửa, bị dân làng đuổi ra ở chỗ vắng vẻ này. Nay, con phải nghe các cụ bô lão thôi. Nếu không, mẹ con mình không có đất mà dung thân con ạ!
Gióng cười hì hì rồi bảo:
- Mẹ đi với con!
- Ừ, con ra ở đó, rồi ngày nào mẹ cũng ra với con.
Gióng ngoan ngoãn:
- Vâng ạ!
Tối đó, cả dân làng bày tiệc ra đường, bày mâm cỗ ra vườn, cùng vui đánh chén cho tới khuya. Tiếng bát đũa khua vào nhau loeng queng, tiếng cười, tiếng nói rổn rảng như hội làng.
Rồi kèn trống nổi lên. Kiệu bát cống hạ xuống. Mười sáu thanh niên trai tráng của làng gồng những bắp thịt rắn như đồng hè nhau nâng kiệu, rước Gióng về đình.
 
*
*       *
 
Gióng cứ lay mẹ, giật áo mẹ mà gào. Hai tay Gióng lật mẹ bên phải, quay mẹ bên trái, lắc, rung. Giọng Gióng da diết:
- Mẹ ơi! Mẹ dậy đi, con đói!
Mẹ từ từ mở mắt:
- Đã tìm thấy cha con chưa?
- Chưa…ưa !!!
- Ừ, gắng lên con. Tìm thấy cha thì mẹ con mình sẽ không phải đói, cha con ở phía núi Tam Đảo kia con ơi…
- Ứ ừ… con không đi nữa – Gióng dằn dỗi.
Mẹ nhắm nghiền mắt, thều thào:
- Khổ thân con tôi. To lớn thế này mà không được ăn. Trời đất có thương, hãy cho con tôi sớm tìm được cha nó, để tôi có ra đi cũng mát lòng…
Người mẹ lả đi.
Gióng lại lắc, lại rung cái thân hình còm cõi… Cậu khóc tồ tồ “Mẹ ơi! Tìm thấy cha là no hả mẹ, mẹ ơi…”.
Những ngày đầu cõng mẹ vào rừng, Gióng đâu có biết đường rừng mịt mù như thế! Hai chân mẹ bị gãy, thõng thượt trên lưng, lắt lẻo theo bước đi của Gióng. Thân hình to lớn và bước chân huỳnh huỵch của Gióng làm lũ muông thú chạy dạt xa. Mẹ dạy Gióng làm bẫy nhưng Gióng cứ thập thò nhòm ngó, chẳng con thú nào sa bẫy cả. Hai mẹ con cứ ngày rẽ cây rừng mà đi. Tối đến ăn tạm nắm củ, quả hái vội, uống nước suối mà hy vọng tìm được cha…
Gióng ở đình làng được dân làng nuôi ăn no đủ. Hàng ngày Gióng ngồi trên chiếu điều ở giữa đình, vây xung quanh là các vị bô lão. Suốt ngày Gióng nghe những lời thưa:
- Lạy Thánh! Chúng con định xây lại ngôi chùa, Ngài chọn hướng giúp cho làng ạ!
- Kính lạy Thánh! Ngày kia dân làng định cho đào con mương ở đầu làng, kính Ngài chọn ngày giờ đẹp cho chúng con được nhờ ạ!
- Lạy Thánh chí tôn! Nhà con sắp sinh cháu, xin Người mở lòng thương, đặt tên cho cháu...
Gióng ngơ ngác nhìn quanh. Từ trước, Gióng có biết những chuyện này đâu? Mắt Gióng cứ hút vào mấy đứa trẻ đang tồng ngồng chơi khăng ngoài sân.
Các cụ bô lão trông coi Gióng cẩn mật lắm. Ăn uống, tắm rửa, đi tè, đi ị… các cụ đều phân công người chăm chút từng ly. Cấm có để Gióng phải đụng tay chân vào việc gì. Mỗi lần buồn tè, Gióng nhõng nhẹo “Ông ơi, cháu tè”. Lập tức có bốn thanh niên khỏe mạnh được các bô lão phân công, chạy vội đến, khênh một cái ang thật to. Gióng tè tồ tồ vào ang. Nhiều nhà trong làng tranh nhau múc nước ấy, mang về nhà cất giữ như được báu vật. Ai cũng bảo “Nước Thánh đấy, đau chỗ nào, xoa bóp vào, khỏi ngay”. Có người lại còn bảo “Ai uống được nước Thánh lúc còn ấm ấm, sẽ chữa được bách bệnh”!!! Các cụ bô lão hò hét, tất bật… Trưa, tối, các cụ cắt cử người ngủ ở gian cạnh, nơm nớp lo Gióng giật mình tỉnh giấc.
Một trưa, mấy cụ ngủ say, Gióng len lén bước ra sân rồi ra cổng đình. Gióng vẫy gọi mấy đứa trẻ tóc để chỏm, không quần áo, đen trũi như cá trắm đang đứng nem nép ngoài bờ chuối.
Gióng thì thào:
- Cho tớ chơi trốn tìm với!
Mấy đứa trẻ sợ sệt rồi có đứa mạnh dạn thưa:
- Thưa…. – Nó nhìn lên chỏm tóc của Gióng, nhìn cái khố ngắn tũn của Gióng rồi tợn tạo nói:
 - Thưa… thưa mày…!- Một đứa giật tay nó:
- Thưa Thánh chứ!
- Ứ phải. Nó để chỏm giống tao.
Rồi nó nói cứng:
- Mày to cao thế, trốn vào đâu cho vừa!
- Thế cho tớ chơi trận giả với!
 Thấy Gióng không giận mà còn nài nỉ, lũ trẻ bỗng òa lên:
- Hì… cậu bước một bước bằng cánh tớ bước mười bước, chúng tớ thua là chắc!
- Thế cho tớ chơi khăng vậy!
Cả lũ bĩu môi rồi cười váng:
- Tay cậu thế kia, khăng nào vừa được?
Gióng tức:
- Không cho tớ chơi, tớ mách mẹ!
-  Xì… mụ chửa hoang ý à… cóc sợ!
Gióng đành tiu nghỉu về ngồi trên chiếu giữa đình, mắt ngấn lệ.
Một sớm kia, có sứ giả của triều đình về làng. Sứ giả vung loa gọi:
-Loa loa loa loa…
Giặc giã đã tan
Xóm làng xanh lại
Vua cho vời gọi
Những kẻ có công
Sớm đến sân rồng
Để mà lĩnh thưởng
Loa loa loa loa…
Rồi sứ giả dừng ngựa giữa sân đình, ghếch chân lên bờm ngựa nói chõ vào:
- Làng này có cậu bé tên Gióng, biết cưỡi ngựa sắt, biết dùng roi sắt, lại xông xáo giữa trận tiền. Dân làng ghi công hắn, báo về kinh đô để Vua xem xét!
Các bô lão sụp lạy rối rít. Nhưng cũng có vị  mạnh dạn hỏi:
- Thánh của làng tôi giỏi vậy, từ đứa trẻ lên 3 vươn vai lớn hơn 10 trượng, cưỡi ngựa, phun lửa dẹp hết giặc Ân, ai cũng biết, sao Vua lại phải xem xét ạ?
- Hừm, có người báo về kinh đô, hình như mẹ hắn là gái hư hỏng, chửa hoang thì phải!
- Dạ… dạ… điều đó thì….
Tiếng vó ngựa của sứ giả xa dần, tiếng nói còn vọng lại:
- Thôi! Cứ thế mà làm!
Gióng bật dậy, lao ra khỏi sân đình.
Gióng về nhà gặp mẹ.
- Mẹ! Chửa hoang là gì hả mẹ?
Mẹ Gióng đang mơ màng ngồi nhớ con. Thằng bé Gióng của bà ngày nào không nói, không cười làm bà lo đứt ruột. Rồi nó ăn như trút, lớn như thổi. Rồi nó đòi có ngựa sắt, roi sắt. Rồi nó đi đánh giặc biền biệt mấy tháng trời. Giờ nó về, những tưởng bà được ôm ấp nó, bà được hôn hít nó. Nhưng nó đã thành người của làng. Làng giữ nó, làng nuôi nó, làng khấn vái nó… Khổ thân nó, mới ba tuổi đầu, đã biết và cơm đâu! Bốc cơm ăn, vẫn vốc cả hai tay. Đút cơm, nó vẫn vụng về đút cả năm đầu ngón tay vào mồm. Có hôm cắn miếng thịt lợn nó còn cắn cả vào tay, khóc thét lên…Thấy Gióng lộc cộc chạy về, bà như chợt tỉnh, quệt vội nước mắt rồi vẫy Gióng:
- Con nằm xuống đây… Mẹ xoa lưng rồi mẹ kể
con nghe.
Gióng nghe lời mẹ, ngả mình nằm xuống. Chân cậu vẫn ở ngoài ngõ, thân hình cậu choán hết khoảng sân, đầu gối lên bậc hè bằng đất. Mẹ Gióng ngồi bên thềm, xoa đầu, xoa vai Gióng:
- Con ạ, bố và mẹ gặp nhau ở trong rừng rồi có con. Bố bận việc không về làng được, mẹ không lấy ai mà có chửa đẻ ra con, thì dân làng gọi đó là chửa hoang.
- Nhưng con vẫn có bố!
- Đúng vậy! Nhưng với dân làng thì mẹ không giải thích nổi nên dân làng đã đuổi mẹ con mình ra đây.
- Hừ! Thế thì con ứ thèm ra đình ở với làng nữa!
- Sao vậy con?
- Ở đấy chán lắm!
- Thế thì con về kinh đô lĩnh thưởng nhé!
- Con cũng ứ thèm!
- Thế con muốn gì?
- Đến đấy họ bảo mẹ chửa hoang. Con ghét lắm! Mà mẹ ơi, ngựa của con phun lửa, cháy bao nhiêu nhà, con sợ vua mắng! – Ngừng một lát, Gióng quả quyết – Con đi tìm bố.
 Bà mẹ hốt hoảng:
- Không được đâu con ơi! Bố ở xa và đường đi nguy hiểm lắm. Hai nữa con ở với làng còn có cái ăn, cái mặc… chứ con ở với mẹ thì... – Lời mẹ nghẹn ngào trong nước mắt – thì… con chết đói mất!
- Không cần mẹ ạ! Con sẽ đào củ, con sẽ săn thú nuôi mẹ, nuôi cả bố nữa!
- Ôi! Con ngoan của mẹ! Đợi con lớn lên chút nữa, mẹ sẽ dẫn con đi tìm bố.
- Không! Đi bây giờ cơ. Mà con lớn rồi mà!
Gióng co chân, gồng bắp tay khoe với mẹ.
Đúng lúc ấy có tiếng phèng la và đoàn nhạc rước kiệu rộn ràng nổi lên. Đoàn các cụ bô lão của làng lại đang rồng rắn đến đón Gióng về ở đình làng. Gióng vội vàng:
- Mẹ ơi! Con không thích ra ở đình làng nữa.
- Con ơi! Cả làng này có ai được như con?
- Không! Con không thích, con thích chơi trốn tìm, con thích chơi khăng với các bạn cơ…
Tiếng nhạc và đoàn người đã đến đầu ngõ. Gióng chồm dậy. Trong lúc vội vàng, tay cậu chống lên hai chân của mẹ đang duỗi thẳng. “Rắc… rắc…” hai tiếng kêu khô ròn báo hiệu một cái gì đã gẫy.
Mẹ Gióng kêu thất thanh “Ối!” rồi ngất lịm. Gióng chưa hiểu mô tê gì. Nhìn mẹ thì thấy mẹ  lả đi, đau đớn. Nhìn đoàn người thì họ đang ầm ập vào ngõ. Gióng một tay bế xốc mẹ lên. Tay kia quơ vội mấy cái váy áo của mẹ vắt ở cây sào nứa. Chạy!
 
*
*      *
 
Nghe nói: Trong khi đó, ở kinh đô Phong Châu, Vua Hùng họp các quần thần để bình công, xét thưởng. Lạc hầu phụ trách quan lại và dân binh thì muốn tặng thưởng cho quan ở vùng đồng bằng, người đã có công tìm được Gióng. Quan coi việc quân lương thì muốn thưởng cho người đã đúc được ngựa sắt và roi sắt. Quan ở ngoài trận chiến thì xin Vua thưởng cho người đã dụ quân giặc tập trung đóng quân vào một dải đất để Gióng dễ tiêu diệt. Lại có Lạc tướng thưa rằng nên mời Gióng về kinh, cho làm chức quan to. Một Lạc hầu cự lại: Xong việc binh đao, để các tướng võ chăm việc rèn binh, luyện sỹ, không nên dính vào chuyện an dân vốn là việc của văn quan.
Quần thần bàn đi, bàn lại đến nát óc. Có người vừa tố việc mẹ Gióng chửa hoang, giờ lại tố rằng, ngựa của Gióng đã thiêu rụi mấy chục làng, bản. Dân làng ai oán lắm! Việc định công cho Gióng xét mấy buổi chưa xong…
*
*      *
Gióng bế mẹ trên tay, rồi cõng mẹ trên lưng nhằm phía núi Tam Đảo chạy miết. Mấy ngày đầu, khi tỉnh, mẹ chỉ cho Gióng hái lá thuốc đắp chân cho bà. Được gần tháng, chân mẹ đã khỏi. Được mẹ chỉ bảo, Gióng đặt bẫy bắt thú, Gióng đào củ nấu canh, Gióng trèo cây hái quả. Mẹ con bữa đói bữa no sống qua ngày. Nhưng bóng dáng người cha vẫn bặt vô âm tín.
Mẹ nựng Gióng:
- Gặp được Cha, con sẽ tha hồ được chơi như các bạn, con sẽ tung tẩy, đùa giỡn với các trò chơi.
- Gặp được cha, cha sẽ săn thú, trồng tỉa cây bắp cho con ăn, con sẽ không phải đói nữa.
Mắt Gióng sáng bừng lên khi mẹ nói.
Thế rồi mẹ ốm.
Mẹ sốt run người mà mồ hôi vã ra như tắm.
Lá thuốc mẹ chỉ cho Gióng hái, mẹ uống vào không cắt cơn sốt. Gióng lóng ngóng, không biết chăm mẹ thế nào.
Rồi sức mẹ kiệt dần.
Đã ba hôm nay, Gióng đói lả, ngồi bên thân mẹ héo quắt, Gióng khóc rống lên thảm thiết. Nước mắt cậu trai lã chã rơi lộp bộp xuống thảm lá rừng. Gióng khóc thương mẹ ốm đau, khổ cực suốt đời hay Gióng khóc vì không tìm được cha? Tiếng nấc tủi nghẹn ngào! Gióng khóc vì thương cho bao người dân khốn khổ vì khói lửa chiến tranh hay thương phận mình mồ côi? Tiếng khóc rung lên đau đớn. Hay Gióng khóc vì không được cùng lũ trẻ chơi trò đánh khăng đánh đáo? Tiếng khóc dỗi hờn u uẩn. Khóc ròng rã như thế, nước mắt Gióng chảy hòa vào nước suối rừng đại ngàn, rào rào chảy. Gióng thiếp đi trong đói lả và mệt rã rời.
Trong mơ, Gióng gặp được cha ở cuối đường rừng. Nơi đó có suối chảy rì rào, có hoa thơm trăm sắc đua nhau nở. Cha là người cao lớn, trí dũng hơn người. Cha cai quản cả một vùng đất đẹp như tranh. Gióng gặp người nào cũng tươi cười, hăng say làm việc. Gióng gặp các con thú rừng mà ngoan như thú nhà. Những chú gấu rúc vào chuồng lợn nằm kềnh bên chú ỉn; những chú nai nhảy nhót đùa cùng bầy chó tíu tít. Chao ôi, lũ trẻ con mới thích làm sao. Đứa nào cũng to cao và mặc áo quần đẹp ơi là đẹp. Gióng òa vào vòng tay lũ trẻ lúc chơi trốn tìm, Gióng tìm thấy chúng. Gióng công kênh chúng trên vai khi Gióng chơi trận giả, bị thua. Ôi, còn cái ăn nữa, sao mà thích thế. Bữa nào cha cũng cho người nấu hàng trăm món thức ăn cho Gióng và lũ trẻ. Người lớn cũng ăn cùng nhau. Ăn xong, trai gái ôm nhau nhảy múa, vui không sao kể hết.
Một tiếng sấm rền vang. Gióng giật mình tỉnh lại…
Mẹ vẫn nằm co quắp, như không còn thở. Rừng đại ngàn vẫn âm âm u u trong hơi đá lạnh. Phía trời tây tím sậm một màu đau buốt.
Gióng nâng mẹ trên hai tay, giơ lên trời cao, gào:
- Cha ơi! Cha ở đâu….
- Âu… âu… âu… âu….
Tiếng rừng già vọng lại âm u đến não lòng.
Cậu trai làng Phù Đổng, tóc để chỏm, giang hai chân, vác mẹ trên vai, thở hộc lên:
- Cha!...
Tiếng hét làm cho tất cả lũ thú trong rừng, lũ chim trên cây đứng tim. Lặng phắc!
Từ trời cao một lằn chớp xanh vụt sáng, một tiếng sét vang động cả đại ngàn.
Hai mẹ con cùng hóa giữa rừng già.
Trong nắng chiều bảng lảng, có người nhìn thấy bóng chàng trai cao lớn ôm mẹ gọn trên tay như ôm bó lúa vàng rực, bay về trời.
 
*
*      *
 
Nghe nói: Mấy trăm năm sau, ở đời Vua Hùng thứ 18, công trạng của Gióng được ghi khắc trong văn bia triều đình và được Vua ban cho chữ “Phù Đổng Thiên Vương”.
Dân làng Phù Đổng được cắt đất để hương khói thờ phụng.
Sử ghi: Đến đời Vua Đinh Tiên Hoàng – tức hơn 1000 năm sau, Gióng được đưa lên thờ ở núi Nghĩa Lĩnh, tục gọi núi Hùng – cùng với 18 vị vua Hùng.
Ngày nay, ai lên đền Thượng đều thấu hiểu điều đó! Nhưng mấy ai hiểu được giọt nước mắt của Người đổ xuống những con đường – những ngày đi tìm cha? !!!./.
                             
 
 
 
 
 
NGƯỜI CHỈ BIẾT NGỒI XỔM
 (Truyện ngắn)
 
Kể ra gọi ông Cổn là lão thì chưa đúng lắm !
Bởi tuy đã nghỉ hưu trên 5 năm, nhưng trông ông rất phong độ. Cái trán tuy hơi hói nhưng bù lại, mái tóc vẫn đen, bồng bềnh rất “nghệ”. Hai hàm răng tuy đã gãy 4 chiếc phía trong nhưng “bộ nhai” trước cửa còn chặt và trắng. Ấy, hàm răng mái tóc mà thế thì gọi “lão” có gì đó không ổn.
Nhưng mọi người gọi là “lão” – Lão Cổn – chính vì cái lễ lên lão ở tuổi 65 của ông ta.
Chuyện lên lão của ông Cổn là câu chuyện được kể dài dài ở cái thị trấn nhỏ bé vùng trung du này. Họ kể ra, thêm thắt vào, rồi lắc đầu, rồi lè lưỡi. Khi thì họ bảo “đổ đi 30 mâm chứ chẳng chơi!” lúc họ bảo “40 mâm là cái chắc!”. Miệng lưỡi thế gian, không biết đâu mà lần.
Số là, khi đương chức Giám đốc Sở Khoa học – Tài nguyên của tỉnh, lão làm một cái lễ thượng thọ cho bà mẹ 80 tuổi – Một cái lễ khao thọ to và oai nhất huyện. Ngày ấy, phong trào khao thọ cho các bậc sinh thành đang rầm rộ. Các cụ hưởng thọ 80, 90 ... được con cháu lồng áo đỏ, khăn đỏ vào! cho ngồi ngay ngắn trên bộ ghế giữa nhà. Con cháu, dân làng, họ mạc, thân bằng cố hữu gần xa lần lượt vào bắt tay cụ, chúc mừng. Có cụ ngồi cả ngày chỉ một động tác gật gật. Có cụ ngồi được nửa buổi đã lả đi, phải gọi người đến tiêm thuốc tăng lực. Quà mừng thì ê hề đường, sữa, rồi kẹo, bánh. Sau thấy bất tiện, họ chuyển sang mừng các cụ bằng phong bì. Có vị hài hước bảo “Đấy là mừng nụ cười hình chữ nhật”!!!. Phong bì vừa tiện dụng, vừa kín đáo. Lại được gia chủ dễ bề “xử lý” sau này. Qua vụ khao thọ mẹ, lão Cổn thu lãi mấy trăm triệu (!)
Về hưu rồi, lão nghĩ: Ngày mình làm Giám đốc Sở có bao tay nhờ vả, cầu cạnh. Khi thì đất cát, lúc thì khai thác cát, sỏi ... Làm thọ mẹ mình có đứa còn chưa đến, có đứa còn bủn xỉn mừng nhỏ giọt. Nay ta làm thọ cho chính ta, làm sao không đến mừng ???
Thế là về hưu được 4 năm, lễ lên lão 70 của ông Cổn được thông báo. Người thân tình thì bảo: “Tính ra ông mới nghỉ được sang năm thứ 5, lên lão 65 tuổi sao được?” – Lão bảo: “Ối giời ! Bao năm cống hiến cho Đảng, cho Nhà nước, sức vóc tôi cũng yếu lắm rồi! chẳng biết có sống nổi dăm năm nữa không. Thôi thì làm dăm mâm dưa muối gọi là... kẻo sau này lại ân hận (!)
Mấy bạn bè từ thuở để chỏm thì khẳng định: “Ông Cổn vào tuổi 70 thật rồi! Chẳng qua khi đương chức, ông ấy sửa lý lịch thế nào ấy mà làm thêm được mấy năm trên ghế quan! Chứ bọn tôi thì ai cũng làm thọ hết rồi!”. Được ý ấy, lão Cổn càng phấn chấn. Lão cho gọi cả đội quân nấu nướng, bếp, bàn của nhà hàng Hoa Phố từ thị xã về làm cỗ. Cũng 9 đĩa 2 bát, cũng nem chua, chả nướng, cũng canh bóng hầm hạt sen, thuốc bắc... xôn xao cả thị trấn.
Lại nói về thị trấn lão đang ở. Ngày trước, khi còn làm phó chủ tịch huyện, lão đã chọn ô đất đẹp nhất huyện lỵ này. Ô đất vuông vức mỗi chiều 20 mét, nằm sát trục đường liên tỉnh.
Lão làm căn hộ hai tầng khiêm tốn nhưng cầu kỳ về vật liệu. Lão trực tiếp về tận Giếng Đáy ở Quảng Ninh để chọn ngói và gạch xây. Lão cho người vào tận Quảng Nam để mua gỗ về đóng cửa. Lão còn đón ông thầy địa lý từ Lao Cai về để chọn hướng nhà. Ông thầy chỉ tay đắp hòn núi giả – thợ đắp! Ông thầy khoát mắt sang phải chọn thế Thanh Long, lão Cổn vâng vâng dạ dạ. Vì thế mà lão kỳ cục đi tìm hai tháng trời mới mua được cây sakê (có lá to, đen thẫm, xoè như tay quạt – gốc gác từ nước ngoài – Theo lời thầy). Cây sakê gốc từ Nhật Bản, quả ăn bùi như khoai tây, ngọt như khoai lang tím, ngầy ngậy như lạc – được đứng trấn trạch nhà lão Cổn.
Cũng lạ! kể từ khi về ở căn hộ ấy, cả nhà lão Cổn “phát” trông thấy. Lão chuyển từ Phó Chủ tịch huyện lên quyền Giám đốc rồi Giám đốc Sở. Mấy năm sau, chức phó Chủ tịch tỉnh phụ trách kinh tế đột nhiên vào tay lão khi có một ông Phó chủ tịch đang sung sức bỗng đột tử. Lũ con bốn đứa nhà lão cũng cứ lên lây lẩy. Hai đứa con gái không đỗ trường Đại học nào, lão cho vào các lớp tại chức của tỉnh, ra trường: đứa kế toán, đứa công đoàn. Rồi chồng con đề huề. Ổn cả !
Hai cậu con trai thì chưa học hết cấp 3. Lão vội nhét vào làm hợp đồng ở Bưu điện và Ngân hàng Công thương. Thế rồi cũng đều có bằng tốt nghiệp đại học tại chức!!!.
Khi cả đất nước đang phấn đấu phổ cập đại học, chuyện ấy không có gì lạ !
Về hưu, lão Cổn rút về ở căn hộ ở thị trấn với bà vợ già. Lão cho rằng căn nhà “phát lộc” ấy cần phải giữ gìn cho hậu thế. Lão nhường hai căn hộ ở thành phố tỉnh lỵ cho hai cậu quý tử.
Lại nói về bữa cỗ lên “lão” 65 của lão Cổn. Đến 9 giờ sáng lẹt đẹt có mấy ông hàng xóm sang mừng. Hơn 10 giờ được mấy ông bạn học từ thời phổ thông đến dự. Kim đồng hồ nhích dần đến con số 11, lòng lão nóng như lửa đốt. Lão hất mái tóc bồng bềnh đen (thực chất là đã nhuộm), đi đi lại lại từ sân vào nhà. Hai môi lão mím lại. Môi lão vốn mỏng nên khi hai bờ môi dính tịt vào nhau, trên khuôn mặt chỉ còn thấy một vệt hằn nằm ngang, với hai khoé miệng chặt đứng vuông góc xuống. Trông mồm lão như một chữ I nằm ngang, chữ I dán lên khuôn mặt đỏ au vì mấy chén chào xã giao vừa rồi!
Chẳng lẽ lại điện hỏi?
Mấy chục phút sau được mấy ông lãnh đạo các sở đã về hưu lục tục kéo đến. “Quân” văn phòng uỷ ban, “quân” của sở lão đã từng làm Giám đốc, tiệt chẳng thấy mống nào!
Cực chẳng đã, lão nhấc điện thoại, kìm giọng nhẹ nhàng hỏi tay Giám đốc sở. Đầu dây bên kia tiếng xuýt xoa vang lên: “Báo cáo anh, em đang có cuộc họp quan trọng, em xin lỗi, chiều nay em sẽ về với anh chị. Em quên làm sao được công lao vun đắp của anh với sở ta và đặc biệt lòng ưu ái của anh với thằng em?...”
Lão dập mạnh tai nghe. Lão lạ gì mấy cái cuộc họp của các bố!!! Đọc mấy bài báo cáo rỗng tuếch rồi rủ nhau đi đánh chén. Lão lẩm bẩm “Đồ vô ơn!”. Đi được mấy bước, lão chựng lại “Ừ! Mà mình về hưu rồi, mắng chúng nó sao được!” Lão ngồi phịch xuống ghế, thở dốc. Nghĩ về những ngày tháng chạy đôn chạy đáo, hết thường vụ tỉnh đến các vụ ở Bộ để lo cho nó thay mình. Nghĩ mà ức. Lão chợt thấy ậc lên một cục nước bọt to tướng. Lão đứng dậy, nhổ phọt cục nước bọt xuống nền nhà, vội vã chạy ra đón mấy bà cô họ ở quê vừa đến (!)
Chuyện gia nhân đêm đó phải bí mật đổ đi ba hay bốn chục mâm cỗ xuống con kênh chạy qua đầu thị trấn cứ thế rì rầm, lan truyền mãi.
Từ hôm đó, cứ chiều chiều lão Cổn lại ngồi trên chiếc xích-đu để ở đầu hè, mắt nhìn ra con đường liên tỉnh hun hút chạy về thị xã. Nơi lão đã một thời vang bóng. Miệng lão cứ lẩm bẩm: “Thật là ăn cháo đá bát... ăn cháo đá bát...”! Lão ngồi đến khi bóng cây sakê với những chiếc lá to như chiếc quạt, đen sẫm lại. Bóng cây trùm dần lên người lão. Chiếc ghế cũng từ từ sẫm đen trong nền hoàng hôn loang lổ. Khi bà vợ loẹt quẹt đôi dép tổ ong đến gần, lão mới nhổm dậy, chống hai tay lên đầu gối, bặm miệng, nhăn nhó đứng dậy vào ăn tối.
Lại nói đến chuyện cái chân của lão với căn bệnh oái oăm lão mắc phải. Khi đương chức, lão đã chớm bị, càng về sau càng nặng. Khi về hưu, nó đã thành mãn tính hay cố tật, cũng chẳng biết nữa.
Ngày ấy, có một lần, trời cuối thu se se lạnh. Hơi đá từ các thung sâu đùn lên mờ mịt. Triền núi Tam Đảo như một ngăn đá tủ lạnh đang bốc khói. Lúc đó, lão Cổn đang còn đương chức, lão phải lên tiếp một đoàn khách từ miền Nam ra.
Khách đã được báo trước là trời sẽ lạnh. Nhưng mấy ông khách Nam Bộ lại khoái cái rét Bắc Kỳ, cứ nằng nặc lên núi khi mùa đông đã chớm.
Thị trấn Tam Đảo nằm ở độ cao trên nghìn mét, vốn là nơi nghỉ mát có từ thời Pháp. Khi quản lý thị trấn này, lãnh đạo tỉnh đã chỉ đạo ngành Du lịch tập trung cao độ để phát triển ngành. Nhưng khốn nỗi, động đến đâu, là động đến đền bù đất đai. Mà các ông chủ của các ô đất béo bở ấy mới nghe tên khối người toát mồ hôi (!) Vì thế, thị trấn chỉ còn là chỗ ngủ và một vài nhà hàng ăn uống với mấy món đặc sản thú rừng săn trộm hoặc thú rừng giả. Nó cũng là nơi để uỷ ban tỉnh hay các sở ngành tiếp khách xa đến thăm.
Đêm đó, rượu đã ngà ngà nhưng lão Cổn vẫn phải xuống núi vào quãng gần nửa đêm. Lão chẳng khoái gì ngủ trên các căn phòng lạnh cóng ấy! Nhưng sáng hôm sau, lão thấy hai đầu gối tê tê rồi mấy tháng sau nó nhức. Rồi nó cưng cứng bánh chè. Rồi nó khô khô, khó gập lại. Lão chạy khắp các bệnh viện chữa. Đông, Tây y đủ cả, nhưng bệnh không khỏi. Dần dà, lão chỉ có thể ngồi trên ghế cao hoặc ngồi xổm trong chốc lát.
Những khi về quê có giỗ, con cháu rải chiếu để ngồi ăn là lão chịu. Bởi khi ngồi xuống, hai chân lão không co lại được, nó cứ đuồn đuỗn ườn ra chiếu. Khổ nhất là khi đứng dậy. Phải có người đến gần, cúi xuống cho lão vịn vào lão mới nhổm lên được. Mỗi lần như thế, mặt lão nhăn lại, cau có. Cái miệng lại có dịp mím chặt. Cái chữ I nằm ngang mặt lại hằn lên, xẻ sang hai bên má đã sề sệ. Trán lão rịn mồ hôi …
Tuy chân tay như thế, nhưng lúc nào lão Cổn cũng thể hiện ra mặt cái sự mạnh mẽ và dẻo dai của mình. Khi có phong trào chơi cầu lông, lão hô hào anh em trong sở tập kín các ngày nghỉ. Khi phong trào chơi ten-nít rộ lên, lão bắt cả văn phòng uỷ ban sắm vợt, ra sân.
Được cái, khi đứng đôi để tập hay thi đấu thì mấy cái môn này được phép bao sân cho nhau. Vì thế các bạn trẻ trong cơ quan tha hồ thể hiện lòng trung thành với lão Cổn. Họ xung phong đứng đôi với lão, họ đôn đáo chạy cuối sân, giành cho lão đứng gần lưới, thi thoảng vụt vài quả gọi là. Chính vì thế mà lần nào lão ra sân và lão đứng ở bên nào thì bên đó chắc thắng đến chín mươi phần trăm (!)
Mỗi lần nhận giải (dù giải nội bộ), lão Cổn rạng ngời khuôn mặt. Lão đứng dạng hai chân, hai tay giơ thật cao, vẫy vẫy khán giả. (Tuy khán giả nhiều khi chỉ có mấy em nữ văn phòng lão bắt ra ngồi xem và vỗ tay). Có lần, chỉ có ba cặp chơi, lão cũng bắt cậu phó văn phòng ra trao giải. Cũng bục nhận huy chương, cũng hoa tặng và cũng tiếng vỗ tay bôm bốp. Thể thao có khác! Nó làm con người ta vô tư, hồn nhiên đến kỳ lạ!
Mấy năm trước khi về hưu, lão Cổn đi diễn thuyết rất nhiều. Lão nhận lời giảng bài cho các lớp tập huấn cán bộ chủ chốt cấp huyện. Lão đồng ý đến nói chuyện về tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh ở các lớp tại chức mở ở Trường Chính trị tỉnh. Khoản “nhuận mồm” lão không quan tâm lắm, tuy rằng bao giờ lão cũng được gấp mười, hai mươi lần giảng viên khác. Điều lão quan tâm là lão được thể hiện sức đọc, sức nói của lão. Lão thao thao nói về mọi lĩnh vực: Triết học, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật … tuốt tuồn tuột, lĩnh vực nào lão cũng nói được. Lão thường nhắc nhỏ anh em cấp dưới: “Người lãnh đạo là người phải am tường trên mọi lĩnh vực. Để khi làm lãnh đạo, không anh nào loè được mình!”
 Điều lão nói là cả một mớ kiến thức thu nạp từ báo chí, từ cuộc sống bao năm lão tích luỹ rồi từ những trang website mà các trợ lý coppy về. Mặt ngẩng cao hãnh diện, tay lão chém chém vào không khí quanh bục nói chuyện, giọng lão Cổn xủng xoẻng: “Tôi rất không đồng tình với những người làm quan chức, khi về hưu lại quay sang làm thơ, hoạt động văn học nghệ thuật. Họ ngụy biện rằng: “Thời trai trẻ bận công tác, không có thời gian. Họ cứ làm như là Đảng và Nhà nước đã làm lụi tàn tài năng của họ không bằng! Theo tôi, còn sức thì phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân đến lúc tàn sức thì thôi. Nhưng phải trên lĩnh vực mà mình am hiểu, mình tâm huyết”. Lão riết róng: “Già rồi, sức kiệt rồi, minh mẫn gì nữa, tươi tắn gì nữa mà thơ với phú? Còn vốn sống ư? Cứ vốn sống nhiều mà viết được văn, làm được thơ thì Hội người cao tuổi sát nhập với Hội Văn học Nghệ thuật làm một…”.
Lão có những kiến giả cũng ngồ ngộ. Lão đứng trên bục giảng, miệng bặm lại, vạch chữ I nằm ngang ra giữa mặt, rồi bật ra những dòng diễn giảng:
- Khi người ta thiếu cái gì, người ta thường bàn nhiều, nói nhiều về cái đó. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi các nhà văn, nhà thơ ngồi đâu cũng nói chuyện chính trị, nói chuyện sắp xếp tổ chức này nọ. Ngược lại, ta cũng rất dễ hiểu khi các nhà lãnh đạo hễ rảnh rỗi là cao giọng bình thơ, say sưa bàn về phương pháp sáng tác, khuynh hướng sáng tạo… người ta thường khát khao những thứ mà mình không có!”
Hăng lên, lão còn phán: “Các nhà văn, các hoạ sỹ bây giờ cứ chạy theo lối sáng tạo đầy rối rắm, hết trường phái nọ đến trường phái kia. Trong khi nhân dân đang cần những gì? Họ cần những thứ thiết thực gần gũi như cơm ăn, áo mặc hàng ngày…!” Vô tình lão lại cao giọng lạm bàn về văn chương!!!
Cả hội trường lặng tanh, những điều lão nói cứ trơn tuột qua các dãy bàn mà học viên đang lúi húi đọc tin nhắn trên điện thoại?
Từ cái suy nghĩ rất cách mạng là phải phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân dến hơi thở cuối cùng ấy mà vừa về nghỉ hưu hơn bốn tháng, lão Cổn đã ra ứng cử chức Bí thư Đảng uỷ thị trấn.
Chuyện là, Ban chấp hành Đảng uỷ thị trấn khoá đương nhiệm đang có nhiều bi bét. Chủ tịch Uỷ ban bị cách chức vì vụ đấu thầu đất đầy mờ ám. Phó Bí thư thường trực thì dính vào vụ tham ô khi còn làm Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế. Bí thư Đảng uỷ thì bị dân kiện vì giành mua đất giá chỉ đạo cho con cháu nhiều quá. Có đứa cháu nội mới 8 tuổi cũng đứng tên ô đất trên hai trăm mét vuông ở giữa thị trấn. Tình hình địa phương đang nước sôi lửa bỏng thế, lão Cổn không thể yên tâm! Lão bảo vợ: “Tôi còn sức, còn trí tuệ, tôi phải ra giúp dân, giúp làng”.
Vợ lão vốn quen phục tùng. Im lặng.
Bạn bè thuở hàn vi thân tình góp ý: “Ông ở tỉnh lãnh đạo dễ lắm, về làng xã không khéo mất cả danh lẫn giá!”. Người bà con còn bảo thẳng: “Ông không làm, họ còn gọi là “ông”, là “bác”. ông làm không khéo họ gọi bằng “thằng” chứ chẳng chơi!”
Lão cười khẩy, giọng kẻ cả: “Đảng viên họ cần họ cứ đến yêu cầu… chứ tôi thì …”
Lão đến gặp Bí thư Huyện uỷ, đề đạt các phương án ổn định tình hình địa phương. Ở một huyện có 25 xã, thị trấn; mà tới 20 xã có “vấn đề”, thế nên ổn định được xã nào hay xã nấy! Ban Thường vụ Huyện uỷ như vớ được vàng, lập tức đưa lão vào danh sách ứng cử trước Đại hội Đảng bộ thị trấn.
Hội trường Đại hội Đảng bộ như rung lên khi Bí thư Huyện uỷ lên phát biểu. Đồng chí hết lời ca ngợi những đóng góp của lão Cổn với tỉnh, với huyện. Đặc biệt, những giải pháp có tính khả thi rất cao trong việc đưa thị trấn phát triển, xứng tầm là “thủ đô” của huyện nhà.
Ngồi ở bàn chủ tịch đoàn, lão Cổn quay sang nói với “tay” Bí thư Đoàn đang dự kiến là thường trực Đảng uỷ khoá tới: “Các cậu cứ yên tâm! Bí thư Huyện uỷ là anh em chí cốt, là đệ tử ruột của tớ ngày trước. Giờ hắn về làm Bí thư huyện nhà, chẳng ủng hộ mình thì ủng hộ ai?
Mấy người trong Chủ tịch đoàn mắt cứ chớp long lanh, tràn trề hy vọng.
Lão Cổn làm Bí thư Đảng uỷ chưa được nửa khoá, đơn kiện đã tới tấp lên Huyện, lên Tỉnh. Giải phóng mặt bằng, kêu gọi đầu tư, phát triển công nghiệp không làm được. Đưa giống mới tăng năng suất cây trồng trong nông nghiệp thì đổ bể. Nội bộ cán bộ lục đục, kiện cáo lẫn nhau. Việc trả tiền đền bù cho dân bị cán bộ cắt xén. Làm trường, làm đường chưa bàn giao đã xuống cấp thậm tệ …
Đề án ổn định tình hình địa phương của lão Cổn tan nhanh như bọt xà phòng.
Chính lão Cổn cũng dính vào mấy vụ do đàn em lôi kéo.
Quen lối quản lý hành chính ở cơ quan cấp tỉnh, lão áp đặt vào công việc địa phương. Việc gì Bí thư cũng nhúng vào. Bí thư cho ý kiến cả việc đấu thầu xây dựng đến chế độ ăn của các lớp mẫu giáo… Lão lập luận: “Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất là phải thế !!!”. Hệ thống cán bộ chỉ “vâng, vâng, dạ, dạ” lấy lòng trước mặt. Không ai mặn mà với lối quản lý “hét lấy được” của lão. Thậm chí có mấy tay trưởng thôn còn bảo “Thị trấn mình làm gì có uỷ ban mà xin dấu?”. Tệ hại hơn mấy tay văn phòng uỷ ban, khi quá chén, lại bô bô: “Sếp cả nhà mình ăn chơi vút tầm nhé, hôm đi hát ka-ra-ô-kê, sếp bắt các em tiếp viên cởi truồng hết! Hai em kè bốn cặp vú lên vai sếp, hát say sưa. Tay sếp vê vê đến là điệu nghệ …”
May mà mấy cái ảnh bị chụp trộm được Ban kiểm tra Huyện uỷ giấu nhẹm đi, không thì tan nhà nát huyện chứ chẳng đùa.
Lão Cổn vội vã từ chức Bí thư Đảng uỷ chứ không thì chính Bí thư Huyện uỷ – đệ tử của lão – sẽ phải có quyết định cách chức lão.
Thế mà lão còn trách Bí thư Huyện uỷ chơi không đẹp! Vì còn chân trong Đảng uỷ, lão Cổn nhận chức Chủ tịch Mặt trận tổ quốc thị trấn. Đi đâu lão cũng cười và nói với mọi người: “Mình còn ham hố gì đâu! Làm là do Đảng yêu cầu, do dân đề đạt mà mình gắng sức thôi…”
Sáng nào lão cũng buộc cặp vào sau xe máy. Vợ hỏi, lão bảo phải đi họp ở Huyện. Lúc thì lão bảo họp ở xã bên. Bà vợ có lúc bực mình lẩm bẩm: “Buổi tối lên giường cũng bảo họp!”.
Lão cũng chỉ làm Chủ tịch Mặt trận tổ quốc được hai năm. Tức là vừa đúng một khoá cấp uỷ. Việc lão phải dời Chức chủ tịch Mặt trận tổ quốc thị trấn chính là vì cái vụ làm thọ 70 của lão (mà theo giấy tờ công tác lão mới vào tuổi 65).
Chủ tịch Mặt trận mà khao thọ rầm rộ như chiến dịch vận động quần chúng đi triệt sản, sinh đẻ có kế hoạch ấy! Phông, màn, kèn, loa, đài nhạc rậm rịch mấy ngày trời. Rồi cái vụ con trai lão lập công ty ma, lừa ngân hàng trên 4 tỷ đồng, phải vào nhà đá… đã chính thức đưa lão Cổn trở về “vạch xuất phát”.
Đầu gối của lão càng ngày càng đau. Đôi khi đứng dậy tiếp khách lão đã phải tập tễnh. Nghĩ cũng tội!
Gần đây, nghe đâu lão lại tham gia chân tuyên truyền trong Ban quản lý tu tạo ngôi đình làng.
Việc này, lão rất hồ hởi, khoe với bạn của con gái lão rằng: “Các cháu thấy chưa? Bác vẫn rất có ích cho xã hội, cho dân làng đấy chứ!”
Vợ lão có ý không bằng lòng, dằn hắt: “Ông không ở trong cái nhà này được một ngày yên ổn à? Hay nhà này có ma?” lão gạt đi, bảo: “Dân làng cần mình thì mình phải có tấm lòng chứ! Ngần này tuổi đầu, có cháu nội cháu ngoại rồi tôi còn thớ lợ gì đâu mà bà phải lo?”
Chỉ khổ cho lão, việc ở đình làng thì thường ngồi chiếu để bàn công việc. Những lúc như thế, lão cứ đứng lom khom. Sợ kéo ghế ngồi nhìn xuống thì e bất kính với các cụ thượng. Mà ngồi bệt xuống chiếu thì là cực hình. Vì thế, lão ngồi ne né trên một chiếc ghế thấp do lão tự làm rồi cắp theo ra đình làng. Ngồi, nhưng lão vẫn cố khép nép, thu cái bụng phệ lại. Ngồi, nhưng lão cứ nhấp nha nhấp nhổm, sợ các cụ cao niên quở trách. Nửa năm sửa đình, lão cứ nhấp nhổm ngồi xổm thế!
Sau tết vừa rồi, lão có vào thị xã thăm đứa cháu họ gọi bằng ông trẻ. Ông cháu này đang làm ở toà soạn báo tỉnh, phụ trách trang văn nghệ nên được ông trẻ Cổn điện hẹn gặp nhờ một chút việc về văn thơ.
Vừa gặp nhau, chưa kịp uống cạn chén trà, lão đã vồn vã:
- “Cu cháu” này! – Ông cháu nhăn mặt, nhìn quanh sợ có nhân viên nào nghe thấy. Vì dù sao hắn cũng là Phó Tổng biên tập tờ báo tỉnh – Cháu biết đấy, ngày ở huyện, ông đã nhờ vả rất nhiều vào tay bác sỹ Quy ở xã Tân Phúc. Tay này còn trẻ nhưng rất đức độ. Anh ta chữa bệnh cho bà trẻ, rồi các dì Trung, cậu Mai, bác Cấn, ông trẻ Nhẫn, đến các cháu chắt nhà ông, mà không lấy tiền, anh ta tốt đến mức…
- Vâng, vâng, cháu có biết anh ta ạ!
- Ừ, thế thì tốt! Anh ta chữa bệnh cứu người là chính. Nhưng nhà cũng rất giàu.
- Ý ông trẻ là…?
- À, sắp đến ngày 27 tháng 2, ngày Thầy thuốc Việt Nam. Ông muốn có cái gì đó tặng anh ta. Anh ta là ân nhân của nhà ta. Cái đận cứu con Cúc bị chửa ngoài dạ con, không có anh ấy thì chết đứ đừ rồi. Ông chưa biết trả ơn thế nào. Tiền thì không được rồi, vật quý nhà anh ta cũng có nhiều. Nên ông đang nghĩ cách …
- Thế thì ông trẻ tặng một cái gì đó có giá trị về văn học nghệ thuật ý! Vừa ý nghĩa, vừa làm cho anh ta không coi thường mình được!
- Ấy, ấy … đúng thế! Ông có làm mấy câu thơ đây, nhờ anh sửa giúp!
Ông cháu cười vang:
- Ồ, tưởng gì chứ việc đó là nghề của cháu rồi! Đâu, ông đưa ra đây!
Thế là hai ông con vần vã hết cả buổi trưa để có 4 câu lục bát như thế này:
“Nửa đời cười với gian truân
 “Đến nay có được Phúc, Ân giữa trời”
 “Đẹp như viên ngọc sáng ngời”
 “Hào hoa vẫn giữ lẽ đời đơn sơ…”
Đấy! Bốn câu thơ ra đời với những lời giải thích của lão Cổn kèm theo đầy thoả mãn.
Lão Cổn duỗi thẳng chân, gác lên cái bàn uống nước của thằng cháu Phó Tổng biên tập, đắc ý:
- Hay! Hay và ý nghĩa lắm “cu cháu” ạ!
Ông cháu quay vội nhìn ra cửa, nhăn mặt.
- Cháu đặt cho ông cái tên bài thơ được không?
Anh cháu ngẫm nghĩ một lát rồi buột miệng:
- “Trong sáng giữa đời” được không ông?
Lão Cồn bặm miệng, suy nghĩ. Cái chữ I nằm ngang lại được dịp trưng bày trên khuôn mặt đã có chiều phùng phụng, biểu hiện thận yếu. Lão gật gù:
- Phải đặt là: “Viên ngọc giữa đồng quê” cháu ạ!
- Như thế nghe có vẻ tâng bốc quá …
- Không! Phải thế mới xứng cháu ạ. Rồi lão vỗ đùi kêu “tét” một cái; co chân chống đầu gối đứng dậy. Lệnh khẽ:
- Cháu đưa vào vi tính, đánh máy ngay cho ông; để lát nữa, ông ra cửa hàng nhôm kính, cắt cái khung vàng thật oách lồng vào.
Lão tập tễnh đi quanh phòng trong khi ông cháu ngồi vào bàn vi tính:
- À, phía dưới tên bài thơ cháu đánh: “Quý tặng Bác sỹ Hà Đương Quy – nhân ngày thầy thuốc Việt Nam”.
Lão bỗng gác chân lên ghế của thằng cháu, nhòm vào màn hình vi tính:
- Cuối bài, cháu đánh mấy chữ đậm cho ông: “Tác giả Bùi Đình Cổn - Phó Chủ tịch UBND tỉnh”. Ông cháu buột miệng:
- Phải có chữ “Nguyên” ở đằng trước, “nguyên Phó Chủ tịch” chứ ông?
- Không cần! Mình có ghi cụ thể tặng ngày tháng năm nào đâu. Cứ ghi thế, ai hiểu thế nào thì hiểu …
Ông cháu Phó Tổng biên tập chỉ biết cúi đầu, gõ chan chát vào bàn phím.
Vừa chờ máy in, ông cháu quay lại:
- Ai dè, ông trẻ cũng “tâm hồn” ra phết!
- Ấy, ấy, suýt quên. Tới đây ông sẽ cho ra mắt câu lạc bộ Thơ ở đình làng ta. Tập hợp tất cả các ông bà hưu trí rồi người già yêu thơ của làng Vân Trụ ta để sinh hoạt thơ văn cho vui. Lấy tên là câu lạc bộ thơ “Vân du” nghe được cháu nhỉ? Cháu nhớ về dự và phát biểu động viên các cụ! Cháu là nhà thơ cấp tỉnh về dự làm vinh hạnh cho Câu lạc bộ lắm đấy! Động viên các cụ già ở làng ấy, chứ ông trẻ thì… Lão bỏ lửng câu nói ở đó làm cho ông cháu chỉ biết “Vâng, vâng” mà không biết sẽ ứng xử ra sao…
Ông cháu tiễn ông trẻ ra cổng. Nắng cuối ngày đã chếch bóng, in hình những cây bàng khẳng khiu không lá, quét lằng nhằng lên bức tường cổng cơ quan.
Nhìn dáng ông Cổn tập tễnh, tay ôm khư khư cái cặp có bài thơ; bước lên taxi, ông cháu bỗng xót xa: Chân ông thế kia, không hiểu khi về nhà ngồi chiếu ăn cơm với bà trẻ, hay ngồi ăn cỗ với dân làng ông làm thế nào nhỉ?/.
 
 
 
 
 
BỨC HUYẾT THƯ    
 (Truyện ngắn)
 
Trăng sáng!
Ánh trăng tãi trên ngọn dương. Bóng trăng ỡm ờ vuốt ve rặng liễu. Gió lạnh se se thổi. Cái lạnh không khiến người ta rùng  mình nhưng cũng đủ làm cho làn da chờn chợn. Thúy Kiều ôm đàn ra ngồi dưới mái hiên, bên cạnh gốc mộc lan. Hương mộc xoa trên tóc, phớt nhẹ lên má Kiều. Nàng ngước mắt nhìn trời, chạnh nhớ mười lăm năm lưu lạc. Khi Vô Tích, lúc Lâm Truy… khi lầu Ngưng Bích… Có bao đêm trăng đã qua? Đã bao lần nàng đã ngồi ngắm? Mà trăng đêm nay sao sáng thế? Bất giác nàng thở dài. Tay nàng lướt trên phím đàn. Tiếng đàn rung lên. Tiếng thanh vẫn vút cao, ngần ngật, tiếng trầm vẫn rền rĩ. Nhưng tiếng đàn đêm nay sao cứ chơi vơi, cứ thổn thức? Nó không hừng hực da diết như ngày đầu ngồi bên Kim Trọng, không tủi hờn như ở nhà Hoạn Thư, không đớn đau như khi hầu quan Tổng đốc, không réo rắt ngập vui như ngày tái ngộ. Tiếng đàn như dỗi, như hờn, như âm ỉ cháy!... Tiếng đàn lan đến đâu, nước mắt nàng dường như cũng trào đến đó. Lòng nàng vời vợi, xót xa…
Đã hơn 5 năm về sống cùng Kim Trọng và gia quyến, nàng bỗng chợt nhận ra mình như người thừa giữa chính nhà mình. Thứ nàng cháy lòng cần có thì nay nàng đã có, nhưng lại không phải là có. Chàng Kim tất bật lo toan việc công đường, có khi đến hơn tháng chàng mới ghé qua thăm. Thuý Vân túi bụi với một đàn con lít nhít. Tiếng bẳn gắt đôi khi cắt ngang cả tâm trí nàng lúc thiền tọa. Ông bà Viên ngoại đã già, đôi lúc lẩn thẩn; sang chơi ngồi nói chuyện với nàng mà cứ gọi là Vân(!) Mỗi khi giáp mặt Kim Trọng, nàng hết sức bối rối. Nàng không còn cái e ấp của người tình, mà cũng chẳng có cái ngấm nguýt của người vợ. Xa không xa, gần cũng chẳng gần… trong khi nàng mới vào tuổi 40, lửa lòng đâu đã lụi?
Muốn thổ lộ với chàng – còn thể diện? Muốn xa lánh chàng – con tim không nói thế! Tiếng đàn chùng xuống, chờn vờn đến lắt lay…
Giữa lúc tiếng đàn đang quyện vào ánh trăng, xoắn vào hương mộc, hồn nàng đang thổn  thức… Bỗng ánh trăng như loãng ra, trời trắng bệch. Một làn hơi lạnh ào đến. Tiếng vó ngựa rầm rập. Kiều ngửa mặt nhìn lên vầng trăng, lơi tay đàn. Từ trong làn sóng trăng và biển hơi bảng lảng ấy hiện ra một hảo hán đang gò cương, ghìm chân ngựa. Rõ ràng một chiến binh hàm én, mày ngài, lẫm liệt. Kiều thảng thốt rên lên: “Trời ơi! Từ công…”
Từ Hải vẫn ngồi trên yên ngựa, mắt xếch ngược, trừng trừng nhìn xuống. Cái nhìn như thấu qua bàn tay Kiều đang lập bập trên phím đàn.
- Nàng sao thế? Nàng có được khoẻ không? – Tiếng nói âm âm như trong hang núi dội ra. Kiều vội vàng thi lễ:
- Cám ơn chàng, thiếp có sao đâu! Thiếp khoẻ…
Tiếng âm âm dội lại:
- Không sao ư? Thế mà tiếng đàn đêm nay lại lạ lùng đến vậy? Nàng ước ao điều gì đó phải không?
- Dạ thưa… Nàng ngẩng đầu, ngập ngừng. Từ Hải cắt ngang lời nàng:
- Nàng có được hạnh phúc không? –  Kiều bối rối:
- Nếu hạnh phúc là no đủ, là yên ổn thì thiếp đang được hưởng hạnh phúc!
Giọng Từ công trầm xuống, cảm thông:
- Chồng nàng đối xử với nàng ra sao?
Kiều lặng đi, mặt cúi gằm rồi se sẽ cất lời:
- Chồng ư? Thiếp chỉ có duy nhất một người chồng. Thiếp chỉ có duy nhất một lần vu quy. Chàng có biết không? Chỉ một lần có băng nhân dạm hỏi, có lễ rước dâu. Chao ôi! Một lễ cưới uy nghi, rầm rộ có một không hai ở đất Hàng Châu. Đó là khi thiếp lên kiệu hoa, theo quân sỹ về quân doanh của người hảo hán. Đến giờ thiếp vẫn chỉ là vợ của người ấy mà thôi!...
Từ Hải ngây người:
- Thế là sao?
Rồi tiếng chàng đầy u uẩn:
-Nàng sống với người ta như thế được à? Sao không phải là vợ?... Thế là gì?... Tình nhân à?
 Kiều nghẹn ngào chấm chấm dòng nước mắt:
- Xin chàng đừng hỏi nữa, thiếp đau lòng lắm…
Từ Hải bỗng nhướn mày, mặt đỏ rựng:
- Nàng đau khổ ư? Có bằng ta đau khổ? Có bằng ta nhục nhã không?
- Trời ơi! – Kiều sụp xuống – Xin chàng, thiếp xin chàng, thiếp biết tội của mình lớn lắm… Thiếp đã từng đập đầu dưới chân chàng, thiếp đã nhảy xuống sông Tiền Đường để được theo chàng… Nhưng trời đâu có cho thiếp chết?
Từ Hải lắc đầu:
- Điều đó ta biết. Ta biết nàng muốn yên ổn về với gia quyến, ta đã nghe theo nàng. Nàng mong tìm lại được người tình xưa, ta cũng mặc nàng. Nhưng nàng làm vợ, nàng làm mất cơ đồ của chồng vì cái gì, nàng có biết không?
Giọng Từ bỗng uất hận:
 - Nhục lắm! Cha con Hồ Tôn Hiến thắng ta, ta cũng không thèm đau khổ nếu ta thấp mưu hơn hắn. Nhưng ta đau là ở chỗ: Dưới suối vàng, binh sỹ xì xầm. Trên dân gian người ta bàn tán… Đến muôn đời sau, người đời vẫn hiểu rằng: Ta đã để nàng tham dự vào việc quân cơ. Rồi ta – nàng đã nhận đồ đút lót của tên Hồ Tổng đốc đốn mạt ấy. Người đời cho rằng: Với món quà mang đến nhà riêng “Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân” mà nàng đã nhận, hắn đã mua được ta, đã khiến ta phá tàn cơ đồ lừng lẫy. Ở dưới suối vàng, quân sỹ cả hai bên, nhiều người đã khinh bỉ, nhổ nước bọt rồi ngoảnh mặt không nhìn mặt ta… Nàng có hiểu không? Có hiểu không?
Kiều chết lặng. Bây giờ nàng mới hiểu hết cái tâm, cái trí, cái nỗi đau vô bờ của Từ công khi chàng chết chôn chân, sừng sừng giữa trận tiền ngày ấy. Nàng rập đầu nấc lên:
- Tội thiếp đáng chết, ngàn lần đáng chết… Xin chàng cho thiếp đi theo… Xin chàng cho thiếp được chết!
Từ Hải cúi xuống:
- Nếu nàng đã muốn vậy, ta chờ!
Kiều rối rít:
- Tạ ơn chàng, tạ ơn chàng… Dù thiếp có làm tỳ thiếp, có làm…
Từ Hải cười vang:
- Ha…ha…Không! Nàng sẽ vẫn là vợ ta, mãi mãi là vợ ta… ha, ha… Tri kỷ trước sau mấy người?
Nói rồi, Từ nhảy khỏi yên ngựa, con ngựa hý lên, mõm ngoạm vào ánh trăng, Từ dắt ngựa, tản bộ, chân bước bồng bềnh trong làn sương mỏng. Bỗng Kiều lại cuống quýt:
- Xin chàng, xin chàng chờ thiếp… Chàng cho thiếp viết đôi dòng gửi lại.
Tiếng Từ âm vang, rền như sấm:
- Việc đó tuỳ nàng!
Kiều giở vội tấm lụa trắng dài hai thước mà Kim Trọng tặng nàng ngày tái ngộ. Nàng lao vào phòng, nhặt bút, chấm mực, hối hả viết. Nàng viết như không bao giờ còn được viết. Nàng đưa tay nhanh như sợ không kịp giãi bày ý mình. Con chữ trào ra trên ngòi bút như đã chực sẵn từ bao giờ. Nàng viết trong tiếng nấc thẳm sâu của ân hận. Nước mắt nàng dào lên, chảy vào khoé miệng, mằm mặn. Những giọt nước mắt lã chã rơi trên dòng chữ. Những giọt nước mắt thấm xuống bỗng đỏ hồng nền lụa trắng.
Nàng viết dưới cái bóng lừng lững của Từ công. Người anh hùng họ Từ đăm đăm nhìn nàng… Chờ đợi…
Khi tấm lụa đầy kín chữ – những con chữ đen nhánh nổi lên trên nền hồng của những dòng huyết lệ, Kiều cuộn bức thư, phong kín và ghi rõ bên ngoài: “Gửi em Vân”. Nàng buông bút, ngã vật ra. Ghế bàn lục cục đổ. Cây đàn rơi “choang” một tiếng, đập vào gốc mộc lan. Mấy gia nhân giật mình tỉnh giấc, chạy đến, vực nàng lên giường. Người thuốc, kẻ thang rầm rập. Từ phòng riêng, Kim Trọng vươn vai, uể oải hỏi: “Chuyện gì mà ồn ào thế?” Nghe bẩm lại, chàng Kim vội xốc xống áo, chạy sang. Mắt nàng đã thất thần, môi trắng lợt. Khi tay Kim Trọng luồn vào mái tóc, nâng đầu nàng thì môi nàng bỗng mấp máy… Trong tiếng va của hàm răng ngọc và làn hơi yếu, Kim Trọng nghe thoảng tiếng nàng “Kim lang… Kim lang… Thiếp… Thiếp lại... lại phụ chàng… từ đây!”. Nàng nhắm mắt, một dòng máu trào ra bên khoé miệng.
Xa xa có tiếng ngựa phi. Ánh trăng ngập trong đám mây đen, trời tối sầm. Một làn hơi lạnh ào qua, Kiều từ giã nhân gian.
Kim Trọng buồn bã hàng tháng, bỏ bê cả công việc. Sau, nhiều người cùng xúm vào khuyên giải: “Ngày xưa, biết nàng còn sống mà không tìm được, đau khổ đã đành. Nay, có thương nhớ, có sầu muộn đến đâu thì nàng cũng chẳng thể sống lại…”. Dần dà, chàng Kim cũng nguôi ngoai.
Kim Trọng trị nhậm Nam Bình được mấy năm, lại được bổ nhiệm về Lâm Thành, Phúc Kiến. Sau đó lại được thăng chức cai quản một số châu phủ lớn. Đi đến đâu, Thúy Vân cũng mang theo bức huyết thư của chị. Đến phủ đệ mới, nàng lập ngay bàn thờ chị. Mỗi lần, trước khi chuyển theo chồng, nàng đều thắp hương trước bài vị Kiều mà khấn rằng:
- Thưa chị, lúc nào em cũng khắc cốt ghi tâm lời chị dạy trong thư. Em đã gắng làm đúng như chị mong muốn… Cũng có khi em phải hết sức khó khăn để dằn lòng mình. Mong chị hãy phù hộ, độ trì cho vợ chồng em và các cháu…
Không ai biết thư Kiều nói gì. Chỉ biết rằng Kim Trọng đi đến đâu cũng được dân mến. Khi chuyển đi nơi khác, dân đều tiếc. Mấy chục năm làm quan, được ca tụng là người liêm khiết.
Bây giờ ở vùng Chiết Giang, Trung Quốc người ta đã tìm thấy bức thư của Kiều để lại cho Vân. Họ cho in và phát hành rộng rãi. Nghe đâu có nhiều người tìm đọc lắm, nhất là các bà vợ của các vị chức sắc.
Tiếc rằng ở ta chưa có bản dịch nào…/.
 
 
 
 
 
HÀ ĐÌNH CẨN
 
- Họ và tên khai sinh: Hà Đình Cẩn
- Sinh năm 1945
- Quê quán: Tử Du, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1982)
- Hội viên Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hội viên Hội Điện ảnh Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm chính đã xuất bản:
* Đã xuất bản 19 cuốn sách gồm ký, truyện, thơ, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu, nghiên cứu sân khấu.
- Giải thưởng văn học:
* Rừng quả đắng là kịch bản được xét Giải thưởng Nhà nước. 18 kịch bản Tuồng, Chèo, Kịch nói, Cải lương được dàn dựng tại các Nhà hát và công diễn. 
* Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật.
* Một số giải thưởng của các Hội Sân khấu, Điện ảnh, NXB Kim Đồng, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Báo Văn nghệ…
- Suy nghĩ về nghề văn:
Nghề văn là hành trình liên tục vượt qua các thách thức… 
 
 
A - TRONG KÝ ỨC BẠN BÈ
 
 
THEO NĂM THÁNG ĐI 
    Hoàng Quý
Nhà văn Hà Đình Cẩn - tên khai sinh cũng là bút danh. Ông sinh ngày 21 - 3 - 1945 tại làng Tử Du, Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Hiện thường trú tại Hà Nội. Ông là hội viên Hội Nhà văn, Hội Nhà báo, Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam.
Thàng 3 - 1965 Hà Đình Cẩn tham gia quân đội. Từ người lính bộ binh ông trở thành phóng viên mặt trận của báo Quân đội Nhân dân. Sau chiến tranh ông làm việc ở tòa soạn chính tại Hà Nội, rồi Tổng biên tập Tạp chí Sân khấu, Tạp chí Nhà văn. Hà Đình Cẩn là tác giả của những tác phẩm: Quần đảo san hô, Vùng rừng âm vang, Đường gập ghềnh, Vòng lăm vông thứ hai, Ký sự những ngày xưa (tập truyện ký),Thượng Lào ký sự,  Cây sa mu còn lại, Cuối đường có mấy người (tiểu thuyết), Trò đùa người lớn, Thứ phi, Ô cửa sổ bỏ ngỏ (tập kịch),Tác phẩm sân khấu tuyển chọn, Ký ức nghệ thuật  Sân khấu và tác phẩm… các tập thơ: Những câu thơ nhặt được (1989), Ngày đi qua (2010).
Nhà văn Hà Đình Cẩn được tặng Giải thưởng Nhà nước về  văn học nghệ thuật,Giải thưởng của Bộ Quốc phòng và nhiều giải thưởng văn học, nghệ thuật khác. Đặc biêt, các ký sự chiến tranh đã làm nên tên tuổi Nhà văn - chiến sĩ Hà Đình Cẩn. Tuy vậy, bạn đọc còn ít biết một một mảng phong phú khác trong sự nghiệp văn học của ông, đó là thơ.
  1. "Bây giờ nhạc đã nổi lên. Cô gái Lào xinh đẹp đã chắp tay hình búp sen trước ngực mời tôi vào vòng múa. Trong vạt rừng hoa quỳ vàng rộm tôi đã được múa vòng lăm vông thứ nhất trong ngày thắng giặc ở Cánh đồng chum. Đất dưới chân tôi ngày ấy bị bom đạn vằm nát. Rồi vòng múa thứ hai tôi múa ở cao nguyên Bô lô ven, trên vạt đất của nông trường cà phê Coong Tụn. Dưới chân tôi đất Lào đang hồi sinh. Và, bây giờ là vòng múa thứ ba trên sườn núi… tôi gặp một nước Lào mới - môt nước Lào bình yên đang phồn vinh. Chỉ quốc vũ lăm vông là vẫn thế, búp hoa sen vẫn nở trước ngực người con gái Lào đã qua ngàn năm, qua chiến tranh bom đạn, qua những ngày gian khổ, qua cả thời mở cửa đầy gió nóng nhưng vẫn trinh nguyên không tàn…”
(Hà Đình Cẩn - Nhớ Xiêng Khoảng)
Tôi đã đọc những dòng văn này và bao trang văn khác của ông mang vẻ đẹp đôi khi đến xơ xước và dào dạt một cách nghiệt ngã rải rác mấy mươi năm, cả trước và sau những tháng ngày Tổ quốc bước chông gai qua phập phồng âu lo và muôn nỗi gian nguy để tới được thanh bình. Mỗi lần đọc những trang ký ông viết, tôi thèm có ý nghĩ mơ hồ rằng con người này nếu không đôi khi bồng bềnh trong những giấc thơ sẽ là thậm phung phí. Kỷ niệm về đá, Nhớ Xiêng Khoảng, Stung - treng, Chăm pa sắc, Rừng thức, Cà phê Khe Sanh, Thăm thẳm quê…in hằn lốt dép của ông một người lính - nhà văn suốt gập gềnh núi đèo và đằng đẵng đời người. Nếu mỗi lốt dép là một dòng văn, bao nhiêu dòng văn đã cùng ông đi ra từ bước chân người lính ấy!
Tôi đã quen ông thế nào? Hình như bắt đầu từ những thước phim tài liệu chiến sự quý hơn phong lương khô lúc trung đoàn thiếu, đói, những thước phim có ông viết thuyết minh với giọng văn khi mềm mại khi truyền hơi ấm như một hữu cơ, thảng hoặc lắm mới được xem trong khoảng bình lặng hiếm hoi giữa cánh rừng mỏi mệt lúc dứt mùa chiến dịch. Có thể từ hàng loạt bài phóng sự, ký sự chiến trận hầm hập lửa chưa kịp nguội đầu nòng súng nhem nhúa bụi chiến hào.
Tôi đã gặp ông lúc nào? Cũng không cần phải điểm danh trí nhớ dẫu muốn. Bên bìa cháy na pan và nhoáng nhoàng phốt pho của chiến dịch Củ Kiệt chăng? Hay, ở những trận đánh phối thuộc giữa đơn vị chúng tôi với binh đoàn Nguyễn Chuông dằn mặt các tiểu đoàn lính Thái vây ép các bạn Lào và khống chế ta trên cao nguyên Cánh Đồng Chum chan chan bom và nhan nhản phỉ. Cũng có thể là mãi sau tháng ngày bom đạn chỉ còn như những kỷ niệm diệu vợi chúng tôi mới được cầm nắm tay nhau. Đâu còn là quan trọng! "Day đi dứt lại làm gì”! Chỉ biết rằng ông đi nhiều lắm. Những đôi dép rồi cũng được thay. Và rồi những đôi dép lại bung quai, vẹt gót. Ông đi mười năm trai trẻ trong những đoàn quân, theo những đoàn quân, dưới chớp lửa bỏng rát và chết chóc trong cuộc chiến giữ nước, và cả những cuộc chiến không lường hết ở hai đầu biên cương Tổ quốc với cây bút, khẩu súng, chiếc máy chụp hình Pratica cà khổ, với bao lần đói, sốt võ vàng, cả những tiếng cười cùng nước mắt…
Bây giờ, đôi khi một ban mai thư thái, một đêm phố nhợt đèn, tôi lại lần giở thật chậm hàng chục tập sách của ông, đằm lại những trang chữ hầm hập hơi nóng phả lên trần trụi cuộc chiến, trần trụi sống. Và thực cảm động, được đọc to lên những bài thơ của ông - một thứ Thơ bào ra từ gan ruột - nghĩa là, rồi cũng được thỏa mãn cái ý nghĩ mơ hồ ngày nào, rằng ông sẽ phải dành một phần sống cho Thơ, sàng sảy chữ cho Thơ, như một lẽ tất yếu.
2. Nếu có một tập biên khảo dù chỉ dừng ở việc tập hợp, ghi chép gần đủ các bài thơ (Kể cả trường ca - tất nhiên) viết về người lính thì ắt sẽ là một công trình vĩ đại. Ta cứ hy vọng một ngày nào đó sẽ có người (hoặc nhiều người) đủ tài năng, kiên nhẫn và sự công tâm làm được điều này. Trong tập bách thi đồ sộ hy vọng rồi sẽ có, bài thơ Người línhrất đỗi giản dị, kiệm lời, chữ trầm như nốt máu, lối viết ở khúc mở tựa một luận đề của Hà Đình Cẩn, mong các nhà biên soạn đừng quên:
"Tiếng có là tôi
Giữa đội hình tiểu đội
Mười hai tiếng có là A
Ba mươi sáu tiếng có là B
Một trăm hai mươi tiếng có là C
Khối tiếng có hoá quân cờ
Trên bản đồ chiến dịch
… Đánh vài trận bữa cơm lơ ngơ thừa bát đũa
Những tiếng có ngồi im không muốn xua ruồi
Cả đại đội giờ chỉ còn trung đội
Những tiếng có vô danh nằm lại phía sao rơi…”
Tháng 3 năm 1965, người thiếu sinh Hà Đình Cẩn bước vào đội hình "tiếng có”. Ông trở thành cái vi tế trong lớp lớp vi tế nhỏ nhoi nhất, chỉ nhận những mệnh lệnh, chỉ tiến về hướng phải đến, không có chỗ để lùi. (Mà nghĩ lại, những năm tháng ấy và nhiều năm sau nữa, bao trai, gái đã ra đi, ghì chặt hơn dây lưng và quai súng mà đi, cả dân tộc còn đâu chỗ để lùi). Ông quàng lên vai khẩu súng khi trời trung du hoa gạo rơi như máu, loang ướt và bầm dập giữa những nấm khói chết người và nát đổ khi cuộc chiến tranh của không lực Hoa Kỳ mỗi ngày mở rộng hơn, lấn sâu hơn, tàn bạo hơn trên những ruộng đồng, làng xóm mà mẹ ông, chị ông vốn chỉ thích yên vui với việc cày bừa. Và, cái "tiếng có” ông phải thuộc thật nhanh, gọn lỏn như một quan yếu sẽ theo ông đến tận ngày trở về, có thể còn theo ông đến mãi sau xa:
"Sau chiến tranh
Tôi đem tiếng có về quê không biết để làm gì
Con gọi bố, tôi vô tình thưa có

Bỗng nghẹn lòng thèm mẹ gọi tên xưa”.
(Người lính)
Tôi đã đọc một tập hồi ký của một tướng Mỹ ba sao ngoái nhìn cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông (tướng ba sao) gọi uỵch toẹt cái cuộc chiến ông dính líu là "Sự nhầm lẫn và tăm tối khủng khiếp”. Trong thiên hồi ký có một đoạn, đại ý: Chúng ta đã không thắng, không thể thắng họ. Họ rất biết yêu cả trong những trầm trọng đương đầu với chết chóc. Chúng ta quá thiếu hiểu biết. Thì đúng đấy thưa vị tướng khả kính. Nếu ông cũng là một người yêu lấy những câu thơ như dân tộc ông yêu Uyt man và bao nhiêu nhà thơ khác, ông sẽ càng được củng cố thêm cái sự ngộ ra mà ông dũng cảm ngoái nhìn:
"Cả sư đoàn hành quân qua phố
Trong công viên có người hôn nhau
Chia tay vội cuối đường Nam Bộ
Thành phố thành hành lý gánh trên vai

Cả sư đoàn hành quân qua phố
Hoa sữa thơm nao lòng
Nhà bên sáng mai có cô gái trẻ
Ngẩn ngơ vì vắng đàn ông "
(Sư đoàn hành quân qua phố)
Trong sư đoàn lặng lẽ hành tiến chào biệt Hà Nội hôm ấy có chàng thiếu sinh Hà Đình Cẩn, một kẻ mơ mộng và lơ ngơ, một người biết yêu, đi trong đội ngũ điệp trùng những con người biết yêu, viết nên những trang văn, những câu thơ trung thực mà có thể nếu thiếu sự đóng góp của họ tâm hồn con người ta dễ thương tổn và xác xơ.
3. Hà Đình Cẩn làm thơ không nhiều và khá muộn. Những năm tháng bao nhiêu cam go, giá nước mắt ngang bằng giá máu, có thể với ông những trang ký cần hơn, nhanh hơn, thời sự hơn, chia sẻ với đồng đội, với mỗi số phận cả phía tiền duyên và phía sau lưng quan thiết và cụ thể hơn. Nhưng, cũng có có thể với ông chỉ giản dị là Thơ nó chưa đến. Mà cũng có thể (nếu đúng thì rất dở), bao năm tháng bỏng rãy những cái tên như Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Bùi Minh Quốc, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Thanh Tùng…cùng bao nhiêu là tên tuổi khác với những bài thơ, những trường ca bay lộng lẫy trên bầu trời thi ca làm ông ngại.
Nhưng, ông không né mãi thơ được. Một dân tộc yêu thơ và thích làm thơ kỳ lạ như dân tộc chúng ta thì thơ đã như một món ăn khó có thể thiếu trên bàn tiệc cuộc sống. Huống hồ nhừng tháng ngày chúng ta đã trải và chứng thực nhiều mất mát, ngổn ngang, không thiếu bức bối và cả những xáo trộn ghê gớm. Văn xuôi có sức mạnh của văn xuôi. Nhưng,những tinh tế, phập phồng và ảo diệu của thơ không phải lúc nào văn xuôi cũng làm hộ được. Có phải ông sớm nhận ra quãng trống vắng ấy mà thêm vào những đêm mất ngủ, ông ghi lên mặt giấy những câu thơ rưng rưng:
"Ngọn đèn tắt sau hồi còi báo động
Đêm chiến tranh tối nhọ mặt người
Nắm cơm vữa trên tay
Anh ăn lừa cơn đói

Cánh rừng nằm nghiêng trong sấm dong
Chiến tranh gối lên đầu võng
Bên kia là em xa vời…
(Đêm rừng)
Sau trận đánh
Cả trung đoàn ngủ trong rừng sâu
Nắng hun hút tiếng ve nồng mắt lá
Có người lính ngồi trầm ngâm bên đá
Không tạc tên mình
Tạc vũ nữ Ăng Co
(Tạc tượng)
Đảo chìm nổi như chúng tôi chìm nổi
Chúng tôi mắc võng
Võng như thuyền sóng đẩy lên cao

Thèm nước thì hứng trời
Thèm đất hứng vào đâu được
Chúng tôi gieo hạt cải càng trong bát cơm ôi
(Tháng ba ra đảo)
Khi Thơ đã tìm đến ông rồi, ông không cưỡng lại những nhạc địêu lòng trên mặt chữ nữa.Gặp Lao Cai năm 79 ông viết: "Chiến tranh đi qua cỏ lút đầy phố xá/ Mặt trời treo trên cột điện gầy/ Trái cứ chín/ Trái rụng đầy ngõ phố/…Cả sao trời rụng giữa lòng tôi”. Lên cực bắc gặp cao nguyên Đồng Văn đá chồng lên đá, tưởng nơi ấy làm sao mà sống nổi thì ông lại viết được những câu thơ đẹp như tranh: ”Vùng đất không có đất/ Đá uy nghi dựng thành luỹ biên thùy/ Nương rẫy đá/ Sân vườn cũng đá/ Sơn nữ ngồi trên đá thổi khèn môi”. Ngày gặp Huế, Huế đọng lại lòng ông bằng những câu thơ thật bất ngờ: "Không gặp thi nhân thì làm vua vậy/ Mặc hoàng bào, ngai vàng anh ngự/ Chỉ hai mươi ngàn đồng chụp ảnh mua vui/ Thêm hai mươi ngàn mua đủ chín Chúa, mười ba Vua nhà Nguyễn/ Cả triều đại xếp chưa đầy một túi khoác vai” và hai câu kết "Tiêng dạ Huế dài không xếp vào đâu được/ Đường mưa sao xuyến rơi” thì biết ông yêu Huế lắm.. Cùng những bước chân ngang dọc, những câu thơ nhẹ nhàng đã giúp ông trụ vững.
Tôi muốn trích mấy câu thơ trong hai bài thơ của Hà Đình Cẩn. Bài thứ nhất có những câu thế này:”Ngày ấy trẻ trung/ Ngày ấy giữa quê mình/ Em tội tình gì đâu mà anh ruồng bỏ/ anh khao khát những chân trời bỡ ngỡ/ Em cúi mặt giữa làng chịu tiếng chồng chê”.(Người đàn bà mà tôi ruồng bỏ). Và trong bài thứ hai ông viết sau ngày chôn cất mẹ:”Một trăm năm ngắn lắm mẹ ơi/ Chưa qua khỏi cánh đồng bóng Người đã khuất/ Nhà ta nghèo mẹ ngẩn ngơ như đất/ Sáng cỏ dưới chân, chiều cỏ đã trên đầu” (Mẹ). Thêm lời bình cho những câu thơ này có khi vô duyên và nhạt.
4. Đã in tới tập thơ thứ hai nhưng Hà đình Cẩn chưa bao giờ nhận mình là thi sĩ. Ông bảo thơ rất khó nên ông làm thơ không nhiều, chỉ như một sự thì thầm trên trang giấy thôi. Ông còn cho rằng những bài thơ thường ngắn và không nhiều chữ của ông chỉ nên coi như những câu thơ nhặt được từ những tháng ngày đi qua ông. Cái tháng ngày nó cứ lạnh lùng băng qua mình, chứ mình nào có đi qua được nó, ông vui vẻ bảo thế, rồi đọc: "Những câu thơ chẳng để làm gì/ Không làm anh bất tử/ Nếu không một lần lọt trong mắt em/ Những câu thơ chẳng để làm gì/ Ngoảnh lại/ Mặt trời khuất/ Ngôi sao sà xuống thấp/ Câu thơ buồn mênh mang”. (Vô đề). Ông lại bảo lúc hứng nhất ông có cái thú đọc to lên những câu thơ của bạn bè, của tiền nhân, của các bậc ông tôn suy là các "ông thơ”, và thơ của những nhà thơ bất luận người nước ta hay tàu, tây mà ông thích. Ông khôi hài, thơ khéo như thuốc phiện, bập nó rồi nghiện, nghiện thơ thường bổ chả nên cai. Gặp cố nhân, ông kể có lần nằm mộng thấy các Tiên Thi giảng chữ Thơ vốn được viết trại ra từ chữ Vạn biểu tượng của Đức Phật, nghe vui vui mà nhã.Tốt hơn cả, ta lắng tiếng thơ ông để nhận lấy cái ánh ỏi đem đến từ chấm vô lượng tỏa từ chữ Vạn ông theo, tin và giữ nằm lòng. "Yêu trọng nhau nào được mấy người” (Câu thơ của Yến Vinh). Loại thơ có thể gây nghiện như thuốc phiện và trong suốt như chữ Vạn vốn giản dị hồn hậu, không hoang chữ, không hô hoán, không dọa đổ bóng xuống ai, mà cũng chả cần bắt quyết niệm chú hay tô trát vẽ vời. Một đời vật vã sống và viết chả dễ nhiều như cát!: "Anh chắp tay phải vào tay trái/ Bên có trái tim và bên không có trái tim/ Bên hư vô và bên hữu hạn/ Bên không em, bên anh đứng một mình”.( Đi chùa). "Nơi ngày xưa anh qua chỉ còn mây trắng/ Cô thanh niên xung phong giờ đã hoá bà già/ Nơi ngày xưa anh qua cỏ lau khép lối/ Máu đồng đội tưới khắp rừng, hoá dây dợ này chăng”.(Mây trắng). Và, huyền minh thầm ấm ở đây nữa: "Anh vẫn biết/ Ngày phá bom, đêm san đường kiệt sức/ Nhưng các em ngủ thế đã đủ rồi/ Dậy đi các em/ Có rất nhiều quà tặng/ Lược đồi mồi và giấy viết thư/ Hộp kim chỉ và những chùm bồ kết/ Cả gương soi khuôn mặt lấm bùn/ Người thăm viếng nghĩ các em giải lao đâu đó/ Không nỡ hoá vàng mà gửi lại phấn son”. (Đánh thức các em gái ở Đồng Lộc). Đọc thơ Hà Đình Cẩn, nhà thơ Đỗ Trung lai viết: "Thơ có đứng được giữa cuộc đời hay không không chỉ là những câu thơ hay, những bài thơ hay mà còn đòi hỏi những câu thơ có tư tưởng làm nên cái xương sống khoẻ khoắn đứng vững giữa đời sống vốn đã nhiều thơ”. Có thể hiểu đó cũng là một cách nói khi Đỗ thi sĩ gặp những câu thơ nương ánh ướt phổ quang.
"Vừa chạy Lum vừa vịn vào cây rừng cho khỏi ngã vật xuống. Lum chạy như thế vẫn không kịp đám lính. Thằng Sốt dừng lại. Nó nhìn vào bụng Lum bằng đôi mắt trắng nhợt, vừa man rợ, vừa thèm khát. Nó nói với Lum hãy phá cái thai đi, chạy theo nó. Nó muốn lấy Lum nhưng không nhận cái thai vô thừa nhận Lum đang mang. Lum lạy nó. Thằng Sốt nhếch mép, bất ngờ đạp lên bụng Lum. Rừng vắng quá. Còn ai ở đây nữa không? Sao hoa ê - pa lại nở vào mùa này?... Bày thú dữ nhảy quanh đám lửa…Ai đó gọi thật vang…”
Đoạn này trong ký sự mang tên Stung - treng, viết bỏng rát, sống động và đầy nhạc điệu, có thể đọc ngân nga như đọc một đoạn Khan Ê Đê hay S’tiêng nào đó.
Nếu cứ khăng khăng sẽ chỉ sống trọn nghiên bút với văn xuôi thôi, nào có đơn giản vậy! Thơ - có khi nó nấp ngay bên lề trinh trắng trang văn như thời gian lặng lẽ tăm sôi mà anh chưa thình lình nhận thấy đấy thôi. Con người đã đo được thời gian có khi trước cả văn minh sông Hằng. Tôi dám bảo các nhà thơ còn biết cân thời gian xem nặng nhẹ thế nào từ thuở biết hát ca tiếng nói. Nhà thơ dụng chiếc cân thời gian khi mang niềm say, khi vấp nỗi buồn. Có phải vì thế nhiều nhà thơ mới nói một cách mĩ miều rằng thơ đứng về phe nước mắt. Một người lính cầm cả súng và cây bút như Hà Đình Cẩn tất nhiên đã trải đẫm nỗi niềm mặn nhạt. Và như thế thơ ông đa cảm, nhẹ êm như để khoả vợi những ưu tư, những khoảng trống trong lòng.Thơ Hà Đình Cẩn đọc chậm mới nhận lại dư ba, thi ảnh chứa chan không chói gắt. Vả lại, những câu thơ truyền sự ấm áp và cảm động sang ta phải chăng phần nhiều thường giản dị:
"Người tạc tượng nào gửi em vào rừng sâu
Để cánh tay trần dừng ngang điệu múa
Gỡ dây bìm trên vầng trán em
Tượng đá ngủ triền miên thức dậy
Cánh tay trần múa tiếp
Rừng già
Đột ngột
Trăng lên…
(Vũ nữ trong rừng)
"Nước như gương
Sợ chạm tay là vỡ
Cầm lòng thôi
Trả gió về ngàn
Trả nắng về đêm
Trả sông về biển
Trả bờ này. Tu hú gọi bờ kia…
Cây rút ruột xanh không còn gì để trả
Trả ngu ngơ về cho anh
(Mong manh)
  H.Q
 
 Viết tại Thành Phố Vũng Tàu
 
 
 
B - MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BỂU
 
 
RỪNG QUẢ ĐẮNG 
 (Kịch)
 
 
        Nhân vật:
NGƯỜI ĐÀN BÀ (THANH thời trẻ)
NGƯỜI NHÀ GA 
BS KHÁNH
YS.MAI
BS THÌN
DS ĐOAN
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA (Hồn BS THÌN)
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG
SĨ QUAN THAM MƯU
TNXP 1, 2, 3
CHIẾN SĨ A, B, C
MỘT SỐ NHÂN VẬT PHỤ LÀ CHIẾN SĨ VÀ TNXP
 
LỜI GIỚI THIỆU
 Trong những người lính từ mặt trận trở về sau chiến tranh có một nữ TNXP đi ra từ cánh rừng bị nhiễm độc
đi-ô-xin.
Cánh rừng quả đắng.
Cô bị mất mát, đau đớn về tình yêu, nên đã lên một con tàu, thực hiện cuộc hành trình dài từ ga Dĩ Vãng tới ga Hạnh Phúc, với hi vọng tìm lại  được những gì đã mất.
Cuộc tìm kiếm thật gian nan và buồn bã.
Con tàu chở cô không đơn tuyến, đôi khi ngược xuôi giữa hai chiều thời gian, nên dọc đường cô gặp lại không ít những thân quen, những buồn vui, những người tốt và kẻ xấu, những cao cả và thấp hèn, lòng nhân ái và sự phản bội.
Họ hé lộ ở sân ga và sau các ô cửa sổ của con tàu.
Liệu cô có tới được ga Hạnh Phúc?
Các nghệ sĩ, diễn viên chúng tôi kể lại câu chuyện bằng một chuyến tàu giả định, nhưng tiếng còi tàu là thật, nó hú vang trên suốt cuộc hành trình, để nhắc nhở hành khách đừng quên quá khứ gian nan và nhiều mất mát trong chiến tranh khi lao nhanh về tương lai.
Con tàu khởi hành từ ga Dĩ Vãng.
Chúc quý khách thượng lộ bình an...     
GA DĨ VÃNG
  Tiếng chuyển bánh của con tàu chậm dần để vào ga.
  TIẾNG NÓI NGƯỜI  NHÀ GA - Tầu đã vào ga.  Quý khách chuẩn bị hành lý trước khi xuống tàu.
  NGƯỜI ĐÀN BÀ bước ra sân ga, thoảng thốt - Xin hỏi, ga nào đây?
  NGƯỜI NHÀ GA bước ra - Ga Dĩ Vãng.
  NGƯỜI ĐÀN BÀ - Không! Không! Tôi không xuống ga này.
  NGƯỜI NHÀ GA - Vậy quý khách muốn tới ga nào?
  NGƯỜI ĐÀN BÀ - Cho tôi tới ga Hạnh Phúc.
NGƯỜI NHÀ GA - ngẫm nghĩ - Rất tiếc, chúng tôi không thể làm vui lòng quý khách. Ga Hạnh Phúc còn rất xa, ở cuối cuộc hành trình. Xin mời quý khách lên tàu đi tiếp.
NGƯỜI ĐÀN BÀ ngước nhìn về phía trước - Không có ai chờ tôi ở đây cả, mặc dù cái sân ga này từng gắn bó với tôi. Đã từ lâu lắm rồi tôi bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc...
Ngày ấy, tôi còn trẻ, học xong lớp 10 xung phong khắc ba lô lên Trường Sơn. Ở đó có một cánh rừng, một con suối, một đám bạn gái vui nhộn và một người tôi si mê...Mắt Người đàn bà nhìn xa xăm, rồi cất tiếng gọi - Thúy ơi, Nga ơi, Yến ơi...
CHIẾN TRƯỜNG
 Cánh rừng. Con suối.
Các cô TNXP mang vác ba lô, hòm đạn, bao gạo xuất hiện.
TNXP - Cậu ơi, lại gặp suối.
TNXP 2 - Dầm nước suốt ngày, quần áo chỉ còn mỗi bộ đang mặc là khô. Lại lội suối thì biết làm thế nào đây?
TNXP 3 - Mặc ướt rượt, chịu thế nào được. Chỗ này kín đáo, cởi để qua suối được đấy, các cậu ạ.   
TNXP 4 - Lỡ chẳng may có người ...Eo ôi....
TNXP 3 - Ôi dào, tay nào nhìn trộm, nó ngượng mặt nó. Này - Cô TNXP nghé vào tai cô đứng cạnh, thì thầm gì đó. Hai cô cùng cười.
TNXP1 Ôm lấy cô TNXP3 - Hai con này thì thầm nói xấu chị em phải không? Khai ngay, nói gì?
TNXP 3 - Nói gì đâu.
TNXP1 Ôm chặt lấy bạn - Chối này...Nói gì khai mau. 
TNXP3 - Không nói xấu ai đâu. Nó chỉ bảo, bây giờ mà được một thằng kẻng trai nó ngắm lại chả mê.
TNXP1 - À, đánh giá thấp chị em nhé. Phạt vác hai hòm đạn qua suối. Ở giữa chiến trường gái này càng có giá.
TNXP 2 - Thôi, sốt ruột lắm. Mưa đang kéo đến kia kìa. Chậm chân, suối lũ lớn hơn, có mà ngồi nhịn đói bờ bên này. Tao đang tuổi ăn, cóc chịu được đói đâu. Nào, tất cả nhắm mắt lại.
Chị em lột vội quần áo, cắp nách, rồi hòm đạn, bao gạo lên vai, lội xuống dòng nước
Ngay lúc đó có mấy anh chiến sĩ bất ngờ nhô ra dưới bóng cây.
CHIẾN SĨ A - Này, các em, áo xống ở đâu mà ăn mặc mát mẻ thế?
TNXP 3 - Áo cắp ở nách chứ đâu. Đừng có mà vờ vịt. Nhắm mắt lại!
CHIẾN SĨ A - Mắt anh nó bị dị ứng...Không nhắm được.
TNXP 3 - Lôi thôi vừa chứ. Có xà phòng, dù pháo sáng thì để lại cho chị em một ít trên bờ, rồi quay mặt vào rừng.
CHIẾN SĨ B - Bọn này từ ngày vào chiến trường chỉ biết tiến chứ không biết lùi. Với lại, nhìn chị em qua suối vất vả quá, cánh này muốn giúp...
TNXP 3 - Không khiến!
CHIẾN SĨ B - Ở đây hay có máy bay trinh sát. Nhìn thấy chị em mát mẻ thế này, nó đâm đầu xuống suối, khỏi mất công bọn anh lùng bắt giặc lái...Nào, để anh cõng qua.
BS. KHÁNH  lao ra từ rừng - Các cậu ơi, suối có thuồng luồng.
CHIẾN SĨ B - Thuồng luồng mắt đỏ phải không?
BS. KHÁNH - Mắt nó như lửa...Hôm rồi có cậu lính qua đây, vô ý, bị nó đớp suýt mất...súng!
TNXP 3 - Đừng dọa chị em nhá. Cánh này bom còn chẳng sợ, sợ gì thuồng luồng.
BS. KHÁNH - Thôi...Biết chị em ta dũng cảm rồi. Nhưng mà đứng nhìn chị em vác nặng lội suối, không đành. Để các anh vác hàng, dắt tay em sang. Thuồng luồng nó có ngoi lên, nó đướp anh trước. Anh đẹp trai, chưa vợ, thơm thịt, thuồng luồng nó mê.
TNXP 3 – Xí! Khú đế mà chưa vợ. Ăn nhiều mỡ, nhờn mép quá đấy.
BS. KHÁNH - Đây...Em xem anh có thơm thịt không nào...Lính trận với nhau mà còn tiếc.
TNXP 3 - Làm gì thế. Của ăn được đâu mà vội bốc. Muốm Hà Bá dìm không?
BS. KHÁNH - Anh đang muốn em dìm.
BS. Khánh kéo cô gái lại gần.
Rồi thì đôi nào cũng vào đôi ấy.
Có cô vác nặng, hai tay phải giữ hòm đạn, không chống cự được, đành phải đứng yên cho anh lính sờ ngực.
TNXP 2 - Ê cả hai vai đây này. Lính tráng hư quá. Cứ như của bắt được. Nhanh lên cho người ta còn đi.
CHIẾN SĨ C - Đi đâu mà cứ phải vội. Chịu khó tí nữa...
Bất ngờ Thanh lao ra với khẩu AK trên tay.
THANH - Ai cho mấy người làm bậy?
CHIẾN SĨ A - Lính tráng với nhau, vui một tí, bà làm gì mà như ăn phải cháo đầu gấu! Hay là ghen. Lại đây. Các cậu ơi, con này nó ghen. Lại đây anh hạ hỏa cho.
THANH chĩa súng vào anh chiến sĩ - Im! Lũ ngụy chứ không phải bộ đội.
CHIẾN SĨ - Ấy...Hạ thấp đầu súng xuống. Hạ xuống. Đồng đội với nhau, ở cùng chiến trường, cùng sống chết, gặp nhau vui một tí, sao lại nóng tính như lủa thế. Không thích đùa thì thôi. Đi các cậu ơi...
BS. Khánh vùng chạy.
THANH hét - Đứng lại! Đứng lại không tôi bắn!
BS. Khánh sững lại.
BS. KHÁNH - Thanh. Sao em lại ở đây?
THANH - Trời ơi...
TNXP 3 - Ơ kìa...Người yêu của cậu hả? Thế mà hắn khoe vẫn “vườn không nhà trống” còn thơm thịt...Hắn còn...
TNXP 1 đưa mắt sang bạn - E hèm  ...
TNXP 3 - Hắn lại còn đòi bỡn tao. Cô TNXP đến trước mặt Khánh - Có phải đứng trước mặt là người yêu của anh không?
BS. KHÁNH - Cho tôi xin.
TNXP 1 - Hay nhỉ, tình yêu mà ngửa tay xin như xin ruốc mặn ấy. Nhưng thôi, lính cùng mặt trận với nhau, đã xin thì tớ tha. Còn cậu giải quyết cái vụ này thế nào tùy ý. Chúng tớ chờ bên kia suối. Nhanh lên nhá.
Tốp TNXP qua suối. Thanh và BS. Khánh cũng dìu nhau lên bờ, rồi dừng bước, cùng ngồi xuống vạt cỏ.
THANH - Anh Khánh, sao anh nỡ làm vậy. Một bác sĩ, lại là Đội phó Đội Phẫu Tiền phương mà lại đi làm cái trò bậy bạ với mấy cô TNXP bất chợt gặp trên suối.
BS. KHÁNH - Kìa em...Gữa đường bọn anh đùa một tí, đã xin lỗi em rồi, mà mặt em cứ tái xanh, tái ngắt. Thôi, xí xóa, ngồi xuống đây với anh, anh đền.
THANH - Anh chỉ đùa một tí thôi ư? Giết em đi.
BS. KHÁNH - Nếu em không tha, thì súng đây, em bắn anh cho hả giận. BS.Khánh đứng dậy - Bắn đi!
THANH - Cái con Thanh này cũng chỉ là gái bắt gặp trên đường để anh đùa một tí thôi?
BS. KHÁNH - Sao em cứ suy thế nhỉ. Đàn ông đàn ang, giữa mặt trận, gặp chị em đùa một tí mà em cứ chấp nê. Đùa người khác chứ ai đám đùa với em. 
THANH - Giá anh là cậu lính trẻ, có đùa dại dột còn tha thứ được. Đằng này anh lại là bác sĩ, một sĩ quan, lại đã có em, mà anh còn bỡn cợt với gái ư? Anh đã chờ em, đã đợi em như vậy đây.
BS. KHÁNH - Thôi. Cũng tại em để anh chờ lâu quá...Ngồi tựa vào anh nào. Độ này em gầy và xanh.
THANH - Cho em tựa vào vai anh...Em có cay đắng nhìn thấy anh bỡn cợt với gái, cũng phải cố quên chứ biết làm thế nào bây giờ. Lần này em lên ở hẳn với anh.
BS. KHÁNH - Em nói gì lạ. Lên ở hẳn với anh? Em cứ làm như mặt trận là nhà riêng. Cả Đội Phẫu sắp lên tiền phương rồi em ạ.
THANH - Mặc kệ anh. Anh đi đâu, em đi đấy. Em không xa được anh nữa. Sao cái mặt anh khó đăm đăm thế? Anh chả đã từng ao ước chúng mình được sống bên nhau đó thôi.
BS. KHÁNH - Em trẻ con lắm. Ao ước là ý nguyện lâu dài sau này, chứ đâu thực hiện được ở ngoài mặt trận, nhất là lúc này Đội Phẫu Tiền phương lại phải lên phía trước.
THANH - Từ ngày yêu anh, mặt trận đã là nhà của em rồi.
BS. KHÁNH - Em nghe anh nói đây. Ngoài công việc cấp cứu thương bệnh binh, anh còn nghiên cứu chất độc màu da cam. Việc anh đang làm là một công trình khoa học nghiêm túc. Chúng ta đang cần một báo cáo khoa học đầy đủ về loại chất diệt cỏ nguy hiểm, hủy hoại cả con người, không chỉ để tố cáo tội ác diệt chủng của kẻ thù mà còn để cứu chữa người bị nhiễm độc. Một công trình khoa học nhân đạo em ạ. Anh yêu em, mong được ở bên em. Nhưng anh không thể ích kỷ bắt em phải sống cùng trong gian nhà đầy những dụng cụ thí nghiệm và các bản mẫu chất đi-ô-xin nguy hiểm đến tính mạng.
      THANH - Mặc. Lúc này em cần sống gần anh. Cần có anh để được nương tựa, được an ủi, được chia sẻ.
BS KHÁNH - Không trẻ con như thế được. Em ráng chịu đựng, ráng chờ anh...Em vẫn mong anh thành đạt trong công việc kia mà.
THANH - Em có thể chờ đợi, có thể chịu đựng được. Kể cả cái việc em vừa bắt gặp anh với cô TNXP. Em cố gắng quên đi, như chưa từng nhìn thấy, cố gắng cho đó chỉ là một trò đùa. Vì, anh ơi, em và anh có sự giàng buộc để sống với suốt đời bên nhau rồi. Anh và em có thể chờ nhưng có thứ trong em không thể chờ đợi. Nó không biết chờ đợi. Nó cứ lớn lên giữa mặt trận, giữa bom đạn, giữa những cánh rừng bị nhiễm độc chất đi-ô-xin. Nó lớn lên trước mắt mọi người. Kham khổ và nhọc nhằn cũng không ngăn được nó lớn lên. Nó là kết quả tình yêu của chúng ta. Anh đặt tay vào đây này. Nó đấy, đạp nhẹ như mơ hồ...
BS KHÁNH - Em có thai?
THANH - Em nghĩ đến một đám cưới nho nhỏ trong gian hầm của Đội Phẫu  Tiền phương. Xa gia đình, nhưng chúng ta có đồng đội, có bè bạn là những TNXP, những anh thương binh, những thầy thuốc Đội Phẫu ...Họ đến bằng hoa rừng và những bài hát của lính. Anh xem này - Thanh mở ba lô, lấy mảnh dù trắng - Em khâu dở chiếc áo cưới bằng dù pháo sáng. Anh có thích không?
BS KHÁNH - Chúng mình cưới nhau vào lúc này sao? Chúng mình vui hạnh phúc trong cánh rừng chất độc? Vui hạnh phúc giữa chiến trường giờ nào cũng có đồng đội đổ máu? Không thể cưới nhau vào lúc mà mọi người ở đây đang lo đánh giặc, đang từng ngày hi sinh…Hạnh phúc trên mất mát của đồng đội ư?
THANH - Có ai ngăn việc cưới xin của chúng ta đâu. Em biết, chiến dịch sắp bắt đầu. Nhưng chúng ta có làm đám cưới thì anh em bộ đội và TNXP cũng rất vuig. Họ vun vào chứ không ai ganh tị cả. Đội Phẫu của anh phải lên phía trước. Anh sẽ vất vả trong phòng mổ. Em không quấy rầy, không đòi hỏi điều gì quá đáng làm ảnh hưởng đến công việc của anh. Thậm chí, em có thể đi tải thương ngay trong đêm hai đứa cưới nhau kia mà.
 BS KHÁNH - Anh hỏi, em đừng nghĩ sai về anh nhé. Chúng mình còn trẻ, lại đang ở mặt trận, có con muộn một chút có được không?
THANH - Anh thuyết phục em nạo thai có phải không? Em không muốn điều đó. Em có con với người mình yêu, chứ không phải lang chạ.
BS KHÁNH - Em bình tĩnh nghe anh nói. Em biết công việc của anh đang tối mắt. Anh cũng biết, em chứ không phải ai hết luôn mong anh thành đạt. Vậy mà, ở giữa mặt trận chúng ta lại loay hoay lo hạnh phúc của riêng mình thì còn đâu thời gian cho anh nghiên cứu khoa học và cứu chữa thương binh. Hạnh phúc là động lực tiến lên hoặc níu kéo chậm bước là do chúng ta. Thanh, thành công hay thất bại của anh lúc này là nhờ vào sự hi sinh, chịu đựng, nín nhịn của em. Anh xin em những điều đó.
THANH - Nhưng còn cuộc đời em? Phẩm giá của em? Còn con của chúng ta? Em cần một đám cưới dù nhỏ và vội vã, để em không phải cúi mặt vì cái tiếng gái chửa hoang.
Lúc đó, có anh bộ đội bước đến trước mặt BS. Khánh với chiếc ba lô trong tay. Anh đưa cho Khánh chiếc ba lô.
ANH CHIẾN SĨ - Thưa bác sĩ...Đồng chí Trung...
BS KHÁNH - Trung làm sao?
ANH CHIẾN SĨ - Trung hộ lý cùng Tổ Trinh sát vào phía trong chuẩn bị nơi dặt Đội Phẫu Tiền phương, trên đường gặp địch phục kích...Chúng đông quá, anh em không lấy được xác. Lùng xục khắp rừng, anh em chỉ tìm lại được chiếc ba lô của cậu ấy.
 BS KHÁNH - Trời ơi, hôm qua cậu Trung còn phụ mổ cho tôi. Đồng chí về trước báo với đơn vị chuẩn bị lễ truy điệu. Tôi sẽ về ngay.
ANH CHIẾN SĨ - Dạ, tôi đi ạ.
BS KHÁNH - Đấy, em bảo chúng mình cưới nhau thế nào được. Cưới cùng với lễ truy điệu ư? Bác sĩ cưới vợ ngay khi cậu hộ lý của mình hi sinh thì vô đạo em ạ. Tội nghiệp cậu Trung mới có 18 tuổi...
THANH - Em hiểu. Vâng, chúng mình dừng việc cưới lại. Chúng ta chỉ cần báo với tổ chức chuyện của hai đứa thôi, sau chiến dịch chúng ta cưới cũng được.
BS KHÁNH - Sao em vẫn cứ loanh quanh mãi chuyện riêng tư. Sao lại báo với tổ chức chuyện của chúng ta?
THANH- Ý em là ...Em cần phải sống đàng hoàng. Càng ở mặt trận càng phải sống ngửng mặt lên. Em có chồng, em có thai với chồng chưa cưới chứ không phải mang thai hoang.
BS KHÁNH - Ai ngăn em sống đàng hoàng. Em nạo thai, nghỉ ít ngày, rồi lại tiếp tục công việc ở đơn vị TNXP. Chỉ vậy thôi mà em cứ cố ràng buộc đứa con vào anh để hai đứa vứt bỏ sự nghiệp.
THANH  nhìn Khánh, im lặng hồi lâu - Anh khác ngày xưa quá. Bây giờ anh cứ thế nào ấy, tẻ nhạt, ích kỷ, không nồng ấm và cả quyết như ngày anh mới đến với em.
BS KHÁNH - Kìa em.
THANH - Nửa giờ trước, chưa gặp anh, em là đứa con gái hạnh phúc nhất trong đám bạn TNXP. Chúng nó khao khát tình yêu, mà có đứa nào có người yêu đâu. Còn em thì có anh. Em mường tượng anh sẽ vui sướng khi em báo tin vui. Vậy mà bây giờ, mặt anh mới ảm đạm làm sao. Nhìn vào mắt anh, em biết, em có van nài, có ngửa tay cầu xin anh cũng không có hạnh phúc nữa rồi. Lần đầu tiên em hiểu hạnh phúc không thể xin mà có được. Em đã lầm. Anh chỉ đùa một tí, mà em lại lại tưởng chuyện của cả cuộc đời  nên bị cuốn vào trò đùa trong chốc lát của anh.
BS KHÁNH - Thôi, em, đừng nói nữa. Anh đang rối hết cả ruột lên đây này.
THANH - Để em nói. Anh từng đắm say em mà không nghe em than thở vài câu trước khi chia tay ư?  Bây giờ thì em biết, em chỉ là con đàn bà cho anh vui chốc lát mà thôi, chứ nào anh lựa chọn làm vợ, phải không? Vậy thì anh đi đi. Em sẽ không cản đường anh. Anh sẽ rảnh rang để theo đuổi ước mơ của mình. Cái thai này sẽ không liêm lụy đến anh. Nó không phải là con anh.
BS KHÁNH - Em bảo con ai?
THANH - Con của riêng của em...Con của dại dột, của lỡ lầm...
BS KHÁNH - Thanh, em làm sao thế?
THANH- Em không làm sao cả. Ngày trước, mẹ em bảo, làm con đàn bà may rủi như đánh bạc, vào tay người tử tế thì êm ấm, còn vào tay kẻ gió trăng thì xem như mất một đời, đành chịu chứ biết sao… Tôi là con đàn bà xấu số lạc vào tay kẻ gió trăng...Thanh im lăng chốc lát - Vì bao nhiêu người cần cấp cứu ở mặt trận mà tôi không nỡ bắn anh. Anh đi đi...
BS KHÁNH - Thôi được...Em đã đuổi anh, thì anh đi. Rồi em sẽ hiểu, hạnh phúc riêng không phải là tất cả, nhất là lúc này, ở ngoài mặt trận.
Khánh đi, quên cả chiếc ba lô của Trung.
THANH kêu lên - Anh Khánh.
Nhưng Khánh đi thẳng.
THANH ngơ ngác, đau đớn, cô đơn vì bị bỏ rơi. Cô ôm chiếc ba lô của TRUNG để lại như tìm sự bấu víu - Trời ơi, tại tôi, tại tôi. Tại cái ngày ấy ở cánh rừng kia kìa. Yên tĩnh vô cùng. Cánh rừng trụi lá và suối nước cũng độc, nên chim cũng không còn. Chúng tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây. Anh nói những lời nồng nàn yêu thương. Tôi ngả vào anh. Anh đam mê sôi sục như dòng lũ. Còn tôi là cánh rừng chờ nước mát. Sau cái lần ấy, anh nói với tôi cả quyết, có gì thì cưới nhau. Tôi đã sung sướng đến nghẹn ngào vì cái có gì ấy. Nó hình thành thực mà như hư ảo, nhỏ nhoi mà đâng tràn. Tôi nâng niu. Tôi khao khát. Tôi chờ đợi từng ngày cái mầm sống lớn dần. Vậy mà anh nỡ hắt hủi. Anh chối bỏ. Anh lạnh lùng quay mặt đi. Sao tôi lại phải mang trong người dòng máu của kẻ bội tình?
Thanh mở tấm dù trắng, xé ra tửng mảnh. Xé được mảnh nào, cô tung lên mảnh ấy. Những mảnh dù trắng rơi lả tat quanh cô.
 Thanh bỗng ôm lấy mặt, rồi bất ngờ dùng những sợi dù trắng một đầu buộc vào một cành cây, một đầu cuốn nhiều vòng quanh bụng rồi xuay người, xoay người cho sợi dây thít chặt, thít chặt nhiều vòng, đến nỗi làm cô khó thở.
 Bất giác cô nghe đâu đó, có lẽ từ trong tâm tưởng tiếng trẻ khóc làm cô bừng tỉnh.
THANH ngơ ngác - Tôi làm điều gì thế này...Không! Không! Không con ơi... Dòng máu của mẹ. Khao khát của mẹ. Hạnh phúc và cay đắng mấy mẹ vẫn là mẹ của con, vẫn gìn giữ, ấp ủ con. Mẹ không thấy người đàn bà nào chối bỏ con mà hạnh phúc cả. Con sẽ ra đời. Con sẽ khôn lớn cho mẹ vịn vào con để đi hết cuộc đời này...
Các cô TNXP lao đến.
TNXP 1 - Thanh, mày làm sao thế?
TNXP 2 - Ơ kìa… Máu...
TNXP 3  ôm lấy Thanh, sờ bụng cô - Có thai mẹ nó rồi!
TNXP 1 - Đêm nào nó cũng ngủ với tớ. Nó làm thế nào mà có thai được nhỉ?
TNXP 2 - Thanh, mày yêu ai mà đến nông nỗi này. Yêu ai! Thằng nào làm mày khốn khổ thế. Nói đi. Mày có làm sao thì chúng tao sung sướng lắm hả. Ở đây chỉ có chị em với nhau, sao lại phải phá thai một mình?
TNXP 1 - Im mồm. Phá là phá thế nào. Thanh đừng khóc nữa. Mày sợ gì nào. Đẻ đi, chúng tao nuôi. Mày nhìn chúng tao đây này, ngày mới vào mặt trận đứa nào cũng hơn hớn, vậy mà bây giờ thì tong teo, không đám soi gương. Cứ thế này thì chúng tao muốn có con cũng không được, chả nói tình yêu. Mày cứ đẻ, hạnh phúc hay cay dắng thì vẫn là con mày, máu thịt của mày. Người đàn bà có con là có tất cả. Con là quý giá nhất không gì thay thế được…
Mọi người im lặng
TNXP 1- Đơn vị chúng ta sẽ có một đứa trẻ. Tiếng khóc của nó sẽ làm náo loạn cả đại đội con gái cho mà xem. Chúng ta sẽ đỡ già, đỡ cô đơn, đỡ thèm trẻ con. Chúng mày không nhớ có hôm cả lũ chạy một mạch sang cái bản bên kia núi chỉ để được ôm đứa trẻ. Sướng rồi. Chúng ta sẽ có một đứa con chung.
THANH xúc động - Cám ơn các bạn.
TNXP1 3 - Thanh tỉnh lại rồi. Này, cậu nghe bọn này hỏi đây. Mày đau khổ vì thằng người yêu bắt phá thai phải không? Hắn mà ép thì để chúng tớ đi gặp hắn. Hay hắn là tay kẻng trai tán như xiếc, đã bỡn chúng tớ ở suối? Tay ấy môi mỏng như con gái...
THANH - Không...
 TNXP 1 - Đến nước này mà mày còn giấu bọn tao.
THANH - Thôi, các cậu đừng hỏi nữa...Thanh ôm chiếc ba lô - Tôi đau đớn, tôi mất mát nhưng sao bằng mất mát của Trung đây.
TNXP 1- Sao? Hay là mày với Trung?
THANH lắc đầu, nhưng như chợt gợi trong cô điều gì dó, làm cô cả quyết  gật đầu, se sẽ gọi - Trung ơi, cứu tôi với...Cho tôi vịn vào Trung để đi tiếp…
TNXP 3 - Khổ thân cậu rồi. Trung đã hi sinh. Là giọt máu còn lại của Trung thì cậu càng phải giữ. Cậu phải sống tiếp cuộc đời của Trung. Thanh, cậu không giữ được cái thai này thì có tội với Trung đấy.
THANH - Các bạn đi đi...Các bạn để Thanh ở lại một mình với Trung...
TNXP tạm lánh.
THANH - Xé áo cưới làm khăn tang rồi quỳ xuống trước chiếc ba lô - Cậu Trung. Cậu còn trẻ quá, kém chị hai tuổi. Cậu có biết không, anh Khánh bội tình chị rồi. Anh ấy chối bỏ đứa con mà chị đang mang. Chị thì lại muốn giữ. Nó là giọt máu của chị. Cậu ơi, cậu giúp chị nhé. Cậu làm bố đứa trẻ giúp chị. Chị không muốn bắt một người hi sinh phải chịu nỗi bất hạnh của người đang sống. Nhưng mà lúc này, nếu không có cậu gánh cho cái thai chị đang mang, thì chị biết quay mặt vào đâu để sống? Với lại chị muốn con chị ra đời phải có một người bố xứng đáng. Cậu tha cho chị. Cầu mong hương hồn cậu yên nghỉ, phù hộ cho chị...
Tiếng chạy xình xịch và còi tàu hú vang. Trong ánh sáng mờ ảo, chỉ thấy những bánh tàu quay, quay, quay…Cho tới khi ánh sáng trở lại, trên sân khấu là Trạm Phẫu Tiền phương. 
TRẠM PHẪU TIỀN PHƯƠNG
Căn nhà bằng tre nứa ngăn đôi.
 Bên ngoài BS. Khánh mặc blu màu lá cây, đi lại
bồn chồn.
Nữ YS. Mai bước ra.
BS. KHÁNH - Đã có kết quả xét nghiệm máu chưa?
YS. MAI - Dạ, đã có ạ. Tình trạng sức khỏe thai phụ không thể phẫu thuật ngay.
BS. KHÁNH - Cái thai bảy tháng, lại bị tổn thương, nếu không phẫu thuật e khó mà cứu được.
YS. MAI - Vâng, chị ấy bảo thai hơn bảy tháng. Thưa bác sĩ, đây là ca đặc biệt, chồng chị ấy mới hi sinh. Trong lúc đau đớn chị ấy liều lĩnh...
BS. KHÁNH - Cô nói sao? Ai nói chồng cô ấy mới hi sinh?
YS. MAI - Chị ấy khai vậy. Bệnh án đây.
YS. Mai đưa bệnh án cho BS. Khánh.
BS. KHÁNH xem bệnh án - Không...Không thể như
thế này.
YS. MAI - Anh em Đội Phẫu Tiền phương cũng không tin chồng chưa cưới của chị ấy là hộ lý Trung. Nhưng chả nhẽ chị ấy lại nói dối. Người đàn bà sắp sinh con thường không nói dối. Vả lại chỉ ấy không thể đổ vấy cho người vừa hi sinh? Bác sĩ làm sao thế?
BS. KHÁNH - Để tôi trực tiếp kiểm tra sức khỏe cho
cô ấy.
YS. MAI - Xin lỗi, bác sĩ không vào được ạ.
BS. KHÁNH - Sao? Tôi có trách nhiệm cao nhất về điều trị ở Đội Phẫu  Tiền phương, sao lại không vào khám cho bệnh nhân?
YS. MAI - Bệnh nhân có một yêu cầu ạ.
BS. KHÁNH - Yêu cầu gì? Ở đây là mặt trận, không có dịch vụ bác sĩ khám và chữa bệnh theo yêu cầu của
bệnh nhân.
YS. MAI - Bệnh nhân chỉ xin từ chối thôi ạ. Có lẽ vì xấu hổ và buồn nên cô ấy không muốn cho bác sĩ khám và đỡ đẻ.
BS. KHÁNH - Cô ấy đang là bệnh nhân của tôi, không có quyền ra lệnh cho bác sĩ điều trị.
BS. Khánh lao vào. Nhưng anh vừa bước được một bước YS. Mai vội giang tay chắn trước mặt Khánh.
YS. MAI - Bác sĩ dừng lại! Chị ấy nói, nếu bác sĩ vào thì sẽ cắn lưỡi.
BS. Khánh sững người, quay lại rồi từ từ bước đi.
Vừa lúc ấy, một tốp chiến sĩ đến.
CHIẾN SĨ 1- Đúng đây rồi các cậu ơi. Vào đây...
Báo cáo...
BS. KHÁNH - Có chuyện gì thế các đồng chí?
CHIẾN SĨ 2 - Báo cáo, chúng tôi vừa mới biết chị Thanh, người yêu thằng Trung đang đẻ ở đây, cho nên...
BS. KHÁNH - Nói nhỏ thôi, các đồng chí. Cô ấy đang ở đây. Cần yên tĩnh...
CHIẾN SĨ 1- Báo cáo bác sĩ, trước khi về phục vụ đội phẫu, Trung là y tá ở đại đội chúng tôi. Thằng này tốt tính, hiền như con gái...Nó chết mới biết có người yêu đang mang thai. Thưa bác sĩ, xin bác sĩ cứu giúp con thằng Trung. Xin bác sĩ cho chúng tôi gặp chị Thanh để xem chị ấy cần gì, chúng tôi thay thằng Trung giúp đỡ. Tình đồng chí lúc đẻ cũng như lúc chiến đấu.
NHIỀU TIẾNG CHIẾN SĨ - Cho chúng tôi vào thăm chị Thanh! Bác sĩ thông cảm. Chị Thanh ơi...
BS. KHÁNH - Đây là nơi phẫu thuật. Các đồng chí có giữ im lặng để chúng tôi làm việc không?
CHIẾN SĨ 2 -  Chúng tôi sốt ruột lắm ạ...Ở quê, vợ đẻ là chồng phải cắp cái mâm thau nhảy lên mái nhà gọi vía...
 YS. Mai từ phòng trong bước ra. Ngay lập tức các chiến sĩ vây quanh lấy Mai.
NHIỀU TIẾNG CHIẾN SĨ - Đẻ chưa đồng chí? Cho chúng tôi nhìn mặt thằng bé...Chúng tôi muốn gửi quà cho mẹ con chị Thanh...
YS. MAI - Chưa đẻ. Xin các tướng yên lặng chờ...
CHIẾN SĨ 3 nhìn Mai - Gắt như mắm tôm! Đẻ mà phải giữ trật tự. Ở quê đẻ người ta còn đập thúng mủng để xoa tà ma và thúc cu cậu ra nhanh…Thì chờ...Trước sau gì rồi cũng phải đẻ...Này đồng chí y sĩ...
YS. MAI - Đồng chí hỏi gì?
CHIẾN SĨ 3 - Xin hỏi, đồng chí đã bao giờ đẻ chưa?
YS. MAI - Xí!
CHIẾN SĨ 3 - Chưa từng đẻ các cậu ạ, thảo nào khó tính thế...
YS. Mai vùng vằng bỏ đi. BS. Khánh cũng đi khỏi. Lính nháy nhau cười khoái trí.
CHIẾN SĨ 1 - Tranh thủ kiểm kê quà tặng...Đây, quà của tớ là lương khô cao cấp dành cho sĩ quan cấp tá: BA72, vẫn còn nguyên mấy viên tăng lực và gói ruốc bông!
CHIẾN SĨ 2 - Tăng lực để cho bố nó, không cần cho trẻ. Tớ góp một vỉ thuốc...
CHIẾN SĨ 3 - Này, trẻ con không cần thuốc tẩy giun..
CHIẾN SĨ 2 - Thì xin lại... Đổi bằng lọ thuốc xoa muỗi. Được chưa nào?
CHIẾN SĨ 4 - Thuốc xoa muỗi, cũng tạm. Còn tớ một đèn pin ngoéo để mẹ nó soi thay tã.
CHIẾN SĨ 5 - Đây góp cái đồng hồ để khi bí, mẹ bé có thể đổi được vài lon sữa...
CHIẾN SĨ 3 - Đồng hồ gì mà mỗi có một chiếc kim đang chạy...
CHIẾN SĨ 5 - Này, hỏi giờ, chứ ai hỏi phút, hả. Thế còn cậu bảo góp cái dù pháo sáng đâu. Lai đem cho mấy em TNXP rồi phải không. Chỉ được cái dại gái là không ai bằng...Đứng dậy để tớ ngắm xem...Trên người không có gì có thể dùng cho trẻ con...
CHIẾN SĨ 3 - Hay tớ góp cái quần...
CHIẾN SĨ 1- Thôi thôi...Quần hôi xì để lót ổ chó! Này, cánh TNXP đang kéo đến đấy...Chào các em xinh đẹp.
TNXP vào.
TNXP - Chuyện chị em mà các tướng cũng nhanh chân gớm. Đẻ chưa? Mấy cân?
CHIẾN SĨ 1 - Đang phục kích.
TNXP - Phục kích cái gì?
CHIẾN SĨ 1 - Phục kích lúc nào nghe “oa” thì tất cả hô nhau nhảy vào.                
  TNXP B - Cứ làm như bắt thám báo ấy. Cái gì đây? Cũng biết lo cho bà đẻ kia đấy. Xem nào. Ối giờ ơi! Các tướng dịnh lót ổ trâu hả mà đem cái áo khét lẹt mùi mồ hôi với thuốc súng ra làm tã. Loại này dùng vào việc lau súng ...
CHIẾN SĨ 3 - Con lính chẳng lót bằng áo lính thì lót nhung lụa chắc?
TNXP C - Các tướng nhìn đây…Ruốc…
CHIẾN SĨ 3 - Ruốc mặm này chỉ có thể dùng vào việc diệt sâu răng.
TNXP C - Bột trứng!
CHIẾN SĨ 3 - Thông báo của quân y tiểu đoàn, bột trứng hết hạn dùng cho người bị táo bón. Chỉ cần một thìa thì chàng táo bón rên lên, trời ơi sướng quá...
TNXP B - Tã lọt lòng.
CHIẾN SĨ 3 bỗng ngẩn ngơ - Bé tẹo thế này thôi à? Như cái găng tay ấy nhỉ.
CHIẾN SĨ 2 tò mò nhắc ba lô của chị em - Còn gì nữa để kiểm tra. Rút ra một chiếc coóc xê - Trẻ lọt lòng mà cũng cần thứ này à?
CÁC CÔ TNXP hét lên - Ấy…Đồ quỷ.
BS. KHÁNH  lao ra - Ồn quá! Đã bảo đây là Trạm Phẫu, cần im lặng.
CHIẾN SĨ 3 vội đùm tất cả những thứ anh chị em góp vào tấm ni lông, đến trước mặt BS Khánh - Chúng tôi không thể chờ được nữa, xin bác sĩ chuyển cho chị Thanh món quà của những người lính, đống đội của Trung, đồng đội của chị Thanh…Ở đây là mặt trận, quả tình chúng tôi cũng không biết sắm quà gì…     
BS. Khánh vừa nhận gói quà do các chiến sĩ và các cô TNXP gửi, thì YS Mai lao ra.
YS. MAI - Thưa bác sĩ, thai nhi có triệu chứng không bình thường?
TNXP và chiến sĩ xô đến.
BS. KHÁNH - Sao cô biết thai nhi không bình thường?
YS. MAI - Có nhiều dấu hiệu không bình thường. Rất lạ là nước ối màu vàng...
BS. KHÁNH - Thai bị tổn thương?
YS. MAI - Tôi nghĩ khủng khiếp hơn!
BS. KHÁNH - Thai nhi bị nhiễm độc?
TNXP - Trời ơi...
CHIẾN SĨ 1 - Xin bác sĩ cứu chị Thanh, cứu con thằng Trung. Cần tiếp máu cho chị Thanh, tất cả chúng tôi sẵn sàng...
Các chiến sĩ  và  TNXP vây lấy YS. Mai và BS. Khánh.
- Chúng tôi tình xin nguyện hiến máu cho chị Thanh. 
- Bác sĩ yêu cầu gì chúng tôi cũng sẵn sàng.
BS. Khánh rẽ vòng vây các chiến sĩ, cùng YS. Mai lao đi.  Vừa lúc đó, từ phía trong bật lên tiếng kêu của Thanh.
THANH - Ốí...
YS. Mai lao ra.
TNXP và CHIẾN SĨ - Trai hay gái?
YS. MAI Ôm lấy vai một cô TNXP - Các bạn, thai nhi bị chất độc màu da cam hủy hoại...
CÁC CÔ TNXP - Trời ơi!
-  Khổ thân mày Thanh ơi.
CHIẾN SĨ 1 - Trung ơi...Cậu không thể để lại được con rồi…
Mọi người vội vàng ùa vào gian phòng củ Thanh.
Họ kéo bức ri-đô ngăn cách.
Phía trong Thanh ôm bọc tã trắng, đứng im lặng như hóa đá.
THANH cất tiếng - Con tôi đây, các bạn ơi!
Mọi người lặng lẽ gục đầu vào nhau.
         Tiếng còi tàu hú rất vang.
         Lại chỉ thấy bánh tàu quay, quay hối hả. 
         Khi ánh sáng trở lại bình thường, sân khấu chỉ còn BS.Khánh và Thanh.
BS. KHÁNH - Thanh, em nói đi. Em nói một câu gì cũng được. Trao con cho anh nào. Trao cho anh để em còn nghỉ lấy một chút, chứ không thể thức suốt như thế này được…
THANH - Anh cần đến nó làm gì. Nó không phải là
con anh.
BS. KHÁNH - Nó cũng là con anh.  Em đã ôm con suốt một ngày, một đêm rồi. Nào đưa cho anh…
THANH - Đừng động đến con tôi!
BS. KHÁNH - Cho anh xin. Đây là bằng chứng để chúng ta tố cáo tội ác rải chất độc hủy hoại môi trường sống của giặc. Nó không chỉ diệt cây cỏ mà hủy diệt mầm sống của con người.
THANH - Nó trong bụng tôi, tôi biết. Nó không thể ra đời như những đứa trẻ bình thường vì mẹ nó chịu nhiều cay đắng. Do tôi bất hạnh. Do tôi bị bạc tình nên không đẻ được đứa con hoàn chỉnh đó thôi.
Thanh úp mặt vào bọc tã, vai rung lên.
BS. KHÁNH - Thanh đừng nói như vậy. Nó là cái thai bị nhiễm độc. Anh sẽ chứng minh điều này không chỉ cho em hiểu mà nhiều người khác biết về tội ác này của kẻ thù gây ra. Trao con cho anh. Cái thai này là bằng chứng của bản báo cáo khoa học về chất độc đi - ô - xin…
THANH - Không…Anh định lấy nỗi bất hạnh của tôi để nghiên cứu khoa học ư?
BS. KHÁNH - Bình tĩnh lại em.  Đã không ít nhà khoa học phải lấy chính bản thân mình ra để thí nghiệm…
THANH - Không thể thí nghiệm trên cơ thể đứa con bất hạnh của tôi!  
YS. MAI vào - Thưa bác sĩ Khánh, có bác sĩ bệnh viện cấp trên cấp trên đến làm việc.
BS. KHÁNH - Mời họ vào phòng khách. Đoàn có mấy người?
YS. MAI - Dạ, một người. Đó là bác sĩ Thìn.
BS. KHÁNH - Bác sĩ Thìn, mẹ của cậu Trung?
YS.MAI - Dạ.
THANH với YS. Mai - Mẹ của cậu Trung mà chúng ta vừa truy điệu? Vừa là cấp trên, vừa là thân nhân của chiến sĩ của đơn vị mới hi sinh, chúng ta đón tiếp sao cho phải bây giờ? 
Ngay lúc đó BS Thìn chủ động bước vào.
BS. KHÁNH - Thưa chị, anh em Đội Phẫu Tiền phương chúng tôi xin chia buồn cùng chị.
BS.THÌN - Cám ơn bác sĩ. Cám ơn tất cả anh em.
BS. KHÁNH - Đường xa đến, có lẽ chị nghỉ chốc lát rồi chúng tôi xin báo cáo công việc của đơn vị sau.
BS. THÌN - Tôi vội đến đây trước hết để gặp cô Thanh. Anh cho tôi gặp cháu.
BS. KHÁNH -Thưa chị, cô Thanh còn yếu lắm, cho nên…
BS.THÌN - Tôi đã từng sinh nở, lại là bác sĩ, tôi biết cần phục hồi sức khỏe sau sinh. Anh cứ để tôi gặp cháu.
BS. KHÁNH - Thưa chị, cô Thanh sinh nở không bình thường, nên bị chấn thương tâm lý. Vì thế chị gặp lúc này có thể gây xốc.
BS. THÌN - Anh yên tâm. Tôi nghĩ gặp tôi chấn thương tâm lý của cô ấy sẽ vợi nhẹ.
BS. KHÁNH - Vậy tôi chấp hành ý kiến của chị.
BS. Khánh bước đi khỏi. Cùng lúc Thanh ra
THANH cúi xuống - Thưa bác, xin bác tha tôi cho cháu.
BS. THÌN nâng Thanh đứng lên - Nín đi, lại đây con.
Thanh ôm lấy bác sĩ Thìn.
 BS. THÌN - Bác đã ở mặt trận nhiều năm, biết mặt trận là có hi sinh, đôi khi hi sinh mất mát còn nhiều hơn cả chiến thắng. nhưng khi sự mát mát đến với mình, là ruột già, máu thịt của mình thì bác không chịu nổi. May mà bác lại có con để vịn mà gượng dậy.
THANH - Bác…
BS. THÌN - Mẹ đã nghe anh em nói chuyện. Sao con không nói với mẹ từ trước. Mẹ biết con rất đau khổ, một lúc phải chịu hai mất mát lớn. Sống làm sao đây?
THANH - Bác ơi, bác tha lỗi cho cháu.  Vì cháu cần chỗ tựa trong lúc bị xô ngã cay đắng nên đã làm cho linh hồn anh Trung không được yên…Bác tha lỗi cho cháu…
BS.THÌN - Con không có lỗi gì hết. Trung hy sinh, mẹ có con là được bù đắp phần nào.  Nào hãy nắm lấy tay mẹ. Mẹ đang cần bàn tay của con. Đưa mẹ thăm cháu. Dù sao thì nó cũng là giọt máu của thằng Trung để lại.
THANH - Bác ơi, không bác ơi…Con có tội với anh Trung.
BS. THÌN - Cứ để mẹ thăm cháu. Nó là cốt nhục của mẹ.
 Thanh nắm tay bà Thìn đến bên nôi.
BS. THÌN - Cháu tôi đây ư? Con thằng Trung đây ư?­ Hạnh phúc được là bà của tôi la thế này ư?
THANH - Mẹ ơi, tại con. Tại con tất cả!
BS. THÌN - Trung ơi, bao nhiêu đêm mẹ vừa chợp mắt là con lại bước ra ở đầu võng. Như mọi bà mẹ, mẹ muốn cưới vợ cho con rồi mong ngóng một đứa cháu. Con cưới vợ ở chiến trường, sinh con ở chiến trường cũng được. Từ lâu mẹ con ta cùng ở mặt trận rồi. Con dâu mẹ sinh, dù trong bom đạn, mẹ vẫn có điều kiện bọc cháu trong những chiếc khăn sạch sẽ nhất của bệnh viện. Chiến trường gian khổ mấy mẹ sẽ nuôi cháu chu đáo. Thế mà hạnh phúc lại chỉ cho  mẹ thế này thôi.
Các chiến sĩ và TNXP bước ra, quây quanh bác sĩ Thìn.
BS.THÌN nhìn mọi người - Các con…đứa nào cũng hao hao giống thằng Trung. Trung ơi…
Các chiến sĩ và TNXP lặng lẽ quỳ xuống.
CÁC CHIẾN SĨ - Mẹ!
Có tiếng đoàn tàu đi qua.
Ánh sáng trở lại sân khấu.
BS.Thìn ngồi đọc bện án của Thanh.
BS. KHÁNH ra - Thưa bác sĩ, đã khuya, mời bác sĩ
đi nghỉ.
BS. THÌN - Đọc bệnh án của cháu Thanh, tôi không tài nào ngủ được.
BS. KHÁNH- Dạ. Nhưng dù sao việc chữa chạy cho cô Thanh không thể giải quyết trong một đêm. 
BS. THÌN - Ý kiến của anh thế nào về trường hợp này?
BS. KHÁNH - Tôi trực tiếp khám cho Thanh, bước đầu có thể kết luận cái thai bị nhiễm chất độc đi-ô-xin
BS.THÌN - Việc ấy thì đã rõ. Tôi hỏi về tuổi của cái thai kia.
BS. KHÁNH - Như lời khai của bệnh nhân, cái thai 7 tháng.
BS. THÌN - Thằng Trung về làm hộ lý của Trạm Phẫu được mấy tháng rồi?
BS. KHÁNH có vẻ lúng túng vì câu hỏi bất ngờ của bác sĩ Thìn-–Thưa chị, Trung về Trạm Phẫu được 5 tháng ạ.
BS. THÌN - Cứ cho là vào mặt trận hai đứa quen nhau ngay, thì cái thai mới 5 tháng, sao lại là 7 tháng?
BS. KHÁNH - Tôi chưa có điều kiện tìm hiểu kỹ về việc này. Vả lại cả tôi và chị đều không biết hai người đã quen nhau từ bao giờ. Việc này chỉ một mình Thanh biết.
BS. THÌN - Nhưng là bác sĩ, anh phải biết cái thai 5 tháng khác 7 tháng chứ? 
BS. KHÁNH - Thưa chị, ta phải tính đến cái thai bị nhiễm độc, nên đã phát triển không bình thường.
BS. THÌN - Tôi nghĩ anh phải là người biết rõ về cái thai này.
BS. KHÁNH - Sao chị lại đặt vấn đề như vậy?
BS.THÌN - Không hiểu vì sao trong lúc hoảng loạn cô ấy lại gọi tên anh? Có lẽ đó không phải là cái tên được nhắc tới một cách vô tình? 
BS. KHÁNH - Thưa chị, chuẩn đoán khoa học không căn cứ vào lời của bệnh nhân trong lúc hoảng loạn. Nói chung khoa học tin vào chứng cứ, không tin vào xúc cảm của con người. Tôi nghĩ rằng, cái thai còn kia, nghĩa là còn bằng chứng gốc để có thể kiểm tra tế bào AND.
BS. THÌN - Không người đàn bà nào lại gọi tên người đàn ông không thân thiết trong lúc sinh nở cả.
BS. KHÁNH - Việc trắc nghiệm tâm lý tôi không biết lắm. Thưa bác sĩ, có lẽ chúng ta trở lại câu chuyện này sau. Bây giờ xin phép chị tôi có việc phải lên trung đoàn. 
BS.THÌN - Anh nghe tôi nói đã. Dù sao cô Thanh vẫn là con tôi. Tôi ở bệnh viện cấp trên, có điều kiện chăm sóc cho Thanh hơn ở Trạm Phẫu Tiền phương. Vì thế anh cho Thanh chuyển viện.
BS. KHÁNH - Không được chị Thìn ạ. Chị biết đấy chúng tôi đang theo dõi, điều trị cho Thanh. Cô ấy ở đây tiện hơn. Vả lại tôi đang nghiên cứu về đi-ô-xin, mà Thanh là đối tượng nghiên cứu cụ thể. Có thể qua Thanh mà hình thành pháp đồ điều trị căn bệnh quái ác này.
BS.THÌN - Moi người, kể cả tôi và anh đều có thể trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học, phụng sự cho khoa học. Nhưng trong trường hợp này, thì tôi không thể. Cô Thanh sẽ không thể sống nổi nếu không được chăm sóc về tinh thần. Vả lại, anh Khánh ạ, khoa học cũng phải vì con người, vì cuộc sống của từng con người.
BS. KHÁNH - Chẳng lẽ công việc của tôi đang làm lại không vì những chuẩn mực đạo đức cho người thày thuốc ở chiến trường?
BS. THÌN - Anh đừng vội tranh luận với tôi. Tôi yêu cầu anh với tư cách người mẹ được quyền chăm sóc con khi con bị hoạn nạn.
BS. KHÁNH - Vậy mà chị lại khẳng định đó không phải cái thai 5 tháng mà là 7 tháng?
BS. THÌN - Đó là một chuyện khác. Và tôi chắc là anh biết đã biết hơn tôi về việc này. Còn đối với cháu Thanh, dù thế nào cũng là con tôi. Tôi sẽ chăm sóc cháu với tất cả tấm lòng của người mẹ. Thôi, ta chia tay được rồi.
Khánh đi.
BS Thìn ngồi lại. Hồi lâu cô hộ lý ra. 
CÔ HỘ LÝ- Th­ưa bác, mời bác uống sữa. Gần sáng rồi. để cháu mắc màn mời bác chợp mắt một chút.
BS.THÌN - Cám ơn cháu. Sức khỏe của Thanh ra sao?
CÔ HỘ LÝ - Thương lắm bác ạ. Cả đêm nó cứ ngồi trên võng với mấy cái áo trẻ lọt lòng. Cháu bưng cháo đến, nó không ăn, cứ để nước mắt rơi xuống bát cháo. Bác ơi, bác làm thế nào chứ cứ để thế này chúng cháu nhìn Thanh mà phát điên lên mất.  
 BS.THÌN - Giờ này Thanh ngủ chưa?
 CÔ HỘ LÝ - Chưa bác ạ.
BS. THÌN - Cho bác gặp Thanh nhé.
CÔ HỘ LÝ - Dạ.
Cô hộ lý vào. Thanh ra.
BS.THÌN - Lại đây với mẹ nào. Mẹ biết con đau đớn, nhưng chả lẽ con cứ ngồi trên võng nhìn những tấm áo lọt lòng và rừng đêm mãi hay sao? Mẹ biết, người đàn bà, lại là người có nhan sắc như con thường phải chịu nhiểu rủi do về hạnh phúc. Ở chiến trường đã khổ. Người đàn bà sinh con nơi bom đạn lại càng khổ hơn. Mẹ cũng biết, người đàn bà khi đau khổ thường phải tự nhuốt nỗi đau vào lòng để sống tiếp vì không ai có thể sống thay được và không phải khi nào cũng có người để chia sẻ. Trung đã hi sinh. Con là tất cả của mẹ. Mẹ chỉ có một mình Trung. Bây giờ mẹ chỉ có một mình con. Mẹ sẽ đi vào cánh rừng kia để tìm hiểu cái chất độc ghê gớm ấy rồi tìm cách chữa cho con. Mẹ phải thấy con khỏi bệnh, con khỏe mạnh và hạnh phúc trong quãng đời còn lại. Nếu không cứu được con mẹ sẽ rất buồn…
THANH - Mẹ ơi, ở với mẹ không biết con có đền đáp được tấm lòng của mẹ hay không. Lòng mẹ rộng vô cùng. Nếu mai ngày, mẹ thấy con không xứng đáng với tình yêu của mẹ, với Trung, mẹ có tha thứ cho con không?
BS. THÌN - Mẹ tin con là người xứng đáng, rất xứng đáng để mẹ có thể hi sinh vì con. Bây giờ mẹ mong con trút bỏ nỗi buồn, khỏe mạnh trở ại, để sống tiếp. Không phải khi nào người ta cũng tìm được nơi trút bỏ nỗi buồn đâu. Con trút sang mẹ cũng được. Mẹ còn đủ sức gánh vác nỗi buồn cùng con. Đời con còn dài con ơi. Nào, nằm xuống. Nghe mẹ, con hãy ngủ một giấc dài, khi nào thức dậy, mẹ con ta lại nói chuyện với nhau.
BS Thìn đỡ Thanh nằm xuống võng, rồi kéo chăn lên ngực cô. Bà ngồi đưa võng cho đến khi Thanh đã ngủ mới rón rén đứng dậy. Bà không trở về phòng, mà bước về phía cánh rừng bên ngoài căn lán.
Đêm vắng rừng lờ mờ ánh trăng lẫn ánh sáng lân tinh. Bà Thìn đi dưới bóng cây cho đến khi khuất hẳn.
Phía sau bà chiếc võng Thanh nằm không đung đưa nữa.
Rồi Thanh trở dậy với bộ đồ trắng toát.
Cô đang thu vén võng thì bà Thìn bước tới. Bà đặt một giỏ hoa quả cạnh Thanh. Bà lấy ra từng quả rồi cởi chiếc khăn đang quàng ở cổ, bịt mắt Thanh lại.
BS. THÌN - Thanh giúp mẹ nhé.
THANH - Dạ.
BS. THÌN cầm một quả đưa tới mũi Thanh - Con có nhận ra mùi quả gì không?
THANH - Thưa mẹ, mùi quả chua như me rừng ạ.
BS. THÌN đưa lên mũi Thanh quả khác - Còn quả này?
THANH - Ôi, mùi khế…Không, mùi quả vả…Con vẫn ăn những quả chua, chát này khi mang thai. Thích nhất là ăn me, chỉ nhấm nhẹ, nước chua đã đầy chân răng…
BS.THÌN - Con còn ăn những quả gì nữa?
THANH - Con ăn khế rừng, măng rừng, vả uống nước suối rừng…Khi có thai, lúc con thèm chua, lúc lại thèm chát, có khi thèm cả đắng…
BS. THÌN - Mẹ hiểu rồi. Những quả rừng mẹ vừa cho con ngửi mùi để đoán, đều là quả quen thuộc cả, nhưng con đã đoán sai. Vì sao con biết không? Vì chất đi-ô-xin đã biến đổi đặc tính tự nhiên của trái cây. Nó cũng phá hủy như vậy với con người sống trong những cánh rừng bị nhiễm độc. Chữa căn bệnh cho người bị nhiễm độc đi-ô-xin có khi phải kéo dài qua nhiều thế hệ bởi nó là căn bệnh không thể chữa bằng kháng sinh, mà phải chữa từ cấu trúc tế bào. Nó gây ra bệnh ung thư, sinh ra những đứa trẻ di tật là vì lỗi của cấu trúc tế bào. Thật là thảm họa do con người reo rắc đau khổ cho con người. Những quả đắng trong rừng bị độc đã hại con.   
Bà Thìn ôm lấy Thanh.
Tiếng còi tàu hỏa hú lên khẩn thiết như báo động.
GA LANG THANG
Tàu vào ga. Tiếng còi. Ánh sáng huyền ảo.
NGƯỜI ĐÀN BÀ bước xuống sân ga, ngơ ngác, thổn thức - Vẫn chưa đến ga Hạnh Phúc ư?
NGƯỜI NHÀ GA - Thưa cô đây mới là ga Mê Thảo.
NGƯỜI ĐÀN BÀ – Sao lâu tới ga Hạnh Phúc thế? Anh cho tôi hỏi, anh đã đưa ai tới ga Hạnh Phúc chưa?
NGƯỜI NHÀ GA - Thưa cô, ga Hạnh Phúc còn ở phía trước. Tôi chưa đưa được ai đến ga Hạnh Phúc cả.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Nghĩa là anh cũng chưa bao giờ đặt chân tới ga Hạnh Phúc?
NGƯỜI NHÀ GA - Vâng, ga đó xa xôi đối với tôi…
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Vậy thì ai là người sẽ tới được ga Hạnh Phúc?
NGƯỜI NHÀ GA - Là những người không bỏ dở cuộc hành trình, dù biết cuộc hành trình của đời người là gian nan và buồn bã.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Vậy là cũng đã có nhiều người tới được ga Hạnh Phúc. Ở nơi đó có còn chỗ cho tôi?
 NGƯỜI NHÀ GA - Xin chị đừng bỏ dở cuộc hành trình. Bởi vì những đau khổ đã qua mua bảo hiểm cho chị tới ga Hạnh Phúc rồi. Ở nơi đó có người chờ đợi chị.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Không. Không người đàn bà nào lại tự mua được bảo hiểm hạnh phúc cho mình cả. Vì cái bảo hiểm đó thường là đặc quyền trong tay người đàn ông. Tôi lại không có người đàn ông đó đồng hành.
NGƯỜI NHÀ GA - Có phải người chị mong đồng hành là một người lính?
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Đừng đổ tội cho anh ấy. Người lính ấy là ân nhân của tôi, là chỗ tựa tinh thần của tôi măc dù tôi chưa biết mặt…Tàu lại sắp khởi hành rồi. Chúng ta sẽ tới ga nào hả anh?
NGƯỜI NHÀ GA - Ga Lang Thang chị ạ. 
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Ga Lang Thang. Những đứa bạn TNXP của tôi đã đặt tên cái ga ấy đấy. Lũ chúng tôi lang thang. Tôi lang thang. Chúng tôi đã dự cảm không nhầm. Sau chiến tranh là những năm dài bao người lang thang tìm người. Tôi sợ hãi cái ga sắp tới lắm rồi, bởi tôi đã lang thang bao năm trời, gần hết phần tuổi trẻ.
NGƯỜI NHÀ GA - Chị cho tôi hỏi, vì đâu chị buộc phải có cuộc hành trình xa xôi này?  
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Vì tôi mất con và trong lòng bao giờ cũng sâu nặng với linh hồn một người lính đã mất. Vì tôi muốn tìm kiếm lại những ngày tháng tươi đẹp ngắn ngủi của thời con gái. Vì tôi khát khao tìm gặp lại bạn bè…
NGƯỜI NHÀ GA - Chị nghĩ tới ga Hạnh Phúc là tìn thấy những gì đã mất?
 NGƯỜI ĐÀN BÀ - Người mà tôi vịn vào cái chết của anh ấy để sống tiếp thì không thể tìm laị được. Tôi đã để tang cho anh ấy mười năm rồi. Lúc nào anh ấy cũng trong trái tim ân hận của tôi. Vì thế tôi tìm về ga Hạnh Phúc cũng vô vọng mà thôi. Nhưng, tôi vẫn không thể không đến. Bởi đôi khi vô vọng và phi lý đã làm nên cuộc đời…
NGƯỜI NHÀ GA - Tàu sắp rời ga Mê Thảo để tới ga Lang Thang chị ạ. Mời chị lên tàu đi tiếp.
 Tàu hú còi.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Ga Lang Thang đang ở trước mặt. Các bạn TNXP của tôi ơi. Ngày ấy, nếu không có các bạn bên cạnh thì tôi sẽ chết vì cô đơn trong căn phòng nghiên cứu chất độc màu da cam của con người bội bạc ấy…Bây giờ các bạn ơi, ở đâu?
 Ánh sáng. Còi tàu.
Tàu khởi hành, nhưng không chạy về phía trước mà chạy lùi, vì NGƯỜI ĐÀN BÀ đang chìm đắm trong quá khứ. 
TRUNG ĐOÀN BỘ
Anh chiến sĩ đứng gác. Tốp các cô TNXP ùa ra.
ANH CHIẾN SĨ – Các em xinh đẹp ơi, ồn quá. Đây là Trung đoàn bộ chứ không phải suối nước như cái hôm nào.
TNXP 1 - Cho phép nói lại. Các em…Cái mặt búng ra sữa kia mà xưng anh anh, em em với các chị. 
ANH CHIẾN SĨ - Chua như me thối!
 Các cô cười to.
ANH LÍNH - Con xin mấy bà. Đã bảo bé mồm. Trung đoàn đang họp!
TNXP 2 - Cánh này cũng xin vào họp.
ANH CHIẾN SĨ - Ăn nói như bà tướng. Con lạy các bà. Các bà mà ầm lên ở đây thì trung đoàn trưởng cạo đầu cho con bằng dao quắm bây giờ…
TNXP 3 - Vậy thì hãy vào báo cáo với trung đoàn trưởng là chúng tôi xin gặp!
ANH CHIẾN SĨ - Đùa dai. Đằng sau quay!
TNXP 3 - Đằng trước tiến, không quay đằng sau. Đây, quay thế này này. Nào, có vào mời trung đoàn trưởng ra đây không thì bảo! Một…hai ...ba..
 TNXP cùng làm reo - Báo cáo Trung đoàn trưởng.
ANH CHIẾN SĨ - Trời ơi. Thôi chết…Trung đoàn trưởng phải rơi cuộc họp ra kia kìa…Các bà giết con rồi…
Trung đoàn trưởng ra
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Trung đoàn đang họp, làm gì mà ầm lên thế? Kỷ luật chiến trường như vậy à? Đưa tất cả về cảnh vệ, làm việc sau!
ANH CHIẾN SĨ - Đã bảo không chịu nghe, lại còn làm reo. Báo cáo thủ trưởng, tôi không thể ngăn được cái đám…à xin lỗi, các chị này. Các chị cứ đòi gặp Trung đoàn trưởng bằng được. Cứ như là chuyện chết người ấy. Nghiêm! Tất cả đằng sau quay!
TNXP 1 - Báo cáo thủ trưởng. Chúng em biết chúng em làm reo thế này là vi phạm kỷ luật, nhưng nếu chúng em không gào to lên thì không gặp được Trung đoàn trưởng. Chúng em chỉ xin nói một câu, nói xong, thủ trưởng tống tù, chúng em cũng xin chấp hành.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Tôi đang bận họp. Các cô trình bày với trực ban, tôi nghe báo cáo lại sau.
TNXP 3 - Báo cáo, viêc này chỉ có Trung đoàn trưởng mới giải quyết được, vì  việc cần làm ngay. Xin Trung đoàn trưởng nán lại một vài phút. Một vài phút để cứu một con người…
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Vậy thì các cô nói đi - Trung đoàn trưởng quay sang đồng chí chiến sĩ cảnh vệ - Này, xem ra chuyện này phải chờ đấy. Đồng chí xuống nhà bếp báo mấy xuất cơm khách. 
ANH CHIẾN SĨ - Báo cáo khách nào ạ…Phải báo là cơm ăn vạ!
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Cậu này…chắp nhặt làm gì. Trung đoàn đang họp. Tôi không có nhiều thì giờ. Các cô nói đi, ngắn gọn thôi…
TNXP 1 - Dạ. Chúng em nghĩ, trung đoàn ta là Trung đoàn Anh hùng. Một Trung đoàn Anh hùng lại chẳng nhẽ bỏ rơi số phận bi đát của một chiến sĩ, đó lại là một chiến sĩ gái?
TRUNG ĐÀN TRƯỞNG - Sao? Lại có chuyện nghiêm trọng đến thế kia à. Không thể có chuyện một chiến sĩ gái bị bỏ rơi ở trung đoàn chúng ta. Các đồng chí biết đấy, tôi đã giao nhiệm vụ cho các bác sĩ ở đơn vị là phải giành ưu tiên chăm sóc chiến sĩ gái và TNXP kể từ cái băng vệ sinh để đảm bảo hạnh phúc sau này cho họ. Vậy mà sao lại có một cô gái bị bỏ rơi?
TNXP 3 - Thủ trưởng có biết cô TNXP tên là Thanh không ạ?
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Có phải là cô Thanh mà bác sĩ Thìn xin đưa về bệnh viện tuyến trên để điều trị không? Cô ấy đang ở bệnh viện với mẹ, sao lại bị bỏ rơi?
TNXP 3 - Vậy là thủ trưởng không biết chuyện gì đã xẩy ra với cô Thanh rồi.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Ơ kìa, chính tôi ký quyết định cho chuyển cô ấy về bệnh viện cấp trên theo nguyện vọng của bác sĩ Thìn. Sao tôi lại không quan tâm, lại bỏ rơi cô ấy?
TNXP 3 - Vậy mà đến tận bây giờ quyết định của thủ tưởng vẫn chưa được thực hiện. Bác sĩ Thìn thì mòn mỏi chờ đợi. Còn bác sĩ Khánh vẫn cố lờ đi, giữ chị Thanh ở lại Trạm Phẫu.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - À…Cũng có thể như vậy. BS. Khánh đã có lần nói với tôi, xin giữ cô Thanh lại Trạm Phẫu một thời gian để vừa điều trị, vừa nghiên cứu lâm sàng điều trị nhiễm độc đi-ô-xin.
TNXP 1- Thưa Trung đoàn trưởng, chúng em lại nghĩ khác.BS  Khánh giữ chị Thanh lại Trạm Phẫu để giấu biệt một điều gì đó hặc vì ích kỷ. Chúng em chỉ biết, nếu thủ trưởng tiếp tục để bác sĩ Khánh giữ Thanh lại thì Thanh không chết vì bệnh tật mà chết vì đau buồn. Lúc này Thanh cần mẹ, cần bạn bè hơn cần thuốc. Em đã nhìn vào mắt cô ấy, đã thấy trầm uất vì điên dại…
TNXP 2 - Thưa thủ trưởng, nếu khó giải quyết cho Thanh lên điều trị tuyến trên, thì thủ trưởng cho chị ấy về đơn vị với chúng em để chị em quây quần bên nhau.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Đưa một người sức khỏe như Thanh về đơn vị với các cô ư? Thuốc đâu mà điều trị? 
 TNXP 1 - Chúng em không có thuốc, nhưng có tấm lòng yêu thương, có tình đồng đội ở cùng chiến trường sẽ làm cho Thanh đỡ buồn tủi, đơc cô đơn và đau khổ.  
TNXP 2- Thủ trưởng. Xin thủ trưởng giải quyết…
 Một sĩ quan tham mưu bước ra
SI QUAN THAM MƯU - Báo cáo Trung đoàn trưởng, bác sĩ Khánh dưới Trạm Phẫu vừa điện cho biết, có bệnh nhân trốn trại…
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Bệnh nhân là cán bộ hay chiến sĩ?
SI QUAN THAM MƯU - Dạ, một chiên sĩ gái…tên
là Thanh…
TNXP 1+2+3...- Sao? Thanh? Thanh bỏ ngũ? Thanh trốn trại? Lặn lội đi đâu Thanh ơi…
SĨ QUAN THAM MƯU - Cô ấy đang lang thang trong rừng. Trinh sát bắt được, định đưa trả lại Trạm Phẫu, nhưng cô ấy không chịu. Cô ấy còn gào lên, nếu đưa về Trạm Phẫu, cô ấy sẽ lao đầu vào gốc cây mà chết. Bác sĩ Khánh đề nghị chuyển Thanh về hậu phương, hoặc cho giải ngũ. Xin ý kiến Trung đoàn trưởng. 
TNXP 3 - Thủ trưởng, đừng cho Thanh đi khỏi nơi này. Nếu thiếu chúng em, thiếu mẹ Thìn Thanh không còn gì để sống nữa.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG với sĩ quan tham mưu - Điện cho bác sĩ Khánh chuyển cô Thanh về bệnh viện hậu phương. 
TNXP 3 - Thanh muốn về bệnh viện của mẹ Thìn, thủ trưởng ạ.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Nên chăng? Tôi được biết thời gian vừa qua lao vào nghiên cứu chát độc đi-ô-xin, tình trạng sức khỏe của bác sĩ Thìn không bình thường. Thanh về đó, hai mẹ con có giúp được nhau?
TNXP 1 - Thủ trưởng để chúng em dẫn Thanh đi. Nếu về bệnh viện Mặt trận mà bác sĩ Thìn yếu sức, không thể chăm sóc Thanh, thì chúng em sẽ đưa chọ ấy về đơn vị để chăm sóc. 
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Thôi được. Cứ thế. Tôi đồng ý. Nhưng trước hết tôi trao cho các cô nhiệm vụ, xuống nhà bếp ăn cơm rồi lên đây …Tôi muốn gửi món quà nhỏ cho bác sĩ Thìn. Ta dừng ở đây được chưa nào?
TNXP 1 - Chưa ạ.
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Còn việc gì nữa?
TNXP 1 - Còn ạ…Em thay mặt chị em, cả Thanh hôn thủ trưởng cái hôn cảm ơn…
TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG - Tôi đồng ý. Nhưng để dành cái hôn này đến khi nào cô Thanh khỏi bệnh, tôi xin nhận…Ta chia tay.
Trung đoàn trưởng và sĩ quan Tham mưu bước đi. Các cô TNXP còn đứng lại. Chờ đến khi Trung đoàn trưởng khuất hẳn, các cô cùng đưa tay lên miệng làm loa gọi vang..
TNXP - Thanh ơi…
Tiếng còi tàu đáp trả. 
Thanh b­ước ra, tiến về phía tiền đài.
THANH - Đó là ngày đoàn tụ cuối cùng của chúng tôi ở chiến trường. Rồi bạn bè mỗi đứa một phương. Bon đạn, chất độc, đói, sốt rét và những gian nan cướp dần những người thân yêu của tôi trên dọc đường chiến thắng.
 Hòa bình, tôi từ chiến trường trở về như người mộng du với cay đắng của mình. Tôi lang thang tìm kiếm nhưng vẫn chưa gặp được con người bội bác ấy. 
 
GA HÒA BÌNH
Tàu chạy. Còi hú dài. Ánh sáng huyền ảo…
NGƯỜI ĐÀN BÀ hiện ra bên cửa sổ con tàu- Đứng lại! Cho tàu dừng lại!
NGƯỜI NHÀ GA - Sao quý khách lại đòi dừng tàu khi chưa về ga? Không thể dừng tàu giữa đường, trừ gặp tai họa hoặc các cảnh báo nguy hiểm.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Tôi nhìn thấy một ngôi sao…Cả bầu trời chỉ có một ngôi sao ấy. Từ ngôi sao như có tiếng người gọi vọng xuống. Anh nhìn kìa, ngôi sao đấy, và tiếng người tha thiết …
NGƯỜI NHÀ GA nghe - Có thể đó là tiếng gọi của những người thân yêu chỉ có chị mới nghe thấy.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Tiếng mẹ tôi…Đêm ấy, tôi lén theo mẹ tôi ra rừng. Cả bầu trời trên nóc rừng chỉ có một ngôi sao như đêm nay. Một ngôi sao sang xanh. Mẹ tôi nhặt những cái nấm, những quả vả và cắt những búp măng. Sau cơn mưa bụi chất dộc màu da cam, nấm trắng ngả màu xanh, quả vả ngả màu vàng và búp măng rừng ngả màu nâu nhạt. Mẹ bảo mẹ phải phân tích những quả đắng đã gây tai họa cho tôi…Vâng, bấy giờ cả cánh rừng quả đắng.
NGƯỜI NHÀ GA - Từ đêm ấy mẹ có hay dẫn chị ra rừng nữa không?
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Từ đêm ấy mẹ tôi thường trắng đêm trong gian phòng nghiên cứu về chất độc đi-ô-xin. Mẹ như chạy đua với sức khỏe ngày càng yếu đi. Nhưng tôi không làm gì giúp mẹ được. Cũng không thể ngăn mẹ.Tôi chỉ thấy sau mỗi đêm tóc mẹ bạc thêm. Có đêm mẹ gục xuống bàn.Tôi nhẹ nhàng bưng cho mẹ chén nước trà nóng…   
HỒI TƯỞNG
Phòng làm việcc của bác sĩ Thìn trong rừng. Ba phía áp vách là những giá gỗ với rất nhiều chai lọ, dụng cụ y tế, sách vở. Một chiếc đèn bão treo lơ lửng trên bàn viết. Bà Thìn ngồi gục xuống bàn. Thanh bưng trà đến từ phía sau. Cô đứng bên mẹ hồi lâu, ngần ngại không muốn đánh thức mẹ. Nhưng khi cô quay đi thì bà cất tiếng…
BS.THÌN - Cho mẹ xin cốc nước trà nào. Con ngồi xuống cạnh mẹ đây.
THANH - Con thấy mẹ dạo này yếu, lại thức khuya. Mẹ đi ngủ đi. Con đã nghe thấy tiếng chim tử quy gọi nhau. Vậy là sắp sáng rồi. Loài chim này thường hay lỡ làng, gặp được nhau thì sáng…
BS. THÌN nhìn Thanh âu yếm - Đến loài chim cũng lỡ dở. Mẹ có lẽ cũng lỡ dở công việc còn đang ngổn ngang trên bàn. Con ạ, càng ngày mẹ càng thấy cuộc đời con người thường kết thúc lỡ dở.
THANH - Mẹ nói làm con sợ.
BS.THÌN - Mới đầu thì mẹ nghĩ, có thể gành tất cả thời gian nghiên cứu về đi-ô-xin để có thể chữa chạy cho con. Nhưng càng nghiên cứu, mẹ càng thấy mình bất lực về thời gian, về sự phức tạp của đề tài, về học vấn, thông tin khoa học và những đòi hỏi phòng thí nghiêm…Mẹ không làm kịp để giúp con. Đây là dở dang lớn nhất mẹ biết mà không thể khắc phục được.
THANH - Thưa mẹ, con đã làm khổ mẹ.
BS.THÌN - Con cho mẹ có nghị lực hơn. Trung hi sinh…Nếu không có con ở bên, mẹ sẽ cô đơn biết chừng nào. Con thu xếp các bản ghi chép trên bàn và giữ cho mẹ.
THANH - Mẹ ơi, hôm nay con thấy mẹ làm sao ấy.
BS. THÌN - Mẹ đang tỉnh táo. Mẹ biết đành phải bỏ dở công trình nghiên cứu về chất độc màu da cam. Nhưng những công việc mẹ đã làm, để lại cũng không vô ích. Con giữ giúp mẹ toàn bộ nghi chép về kết quả điều tra, khảo sát và nghiên cứu bước đầu về đi ô-xin còn dở dang của mẹ, mai này, có điều kiện con trao lại cho một cơ sở nghiên cứu. Những số liệu quan trắc về đi-ô-xin ở chiến trường có thể giúp ích cho người đi sau.
THANH - Vâng. Con nghe lời mẹ. 
Thanh cầm tập bản thảo của mẹ bước đi. Cô vừa ra tới cửa thì tiếng còi tàu hú lên, đưa cô về thực tại
 
TRÊN TÀU
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Tôi vừa kể gì với anh nhỉ?   
NGƯỜI NHÀ GA - Tôi chỉ nghe lõm bõm tiếng vọng từ đâu đó, như từ ngôi sao trên đầu kia mà bết cái đêm mẹ gửi chị tập ghi chép số liệu quan trắc.  
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Vâng, sau đó vài đêm, mẹ tôi ốm. Tôi ngồi suốt một tuần bên gường bệnh của mẹ. Mẹ thường gọi tên đứa con trai đã hi sinh. Tôi chỉ còn biết ôm lấy mẹ mà khóc. Nước mắt của tôi không làm mẹ sống lại được.
NGƯỜI NHÀ GA - Mẹ ra đi từ ngày đó, chỉ để lại cho chị tập tài liệu về công trình nghiên cứu dở dang?
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Cả chuyện này mà anh cũng biết?
NGƯỜI NHÀ GA - Tôi biết điều này trong giấc mơ của chị. Tập tài liệu của mẹ Thìn vẫn trong ba lô của chị chứ?
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Tôi thật có lỗi với mẹ, không biết nó không còn trong ba lô của tôi từ bao giờ…Ơ kìa, tàu dừng lại ga nào đây?
NGƯỜI NHÀ GA - Ga Hoàn Lương, chị ạ.
NGƯỜI ĐÀN BÀ - Sao không cho tàu chạy một mạch về ga Hạnh Phúc?
NGƯỜI NHÀ GA - Chúng ta sẽ cùng về ga cuối. Để đến được ga Hạnh Phúc thì ở ga này chị trút bớt nỗi khắc khoải còn đè nặng trong lòng mới tiếp tục hành trình. Nào, ta cùng tạm xuống tàu…
Còi tàu hú dài. Ánh sáng.
PHÒNG LÀM VIỆC TRONG BỆNH VIỆN
CỦA BÁC SĨ KHÁNH
Phòng làm việc với bàn giấy, máy điện thoại.
         Dược sĩ Toàn và BS. Khánh cùng vào.
DS. TOÀN - Em báo cho anh hai tin vui...Nhưng anh phải trả công em về cái tin này.
BS. KHÁNH - Một cái hôn, được chưa nào?
DS.TOÀN - Em thích một đôi guốc sơn dầu như các mợ ngày xưa. Em sẽ đeo đôi guốc này ở nhà, gõ vào tai anh để anh biết em đang ở bên.
BS. KHÁNH- Xin hứa. Anh sẽ đi Hàng Dầu mua guốc chiều nay. Nào bây giờ thì nói tin vui thứ nhất đi.
DS. TOÀN - Anh biết giáo sư Tùng đánh giá thế nào về bản báo cáo khoa học về chất độc đi-ô-xin của anh không?
BS. KHÁNH - Một công trình nghiêm túc!
DS.TOÀN - Giáo sư không nói như thế. Trong giao ban thường kỳ sáng nay, giáo sư­ nói, báo cáo khoa học của anh sẽ gây sự chú ý ở Hội ngị quốc tế về chất đi-ô-xin, xứng đáng một luận án tiến sĩ.
BS. KHÁNH - Anh tự đánh giá, bản báo cáo khoa học của anh không chỉ giàu thực tiễn, mà còn là đề tài giàu tính nhân văn, làm xúc động các nhà khoa học.
DS. TOÀN - Mũi anh phổng lên như quả cà chua kia kìa.
BS. KHÁNH - Anh nhớ vài năm trước, trong một Hội nghị quốc tế về vết thương chiến tranh, giáo sư Tùng đem theo một cô gái với vết bỏng na-pan trên người. Khi cô gái xuất hiện, thay vì mọi lời thuyết trình, mọi người lặng đi. Rồi sau đó bản báo cáo về vết thương chiến tranh của giáo sư bị những đợt vỗ tay tán thưởng ngắt quãng nhiều lần. Còn anh, đến Hội nghị lần này, không phải là cô gái mà là một quáí thai di bị nhiễm độc đi-ô-xin. Cái quái thai sẽ có sức tố cáo và làm lay động lòng người…
DS.TOÀN - Anh đã chuẩn bị rất kỹ cho chuyến
công tác.
BS KHÁNH - Còn tin vui thứ hai?
DS.TOÀN - Không phải tin vui mà là một lời khen từ em…
BS.KHÁNH - Anh đang chờ nghe đây.
DS.TOÀN - Em còn biết anh là người đàn ông có duyên với phụ nữ…
BS.KHÁNH - Nếu vô duyên thì sao anh lại có em, con gái rượu của một giáo sư hàng đầu về nội khoa?
DS.TOÀN - Có lẽ anh không chỉ có em. Anh có biết không, sáng nay một nữ bệnh nhân vào viện cứ réo gọi tên anh.
BS. KHÁNH - Biết bao bệnh nhân anh đã điều trị. Họ nhớ tên thầy thuốc, còn thầy thuốc thì không thể nào nhớ hết tên được họ được, tội thế. Thế chị ta là người như thế nào?
DS. TOÀN - Một người đàn bà có nhan sắc nhưng mắc chứng mộng du.
BS. KHÁNH - Lại thế nữa. Giá em cũng mộng du, thỉnh thoảng lại gọi tên anh, thì anh hạnh phúc biết mấy. 
DS. TOÀN - Anh này…Em nói thật, mà anh cứ bẻ queo. Bình thường chị ta tỉnh táo. Nhưng lúc cuồng du, chị ta réo gọi, con tôi đâu, và nhắc đến tên một người là Trung hay Tung gì đó. Và sau đó, thật kỳ lạ, chị ta gọi tên anh.
BS. KHÁNH - Bệnh nhân tên gì?
DS TOÀN - Em lại không đọc kỹ bệnh án. 
BS. KHÁNH - Chị ta được chuyển từ bệnh viện nào đến?
DS.TOÀN - Chị ta nhập khoa cấp cứu sáng nay. Một người đàn ông nói là nhân viên hỏa xa đưa tới. Nghĩa là chị ta không có người thân đi cùng. À, em nhớ ra rồi, tên chị ta là Thanh.
BS.KHÁNH - Thanh à?
DS. TOÀN - Ơ kìa. Anh làm sao thế? Hay cái tên bác sĩ Khánh chị ta gọi đúng là anh?
BS. KHÁNH - Phải, đúng vậy.
DS.TOÀN - Hai người từng thân thiết đến mức lúc đau khổ thì gọi tên nhau như thế ư?
BS. KHÁNH - Anh với cô ấy cùng chiến trường.
DS.TOÀN - Em hỏi để biết thôi, chứ không truy xét. Anh từng yêu chị ta có phải không?
BS. KHÁNH - Cô ấy là một phần trong bản báo cáo khoa học của anh về chất độc đi-ô-xin.
DS. TOÀN - Em muốn hỏi chị ấy là người yêu của anh hay chỉ là đối tượng nghiên cứu khoa học?
BS. KHÁNH - Một tình yêu đơn phương, và đồng thời là đối tượng nghiên cứu khoa học.
DS. TOÀN - Một tình yêu đơn phương? Chị ấy yêu anh mà không được anh đáp lại. Hay là anh đơn nghiên cứu khoa học rồi đơn phương yêu chị ấy vì tình thương mà chị ta không đáp lại?
BS. KHÁNH - Cô ta không cần ai thương cả.
DS.TOÀN - Anh đừng dối em rằng anh chưa từng yêu chị ấy. 
BS. KHÁNH - Anh đã yêu và cưới em. Em hiểu rằng chúng ta đang là một tổ ấm. Một tổ ấm có hoài bão khoa học.
DS. TOÀN - Hai người yêu nhau rồi sao? Vì chiến tranh phải xa nhau hay vì phụ tình? Em không phải là người mang chuyện cũ để làm khổ nhau nhưng muốn hiểu tình yêu của người lính nơi mặt trận lãng mạn hay thực tế?
BS. KHÁNH – Trần trụi em ạ. Anh nói vậy đủ chưa?  Em  đòi hỏi anh nhắc lại quá khứ cũ mèm làm gì .
DS. TOÀN - Một quá khứ mà ch­ưa nói ra thì nó vẫn là chuyện mới. Dù sao thì ngư­ời đàn bà ấy từng là một phần trong cuộc sống của anh có phải không? Tại sao anh không nói với em chuyện này?
BS. KHÁNH - Em không phải cái góc chứa đồ cũ trong nhà để anh tiện tay quẳng tất cả những mẩu thừa của đời sống vào đó. Để làm gì? Anh không muốn làm em bận tâm những chuyện đâu đâu.
DS. TOÀN - Vì thế mà đến bây giờ, do sự xuất hiện của chị ấy anh buộc lòng phải nói? 
BS. KHÁNH - Em để anh tập trung vào công việc chuẩn bị đi Hội nghị khoa học quốc tế về chất đi-ô-xin thì hơn. Đó không chỉ là trách nhiệm mà là tư­ơng lai của chúng ta, là hạnh phúc của chúng ta. Em đã từng nói thế là gì. Anh thành công trong khoa học là hạnh phúc của em. Anh đang bước gần đến nấc thang của thành công rồi. Trồng cây đã đến ngày hái quả, em đừng làm mùa quả thui chột.
DS.TOÀN - Thôi đư­ợc rồi, em nghe anh. Bây giờ đã đến giờ làm thuốc, em phải đi. Chuyện này rồi chúng ta sẽ nói lại với nhau.
DS. Toàn vội vã đi.
Còn BS. Khánh.
BS. KHÁNH đổ sụp xuống ghế - Tại sao Thanh lại đường đột xuất hiện vào lúc này? Vẫn là chuyện ngày ấy vẫn chư­a buông tha tôi? Thanh tới đây để làm gì? Làm gì? Mọi chuyện t­ưởng đã kết thúc, mà bỗng lại ập đến làm đảo lộn tất cả hay sao?
BS.Khánh ngồi lặng trên ghế.
 Âm nhạc.
Ánh sáng hoảng loạn.
Một bóng ngư­ời vận đồ trắng xuất hiện.
Ngư­ời đàn bà ôm trên tay một bó hoa mận rừng màu trắng.
BS. KHÁNH hoảng loạn - Ai? Ai?
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Anh Khánh có nhận ra bó hoa mận rừng này không?
BS. KHÁNH - Không. Tôi không thấy gì hết.
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Sao anh lại không thấy gì hết. Nó cũng là bằng chứng về sự hủy hoại tự nhiên của chất đi-ô-xin đấy. Những cây mận rừng có sức sống kỳ lạ, bị chất diệt cỏ làm rụng hết lá, vậy mà đến mùa xuân, trên các cành khẳng khiu của nó vẫn bật ra những chùm hoa trắng, như­ng là hoa dị tật, cánh nhỏ li ti, rất cứng, không h­ương sắc. Anh đã tìm kiếm trong rừng để có bó hoa này...
BS. KHÁNH - Hoa mận rừng?
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Bó hoa mận rừng của anh đặt lên mộ tôi.
BS. KHÁNH - Nói gì thế? Đây là phòng làm việc, không phải là nhà tang lễ, không có mồ, không có hoa gì hết. Đi đi! Người đi đi…
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Anh không nhận ra tôi, hay cố tình không muốn nhận tôi là bác sĩ Thìn, mẹ của Trung?
BS. KHÁNH - Bác sĩ Thìn đã mất rồi, người đừng lải nhải nữa. Cút đi!
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Đúng, tôi đã chết, như­ng anh còn mắc nợ tôi, nay tôi phải đòi lại rồi mới ra đi mãi mãi được. Cái chết là công bằng lắm lắm, không ai tránh được và không ai lừa dối được.
BS. KHÁNH - Tôi không mắc nợ gì bà cả. Người chết chỉ được bàn giao, chứ không có quyền đòi nợ ngư­ời sống.
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Anh nói phải đấy, ngư­ời chết chỉ bàn giao, chứ không đòi đư­ợc nợ ngư­ời sống. Bó hoa mận màu trắng này anh đã hái để đặt lên mộ tôi trong ngày tang lẽ. Như­ng anh không tự đem đến đặt mà nhờ một ngư­ời chuyển cho Thanh, đem hoa ra mộ, phải không?
BS. KHÁNH - Phải. Hôm đó, đúng giờ làm lễ truy điệu, tôi bận việc mà không đến nơi mai táng đ­ược. Nghĩa tử là nghĩa tận mà tôi ch­ưa thật chu đáo, tôi vẫn ân hận về việc này.
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Nói dối. Anh không bận việc gì cả. Không hiểu sao mà anh lại biết trong ba lô của Thanh có tập giấy tôi ghi chép nhiều số liệu về đi-ô-xin qua nhiều năm tôi tự khảo sát. Chờ Thanh ôm bó hoa đi lễ tang, anh ở nhà lục ba lô, đánh cắp tập tài liệu.
BS. KHÁNH - Khoa học là sự tiếp nổi giá trị của nhiều thế hệ, người không hiểu thế hay sao?
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Tôi cảm ơn anh đã làm công việc bỏ dở của tôi để trở thành một công trình khoa học...Nhưng, anh đã chọn cách làm việc không phải với tư­ cách một nhà khoa học chân chính. Anh đánh cắp tri thức của người đã khuất để tiến thân. Anh còn  phụ bạc người yêu, rồi đánh cắp cả cái thai không hoàn chỉnh vì bị nhiễm độc đi-ô-xin do cô ấy sinh ra đưa vào bộ sưu tập bằng chứng hủy hoại của chất độc màu da cam...Con đường làm khoa học  của anh ích kỷ và nhẫn tâm quá.  
BS. KHÁNH - Tôi sẽ có lỗi với bà nếu không đ­ưa ra ánh sáng công trình còn dở dang của bà. Cũng như vậy, tôi có lỗi với đồng đội nếu không đưa ra ánh sáng về cái cái quái thai do bị nhiễm độc đi-ô-xin để tố cáo tội ác kẻ thù hủy hoại sinh mạng sống nhiều thế hệ chúng ta. 
NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM HOA - Kẻ dối trá và nhẫn tâm kia đã ngụy biện để bảo vệ hành vi vô đạo.  Anh Khánh, đứng dậy, bước tới đây...Hãy chạm tay vào bó hoa tang này để thoát ra khỏ cơn cuồng say về danh vọng.
Khánh vùng dậy.
Bóng người đàn bà ôm hoa ẩn hiện, biến mất.
Khánh lao ra cửa.
BS. KHÁNH - Em đâu rồi ? Đóng cửa lại. Khoá trong khoá ngoài, tắt điện, cắt điện thoại, dây chuông, dán kín các ô cửa kính lại. Nhanh. Nhanh lên kẻo ma quỷ lại kéo đến phá phách sự yên tĩnh căn phòng này .
DS.TOÀN chạy ra - Anh làm sao? Anh Khánh?
BS. KHÁNH - hoảng loạn - Đâu rồi, ng­ười đàn bà đâu rồi? Đóng cửa lại ...Kìa, còn những ô cửa phía sau…
KHÁNH chạy đi.
DS.Toàn còn đang ngơ ngác thì Thanh xuất hiện.
DS.TOÀN - Chị là ai?
THANH - Tôi là ng­ời đàn bà từ chiến trư­ờng ra.
DS.TOÀN - Bác sĩ Khánh cũng từ chiến trư­ờng ra. Bây giờ anh là Trưởng khoa, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu và điều trị bệnh nhân bị nhiễm độc đi-ô-xin. Tôi có thể giúp chị đ­ược gì không? Tôi rất kính trọng những ng­ười từng chiến đấu ở chiến trư­ờng về.
THANH - Chị là ngư­ời thế nào với bác sĩ Khánh?
DS. TOÀN - Chúng tôi là vợ chồng, mới cư­ới nhau.
THANH - Vậy ạ. Chị yên tâm, tôi và chồng chị chỉ là người quen, từng cùng một chiến trường. Anh chị cùng làm thầy thuốc, chắc sống với nhau rất hạnh phúc.
DS. TOÀN - Cám ơn chị.
THANH - Chị sống với anh ấy có ái ngại không? Tôi hỏi vậy vì e anh ấy nghiên cứu chất độc đi-ô-xin, sợ chất độc bị lây mà nhiễm sang chị.
DS. TOÀN - Chị ạ, không phải anh ấy nghiên cứu chất độc đi-ô-xin mà lây nhiễm vì nó. Nếu như thế, thì không ai đám nghiên cứu.
      THANH - Nhưng mẹ tôi sống trong rừng đi-ô-xin rồi bị lây nhiễm đấy.
      DS. TOÀN- Cũng có những trường hợp nhà nghiên cứu thiếu phòng thí nghiệm đã lấy cơ thể của chính mình để thử nghiệm nên không may bị lây nhiễm. Còn thì không sao cả. Trong phòng nghiên cứu của anh Khánh có cái quái thai do bị nhiễm đi-ô-xin. Anh ấy quý cái vật chứng khoa học ấy lắm, ở cạnh nó mư­ời mấy năm nay mà có sao đâu.
THANH - Con tôi đấy!
DS. TOÀN - Chị nói gì thế, chị Thanh? Chị tỉnh lại đi. Sao cái quái thai đó lại là con của chị?
THANH - Xin chị đừng gọi đó là cái quái thai. Nó là một thai nhi chưa hoàn chỉnh. Tôi đau đớn vì bị bội tình nên đã không sinh ra đ­ược đứa con hoàn chỉnh    
DS. TOÀN - Chị ngồi xuống đây. Mời chị uống nước. Xin chị bình tĩnh. Tôi không hiểu vì sao cái ...thai bị nhiễm độc đi-ô-xin - vật chứng khoa học của anh Khánh lại là
con chị?
THANH - Tôi đi tìm anh Khánh, chồng chị để hỏi về chuyện này. Anh ấy biết hơn tôi.
DS. TOÀN - Tôi chợt nghĩ có điều gì đó không bình thư­ờng ở mối quan hệ này mà chị không muốn nói hết lời với tôi. Chị Thanh ạ, nếu như­ ngày xư­a hai ngư­ời yêu nhau, anh Khánh lại bội tình, mà chị cần đòi lại, thì tôi sẽ bư­ớc ra khỏi căn nhà này, bởi chị xứng đáng.
THANH - Tôi không đi tìm anh Khánh để đòi lại tình yêu. Tình yêu khi đã hết, không đòi lại được, cũng như hắt bỏ bát nước xuống đất, không thể vớt lại. Tôi đi tìm anh Khánh để đòi lại con. Tôi mong cho chị được hạnh phúc. Là người đàn bà tôi biết, hạnh phúc là tất cả...
DS.TOÀN - ôm lấy vai Thanh - Chị Thanh, tôi linh cảm chị đang có điều gì đó còn giấu tôi. Mà thôi, chị cũng không cần phải nói nữa. Mỗi người đàn bà đều có một góc riêng tư, không nên nói hết ra và kẻ lạ mặt không nên bước vào.
Có tiếng chuông điện thoại. DS. Toàn nghe.
DS.TOAN đặt máy - Tôi có việc gấp ở phòng thuốc. Chị và anh Khánh cần nói  chuyện với nhau…Tôi đi.
DS.TOÀN nhanh chóng bư­ớc đi.
THANH ngồi chờ BS Khánh. BS KHÁNH vừa xuất hiện - Thế là đã m­ười mấy năm rồi chúng ta mới lại gặp nhau. 
BS. KHÁNH - Để anh pha cho em cốc n­ước.
THANH - Anh đừng giả vờ chăm sóc kẻo lại làm tôi lại lú lẫn mà dễ dàng tha thứ cho anh. Tôi muốn tôi và anh hãy quay lại chiến trư­ờng xư­a, tìm đến cánh rừng ấy, con suối ngày ta gặp nhau để chôn cất đứa con bất hạnh mà anh vẫn giữ. Tôi muốn có một nấm mồ cho con để dù thế nào nó cũng là một con ngư­ời. Phải chôn cất đau đớn và cay đắng tôi mới sống tiếp đ­ược, anh Khánh ạ.
BS. KHÁNH - Không thể như­ thế đư­ợc. Nếu nó chỉ là quá khứ đau buồn thì nên chôn cất nó, nh­ưng nó lại còn là một tư­ơng lai, là minh chứng của một báo cáo khoa học vì con người thì phải giữ.
THANH - Anh vẫn thế ích kỷ và thờ ơ với nỗi đau khổ của tôi.
BS. KHÁNH - Chuyện đã lâu, bây giờ mỗi ng­ười một số phận, Thanh  khơi lại để làm gì? Để hả hê vùi dập tôi cho bõ tức? Để cản đ­ường của tôi? Đừng làm thế. Thanh ạ.
DS. Toàn ra
DS. TOÀN - Em quay lại để có cả chị Thanh ở đây, hỏi anh một câu thôi, cái quái thai ngâm trong bình phóc-môn kia có dòng máu của anh không?
THANH - Nó không phải là quái thai, mà là thai nhi bị tật nguyền.
DS. TOÀN - Xin lỗi chị…Vâng, trong cái thai nhi bị tật nguyền kia có dòng máu của anh không?
BS. KHÁNH - Sao em hỏi như vậy?
DS.TOÀN - Em nhìn vào đôi mắt chị Thanh, ngư­ời mà anh từng yêu, nên hỏi vậy.
BS. KHÁNH - Yêu ai? Yêu ngư­ời đàn bà mộng du này ư?
THANH - Anh Khánh, đừng, đừng nói gì hết, đừng làm chị ấy đau đớn. Không nên thêm một người đàn bà nữa đau đớn.
BS. KHÁNH - Tôi cũng nghĩ như­ chị, nên muốn chấm dứt sự hiểu lầm.  Toàn lại đây mà xem sự thật về cái cái thai bị nhiễm độc đi-ô-xin…Anh không muốn nói với em vì không muốn khơi lại sự bất hạnh của một ngư­ời đàn bà. Bây giờ thì em đòi tôi phải nói ra sự thật. Đây, sự thật là thế này...
BS. Khánh lục trong cặp rút ra tập bệnh án
BS. KHÁNH  - Em hãy đọc to lên cho Thanh cùng nghe với.
DS. TOÀN cầm tập giấy của BS. Khánh đư­a, nhẩm đọc -Trạm phẫu thuật Tiền phương. Bệnh án. Tên bệnh nhân: Phạm Thị Thanh, chồng Nguyễn Văn Trung, 18 tuổi, liệt sĩ- Tờ tiếp theo - Đơn xin hiến máu của đội TNXP B2 cho Phạm Thị Thanh, vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Trung - Tờ tiếp theo - Trung đoàn trư­ởng Trung đoàn 209 gửi bác sĩ Khánh yêu cầu chuyển bệnh nhân Phạm Thị Thanh về ở với mẹ chồng là bác sĩ Thìn, mẹ của liệt sĩ Nguyễn Văn Trung.
THANH sững sờ, luống cuống - Trời ơi!
DS. TOÀN - Chị Thanh, tập hồ sơ bệnh án về chị có đúng vậy không?
THANH - laị càng luống cuống bất lực - Vâng...Vâng...Vâng… Bệnh án ấy là của tôi.  Cả cái thai nhi ngâm trong bình kia là con tôi.
DS. TOÀN - Nếu đúng như chị Thanh nói thì anh Khánh ạ, dù đó là một bằng chứng khoa học anh cũng trao trả cho chị ấy.
THANH -Vâng. Cám ơn chị.
Thanh cư­ời như ­ hóa dại.
 Vừa lúc đó NGƯỜI NHÀ GA nhưng mặc quân phục, bư­ớc vào
NGƯỜI NHÀ GA - Chị Thanh, hãy bình tĩnh lại.
THANH - Anh mặc quân phục, nhìn khác quá. Anh đã giúp tôi suốt cuộc hành trình. Anh hãy giúp tôi với, giúp tôi lấy lại đứa con trong cái bình kia.
NGƯỜI NHÀ GA - Anh chị là thầy thuốc, tại sao để cho bệnh nhân hoảng loạn như­ vậy.
DS. TOÀN - Anh hiểu không đúng rồi. Do chồng tôi dừng cái thai nhi bị nhiễm độc đi-ô-xin làm vật chứng của báo cáo khoa học nên đã lưu giữ cả bệnh án ngày ở chiến trường của chị Thanh. Nhắc lại chuyện cũ, chị ấy buồn quá, hóa mộng du đấy thôi. Tôi sẽ đưa chị Thanh vào chữa ở khoa tâm thần ngay bây giờ.
NGƯỜI NHÀ GA - Sự thật không như chị nghĩ đâu.
BS. KHÁNH ra - Anh nói gì? Anh là ai mà tự động bư­ớc vào phòng làm việc của tôi thế này.
NGƯỜI NHÀ GA - Tôi là ngư­ời từ cõi chết trở về. Người duy nhất có thể nhận ra tội lỗi của anh. Anh Khánh, anh vẫn chư­a nhận ra tôi sao?
BS. KHÁNH - Là...Trung, hộ lý Trạn Phẫu Tiền phư­ơng?
THANH - Tôi đang mơ hay đang tỉnh? Đây là Trung? Đây là Trung mà tôi đã bám vứu để sống ư? 
BS. KHÁNH - Là Trung đấy, chị Thanh ạ.
THANH - Trời ơi, tôi xin anh. Tôi lạy anh.
Thanh quỳ xuống.
TRUNG - Chị Thanh đứng lên, không phải làm thế. Tôi mới là người phải cám ơn chị. Chuyến đi vào phía trong ấy chúng tôi gặp địch. Địch đông quá, anh em hy sinh, chỉ còn tôi bị thư­ơng nằm lại giữa vòng vây địch rồi sống sót nhưng phải sống lén lút trong lũng địch xung quanh là địch, chờ đến ngày hòa bình mới trở về. Tôi đã trở về anh BS. Khánh ạ. Vì anh dự của Thanh, anh nói lại với chị ấy đi, đừng đầy đoạ chị ấy mãi thế. Chị Thanh, có tôi đây, chị hãy nói ra tất cả sự thật  mới có thể trút bỏ những đau khổ để nhẹ nhõm mà tiếp tục cuộc sống phần còn lại của đời người.
THANH - Tôi xin Trung…Trong lúc đau đớn vì bị anh Khánh bội tình, tôi liều nhận một ng­ười lính đã hy sinh tôi chư­a hề biết mặt làm bố của đứa trẻ. Tư­ởng thế là chấm dứt đư­ợc bẽ bàng và đau đớn để nuôi con. Nh­ưng, tôi lại sinh ra một đứa con không hoàn chỉnh vì bị nhiễm độc. Trong hoàn cảnh ấy, bất ngờ tôi gặp được mẹ anh dang tay đón tôi. Để làm trái tim mẹ ấp áp trở lại, đỡ trống vắng vì đứa con hy sinh, thư­ơng mẹ, tôi không đành nói ra sự thật. Mẹ ơi, Trung đã về…
Thanh đến bên Trung.
THANH - Anh có biết, mẹ hy sinh vì sao không? Mẹ anh đã hi sinh vì tôi đó. Mẹ lặn lội trong rừng bị nhiễm độc để tìm phư­ơng thuốc để chữa chạy cho tôi. Không ngờ, tôi thì lay lắt sống còn mẹ thì mất do bị nhiễm độc nặng. Anh Trung, hãy tha thứ cho tôi.
TRUNG - Thanh không có lỗi gì cả. Ngày trở về tôi tìm thấy trong di vật của mẹ tôi cuốn nhật ký mẹ viết về Thanh. Số phận của ng­ười đàn bà bất hạnh không quen biết mà nhận tôi là chồng đã thôi thúc tôi đi tìm…Với BS Khánh - Có đúng vậy không anh Khánh?
BS. Khánh lặng lẽ nhận lại những chứng từ và bệnh án vừa đư­a cho TOÀN, xé bỏ, xé bỏ, xé bỏ, ném xuống chân.
BS. KHÁNH - Tôi đi đư­ợc rồi chứ?
DS. TOÀN - Anh nán lại chờ để tôi xin lạy chị Thanh ba lạy, như­ lạy một nữ Thánh, trong tột cùng đau khổ, mà chị vẫn sống tột cùng nhân ái. Chị đã vì tôi mà cố nén, không nói ra sự thật.
TRUNG - đến bên Khánh -  Còn một ít tài liệu về chất đi-ô-xin do mẹ tôi để lại, tôi vẫn giữ, xin gửi anh, để anh nếu thấy có ích thì bổ sung vào bản báo cáo khoa học. Tôi đã đi qua nhiều làng quê, chứng kiến những di hại đau đớn tột cùng về lại chất độc này gây ra. Vì thế, tôi thấy một nghiên cứu đầy đủ về đi- ô- xin là cần lắm. Tôi nghĩ anh có lỗi, không, phải nói là có tội với chị Thanh, với mẹ tôi, và cả tôi, với những đồng đội từng sống chết ngoài mặt trận. Như­ng, gặp lại anh tôi không thể mang hận thù để đòi nợ. Bởi làm như­ thế hận thù cũng sẽ lây lan nh­ư cái chất độc quái ác này, rất hại, làm vẩn bụi môi trư­ờng sống. Tôi chỉ muốn anh nhớ cho, tàn phá hạnh phúc của con ngư­ời đâu chỉ riêng đi-ô-xin mà còn bao độc hại khác nữa, nh­ư sự dối trá, sự phản bội, sự hãnh tiến bằng đạp lên lưng nhau để giành lấy bằng  mọi giá, đánh cắp lòng tin và tình yêu của những ngư­ời cùng sống với nhau… Thôi anh đi đi vì tôi còn có trách nhiệm đ­ưa chị Thanh về ga Hạnh Phúc.
Còi tàu hú vang. Thanh, Trung đến bên nhau, hư­ớng về phía trư­ớc.
BS.Khánh ngơ ngẩn nhìn theo như ­ nuối tiếc
TIẾNG NHÀ GA - Xin trân trọng thông báo, tàu sắp khởi hành về ga Hạnh phúc.
Tiếng còi tàu hú vang.
 
 Màn
   2002 - 2009
     
 
 
 
NGƯỜI ĐÁNH XE NGỰA CỦA
 CẦN CHÁNH ĐIỆN HỌC SĨ
 
Có người bảo, bản gốc truyện Kiều do Phạm Quý Tích cho khắc in năm 1820 ( bản Kinh), ngay sau ngày mất của Nguyễn Du là do bác đánh xe ngựa của đại thị hào dâng trình. Quanh kiệt tác thất lạc có nhiều đồn đoán, đúng sai khó định là chuyện thường tình, ai không tin cứ bỏ ngoài tai, còn tin thì xin nghe ngọn ngành...
 Dịp ấy, Cần chánh điện học sĩ được cử làm Chánh sứ dẫn sứ đoàn  Đại Việt đi Nam Kinh triều cống và mở mang hòa hiếu với nhà Thanh. Từ Huế ra Bắc  sứ đoàn đi ngựa trạm, nhưng Chánh sứ vẫn đùng xe của bác Mộc vì chỗ thân quen, đường dài cho vui chuyện. Đoàn ra đến Hà Nội phải dừng mươi ngày để Tổng trấn Bắc thành lo đồ triều cống. Chánh sứ  cũng mong có mươi ngày chờ để cùng bác Mộc đò tìm tung tích đào Cầm. Hai người có duyên với nhau từ thuở Chánh sứ mới thi đậu tam trường, về ở nhà Nguyễn Khản, anh trai cùng cha khác mẹ ở phường Bích Câu chờ đi nhận một chân quan võ ở Thái Nguyên. Bấy giờ Thượng thư Nguyễn Khản đang là trụ cột của nhà Chúa, chỉ dưới một Trịnh Tông, nhưng trên cả thiên hạ, dinh thự đêm nào đèn cũng sáng như ban ngày mở tiệc hát cho văn nhân Thăng Long. Thư sinh Nguyễn Du không tham gia tiệc hát nhưng để mắt đến cô đào trẻ, mặt hoa da phấn, môi đỏ như son, giọng hát trong vắt nên đón đường làm quen. Chẳng mấy hai người phải lòng nhau, bữa nào không gặp thì đêm dài như đói cơm.
Em trai bà Thái, vợ cả của Quân công Nguyễn Khản ngấm ngầm dò xét mối tình đang chớm của thằng em. Một tối, bắt gặp trai tài gái sắc tình tự, hắn nhìn thư sinh Nguyễn Du như cái gảy trong mắt, thô lỗ chửi, tao đang theo đuổi con Cầm, sao mày đám bóp vú nó?
Máu uất chạy bỏng dọc sống lưng, bốc hỏa lên mặt, Nguyễn Du hét, đồ tượi, rồi nhắm mắt lao thẳng đầu vào ngực anh chàng cao lớn kềnh càng như cái xe bò chở cứt đứng chạng háng trước mặt.
Cú ra đòn bất ngờ  của thư sinh làm chàng thô lỗ ngã văng xuống cống thối giữa lúc có đám lính nhà Chúa đi tuần ngang qua. Thấy việc gây lộn ngay trước cửa nhà Thượng thư, nhưng đám lính không những không ngăn còn vỗ tay như được xem trò xiếc thú. Sau lần ấy đào Cầm vắng mặt trong các đêm tiệc hát ở nhà Thượng thư, còn Nguyễn Du đi Thái Nguyên giữ chức Chánh thủ hiệu hiệu Quân Hùng hậu...
Ít ngày sau đó loạn kiêu binh mù mịt khắp nơi, dinh thự tòa ngang dẫy dọc của Quận công ở Bích Câu bị đốt. Nguyễn Khản trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là Trấn thủ Sơn Tây, rồi mắc bệnh chết. Nguyễn Huệ làm chủ Thăng Long, phò Lê diệt Trịnh. Ngần ngại trước thế sự xoay vần, Nguyễn Du bất trí lui về quê ngoại ở Thái Bình chờ thời. Vài lần từ quê ngoại thi sĩ trở lại Thăm Long ra tận bến Củi, nơi một thời đào Cầm từng cầm chèo chở dò ngang qua sông Cái để dò tin. Tha thẩn uống rượu với cánh vạn chài, thi sĩ chỉ nghe nói, họa hoằn có đêm ai đó chèo đò ngang qua bến cất lên tiếng hát nghe ai oán, thì  đoán đó là đào Cầm, nhưng không đám chắc vì người hát giấu mặt.
Từ bấy đến ra Thăng Long lần này, đã mười mấy năm.
Bác Mộc dẫn quan bác đi tìm đào Cầm như  tìm kim đáy bể. Ở các cửa ô, hỏi tin Cầm, người già lắc đầu, người trẻ không biết. Ghé mắt vào một vài dinh thự chăng đèn, kết hoa vọng ra tiếng trống phách để dò la nhưng vẫn biệt tăm tin cô đào nhất của Thăng Long một thuở. Những tưởng mối nhân duyên giữa hai người từ nay mỗi người một ngả, thì Chánh sứ gặp lại đào Cầm ở nơi ít ai ngờ, ngay trong dinh Tổng trấn Bắc thành trong bữa Tổng trấn mở tiệc khoản đãi sứ đoàn. Ngoài tiệc rượu Tổng trấn còn mở tiệc hát. Ca nương, kép đàn khăn áo xanh đỏ phấp phới ngồi kín mấy chiếc chiếu hoa trải dọc nền dinh. Rượu vừa nhấp môi, tiệc hát đã sửa nhịp, trống tom tom, phách gõ nhoi nhói, đàn đáy trầm đục se dây ướm giọng. Rồi một giọng ca vỡ nước  của đào nhất cất lên: Bất niên thân thế ủy phong trần...làm quan Chánh sứ thảng thốt, nhận ra cô đào hát câu mở đầu bài Mạn hứng của ông...Trời ơi, đào Cầm. Chỉ suýt nữa Chánh sứ kêu lên, nhưng kìm lại được, chỉ húng hắng ho lấy cớ bước ra hiên. Từ ngoài đó, thấp thoáng qua tấm màn gió, ông nhìn ...Đào Cầm đã nhận ra người tình xưa chưa mà vẫn khoanh chân ngồi hát như chẳng có chuyện gì? Hơn chục năm rồi mà đào Cầm chẳng khác là bao, vẫn gương mặt trái xoan, eo lưng mềm mại, bờ vai thanh mảnh, ngực tròn, cổ cao...toát lên vẻ dài các không chê vào đâu được. Phải nín lòng chờ đến cuối tiệc hát, lúc đào kép lục thu dọn đồ nghề ra về, Chánh sứ mới ngỏ lời với Tổng trấn xin được gặp đào nhất bởi chỗ quen biết từ trước.
Tổng trấn cười trong hơi men, Chánh sứ có lòng thương yêu chút tài hoa, nhan sắc Thăng Long, thì tôi cho đào nhất xin hầu...
Ông cho gia nhân dọn trà ở vườn thượng uyển. Khi Chánh sứ bước lên vườn thượng uyển thì đào Cầm đã ôm đàn ngồi bên bàn trà.
 Thi sĩ dừng trước mặt người ôm đàn, tiếng ngẹn lại ở ngực, chỉ gọi được câu, Cầm ơi...
Cầm đặt đàn lên mặt bàn, đứng dậy, ôi, quan bác.
Phải lâu lắm, Nguyễn Du  mới bày tỏ rằng, bấy nay do muôn cách trở bởi đường đất từ Phú Xuân ra Bắc Hà không phải lúc nào cũng liền lạc, nên đến giờ mới lại gặp được ân tình... 
Cầm vê mép áo, bảo, bởi vì em vô duyên...
Nguyễn Du bảo, ra Thăng Long chuyến này, được gặp lại Cầm âu cũng là cái tình trời định, nay có chút quà mọn, xin gửi tận tay...
Ông đặt vào tay cô Cầm một phong thư. Cô cảm động, khẽ khàng mở phong bao, rút ra trang giấy viết đặc chữ. Nguyễn Du  quay người, dạo trong vườn thượng uyển để Cầm đọc lá thư vừa nhận. Càng đọc, mặt cầm càng tái nhợt, môi run run, nước mắt lăn trên má.
Nguyễn Du bảo, tôi vô ý làm buồn lòng Cầm.
Cầm nín lặng hồi lâu rồi bảo, không, Cầm không buồn, chỉ tủi vì nghĩ trên đời này còn có một người là quan bác an ủi kiếp con hát của mình mà không được gần
Cầm mời Nguyễn Du mà cô một lời quan bác, hai lời quan bác ngồi xuống để được hầu trà. Bên này, Nguyễn Du nâng chén trên tay. Bên kia Cầm ôm đàn se sẽ hát: Trăm năm thấm thoát là bao tá/ Đau lòng việc cũ lệ tràn mi/ Từ Nam trở lại đầu nhuốm bạc/ Trách gì nhan sắc chẳng tàn phai...
Giọng Cầm buồn trong veo.
Hôm sau trong đám người nhà theo Tổng trấn Bắc thành tiễn sứ đoàn Đại Việt lên đường cũng có cô Cầm. Lúc chia tay, chờ Chánh sứ ngồi yên lên xe hai ngựa kéo, Cầm mới đặt vào tay Nguyễn Du chiếc khăn lụa điều, gặp vuông vức, giọng như gió thoảng, có chút mọn gửi quan bác đi đường xa đất khách.
Nguyễn Du nói, đa tạ, đa tạ, cho tôi xin một miếng trầu để cầm tay đi đường...
Cầm nói, dạ thưa quan bác, trong khăn Cầm đã có miếng trầu...
Nguyễn Du đặt khăn vào túi vải, cho đến chiều tối, xe đi vào con đường kẹp giữa núi đá gần ải Bắc, gió trở lạnh, ông mở khăn để quàng, mới biết trong khăn không phải miếng trầu mà là đôi hoa tai vàng.
Nguyễn Du quàng khăn, còn đôi hoa tai thì đưa cho bác Mộc, bảo, chốc lát sang bên kia, Bắc quốc đã sẵn sàng đội tiếp sứ đưa đón. Bác quay lại Thăng Long tìm đào Cầm trao trả giùm ...Phải một đời con hát mới có một chút thiện kim này, bác ạ.
Bắc Mộc quay lại Thăng Long, dò la khắp trốn vẫn biệt tăm tích đào Cầm. Đến khi tìm về Thổ Lỗi, quê cô bên kia sông Cái hỏi tin, thì gặp một bà già, bà nhìn bác Mộc từ đầu đến chân rồi bảo, nếu không đi tu, thì người ta đã cắn răng làm lẽ rồi. Thôi, người đã giấu thân thì để người ta yên... 
Sau đấy bác Mộc mới không đi tìm nữa.
Hơn một năm bốn tháng sau, bác Mộc được đón Nguyễn Du đi sứ trở về.  Trên xe, trở lại Phú Xuân, bác Mộc nhắc lại chuyện đi tìm đào Cầm, rồi trả lại đôi hoa tai vàng cho quan bác. Nguyễn Du buông một tiếng thở dài, bảo, tôi nhờ bác giữ, gửi trả lại cho cô Cầm. Nay chưa gặp Cầm, bác cứ giữ, là của bác. Thăng Long với tôi nhiều ân sâu. Trời còn cho sống, mọi việc lại dễ dàng, thì sau chuyến đi này nhất định tôi lại có dịp cùng bác trở lại tìm cô đào Cầm, cũng chưa muộn.
Ai ngờ, trở lại Phú Xuân Nguyễn Du bỗng rơi vào khổ lụy, việc tìm đào Cầm lại xa vời. 
Gia Long cho thiết triều với đủ mặt văn võ bá quan lục bộ ở sân Rồng để đón sứ đoàn đi Nam Kinh trở về. Chiếu thư của Hoàng đế Đại Thanh  ban lời dù cách trở ngàn trùng mà A Nam Hoàng đế vẫn không quên cho sứ thần mang đồ tiến cống, thật là trọn vẹn niềm tôn kính, nay mong hòa hiếu đôi bên và còn khen sứ thần học nhiều biết rộng, phong lễ chân tình, đúng là bậc thượng khách...làm Gia Long vô cùng cảm kích, khen chánh sứ dẫn sứ bộ làm phận sự quốc gia hoàn mãn.
Mọi việc sẽ hanh thông nếu buổi thiết triều dừng lại đó. Nhưng lần này, mặt rồng ngời sáng, kéo dài buổi thiết triều để hỏi chuyện Chánh sứ, nên mới sinh chuyện.
Thánh thượng nhìn xuống đầu người quỳ dưới bệ rồng, khanh là người hay chữ, đường đi sứ chắc thu nhặt được nhiều điều khác lạ, nói trẫm nghe.
Nguyễn Du thành thật tâu, thần sang Bắc quốc, chỉ lưu tâm thăm viếng các thắng tích và lục đọc sách vở.
Thánh thượng nói, ta cần Tứ thư, Ngũ kinh, Bách gia Chư tử. Khanh có đem về các cuốn sách báu đó?
Nguyễn Du tâu, hạ thần chỉ thu lượm về mấy cuốn tâm thư, nay mạo muội xin dâng Thánh thượng cuốn Kim Vân Kiều truyện, dọc đường thần đã chuyển sang chữ Nôm cho dân quê có thể đọc.
Nguyễn Du dâng sách.
Thánh thượng cho quan Thị độc nhận, bảo, khanh đọc trước rồi tấu lại trẫm.
Nhìn xuống người vẫn một mực quỳ trước mặt, Thánh thượng nói, khanh vừa gian nan vạn dặm trở về, ta thăng cho chức Hữu tham chi bộ Lễ, hàm Tam phẩm. Bây giờ ta muốn khanh ngỏ lời xin một điều gì đó để ta ban thưởng luôn thể.
Nguyễn Du tâu, hạ thần lo việc của Thánh thượng, không đám cầu xin điều gì.
Nguyễn Du không cầu xin làm Thánh thượng mếch lòng.
Thánh thượng bảo, tài học của ngươi lừng danh thiên hạ, chắc nhiều
 ý nghĩ trong đầu mà không nói ra. Ta muốn nghe một lời cầu xin của khanh, để ban thưởng mà khanh chỉ biết cúi đầu mà không xin làm ta khó nghĩ. Bãi triều...
Nguyễn Du như trút được ghánh nặng, nhưng đâu ngờ chỉ nửa ngày sau, gánh nặng lại quàng lên cổ.
Vẫn là cái chỗ hôm trước Chánh sứ quỳ tâu, nay không phải thiết triều, chỉ một mình quan Thị độc mặt khó đăm đăm đứng đón.
Nguyễn Du e dè hỏi, chẳng hay có việc gì mà tôi có chỉ triệu gấp thế?
Quan Thị độc chỉ ậm ừ, bảo, mời Hữu Tham chi bộ Lễ vào vào sân sau.
Thánh thượng ở đó, nhìn Nguyễn Du lụng thụng trong bộ đồ đại lễ vừa mới được ban hôm trước, mới mặc lần đầu, còn nguyên nếp gấp, hỏi, khanh biết vì sao trẫm gọi quay lại không?
Nguyễn Du e dè, thần không rõ đã gây chuyện gì làm bận lòng Thánh thượng. Thần cúi xin Thánh thượng chỉ dạy.
Thánh Thượng nói, triều đình của ta sùng kính đạo Nho, luân lý lấy cương thường làm gốc. Ta biết khanh là người có học, trọng đức hạnh, cớ sao lại dâng cho trẫm cuốn dâm thư?
Nghe Thánh thượng nói, người Nguyễn Du bỗng đông cứng lại như đá, chân gắn xuống đất, không nhấc nổi, cũng không thể quỳ lạy, mồ hôi vã như tắm. Viên quan Thị độc thấy thế, phải đến bên Nguyễn Du nhắc nhở  quỳ lạy xin Thánh thượng tha tội bất kính. Rồi viên quan Thị độc phải đỡ Nguyễn Du quỳ xuống.
Thánh thương nói, khanh vừa đi sứ mở hòa hiếu, lập công với triều đình, ta tha tội hình. Còn cuốn dâm thư chịu tội thay khanh...
Nói rồi Thánh thượng lạnh lùng quay đi. Đao phủ khiêng án thư ra đặt trước mặt Nguyễn Du. Quan Thị độc mở tập Kim Vân Kiều truyện bày lên án.
Thượng thư bộ Hình dõng dạc tuyên, Thánh thượng chí tôn, trọng sách Thánh hiền, lấy cương thường làm gốc. Nay học sĩ đi sứ đem dâm thư về Hoàng triều là mắc tội bất kính. Nhưng xét học sĩ có công mở mang hòa hiếu với triều đình Thanh, nên tha tội bất kính. Cuốn dâm thư phải chịu phạt thay chủ...                
Hai đao phủ cầm gậy gỗ sơn đen bước lên, đứng hai bên án thư. Thượng thư bộ Hình hô, giáng tội chín trượng
Hai đao phủ vụt gậy xuống cuốn sách trên mặt án thư. Chỉ chịu được ba đòn, cuốn bản thảo dịch Kim Vân Kiều truyện đã tung ra, nhiều tờ bay lả tả. Nguyễn Du cảm thấy như mình bị đánh. Ông co rúm người, mặt méo xệch vì đau đớn. Quan Thị độc phải nắm chặt hai vai để Nguyễn Du không bị ngã xoài xuống sân Rồng...Chịu xong tội hình, lính cấm vệ phải khiêng Nguyễn Du lên xe đưa về nhà...  
  Nguyễn Du ốm liền một tháng, nằm quay mặt vào tường, khách đến thăm thì bảo gia nhân chạy ra cổng xin không tiếp. Mãi cho đến khi lời cầu xin về thăm quê được Thánh thượng ưng chuẩn, ông mới nguôi ngoai tỉnh lại. Được tin nhắn đón Nguyễn Du về thăm quê, bác Mộc mừng khấp khởi, đánh xe đến cổng thành, lính cấm vệ bảo, học sĩ  ra cửa từ chiều qua, chưa thấy quay lại. Bác Mộc đoán, vậy thì quan bác đã ra nơi ở trọ ở ven sông. Y rằng, bác Mộc đến đến nhà trọ thì Nguyễn Du ngồi trên chiếc chiếu trải rộng  trước cửa đang sắp đặt những trang Kim Vân Kiều truyện rách bươm vì bị chịu hình phạt chín trượng hôm nào.
 Nguyễn Du bảo, bác  vào nhà dùng trà, tôi xong ngay bây giờ.
Bác Mộc bước lùi ra sân, quan bác cứ việc. Tôi đâu dám bước qua góc chiếu bày chữ Thánh hiền...
Lúc lên xe, chỉ thấy Nguyễn Du tòng teng cái tay nải may bằng vải thâm, bác Mộc hỏi, đồ đạc quan bác để trong nhà phải không, để tôi đưa lên.
Nguyễn Du xua tay, có gì đâu, chỉ hai bộ quần áo và mớ sách xếp vừa một tay nải.
Bác Mộc còn nói thêm, chả thấy ai đi làm quan như quan bác, lần nào đi công cán cũng chỉ cái tay nải đeo vai.
 Nguyễn Du nói, công cán gì đâu, chuyến này tôi về thăm nhà.
Từ lúc lên xe, hai người không nói năng gì. Đã đi đâu là đi một mạch và kiệm lời như là quy ước giữa hai người. Chỉ đôi khi quan bác  có câu thăm hỏi, chẳng hạn, năm nay sao lúa chín sớm thế bác Mộc? Hoặc, bác Mộc nay đây mai đó với tôi thế này, thì bao giờ mới yên bề gia thất? Biết tính quan bác, nhiều khi người nói cứ nói, người nghe lơ ngơ như đầu óc bỏ đâu, nên bác Mộc có trả lời chủ, cũng vắn tắt. Lúa chín sớm vì bà con chọn giống khê lùn, ra mạ sớm. Còn việc gia thất, ôi dào, duyên số ai mà tính trước được, lúc nào đến, sẽ đến. Rồi giữa hai người chỉ có tiếng vó ngựa vỗ lên mặt đường lóc cóc..          
Hôm nay quan bác phá lệ. Xe vừa ra ngoại ô quan bác đã bảo dừng. Bác Mộc ý tứ dừng xe ở ven đường có nhiều bụi cây dại. Quan bác xuống xe, không chui vào lùm cây nào cả mà đem theo be rượu, đứng nhìn về phía kinh thành, rót một chum, uống, rồi đập vỡ cái chum như một lời nguyền. Bao năm gần gũi, bác Mộc thấy quan bác là người kiệm tâm, làm việc gì cũng đến nơi đến chốn, nhưng nhún nhường, dụt dè trong ứng xử, khép kín, chỉ day dứt trong lòng, cho nên đây mới là lần đầu bác Mộc thấy quan bác có cái cách uống rượu một mình rồi khẳng khái đập chum như thế kia.
Mỗi bước về đến gần Tiên Điền quang cảnh ruộng vườn, làng xóm càng tiêu điều. Những cánh đồng bỏ góa. Những cánh rừng xơ xác. Những tốp người lam lũ cắm cúi đi...
Một chiều, chiếc xe ngựa bụi bặm chở Nguyễn Du về đến đầu làng. Phía trước xe có đám tang đang ra đồng. Đi sau bốn người khiêng quan tài là dúm người xám xịt, chỉ cúi đầu lặng câm. Không tiếng kèn trống. Không tiếng khóc. Không hương khói. Nguyễn Du bước xuống xe ngả nón, cúi đầu, rồi cứ thế ông cắm cúi đi bộ, mặc chiếc xe ngựa lóc cóc theo sau.
 Bỗng từ bụi cây ven đường có người vác gậy nhảy ra, quát, ai kia đứng lại!
 Nguyễn Du nhận ra từ đây, trên mặt đương có rải nhiều vôi bột. Ông nói, tôi người làng Tiên Điền, đi xa lâu ngày về thăm nhà...
Người gác đường bảo, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Còn ông muốn chết thì thì cứ vào làng.
Nguyễn Du kêu trời, có họa gì thế ông ơi...
Người gác đường nói, ông không nhìn thấy người ta khiêng nhau ra đồng đấy à. Dịch làm chết vãn người làng rồi, chả ai còn nước mắt mà khóc nữa.
Nguyễn Du lại kêu trời, khẩn khoản xin được vào làng, tôi xa nhà lâu rồi, cho tôi về nhà, có chết cũng cam lòng...
  Người gác đường ngần ngại, chỉ về bụi cây gần đó, bảo, ông nhìn gương kia kìa. Hôm qua có người từ xa đến, cũng nhất quyết xin vào làng như ông, không cho đi thì trốn. vào làng được một đêm, người ta khiêng trả lại đây, nằm kia, tội lắm. Sống không muốn lại muốn chết...
  Nguyễn Du hỏi, người ta có tội gì mà làng ném trả?
  Người gác đường bảo, nghe đâu người đàn bà này từ Thăng Long vào. Không có ai họ hàng, ruột thịt cả.
Nguyễn Du thoáng bồn chồn, cho tôi gặp người ta được không?
  Người gác đường bảo, lây bệnh mà chết à?
  Nguyễn Du vẫn rẽ vào bụi cây ven đường, nơi có vài người nằm đắp chiếu. Ông nhẹ nhàng mở chiếc chiếu ngoài cùng, thấy một người đàn bà nằm cong queo, mặt bịt miểng vải đen.
 Ông lay gọi, bà ơi.
 Người đàn bà chỉ cựa quạy mà không mở mắt. Nguyễn Du gọi bà ơi đến lần thứ ba, người đàn bà se sẽ kéo chiếc khăn bịt mặt. Hai con mắt trũng sâu bị chói nắng nhắm lại mở. Rồi đôi mắt mờ đục ấy mở thật to, ngơ ngác, kinh ngạc. Người đàn bà ngồi dậy, thẳng thốt, trời ơi, quan bác...
Nguyễn Du như bước hụt. Cuộc gặp đường đột làm ông bị choáng. Ông ngồi thụp xuống trước mặt người đàn bà đang run rẩy, cô Cầm sao lại đến nỗi này.
Lâu sau Cầm mới nói được, biết tin làng bị nạn dịch, lại ngỡ quan bác đi sứ chưa về, nên Cầm liều vào xem có thể đỡ đần gì cho các cháu...Nào ngờ...
Nguyễn Du lùi ra, lùi ra, cách Cầm tầm một sải tay thì bảo, một đời phiêu bạt tôi mới có một ân nhân. Cho tôi được cảm ta tấm lòng vàng. Sống chết chưa biết. Nhưng khi Cầm còn sống, cho tôi được lạy Cầm ba lạy rồi đưa Cầm về nhà....
Cô Cầm nắm lấy tay Nguyễn Du, quan bác đừng làm thế. Được gặp quan bác là Cầm mừng rồi, chết cũng đã  mãn nguyện. Để Cầm ở đây, đừng đưa về nhà vì còn các cháu.
Nguyễn Du nói, cả đời vì tôi mà Cầm long đong...Nay gặp lại,Cầm có chết thì chết trong nhà tôi.
Nói rồi, không đợi Cầm đồng ý hay không, Nguyễn Du cùng bác Mộc đưa Cầm lên xe, rồi lấy thẻ Hữu Tham tri bộ Lễ, hàm Tam phẩm đưa cho người gác đường để ông ta không gây khó dễ mà cho đi.
Chiếc xe ngựa vào vào con đường đất cắt qua giữa cánh đồng trống, gió hun hút, bụi bốc mù mịt. Đường ổ trâu, ổ voi, xe nhảy như xóc ốc. Trên xe, hai tay Nguyễn Du phải giữ cho cầm khỏi lăn. Ông mở tay nải lấy ra bó quần áo và tập bản thảo Kim Vân Kiều truyện nhiều trang rách bươm làm cái gối cho Cầm. Gió đồng mỗi lúc càng thổi mạnh, thành lốc, thốc vào lòng xe làm tập bản thảo tuột khỏi đầu, tung ra, gió cuốn bay lả tả rồi vãi xuống đường. Có trang giấy như cánh diều, bay sang tận bên đồi...
Bác Mộc nói, để tôi dừng xe, nhặt nhạnh, kẻo giấy má của quan bác bay hết.
Nguyễn Du  nói, cứu người mới là việc trọng.
Cứ đi, xe chạy gập ghềnh trong gió bụi. Phía sau xe, có vài đứa trẻ không biết từ đâu ùa ra, vừa chạy vừa nhặt những trang giấy từ xe ngựa bị gió cuốn vung vãi.
Vào tầm chập choạng tối chỉ một mình bác Mộc đi bộ quay trở lại tìm đám trẻ. Không biết do người lớn xui, hay đám trẻ bày ra, chúng đòi đổi những trang giấy chúng nhặt được bằng gạo. Làm khó nhau quá. Trên người bác Mộc chẳng có gì đáng giá một bát gạo để đổi cả. Loay hoay mãi, bác Mộc bất ngờ nhớ ra trong cạp quần còn giấu hai cái hoa tai vàng  của cô Cầm từ dạo nào. Dong duổi hầu xe từ thời Nguyễn Du còn giữ chân Cai bạ Quảng Bình bác Mộc biết, nhiều khi quan bác quý chữ còn hơn cả mạng sống. Vậy thì vàng là cái gì.
 Bác móc đôi hoa tai vàng đặt vào lòng bàn tay đen đủi của đứa trẻ, ta đổi cho tụi bay đây.
Đứa trẻ trố mắt, không lấy đồ chơi.
Bác Mộc bảo, đây không phải đồ chơi, mà là vàng. Ngần này vàng nhờ  người lớn đem đổi, sẽ mua được nhiều gạo.
Bác Mộc nhặt lại được Kim Vân Kiều truyện.
Gia phả dòng họ Võ, làng Gia Điền, Bố Trạch, Quảng Bình, chép, cụ Tổ làm nghề xà ích cho quan văn, tuy không biết chữ, nhưng trọng chữ Thánh hiền, nên con cháu đời sau đỗ đạt... 
19/1/2018
Xuân Mai - Nguyễn Ngọc Tung
Nguyễn Nhuận Hồng Phương
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...