Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 3a

Văn xuôi Vĩnh Phúc - Phần 3a

GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

5 NĂM LẦN III (2006-2010)

I. Giải A:

Không có

II. Giải B: 1 giải

Tập truyện ngắn Nơi gặp gỡ hai con sông của Xuân Mai

III. Giải C: 2 giải

1. Tập truyện ngắn Hoàng hôn tím của Trương Thị Hương Nghĩa

2. Tập truyện ngắn Những lá thư màu xanh của Nguyễn Thị Minh Ánh

IV. Giải Khuyến khích: 3 giải
1. Tập truyện ngắn Bức tường ngăn của Nguyễn Hoàng Long
2. Tập truyện ngắn Quán Mãng Xà Vương của Trần Minh Thảo (Thảo Dân)
3. Tập ký Anh hùng giữa đời thường của Lê Khánh.
XUÂN MAI
Nơi gặp gỡ hai con sông
Tập truyện ngắn đoạt Giải B,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2006 - 2010)
NƠI GẶP GỠ HAI CON SÔNG 
Bỏ lại phía sau lưng tất cả những tiếng đàn, tiếng nhạc xập xình, náo nhiệt, những tiếng la hét, những tiếng động cơ ô tô, xe máy và phố phường ồn ã, lao ra khỏi nhà hàng “Chiều tím”, bàn chân dường như vô định đã đưa cô đến bến sông. Biết chắc rằng không còn ai đuổi theo mình nữa cô mới ngồi thụp xuống, hai tay ôm đầu và khóc nức lên.
Đêm chưa hẳn đã về khuya nhưng bến sông không còn người qua lại. Dưới lòng sông mờ trắng, sát với mép nước có một con thuyền, từ trong khoang lái hắt ra ánh đèn dầu le lói. Gió thổi xôn xao. Sóng nước vỗ mạn thuyền ì oạp…
Thoắt nhiên cô gái đứng vụt dậy, sau khoảnh khắc chần chừ, cô nhảy ùm xuống sông. Mặt sông bắn tóe lên màn nước hình phễu, màu sáng trắng, đoạn lại trở về với trạng thái ì oạp triền miên như không hề có điều gì xảy ra.
Đúng lúc ấy từ trong khoang thuyền có một người con trai, có lẽ anh ta nghe được tiếng “ùm” nên lao ra. Bằng linh cảm của người sống nghề sông nước, anh biết có ai đó vừa nhảy xuống sông. Không một chút đắn đo, anh lao xuống theo. Lát sau, anh lôi được cô gái lên thuyền.
Đầu tóc, quần áo cô gái ướt rượt. Trong ánh đèn mờ tỏ, anh thấy đây là một cô gái đẹp, tuổi chừng 19, 20. Bộ quần áo vốn mỏng lại ướt, dán sát vào người cô làm nổi lên những đường nét nở nang, hấp dẫn. Mẹ anh, một người đàn bà ngót sáu mươi tuổi, cuống quýt bên cô gái. Bà luôn miệng hỏi cô tên gì, quê ở đâu, tại sao lại phải làm cái điều dại dột này? Cô không nói chỉ khóc và mấy lần vùng vẫy đòi thoát khỏi vòng tay người đàn bà để lại được nhảy xuống sông. Lần cuối cùng thấy cô cứ khăng khăng đòi chết, đừng chẳng được, anh giang tay tát thật mạnh vào mặt cô gái một cái và quát: “Ngu! Thôi, nó muốn chết mẹ mặt xác nó”. Không ngờ cái tát “lật mặt” đó của anh con trai làm cô bừng tỉnh. Cô không khóc nữa, lặng lẽ làm theo sự chỉ dẫn của người đàn bà: thay quần áo, uống nước gừng, húp cháo nóng, rồi vào giường nằm chung với bà. Anh con thấy không muốn ngủ. Anh ngồi trên mui thuyền đốt thuốc lá liên miên. Thỉnh thoảng anh lại bấm đèn pin xem đàn cá trắm cỏ nuôi trong bè. Những con cá to bằng bắp tay đang nhao lên lặn xuống cắn mồi lao xao khiến anh rất vui. Mãi sau anh mới ngả lưng trên mui thuyền, vắt tay lên trán và thầm hỏi: “Người con gái mình vừa vớt lên ấy là ai thế nhỉ?”.
Người con gái lao mình xuống sông được vớt lên ấy là Nhài. Tên cúng cơm của cô là Nhặt. Quê Nhặt ở Lùng Mẳng - Một bản người dân tộc Dao, mãi trên thượng nguồn sông Lô.
Từ lâu rồi ở Lùng Mẳng vẫn có tục đẻ con ra nếu không nuôi được thì đem bỏ vào trong rừng. Nhài là đứa con thứ 9 được bố mẹ đẻ ra. Biết không thể nuôi nổi Nhài nữa, bố mẹ cô cũng đặt cô vào một cái sọt, đoạn đem cô vào rừng, treo trên ngọn cây. Máu me trên người chưa được lau, cuống rốn chưa được cắt, miệng bị nhét đầy lá rừng, vậy mà qua hai ngày trời giữa sương đêm gió lạnh và ong kiến bu đầy mình, cô vẫn không chết. Đến ngày thứ ba, may sao có một người đàn bà đi rừng chợt nghe thấy tiếng gì ọ ẹ như con mèo hen, bà dừng lại nghe và ngơ ngác tìm kiếm. Cuối cùng bà nhận ra đấy là đứa trẻ kêu. Bà vít ngọn cây xuống đoạn đuổi hết ong rừng, rồi xách cái sọt đem cô về và làm lễ nhận con nuôi. Bà đặt tên cô là Nhặt.
Thôi, khỏi phải nói đến những năm tháng bà nuôi Nhặt vất vả như thế nào, chỉ biết rằng được sống trong tình thương yêu, chăm sóc của bà, Nhặt lớn dần lên. Càng lớn Nhặt càng xinh gái. Học hết lớp 5, Nhặt ở nhà cùng bà đi làm nương được mấy năm thì một hôm có người đến bảo bà cho Nhặt ra phố làm “ô-sin”. Làm “ô-sin” tức là đi làm người ở. Nhặt, mẹ nuôi Nhặt đều biết thế. Vài năm nay con trai, con gái bản Lùng Mẳng đã có nhiều đứa bỏ đi làm thuê. Khi đi, đứa nào cũng gầy còm ốm yếu. Khi về, đứa nào cũng béo tốt, da dẻ hồng hào, ăn mặc đẹp y như người thành phố. Hình như cứ được ra khỏi Lùng Mẳng là ai cũng đổi đời? Nếu đi làm ô –sin mà đổi đời thì Nhặt cũng muốn đi. Người đón Nhặt ra phố còn nói: “Mỗi tháng ba trăm ngàn đồng tiền công. Cơm mỗi ngày ba bữa, chủ nhà ăn thế nào mình ăn thế. Tính ra, vị chi lương của cháu mỗi tháng phải năm, sáu trăm ngàn chứ không ít đâu. Mà công việc nhẹ nhàng lắm. Ngoài nấu cơm, quét nhà, giặt giũ giúp nhà chủ, còn thì suốt ngày ngồi xem ti vi”.
Nhà vốn đông người, cái ăn cái mặc còn thiếu thốn, trong lúc người môi giới, giới thiệu việc làm lại nói ngon, nói ngọt như rót mật vào tai… Thế là mẹ con Nhặt gật đầu, bằng lòng.
Nhặt đổi tên là Nhài và được dẫn đến làm ô-sin cho một gia đình ở giữa “phố quan”. Nhà cao những 4 tầng lầu nhưng chỉ có 3 người ở, gồm một ông già, chừng trên 70 tuổi, sau cơn tai biến mạch máu não, phải nằm liệt giường và hai vợ chồng ông chủ tuổi khoảng ngót 50. Nghe nói vợ chồng họ còn có hai anh con trai, nhưng đều đang du học bên Nhật. Không biết vợ chồng ông chủ làm việc gì mà sáng nào người nào cũng có ô tô con màu đen bóng lộn đến đón đi. Họ đi suốt cả ngày. Tối, đường phố lên đèn mới về. Cũng có nhiều hôm Nhài tắt đèn đi ngủ được một giấc dài mới thấy ông (hay bà) bấm chuông gọi cổng. Hai ông bà mỗi người ngủ một phòng. Hầu như họ không nói chuyện với nhau. Họ sống lặng lẽ như hai cái bóng. Làm ô-sin, Nhài biết thân phận mình là con ở, cô không tò mò hỏi chuyện nhưng bằng linh cảm của mình, Nhài đoán họ đang sống ly thân. Là Nhài đoán thế chứ chuyện nhà người ta Nhài quan tâm làm gì! Cô yên tâm với công việc của mình, miễn là họ trả công cô sòng phẳng.
Được ăn cơm thành phố, uống nước thành phố, việc làm lại không nặng nhọc vất vả như ở nhà nên chỉ có mấy tháng đi làm ô-sin mà Nhài lớn phổng lên. Mái tóc Nhài dài ra đen mượt, nước da trắng hồng, má, môi không đánh phấn tô son mà lúc nào cũng đỏ, đôi mắt đen với hàng mi cong dài sáng long lanh, hai hàm răng trắng đều chỉ hé lộ mỗi khi Nhài cười. Dân phố ai cũng khen Nhài vừa đẹp, vừa có duyên. Cô đúng là bông hoa rừng mới được người ta đem ra thành phố. Những lời bình luận ấy không có cánh nhưng đều bay đến tai ông chủ của Nhài. Cô đâu biết ông để ý đến mình từ bao giờ.
Nhài nhớ, hôm ấy cô vừa ngỏ lời xin phép ông bà chủ cho về quê thăm mẹ một, hai ngày nhưng không được vì bà chủ bận phải đi công tác xa một tuần. Bà chủ đi rồi, tối ấy như nhiều tối khác, khoảng 10 giờ ông chủ mới về. Ông gọi Nhài vào phòng riêng sai pha cà phê cho ông. Trong lúc Nhài đang hí húi với công việc thì bỗng ông chủ ôm chầm lấy cô, hôn như mưa lên mặt, lên môi cô. Quá đột ngột trước hành động ấy của ông chủ Nhài cố vùng vẫy mà không thể nào thoát khỏi hai cánh tay to khỏe, cứng như hai thanh sắt ghì xiết lấy mình. Nhài định kêu “cứu tôi với” nhưng ông chủ đã nhét cái khăn vào miệng cô, bế thốc cô lên, đặt vào giường…
Hành lạc trên thân xác Nhài xong, ông chủ mở cửa đẩy cô ra còn dọa: “Cấm không được nói chuyện này với ai. Lộ, chớ bảo tao là thằng ác”. Đau đớn quá, ê chề quá, nhục nhã quá mà Nhài không làm gì được. Nhài tấm tức khóc và cắm cổ chạy xuống tầng một. Hình như lúc bấy giờ ông cụ 70 tuổi cũng biết chuyện. Cụ ú ớ gọi đoạn lại rung chuông gọi Nhài như mọi lần nhưng Nhài đã lao ra đường phố.
Nhài đang đứng khóc một mình dưới một gốc cây xà cừ thì có một người đàn ông đến bên cô. Người đàn ông này khoảng ngoài 40 tuổi, mắt đeo kính trắng, đầu đội mũ “le”, qua cách ăn mặc có thể đoán anh ta là một người đứng đắn, đàng hoàng. Không hỏi tại sao Nhài khóc, tại sao Nhài ở đây có một mình, anh nói ngay với Nhài:
- Nhìn cô tôi biết, cô là con nhà lành ra phố làm ăn đã gặp chuyện không may. Nếu tin tôi, mời cô về nghỉ ở nhà tôi qua đêm nay rồi mọi chuyện sẽ tính sau. Nghe tôi, đừng đứng ở đây một mình, nguy hiểm lắm cô ạ.
Nhài ngước nhìn người đàn ông như muốn xác định tuổi tác để xưng hô:
- Nhà … chú ở đâu?
- Thì cứ đi cùng tôi sẽ biết, không xa lắm đâu.
Không còn cách nào khác, Nhài đành đi theo người đàn ông xa lạ có cái vẻ đứng đắn, đàng hoàng ấy. Về đến nơi Nhài mới biết đây là ông chủ nhà hàng “Chiều tím”… “Chiều tím” là nhà hàng nằm bên bờ cái hồ rộng cách đường phố chính vài chục mét. Ở đây người ta vừa cho thuê hát Ka-ra-ô-kê trong phòng kín, vừa bán cà phê vườn. Khách hầu hết là những thanh niên và những người đàn ông đầu hói, tóc muối tiêu. Có chừng hơn chục người phục vụ toàn là con gái trạc tuổi Nhài. Cô nào cũng má phấn môi son, ăn mặc hở hang, váy ngắn, để lộ cặp đùi to tròn, trắng lốp…
Người đàn ông dẫn Nhài vào nhà, bảo cô ngồi vào ghế sa – lông Đồng Kỵ, sai người pha nước mời cô. Sau đó giới thiệu vắn tắt cho cô biết về việc kinh doanh của “Chiều tím”. Với cử chỉ và giọng điệu của một ông chủ, anh bảo:
- Cô cứ nghĩ kỹ đi. Nếu có nhu cầu kiếm tiền thì ở lại đây bán hàng cho tôi. Cơm nuôi ba bữa, lương mỗi tháng sáu trăm ngàn, phục vụ tốt, khách hàng khen, sẽ có thưởng thêm.
Không thể bỏ về quê vào lúc này. Lại có người thuê làm, công xá như thế là được. Thôi thì, cứ làm thử xem sao. Nghĩ thế, Nhài đồng ý.
Làm ở “Chiều tím” phải bưng bê, phải chịu sự sai bảo của bà chủ, phải cắn răng chiều khách… Nhài không có sợ. Điều Nhài sợ nhất, ái ngại nhất là những lần phải phục vụ những người lẽ ra Nhài phải gọi bằng chú, bằng bác, nhưng họ lại cứ bắt gọi bằng anh, xưng em. Hơn thế, họ bắt Nhài ngồi cùng bàn uống bia, rượu với họ, cùng “một trăm phần trăm” với họ. Rồi không biết là họ say hay giả say để giơ tay quờ quạng ôm lấy Nhài, cấu véo vào mông, vào đùi Nhài…
Hơn hai tháng trời sống ngập ngụa trong không khí ăn chơi, tiêu tiền như ném qua cửa sổ của khách hàng bỗng một hôm Nhài nhận thấy trong người khang khác. Cô ghê mùi cơm tẻ và thỉnh thoảng lại buồn nôn. Nôn khan, ọe ra toàn nước trong. Cô rùng mình sợ hãi, nghĩ rằng mình đã có chửa. Mà Nhài có chửa thật! Cô đang ốm nghén, dẫu có cố gượng làm ra vẻ bình thường cũng không thể nào ngồi dậy được, nói gì đến đi lại.
Dưới con mắt của người phụ nữ đã có hai con, bà chủ nhà hàng “Chiều tím” chỉ cần liếc mắt qua cũng biết ngay là Nhài “bị” với thằng nào rồi. Chị ta bảo với chồng tống quái Nhài đi, dĩ nhiên sớm ngày nào hay ngày ấy.
Người đàn ông có vẻ đứng đắn, đàng hoàng, dỗ ngon, dỗ ngọt Nhài tối hôm nào bây giờ gọi cô dậy, với nét mặt lạnh như tiền, anh nói:
- Mọi chuyện xảy ra với cô trước đây tôi không cần biết. Tôi cũng không muốn nghe cô trình bày gì cả. Chúng tôi thương cô nhưng vì uy tín của cửa hàng, tôi phải xóa hợp đồng với cô, vợ tôi sẽ thanh toán công cho cô. Từ sáng mai cô không còn lý do gì để có mặt ở đây nữa.
Bà chủ “Chiều tím” rành rọt hơn:
- Tôi chỉ thanh toán những ngày cô làm, còn mấy hôm cô ốm, không phục vụ được, tôi không tính tiền ăn. Vậy là tôi đã quá tử tế với cô. Và, tôi yêu cầu cô ra khỏi nhà tôi ngay từ giờ phút này chứ không phải là đến sáng mai. Cô nghe rõ chưa?
Không ngờ họ lại đối xử tồi tệ với mình như thế này, uất nghẹn lên tận cổ, không nói được lời nào, Nhài chạy lao ra đường, bỏ mặc vợ chồng nhà hàng “Chiều tím” đang gọi đuổi theo. Nhài hòa vào dòng người, dòng xe nhằm hướng bến sông mà chạy như ma đuổi.
Đã lâu rồi, kể từ hôm rời bản Lùng Mẳng đi làm ô-sin, dịp này Nhài mới lại được sống những ngày hết sức yên tĩnh. Thời tiết đã sang thu. Dòng sông thu mình lại, nước sông xanh mát lặng lờ trôi. Gió thổi xôn xao suốt ngày. Trên bãi sông ngô đang trổ cờ. Buổi sáng, Nhài thức giấc bởi tiếng chim véo von từ đâu đó trên bầu trời, trong các lùm cây vọng tới. Cô lười nhác nằm rốn thêm chút nữa. Những lúc như thế này Nhài thường nghĩ ngợi lung tung…
Ngày đầu tiên ở với mẹ con người nuôi cá bè trên sông, Nhài đâu biết mẹ con bà quê ở bên kia sông và mới ra ở bến sông này được ba, bốn năm. Hơn ba mươi năm trước, tên bà là Thảo, từ ngày có con, theo phong tục của làng, người ta gọi bà theo tên con là Hiền. Hiền là người con trai duy nhất của bà. Sự ra đời của Hiền vừa là chỗ dựa cho bà sống đến ngày hôm nay, vừa là nguyên cớ xô đẩy cuộc đời bà qua bao nỗi cay đắng, truân chuyên.
Số là, ngày ấy Thảo vừa bước qua tuổi thiếu niên đã vội vã nhận lời yêu và đồng ý cho gia đình làm lễ cưới cho Đức, chồng Thảo, chuẩn bị lên đường đi bộ đội chống Mỹ, cứu nước. Hai người ở với nhau được mấy ngày thì anh nhập ngũ. Hơn một năm huấn luyện bên Hà Bắc, Đức được vào Nam chiến đấu. Trên đường đi B, đơn vị anh đã qua bến sông này. Trong lúc chờ đến lượt lên đò, Đức được thủ trưởng cho phép tranh thủ ghé thăm vợ. Muốn dành thời gian để vợ chồng “gặp” nhau, Đức không cho Thảo báo bố mẹ biết.
Không ngờ sau cái lần gặp gỡ chớp nhoáng ấy của hai vợ chồng Thảo đã có thai. Mặc Thảo thanh minh thế nào bố mẹ chồng cũng không tin. Ông bà khẳng định dứt khoát rằng, cô tằng tịu với một thằng nào đấy, rồi đuổi cô ra khỏi nhà.
Thảo về với bố mẹ đẻ. Cắn răng âm thầm chịu đựng búa rìu dư luận. Với cái tội danh chửa hoang, làm ảnh hưởng đến danh dự người phụ nữ “ba đảm đang”, tác động xấu đến tư tưởng người chiến sĩ ngoài mặt trận… Chi bộ đề nghị khai trừ Thảo ra khỏi Đảng, không cho sinh hoạt phụ nữ, dân quân. Đã đến nông nỗi này, Thảo chấp nhận tất cả. Cô nhẫn nhịn bám lấy cuộc sống để nuôi con với hy vọng đến ngày nước nhà thống nhất, Đức trở về cô sẽ được minh oan. Nhưng Đức không về. Anh hy sinh ở trận đánh Xuân Lộc trước cửa ngõ Sài Gòn năm bảy mươi lăm!
Mấy chục năm trời trôi qua, bố mẹ hai bên đều lần lượt qua đời. Cô Thảo ngày xưa giờ đã được người làng gọi là bà. Bà nhưng chưa có cháu, bởi Hiền vẫn chưa chịu lấy vợ…
Nhài cũng không thể ngờ số phận lại đưa cô đến gặp bà Thảo, anh Hiền. Cô đang định chết thì hai người lại cứu sống cô. Sau buổi tối nhảy xuống sông tự tử không thành, biết được hoàn cảnh của Nhài, bà Thảo càng thương Nhài hơn, không những bà không cho Nhài đi mà còn giữ lại, chăm sóc thuốc thang cho cô. Và, dẫu Nhài với bà Thảo đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm hy vọng giữ lấy cái thai trong bụng cô nhưng vẫn không thể làm được! Qua mấy cơn đau bụng dữ dội, Nhài sẩy thai. Người ta bảo “Một lần con sa bằng ba lần con đẻ”. Sức khỏe của Nhài suy sụp hẳn. Da dẻ cô tái mét. Tóc tai, mặt mũi bơ phờ, tiều tụy. Nhài phải nằm bẹp trong khoang thuyền mất mấy ngày liền.
Những lúc nhìn anh Hiền bắt cá nấu cháo, bà Thảo ngồi bón cho mình từng thìa, Nhài cảm động, nước mắt ứa ra. Cô nghẹn ngào nói: “Bà ơi, bà tốt với con quá. Sao bà và anh không để con chết đi?” Bà làm vẻ mặt giận và bảo: “Cô muốn chết lắm hả? Vậy thì để tôi nuôi cho khỏe rồi hãy chết”. Sợ Nhài hiểu lầm điều mình vừa nói, bà Thảo quay lại vỗ về khuyên nhủ: “Tuổi còn trẻ, đời con dài. Tội cái gì mà chết. Sông có khúc người có lúc. Chớ có bi quan. Cái đời tôi đây, tôi không chịu chết thì trên đời này đừng có ai dại dột nghĩ đến cái chết cả”.
Giống cánh đồng lúa qua cơn bão bị dập nát tơi bời, sau đó được hưởng khí trời và mầu mỡ trong đất, đám lúa lại từ từ gượng dậy rồi cứng cáp xanh tốt dập dìu… Qua lần sẩy thai sức khỏe của Nhài hồi phục dần. Cô bắt đầu đi lại được, má đã có màu hồng và ánh mắt long lanh sáng. Hàng ngày Nhài có thể giúp anh Hiền băm cỏ thả cho cá nuôi trong bè ăn, hay giúp bà Thảo vo gạo, thổi cơm. Mới hôm qua Nhài được đi chợ bán cá cùng với bà. Hai bà con vừa về đến thuyền bị anh Hiền quát cho một trận nên thân. Anh bảo: “Mẹ định để cô ấy chết đến lần thứ ba đấy hả? Còn cô nữa? Hai lần chết thử chưa đủ sao? Ai khiến cô đi chợ cơ chứ. Lần sau tôi thấy như vậy nữa thì… “ Anh giơ chiếc vợt cá nhứ nhứ về phía Nhài. Cô cười làm vẻ sợ hãi, ôm lấy bà Thảo buột mồm nói: “Mẹ, anh Hiền đánh con”. Tiếng “mẹ” rất tự nhiên thốt ra từ miệng Nhài làm bà Thảo lặng đi một lúc, còn anh Hiền hình như đâm ra lúng túng hai vành tai đỏ tía lên.
Ngoài 30 tuổi Hiền chưa lấy vợ. Nhài hỏi tại sao anh chỉ trả lời ngắn gọn: “Nhà tôi nghèo”. Còn bà Thảo bảo: “Anh mày là người có chí nhưng chưa làm nên. Tao bảo nó, yêu ai thì cứ lấy. Có vợ có chồng, chả ốm chả đau làm giàu mấy chốc. Mặc tao giục, nó cứ bỏ ngoài tai. Có lẽ vợ chồng là cái duyên cái số. Anh mày chưa đứng số nên chưa gặp”. “Có duyên số thật hả bà?” Nghe Nhài hỏi bà Thảo gật đầu nhìn cô. Qua ánh mắt của bà, Nhài cảm nhận được bà muốn nói điều gì với cô. Liệu cô có ngộ nhận không? Từ hôm được anh Hiền cứu sống, sự có mặt của cô trong khoang thuyền này đã làm thay đổi cuộc sống bình lặng của mẹ con bà Thảo. Có mấy lần Nhài bắt gặp cái nhìn của anh. Anh không nói mà Nhài vẫn nhận ra tất cả. Nhưng Nhài lắc đầu vì tự thấy mình không xứng đáng…
Nhài ngồi dậy soi gương, chải đầu đoạn chui ra khỏi mui thuyền. Cô giơ tay, giơ chân làm mấy động tác thể dục. Một cảm giác khoan khoái, khỏe khoắn xâm chiếm toàn bộ cơ thể Nhài. Cô đang định bê rổ cỏ để ở cuối góc bè đem cho cá ăn thì anh Hiền đã thức dậy từ lúc nào, thấy vậy anh vội can: “Cứ để đấy, Nhài mới ốm dậy đừng làm gì cả” - “Em khỏe rồi. Cũng phải cho em mó máy một tí cho đỡ buồn chân tay chứ anh”. Từ trong khoang thuyền, bà Thảo nói vọng ra: “Nhài nó khỏe thật rồi. Trưa nay anh Hiền làm bữa cơm ăn mừng nhé”. “Vâng! Con xin vâng”. Giọng anh Hiền vui vẻ hẳn lên.
Bữa cơm mừng Nhài bình phục chỉ là cái cớ, cái chính bà Thảo muốn nhân dịp này để mẹ con bà được bày tỏ tình cảm với Nhài. Hiểu ý mẹ, anh Hiền cùng Nhài đi “thị tứ” mua thêm một ít thức ăn, một số gia vị nấu với cá. Gần trưa hai người mới về đến “nhà”. Lại cùng nhau hí húi mổ cá, xào nấu món ăn. Bà Thảo đi cắt cỏ cho cá trên bãi ngô về, cơm canh vừa nấu nướng xong.
Bữa cơm được dọn ra trong gian nhà bè. Cứ tưởng là ăn tươi nhẹ nhàng, giản dị thôi nhưng khi bày lên đĩa lại hóa ra cỗ to. Ngoài hai đĩa cá rán, thịt quay còn có gà luộc, tim cật sào, rau sống và canh đầu cá nấu với khế. Anh Hiền bật nắp lon rót cho mẹ và Nhài mỗi người một cốc cô-ca-cô-la, còn anh uống rượu.
Tiếng là Nhài ở với mẹ con bà Thảo cả tuần nay nhưng đây mới là bữa cơm đầu tiên đủ 3 người cùng ăn một lúc. Vui mà không ai muốn ăn. Trong bát của bà Thảo và Nhài đầy thức ăn do anh Hiền gắp cho.
Dường như không chú ý đến bà Thảo luôn mồm giục “ăn tự nhiên đi con”, Nhài cứ ngồi chống đũa, hai mắt nhìn xuống, ngân ngấn nước. Lúc lâu sau, Nhài rưng rưng nói:
- Bà với anh tốt với con quá. Ơn nghĩa này nữa mai, sống con phải theo tết, chết con theo giỗ.
Anh Hiền nhăn mặt, xua tay:
- Thôi, thôi! Cô đừng nói chuyện ơn huệ. Gặp hoàn cảnh cô ai cũng xử sự như mẹ con tôi thôi. Chuyện nhỏ mà.
 Bà Thảo nói:
- Thế tới đây cháu định thế nào? Ở lại với mẹ con bà hay… ?
- Xin phép bà và anh, có lẽ chiều nay con về quê. Như bà biết, ở quê con còn có mẹ nuôi. Tuy con không muốn xa bà và anh nhưng trước mắt con phải về.
Trước quyết định đột ngột của Nhài, ánh mắt Hiền hơi tối lại. Ngụm rượu trong miệng anh bỗng trở nên đắng ngắt. Hiền chẳng biết nên nói với Nhài ra sao. Mấy ngày qua, được sống gần Nhài, phần nào hiểu được hoàn cảnh của Nhài, quả thật tự trong đáy lòng anh đang nảy nở một tình cảm đặc biệt dành cho người con gái đáng thương và đáng yêu này. Bây giờ Nhài đi, liệu có khi nào gặp lại? Hiền nhìn mẹ như muốn nhờ bà nói giùm hộ tình cảm của mình. Nhưng bà Thảo lại bình thản đến không ngờ:
- Điều đó tùy cháu. Ở đâu cũng phải làm phải ăn. Cứ chịu thương chịu khó thì sống được, miễn là đừng chạy theo những cái mình không có, những cái không phải của mình. Thế cháu định đi như thế nào?
- Cháu ra phố bắt ô tô khách, sau đi xe ôm. Nếu không có gì trục trặc, khoảng bảy, tám giờ tối sẽ về đến nhà.
- Thế thì được. Bà mong cháu gặp may mắn. Khi nào có tin gì vui trở lại bến sông này thăm mẹ con bà, cho bà biết với nhé.
Cơm nước xong, sợ lỡ ô tô bà Thảo giục Hiền lấy xe đạp lai Nhài ra phố. Hai người lặng lẽ đi bộ đến mặt con đê thì dừng lại. Đứng trên mặt con đê cao cao, Nhài mới có dịp phóng tầm mắt nhìn ra tứ phía. Phía sau lưng Nhài là thị xã. Cái thị xã đang phát triển, đang được đô thị hóa với một tốc độ nhanh… thế mà lại không có chỗ đứng cho Nhài. Phải chăng Nhài chọn nhầm chỗ, Nhài chạy theo cái mình không có như bà Thảo nói, nên bị nó nghiền nát quãng đời đẹp đẽ nhất của cô? Giá không gặp anh Hiền, Nhài đâu còn đến ngày hôm nay. Phía trước mặt Nhài, cô chợt nhận ra hai nhánh sông gặp nhau. Nơi hai dòng nước hợp lưu ấy, lòng “nó” phình ra rộng mênh mang. Dưới nắng trưa, nước sáng lên lấp loáng như một tấm gương khổng lồ. Hình như phía dưới hai khúc sông này, là một dòng sông đang êm đềm trôi. Mà đúng thế chứ còn hình như gì nữa. Anh Hiền bảo, nơi mẹ con anh đang nuôi cá bè là ở ngã ba sông còn dưới kia, nước đầy hơn, vạm vỡ, cường tráng hơn. Anh nói thêm, các cụ bảo, đời mỗi con người giống như một dòng sông mà trong hoàn cảnh cụ thể tôi thấy chả giống một tý nào.
Nhài ngước mắt nhìn anh. Linh tính đàn bà mách bảo cho cô biết là Hiền đang xa xôi, bóng gió trách móc cô: Cô đã gặp anh sao còn bỏ đi? Sao không như hai con sông hợp dòng kia? Không? Nhài có bỏ đi đâu. Anh Hiền ơi! Anh không nhận ra sao? Nhài đang trở về với Lùng Mẳng. Và, trở về với anh.
CÔ GÁI CÓ NỐT RUỒI SON
Cô tên là Li. Tuy sinh ở nông thôn nhưng cô lại được ông trời phú cho dáng người mảnh mai, thon thả và nước da trắng hồng. Trên khuôn mặt trái xoan nhẹ nhõm, xinh xắn của Li lại có cặp mắt đen, đôi lông mày dài và một nốt ruồi. Mà là nốt ruồi có màu đỏ như son, nhỏ bằng hạt tấm, nằm ngay ở ấn đường. Người biết xem tướng bảo, đấy là nốt ruồi chủ phú quý. Số cô sau này giàu có, khá giả, phong lưu. Chẳng biết có phải vì những lý do ấy hay vì ngay từ nhỏ Li đã tỏ ra mình là một cô gái tháo vát, khôn ngoan, lanh lợi nên so với mấy anh em trong nhà, cô được bố mẹ chiều chuộng, ưu ái hơn. Bố thường động viên Li, cố gắng học hành, lớn lên đi làm cán bộ Nhà nước chứ tạng người như Li làm ruộng thế nào được!
Đi học, Li thuộc diện có học lực khá nhưng có lẽ là học tài thi phận nên thi Đại học những hai năm liền mà vẫn trượt. Li buồn. Cả nhà buồn. Bố nói vui, sang năm cho thi lần nữa. Lần này lại không đỗ thì bố cho thi vào trường “một trăm mâm”. Thế có nghĩa là bố mẹ sẽ cho cô lấy chồng.
Giữa cái lúc đang sốt gan, sốt ruột lên vì chuyện học hành thi cử thì có người cùng làng công tác trên thị xã tìm gặp bố mẹ Li. Đó là chú Lê, nghe nói có anh em họ xa với nhà Li, về quê tìm người giúp việc. Biết Li mới thi trượt Đại học, chú muốn nói chuyện với bố mẹ cho cô ra giúp đỡ cô chú một thời gian. Chú nói: Công việc hàng ngày chủ yếu là trông em, ngoài ra, nếu có thời gian thì cơm nước, giặt giũ, lau nhà giúp cô. Thích thi Đại học nữa, cô chú sẽ tạo điều kiện cho ôn tập. Lương người ta trả mỗi tháng ba trăm ngàn, với Li, cô chú trả ba trăm rưỡi, không kể tiền ăn uống, điện nước.
Thương con ở nhà vất vả, công việc cô chú Lê nhờ xem ra chẳng nặng nhọc gì lắm, lại được tiền lương, lại có điều kiện ôn thi… bố mẹ Li đồng ý cho Li đi, nếu cô thích. Gặp riêng Li, thoáng nhìn thấy nốt ruồi son trên ấn đường của Li, chú Lê thảng thốt kêu lên:
- Ôi, cháu có nốt ruồi chủ phú quý đấy Li ạ.
Li hỏi:
- Chú Lê biết xem bói đấy à?
- Không phải là xem bói mà là xem tướng. Chú đang chiêm nghiệm. Số cháu sẽ khá. Thế nào, đồng ý ra phố bế em giúp cô chú chứ Li?
- Nếu ra phố bế em mà khá hơn ở nhà quê thì sao cháu lại không đồng ý cơ ạ!
Nhà chú Lê ở giữa phố. Đây là dãy phố mới được hình thành sau ngày tái lập tỉnh. Cái thị xã bị bỏ quên ngót ba mươi năm nay từ khi được “trả lại tên cho em”, giống như người ngủ mơ bừng tỉnh, nó vươn vai đứng dậy và hối hả đi lên. Là Phó trưởng phòng Quản lý các dự án xây dựng của thị xã, chú Lê bận tít mù suốt ngày với công việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Cô ấy cũng vậy. Là cán bộ Phòng Tài chính, cô phải lo tiền nong, dự toán, quyết toán liên miên. Bận là một chuyện. Chuyện khác, cô đang có ý đồ riêng, bởi vậy cô chú ấy mới nuôi “ô sin”, mặc dù hai vợ chồng mới có một thằng cu hai tuổi. Cô bàn với chú về quê tìm lấy một đứa nào đấy, có học một chút, sạch nước cản một chút, có hơi hướng họ mạc càng tốt. May mà Li có đủ mấy tiêu chuẩn cô yêu cầu.
Cô Lê là người có của lại thẳng tính. Cái thẳng thắn của một người giàu có nó thẳng tưng. Chả cần tế nhị, ý tứ, cô kể vanh vách cho Li nghe những chuyện không lấy gì làm hay ho của nhiều người giúp việc ở nhà nọ, nhà kia. Nào là bà A ở nhà ông B, có tính tắt mắt, táy máy; nào là cô C ở nhà bà D hút bớt sữa của em, em quấy khóc liền cho uống thuốc ngủ… Những ngữ người ấy, chủ phát hiện ra đều bị đuổi thẳng. Li ngồi nghe mà nóng hết cả mặt nhưng vẫn lễ phép:
- Thưa cô! Cô không phải xa xôi, bóng gió. Nếu cảm thấy không đủ lòng tin ở cháu thì cô cho cháu về cũng được. Không sao đâu cô ạ.
Cô Lê cười xí xóa:
- Là cô nói chuyện để cháu biết vậy chứ nhìn mặt cháu, cô tin chứ. Cháu cứ làm tốt đi. Gái có công chồng không phụ.
Li tỏ rõ thái độ:
- Cháu không đòi hỏi gì hơn ngoài những điều chú nói với bố mẹ cháu ở quê.
- Thì cứ biết thế!
Nói rồi cô đưa Li đi thăm nhà. Vừa đi cô vừa giao việc cho Li: Hàng ngày phải làm gì, làm như thế nào. Li “vâng, dạ” luôn mồm làm như mọi việc mình đều biết cả rồi. Cô Lê dặn thêm: “Đừng dấu dốt. Không biết thì phải hỏi. Nhà cô cái gì cũng đáng bạc triệu. Làm hỏng, làm vỡ cô trừ lương”. Li lại “vâng, dạ” đoạn vội vã xắn quần, xắn áo, xách nước, lấy chổi lau nhà. Lau hết phòng khách, phòng ăn đến các phòng ngủ, phòng nào cũng đều sạch bong, Li đem bộ ấm chén Nhật cáu bẩn ra bể nước. Loáng cái, Li đã cọ rửa từ cái ấm đến cái tách, cái chén, cái nào cũng trắng xanh. Xếp đặt tất cả ngay ngắn gọn gàng, đâu vào đấy xong, Li bàn với cô Lê:
- Nhà ta chắc hay có khách. Theo cháu, cắm mấy bông hoa vào chỗ này nhìn cho ấm áp cô ạ. Nhà có lọ hoa không cô?
Cô Lê đồng ý ngay còn khen Li có con mắt nghệ thuật nhưng bảo đến mai đưa tiền Li đi mua, thấy cần gì trang trí cho phòng đẹp, sang trọng thì cứ mua. Lúc bấy giờ chú Lê cũng có mặt ở đấy, đợi Li đi ra ngoài, chú nói nhỏ với vợ:
- Con bé xem ra được đấy. Em nên cho nó mấy cái quần áo cũ của em. Anh thấy hình như nó chỉ có hai bộ.
Ngay từ buổi đầu Li ra mắt đã chiếm được tình cảm của cô chú Lê như vậy.
Nghe theo gợi ý của chồng, vài hôm sau cô Lê mở tủ lôi ra mấy bộ quần áo cô may từ thời con gái, đã lỗi mốt, đưa cho Li. Không ngờ Li chỉ cảm ơn chứ không chịu nhận. Cô làm vẻ mặt giận, mắng:
- Gớm, con bé này khái tính, “sĩ” quá nhỉ! Ăn mày còn đòi xôi gấc kia đấy.
Li thanh minh:
- Không phải thế. Tại vì cháu có đi đâu mà cần ăn diện cơ ạ.
- Được rồi. Cứ biết thế.
“Cứ biết thế” là câu nói cửa miệng của cô Lê. Điều gì chưa thật tin, cô đều nói vậy. Không chỉ nói mà cô còn bày ra khối trò để thử thách. Li biết tỏng. Li đâu phải hạng người lèm nhèm. Đi chợ về còn thừa tiền, Li đưa trả cô, nhặt được tiền cô “đánh rơi” trong nhà, Li đưa lại cô. Mua bất cứ thứ gì Li cũng mặc cả từng đồng, từng hào chứ không bao giờ mua ào ào, mua lấy được như cô. Mấy lần đang giờ hành chính, cô phóng xe về, cách nhà năm chục mét, cô tắt máy, lặng lẽ đứng ngoài cửa sổ, bí mật xem Li chăm sóc, ru rín thằng bé ra sao… không thể chê Li vào một điểm nào, nghe chú Lê khen, cô vẫn bảo: “Cứ biết thế”.
Đúng như thỏa thuận, tháng công đầu tiên cô chú Lê đưa cho Li ba trăm năm mươi ngàn đồng. Chú gợi ý, Li nên gửi về cho bố mẹ ở quê một nửa. Li thưa, cháu muốn dùng số tiền này may đo thêm một, hai bộ quần áo mới. Li nói rõ thêm:
- Nhà cô chú đông khách, cháu ăn mặc lôi thôi, lếch thếch lại chả mang tiếng cô chú sao?
Chịu cái lý của Li, chú Lê cười:
- Tùy cháu quyết định. Đấy là tiền, là quyền của cháu.
Nhà cô chú Lê nhiều khách thật. Mỗi khi nhà có khách, Li lại được chú sai pha trà, rót nước, gọt hoa quả, lấy bánh kẹo ra mời khách, sau đó thì lui vào phòng trong. Ngồi ở trong phòng ấy tình cờ Li nghe lỏm được vô khối chuyện của khách với cô chú Lê. Thì ra, dẫu không muốn giữ chức vụ to tát nhưng một người làm tham mưu duyệt đề án, một người đề xuất cấp phát tiền nên cô chú ấy vẫn là những nhân vật quan trọng và có nhiều tiền của lắm. Sao ông trời ăn ở không công bằng? Cùng là người mà sao bố mẹ Li, bản thân Li lại nghèo thế? Li có nốt ruồi chủ phú quý như nhiều người bảo, sao không có tiền? Li tự hỏi và nhiều lúc tủi thân cô vùi mặt trên tấm gối, âm thầm khóc. Khóc chán, Li thấy đầu óc, tinh thần nhẹ nhõm, khoan khoái hẳn ra. Li nghĩ, đi làm “ô sin” không còn cơ hội thi Đại học nữa thì mình phải cố làm tốt phận sự của người giúp việc. Biết đâu khi thằng cu đến tuổi vào nhà trẻ Hoa Hồng, cô chú Lê lại chả xin việc làm gì đấy cho mình, như có lần cô nói, không biết là thật hay đùa.
Vốn là cô gái ngoan ngoãn, sáng việc, càng ở nhà cô chú Lê, Li càng khôn ra. Khôn và ngoan và xinh nữa. Cô chú ấy cũng phải công nhận như vậy. Khoảng một năm sau thì mối quan hệ giữa chủ nhà và người giúp việc hình như không còn nữa. Cô chú Lê coi Li như con cháu trong nhà. Ngày lễ, thứ bảy, chủ nhật đi du lịch, đi pícníc, đi vãn cảnh thắp hương ở các đền chùa… cô chú ấy đều cho Li đi cùng. Bế thằng cu chỉ là cái cớ, cái chính là cô chú muốn khoe với mọi người mình có cô “ôsin” vừa xinh, vừa ngoan; mình nhân hậu, mình quý “ôsin” như con, như cháu. Biết thế nhưng Li không bao giờ lạm dụng để đi quá giới hạn và bổn phận của người giúp việc. Vì vậy, Li càng được cô chú Lê, nhất là cô, yêu quý hơn.
Một lần, Li được cô chú Lê cho đi Sầm Sơn nghỉ mát với cả nhà. Cùng đi có bà An. Bà là khách mời đặc biệt của cô chú ấy. Cô Lê nói qua cho Li biết, bà An là cô giáo dạy cô những năm cô theo học cấp hai. Hiện bà là vợ ông Chủ tịch thị xã này. Lâu nay hai gia đình vẫn quý nhau, đi lại với nhau thân tình còn hơn cả ruột thịt. Buổi sáng, cả nhà ra bãi biển tắm nắng. Nhìn Li mặc bộ quần áo tắm màu đỏ, nằm nghiêng trên bãi cát, mặc cho sóng biển từng đợt, từng đợt trườn qua cái thân hình óng ả, trắng mịn đến nõn nà, không giấu nổi tình cảm của mình, bà An thốt lên:
- Các cụ bảo, nhất dáng nhì da. Cô bé này được cả hai. Anh nào có phúc thì lấy được nó.
Dường như chỉ đợi bà An nói thế, cô Lê sắng bảo:
- Nếu bà trẻ thuận thì lấy cho cậu Thi nhà ta. Vợ chồng con thu xếp thế nào cũng xong.
Bà An buồn rầu:
- Chắc gì nó đồng ý. Cô đã hỏi cho em nó mấy đám rồi nhưng không cô nào chịu nhận lời.
- Những đám nào con không biết, với cháu Li, đồng ý hay không đồng ý là tùy thuộc vào ông bà trẻ với cậu Thi. Li nó ngoan lắm. Bảo đảm với bà trẻ, con bảo cháu nó được ạ.
- Được vậy thì còn gì bằng. Thế Lê giúp đỡ em Thi, với vợ chồng tôi thật nhé.
Thoạt đầu Li cứ tưởng bà An với cô Lê nói chuyện về ai, khi biết hai người đang nói về mình, cô lúng túng ngồi nhỏm dậy, vác phao bơi, xăm xăm lao xuống nước. Mặt Li nóng ran lên. Bỗng nhiên cô nhớ đến anh Tư. Thi trượt Đại học như Li, Tư liền đi rửa xe thuê cho một ông chủ, nhà cách nhà cô chú Lê mấy trăm mét. Đã có mấy lần anh ấy cọ rửa xe, sửa xe cho Li mà không chịu lấy tiền công. Anh còn rủ Li tối nào hai đứa đi ăn chè bưởi, do anh chiêu đãi, nhưng Li chưa dám nhận lời.
Ở Sầm Sơn về, vẻ phấn khởi ra mặt, cô Lê nói với chú:
- Con bé Li lọt vào mắt bà An rồi. Theo em, đã đến lúc dùng Li vào việc khác. Đây là cơ hội tốt nhất cho anh trước khi đặt vấn đề với ông An đưa anh lên ngồi ghế trưởng phòng - thấy chồng ngồi im, cô Lê nói thêm - thời buổi bây giờ mọi người đều thiên về quan hệ. Mình không có mối quan hệ thân thiết như gia đình với lãnh đạo cấp trên thì cháo chưa chắc có mà húp nói gì đến thăng quan tiến chức.
Chú Lê bảo, dùng Li vào “việc” ấy chú có hai điều băn khoăn. Một là, lương tâm cắn dứt. Mình sức tài vai rộng thế này sao phải lợi dụng một con “ô- sin” mới có chức, có quyền? Hai là, chắc gì cái Li đồng ý. Thằng Thi con ông Chủ tịch thị xã chứ có là con ông Chủ tịch tỉnh, Chủ tịch nước khi biết anh chồng tương lai của mình thế nó cũng đấm thèm vào…
- “Thèm” vào chứ có ai “thèm” ra đâu - cô Lê nhại lại, rồi quả quyết: Em nói nghiêm túc đấy. Việc con Li đồng ý hay không anh để em lo, miễn là anh không được bàn ra. Còn chuyện lương tâm - Cô bĩu môi - Lúc này mà anh còn nói chuyện lương tâm thì lạ thật. Anh là người của thế kỷ mười chín sót lại hay sao thế? Em nuôi nó là có mục đích của em. Anh đừng có phá thối.
Bị vợ dồn cho một chập, chú Lê ngồi ngây mặt, cười méo mó:
- Tùy em. Mà này, cái Li lấy chồng, tìm đâu được con “ôsin” như nó?
- Tiền tìm. Có tiền mua tiên cũng được. Anh quên rồi sao?
Cơm nước buổi tối xong, thu dọn bát đũa, bếp núc xong, Li tranh thủ ra bãi rửa xe biếu anh Tư mấy con mực khô gọi là quà đi biển về, vừa bước vào nhà thì cô Lê gọi ra phòng khách uống nước. Cô bảo, tối nay cô có chuyện quan trọng muốn nói với Li. Tưởng chuyện gì hóa ra cô gợi ý Li lấy chồng. Li bật cười vô tư:
- Lấy ai hả cô? Cháu nghèo rớt mùng tơi thế này thì ai người ta thèm lấy cơ ạ?
- Cháu nhớ bà An hôm đi Sầm Sơn không? Cháu sẽ về làm dâu bà ấy.
- Ôi thôi! Cô cứ nói đùa cháu! Cháu lấy con trai ông Chủ tịch thị xã thế nào được kia ạ? Cô đừng đùa vậy làm cháu tủi thân. Cháu biết mình ở đâu chứ cô!
- Cháu đang ở nhà cô. Cô không đùa đâu. Chuyện hạnh phúc trăm năm của cháu sao cô lại dám nói đùa. Chỉ có điều là…
Sau giấy lát đắn đo, cô Lê nói toạc ra rằng, chỉ có điều, anh con trai ông Chủ tịch là một người tàn tật. Do đua xe máy cậu ta bị tai nạn, phải tháo mất cả hai khớp đùi. Hai, ba năm nay phải đi lại bằng xe lăn nhưng Thi vẫn khỏe mạnh, điển trai lắm… Cô nói tiếp:
- Cô tính rồi, cháu lấy Thi thì chả khác gì chuột sa chĩnh gạo. Không chỉ cháu được ăn sung mặc sướng rồi bố mẹ, anh em của cháu ở quê cũng được nhờ.
Ngồi nghe cô Lê thẽ thọt, nhỏ to Li không nói gì, chỉ thút thít khóc. Không ngờ số phận lại đưa đẩy Li đến bến bờ này! Nếu lấy Thi, một chàng trai Li chưa biết mặt, lại tật nguyền nhưng là con nhà có chức, có quyền có thể Li sẽ được đổi đời, được sung sướng như cô Lê nói. Nhưng lấy Thi chắc chắn Li bị mang tiếng là con bé ham giàu, tham vàng bỏ ngãi, cho dù Li chưa hứa hẹn với anh Tư. Mà chắc gì bố mẹ Li ở quê đồng ý?
Lòng dạ Li đang rối bời như mớ bòng bong thì dường như đọc được hết ý nghĩ của Li, cô Lê vừa vỗ về an ủi, vừa phân tích, bênh vực cho Li:
- Đừng ngại gì cả cháu ạ. Trước khi đồng ý cho ông bà An có lễ ăn hỏi, cô sẽ “thông tin” đến mọi người biết, hai đứa chúng mày yêu nhau từ ngày Thi chưa bị tai nạn. Như vậy về vật chất, cháu được hưởng nhé; về tinh thần, cháu được tiếng thơm, là cô gái có thủy, có chung nhé. Còn không lấy Thi, cháu định làm gì? Bằng cấp không, tiền xin việc không. Thế cháu định đi làm người ở suốt đời sao? Mà cô nghe chú bảo, cái nốt ruồi son trên trán cháu đây là nốt ruồi chủ phú quý… Thế thì đúng là đến lúc cháu làm bà chủ rồi. Nhà ông bà An giàu có lắm cháu ạ. Mấy miếng đất mặt đường A này, ngoài hai ba cơ ngơi còn có trang trại này, có tiền gửi ngân hàng nước ngoài này. Số cháu phải về đấy mà làm bà chủ chứ. Ông bà ấy có mỗi một quý tử là cậu Thi thôi.
Lúc lâu sau, Li ngẩng đầu, mặt đẫm nước mắt ngước nhìn cô Lê như nhìn một ân nhân:
- Xin cô cho cháu về quê hỏi ý kiến bố mẹ cháu đã. Có sao cháu sẽ lên thưa lại với cô chú sau.
- Li thấy cô chú nói đúng không?
Li tỏ vẻ ngơ ngác:
- Đúng cái gì kia ạ?
- Lại còn hỏi cái gì? Cái nốt ruồi son của cháu kia kìa.
Ôi, cái nốt ruồi son! Chả có lẽ cái nốt ruồi này lại đem đến cho Li nhiều quyền lực, nhiều niềm vui đến thế sao? Dẫu chỉ là nhân viên nhưng biết Li là con dâu ông Chủ tịch thị nên hầu như ai cũng nể trọng, nhất là những khi họ có công chuyện gì đó muốn thông qua Li, báo cáo lại với ông, mong ông tạo điều kiện giúp đỡ. Ý thức được điều này, Li cảm nhận thấy mình là nhân vật quan trọng hẳn lên. Niềm kiêu hãnh xóa dần đi trong Li những mặc cảm hèn mọn. Cô càng tự tin hơn trong đời sống thường nhật, đặc biệt là mỗi khi giao tiếp với khách của bố mẹ chồng.
Nhà ông Chủ tịch lắm khách thật kia. Nếu nhà cô chú Lê đông một thì nhà ông phải gấp mười. Đủ các loại khách, từ thường dân đến trưởng, phó các ban ngành thị nhưng xuất hiện nhiều nhất vẫn là giám đốc các công ty trách nhiệm hữu hạn có, Nhà nước có, liên doanh có… Mỗi lần nhà có khách, ông bà An lại gọi Li ra tiếp. Li biết, bố mẹ chồng làm thế vừa là dịp để cô có dịp giao tiếp với khách, vừa ngầm giới thiệu với người ta: Nhà tôi có phúc (chứ không vô phúc như thiên hạ rủa) nên dù con trai bị tàn tật vẫn lấy được vợ đẹp người, đẹp nết. Nhìn dáng người óng ả, thon thả với đôi mắt sáng long lanh, cặp má phớt hồng và đôi môi đỏ chúm chím cười duyên của Li, không ít người buột mồm khen: “Ông bà có cô con dâu xinh xắn, phúc hậu quá”… Ngồi nói dăm ba câu chuyện cho phải phép xã giao, ông An cáo lỗi mệt hoặc bận việc rồi đi vào phòng trong, việc tiếp khách ông giao lại tất cả cho vợ con. Đấy là cái cách ứng xử tế nhị của ông mà sau này Li mới nhận thức ra: Ông không muốn có mặt khi khách đưa quà biếu bằng phong bì. Bởi vậy, mỗi khi nhận quà của ai đó, Li đều nhã nhặn nói: “Cháu cám ơn. Xin chú (cô) yên tâm. Cháu sẽ thưa lại đầy đủ với bố cháu ạ”.
Cứ thế, vị thế của Li ở trong nhà ông Chủ tịch thị xem ra ngày càng được nâng cao. Điều đó khiến cô càng tin vào nốt ruồi son trên ấn đường của mình đã đem lại cho mình quá nhiều may mắn. Đây là số phận chứ đâu phải chuyện duy tâm như chú Lê có lần nói. Giá như Thi, chồng cô, đừng tàn tật thì chuyện đời Li quá ư hoàn hảo. Nhưng Thi lại như vậy. Cái anh chàng bị cụt mất hai chân, mất cả… chỉ có thể vày vò Li, kích thích sự ham muốn của Li chứ không còn khả năng đem lại cho Li thỏa mãn về xác thịt, nói gì đến có con! Những lúc nằm bên chồng, Li lại nhớ đến Tư. Đã có mấy lần Tư thổ lộ tình cảm với Li, ôm ghì lấy Li và đòi hôn cô ngay trong Văn phòng Ủy ban. Li từ chối mặc dù trong lòng dấy lên bao khát vọng thèm muốn. Chao ôi, từ ngày lấy chồng, chung đụng với chồng, Li mới thấu hiểu thế nào là “đồng sàng dị mộng”. Muốn thoát ra khỏi cái bi kịch này để được như con chim sổ lồng, Li bàn với chồng xin phép bố mẹ ra ở riêng với cái lý tập ăn, tập lo. Không hiểu sao, Thi không đồng ý. Mà ông bà An cũng không cho phép.
Giữa cái lúc chẳng còn hy vọng gì để được tự do đi lại thì, đùng một cái, ông bà An giục vợ chồng Li ra ăn riêng, dĩ nhiên càng sớm càng tốt. Ông An giải thích, sắp tới theo quy định của trên, ông thuộc diện phải kê khai tài sản. Không tách khẩu, ông sẽ không giải trình nổi về tài sản của gia đình đang thuộc quyền sở hữu của ông. Thế là vợ chồng Li có hẳn một ngôi nhà ba tầng với đầy đủ trang thiết bị nội, ngoại thất loại “xịn”, tọa lạc bên vườn hoa thị xã. Một lần nữa số phận lại mỉm cười với Li. Cô vừa được tự do lo liệu, vừa được ông bà An coi như một “quý nhân phù trợ”.
Ở riêng, Li thuê ngay một bà già ngót sáu mươi tuổi đến giúp việc và trông nom, chăm sóc chồng. Có “ôsin”, Li rảnh tay lo giải quyết một loạt các công việc khác nhau: Vào Trại Sơn thăm bố. Cô thông báo cho bố biết, trang ấp này tương lai sẽ là của cô. Vì vậy đề nghị bố đầu tư chất xám, lo làm kinh tế trang trại giúp cô, rồi đến các Công ty có anh em đang làm hợp đồng xin chuyển sang các cơ quan Nhà nước, nếu không thì vào làm với các liên doanh nước ngoài; gặp Tư, Li động viên khích lệ anh phải xin đi học hàm thụ Đại học tại chức. Thiếu tiền, cô tài trợ thêm… Miệng nói, tay làm. Li đề ra, Li tổ chức thực hiện. Vào “cửa” nào Li cũng lấy chức sắc của bố chồng ra bóng gió đe dọa. Dọa không xong, Li lấy phong bì ra thỏa thuận với người ta. Với cách thức ấy, mọi việc Li định làm đều xong. Mà xong một cách suôn sẻ và chóng vánh. Cứ tưởng như có bàn tay của tạo hóa xếp đặt!
Được đà, khát vọng làm giàu và ham mê quyền lực càng bùng cháy lên trong Li. Sau khi tham mưu và được bố chồng khen làm thế là thông minh, Li tìm mọi cách tế nhị “thông tin” cho thiên hạ biết, cô được ông An ủy quyền việc tiếp khách tại nhà riêng. Được tin, người ta đến với vợ chông Li mỗi ngày một đông. Vì ai cũng nghĩ, Li làm “môi giới” cho ông Chủ tịch là khép kín một quy trình “làm ăn” của ông, vừa kín đáo, vừa hiệu quả. Nhờ thế, ông bà An và vợ chồng Li tha hồ thu hái lộc. Tạo chữ “tín” cho con dâu, hầu như ông An chưa từ chối giải quyết một trường hợp nào do Li báo cáo, trừ vụ việc của vợ chồng Lê mới đây. Bởi ông biết, lợi dụng sự thân quen với vợ con ông, tay Lê đã qua mắt ông nhiều chuyện, lâu nay lại không thấy “hương bái” gì, bây giờ “sắp chết đến nơi” hắn ta mới cầu cứu đến ông, ông phải cho nó một bài học. Ông An bắn tin qua con dâu nhằm rung cây dọa khỉ: “Việc này đã ngoài tầm tay của tôi. Có thể các cơ quan chức năng họ sẽ chuyển lên thanh tra tỉnh xem xét”.
Nhận điện Li báo: “Việc cô chú nhờ, bố cháu bảo không can thiệp được”, vợ chồng Lê tái mặt, tức tốc phóng ngay đến nhà Li. Từ ngày Li lấy chồng, mối quan hệ giữa cô chú Lê với Li hoàn toàn bình đẳng. Lúc này họ đối xử như những người ăn ở biết “luật” và biết điều với nhau. Vì thế, đặt gói quà xuống trước mặt Li, cô Lê rưng rưng nói:
- Một lần nữa cô chú nhờ Li báo cáo lại với ông cụ, mong cụ nói với thanh tra một câu, cháu mà không giúp, cho khéo chú Lê phải đi tù mất.
Đẩy gói quà mà Li biết chắc trong đó có phong bì, ba ngàn đô sang một bên, Li nhăn nhó:
- Khổ quá! Việc của cô chú cháu đã thưa với bố cháu hai, ba lần rồi nhưng ông cụ cứ bảo hồ sơ người ta đã đưa lên thanh tra tỉnh. Bỗng Li thở dài, trách móc - Mà chú tham quá cơ. Có rút ruột công trình thì rút in ít thôi, đằng này chú rút nhiều thế thì bố ai mà cứu được.
Chú Lê làm ra vẻ thân tình và cười méo mó:
- Li giúp được. Cái nốt ruồi chủ phú quý của cháu giúp được, nếu cháu không từ chối.
Cô Lê khẩn cầu thêm:
- Giúp cô chú đi Li. Qua khỏi cái hạn này, cô chú không bao giờ quên ơn cháu đâu.
Thấy cô chú Lê nằn nì lại có quà cáp tử tế, Li đút gói quà vào tủ rồi nói:
- Thôi được rồi! Nể cô chú quá, cháu gọi điện xin ý kiến bố cháu. Ông cụ đồng ý, cô chú sang bên ấy trình bày trực tiếp nhé.
- Li có đi cùng cô chú được không?
- Rất tiếc là không. Cháu rất bận. Tối nay cháu có hẹn.
Nói đoạn, Li lấy chiếc máy điện thoại di động Nokia loại đắt tiền trong túi ra, với động tác thành thạo, vừa bấm bấm máy, vừa đi ra ban công, vừa a-lô… Lát sau, Li trở vào bảo và giục rối rít:
- Ông cụ đang có nhà. Cụ đang rỗi. Cô chú sang ngay đi kẻo mất mất cơ hội.
Cô chú Lê vừa phóng xe đi khuất sau rặng cây ô-rô phía ngoài cổng thì, đúng giờ hẹn, Tư đến. Đây là lần thứ ba Tư đến nhà theo lời hẹn của Li. Anh chàng rửa xe thuê nay đang theo học tại chức Trường Đại học Kinh tế quốc dân nhìn cao to, đẹp trai lồng lộng. Vừa bước chân vào căn phòng sang trọng và mát lẹm, nhìn trước nhìn sau không thấy ai, Tư ôm ngay lấy Li. Hai cặp môi lập tức gắn vào nhau chặt đến nghẹt thở. Đá quá quen với cái tính vội vàng, tham lam của Tư nhưng lần này Li chưa chiều vội. Đẩy Tư ra, cô hỏi:
- Ơ kìa! Anh không biết sợ sao? Chồng em và người giúp việc đang ở trên tầng ba ấy.
Tư nói:
- Kệ! Em là con dâu ông Chủ tịch thì việc gì anh phải sợ. Vả lại, có biết chuyện của chúng mình, ông bà ấy cũng không dám nói với ai đâu mà em lo.
Dứt lời, anh ta sấn tới ghì riết lấy tấm thân nõn nà, chắc nịch và nóng rực của Li. Li hổn hển:
- Đóng cửa vào đã anh.
Tư như bừng tỉnh. Buông Li ra, anh ta hấp tấp làm theo việc Li nhắc. Đúng lúc ấy tiếng nhạc từ chiếc Nokia rung lên. Li cầm máy nghe và trả lời:
- Thưa mẹ! Con đang bận tắm cho nhà con ạ. Việc cô chú Lê con nhờ bố nhận lời chạy giúp rồi phải không ạ? Thế thì may cho cô chú ấy quá. Phong bì của cô chú Lê gửi, con nhận đủ rồi mẹ ạ. Vâng, vâng! Con cám ơn bố mẹ nhiều. Con chào mẹ.
Quẳng máy điện thoại xuống giường, Li giang cả hay cánh tay trần ngà ngọc của mình ra đón Tư đang nhào tới.
BẠN CŨ 
Tôi vừa đi làm về đến cổng, đứa cháu nội của tôi đang chơi ở ngoài sân vội chạy phóng ra, khoe: “Ông ơi, nhà ta hôm nay có khách”. Tôi chưa kịp hỏi khách là ai thì trước khung cửa sắt đã xuất hiện một người đàn ông. Ông ta khoảng ngoài sáu mươi tuổi, tóc muối tiêu, dáng người nhỏ thó, ăn mặc xoàng xĩnh. Nét mặt khắc khổ nhìn rất quen nhưng tôi chịu không nhớ nổi tên. Tôi “a” lên một tiếng làm ra vẻ mừng rỡ cũng đúng lúc ông ta nói gần như reo: “Chào sếp! Sếp rời công sở muộn thế?” Hai chúng tôi nhào tới bắt tay nhau, đoạn ông ta ôm chầm lấy tôi, vỗ vỗ vào lưng tôi. Vừa làm những động tác hết sức thân mật, suồng sã như thế, ông ta vừa nói to: “Lâu quá anh em mới có dịp gặp nhau. Tối nay xin sếp bữa cơm và có việc nhờ sếp giúp một tay đây”. Tôi ậm ừ vâng dạ cho qua chuyện và cầm tay ông đi vào nhà.
Đã ngồi đối diện với ông trên bộ bàn ghế sa lông nan, rót mời ông chén nước mà tôi vẫn chịu không nhớ ra tên ông, mặc dù nhìn ông rất quen. Tôi lựa lời hỏi:
- Bác mới ở quê lên hả? Chắc nhà ta có ai đi viện?
Tôi phỏng đoán vậy vì nhà tôi ở gần Bệnh viện đa khoa tỉnh, ngoài anh em họ mạc, còn có bà con ở quê, nếu nhà nào có người đi viện họ thường hỏi thăm đến để nếu không mượn cái ấm, cái phích thì cũng xin tắm gội, giặt giũ nhờ, hoặc xin ngoại trú một vài hôm. Cái việc luôn bị người khác gây phiền hà này, lúc đầu vợ con tôi có vẻ khó chịu nhưng lâu dần thành quen. Vả lại, toàn anh em phi nội tắc ngoại, họ có gặp khó khăn mới cần đến sự giúp đỡ của mình. Mình mà từ chối, mà tỏ thái độ lạnh nhạt thì đừng có vác mặt về quê nữa. Về, người ta lấy xẻng xúc dấu chân đổ đi. Với ý thức như vậy cho nên bất luận thân hay sơ, hễ ai là người cùng làng tìm đến, nhờ vả hay không nhờ vả, đều được tôi và vợ con tôi đón tiếp chân tình. Nhưng còn ông khách nhìn rất quen này là ai?
Có lẽ không quan tâm đến điều băn khoăn của tôi, ông khách vẫn vô tư, tự nhiên như người nhà:
- Không! Nhà mình không có ai phải đi viện cả. Mình lên tìm gặp chú là vì việc khác. Một việc nằm trong tầm tay của chú.
Từ gọi tôi là “sếp” như vừa tôn sùng, vừa giễu cợt lại chuyển sang gọi “chú mày” như vừa trịch thượng, vừa thân mật. Sao ông ta nói năng, xưng hô lung tung thế? Thầm hỏi vậy và tôi đã thấy hơi khó chịu. Toan đánh bài ngồi im để tỏ thái độ không hài lòng của mình thì vợ tôi đi chợ về. Đặt cái làn mua thức ăn xuống nền nhà, vợ tôi giới thiệu:
- Bác Năm, chồng cô Dung, trước dạy cùng em ở cấp 2 đấy, anh còn nhớ không?
“Ồ, tưởng ai hóa ra là ông Năm, chồng cô giáo Dung, tôi nhớ ra rồi”. Tôi reo thầm ở trong đầu, còn ông Năm lại nói:
- Cô giáo làm động tác hơi bị thừa rồi. Anh em quên nhau thế nào được, phải không sếp?
Tôi gật đầu, ngượng ngùng công nhận “phải, phải” và thú thật:
- Có điều bác thay đổi nhiều quá nên lúc đầu em cứ ngờ ngợ.
Vợ tôi tay xách làn, miệng bảo:
- Thôi, hai anh em uống nước. Em nấu ù một lúc để ăn cơm kẻo muộn.
Tôi nhắc thêm:
- Kiếm cái gì cho hai anh em nhậu lai rai một chút nhé.
Ông Năm vội xua tay: “Khỏi! Khỏi! Vẽ vời kích rích. Có sẵn rượu ta làm một chén “xếch” cho ấm bụng”.
Tôi mở tủ lấy ra hũ rượu ngâm thuốc bắc, rót đưa ông một ly, tôi một ly. Sau khi chạm ly một cái “cạch”, ông Năm ngửa cổ uống cạn một trăm phần trăm, rồi khà một tiếng. Nhìn cái cách uống rượu ấy của ông tôi bỗng nhớ lại những chuyện hơn mười năm về trước.
Dạo ấy vợ tôi và vợ ông cùng dạy một trường. Chúng tôi chưa ai có nhà riêng. Mỗi cô giáo được nhà trường bố trí cho ở một gian trong khu tập thể. Đấy là tổ ấm và là chỗ đi về của tôi và Năm. Tôi công tác phòng Văn hóa huyện, Năm nghe nói trước là giáo viên sau chuyển sang làm cán bộ ở Sở Văn hóa chuyên về chụp ảnh. Cùng là “dân” văn hóa, hai “nhà” lại sát vách nhau nên thường chủ nhật nào về với vợ con chúng tôi cũng chén chú chén anh với nhau, tuy không cơm gà cá gỡ nhưng là tửu lạc vong bần, chuyện trò với nhau cứ vui như tết. Một thời gian sau, mỗi lần về vẫn thấy anh ở lì ở nhà, hỏi anh sao không đi làm, anh bảo: “Chú mày còn lạ gì. Nhà nước xóa bao cấp. Các cơ quan co bé lại. Từ hai bộ phận chiếu bóng và chụp ảnh, Sở gộp lại thành một “Công ty chiếu chụp”. Anh thuộc diện quân số dôi ra bị người ta cho về một cục. Về thì về chứ tao cần quái gì. Cần câu cơm của anh mày là cái này này”. Anh vỗ bồm bộp vào chiếc máy ảnh đeo lủng lẳng trước ngực.
Vợ tôi cho tôi biết thêm, dạo mới thôi việc ở cơ quan, anh khoác máy ảnh, đạp xe đi lang thang khắp trong làng ngoài xã. Đi đến đâu anh cũng “gạ” người ta chụp ảnh. Ai trả bao nhiêu tiền một kiểu anh đều xong. Ai không trả anh vẫn vui. Ai mời anh một, hai chén rượu trừ vào tiền ảnh, anh cũng không có “ý kiến” gì. Anh ấy sống nghệ sĩ lắm. Ấy là vợ tôi và mọi người bảo thế.
Anh Năm có bốn đứa con, ba trai, một gái, chúng nó đều choai choai kiểu trứng gà trứng vịt. Chị em giáo viên trong trường thì thầm với nhau rằng, thằng con đầu lòng của anh là con của người khác. Số là anh tìm hiểu, yêu rồi cưới cô chị nhưng hôm đón dâu nhà gái lại gả cho anh cô em. Cô này, tức là cô giáo Dung đấy, xinh đẹp hơn chị, duyên dáng hơn chị nhưng lại có chửa với một người đã có vợ, có con… chuyện này không rõ anh Năm có biết không, hay biết mà anh im lặng cho qua? Cái tính nghệ sĩ của anh lạ lắm. Anh chỉ quan tâm đến những chuyện trên trời, dưới biển. Anh sẵn sàng giúp đỡ mọi người công nọ, việc kia và anh luôn lấy thế làm vui. Còn chuyện vợ con, cơm áo, gạo tiền anh cho là chuyện vặt.
Còn nhớ hồi tôi được điều lên tỉnh công tác, trước hôm chia tay, anh Năm ngồi nói chuyện với tôi rất khuya. Ôi chao, có ngồi tâm sự mới biết anh Năm là một người giao thiệp rộng. Các vị quan chức ở tỉnh, từ Giám đốc Sở đến Chủ tịch, Bí thư tỉnh, ai anh cũng biết, ai anh cũng quen. Ông nào anh cũng kể vanh vách về lý lịch, về cá tính của họ. Nghe anh nói tôi đâm ra nể anh quá. Tiếc là sao hiểu anh quá chậm. Giá hiểu anh sớm hơn, biết đâu tôi lại chả nhờ vả anh được một việc gì đấy.
Anh hỏi tôi:
- Chú lên tỉnh là về chỗ thằng Hữu chứ gì - Tôi chưa kịp trả lời, anh lại nói – Thằng này là bạn bè chiến hữu của anh, từng đi vẽ phông cảnh cho đoàn chèo của tỉnh với anh. Nó vô học nhưng được cái tốt bụng. Nó mà không dính chuyện gái gú, chắc phải ngoi lên đến hàng Phó Giám đốc Sở. Gặp nó, chú cho anh hỏi thăm nhá.
Tôi lắc đầu bảo là, tôi không về đoàn văn công mà là làm lính Văn phòng Sở.
- À, thế thì làm lính thằng Quảng rồi. Thằng này là học trò của anh. Tốt nghiệp Đại học nó về làm thư ký cho ông Kiểm, Phó Chủ tịch tỉnh. Bây giờ nó làm Giám đốc Sở. Cha này chẳng có tài cán gì đâu. Nó lên được chẳng qua là sống lâu thì lên lão làng. Được! Hôm nào lên tỉnh, anh vào chơi sẽ bảo nó phải quan tâm đến chú mày.
Tôi lên tỉnh công tác đã được hơn mười năm, nghĩa là tôi xa anh Năm từng ấy năm trời rồi. Thời gian ấy không thấy anh lên tỉnh chơi lần nào, hay là lên mà tôi không gặp? Còn tôi vì mải mê với công việc của một công chức và bươn chải trong cuộc sống đời thường nên chả mấy khi nhớ đến anh, tệ hơn, quên bẵng mất anh. Thế là một lẽ; lẽ khác, anh thay đổi quá nhiều. Trước anh nho nhã, thư sinh, không đẹp giai nhưng ưa nhìn; nay anh cóc cáy, già nua, lại có nét gì như người chán chường và mệt mỏi. Vì vậy phải đợi đến lúc vợ tôi nhắc anh là chồng cô Dung, tôi mới nhận ra anh, âu cũng là điều dễ hiểu…
Hai chúng tôi cụng ly rượu “xếch” đến lần thứ ba thì vợ tôi lễ mễ bưng mâm ra đặt lên bàn, đoạn xoa xoa hai bàn tay vào nhau và có lời:
- Lâu lắm rồi anh em mới có dịp gặp lại nhau. Mời bác uống với nhà em chén rượu nhạt.
Ông Năm cảm ơn rồi nói: “Thế các cháu đâu cả”? Tôi bảo: Hai thằng con trai lớn đều lấy vợ, đều đã có con và đều ở riêng. Còn cô út đang theo học dưới Hà Nội. Thời buổi bây giờ không anh chị nào muốn ở chung với bố mẹ. Cháu gái đây là con đầu của thằng bố cả. Bố mẹ nó cho ở với ông bà, cho ông bà vui.
Ông Năm khen, vợ chồng tôi thế là sướng. Tôi nói, đời biết sướng là sướng, biết đủ là đủ, chứ tham vọng của con người thật là vô cùng, đoạn quay sang hỏi:
- Thế cô giáo với các cháu nhà bác…
Không đợi tôi nói hết câu, ông Năm khề khà, vẻ đầy tự mãn:
- Cô giáo hưu một năm nay rồi. Thằng Long, thằng Li học hết cấp 2 đều ở nhà làm nghề “ba toa”. Hai thằng này đều đã có vợ, có con. Tôi có bốn cháu nội, hai trai, hai gái rồi đấy nhé. Thằng Quy vào làm thuê trong Nam, hắn bảo khi nào đủ tiền mua xe máy mới ra. Còn con Phượng, cháu mới tốt nghiệp trường Lưu trữ - Văn phòng chưa xin được việc làm. Hôm nay lên tỉnh tìm gặp cô chú cũng là vì việc của con Phượng chứ cô chú tính thời gian đâu mà đi chơi.
À, hóa ra một việc nằm trong tầm tay của tôi như ông Năm bảo là việc xin việc làm cho cháu Phượng”. Ông ấy cứ nghĩ đơn giản vậy chứ chân trưởng phòng phọt phẹt như tôi lo công ăn việc làm cho con cháu lúc này đâu có dễ. Nhưng chả lẽ chối toẹt ngay. Làm thế nếu không thông cảm ông Năm sẽ nghĩ về mình là người như thế nào? Tôi thật thà nói:
- Hơn mười năm anh em xa nhau mà bác vẫn nhớ đến vợ chồng em, ăn bữa cơm với vợ chồng em là em cảm động lắm rồi. Còn việc xin việc cho cháu Phượng em xin thưa với bác một thông tin: Lâu nay, người ta vẫn bảo là nhận người vào cơ quan hành chính sự nghiệp, đại thể chỉ có 4 trường hợp: Một là, con cháu của những người có chức, có quyền. Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa các sếp với nhau. Ba là, phải có tiền, có nhiều tiền; bốn mới xem xét đến cái tình. Cháu nhà ta học Lưu trữ - Văn phòng, theo em hiểu là làm hành chính, chứ không thuộc sản xuất kinh doanh. Vậy bác xác định mình ở vào trường hợp nào em vừa nói?
Nghe tôi nói tách bạch quá, rành mạch quá, khuôn mặt vốn đã ngắn của ông Năm giờ càng như ngắn tủn lại và nghệt ra! Ông xoay xoay chén rượu trên tay và trầm ngâm một lúc mới trả lời tôi, giọng trầm hẳn xuống:
- Mình chức quyền không. Tiền bạc không. Chỉ có mỗi cái tình. Các cụ nhà mình dạy: Phúc đức tại mẫu, ở hiền gặp lành. Chả lẽ cả đời mình đi theo cách mạng, con mình lại thất nghiệp? Này, thế thằng Hữu, thằng Quảng bây giờ làm gì chú?
Tôi hỏi lại:
- Hữu với Quảng nào bác nhỉ?
- Hai thằng ở văn hóa ấy, chú không nhớ à?
- À, hai ông này một ông đã hưu, một ông bị chuyển sang ngành khác, từ lâu rồi.
Ông chẹp chẹp miệng rồi thở hắt ra:
- Tiếc quá! Giá hai thằng ấy còn đương nhiệm chắc chắn mình được nhờ. Chúng nó sống có tình lắm.
Tôi ậm ờ, gật gù tỏ ý đồng tình với nhận xét chủ quan, trong sáng ấy của ông Năm chứ không nỡ nói cho ông biết, từ khi có kinh tế thị trường hai nhân vật ông vừa nhắc tới ấy đã bị “tha hóa”, có rất nhiều chuyện không lấy gì hay ho về họ. Vả, tôi không thuộc hạng người nói xấu người khác khi người ta vắng mặt, nên tốt nhất là cứ để ông ấy nhớ về bạn bè của ông với ấn tượng tốt đẹp như vậy.
Thấy thức ăn gắp đầy trong bát mà ông Năm hầu như không đụng đũa, vợ tôi giục:
- Hai anh em uống rượu, nhắm thức ăn đi bác.
Ông Năm bảo “Cô cứ cho tôi tự nhiên”, rồi như chợt nhớ ra điều gì đấy, ông hỏi tôi: “Hiện nay anh nào làm Giám đốc Sở giáo dục, chú?”
- Ông Tụ! Bác có biết ông Tụ không?
- Tụ ở Hoàng Hoa chứ gì?
Tôi xác nhận:
- Đúng Tụ ấy đấy! Ông này trước kia là giáo viên cấp hai, sau lên dạy cấp 3, rồi làm Trưởng phòng Giáo dục. Trước khi điều lên giữ chức Giám đốc Sở là Phó Chủ tịch huyện.
- Thế thì đúng là thằng Tụ dạy cùng tôi ở Hoàng Hoa rồi.
Hai mắt ông Năm sáng ra, vui vẻ hẳn lên. Ông nhấp thêm một ngụm rượu đoạn khề khà kể cho vợ chồng tôi nghe những kỷ niệm của ông với ông Tụ. Cứ theo lời ông Năm kể thì Tụ thuộc thế hệ đàn em của ông. Ít tuổi hơn ông, vào nghề dạy học sau ông, lại được ông dìu dắt, cưu mang như một đứa em. Ông bồi hồi nhớ lại:
- Thời bao cấp cô chú còn lại gì. Những năm ấy mới khó khăn, thiếu thốn làm sao. Mua cái gì đều phải xếp hàng mà nhiều khi đâu có được. Thằng Tụ mới ra trường tem phiếu chưa có, tôi phải cho nó ăn chung hàng tháng trời. Vợ nó sinh con đầu lòng, không đủ sữa cho con bú, thương tình, có cái phiếu đường, phiếu sữa, phiếu thịt nào tôi cho vợ chồng nó tất. Khi vợ chồng nó làm nhà thiếu xi, thiếu vôi tôi lại chạy xin cho nó được mua theo giá cung cấp…
Vui chuyện, cứ thế ông Năm nhắc lại bao nhiêu là kỷ niệm “ngày xưa”. Thì ra ngày xưa ông Năm có một thời “oanh liệt” lắm. Ông là người quảng giao lại tốt bụng, quan hệ với ai cũng không tính toán vụ lợi gì, nhất là đối với vợ chồng Tụ. Đã có một thời tình cảm của họ với nhau “bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” là vậy, bây giờ nếu ông cần đến sự giúp đỡ, chắc chắn Tụ không nỡ lòng nào từ chối. Nghĩ thế, tôi nói:
- Theo em, bác nên nhờ ông Tụ lo giúp việc cho cháu Phượng. Em biết giáo dục, y tế là hai ngành luôn được ưu tiên về chỉ tiêu biên chế.
- Tôi cũng định thế. Nhưng lâu quá không gặp nhau, lại không biết nhà…
- Thì em đưa bác đi.
Vợ tôi đồng tình:
- Phải đấy, tối nay hai anh em nên đến chơi với ông Tụ. Biết đâu vì tình, vì nghĩa giữa hai ông bố mà con cái được hưởng lộc.
Cơm nước xong, tôi lấy xe lai ông Năm đến nhà ông Tụ.
Nhà ông Tụ ở “phố quan”, nơi mà nhân dân thị xã vẫn mát mẻ, bóng gió gọi là “phố tình nghĩa”. Ở đây toàn là nhà ba, bốn tầng. Nhà nào cũng kín cổng, cao tường, muốn vào được trong nhà phải bấm chuông điện, phải qua 2, 3 lần cổng, cửa. Sau khi bấm chuông đến lần thứ tư, ngoài con chó béc-giê to bằng con bê vừa hộc, vừa nhảy chồm mãi lên phía trong cánh cổng sắt, chúng tôi không thấy có ai ra đón. Ông Năm phán đoán hay là chú nhầm nhà. Tôi tin và trí nhớ của mình nên không cãi lại mà ngửa cổ ngước nhìn lên tầng hai.
Trong quầng sáng của ánh đèn nê-ông hắt ra tôi nhận thấy ông Tụ mặc bộ quần áo pi-gia-ma đang thò cổ ngó xuống. Thoáng cái, ông vội quay ngay vào phòng. Ánh đèn vụt tắt. Lát sau, có người đi ra, tôi đoán đó là người giúp việc. Chị ta khoảng 40 tuổi, dáng người đẫy đà. Không mở khóa cổng, chị ta hỏi:
- Hai bác đến có việc gì?
Ông Năm vồn vã, không giấu nổi vui mừng:
- Tôi là bạn Giám đốc Tụ. Chị cho tôi vào gặp nó một lúc. Bảo nó là có bạn cũ đến chơi thôi, không có việc gì quan trọng đâu.
- Nhưng Giám đốc đi Hà Nội vắng bác ạ.
- Thế à! Thế bao giờ nó về, cô?
- Cháu cũng không được biết.
Ông Năm nhìn tôi, vẻ thất vọng hiện trên nét mặt. Còn tôi, tôi không tiện nói ta, Tụ đang có nhà nhưng ông ta không muốn tiếp khách, nhất là khi nhìn thấy khách đi xe đạp như tôi và ông Năm, nên mới bảo người giúp việc nói rằng mình đi vắng. Có lẽ Tụ biết khách cỡ này đến nhà, nếu không nhờ vả chuyện nọ, việc kia thì chỉ có đơn từ tố giác lằng nhằng.
Dọc đường về nhà, cố giấu đi nỗi buồn đè nặng trong lòng, tôi làm ra vẻ vô tư, bàn với ông Năm sớm mai, hai anh em lại tiếp tục đến.
- Nó đi Hà Nội vắng đã về đâu mà đến?
Cứ để mặc ông Năm tin vào lời nói dối của người giúp việc, như vậy ông sẽ không thấy mình bị xúc phạm, đồng thời lòng tin yêu ở bạn bè của ông sẽ không bị sứt mẻ. Tôi động viên:
- Biết đâu đêm nay ông ấy về. Các sếp bây giờ đi, về cứ như con thoi. Mình cần thì phải trường kỳ mai phục, may ra mới gặp được bác ạ.
Nghĩ không còn cách nào khác, với lại, vì công ăn việc làm của con hối thúc, không thể không nhờ đến bạn bè một thuở… Tôi hiểu vậy, nên ông Năm phải “gồng mình” lên, đồng ý với gợi ý của tôi.
Sốt ruột chờ gặp Tụ một phần, phần nữa, lan man nghĩ ngợi về cái tình người mà tôi trằn trọc cả đêm. Chúng tôi thức dậy trước Đài tiếng nói Việt Nam báo nhạc hiệu và đạp xe đến nhà Giám đốc Tụ đúng lúc kết thúc nhạc tập thể dục buổi sáng. Chợt thấy chúng tôi thấp thoáng phía ngoài cổng sắt, Tụ đang tập dưỡng sinh trong khuôn viên trước cửa liền bỏ vào nhà. Tôi vội vã bấm chuông điện và đứng đợi. Lúc lâu sau chị giúp việc tối hôm qua lại xuất hiện. Chắc nhớ mặt chúng tôi, chị ta nói luôn:
- Giám đốc vẫn chưa về đâu hai bác ạ.
Tôi thấy mặt mình nóng ran lên trước sự nói dối trắng trợn của chị, liền bóc mẽ:
- Ông ấy vừa ở đây, sao chị cứ bảo là Giám đốc không có ở nhà là làm sao nhỉ?
Ông Năm nở nụ cười méo mó, nói khó thêm với chị giúp việc:
- Nhờ cô vào bảo với Giám đốc, tên tôi là Năm, bạn dạy học cùng với ông ấy ở Hoàng Hoa ngày trước, tìm đến chơi, nhờ tí việc.
Đừng chẳng được, chị giúp việc đành quay vào nhà chắc là để xin ý kiến ông chủ. Tôi vội nhắc ông Năm: “Các sếp bận nhiều việc lắm. Gặp, bác nên đặt vấn đề ngay kẻo mất cơ hội”. Với cái vẻ suồng sã, vô tâm vốn có, ông Năm vỗ vai tôi: “Chú yên tâm đi. Gặp, tôi bắt nó phải chiêu đãi anh em mình một bữa lo-lơ-ti-ca-vi-na (Lòng lợn tiết canh Việt Nam) mệt nghỉ.
Ông Năm vừa nói dứt lời, chị giúp việc bình bịch bước đến. Chị mở khóa, mời chúng tôi vào nhà ư? Không phải. Chị đang kiểm tra lại ổ khóa rồi vẫn đứng trong cánh cổng sắt, nói ra:
- Bác ấy bảo, không quen ai là Năm cả. Có việc gì, đến giờ hành chính, hai bác lên Sở, đăng ký qua phòng tiếp dân.

HƯƠNG NGHĨA

Hoàng hôn tím  

Tập Truyện ngắn đoạt Giải C,

Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2006 - 2010)

Được bố mẹ Li trả lời lưỡng mang “tùy Li quyết định” và nhất là được cô chú Lê vun vén, xếp đặt, đám cưới của Li được tổ chức thật linh đình. Hôm rước dâu, Li mặc váy cưới màu trắng nhìn xinh đẹp, thướt tha như công chúa bước lên xe hoa giữa bao tiếng khen trầm trồ, nức nở của hội hôn. Dân phố ai cũng công nhận: “Con dâu ông Chủ tịch xinh nhất thị xã”. Nhưng không phải không có người đàm tiếu, đại loại: “Con bé xinh đẹp, nết na thế kia lấy đâu không được anh chồng tử tế lại đâm đầu lấy thằng tàn tật?” - “Ôi chao, nó lấy chức, lấy quyền, lấy tiền của ông Chủ tịch chứ nó lấy gì con ông”, “Có chồng càng dễ chơi ngang. Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai? Chồng nó thế tha hồ mà đi “cải thiện” nhá”.

Dư luận xôn xao, ồn ào như sóng cồn lên một dạo rồi mọi chuyện lại dịu xuống, lùi dần vào quá khứ. Giờ đây, Li đường đường là con dâu ông Chủ tịch thị xã. Li đã và đang có bao nhiêu lo toan, tính toán cho hiện tại và tương lai. Đó là, sau ngày cưới không lâu, công việc đầu tiên là Li và vợ chồng cô chú Lê cùng bà An đề xuất, tham mưu với ông Chủ tịch Thị xã làm việc và tổ chức bố trí sắp xếp đưa chú Lê lên làm Trưởng phòng Quản lý các dự án xây dựng thị xã; đưa vợ Lê lên làm phó Trưởng phòng Tài chính thị. Đương nhiên việc đề bạt, bổ nhiệm này không mấy dễ dàng nhưng bằng cái tài chèo lái và quyền lực trong tay, cuối cùng họ đã đạt được mục đích đề ra. Tiếp theo đó, thể theo nguyện vọng của con dâu, ông Chủ tịch đưa Li vào biên chế, làm cán bộ Văn phòng Ủy ban thị. Cũng lại chiều theo ý muốn của Li, ông tuyển dụng cậu Tư, nghe bảo là bạn cùng quê với Li như Li nói, vào làm nhân viên bảo vệ Ủy ban thị. Lại nữa, mấy đứa em Li, được ông giới thiệu vào làm hợp đồng ở các công ty trách nhiệm hữu hạn, thu nhập cao mà không mất một xu gọi là tiền chạy việc. Còn bố Li, ông An nói vui rằng, nhờ ông thông gia đi trông nom hộ cái trang ấp trong Trại Sơn. Ông bảo: “Mỗi tháng gửi ông vãi sáu trăm ngàn uống rượu và để mắt tới mấy con lợn thả, mấy chục gà mò để thứ bảy, chủ nhật anh em, con cháu kéo nhau vào cải thiện, thư giãn cho vui”… Vậy là bắn một mũi tên trúng những mấy đích. Cô chú Lê vì mục đích mình đề ra đạt được, vui đã đành; Li và cả nhà Li cũng vui. Không vui sao được vì những gì đã đến với gia đình cô trong thời gian vừa qua, quả là có nằm mơ cũng không thấy. Hôm gặp Li ngồi trong phòng lạnh của Ủy ban thị, cô Lê cười rất tươi nói với Li:

NGÕ XƯA

Tùng đến nhà tôi đường đột, bệ vệ bởi cái bụng có phần quá cỡ nhưng không mất đi vẻ sang trọng.

- Thùy này! Tôi đã nói với các ông các bà cùng ngõ rồi. Sắp tới tôi cho mở rộng cái ngõ này ra, lát một con đường rộng rãi để ô tô có thể phóng thẳng vào nhà tôi, phải bồi thường cho các ông các bà ấy bao nhiêu tiền tôi sẽ lo chu đáo.

- Thế còn…? Tôi mở to mắt ngỡ ngàng không phải vì bất ngờ trước quyết định của Tùng.

- Còn nhà Thùy phải không? Thùy chỉ cần cắt cho tôi lẻo đất sát mép giếng kia là được. Tiền nong khỏi lo. Ai chứ Thùy, tôi sẽ trả cao gấp ba lần người khác.

- Không! Không… Tôi gần như thét lên bởi nỗi thấp thỏm trong lòng.

- Tôi muốn hỏi Tùng, mở rộng ngõ ra có nghĩa là cây bằng lăng đầu ngõ… Tôi hồi hộp e dè.

- Chặt, chặt hết, để làm gì cho ám. Người ta đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ nông thôn đến thành thị. Bây giờ hè phải thông, đường phải thoáng. Nhà cao tầng mọc lên như nấm. Sắp tới nông thôn hóa thành thị, có gì phải lăn tăn.
- Ám ư… Tôi lắp bắp. Tai tôi ù đi. Trong khoảnh khắc, trước mắt tôi là một thằng Tùng đen nhẻm, cao lêu đêu tay cầm chùm hoa màu tím và tôi - con bé Thùy gầy quắt queo với mái tóc đỏ quạch, ngọn chẻ xác xơ. Còn kia nữa lũ trẻ con xóm tôi lốc nhốc đứa thấp, đứa cao, đứa gầy, đứa béo đang nhảy tâng tâng với cái bài vè đã khiến tôi bao lần phải khóc:
“Ve vẻ vè ve
Cái vè nó hát
Anh Tùng cũng tốt
Chị Thùy cũng xinh
Hai bên rập rình
Gia đình đồng ý
Đi xin chữ ký
Ủy ban không cho
Tùng bèn hét to
Không cho cũng lấy… ”
Và lúc nào bị lũ trẻ hát vè tôi cũng khóc. Tôi khóc vì tức lũ trẻ chỉ là cái cớ mà khóc để cho Tùng phải dỗ, bởi mỗi lần tôi khóc Tùng lại lăng xăng chạy ra đầu ngõ, nơi có cây bằng lăng phủ đầy hoa rồi hái đền cho tôi một chùm thật đẹp. Cây bằng lăng ấy còn là nơi tôi và Tùng thường thơ thẩn đợi nhau đi học về vì tôi học buổi sáng, Tùng học buổi chiều. Khi tôi mười lăm tuổi và Tùng cũng đã ra dáng một chàng trai không còn gầy nhẳng nhơ như trước. Lũ trẻ con xóm tôi cũng đã lớn, bài vè ngày xưa không được chúng ngân lên nữa. Nhưng một hôm, thoáng thấy bóng tôi với Tùng trước ngõ, chúng đồng thanh hét toáng lên “Anh Tùng yêu chị Thùy! Chị Thùy yêu anh Tùng” rồi hò nhau chạy. Mặt tôi đỏ bừng, trán Tùng lấm tấm mồ hôi. Không nói gì Tùng cầm tay tôi kéo ra phía cây bằng lăng rồi thoăn thoắt trèo lên bẻ cho tôi một nhành hoa rực tím và hỏi :
- Sao Thùy không khóc?
- Để làm gì?
- Để Tùng dỗ
Tôi bảo:
- Lớn rồi ai còn khóc
- Tùng nhớ hồi xưa mỗi lần lũ trẻ hát vè về chúng mình Thùy lúc nào cũng khóc. Bây giờ chúng nó hét toáng lên: Tùng yêu Thùy… Sao Thùy… Hay là Tùng yêu Thùy nhé. Tùng sẽ thể trước cây bằng lăng này.
Nói rồi Tùng ngẩng lên những tán bằng lăng phủ dầy nói đủ để tôi nghe:
- Tùng yêu Thùy. Lớn lên Tùng sẽ lấy Thùy.
Tôi ngỡ ngàng. Trái tim tuổi mười lăm của tôi đập rộn rã. Cứ thế tôi và Tùng lớn lên bằng những kỉ niệm từ cái ngõ nhỏ thân thương, từ những chùm hoa màu tím tưởng khó có thể phai mờ…
Thời gian trôi đi, tôi theo học trường sư phạm. Sau bao năm tình nguyện lên miền núi dạy học, tôi có quyết định về dạy học tại quê nhà, còn Tùng hiện đang làm việc ở một thành phố lớn. Tôi và Tùng rất ít khi gặp nhau bởi giờ đây Tùng đã là con rể của một vị làm chức sắc gì đó to lắm. Nhà Tùng năm tầng ở mặt phố chính, nhìn chung Tùng rất giàu có. Lời thề năm xưa chỉ là trò chơi trẻ con mà tôi chẳng thể nào quên…
- Tôi chẳng thiết về quê để làm gì Thùy ạ! Nhưng ngặt một nỗi ông bà già “ đi” rồi, tôi lại là con trưởng. Tôi thì tôi muốn bán quách cái nhà này đi nhưng mấy cụ “khốt” trong họ lại không chịu. Thật cổ hủ hết mức. Gia với phả… Tổ với tiên… Mệt quá đi mất.
Giọng Tùng xoang xoảng kéo tôi về thực tại. Tôi choáng váng trước những gì Tùng nói. Con người ta đổi thay nhanh chóng thật. Mới ngày nào Tùng còn hứa : “Mai này dù có đi đến đâu Tùng sẽ không bao giờ quên Thùy, quên cái ngõ nhỏ có cây bằng lăng tím đỏ…
Từ cái chiếc đài nhà ai chợt vang lên câu hát “… Người ơi! Đành quên sao ngõ xưa rắc đầy hoa tím… ” Tùng cười khẩy, điệu cười đầy khinh bạc:
- Đồ lãng mạn dở hơi. Thời buổi này…
Tôi biết Tùng định nói gì. Tùng nói thế mà đúng. Có khối kẻ được quê hương nuôi nấng lớn khôn, học hành thành đạt, có cuộc sống sung túc rồi thì đến gia đình, đến nơi chôn rau cắt rốn còn không muốn nhớ, nói gì đến cái ngõ nhỏ ngày xưa.
Tùng đi rồi lòng tôi trĩu nặng. Ngày mai tôi sẽ phải nói với các em học sinh thân yêu của tôi, những cô bé, cậu bé của cái làng quê nhỏ bé này hiểu được cái điều mà mỗi con người ai sinh ra cũng cần phải hiểu:
“… Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi…”
Và:
“… Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người... ”
Đầu ngõ, cây bằng lăng đang rung lên trong gió. Sắc hoa nhuộm tím cả khoảng trời.
CUỘC CHIA TAY KHÔNG LỜI
Sắp đến sinh nhật lần thứ 25 của mình. Nàng nhắc trong tiềm thức và thật buồn, nỗi buồn sâu thẳm. Trong thâm tâm nàng mong Quảng đừng đến. Nàng thương những bông hoa bẽ bàng trước sự hững hờ của nàng. Biết vậy xong không thể nào khác. Nàng thực sự lo sợ sự có mặt của Quảng sẽ làm cho nàng khó tỉnh táo. Đứng trước Quảng, nàng không tự chủ được mình. Sự hào hoa, vẻ phong nhã của Quảng sẽ lấn át lý trí của nàng. Nàng biết Quảng yêu nàng, yêu đến ngây dại. Còn nàng, nàng yêu Quảng, yêu đến si mê cái vẻ ngoài rất đàn ông của một kẻ vừa giàu có, vừa có sự quyến rũ mạnh mẽ không chỉ riêng đối với nàng. Vóc dáng cao to, khuôn mặt vuông vức, cặp lông mày lưỡi mác, cùng hàng ria con kiến rất đẹp vẫn là nỗi ám ảnh trong trái tim nàng.
Nàng bước đi ven hồ như một người vô thức. Ánh tím hoàng hôn lẫn trong làn sóng làm mặt hồ sẫm lại. Những con sóng vô tình cứ lăn tăn đùa giỡn. Vài cánh lá mỏng manh theo gió rời cành, rơi xuống mặt nước rập rờn trôi xa. Biết bao nhiêu lần nàng dạo bước ở đây bên Quảng. Kỷ niệm lúc đầy, lúc vơi cứ ùa vào tâm trí nàng: Mai Lan! Tiếng reo khẽ làm nàng sực tỉnh: Đức! Nàng mấp máy môi bởi sự gặp gỡ không ngờ. Anh tưởng Lan không còn nhớ anh? Đức vừa nói, vừa nhìn nàng, đôi mắt vẫn ẩn chứa một nỗi buồn. Nàng cười, nụ cười nhỏ nhẹ, rồi trả lời nhanh dù trong thâm tâm nàng biết đó là điều không thật: Quên làm sao được, chỉ sợ anh quên em thôi! Câu nói đùa của nàng vô tình cứa vào nỗi đau trong trái tim Đức. Anh nhìn nàng, đôi mắt không giấu nổi điều sâu kín trong lòng mình: Đức luôn mong ước có một ngày được gặp lại em, mặc dù anh biết… Đức bỏ lửng câu nói: Thì hôm nay anh đã gặp em rồi đấy thôi. Nàng cười, nụ cười đẹp tuyệt vời xua hết vẻ ưu tư còn đọng trên gương mặt: Mình ghé vào trong quán uống nước, nói chuyện một lát được không Lan? Được thôi, lâu lắm rồi mình không gặp nhau, có khi phải ba năm rồi anh nhỉ? Với anh thì khoảng thời gian còn dài hơn thế rất nhiều.
Ngồi đối diện với Đức, nhâm nhi ly nước cam, bây giờ nàng mới ngắm nhìn anh. Quả là Đức chững chạc hơn rất nhiều, xong tính chân thật, mộc mạc vẫn còn nguyên trên dáng vẻ. Uống nước đi Lan, em nghĩ ngợi gì thế? Không. Em có nghĩ  gì đâu. Anh Đức dạo này làm gì, vợ con ra sao? Còn em? Em như thế nào, anh muốn biết? Em vẫn như xưa thôi. Giọng nàng chợt chùng xuống bởi nghĩ đến những điều đang diễn ra. Anh là lính, đóng quân ở tận Hà Giang cơ. Đợt này anh được nghỉ phép. Còn vợ con thì có lẽ anh không có duyên với phụ nữ nên chót  đem lòng yêu mãi một người, nhưng người ta chưa bao giờ nghĩ đến anh. Có lẽ anh phải sống độc thân thôi. Câu trả lời của Đức nghe buồn da diết. Dù đoán trước được câu trả lời của anh, xong khi nghe anh nói ra điều ấy vẫn khiến nàng giật mình, vì nàng hiểu rất rõ người con gái mà Đức vừa nhắc tới là ai.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Đức làm tâm hồn nàng bị xáo trộn. Quãng thời gian nàng dường như quên hẳn, giờ lại được nàng lục tìm… Ba năm trước, Đức là một trong những người con trai đến với nàng. Anh yêu nàng say đắm, nhưng tình yêu đơn phương của anh không được nàng đáp lại. Đức là người có học. Không thuộc diện đẹp trai, nhưng Đức là người mộc mạc, trung thực, tốt tính, sẵn sàng hy sinh vì người khác. Ai cần là giúp liền. Diễn - bạn thân của nàng thấy anh cứ đeo đuổi nàng mãi, nó nói: Mày “cắt băng” ngay đi. Đừng để anh ấy hy vọng vào điều gì cả. Đàn ông như anh ấy lấy làm chồng thì chỉ khổ thôi, bởi suốt ngày chỉ thích “ Ôm rơm rặm bụng”. Không hẳn vì nhận xét của cô bạn thân mà nàng không nhận lời yêu Đức, mà thật ra nàng còn quá nhiều hòai bão mà chưa cảm nhạn được tình yêu là gì. Nàng chưa hề rung động trước một người con trai nào kể cả với Đức. Lần đầu tiên gặp Quảng trong bữa tiệc sinh nhật của một người bạn, nàng đã bị choáng ngợp trước một Quảng sang trọng, đẹp trai, nụ cười luôn thường trực trên môi cùng với những lời nói lịch thiệp. Suốt bữa tiệc, Quảng đến từng bàn nâng cốc chúc tụng. Tới bên nàng, khi hai cái ly cụng vào nhau cũng là lúc tim nàng rung lên bẩn bật khi ánh mắt Quảng thôi miên nhìn mình. Nàng lúng túng, ly rượu tuột khỏi tay rơi xuống đất. Một sự trùng hợp, cả Quảng và nàng cùng cúi xuống, hai vầng trán vô tình chạm vào nhau. Mùi hóa mỹ phẩm loại sang từ phía Quảng cùng lời nói kiểu cách, ngọt ngào: Xin lỗi, có lẽ tại tôi. Không sao đâu, em đừng ngại… khiến nàng run rẩy. Cử chỉ của nàng bỗng nhiên vụng về, ngượng ngập. Cả bữa tiệc hôm ấy nàng ngồi im, tâm hồn xáo động, choáng váng, nụ cười của Quảng luôn thường trực trong tâm trí nàng. Mọi suy tư trên nét mặt nàng được Quảng để ý kỹ lưỡng. Tan bữa tiệc, nàng đứng dậy mà như vừa mơ, vừa tỉnh, mắt dõi tìm ai. Nàng giật bắn người, mặt đỏ hồng khi Quảng đứng ngay phía sau: Tôi có thể cùng em đi dạo được không? Nàng không còn có thể cất lên lời từ chối bởi tiếng sét ái tình đã gõ cửa trái tim. Tình yêu đến với nàng thật chóng vánh như có sự sắp đặt. Làn môi xinh tê dại, đờ đẫn, vừa ngại ngùng, vừa khát khao đón nhận hương vị ngọt ngào của tình yêu mà lần đầu tiên nàng cảm nhận được. Nàng tự hào mỗi khi bước bên Quảng. Sự đam mê cuồng nhiệt, sự giàu có, lịch lãm, khéo chiều chuộng của Quảng khiến nàng kiêu hãnh. Quảng tỏ ra hết mình vì nàng. Được tắm mình trong sự si mê của Quảng, nàng nghĩ, có lẽ mình là người hạnh phúc nhất, nếu như thời gian không vô tình cho nàng chứng kiến sự vô tâm, lạnh lùng đến tàn nhẫn trong con người Quảng. Lần đầu tiên khi hai người cùng nhau đi chợ. Nàng ngơ ngác và quá ngượng ngùng khi thấy Quảng xua đuổi một người xin tật nguyền với lời lẽ khinh bỉ: Tránh xa ra, hôi như cú, làm lấy mà ăn, ai có mà cho. Rồi Quảng quay sang nâng lên, đặt xuống chùm nhãn của một bà già nhà quê, mặc cả năm lần, bảy lượt. Khi trả tiền thì thiếu 500 đồng lẻ. Quảng đứng chờ 15 phút đợi cụ già đi đổi. Không đổi được, Quảng nhặt nhanh mấy quả nhãn bỏ vào bọc nilông. Nàng im lặng bên Quảng, lòng man mác buồn. Nhìn ánh mắt và đôi bàn tay nhăn nheo của cụ già lập cập bó từng chùm nhãn. Nàng ái ngại, tần ngần lấy ví định trả thêm tiền. Tim nàng chợt nhói lên khi Quảng thản nhiên kéo tay nàng, nói với nàng bằng âm điệu nhẹ nhàng mà nghe sao tàn nhẫn: Em lên xe đi. Kệ bà ấy, việc gì đến mình. Thương người như thế chỉ tổ thiệt thòi. Không hiểu sao lúc ấy nàng giận Quảng đến run người. Lần đầu tiên nàng nói với Quảng lời nói đầy trách cứ: Anh vô tâm đến thế ư? Quảng quay lại, vẫn nụ cười sở hữu và cái nhìn đầy âu yếm. Sự bình thản của Quảng làm nàng tê tái: Thời buổi này mình chỉ biết mình thôi, quan tâm đến người khác làm gì cho mệt hả em? Không đáp lại Quảng, song trong sâu thẳm tâm hồn, nàng  cảm  thấy hụt hẫng. Rồi nàng đi đến một quyết định dứt khoát. Rồi từ một ngày, nàng hầu như không đứng vững khi vô tình chứng kiến cảnh Quảng hào hứng dạy cho một lũ trẻ dùng súng cao su săn tìm những con chim đang ríu rít trên cành. Một con chim không may trúng đạn rơi xuống, chới với đôi cánh cố sức bay lên. Quảng gạt mấy đứa trẻ bước đến, nhấc con chim bị thương trên tay, thản nhiên: Chúng mày ngu bỏ mẹ, bẻ gãy cánh nó đi. Dứt câu nói, bàn tay Quảng làm một động tác hết sức nhanh chóng. Nàng tái mặt khi con chim bỗng nhiên rũ xuống, đầu ngoẹo sang một bên. Trái tim nàng đập liên hồi muốn vỡ ra từng mảnh. Cơn giận dữ khiến môi nàng tím lại. Nàng đứng ngây người, mắt mở to nhìn Quảng như nhìn một vật thể lạ. Quảng hốt hoảng trước thái độ của nàng, vội chạy tới: Có việc gì thế em, em làm sao thế? Anh thật độc ác. Nàng hét lên rồi bỏ chạy thật nhanh mặc cho Quảng chạy theo réo gọi.
Ngày hôm sau. Quảng đứng trước sân với bó hồng nhung đỏ thắm. Nàng không hề bước ra khỏi phòng. Kỷ niềm về mối tình đầu tiên cứ chập chờn. Nàng đau đớn trước sự giằng xé của con tim và lý trí. Dáng vẻ bề ngoài của Quảng vẫn làm trái tim nàng thổn thức, nhưng bản chất con người Quảng khiến nàng ghê sợ. Quảng không có lỗi gì với nàng, anh ta yêu và chiều nàng hết mực, nhưng thời gian và năm tháng xuân sắc của nàng phôi phai, cuộc sống thực tế với miếng cơm manh áo khi nàng đã thực sự làm vợ anh ta rồi, thì cuộc đời của nàng sẽ ra sao khi sống với một người đàn ông như thế. Hôm ấy từ sáng đến trưa, bó hồng nhung vẫn buồn bã trên tay Quảng, đến chiều, nó được đặt lặng lẽ trước cửa phòng nàng. Những ngày sau vẫn vậy, những bó hoa, bó héo, bó tươi xếp lần lượt y nguyên chỗ cũ trước cửa căn phòng khép kín…
Sinh nhật. Nàng đứng lặng im, suy tư một lúc rồi mở cửa ra khỏi nhà. Lần đầu tiên nàng tự mừng sinh nhật của mình bằng lời chúc mà chỉ có trái tim và lý trí nàng mới hiểu. Mưa rồi. Tiếng của ai đó thốt lên. Nàng nhấc chân lên phía hành lang, nhìn lại căn nhà của mình, chợt thấy bóng Quảng với bó hoa tươi thắm, nàng vội quay lại, đưa chân bước xuống đường, trời mưa mỗi lúc một nặng hạt: Mai Lan! Em đi đâu mà đi trong mưa vậy? Anh Đức! Nàng mở to mắt ngỡ ngàng. Đức đến bên nàng với bó hoa hồng trên tay: Anh đến chúc mừng sinh nhật em. Quá bất ngờ và xúc động, nàng lắp bắp: Anh vẫn nhớ ngày sinh của em sao? Chưa bao giờ anh quên. Nàng tròn xoe mắt vì nàng đã đoán được người đã ba năm nay vẫn gửi điện hoa đến chúc mừng sinh nhật của nàng mà không ghi địa chỉ. Nỗi xúc động trào dâng làm nàng nghẹn ngào. Thấy nàng đứng thẫn thờ. Đức cầm tay đưa nàng bước lên hè phố: Em lên đây kẻo mưa, lát nữa anh đưa em về. Em không về đâu. Nàng hốt hoảng. Sao thế? Sinh nhật của em kia mà. Rồi em sẽ nói để anh hiểu lý do. Tạnh mưa mình cùng nhau đi dạo, rồi em sẽ tâm sự với anh nhiều.
Lời nói còn vương vấn nỗi buồn khiến Đức hiểu rằng, anh không cần hỏi thêm gì nữa. Mưa ngớt dần rồi tạnh hẳn. Chân trời phía xa rạng sáng. Những tia nắng vàng bắt đầu rắc lên từng hàng cây bên hè phố.

TIẾNG GỌI MIỀN SƠN CƯỚC

Ngồi im!

Gã lái xe ôm gằn giọng, ghì tay lái. Chiếc xe nhảy chồm chồm rú rít trên con đường cheo leo. Hiền nhắm nghiền mắt, gió quạt vào hai bên tai ù ù. Chiếc xe nghiêng ngả khiến đầu Hiền chếnh choáng. Mở mắt ra, Hiền sa sầm cả mặt. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo. Một bên là vực sâu hun hút, một bên là rừng âm u sương mờ đặc. Tiếng ùm ùm vọng từ đâu đó nghe rờn rợn.
- Gì thế anh?
- Đá lở.
Gã xe ôm cộc lốc. Tim Hiền đập thình thịch. Cô nín thở cầu mong cho chóng đến nơi mà cô đang đến.
- Sắp đến nơi rồi.
Gã xe ôm thủng thẳng. Chiếc xe lại gồng mình lắc lư rồi khựng lại ở con đường thoai thoải, phía trước thấp thoáng mấy dãy nhà thọt lỏm giữa núi rừng.
- Đến rồi.
- Cảm ơn anh!
 Hiền lập cập bước xuống xe mà vẫn như người trên mây, trên gió. Thấy Hiền đứng như trời trồng, mặt xám ngoét, mắt vô hồn, gã xe ôm cao giọng:
- Ngơ ngẩn cái gì? Trả tiền đi chứ.
Hiền bừng tỉnh, luống cuống mở túi lấy tiền. Bây giờ cô mới có dịp nhìn kỹ gã lái xe ôm. Hiền rùng mình thầm nhủ: Gã này còn trẻ, nhìn bặm trợn, phong trần vậy mà cả một chặng đường dài âm u đến cô tịch mà anh ta lại không giở trò gì. Chắc anh ta cũng là một người tốt.
- Cảm ơn! Chúc cô nhiều may mắn.
Hiền mỉm cười đón nhận lời nói tử tế nhất của gã xe ôm từ lúc Hiền đánh liều ngồi trên chiếc xe Min khơ to kềnh càng, khật khưỡng leo dốc. Chiếc xe quay đầu, rú ga quẩn theo một làn bụi hình mắt xích. Hiền nhìn theo chiếc xe và con đường dài heo hút phía dưới khẽ lắc đầu.
Hiền mỏi nhừ, hai bắp chân tê cứng sau một buổi sáng thăm lại ngôi trường mà cách đây hai năm cô mới trở lại. Giờ thì Hiền nằm thật yên trên giường lắng nghe tiếng đêm. Đêm của núi rừng đầy những âm thanh hòa trộn. Gió va vào vách núi rít u… u… Tiếng lóc tóc của dòng Nậm Khuổi giữa rừng Bản Phìa nghe như tiếng gõ của hàng ngàn cái bát. Con khỉ nào tách bầy trong đêm kêu những tiếng khẹc a… khẹc a… thảm thiết. Đêm mênh mang, heo hút. Mùa thu ở đây lạnh hơn nhiều Hà Nội của cô. Đêm mùa thu đầu tiên ở nơi này khiến cho Hiền nhớ Hà Nội đến nôn nao. Hà Nội mùa này nồng nàn mùi hoa sữa, rực rỡ ánh điện đêm và xôn xao bầy chim vỗ cánh trên Hồ Tây những chiều gió nhẹ. Một lát nữa thôi, giấc ngủ chập chờn sẽ đưa Hiền về Hà Nội, về với những kỷ niệm bên Phú và cả cái dự định tương lai đầy tươi sáng.
- Ra trường, mình cưới xong em sẽ dạy học giữa trung tâm thành phố. Bố đã dự tính hết cho chúng mình rồi.
Phú đã nói cùng cô bao lần và cũng không biết bao lần Hiền ngả đầu vào ngực Phú tận hưởng sự ngọt ngào của tình yêu và hạnh phúc trước tương lai tốt đẹp. Vậy mà, Hiền đã quyết định một điều như đã sắp sẵn.
- Em điên à?
Phú trừng mắt quát vào mặt Hiền rồi quay gót. Cái quay gót dứt khoát, chấm dứt một cuộc tình năm năm đầy kỷ niệm, bỏ lại Hiền với nỗi đớn đau và cả cái quyết định “điên khùng” mà Hà - cô bạn thân của cô đã có lần phồng mồm, trợn mắt: “Gái thành phố, tương lai đầy hứa hẹn mà mày lại tự “xung phong” lên cái đất “khỉ ho cò gáy”. Ông Phú ông ấy chào lui mày là phải”.
Hiền trở mình, giọt nước mắt lăn xuống. Hiền khóc cho kỷ niệm tình yêu hay ân hận cho sự “dở người” của cô với mảnh đất cô đã đến. Đêm khắc khoải. Trong mênh mang núi rừng, ánh mắt của người con trai xứ sở này trở về bên cô đăm đắm.
- Cô giáo à! Có phải thế không hay miệng cô giáo thì xinh như bông lan rừng mà lại nói điều không thật?
- Không! A Páo tin tôi đi. Tôi nói thật bụng mà!
… Ngày ấy cách đây hai năm Hiền đã xin lên vùng núi thực tập chỉ vì muốn thỏa tính tò mò xem khó khăn vùng dân tộc ra sao. Và rồi cô, đứa con gái mảnh mai người Hà Nội chính gốc đã phải khóc nhè mấy đêm vì nhớ nhà, nhớ người yêu. Rồi thời gian trôi đi, những ánh mắt trong veo của những cô cậu học trò len rừng, lội suối đến lớp và tấm lòng của bà con dân bản khiến cô cảm động. Cô hiểu rằng, đợt thực tập này đã cho cô bao điều bổ ích, rèn luyện cho cô quen dần với những khó khăn, vất vả ở đây. Hiền đã có những kỷ niệm không thể nào quên để cô thêm yêu mảnh đất và con người nơi rừng sâu núi thẳm này.
Một lần cô cùng lũ học trò ra bờ suối, đứa học trò của cô trượt chân ngã, dòng nước sâu lai chảy xiết khiến nó chới với rồi chìm nghỉm. Cô cuống cuồng la hét, hú gọi, chỉ có tiếng rừng âm u vọng lại khiến cô muốn ngất xỉu thì một chàng trai ào xuống. Đứa học trò của cô bình an và cô có thêm một người bạn mới.
Giàng A Páo, chàng trai người dân tộc có nước da ngăm nâu và vồng ngực căng đầy. Sau này cô mới biết A Páo là cán bộ hạt kiểm lâm Na Ngần bên kia dòng sông Nậm Khuổi. Rồi chính A Páo đã gieo vào lòng Hiền tình yêu những cánh rừng, những dòng suối, tiếng khèn tìm bạn tình vọng xa xuống núi cùng với những câu chuyện huyền thoại về tình yêu gắn với từng vạt rừng, từng dáng núi nơi đây. Lòng Hiền nao nao. Cô cảm thấy như mình đã gắn bó từ rất lâu với mảnh đất nơi này.
Sau lần thực tập ấy, Hiền mang theo về xuôi bao nhiêu kỷ niệm của mái trường, tình cảm của đám học trò miền ngược và những lời nói cùng ánh mắt của chàng trai người dân tộc.
- Về xuôi rồi, cô giáo có nhớ rừng không?
- Nhớ nhiều lắm A Páo à!
- Nhớ rồi cô giáo có trở lại nơi này không?
Hiền lặng người trước ánh mắt buồn thăm thẳm và lời nói như khẩn cầu:
- Cô giáo trở lại đây đi. Rừng xanh cần cô giáo lắm đấy! Rồi cô giáo sẽ dạy con em dân bản biết cái chữ, biết ghét cái sai, biết yêu cái đúng. Biết quý mảnh rừng, thương con suối, nhớ tiếng khèn lá, khèn môi, biết đi con đường thẳng, đừng theo bọn người xấu chặt cây, phá rừng. Cô giáo thấy đấy, rừng bị bọn xấu phá hoại nhiều lắm, một mình kiểm lâm không giữ được đâu mà phải có cả bà con dân bản nữa. Nếu không cứ mãi thế này, rừng sẽ chết mất thôi.
Hiền mỉm cười rồi trêu:
- A Páo nói hay quá! Có phải A Páo đang làm công tác tuyên truyền của cán bộ kiểm lâm cho tôi nghe không?
- Ồ không đâu! A Páo là con của đất rừng nên yêu rừng mà nói vậy thôi chứ A Páo biết mà, cán bộ miền xuôi không ai muốn lên đây đâu, nhất là cô giáo người Hà Nội lại xinh như hoa núi thế kia thì rừng nào gọi được cô giáo về.
Giọng A Páo chùng xuống.
- Nhưng tôi sẽ về thì sao?
- Thật không?
Mắt A Páo sáng lên
- Thật đấy! Con gái Hà Nội không nói sai đâu.
Hiền quả quyết.
Mới đấy mà đã hai năm rồi. Nhớ lại Hiền chợt thấy lòng mình xôn xao một cảm giác rất lạ. Ngày mai cô sẽ một mình băng qua dòng Nậm Khuổi sang trạm kiểm lâm bên kia suối để gặp một người và cô sẽ nói với người ấy rằng:
- A Páo à! Tôi đang đứng trước mặt A Páo đây. A Páo thử đoán xem tôi lên đây vì giữ đúng lời hứa của người con gái Hà Nội hay vì tiếng gọi quá thiết tha của miền sơn cước?
NGUYỄN THỊ MINH ÁNH
Những lá thư màu xanh 
Tập Truyện ngắn đoạt Giải C,
Giải thưởng VHNT tỉnh Vĩnh Phúc 5 năm lần thứ III (2006 - 2010)
CẠM BẪY
Dì Dung về. Na hớn hở thông báo tin đó cho Ngoan, đứa bạn thân cùng xóm rồi quay xe tong tả đi chợ mua thức ăn. Na mua rất nhiều mà vẫn còn tiền: Thịt, cá, giò, chả, măng… Na đi ngang qua chỗ hàng tạp hóa. Mắt nó bừng sáng khi nhìn thấy chiếc kẹp tóc hình nơ bằng vải màu xanh. Na vẫn ao ước có một cái kẹp nơ như thế. Cả thỏi son màu hồng tươi. Năm đứa con gái trong xóm của Na mới có chung một thỏi son để tô môi mỗi khi đi văn nghệ, hoặc là Tết. Na ngần ngừ mãi. Phiên chợ trước, Na đã hỏi mua nhưng chiếc kẹp đắt quá, tận những bảy ngàn đồng. Cả gánh rau của Na cũng không được nổi bảy ngàn đồng. Lần này thì Na có sẵn tiền ở đây, nhưng là tiền của dì Dung. Na bối rối quá. Nó dừng lại trước sạp hàng, ngắm nghía, đắn đo hồi lâu. Dì Dung đã bảo Na cứ tự do sử dụng số tiền mà dì đưa, nhưng… Dù sao Na thấy mình không nên dùng tiền dì cho đi chợ để mua đồ cho riêng mình Na như thế.
Dì Dung là dì họ của Na. Năm dì sáu tuổi, bà trẻ của Na nhặt được dì khi dì đang nằm còng queo trong một cái lều ở chợ lá. Vì bà chỉ có một mình nên bà mang dì về nuôi. Bà nuôi dì Dung đến năm dì mười bốn tuổi thì một hôm dì bỏ đi đâu không về nhà nữa. Một vài người làng bảo nhìn thấy dì đi theo một người đàn bà lạ cổ đeo đầy vàng. Bà của Na khóc hết nước mắt. Rồi bà ốm lăn lóc. Và chết. Khi tim bà chỉ còn đập rời rạc, từ trong hố mắt khô khốc lăn ra hai giọt nước đặc quánh. Bà nghèn nghẹn trong cổ họng: “Dung ơi, con cũng chê mẹ nghèo mà bỏ đi hả con”. Khổ bà thế. Chồng bà cũng vì nghèo mà bỏ đi theo một người đàn bà nung núc thịt từ trên huyện về làng buôn lợn.
Bố mẹ Na giận dì Dung ghê gớm. Cả làng giận dì Dung là con người bạc nghĩa cạn tình. Người ta rủa xả dì, cầu cho dì đi tàu chết tàu, đi xe chết xe, đi ngược chết ngược, đi xuôi chết xuôi. Người ta tiên đoán rằng cái thớ người như dì đời sẽ chẳng ra cái gì… Vân vân và vân vân. Rồi người ta cũng dần quên đi vì chẳng thể cứ nói mãi một câu chuyện từ ngày này sang tháng khác.
Vậy mà đột ngột dì Dung trở về. Khi đi, dì là một con bé nhếch nhác có khuôn mặt cấm cảu và đôi mắt ma mãnh. Bây giờ, dì là người đàn bà sang trọng vui vẻ. Đồ đạc trên người dì thật đẹp. Quần áo, son phấn, đôi giày cao gót mảnh dẻ. Bàn tay trái của dì có bốn chiếc nhẫn vàng lấp lánh ở bốn ngón. Trên cổ là sợi dây chuyền vàng. Và mùi nước hoa thơm nức. Khi dì bước từ trên chiếc xe ôtô màu vàng xuống, Na đang đứng ở cổng bên mẹ và mấy người đàn bà cùng xóm. Không ai nhận ra dì. Tất cả mọi người dán mắt vào người đàn bà sang trọng. Bất ngờ, dì chạy xô tới ôm chầm lấy mẹ Na: “Chị, chị không nhận ra em ư. Em là Dung, Dung con bà Tèo đây”. Rồi dì quay sang những người đàn bà khác vồn vã: “Em chào các chị… Ô! Chị Sen đã có cháu rồi ư, lớn quá rồi nhỉ. Đây, cô có quà cho cháu này”. Dì Dung cúi xuống vuốt ve đứa cháu nhỏ của cô Sen và mở túi xách lấy một gói kẹo đưa cho nó…
Cả nhà Na ai cũng có quà của dì Dung. Của bố là một bộ cờ tướng bằng gỗ được chạm khắc cầu kì. Những con cờ bóng lộn màu đồng. Dì Dung tài tình thật, còn nhớ cả niềm đam mê của bố. Phần của mẹ là một chiếc quần sa tanh hoa chảy mượt; bọn em Na đứa nào cũng được một bộ quần áo bò mới cóng. Riêng Na được nhiều nhất: Một chiếc áo phông, một chiếc quần bò, một bộ đồ trang điểm có đủ cả son, phấn, chì kẻ mắt và rất nhiều kẹp tóc. Na hoa hết cả mắt trước những món quà dì tặng. Cứ như thể dì Dung đi guốc trong bụng Na hay sao mà tặng toàn những thứ Na ao ước bấy lâu. “Dì biết con có nhiều bạn gái nên dì mua cho con đi tặng bạn. - Dì Dung nhìn Na âu yếm - Ngày bằng tuổi con, dì cũng chỉ ước ao có được một chiếc kẹp tóc thế này”. Trái tim Na đập rộn ràng. Cả một túi nhựa kẹp tóc là của Na. Kẹp hình nơ, hình con bướm, lại có cả kẹp hình hoa làm bằng tóc thật. Đỏ, xanh, tím, vàng, rực rỡ lấp lánh. Na sẽ đem chia cho bọn cái Ngoan, Bưởi, Thơm, Nhung. Mỗi ngày Na sẽ cặp tóc bằng một chiếc kẹp khác nhau. Na sẽ không búi tóc nữa. Mái tóc dài mượt mà của Na càng thêm đẹp. Na nghĩ đến Quân, người yêu của Na, tự nhiên mặt nóng bừng. Chắc hẳn Quân hãnh diện vì Na lắm.
Dì Dung ở quê đến ngày thứ ba thì đi, khi những câu chuyện về sự trở lại của dì chưa thôi xôn xao làng trên xóm dưới. Người ta bảo nhà Na có phước, kiếp trước chắc bố mẹ Na phải tu nhân tích đức nhiều lắm thì kiếp này tự nhiên mới có người dưng đến cho của. Đấy là họ cạnh khóe, bóng gió ganh tị khi thấy bố Na vác về chiếc ti vi màu, là thứ hiếm hoi ở làng. Tiền dì Dung cho cả. Bố mẹ từ chối thế nào cũng không được. Từ chối quá thì dì nói dỗi: “Anh chị coi em là người ngoài ư? Thân em bơ vơ may gặp được mẹ cưu mang, nhưng vì hoàn cảnh mà em phải bất hiếu với mẹ, bây giờ chỉ còn anh chị để em chuộc lỗi. Anh chị nỡ từ chối tấm lòng thành của em sao?”. Bố mẹ Na nghe, rớt nước mắt và đành phải nhận tiền của dì.
Dì Dung nắm tay mẹ bịn rịn rồi chui vào trong chiếc xe màu vàng. Trước khi giục người tài xế nổ máy, dì hướng đôi mắt âu yếm về phía Na: “Cháu gái dì ngoan, rồi dì kiếm cho công việc nhàn hạ trên phố để thoát khỏi cảnh nghèo con ạ. Xinh đẹp như con ở đây phí đi”. Chiếc xe lao vút đi, để lại phía sau làn bụi đỏ mờ mịt và hai gò má Na ửng hồng.
Cả nhà đã tắt điện đi ngủ. Na nằm yên lặng nhưng tai giỏng lên nghe bố mẹ nói chuyện về dì Dung ở nhà ngoài. Mẹ chép miệng:
- Rõ thật đời con người ta có số. Ai mà ngờ được. Chỉ tiếc bà Tèo chẳng còn sống mà nhìn thấy con Dung bây giờ.
Tiếng bố Na:
- Bà đã giận con bé lắm. Cứ tưởng nó là đứa bạc bẽo, không ngờ con bé có chí.
- À, bố nó này - Tiếng mẹ Na - Dì ấy bảo định mở một cửa hàng ở thủ đô nên muốn xin con Na nhà mình lên trông hàng cho dì. Dì cứ tấm tắc khen con Na ngoan, xinh gái, nhanh nhẹn, bán hàng thì rất có duyên.
- …
- Hay là nhà mình cho con Na lên bán hàng với dì hả ông?
- Cái bà này, đi làm sao được. Thủ đô xa xôi thế. Với lại nhà người ta đã định cuối năm nay cưới.
- Ôi dào, cưới với xin, cái thằng Quân ấy à. Tôi là tôi không ưa cái ngữ ấy.
- Bà bảo sao, không ưa là không ưa thế nào. Bố nó là bạn của tôi. Nhà nó cũng có bát ăn bát để. Nó thì khỏe mạnh, ngoan ngoãn, bà còn định không ưa cái gì?
- Bát ăn bát để - Mẹ Na dài giọng - Có khá thì cả đời cũng chẳng thoát khỏi cái lò gạch, chân lấm tay bùn. Mà con Na nhà mình xinh gái trắng trẻo thế… Dì Dung cam đoan với tôi, dì ấy sẽ chọn cho con bé một đám khá ở phố.
- Bà đừng có mà tham vàng bỏ ngãi.
- Vâng, tôi đàn bà bụng dạ hẹp hòi. Còn ông cứ quảng đại cho con gái ông suốt đời bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, kiếp này kiếp khác không ngóc đầu lên được. Cứ quảng đại mãi đi, để rồi phải ngửa tay cầm tiền của một đứa con hoang…
- Bà im đi… Con Na ở nhà, không đi đâu cả.
Bố Na gầm lên giận dữ. Thằng Nam đang ngủ bên cạnh Na giật mình choàng dậy. Na cũng giật thót, cô kéo vội em nằm xuống: “Ngoan nào, ngủ ngoan nào”. Trái tim Na đập thình thịch. Cô ôm chặt thằng Nam vào lòng trong mớ ý nghĩ lộn xộn. Thật vậy ư, dì Dung muốn Na ra thủ đô bán hàng à. Thủ đô lộng lẫy và nhộn nhịp. Một lần Na đã được ra thủ đô cùng đoàn thanh niên của xã. Lần ấy đoàn đi thăm lăng Bác Hồ, đến vườn bách thú và cả hồ Hoàn Kiếm. Toàn người là người. Họ ăn mặc đều sang trọng đẹp đẽ như dì Dung. Những cửa hàng ngồn ngộn quần áo, son phấn, vòng vàng… và rất nhiều thứ lạ mắt hấp dẫn. Na đi lần đó rồi nhớ mãi hình ảnh về thủ đô như một thế giới thần tiên xa lạ. Cô chưa bao giờ dám có ý nghĩ mình sẽ được hòa nhập vào thế giới ấy. Vậy mà dì Dung bảo… Bán hàng ở thủ đô, một người chồng giàu có… Na mở to mắt nhìn lên trần nhà tối om. Cô len lén ngồi dậy, khẽ khàng mở cửa sổ. Ánh trăng ùa vào. Trăng mười sáu tròn vành vạnh. Trời trong cao vời vợi. Những làn mây mỏng lướt thướt trôi. Na lấy chiếc gương nhỏ đặt lên bậu cửa sổ nhìn kĩ đôi mắt mình lóng lánh, đôi môi mọng ươn ướt. Na lấy thỏi son trong cái hộp trang điểm dì Dung cho và quệt vụng về. Na đánh phấn trắng lên khắp mặt, bôi phấn hồng lên hai gò má và kẻ mắt bằng chiếc bút chì màu xanh. Cô tẩy tẩy xóa xóa, và ngắm mình mê mải trong gương. “Người thành phố là thế này”. Na mỉm cười, sung sướng khi nhớ lời dì Dung nói Na còn đẹp hơn con gái thành phố.
Bất giác Na thở dài. Na sẽ lấy Quân. Gia đình Quân chỉ đợi đến hết năm là làm đám cưới. Hai gia đình đã thỏa thuận như thế. Cả mẹ Na cũng đã đồng ý. Vừa nãy mẹ nói vậy chỉ vì dì Dung tự nhiên trở về, tự nhiên mở ra một tương lai sáng lạn cho Na nên mẹ có ý chắc lép. Nhưng… không thể được đâu. Bố Na sẽ chẳng đời nào đồng ý thế. Cả Na nữa. Na và Quân yêu nhau đã hai năm trời, lại là bạn chơi cùng hội ở làng, không mặt mũi nào bỏ Quân được. Tụi bạn sẽ nghĩ Na thế nào đây…
Na nằm xuống, mông lung nghĩ về cuộc đời của mẹ, của những người đàn bà xóm Đồi. Họ chưa một lần được mặc “đồ Tây”, quanh năm suốt tháng chỉ là áo nâu và quần đen nhuộm đi nhuộm lại. Như mẹ Na, lúc nào cũng tất bật. Buổi sáng dậy từ lúc gà gáy, lụi cụi nấu cám cho lợn ăn, rồi đi làm đồng. Buổi trưa mười hai giờ về, ăn vội vàng bát cơm rau muống với cà ghém rồi lại đi. Tối mít mẹ mới về, rửa cái chân, ăn cơm xong, ra đầu ngõ nói chuyện với mấy người đàn bà hàng xóm những câu chuyện vụn vặt rồi về ngủ. Và tinh mơ ngày hôm sau lại dậy, lại mò mẫm lụi cụi... Ở vào tuổi bốn mươi, những người đàn bà ở xóm Đồi đã già hết. Không như dì Dung, còn son phấn vòng vàng…
Dì Dung trở lại. Dì vẫn đi chiếc xe tắc xi màu vàng. Bố Na không có nhà. Dì kéo mẹ và Na vào trong buồng thủ thỉ:
- Gấp quá rồi, tuần sau em sẽ khai trương cửa hàng. Nếu chị đồng ý thì cho Na ra giúp em.
- Sao vội thế hả dì - Mẹ Na hấp tấp - Dì phải thư thư để tôi còn thuyết phục bố cháu.
- Không thể chậm trễ được chị ạ, hỏng hết việc của em. Mà chị làm gì phải bàn với anh. Cứ cho con Na đi, lúc ấy đặt anh vào việc đã rồi, ai làm gì được chị. Nếu cần thì chị bảo là không biết, do con Na nó tự ý trốn đi. Với lại chị sống với anh ngần ấy năm, chẳng lẽ chị lại không hiểu bọn đàn ông. Chỉ là sĩ hão thôi. Chẳng qua anh không muốn cho con Na đi vì còn lăn tăn chuyện dư luận hàng xóm, quan hệ bạn bè. Vớ vẩn, thời buổi bây giờ mà còn cứ bám vào mấy cái đấy thì bao giờ mới khá được…
- Thì dì bảo, sống đâu âu đấy.
- Thôi chị nhé, em rất bận. Em về đây. Nếu chị và cháu Na đồng ý thì rằm này em quay lại đón. Còn nếu không thì thôi, em đành phải thuê người ngoài vậy. Nói thật, vì là chỗ người nhà, lại thấy cháu Na xinh đẹp tháo vát nên em muốn giúp cháu đổi đời, chứ ở mãi cái đất chó ăn đá gà ăn sỏi này, đến bao giờ mới mở mày mở mặt được. Tiện đây em cũng nói luôn tiền công cho chị đỡ băn khoăn. Cháu Na lên thủ đô, ăn ở cùng dì, dì nuôi như con gái, nhưng hàng tháng dì vẫn trả công năm trăm ngàn đồng. À, Na này, cháu hỏi bạn bè xem có đứa nào thích đi bán hàng không. Dì phải thuê ít nhất là bốn người, dì mới tìm được một, thêm cháu nữa là hai. Cháu hỏi bạn bè cho dì thêm hai cô nữa. Nhớ nhé, dì tin cháu lắm đấy. Thôi dì về, em về chị ạ. Rằm em quay lại.
Dì Dung nói xong vội vã ra xe, sau khi dúi vào tay mẹ mấy tờ mười ngàn đồng mới cứng.
Đúng hẹn, trưa hôm rằm dì Dung trở lại. Mẹ đã bố trí để bố đi sang làng bên mua ngô giống. Ngoan, Bưởi và Na hấp tấp trèo lên chiếc xe màu vàng của dì Dung. Chiếc xe lao vút đi, để lại phía sau ba người đàn bà đang phấn khởi nghĩ về tương lai sáng lạn của những đứa con gái.
- Con gái dậy rồi à?.
Na còn đang ngơ ngác không hiểu tại sao lại ở một mình trong căn phòng sang trọng, trên chiếc giường nệm êm ái thì cửa bật mở, một người đàn bà lạ có khuôn mặt hình mỏ cày bước vào, đôi mắt ti hí lấp liếng nhìn Na cười cười.
- Cô là… Na rụt rè. - Dì Dung đâu rồi ạ, Ngoan đâu, Bưởi đâu?
- Dì Dung đưa các bạn của con đến làm ở chỗ khác, cũng gần đây thôi. Còn con thì ở lại với dì. Dì sẽ chăm sóc con còn chu đáo hơn dì Dung ấy chứ. Con thích gì đều được, miễn là giúp được việc cho dì.
- Sao lại như thế ạ. Na hoảng hốt. Dì Dung bảo rằng là…
- Có gì mà sao với giăng. – Người đàn bà không để cho Na nói hết. Dì với dì Dung là chỗ chị em thân tình. Con ở đây làm việc cho dì thì cũng như làm việc cho dì Dung cả thôi.
- Con… con phải làm gì ạ?
- Được rồi, cứ từ từ rồi dì bảo, bây giờ con đi tắm rửa, ăn uống cho lại sức. Sen đâu, vào giúp chị Na đi con.
  Người đàn bà ưỡn ẹo đi ra, sau khi tát nhẹ vào má Na âu yếm và cười khanh khách.
- Tối nay con giúp dì bán hàng cho một vị khách nhé. – Người đàn bà  ngắm nghía Na, vẻ mặt lộ rõ sự hài lòng. Sau khi được tắm rửa, trang điểm, mặc vào người một bộ quần áo hồng mỏng tang, trông Na như vừa lột xác từ cô lọ lem thành nàng tiên nữ. - Chỉ một người thôi, nhưng là khách sộp đấy. Con làm được cho ông ta hài lòng thì dì thưởng cho cả một tháng lương.
- Bán cái gì hả dì?
- Được rồi, con vào đây, vào đây rồi khắc biết.
 Người đàn bà mở cửa một căn phòng, đẩy Na vào bên trong. Na không hiểu gì hết. Tất cả trống trơn, chỉ có một chiếc giường nệm giống hệt chiếc giường Na đã nằm khi tỉnh dậy. Trước mặt cô, một người đàn ông ngắn ngủn có bộ râu rậm rạp ngồi chồm hỗm. Đôi mắt gã hau háu, miệng cười khì khì lùi lũi tiến về phía Na. Na hoang mang đến cực độ. Cô phải làm gì bây giờ. Có lẽ ông khách sộp là đây. Nhưng cô phải bán gì cho ông ta. Gã đàn ông vẫn lừ lừ tiến đến. Hắn đưa hai bàn tay múp míp với những ngón tay dùi đục đặt lên vai Na, rờ rẫm xuống vùng cổ áo mở rộng lấp ló khuôn ngực trắng ngần phập phồng. Na co dúm người lại bất động. Trong một phút kinh hoàng, cô chợt hiểu ra thứ hàng mình phải bán cho người khách sộp là cái gì. Cô vùng ra, hất ngã ngửa gã đàn ông xuống nền nhà rồi cuống cuồng chạy.
Cửa khóa rồi. Na chạy vòng quanh căn phòng hẹp. Gã đàn ông lồm cồm bò dậy, liếm mép nhìn Na rúm ró trong góc phòng sau khi đã bất lực đạp phá mọi cánh cửa. Na oà khóc nức nở nhìn gã đàn ông van nài:
- Bác, bác tha cho cháu. Cháu đã có người yêu, cháu sắp… Dì Dung ơi, dì Dung… Cứu cháu… Dì Dung…
- …  
CUỘC ĐỐI THOẠI TRONG NẮNG CHIỀU
- Tại sao lại như vậy? Thực ra hai việc đó về bản chất đâu có gì khác nhau?
- …
Đó là câu hỏi thứ X của cuộc thẩm vấn. Người hỏi là một Thiếu tá cảnh sát mặt vuông chữ điền, mắt hơi xếch và có màu nâu ấm áp. Lúc này, đôi mắt ấy rất bình thản, nhìn xói vào người đối diện gần như không chớp. Còn người bị hỏi, phải trả lời là một đàn ông chừng bốn mươi lăm tuổi, vẻ  mặt lạnh lùng, mái tóc cắt cao ngang tàng. Cuộc thẩm vấn bắt đầu lúc tám giờ sáng, bây giờ là bốn giờ chiều. Họ chỉ có một tiếng để nghỉ ngơi, ăn trưa. Ngoài trời lúc này đang ba mươi bảy độ xê, nắng chói chang, căn phòng hai người ngồi ở đúng hướng Tây hứng trọn vẹn những tia nắng nghiệt ngã. Chiếc quạt máy kêu ken két chỉ càng làm cho không khí bức bối hơn. Thỉnh thoảng lại có tiếng nổ lách tách của thân tre trên mái ngói nhà bên cạnh, còn phòng của họ thì lợp bloximăng. Tóm lại họ giống như hai con tôm trong một cái lò nướng. Họ đang chảy mỡ.
- Anh trả lời đi chứ. Tại sao lại như vậy? Người cảnh sát lặp lại.
- …
Vẫn im lặng, không có câu trả lời.
Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Tối hôm kia, lúc hai mươi mốt giờ, một thanh niên nhà ở gần đầm Dưng bị bắn chết. Cái đầm Dưng ấy là đầm nuôi cá do người đàn ông đang ngồi đây làm chủ. Ông ta tên là Đáng, Nguyễn Hữu Đáng. Vì cái đêm xảy ra án mạng, ông Đáng cũng có mặt ở đầm để trông cá nên lực lượng công an mới mời ông đến làm việc, hỏi ông một số vấn đề giúp cho việc truy tìm thủ phạm đã bắn chết thanh niên kia. Nói thẳng ra ông là đối tượng bị tình nghi. Ngay sau khi lực lượng công an biết sự việc, hai mươi tư giờ đêm hôm ấy, ông đã được mời lên trụ sở công an xã. Rồi cán bộ công an tỉnh về, ngồi đối diện cả chiều hôm qua, buổi sáng nay đến bây giờ, nhưng ông đều trả lời suôn sẻ mọi câu hỏi của họ. Ông kể rất rõ ràng và rành mạch đến từng chi tiết cả buổi tối ông làm gì, ở đâu, và ông hoàn toàn không biết về chuyện đã xảy ra với người thanh niên xấu số.
- Nhưng mà việc anh Tùng bị chết trong khu vực đầm của tôi, tôi thấy mình cũng có trách nhiệm nên tôi sẵn sàng chi trả tiền đưa Tùng đi cấp cứu, tiền mai táng cho anh ta.
Cuối cùng, có lẽ do trời nóng bức quá, Đáng quyết định hào phóng để kết thúc sớm mọi sự.
- Ồ, rất tốt. - Người công an mỉm cười. - Thế nếu giả sử ngày mai, ngày kia, có một em bé chăn trâu gần khu vực đầm cá của ông, trong lúc mải vui đùa sảy chân rơi xuống đầm của ông chết đuối, ông cũng sẽ chi trả tiền mai táng cho gia đình người ta chứ?
- Không đời nào. Đáng kêu lên. Làm sao có chuyện vô lý như vậy được. Anh ta không giấu được sự phẫn nộ. Có lẽ một phần do ánh nắng chói chang nghiệt ngã đã làm Đáng không kiềm chế được.
- Ô, sao vậy ông Đáng? Người cảnh sát ngạc nhiên. Tại sao ông đồng ý chi trả tiền cho cái chết của Tùng mà lại không trả cho cái chết của em bé kia. Thực ra hai cái chết đó về bản chất đâu có gì khác nhau?
Đó, đầu đuôi câu chuyện là như vậy. Đến lúc này Đáng vẫn im lặng. Người cảnh sát đã lặp câu hỏi đến lần thứ bao nhiêu không biết:
- Mà xét cho đúng, nếu giả sử có việc một ai đó bị ngã chết thì đã rõ ràng là tai nạn rủi ro, còn việc Tùng bị bắn chết thì là có bàn tay của người khác dẫn đến hậu quả đó, cho nên người có trách nhiệm phải bồi thường cho cái chết của Tùng phải là thủ phạm đã bắn Tùng chứ.
Người cảnh sát nói chậm rãi từng từ một, ai nghe cũng thấy rõ ràng, dường như anh ta không cảm thấy là đang ngồi trên một cái chảo rang, dù mồ hôi cũng đọng từng giọt trên trán, cổ và ướt đầm lưng áo.
- Tôi nhận.
Đáng đột ngột lên tiếng sau những phút dài im lặng. Không gian như ngưng đọng lại trong một tích tắc.
- Tôi đã bắn Tùng.
Đáng nhắm mắt, thở một hơi dài nặng nhọc. 
Đáng cắm cúi viết bản tường trình sự việc. Lúc này mặt trời đã xuống rất thấp, ánh nắng yếu ớt chỉ còn le lói đằng chân trời. Vài ngọn gió phe phẩy len lỏi vào căn phòng làm cho không khí dịu hơn hẳn. Chuyện xảy ra không có gì gay cấn hay ly kì. Tối hôm đó Đáng chèo thuyền đi tuần xung quanh đầm cá, khi đi có mang theo khẩu súng săn mua của một người miền ngược, đến cuối đầm thì thấy một người có biểu hiện đang bắt trộm cá. Đáng bắn, người đó trúng đạn, bỏ chạy. Sau này Đáng biết người đó là Tùng, và anh ta đã bị chết dù ngay sau đó được đưa đi bệnh viện cấp cứu.
Đáng viết xong, chưa vội kí tên mà đưa bản tường trình cho người cảnh sát. Trong lúc người cảnh sát đọc thì anh ta ngồi nhìn chăm chú. Rồi bỗng anh ta nói bâng quơ:
- Vợ anh chưa chắc đã xinh bằng vợ tôi.
Người cảnh sát rời mắt khỏi tờ giấy nhìn lên, hiểu ra Đáng vừa nói gì, anh tủm tỉm:
- Có thể là như vậy. À, đúng là như vậy đấy. Tôi đã gặp vợ anh rồi mà. Cô ấy xinh thật.
- Thế nhà anh ở đâu, vợ anh làm gì?
Đáng được thể hỏi tiếp. Giọng điệu anh ta cứ như không, như  thể bản án giết người đang treo lơ lửng trên đầu không làm anh ta bận tâm. Người công an cũng không hẹp hòi gì mà không trả lời, vì từ hôm qua chính anh cũng đã hỏi Đáng những câu tương tự.
- Nhà tôi ở Tam Đảo, vợ tôi là giáo viên.
Đáng nghe, ngẫm nghĩ, nói:
- Thế thì nhà anh chẳng giàu. Hai vợ chồng công chức, ăn lương nhà nước, cùng lắm chỉ đủ ăn.
Người cảnh sát không chú ý những lời Đáng nói, anh xem xét lại hồ sơ để chuẩn bị kết thúc cuộc thẩm vấn. Nhưng Đáng vẫn tiếp tục:
- Nếu anh cho tôi qua vụ này, tôi sẽ không để anh thiệt…
- Cái gì cơ? - Người cảnh sát nhìn lên - Tôi chưa nghe rõ?
- Anh cứ ra giá. Bao nhiêu cũng được. Tôi đủ sức.
Đáng có vẻ tự tin vì thấy người cảnh sát chăm chú lắng nghe.
- Tôi biết công an các anh vừa được phân đất. Chắc là anh chưa có tiền để trả. Tôi có thể trả cho anh gấp năm lần giá trị tiền ô đất ấy.
Người cảnh sát im lặng nghe Đáng nói, khuôn mặt chữ điền chẳng hề động đậy, đôi mắt màu nâu nhìn chằm chằm vào Đáng như thôi miên làm Đáng chột dạ:
- Có thể hơn, gấp mười lần… Đáng ấp úng.
Người cảnh sát gật gật đầu, mắt vẫn không rời khỏi Đáng.
- Tôi sẽ đưa tiền cho anh ngay. Chỉ trong ngày mai thôi.
Người cảnh sát lại gật gật. Đáng chừng đã bình tĩnh trở lại.
- Anh không phải viết hay ký nhận cái gì. Chuyện này chỉ có tôi và anh biết.
- Anh nói hết chưa? Người cảnh sát chậm rãi hỏi Đáng. Hầu như anh không biểu lộ trạng thái cảm xúc đặc biệt nào trong giọng nói. - Cái giá của tôi là mười lần giá trị một ô đất tám mươi mét vuông à? Mười lần… -  Anh gật gật đầu,  - không nhiều, cũng không ít, nhưng mà rẻ quá, anh bạn ạ.
Đáng tỏ vẻ không hiểu.
- Tôi nói như thế là rẻ quá. - Người cảnh sát tiếp tục bằng cái giọng đều đều - Kể cả gấp đôi, gấp ba, gấp nhiều lần số ấy thì vẫn rẻ ông Đáng ạ. Bởi vì cho dù tôi có nhận vài trăm triệu đồng để tha tội cho ông thì có nghĩa là tôi đã bán lương tâm của tôi, tư cách cán bộ Công an của tôi, bán niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, vào pháp luật của Nhà nước để lấy vài trăm triệu đồng.
Anh dừng lại, lắc lắc đầu: - Như thế thì tôi thiệt thòi quá, vì vài chục triệu, vài trăm triệu hay nhiều hơn thế cũng chỉ là con số hữu hạn, còn những cái mà ông muốn mua của tôi thì đều vô giá. Ôi, ông thật là quỷ quyệt, tôi biết là ông làm ăn rất tài nhưng không ngờ ông còn định mua rẻ bán đắt với cả tôi.
Đáng ngẩn ra. Hình như anh ta không tin hoặc là không hiểu những điều người cảnh sát nói. Nhưng anh ta không phải động não lâu vì người cảnh sát đã đột ngột đứng dậy, bằng một giọng nghiêm khắc hơi chút gay gắt, anh nói từng tiếng rành rọt:
- Ông Đáng, tôi cảnh cáo ông, nếu ông còn đặt vấn đề  này ra lần thứ hai thì tôi sẽ lập biên bản ông về hành vi gợi ý đưa hối lộ nhằm chạy tội. Ông nên biết rằng không có tiền nào có thể rửa tội được cho ông đâu, chỉ có một cách là ông hãy thành khẩn khai báo, tích cực khắc phục hậu quả, thực lòng ăn năn hối cải mà sửa đổi cái suy nghĩ coi trọng đồng tiền hơn sinh mạng  và cả tư cách con người đi.
Đáng ngồi ngẩn ra, hai tai dần đỏ ửng lên. Có lẽ sự việc xảy ra đã làm anh ta bất ngờ. Anh ta bối rối đưa cả hai tay đón tờ tường trình người cảnh sát đưa, lúi húi ký tên, líu ríu cho tay vào còng số tám. Hai chiến sĩ cảnh sát trẻ măng từ phòng bên cạnh đi sang áp giải anh ta ra xe về huyện. Người thiếu tá cảnh sát đã ra trước, anh sải từng bước dài trên con đường đất đỏ, đầu ngẩng. Hai bên đường, gió đuổi nhau rộn ràng trên cánh đồng lúa đang ngậm hạt. Mùi hương sữa ngọt ngào thơm mát. Tháng 5/2005

 19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...