Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 5b

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 5b

Xếp các thứ lên xe của ba Năm xong mà vẫn chưa thấy bố đâu. An nóng ruột giục Thứ quay lại đón bố. Thứ tức tốc quay trở lại. Anh vươn cao cổ để tìm kiếm. Tìm loanh quanh mãi, anh mới nhìn thấy bố đang nói chuyện với ai đó. Anh giục:
- Về thôi bố! Ba Năm và mẹ đang chờ!
Ông Dân chỉ tay về phía Thứ giới thiệu, đây là con trai anh! Đây là chú Tân liên lạc của bố khi xưa. Anh xin phép về kẻo mọi người chờ lâu. Nhớ đúng hẹn đón anh.
Từ xa, ông Dân đã nhìn thấy người đàn ông dáng cao cao, ốm nhách, mặc quân phục, trên vai lấp lánh quân hàm cấp tướng. Một người phụ nữ ăn mặc sang trọng đứng bên cạnh chiếc ô tô bóng lộn. Ông Dân tưởng là vợ chồng Năm Mập, nào ngờ khi đến nơi, người đàn bà ấy lại là Huyền - vợ ông. Người vợ mà ông rất mực yêu thương, quý mến, nguyện sống chết trọn đời. Ông không khỏi  ngỡ ngàng và vui mừng trước sự thay đổi ấy. Ông Năm Mập chạy lại ôm lấy ông Dân. Hai người lính già ôm ghì lấy nhau. Họ truyền hơi ấm cho nhau, lòng bồi hồi xúc động, nước mắt lưng tròng. Họ gục đầu vào lưng nhau, tay vỗ vỗ vào vai nhau. những giọt nước mắt hối hả, chảy ướt vai áo họ. Họ cứ tự nhiên coi như không có ai đứng ở bên cạnh. Bà Huyền và các con cũng xúc động, để yên cho họ ôm nhau. Họ cứ tưởng không có ngày hôm nay. Chỉ trong giây phút ngắn ngủi, trong họ những ký ức về một thời chiến tranh, chiến đấu sôi nổi, hào hùng, ào ào chảy về.
Vừa rời khỏi vòng tay ông Năm, ông Dân quay về phía bà Huyền:  Em! Bà Huyền đưa tay khẽ gạt nhẹ những giọt nước mắt đang lăn trên má: Anh! Ông bà không ôm nhau nhưng hai tiếng anh, em ngọt lịm như hồi trẻ, khi say men rượu tình yêu, mang đậm hương vị đồng quê, mật ngọt của trái sim thấm đượm vào cơ thể ông bà.
Ông Năm giục:
- Ta lên xe về thôi. Bà xã tôi đang chờ anh chị và các con ở nhà. Ông Năm ngồi ghế trên cùng với lái xe. Vợ chồng Dân, Huyền ngồi hàng ghế sau. Mùi thơm của nước hoa, mùi son phấn từ bà Huyền tỏa ra khiến ông Dân thấy mát dịu hẳn đi. Ông cười khà khà nói với Năm Mập:
- Vừa gặp vợ tao đã ngửi thấy hương vị, màu sắc Sài Gòn rồi. Thật là đẹp và quyến rũ! Bà Huyền nguýt yêu chồng và khẽ bấm vào đùi ông:
- Cái anh này.
Hai ông bạn già cùng phá lên cười.
Bà Huyền má đỏ nhừ, bà véo mạnh vào đùi chồng. Với ông Dân, đây là màn mở đầu cuộc sống hạnh phúc gia đình. Ông vui mừng khôn xiết. Kể từ nay, bà Huyền không phải làm lụng vất vả nữa. Lần đầu tiên vợ chồng công khai giữa bàn dân thiên hạ, được ngồi với nhau, trên chiếc xe ô tô sang trọng của đồng đội cũ. Lòng ông Dân rộn ràng vui mừng
Cả gia đình ông Dân đến ăn liên hoan đón ông từ ngoài Bắc vào Sài Gòn công tác tại nhà Năm Mập. Ông Năm Mập nói cả đời tôi có nhiều bữa liên hoan. Nhưng bữa liên hoan đón anh Hai Dân là quan trọng bậc nhất, đón người ân nhân của tôi từ cõi chết trở về.
Đầu năm 1971, đánh xong cứ điểm Y. Đơn vị mình rút ra vòng ngoài, kiểm điểm thấy còn một số thương binh, tử sĩ chưa mang ra được. Lúc ấy, tao là Chính trị viên phó tiểu đoàn, nhiệm vụ của tao là phải quay trở lại làm công tác thương binh liệt sĩ. Khi ấy, tao ốm nhách chứ được béo tốt như bây giờ đâu, lại đang lên cơn sốt rét. Anh Dân thương tao ốm, lại đang sốt. Anh Dân quay trở lại làm thay nhiệm vụ cho tao. Khi mang hết thương binh, tử sĩ ra thì anh bị thương nặng, may mà không chết. Đó là lần thứ nhất cứu mạng tao. Nhờ đó, tao được đề bạt lên chính trị viên tiểu đoàn.
Ông Dân đặt chén rượu xuống, chen ngang:
- Năm Mập đã một lần cứu tôi thoát chết về tay đàn bà. Xin lỗi bà Năm, bà Huyền và các con. Chuyện là thế này:
Lần ấy tôi bị thương phải vào viện điều trị. Trong thời gian điều trị ở bệnh viện, Chị K là y tá chăm sóc, nuôi dưỡng tôi rất tận tình và chu đáo. Chị luôn tỏ ra ưu ái đối với tôi từ miếng ăn, viên thuốc và giấc ngủ. Tôi thầm biết ơn và luôn kính trọng, quí mến chị ấy. Chị ấy khoảng 38 tuổi, hơn tôi gần 10 tuổi. Chị ấy có nước da trắng hồng. Đôi mắt hiền từ và đôn hậu. Chị ấy nói năng dịu dàng. Giọng Huế nhỏ nhẹ, ấm áp làm sao. Chị K kể rằng, ông già chị vô Sài Gòn từ năm 1950.  Vì thế, chị ấy vẫn giữ được giọng nói của quê hương. Từ Sài Gòn chị tham gia quân giải phóng. Mỗi lần chị ấy cầm kim cắm vào da thịt mà cứ tưởng như không thế mới chết người ta chứ. Khi chị thay băng cho tôi, chị luôn hỏi đau không em,  thấy tôi nhăn mặt, chị dừng lại ngay và hỏi đau lắm phải không em? Tôi lắc đầu. Chị tiếp tục nhé. Tôi gật đầu. Chị ấy người hơi quá khổ kiểu “thon thon” mình bồ. Mặt chị rỗ hoa nhưng có duyên đáo để. Chị chưa có mảnh tình vắt vai. Chị kể thế. Chị chưa một lần biết hương vị đàn ông. Chị kể thế. Tôi tin vậy.
Ông Dân dừng lại, uống hết ly rượu. Bà Huyền nét mặt lo lắng. Ông Năm vội giải thích:
- Anh Dân tuy là người Bắc nhưng anh uống rượu chưa thua ai bao giờ. Một cầu thủ siêu hạng. Chị Huyền không phải sợ anh ấy say.
Ông Dân tiếp tục:
- Vết thương của tôi đã khỏi, sức khỏe gần như bình phục trơ lại bình thường. Chỉ vài ngày nữa là tôi được ra viện trở về đơn vị chiến đấu. Chị K. đến thăm tôi. Không biết chị ấy kiếm đâu được gói thuốc Ru bi và ấm trà ngon, Chị mở gói thuốc ru bi ra, tôi đã thèm rớt nước miếng rồi. Chị mang sẵng bình tông nước sôi. Chị nói, còn ít ngày nữa, em ra viện trở về đơn vị chiến đấu. Chị em mình tổ chức bữa liên hoan theo kiểu thời chiến. Người đi, kẻ ở rất quý mến, lưu luyến. Vì những ngày em nằm viện, chị thấy chỉ có em là đáng mặt đàn ông hơn cả, vừa thông minh, tài hoa, vừa đẹp trai lại mạnh khỏe. Vì vậy chị rất mến phục và kính trọng.
- Em cảm ơn. Chị quá khen.
Chị trải tấm ni lông xuống nền đất bằng phẳng. Chị ngồi xuống và giục tôi cùng ngồi. Chị mời tôi hút thuốc, uống nước. Chị cũng châm thuốc hút, mới để điếu thuốc vào miệng. Chị ho sặc sụa. Chị cầm điếu thuốc bón vào miệng để tôi hút nốt. Tôi thầm nghĩ chị vừa là đồng đội, vừa chị em. Tôi đối với chị rất thân tình, không hề để ý gì. Một thằng lính ở chiến trường, điếu thuốc, chén trà nhiều khi thèm đến cháy lòng. Chị hỏi tôi về quê hương, gia đình. Chẳng biết vô tình hay cố ý, trước chị ngồi xa sau ngồi gần và gác đùi lên đùi tôi. Tôi càng lùi xa, chị càng dịch tới. Tôi đã lùi ra ngoài tấm ni lông mà chị ấy vẫn chưa buông tha. Chị ấy kể chuyện về mình dài lắm. Tôi không nhớ nổi nữa. Nói gần nói xa, chị nói thật.  Dân là người mạnh khỏe,  đẹp trai thông minh, nói chuyện rất có duyên. Chị muốn xin em...
Tôi chắp tay vái chị, xin chị buông tha. Nhưng chị sấn tới vồ lấy tôi. Nhưng nhờ trời, tôi khỏe mạnh nên chị chẳng làm gì nổi. Tôi định kêu toáng lên. Nhưng thương chị bao ngày hết lòng chăm sóc tôi ghìm sự bực tức lại. Tôi đứng dậy cuốn võng, cắt rừng trốn về đơn vị. Rất may đơn vị ở gần đó. Hôm đó trăng sáng như ban ngày nên tôi trốn về đơn vị an toàn. Cái khỏe mạnh, đẹp trai, nói chuyện có duyên làm tôi khổ thế đấy, tôi phải nhờ Năm Mập tới bệnh viện làm thủ tục ra viện và lấy giấy chứng thương.
Nghe ông Dân kể, cả nhà ngồi há hốc mồm nghe.
Hà lém lỉnh hỏi chen ngang:
- Ngoài việc chị K, bố còn cô nào giấu mẹ Huyền nữa không?
Đối với mẹ Huyền, bố rất chung thủy. Nhưng còn nhiều chuyện khá vui vui, hấp dẫn lắm - Ông Dân hóm hỉnh đáp và kể tiếp:
Chuyện là thế này:
- Những năm sống và giảng dạy ở trường này, cả năm, cả tháng tôi gắn bó với nhà trường vì không vợ, không con, không nhà cửa chẳng có nơi mà về nên các giáo viên gọi là ông “Bám trường, bám lớp”. Họ rất yêu quý tôi. Phòng tôi ở không khi nào thiếu người ra vào, người trống giờ đến, ngồi chờ, uống nước, hút thuốc và tán chuyện. Nếu ai có giờ lên lớp buổi chiều, nhà ở xa, cần ở lại thì góp gạo nấu cơm chung. Nếu ai vợ ốm, con đau hoặc nhà có việc riêng cần phải nghỉ, được nhà trường cho phép, tôi sẵn sàng dạy thay. Các đồng nghiệp thấy tôi cứ côi cút, lủi thủi sống một mình, lọ mọ đun nấu nên rất thương. Họ bàn nhau kiếm vợ cho tôi nhưng tôi cứ lờ đi coi như không nghe, không biết. Họ nghĩ, hay là tôi không có “cái kia”. Họ quyết định thành lập “ Hội đồng khám xét”. Trưa hôm ấy, cũng tại phòng của tôi, sau khi ăn uống xong. Trời rét như cắt da, cắt thịt, “Hội đồng khám xét” quyết định khám xét tôi. Họ khóa chặt cửa lại, cẩn thận hơn, cử người đứng gác ngoài cửa. Họ vật ngửa và cởi tuột quần tôi ra, Tôi van lạy, quằn quại chống cự họ nhưng không xong. “Hội đồng khám xét” kết luận “Có số ta, máy móc tốt”. Họ quyết định đi hỏi vợ cho tôi. Đối tượng là cô giáo dạy sinh vật, kém tôi 15 tuổi. Cô ấy nhà ở xa, cũng sống độc thân và ở trong khu tập thể như tôi. Cô ấy rất yêu mến, quý trọng tôi. Cô ấy nhiệt liệt hưởng ứng nhưng tôi kiến quyết phản đối. Không được, họ quay sang cô giáo dạy văn cùng tổ theo phương châm  “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Cô này cố tình thực hiện phương châm ấy. Buổi tối. lấy cớ trao đổi chuyên môn, cô ấy ghé sát người, có khi chịn cả bộ ngực nóng hồi hổi vào lưng tôi. Có lần, cô ấy nằm chềnh ềnh ở giường tôi, chẳng biết vô tình hay cố ý. Cô ta phơi cái bụng, cái rốn trắng hêu hếu ra. Nếu tôi không có bản lĩnh, chỉ tặc lưỡi một cái là xong chuyện. Nhưng tất cả những cách ấy không lung lạc được tôi. Vì tôi chỉ nghĩ tới bà Huyền và lời thề năm xưa.
Hàng năm. cứ đến kỳ nghỉ hè, tôi lại đi tìm vợ, con. Đất nước mình dài, rộng vô kể, bàn chân tôi đi không xuể. Bến tàu, bến xe nào tôi cũng tìm tới. Khi đi mạnh khỏe, khi về ốm đau, gầy còm. Có người đưa ra chi bộ kiểm điểm tôi vì hai tội
- Quan hệ bất chính với giáo viên B.
- Hành động mờ ám, hè nào cũng đi suốt mà không ai hay biết là đi đâu.
Tôi buộc phải cãi lại. Tôi với cô B quan hệ rất trong sáng trên tình đồng chí, đồng nghiệp. Các đồng chí đã có lần nào bắt được chúng tôi trai trên, gái dưới không? Các đồng chí đừng ăn ốc,  nói mò, nói không căn cứ. Nghỉ hè, đi đâu, làm gì là quyền tôi. Tôi không phạm pháp, không ai có quyền tra hỏi tôi. Hai vấn trên nếu đồng chí nào đưa ra chứng lý đầy đủ, tôi xin chịu kỷ luật. Tất cả lặng phắc.
- Bố Dân kể chuyện rất hấp dẫn và có duyên, không trách cô K, cô B chết mê, chết mệt là phải thôi.
 Hà nói
Ông Năm cười, nói:
- Năm 1972 đánh vào cứ điểm A1. Anh Dân vẫn chưa lành vết thương, theo quy định phải ở tuyến sau. Tôi phải trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Nhưng anh Dân thấy tôi ốm đau, khập khừ nên cho tôi về tuyến sau, anh ra tuyến trước chỉ huy chiến đấu. Hậu quả của trận này và đến nay, mọi người đều biết. Anh Dân đã hai lần cứu mạng tôi.
Hà liến thoắng:
- Qua chuyện của ba Năm và bố Dân, con đề nghị, anh Thứ và chị An đương nhiên là con của ba, má Năm rồi. Ba chị em con, từ nay gọi bố Dân, mẹ Huyền là bố mẹ.
Cả nhà đều khen và nhất trí tán thành. Đến lúc này bà Huyền mới lên tiếng:
- Từ lâu, tôi vẫn ao ước có một cô con gái để chấy rận. Hôm nọ, Hà đồng ý nhận làm con tôi  rồi. Xin anh chị Năm cho cháu Hà sang bên tôi ở.
Hà nói ngay:
- Con có từ chối đâu, mãi mãi con vẫn là con bố mẹ. Nhưng là phận gái, ai cũng phải đi lấy chồng. Con ở bên này với ba, má Năm học hành xong đã. Khi nào lấy chồng, con về bên ấy để bố Dân, mẹ Huyền gả chồng.
Thứ vỗ tay khen:
- Hà giỏi lắm. Em thi vào trường Đại học ngoại giao mới đúng. Nhận mà hóa ra không nhận. Tài thật! Cả nhà cười vui. Người sung sướng nhất có lẽ là bà Năm. Chính bà cũng không ngờ, Hà đối đáp giỏi thế. Ông Năm đặt ly rượu xuống mâm, sôi nổi nói:
-Tôi đề nghị thế này. Chủ nhật tới, vợ chồng tôi, vợ chồng anh đi Mỹ Tho thăm vợ chồng anh Tư Thành và xin cưới cho thằng Thứ luôn một thể.
- Ông Dân sững sờ:
- Liệu có gấp quá không anh Năm? Hôm này, anh em mình xuống thăm anh chị ấy là phải rồi còn việc xin cưới phải để dịp khác. Việc này đốt cháy giai đoạn sao tiện?
Ông Năm xua xua tay:
- Vẽ chuyện! Người quen cả thôi! Việc này, anh cứ giả điếc, mặc tôi. Tội đâu, tôi xin chịu hết, Ông quay sang Thứ, An hỏi:
- Ý các con thế nào? An mặt đỏ nhừ, chị ngồi im như thóc. Hà tinh quái hỏi:
- Chị An không uống rượu mà tại sao mặt lại đỏ như thế kia?
An ngượng chín cả người. Chị gục đầu vào vai bà Huyền ngượng nghịu. Thứ mạnh dạn trả lời:
- Thời gian chúng con yêu nhau đã chín mùi. Tuổi chúng con xây dựng gia đình cũng không sớm, cũng không muộn. Còn việc tổ chức cưới xin khi nào, là tùy ba má và bố mẹ.
Ông Năm cười thật to, thật thoải mái:
- Anh Dân thấy chưa. Tôi nói, các con hưởng ứng ngay mà. thống nhất rồi. Không bàn nữa nhé! Ông móc túi lấy ra một tấm giấy, đưa cho ông Dân và giải thích:
- Tôi biếu anh chiếc xe cúp 50. Tuy cũ nhưng đã tân trang lại đi còn ngon lắm. Chân anh thế kia, hàng ngày đạp cái xe lọc cọc, đi mãi sao nổi
Ông Dân nhăn nhó:
- Anh chơi kiểu này, tôi khước từ sao nổi. Cách đây ít ngày, anh vừa mua xe cho thằng Thứ con tôi, nay lại mua xe cho tôi. Cha con tôi chịu ơn anh quá nhiều rồi đây!.
Ông Năm tỏ vẻ bực bội:
- Kể từ nay về sau, tôi cấm anh nói chuyện ân huệ. Ngày mai, Hà đưa xe đến cho bố Dân để ông ấy lấy phương tiện đi lại. Tối nay, anh Dân ngủ lại đây với tôi theo kế hoạch đã định.
Ông Dân cười khà khà:
- Khi xuống tàu, bất ngờ tôi gặp người bạn cùng đơn vị ngày xưa. Hiện nay, anh ta làm nghề xe ôm. Nó hứa, bảy giờ tối đón tôi tới thăm nhà nó. Tôi đã nhận lời rồi. Hơn nữa, gần ba mươi năm, bây giờ tôi mới gặp bà xã. Xin khất anh, để vợ chồng tôi mở bầu tâm sự với nhau. Anh có ăn nhạt đâu mà thương mèo. Cả tôi và anh cũng phải bàn với các bà ấy đã. Khất anh, đêm khác!.
Ông Năm đập tay vào vai ông Dân cười khà khà:
- Ngày xưa, cả đơn vị đều phục tài hùng biện của anh. Cấp trên, bạn bè mà tranh luận với anh thì chiến thắng bao giờ cũng thuộc về anh. Với cấp dưới, dù thắc mắc gay gắt tới mức nào, anh giải thích cũng đều êm ru. Tôi là cán bộ chính trị cũng không cãi nổi anh. Nhiều khi, anh em thắc mắc, tôi phải nhờ anh giải thích giúp. Tôi thua anh là cái chắc rồi.
Ăn cơm chiều xong, ông bà Dân đang ngồi xem ti vi. Bỗng có tiếng gõ cửa gấp gấp:
Cộc! Cộc! Cộc! Thứ vội chạy ra mở cửa:
- Bác hỏi ai? Tôi hỏi ông Dân mới ở ngoài Bắc vô sáng nay.
- Mời bác vào nhà.  Bố ơi! Bố có khách!
- Kìa chú Tân! Đây là chú Tân, liên lạc của tôi khi xưa. Con trai tôi chú biết rồi. Kia là vợ tôi. Còn đây là con dâu tương lai của tôi. Anh em tôi, đầy ắp những kỷ niệm một thời sống chết có nhau.
- Em đến đón thủ trưởng lại chơi nhà. Đồng đội ở đây nhiều lắm. Thủ trưởng cứ mệt mà đi chơi.
- Xin lỗi chú! Chú cho địa chỉ để cháu đến đón bố cháu.   Thứ đề nghị.
- Tôi sẽ đưa thủ trưởng về trước 11 giờ. Nhà tôi ở trong hẻm. Buổi tối khó đi lắm. Em không tìm nổi đâu.
Vợ chồng Tân chuẩn bị bữa cơm thịnh soạn đón Dân. Thức ăn đồ uống bày la liệt trên bàn. Mặc dù, đèn sáng, ông Dân nhìn rõ khuôn mặt vợ Tân. Nhưng vợ Tân, một người phụ nữ rất khó đoán tuổi. Người khô đét, ngực lép kẹp. Chân tay khẳng khiu như que củi. Nước da vàng như nghệ. Dáng người mệt mỏi, chậm chạp. Nhưng khuôn mặt còn trẻ, thời con gái chắc cũng có nhan sắc. Được cái, hai đứa trẻ con Tân rất giống bố, đều khỏe mạnh béo tốt. Quần áo lành lặn tuy không sang trọng. Một căn nhà lá lụp xụp, nhỏ bé, đủ ở, hòa mình vào những căn nhà cùng loại của xóm lao động. Tất cả cho thấy gia chủ kinh tế còn nhiều khó khăn.
Tân đưa ly rượu cho Dân:
- Ly rượu này, mừng buổi họp mặt giữa thủ trưởng và em ở giữa đất Sài Gòn! Nơi mà anh em mình luôn hướng tới. Vì nó mà chúng ta chiến đấu quên mình, không tiếc máu xương, dù phải hy sinh.
Dân cầm ly rượu nhưng không uống ngay:
- Từ nay, chú đừng gọi tôi là thủ trưởng nữa. Bây giờ tôi chỉ là anh giáo quèn. Chú cứ gọi tôi bằng anh cho thân thiện và đúng với thực tế cuộc sống. Nếu đồng ý vậy tôi sẽ uống liền.
- Dạ!
- Cuộc đời của tôi, khai hết với chú ngoài ga rồi. Còn chú, kể cho anh nghe đi?
Bằng giọng đều đều, buồn buồn,  Tân kể:
- Cuối năm 1975 em xin phục viên. Em không về quê mà ở lại thành phố. Nhờ bạn bè, đồng đội cũ giúp đỡ, em xin vào làm ở cơ quan nhà nước. Em chuyển qua, chuyển lại tới bốn cơ quan. Sau cùng em đến cơ quan Hải quan thành phố. Em rất mừng vì phù hợp với khả năng và đây là miếng đất màu mỡ để em làm ăn lâu dài. Lúc đầu, em làm ăn khấm khá lắm, nhiều người nằm mơ cũng chẳng có. Vì em biết đi cả hai chân. “Chân” nhà nước là tạo thế ổn định lâu dài,, tạo ra quyền lực chính trị, kinh tế cho mình. “Chân” ngoài nhà nước tạo ra nguồn lực kinh tế, để tích lũy lâu dài. Em vẫn tự hào với cách tính toán của mình và những bước đi như vậy. Em thường hãnh diện và cho rằng nhận thức và cách làm ấy là thông minh, khôn khéo, phù hợp với điều kiện xã hội, kinh tế lúc bấy giờ. Em cưới vợ. Vợ em người Sài Gòn thứ thiệt. Ngay việc cưới vợ cũng phải hòa hợp giữa hai miền. Ngả bên nào em cũng có phần. Nhiều người cho rằng em khôn ngoan, ranh ma, biết nhìn xa trông rộng. Tiền bạc như nước trên các núi cao, cứ từ từ chảy vào cái hồ túi của em.
- Vợ em chẳng phải làm gì. Cả ngày chỉ lo cơm nước, giặt giũ và tiếp bạn bè, khách khứa, sinh con. Cô ấy béo trắng, trẻ đẹp như chứ đâu ốm yếu như bây giờ.
Cô Mai, vợ Tân góp lời:
- Em vốn xuất thân là con nhà lao động, kiêm buôn bán nhỏ. Nhưng từ khi lấy anh Tân được ăn sung mặc sướng, nên trở thành con người chây lười. Suốt cả ngày, chỉ lo son phấn, trang điểm, ngắm vuốt chờ chồng đi làm về, là đi chơi, đập phá ở các nhà hàng, khách sạn. Cơm ăn có người bưng bê đến tận nhà. Quần áo thuê người giặt. Đẻ hai đứa con nhưng đều cho chúng ăn sữa bò, để giữ vẻ đẹp cho cơ thể và thuê người trông giữ.  Em có tới cả trăm bộ quần áo, đủ kiểu, đủ mốt. Ngày nào, em cũng đi chợ  xem có quần áo kiểu mốt mới để mua. Mỗi khi đi đâu, em mất hàng giờ để lựa chọn quần áo cho phù hợp. Khi ấy, em tiêu tiền không hề phải đắn đo. không phải tính toán. Chỉ tính riêng tiền quà cáp, tiền son phấn, tiền rải đường, rải chợ, tiền  vung vãi hàng ngày cũng đủ tiền sống hiện nay cả tháng trời. Vì  hàng ngày, Tân mang tiền về quá nhiều, em chẳng cần đếm mà cứ quẳng vào tủ. Giá lúc ấy, em biết tiết kiệm, nhặt nhạnh mua thêm mấy căn nhà, mấy ô đất nữa thì đâu đến nỗi khổ như bây giờ. Thôi! Âu cũng là số trời. Trời chỉ cho chúng em hưởng đến thế, chẳng tiếc làm gì cho tổn thọ. Nhưng thú thực, cũng tại em không ngăn chặn, hạn chế Tân mà còn ngầm động viên, khuyến khích anh ấy cố gắng làm ra nhiều tiền hơn nữa.
Tân lại tiếp tục kể:
- Bác Dân ạ! Khi có tiền, thừa ăn, thừa tiêu. Tiêu tiền không biết tiếc. Tuần nào, em cũng thuê xe đưa vợ con đi Vũng Tàu tắm biển, chụp ảnh. Ăn ngủ tại khách sạn, chơi bời thoải mái, xả láng cuộc đời. May mà nhà em nhắc nhở, em mới mua được căn nhà ngoài mặt đường lớn giá trị cả trăm cây vàng, không thì tiêu ma hết. Ở thành phố mà tháng nào, tuần nào, em cũng đưa vợ con đi ăn nhà hàng, ai thích ăn gì thì ăn nấy, tốn mấy cũng không đắn đo, lăn tăn. Tối nào, em cũng tiệc tùng tới khuya và say xỉn. Rủ bạn bè đi hát Karaôkê, tới vũ trường nhảy múa, đập phá. Nhiều tối vui bạn bè, tiêu vài ba triệu là bình thường. Số tiền ấy bằng bố mẹ em, cày cấy cả năm trời. Cuộc sống của vợ chồng em thật là đế vương, chắc bác không tưởng tượng nổi đâu. Nhưng lòng tham của con người thật vô bờ bến.
- Bác Dân ạ! Có nhiều tiền, càng ham kiếm tiền, thấy tiền là em cứ như con thiêu thân lao thẳng vào bất chấp hiểm nguy kể cả tính mạng. Em liều kinh khủng. Em dự định đánh một quả thật đậm thì dừng lại. Quả này thắng, vợ chồng con cái em ăn tiêu, đập phá cả đời không hết.
- Quả ấy là hàng gì? Dân hỏi.
- Lợi dụng chức vụ, lợi dụng thế mạnh của ngành Hải quan, móc ngoặc với tàu nước ngoài, em buôn hàng quốc cấm.
Tân dừng lại, tự rót rượu cho mình, quên cả mời Dân. Dân ngây người ngồi nghe. Tân hạ giọng:
- Nào ngờ! Đời có ai được chữ ngờ. Nếu học nổi chữ ngờ thì đâu đến nỗi bất hạnh và nghèo khổ như bây giờ. Một tên đàn em, xưa nay nó vẫn tận tụy trung thành tuyệt đối với em, Em đã cưu mang, giúp đỡ vợ con nó qua khỏi cơn đói nghèo. Thậm chí, em con còn đeo râu, vẽ mặt cho nó. Từ khi dấn thân vào cuộc chiến trận của thương trường, trận nào em cũng thắng đậm, nên em sinh ra chủ quan, tự mãn, coi thường người khác. Nó vừa cướp đoạt tài sản của em, lại báo công an bắt. Có đểu không? Có chó má không bác?
Tân lại uống rượu, và kể lể tiếp:
-  Nó đúng là một con rắn độc. Khi nó phải nhờ cậy em. Nó uốn mình mềm mại, rất êm, rất nhẹ nhàng. Đến khi thu hết tiền bạc của em. thu hết sức lực của em, nó quay lại phun nọc độc vào mặt em. Tàu vừa cập bên, nó dẫn công an tới bắt. Tang chứng, vật chứng rành rành, em câm họng lại và chết ngất đi. Thế là em trắng tay. Em vác cái án 10 năm tù, vào nhà đá bóc lịch. Bỏ vợ và hai đứa con nhỏ trôi nổi ngoài dòng đời.
Tân lại uống rượu và khóc tu tu. Dân an ủi động viên:
- Cái gì đã qua, em phải cho qua, tiếc cũng chẳng được, chẳng tiếc để làm gì.
Tân lại uống rượu và tiếp tục:
- Nhờ thành tích chiến đấu, nhờ cải tạo tốt, hai, ba lần giảm án. Còn 5 năm tù giam, em được tha. Em trở về với hai bàn tay trắng. Hai vợ chồng chẳng có nghề nghiệp gì. Căn nhà ngoài mặt tiền, vợ em bán em lấy tiền nuôi con, nuôi em ở tù. Thật may mắn, vợ em cũng dành dụm, tiết kiệm mua được căn hộ trong hẻm. Tuy ở trong hẻm, nhưng nhà rộng, thoáng mát nên em ở một nửa, cho thuê được một nửa. Nếu không bốn người nhà em sống vào đâu bây giờ. Vợ em buôn bán ngoài chợ, kiếm gạo nuôi các cháu. Em chạy xe ôm. Nửa năm nay, cô ấy bị ốm không đi chợ được nữa. Cả nhà trông vào “con ngựa sắt” của em.
Dân xúc động, xót thương cho hoàn cảnh của Tân. Anh nhỏ nhẹ nói:
- Anh hỏi thật chú nhé! Chạy xe ôm, mỗi ngày chú kiếm được bao nhiêu tiền? Liệu có đủ sống không?.
Tân buồn rầu nói:
- Nhùng nhằng cũng đủ nuôi vợ con. Chạy xe ôm cũng như người đi câu cá. Hôm nào gặp khách, kiếm được kha khá vợ con cũng mát mày, mát mặt. Hôm nào gặp ít khách như sáng nay thì vất vả lắm, cả nhà đều méo mặt. Đành lại rau cháo nhì nhằng qua ngày, đoạn tháng. Vất vả lắm anh ạ! Nhờ trời, nhờ Phật, em còn khỏe, tay lái vững vàng lắm. Vợ chồng em trong đội quân những kẻ đói nghèo, thất nghiệp của thành phố.
Dân cảm thấy giận và thương Tân. Thương vì gia đình Tân lâm vào cảnh bần cùng, vợ ốm con đau đói nghèo, thất nghiệp. Giận vì Tân tham lam quá, vì Tân đánh mất phẩm chất người lính cụ Hồ nên mới gặp phải nông nỗi này. Ngồi lặng đi một lúc khá lâu, Dân vừa cười, vừa nói:
- Tiếc và than thân trách phận cũng chẳng giải quyết được gì! Tất cả phải cho qua! Âu cũng là số trời. Trời, Phật chỉ cho hưởng có thế thôi. Nhưng anh trách em tham lam vô độ không biết dừng đúng lúc. Cứ thấy hơi tiền là lao vào như con thiêu thân, chết cũng đáng đời. Kiếm được tiền, em không biết tiêu tiền, phung phí đồng tiền làm ra. Em không nên trách ai mà trách bản thân mình mới đúng. Bây giờ, em định làm gì?
Tân chép miệng thở dài não nuột, Tân nói:
- Còn biết làm gì nữa. Phải chờ có dịp nào đó mới kiếm được nghề nghiệp bảo đảm đời sống cho gia đình. Anh còn nhớ thằng Hà, cùng liên lạc, bảo vệ với em không? Vết thương tái phát cu cậu nằm liệt giường, tất cả đều trông vào vợ. Hôm làm lễ truy điệu anh, em và nó khóc như cha chết, mẹ chết.          
Dân sốt ruột:
- Quên thế nào được thằng Hà. Từ đây đến nhà nó gần hay xa? Chú đưa anh tới thăm nó được không?
- Khuya rồi! Em phải đưa anh về kẻo chị mong. Để dịp khác.
- Chú biết tính anh. Anh chúa ghét những ai nói lời lại nuốt lời. Cho dù cuộc sống khó khăn đến đâu chăng nữa, anh em ta vẫn phải giữ lấy bản chất tốt đẹp của người lính cụ Hồ.
- Em còn lạ gì tính anh.
Tân dắt xe ra ngoài đường nổ máy đứng chờ. Dân đứng lại nói với vợ Tân:
- Anh gặp chú Tân ở ngoài ga và lại được đến nhà thăm cô chú. Anh rát hiểu hoàn cảnh của cô chú. Anh gửi cô ít tiền. Nhờ cô mua quà và may quần áo cho hai cháu, thuốc thang cho cô. Dân đặt gói tiền xuống bàn và chạy ra xe. Vợ Tân ngỡ ngàng, xúc động. Chị chạy ra cửa gọi theo Dân rất to nhưng cả Dân và Tân đều đã không nghe thấy. Vì ngoài đường tiếng xe máy, nhiều tiếng ồn ào đã át cả tiếng chị.
Khi Tân trở về. Chị Mai kể cho chồng nghe. Chị mở gói tiền ra đếm. Chị nói với chồng: Tận hai triệu. Bác ấy tốt quá anh Tân ạ!
- Ngày còn trong quân ngũ, bác ấy có thể nhịn ăn, nhịn uống nhường cho anh và Hà. Ngược lại, anh và Hà sẵng sàng lấy thân mình đỡ đạn cho bác ấy. Tụi anh không để bác ấy phải thiếu thốn và làm bất cứ việc gì, để bác ấy dành tất cả thời gian vào việc lãnh đạo đơn vị.
Bà Huyền ngồi ở nhà xem ti vi, nghe ca nhạc một mình. Thỉnh thoảng, bà lại ngước nhìn đồng hồ. Hơn 10 giờ mà ông ấy vẫn chưa về. Bà đứng lên, ngồi xuống mà không yên. Bà mở cửa chạy ra đường đứng nhìn. Bà bỏ cái ti vi tự nói, tự nghe một mình. Bà vừa khép cửa quay vào thì chồng về tới nơi. Lời đầu tiên bà trách chồng:
- Anh mải vui bạn bè, quên cả vợ con. Bố đi chơi. Con đi làm - Bà vừa khóc, vừa nói - Em ở nhà một mình ôm cái ti vi từ tối đến giờ. Có ai vô tâm như anh không? Vừa đặt chân tới nhà, đã bỏ vợ con đi chơi luôn?
Ông Dân đến bên vợ, cười khà khà thanh minh:
- Em thông cảm. Những năm ở chiến trường, anh và họ sống chết có nhau. Họ bảo vệ, giúp đỡ anh mỗi khi gặp khó khăn. Anh không thể quên họ.
Bà Huyền càng tức hơn. Bà khóc tức tưởi:
- Thế em không sống, chết vì anh à? Anh thử nghĩ xem?
Ông Dân ôm vợ vào lòng, tay vuốt vuốt mái tóc:
- Anh xin lỗi, Anh sai rồi. Với họ chỉ một lúc thôi. Anh và em còn cả đêm nay, đêm mai và mãi mãi...

7. Gần ba mươi năm, mới gặp nhau. Hôm nay, ông Dân và bà Huyền mới thực sự là vợ chồng. Mặc dù, họ đã có với nhau một đứa con. Những lần gặp nhau trước đây đều ở ngoài đường, chủ yếu trên đồi sim. Một đôi lần ở nhà Huyền thì cửa mở to, đèn thắp sáng, ngồi thật xa nhìn nhau và nói chuyện. Mỗi khi ở bên nhau vừa sung sướng, hạnh phúc, vừa lo sợ có ai đó nhìn thấy. Đêm nay, hai người mới thực tự do, thoải mái, dưới ánh đèn sáng trắng. Ở góc độ nào đó là sự hâm lại, ong bướm cũ gặp nhau. Nhưng ở khía cạnh khác, đêm nay mới thực là đêm tân hôn. Sau trận mưa hôn dài như điên, như dại, bà như quên hẳn, khi chồng đi chơi với bạn bè để bà ở nhà một mình. Bà nói với ông:
- Để em khám xem những vết thương cho anh. Thương tật loại mấy.
Nhìn những vết thương trên cơ thể chồng, Huyền vừa khóc, vừa nói:
- Nhiều vết thương thế này không chết là may. Thật phúc đức. Những ngày xa nhà, anh có nhớ em không?
- Nhờ có sức khỏe tốt, anh mới chống chọi nổi những trận đòn tàn bạo của kẻ thù. Khi nằm viện, lúc ngồi tù anh luôn nhớ tới em. Khổ tâm nhất khi trở về không biết em ở phương trời nào. Tìm em như mò kim đáy biển. Lúc đi, anh có ngờ đâu em có con. Khi biết em có con, lòng thương nhớ em và con càng da diết hơn. Anh lặn lội, một mình đi tìm em và con mà chẳng thấy. Còn em?
Chị khóc thút thít kể:
- Bố em đánh đập, xỉ vả và bắt phá thai. Bố anh không thừa nhận. Em bỏ nhà ra đi. Đó là cách tính liều. Rất may gặp mẹ Thương dù đói nghèo nhưng yên ổn. Được tin anh hy sinh, em yên phận thờ chồng nuôi con. Cái đêm trăng sáng trên đồi sim, chúng mình dành cho nhau tất cả. Đêm nay, dưới ánh đèn sáng trắng, hai ta lại quấn quýt bên nhau, hiến dâng cho nhau. Bây giờ mới thực sự là đêm tân hôn của anh và em.
Ông Dân âu yếm vuốt ve vợ.
- Những ngày tiếp theo, anh và em phải tận hưởng tuần trăng mật.
Chị gục đầu vào ngực anh:
- Mật hay đường đều ngọt cả. Anh uống thử xem, em nói có đúng không? Có khác xưa không?
Ông gục đầu vào ngực bà, đắm đuối:
- Đầy đặn lắm! Ngọt lắm! Vẫn như hồi nào.
Tiếng nói của ông như có vật gì đó cản ở miệng!
Ngoài đường có tiếng rao bán hàng. Trời sắp sáng, chị tỉnh giấc. Bà Huyền vẫn có thói quen dậy sớm. Bà dậy để chuẩn bị bữa sáng. Bà đánh thức chồng.
 Dậy! Dậy đi anh! Mệt lắm à?
- Anh còn dư sức. Hai người lại đổ xuống giường!
Thứ đi làm về. Anh lên tiếng:
- Đêm qua, bố mẹ ngủ ngon không?
Ông Dân vui vẻ trả lời con:
- Thật là tuyệt con ạ!
- Đêm qua, ba Năm gọi điện cho con. Sáng nay, ba má Năm đến đón cả nhà đi Mỹ Tho. Con đã điện cho An rồi. Tám giờ, ba má Năm cho xe tới đón.
- Chị Năm cũng vừa gọi điện cho mẹ lúc sáng. Hai bố con đi ăn sáng kẻo muộn. Con chạy đi mua cho mẹ gói quà như lần trước.
8. Chiếc xe Toyota 12 chỗ ngồi mới cứng, đưa gia đình ông Năm và ông Dân đi Mỹ Tho. Xe chạy bon bon trên đường nhựa phằng lì, nhẵn bóng. Xe chạy ra khỏi thành phố, ông Dân phóng tầm mắt nhìn các làng mạc hai bên đường. Mặt trời như khối lửa đỏ, khổng lồ đã vượt lên trên những làng mạc phía xa xa. Nắng vàng rực rỡ, chan hòa tỏa sáng khắp cực Nam của Tổ quốc. Gió biển thổi vào mát rượi. Lần đầu tiên ông Dân được hưởng cái nắng, gió nơi đây khi đất nước hòa bình. Ông căng lồng ngực, khoan khoái hít thở. Sống và chiến đấu ở miền Nam bao nhiêu năm, hôm nay ông Dân mới được hưởng không khí thanh bình. Tất cả những cảnh đẹp của đất nước, ông muốn thu gọn vào tầm mắt, tận hưởng cái nắng, gió của xứ sở. Lúc này, ông Năm mới có dịp để ý tới ông Dân, ông vui vẻ kêu lên:
- Bà Năm, bà Huyền ơi! Nhìn anh Hai Dân ngon lành chưa, lịch sự chưa?
Mọi người đổ dồn con mắt về phía ông Dân. Ông Dân xúng xính trong bộ com lê màu rêu mới cứng, đường ly thẳng tắp, cà vạt đỏ chói. Ông khác hẳn hôm qua, trang nhã, lịch sự hơn. Ông ngượng ngùng khi bị mọi người chú ý. Bà Huyền từ hàng ghế trên quay xuống nhìn chồng. Bà chép miệng thở dài:
- Ông ấy mượn của con trai đấy. Nhưng đố ai biết là quần áo đi mượn. Vì bố mặc quần áo của con lại vừa như in. Nếu không thế thì chẳng biết xoay sở ra sao?
- Thôi được! Gấp gáp quá, chẳng kịp may cho anh Hai vài bộ đồ. Có đáng là bao.
Lời phân trần là của ông Năm.
Tới nơi. Xe dừng lại trước cửa nhà ông Tư Thành. Vợ chồng Tư Thành quần áo lịch sự, đứng trước cửa đón khách. Bà Khang cầm tay bà Năm, bà Huyền dẫn vô nhà. Ông Tư Thành lần lượt bắt tay ông Năm và ông Dân. Bàn ghế, cốc tách cùng đồ uống đã chuẩn bị sẵn, bày la liệt trên bàn.
Ông Năm với tư cách là bạn bè thân tình đứng dậy giới thiệu ;
- Nhà tôi, chị Hai, anh chị Tư đã biết rồi khỏi cần giới thiệu. Anh Hai lần đầu tiên tới nhà anh Tư. Nhưng thực ra, anh Hai và anh Tư quen biết nhau từ rất lâu rồi, tôi sẽ nói sau. Anh Hai Dân là bố cháu Thứ.
Bà Huyền đứng dậy nói:
- Nhà em vừa ngoài quê vào, ông ấy mang theo ít quà biếu ông bà. Gọi là sản vật quê hương. Bà Năm cũng nói:
- Vợ chồng tôi từ trên thành phố, lâu ngày về thăm anh chị có ít quà biếu gia đình.
Bà Khang đứng dậy cảm ơn và nhận quà.
Sau màn chào hỏi xã giao và uống nước, ông Năm Mập, quay về phía ông Tư Thành hỏi:
- Anh Tư nhớ ai đây không? Ông chỉ tay về phía ông Dân. Cả ông Tư Thành và ông Dân cùng mọi người đều ngỡ ngàng. Ông Tư Thành, ông Dân nhìn nhau chằm chằm. Cố lục trong trí nhớ, tìm kiếm trong số người thân quen. Nhưng cả hai ông đều ngớ người, đứng ngây ra. Ông Tư Thành lắc đầu: Chịu thôi, ông Dân gõ gõ tay vào trán, dứt khoát là quen nhưng lâu ngày quá nên không nhận ra. Vì chúng ta thay đổi quá nhiều. Đều già đi!
- Các anh quên cả thì tôi xin giới thiệu vậy. Đây là anh Phạm Đình Dân D trưởng B26, Còn đây là anh Tư Thành C trưởng C1 của D- B26. Cả hai đều đánh vào cứ điểm AL năm 1972. Điều này tôi biết nhưng muốn dành sự bất ngờ cho hai anh và mọi người.
Ông Dân hồ hởi nói:
- Tôi nhớ rồi. Anh Tư Thành C trưởng C1, đơn vị chủ công đánh vào cứ điểm AL.
Ông Tư Thành ngạc nhiên hỏi:
- Anh Dân D trưởng, Thủ trưởng cũ của tôi, quên thế nào được. Nhưng anh Dân đã hy sinh từ 1972. Đơn vị làm lễ truy điệu, anh Năm là người đọc điếu văn chứ ai nữa. Anh Hai ra đi, để lại lòng thương tiếc và kính trọng của toàn đơn vị. Ông chỉ vào trán, rồi kéo xuống trái tim, tất cả những điều đó còn lưu giữ ở nơi này. Nhưng tại sao…?
Ông Dân cười khà khà, thoải mái:
- Ông Nam Tào định xóa sổ tôi. Nhưng tôi thương nhớ vợ con, thương nhớ đồng đội, bằng lý lẽ sắc bén của mình, tôi cãi thắng cả Nam Tào. Tôi trở về cùng vợ con, đồng đội nên hôm nay chúng ta mới gặp nhau. Cái số tôi lớn lắm chết thế nào nổi. Nói cho vui sự thể là thế này. Ông Dân tóm tắt cuộc đời gian nan của mình cho mọi người cùng nghe. Ông Dân, ông Tư Thành ôm nhau thắm thiết.
Ông Năm Mập:
- Anh Hai Dân vẫn khẩu khí văn chương như xưa. Anh Hai Dân vừa chuyển công tác vô Sài Gòn. Hôm nay, chúng tôi xuống thăm ông bà và xin phép làm đám cưới cho các con của chúng ta. Đúng ra, chúng tôi phải đi lại nhiều bước nữa. Nhưng ỷ thế là bạn bè, thân quen nên xin phép được rút gọn bớt đi. Kể cũng hơi liều mạng. Việc này đều do tôi khởi xướng và quyết định. Tôi và anh Tư đều dân miệt vườn Nam Bộ thông thoáng, dễ bỏ qua cho nhau. Rất mong anh, chị thông cảm cho.
Ông Tư cười chân thật:
- Việc đó vợ chồng tôi nhất trí liền. Chúng ta là đồng đội, là bạn bè với nhau, sẵn sàng bỏ qua nhưng nghi lễ rườm rà không cần thiết. Từ lâu, vợ chồng tôi coi chúng như con rồi, chỉ chờ anh, chị Hai vô là tổ chức cưới.
Ông Năm sốt sắng:
- Được anh, chị Tư cho phép, chúng ta bàn luôn. Tôi nghĩ suốt đêm qua rồi. Ngày cưới sẽ ấn định vào 15 âm lịch tháng sau, còn khoảng hơn hai mươi ngày nữa, đủ sức chuẩn bị. Ngày đó là ngày cúng Phật trùng vào chủ nhật thuận tiện cho bạn bè của hai bên gia đình và bạn bè  của các con tới dự. Lễ cưới sẽ tổ chức ở nhà nghỉ của quân khu. Việc ấy, tôi xin lãnh cả. Mọi nghi lễ, theo thủ tục nhà gái ở dưới này, phiền anh chị Tư lo giùm. Thời nay, cưới con trai hay con gái cha mẹ đều có trách nhiệm cả. Hai con, Thứ, An lo in thiệp mời, may quần áo cưới. Anh, chị Hai mới vô, còn lạ nước, lạ cái thì đóng góp tùy theo sức của mình.
Ông Tư Thành thật thà, vui vẻ nói:
- Anh Năm nói như đọc mệnh lệnh xuất kích, ngắn gọn và đầy đủ vậy thì còn ai bàn được gì nữa. Ông quay về phía bà Khang, riêng tôi chỉ biết tuân theo lệnh của anh Năm, còn ý bà thế nào?
 Bà Khang nhỏ nhẹ nói:
- Kể cũng hơi gấp. Nhưng đã nói là mệnh lệnh thì cứ thế mà thi hành. Khó mấy cũng phải vượt qua.
Thứ xin phép thưa:
- Thưa ba má! Thưa bố mẹ! Ba Năm phân định việc hôn lễ cho chúng con rất hợp tình, hợp lý và rất cụ thể. Con chỉ xin một điều, tứ thân phụ mẫu tuy chưa già nhưng cũng gọi là già, lo lắng cho các con như thế là quá nhiều rồi. Riêng phần kinh tế, chúng con xin tự lực cả phần nhà trai và nhà gái. Chúng con là những nhà khoa học, chẳng lẽ không lo nổi đám cưới cho mình mà ỷ vào bố mẹ già.
Ông Năm cắt ngang lời:
- Con nói sai rồi! Ba, má còn sống sờ sờ ra đây mà không cưới nổi vợ cho con à? Dựng vợ gả chồng cho con là nhiệm vụ của ba, má mà bắt các con đóng góp thì còn mặt mũi nào với thiên hạ nữa. Các con dành được bao nhiêu tiền thì để nuôi con sau này. Thế hệ nào có nhiệm vụ của thế hệ ấy.
Ông Dân nêu ý kiến:
- Phong tục tập quán trong này, tôi chẳng hiểu lắm. Những năm sống và chiến đấu ở miền Nam, tôi chỉ biết cầm súng nã vào đầu thù. Anh Năm, anh Tư dạy thế nào, vợ chồng tôi xin chấp hành vô điều kiện - ông cười khà khà, coi như  mệnh lệnh ngoài chiến trường.
Bà Khang khiêm tốn nói:
- Mọi việc chúng ta đều thông cảm với nhau trên cơ sở đồng đội và bạn bè. Nhưng mọi nghi lễ ở dưới này như: Đặt trầu cau, xin hỏi, xin cưới đề nghị anh chị Năm, anh chị Hai đều có mặt để chúng tôi giới thiệu với gia đình nhà gái cho thêm phần long trọng.
Ông Năm nói ngay:
- Đó là việc không phải bàn nữa. Khi nào anh chị Tư “triệu tập”, vợ chồng tôi và vợ chồng anh Hai xin sẵn sàng. Bây giờ xong việc, đề nghị anh chị Tư cho ăn cơm. Cái tính tôi nó thế, công việc là công việc, bàn xong mới nhậu, trong tiệc rượu không bàn công việc nữa. Ai say, tự do ngủ. Hôm nay, chúng ta phải uống thật say, không say không về để mừng...
Như một người dẫn chương trình kiêm chủ xị, ông Năm nói:
- Bữa tiệc bắt đầu. Ly đầu tiên, mừng anh Hai Dân chiến thắng trở về. Ba anh em tôi cụng ly. Các bà, các con uống bia, uống nước ngọt tùy khả năng, tùy ý thích. Đặt ly xuống bàn, ông Năm Mập đưa mắt kiểm tra ly của ông Dân và ông Tư Thành. Ly thứ hai mừng ba thằng ta hội ngộ, tôi chính trị viên, Anh hai Dân D trưởng, anh tư Thành C trưởng C1.
 Tiếng chạm ly cạch, cạch! Mỗi lần cụng ly các ông đều đứng thẳng, dáng rất “hiên ngang” và tươi cười mãn nguyện. Bữa tiệc sôi nổi, nhộn nhịp hẳn lên. Tiếng nói, tiếng cười muốn vỡ tung căn nhà.
Ly thứ ba mừng gia đình anh Hai Dân đoàn tụ, sum họp sau bao năm xa cách.  Ly thứ tư mừng hạnh phúc cho các con của chúng ta. Ly rượu này, các bà và các con đều phải tham gia, có thể uống chút đỉnh cũng được. Nhưng phải uống hết, tôi sẽ kiểm tra.
Ông Năm Mập kêu mệt, ngả lưng xuống giường. Chỉ một lúc sau, ông đã làm nhiệm vụ “kho cá”. Ông Tư Thành lai rai với ông Hai Dân được vài ly nữa, rồi lên giường nằm sóng đôi với ông Năm Mập. Thế rồi hai ông ôm nhau ngủ ngon lành. Ông Hai Dân ngồi nói chuyện với các bà và các con.
Nắng nhạt dần. Hoàng hôn từ từ buông xuống. Bà Năm sốt ruột đánh thức chồng dậy. Ba người lính già, ba người đồng đội tỉnh giấc. Bà Khang chuẩn bị nồi cháo vịt xiêm thật nhuyễn và sánh để các ông và mọi người ăn cho giã rượu. Bữa trưa chỉ uống rượu nên các ông đều thấy bát cháo vịt ngon và mát ruột. Ai cũng khen bà Khang nấu cháo khéo. Thứ và An chuyển những giỏ trái cây đủ loại như xoài, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt lên xe làm quà cho gia đình ông Năm, ông Hai.
Họ chia tay nhau sau khi đặt xong viên gạch đầu tiên cho ngôi nhà hạnh phúc của các con. Từ đây, họ thêm thắt chặt mối thân tình hơn.
Ăn cơm xong. Chờ An dọn dẹp mâm bát xong, bà Huyền hắng gọng nói:
- Việc tổ chức cưới cho các con, vợ chồng mình và các con nên tính toán lại. Bác Năm rất nhiệt tình, mãi mãi chúng ta phải biết ơn anh chị ấy. Nhưng cưới vợ cho con mình mà để anh chị ấy lo tất, tôi thấy thấy sái sẩm quá. Ngay lúc đó, tôi định có ý kiến nhưng hoàn cảnh nhà mình đang lúc khó khăn, eo hẹp. Hơn nữa, anh Năm còn nói mọi chi phí cho lễ vu quy đều do vợ chồng anh Tư Thành đảm nhiệm, tôi thấy ái ngại quá. Đành rằng việc xây dựng gia đình cho con là trách nhiệm chung của hai bên cha mẹ. Tôi thấy lo quá, mấy hôm nay, ăn ngủ không ngon.
 Ông Dân khe khẽ vỗ vai vợ, cười khà khà:
- Bà lo lắng làm gì cho tổn thọ. Đời bà vất vả, gian khổ, ăn đói mặc rách chưa đủ hay sao? Bây giờ,  bà nghỉ ngơi cho khỏe mặc bố con tôi. Nhân đây, tôi nói luôn. Anh Năm nói “Anh, chị Hai mới vô chân ướt, chân ráo, còn lạ nước, lạ cái đóng góp tùy khả năng”. Thế có nghĩa vợ chồng mình góp bao nhiêu cũng được. Nhận cả về phía mình anh chị ấy không nghe đâu. Anh Năm nói: “Mọi việc của nhà gái, nhờ ông bà Tư Thành lo liệu giùm”. Theo tôi, trước mắt vợ chồng mình góp 20 triệu đã rồi bàn tiếp. Phương án này, anh Năm không từ chối nổi tôi đâu. Về phía nhà gái, ta đưa xuống cho ông bà Tư Thành 10 triệu chắc là ổn. Vấn đề còn lại là việc sắm sửa cho các con chắc cũng mười triệu nữa là ổn.
Bà Huyền cắt ngang lời chồng:
- Ông nói nghe rất ngon, dễ dàng như trở bàn tay. Nhưng trong túi ông có đồng nào chưa? Ông trả lời tôi nghe.
Ông Dân nhìn thẳng vào mắt vợ cười cười nói:
- Các cụ đã dạy rồi! “Mạnh về gạo, bạo về tiền”. Tôi có trong tay 30 triệu rồi! Bà cứ yên tâm đi. Còn thiếu ta sẽ đi vay.
Để ông bà Dân và Thứ bàn bạc thoải mái, tự do, An khéo léo nói:
- Con xin phép bố mẹ con về đằng nhà. Em về anh Thứ nhé!
An ngập ngừng nói. Bà Huyền nói với theo:
- Trưa mai, con về ăn cơm nhé! Kể từ nay, con về bên này ăn cơm. Mẹ ở nhà sẽ nấu.
- Dạ!
Thứ tiếp tục động viên mẹ:
- Tiền bạc mẹ đừng bận tâm. Bố và con sẽ lo được. Ngoài số tiền bố có, chúng con cũng dành dụm được bằng số tiền của bố. Cơ bản là đủ rồi. Đâu sẽ có đó, mẹ cứ vui và chờ ngày cưới con dâu.
- Là mẹ nói vậy. Mẹ không trông nhờ vào chồng con thì còn biết trông cậy vào ai bây giờ. Mẹ như ếch ngồi đáy giếng, nghe người ta nói cưới vợ ở thành phố tốn kém lắm. Bố con ông liệu cơm mà gắp mắm.
9. Khoảng 6 giờ chiều. Tân đến đón ông Dân đến thăm nhà Hà. Trước khi đi, ông dặn vợ:
- Anh đi thăm đồng đội cũ. Chắc là khuya mới về. Em và con không phải chờ cơm.
Bà Huyền kéo tay chồng lại nói nhỏ:
- Anh nhớ uống vừa vừa thôi. Uống nhiều quá chẳng may trúng gió độc lại khổ vợ con. Tối nào anh cũng say khướt, quên cả vợ con!
Ông Dân hôn nhẹ lên má vợ:
- Em cứ yên tâm đi. Hôm nào anh cũng đi uống rượu thật nhưng có tối nào quên nhiệm vụ đâu. Bà Huyền khẽ tát yêu lên má chồng và bấm vào sườn, vào đùi:
- Già rồi...
Tân chở ông Dân đi vòng vèo hết phố này đến phố khác. Ông vừa nhìn thấy tên phố, chưa kịp hỏi Tân, xe lại đưa ông sang phố khác. Nhiều khi đèn sáng, Dân chỉ thấy loang loáng mà không biết đây là đường phố nào. Xe ngoặt vào trong hẻm. Đến một  cửa hàng ăn khách đông nghịt, người ra vào tấp nập. Nhưng đấy rõ ràng là quán ăn bình dân. Cửa hàng, bàn ghế và khách ăn đều là người lao động, quần áo đen nhẻm và đa phần là quần cộc, áo may ô. Tân dừng xe nói với ông Dân:
- Bác trông xe giùm em. Em vô đây có chút việc
Một lát sau, Tân lễ mễ xách một túi thức ăn và một can rượu từ trong tiệm bước ra. Mặc dù, Tân không nói gì như ông Dân thừa hiểu, Tân chuẩn bị sẵn đồ nhậu và rượu để khỏi phiền cho Hà.
Xe ngoặt vào trong hẻm “vương quốc” của người lao động nghèo, rồi vào hẳn trong ngách. Tân dừng xe. Dân xuống xe theo Tân. Tân gõ cửa, có tiếng nói từ trong nhà vọng ra.
- Tân đấy à? Vô nhà đi.
 Sáu Hà vốn quê miền Đồng Tháp Mười. Anh là con một gia đình nông dân thuần khiết, đông con. Anh được người chú ruột giáo dục tham gia cách mạng, nhập quân giải phóng khi vừa tròn 18 tuổi.  Anh chỉ quen việc cày cuốc trên đồng và bắt cá khi mùa nước nổi. Chính vì thế, mỗi khi gặp vũng nước hoặc đìa nước anh trổ tài bắt cá giúp bộ ba, Tân,  Hà và thủ trưởng Dân có bữa ăn tươi nhằm cải thiện đời sống. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đất nước thống nhất, Sáu Hà phục viên xin về quê cày ruộng, nhưng nghe Tân và một số bạn bè rủ rê anh ở lại thành phố làm ăn sinh sống. Sống ở Sài Gòn, anh không có anh em bà con thân thích mà chủ yếu dựa vào bạn bè. Mặc dù ở Sài Gòn,  nhưng anh vẫn giữ bản chất của người nông dân và người lính cụ Hồ. Vốn là một chàng lính trẻ đẹp trai, nhiều cô gái Sài Gòn chết mê, chết mệt nhưng Sáu Hà chọn Tám Bé - con một gia đình quê gốc Sài Gòn, ba và các anh trai Bé đều làm thợ, má cô buôn bán nhỏ ở chợ An Đông Sài Gòn. Sáu Hà nghĩ, gia đình Tám Bé không giàu có, tức là không bóc lột mà chỉ là gia đình lao động, buôn bán nhỏ nhưng thật thà, chân chất làm ăn. Gia đình bên nội không có ai ở Sài Gòn thì gia đình bên vợ sẽ là chỗ dựa vững chắc cho anh. Tám Bé theo má đi chợ buôn bán từ nhỏ nên rất rành việc buôn bán ở chợ. Khi Tám Bé lấy anh bộ đội Vũ Minh Hà thì chị theo chồng làm công nhân cùng với chồng.
Tân tay xách can rượu, tay xách túi thức ăn đẩy cửa bước vào. Dân lặng lẽ bước theo. Hà ngồi dậy nói:
- Nghe tiếng xe và tiếng gõ cửa tao nhận ra mày liền.
- Mày vẫn tự nhận có trí nhớ hơn người. Xưa nay, Tao vẫn bái phục. Nhưng mày có nhận ra ai đây không? Tao xem tài nhớ của mày đến cỡ nào? Có bằng tao không?
Tân nói. 
Sáu Hà mở to đôi mắt nhìn Dân từ đầu tới chân. Dân cũng chiếu thẳng đôi mắt sáng rực về phía Hà. Bốn con mắt nhìn nhau như để giao cảm, tìm kiếm, lục lọi trong trí nhớ mà bấy lâu giấu kín với con người thực trước mặt. Người này là ai? Một lúc sau Sáu Hà nói:
- Người này có những nét quen quen, phải nói là rất quen mới đúng. Nhưng là ai thì tao chịu rồi!
Tân cười đắc thắng:
- Thế là mày thua tao rồi. Vừa gặp ông này ở ga Sài Gòn tao nhận ra liền, hỏi đúng tên. Mày nghĩ đi, tao để cho mày hẳn 10 phút nữa. Tao gợi ý cho mày nhé! Người thân, một thời sống chết có nhau đấy. Một thời nhường cơm,  sẻ áo cho nhau đấy!
Hà lắc đầu.
Tân cười:
- Quên thật rồi! Từ nay, tao xếp mày trí nhớ loại tồi. Bây giờ, tao xin giới thiệu để mày sáng mắt ra. Đây là thủ trưởng Dân của Tao với mày.
Hà vất vả, nặng nề lê đôi chân tới. Họ ôm lấy nhau. Hà khóc tu tu như một đứa trẻ. Hà nói qua làn nước mắt. Năm 1972 em và thằng Tân khóc anh như cha chết, mẹ chết. Cứ tưởng anh nằm lại ở nơi ấy vĩnh viễn. Nào ngờ… Chẳng lẽ anh chui ở dưới đất lên à? Hay là hồn ma hiện về, vào hùa với thằng Tân để lừa em. Hà lại khóc tu tu và kêu... Anh Dân ơi! Anh Dân ơi! Tại sao mày tồi thế Tân?  Mày gặp anh Dân từ bao giờ mà hôm nay mày mới cho tao biết. Mày là thằng tồi! Tồi hơn bất cứ thằng tồi nào.
- Tao đi đón khách. Tao gặp anh Dân ngoài ga. Tao hỏi bác đi xe ôm để em chở. Anh Dân nói cám ơn. Tôi có người nhà đón rồi. Mày biết không: Tao rất buồn. Tao bỏ đi liền. Nhưng tao quay lại hỏi: Em trông bác quen quá. Xin lỗi bác, bác có phải là thủ trưởng Dân, D trưởng B26? Vâng tôi là Dân đây. Hai anh em ôm nhau như mày và anh Dân ôm nhau hồi nãy. Ngay tối đó, tao đón bác Dân tới nhà chơi. Hôm nay, tao muốn dành cho mày sự bất ngờ và kiểm tra trí nhớ của mày.
Hà gọi vợ đến giới thiệu.
Tình thế buộc Dân phải tái bản cuốn tiểu sử bản thân những năm qua cho Hà và Tân nghe. Hà cười hề hề:
- Ly kỳ như cuốn tiểu thuyết trinh thám, ai mà nhớ nổi.
- Còn em so với anh thì ly kỳ hấp dẫn đến cỡ nào?
Dân hỏi.
Với giọng buồn buồn, đều đều, Hà kể:
- Hòa bình, em và Tân xin phục viên và ở lại Sài Gòn. Thằng Tân thì anh biết rồi. Lúc đầu, em làm ở phòng kế hoạch tài vụ tại nhà máy ĐN. Có thể nói, em gặp may hơn Tân rất nhiều. Công việc rất thuận lợi và em ngày càng có uy tín với lãnh đạo nhà máy và công nhân. Thời gian không lâu, em phát hiện thấy tay Phó Giám đốc nhà máy thông đồng với tay Trưởng phòng Kế hoạch Tài vụ phù phép nhập nguyên vật từ nhà máy này rồi lại lấy lý do hỗ trợ cho đơn vị bạn, nhường nguyên vật liệu cho nhà máy khác, lấy cắp tài sản của nhà máy tới 127 triệu đồng. Đồng tiền lúc ấy có giá trị lắm. Em kiên quyết tố giác chúng. Họ phải bồi thường cho nhà máy số tiến ấy. Giám đốc Hùng, buộc phải bàn với Phó Giám đốc Cường tính cách thí tốt. Họ buộc phải cách chức và sa thải Trưởng phòng Kế hoạch Tài vụ Dữ. Em nổi tiếng là người vác cờ đầu đi tiên phong trên mặt trận chống tham nhũng. Báo chí Trung ương và địa phương hết sức ca ngợi em. Họ đưa em vào làm Phó Ban thanh tra nhân dân của nhà máy. Em tiếp tục phê phán, lên án cách quản lý tài chính lỏng lẻo, chi tiêu vô nguyên tắc như ăn nhậu bừa bãi, làm thất thoát tài sản của nhà máy. Giám đốc Hùng, một đôi lần gặp em, động viên, khen ngợi tinh thần đấu tranh và khích lệ em mạnh dạn phát hiện, tố giác những biểu hiện tiêu cực trong nhà máy. Em như được chắp cánh. Tất cả những biểu hiện như ăn cắp vặt, đi muộn về sớm, lãng phí nguyên vật, tài sản của nhà máy đều nằm trong tầm ngắm của em. Những người tốt, người đúng đắn đều ủng hộ đứng về phía em. Những kẻ xấu, tiêu cực tập hơp nhau lại thành lực lượng chống đối em.
Hôm ấy, là một ngày đẹp trời. Mặt trời như khối lửa đỏ vừa vượt khỏi nhà máy. Gió thổi mát rượi… Bỗng nhiên, gió tăng tốc thổi vù vù. Mây ùn ùn kéo tới. Mưa bắt đầu rơi. Mưa nặng hạt. Mưa như trút nước. Mưa xối xả. Mưa gõ trên mái nhà thình thình, ầm ầm, ào ào. Nước mưa chảy xuống cống rãnh ở nhà máy réo ồ ồ. Đúng là những cơn mưa Sài Gòn quả không sai. Tất cả công nhân nhà máy vẫn đều hăng say làm việc. Tiếng máy chạy ầm ầm, tiếng mưa rơi ào ào. Cả nhà máy chìm ngập trong tiếng máy, tiếng mưa rơi làm át đi tiếng nói, tiếng trao đổi, mạn đàm của các phòng hành chính. Em còn đang phấn chấn, vui mừng với công việc của mình. Em nghĩ phải làm gì để phát huy được tác động tính tích cực góp phần đưa nhà máy tiến lên. Mưa đã ngớt. Mưa tạnh hẳn.
Giám đốc Hùng cho người gọi em lên phòng làm việc. Ông ta tươi cười,  hể hả nói:
- Nhà máy ta cần mua một số nguyên vật liệu quan trọng ở các tỉnh miền Tây. Suy đi, tính lại, người đi áp tải nguyên liệu này ngoài đồng chí ra không ai làm nổi. Vậy đồng chí hãy vì nhà máy, cố gắng đi một chuyến giúp chúng tôi, giúp nhà máy. Xưa đồng chí là dũng sĩ diệt Mỹ nay là dũng sĩ trên mặt trận chống tham nhũng. Đồng chí lại là người địa phương, thông thạo tập quán, đường đi lại.
Em phấn chấn hẳn lên:
- Được Giám đốc tin tưởng giao việc, dù phải nhảy vào lửa tôi cũng không ngần ngại, tiếc xương máu, hứa sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Giám đốc kéo em lại gần nói nhỏ:
- Ngoài đồng chí ra, còn mấy người cùng đi. Nhiệm vụ của Hà phải đoàn kết với mọi người, giúp đỡ họ để cùng hoàn thành nhiêm vụ được giao.
Ngày lên đường đã tới. Xe cộ đã chuẩn bị xong. Người cùng đi với em có lái xe Túc và Cường râu, Tám Hậu. Ba người này em biết rất rõ, lái xe Túc hiền lành như cục đất. Cường râu, Tám Hậu đều là lính thời đánh Mỹ ở miền Nam. Với những con người này, em có thể tuyệt đối tin tưởng ở họ. Lời dặn của Giám đốc không thừa. Nhưng em quá hiểu về những ưu điểm và cả những ngang tàng, liều mạng của họ. Bảy ngày sau, xe hàng và người về đến nhà máy. Em đang vui mừng, hãnh diện, tự hào về chuyến đi vừa qua. Xe vừa qua cổng nhà máy, công an, bảo vệ chặn lại kiểm tra. Số hàng của nhà máy thiếu đứt mười thùng. Nhưng thừa mười thùng thuốc lá ngoại nhập lậu. Lái xe Túc, Cường râu và Tám Hậu đều khai, sau khi nhận hàng để sáng mai đưa về nhà máy, đêm ấy, đồng chí Hà trực tiếp ngủ tại xe. Ba chúng tôi được đồng chí Hà bố trí ngủ ở nơi khác. Đồng chí Hà ngủ tại xe để bảo vệ hàng. Ngày hôm sau, trên đường về, xe dừng lại ở bến phà Bắc Mỹ Thuận. Khi ăn cơm xe đậu ở trước cửa hàng. Bốn người ăn cơm và cùng nhìn ra xe. Xe hàng bịt kín mít, chẳng ai biết hàng gì. Em thừa nhận lời khai trên là đúng. Ngay khi ấy, em bị công an giữ lại để làm rõ sự việc về số hàng bị mất và số thuốc lá lậu. Em bị tòa xử với hai tội danh: Lấy cắp hàng của nhà nước và phải bồi thường 30 triệu đồng và bị phạt hai năm tù giam. Buôn bán hàng lậu, quốc cấm bị tịch thu, phạt một năm tù giam. Cả thảy là ba năm tù giam.
Hai năm sau, em được ra tù. Vợ em buộc phải dốc toàn bộ tiền bạc và mọi khả năng kinh tế của gia đình, bán nhà lớn, mua nhà nhỏ theo phương pháp cổ truyền trút nồi sang niêu để lấy tiền đền cho nhà máy. Khi ra tù, em mới biết, Cường râu và Tám Hậu vâng lệnh Giám đốc Hùng chuốc rượu và bỏ thuốc mê cho em và lái xe Túc say để lấy cắp hàng và tráo hàng lậu vào. Mặt khác thuê người đi báo công an, cho nên xe chở hàng của bọn em vừa về tới nhà máy bị bắt liền. Em tới nhà máy chửi thẳng vào mặt Giám đốc Hùng. Không kìm nổi bực tức, vốn tính nóng nảy, em đã ném ghế vào mặt Giám đốc Hùng. Rất may, Giám đốc Hùng tránh được. Giám đốc Hùng cho bảo vệ nhà máy giữ Hà lại, lập biên bản khép vào tội phá hoại nhà máy và có hành động, ý đồ ám hại lãnh đạo. Ngay lúc đó, Giám đốc Hùng gọi điện cho công an, em bị bắt và vào nhà đá lần thứ hai.
Vợ Hà xin nghỉ việc nhà nước, quay về với nghề cũ, chạy chợ kiếm sống và nuôi chồng, nuôi con. Vết thương sọ não tái phát, Hà thường xuyên đau ốm, chân tay bị co giật, chẳng làm gì nổi. Vì đau ốm cả năm, cả tháng lại uất ức vì thời cuộc, Hà hay cáu gắt, bẳn bó vợ. Tám Bé phải nhẫn nhục chịu đựng, nhường nhịn chồng. Rất may, Tám Bé khỏe mạnh, buôn bán giỏi nên gia đình cũng mát mặt, tạm no cơm, ấm áo với mức bình dân.
Với giọng đau đớn, chua xót, Tân nói:
- Tao làm ăn láo phải tù đã đành, mày là người tốt, lúc nào cũng vì nước, vì dân, vì nhà máy mà chẳng thoát khỏi vòng tù tội. Thật bất công, trớ trêu. Nhưng hôm nay có bác Dân vô đây, tao nói mày ngu và mất cảnh giác nên mới chui vào bẫy của lũ người xấu. Vì mày say chiến thắng, mày cho rằng sau chuyện này, họ sẽ phanh phui nhanh chóng, thanh minh, giải oan cho mày. Tình ngay, lý gian. Thôi! Đừng buồn phiền nữa, chấp nhận số phận thôi! Lâu ngày, anh em gặp nhau mình uống rượu đã để mừng cho sự họp mặt của anh em ta.
- Vừa đặt chân tới Sài Gòn, bác Dân đã tới thăm tụi mình, thấy em nghèo khổ lại còn cho tiền nữa.
Tiếp lời Tân, Dân nói:
- Nghe Tân nói, Hà luôn đau yếu, kinh tế lại gặp nhiều khó khăn, anh gửi em ít tiền để thuốc thang và may quần áo cho các cháu. Dân lôi từ trong túi bọc tiền đưa cho Hà. Hà ngồi ngây người ra chưa biết nói gì cho phải. Tân đón lấy gói tiền, mở ngay ra đếm trước mặt cả nhà. Bỗng Tân cười thật to và nói lớn:
- Đúng ba triệu đồng. Bác Dân cư xử thật tuyệt vời. Tao còn khỏe mạnh còn lái được “ngựa sắt” chạy vù vù khắp thành phố, bác Dân cho hai triệu. Hà bệnh tật hay đau yếu, bác Dân cho ba triệu. Bác Dân đã cho, mày cầm lấy và cất đi cho tao nhờ. Tân ấn gói tiền vào túi Hà. Uống cạn ly rượu, Hà nước mắt lưng tròng nói:
- Hoàn cảnh bác Dân cũng chẳng hơn gì em và Tân. Nhưng một miếng khi đói bằng gói khi no. Vợ chồng em và các cháu không bao giờ quên tấm lòng của bác.
Ông Dân, cắt lời Hà:
- Vài ngày nữa, Tân chở Hà đến Bệnh viện X nằm điều trị một thời gian cho khỏi bệnh đi.
Hà giãy nảy lên như đỉa phải vôi:
- Lấy tiền đâu mà đi nằm viện, nào tiền thuốc, tiền ăn, tiền quà cáp cho bác sĩ và còn bao nhiêu thứ chi tiêu không tên nữa.
- Em cứ yên tâm đi! Đây là bệnh viện của quân đội. Em là thương binh nặng, nhà nước và quân đội sẽ nuôi em… Con trai, con dâu anh là bác sĩ ở đó, em lo gì nào?
Dân nói với Hà.
- Ngày mốt, tao sẽ chở mày đi viện. Tao chở miễn phí mà, được chưa?
Tân hỏi. Hà đánh trống lảng;
- Uống đi! Việc đó tính sau.
Tiếng chạm ly cạch, cạch. Đặt ly xuống bàn, Dân động viên Hà:
- Hà ạ! Nếu em thương vợ, thương con, thương anh và Tân thì em phải đi bệnh viện ngay. Bệnh tình của em, nếu không chạy chữa kịp thời, rất có khả năng bị liệt, nằm đâu, nằm đó. Anh không dọa đâu. Cái đột tử dễ dàng đời với em lắm. Đã là anh em một thời nhường cơm, sẻ áo cho nhau, một thời sống chết cùng nhau, anh nói thật. Mọi việc anh và Tân sẽ lo.
Hà đưa tay gạt nước mắt:
- Anh và thằng Tân đã nói vậy, em xin phục tùng và hứa chấp hành nghiêm chỉnh.
Hà gượng nói:
- Nếu thiếu gạo, em cho vợ đến nhà thằng Tân mà lấy. Nếu thiếu tiền đến nhà anh Dân mà hỏi.
Tân cười khà khà:
- Được! Được! Đừng có thách nhà giàu húp tương. Vài chục cân gạo đối với tao chẳng thấm vào đâu. Một ngày chạy xe, vợ con mày ăn nhòe. Uống ly này để quyết định Hà đi Bệnh viện.
Ngoài đường vắng người đi lại. Không gian yên tĩnh, nhiều căn nhà tắt bớt đèn. Đường phố giảm bớt ánh sáng, chỉ thấy mờ mờ. Gió thổi nhè nhẹ. Trăng, sao trên trời cũng thưa thớt. Những đám mây lãng đãng trôi. Tân chở Dân về nhà. Thứ đi trực vắng. Bà Huyền không tài nào ngủ nổi. Ruột gan bà cứ như lửa đốt. Hai, ba lần, bà ra cửa ngóng chồng mà vẫn biệt vô âm tín. Bà ngồi duỗi chân, tay để trên gối, mắt buồn buồn nhìn lên màn hình ti vi. Bỗng có tiếng gõ cửa. Bà Huyền mừng quýnh lên, chạy ra mở cửa:
- Em đưa trả chị anh Dân! Còn nguyên vẹn. Tân cười khì khì, chị khám lại xem em nói có đúng không?
- Mời chú vào nhà chơi! Liệu anh có say không?
- Còn lâu! Say thế nào được anh! Anh Dân là cầu thủ siêu hạng. Anh Dân mà say thì chúng em chết không kịp ngáp. Một ngày gần đây, thằng Hà khỏi bệnh, chúng em sẽ tới thăm anh, chị, để chị hiểu tình cảm của ba anh em. Thôi! Em về đây! Khuya rồi! Em chào anh chị.
Tân vội vàng biến vào trong đêm.
Bà Huyền đến ngồi bên cạnh chồng. Bàn tay bà âu yếm, nhẹ nhàng đặt lên người chồng. Bỗng bà hốt hoảng kêu lên:
- Trời ơi! Người anh nóng bỏng như than. Rượu tỏa ra khắp người đây này.
- Không sao đâu! Anh tắm xong là khỏi liền. Vừa nói xong, ông Dân cởi hết quần áo dài vắt trên ghế. Ông xăm xăm đi vào nhà tắm. Bà Huyền vội kéo chồng lại.
- Uống rượu xong mà tắm ngay dễ bị cảm, có thể chết đột tử như chơi.
- Chết thế nào được anh. Bà Huyền kéo chồng lên giường. Bà lấy khan lau mặt, lau người cho chồng. Vừa đặt mình xuống, ông Dân kéo gỗ ngay. Bà Huyền không hề chợp mắt. Thỉnh thoảng bà lại sờ lên người chồng. Ông Dân ngủ say như chết, ngáy như sấm vang. Bà Huyền cảm thấy thương và lo cho sức khỏe của chồng. Một thoáng buồn, một chút giận hờn qua đi.
Gần sáng, ông Dân tỉnh rượu. Ông kéo vợ quay lại, ôm gọn bà vào lòng.

10. Hết thời gian nghỉ, ông Dân tới trường. Ông chào bạn bè, đồng nghiệp. Ông bắt tay thăm hỏi tất cả giáo viên có mặt ở phòng chờ hôm đó. Mỗi bạn bè, đồng nghiệp, ngoài lời thăm hỏi, chúc mừng, ông còn gửi tặng nụ cười tươi rói, thân thiện và cái bắt tay siết chặt. Tập thể giáo viên có mặt hôm đó, ông Sơn và ông Hùng là những thương binh, tuy mới gặp nhưng qua lời giới thiệu của mọi người, tình cảm của các ông dành cho nhau thắm thiết, yêu thương hơn.
Từ phòng chờ đến lớp 12B cách khoảng gần 100 mét. Còn 5 phút nữa mới đến giờ lên lớp. Mọi giáo viên còn ngồi uống nước và tán gẫu nhưng ông Dân vội vàng cắp cặp lên lớp. Ông Sơn, Hùng ngăn lại:
- Thong thả! Còn năm phút nữa mới đến giờ!
Ông Dân nhoẻn miệng cười nói:
- Đôi chân thương tật, di chuyển chậm chạp, vất vả nên tôi có thói quen đến lớp sớm hơn mọi người.
Tất cả học sinh đứng dậy chào. Tay vẫn cắp cặp, ông Dân đứng lặng yên, đưa  mắt nhìn khắp lượt 40 học sinh.
- Thầy cảm ơn. Mời các em ngồi. Theo thông báo của nhà trường, về cơ bản các em có những hiểu biết về thầy bước đầu. Vì thế thầy không giới thiệu về mình nữa. Nhà đại văn hào nước Nga nói “Con mắt là cửa sổ tâm hồn”, thấy muốn gửi lòng mình tới các em qua đôi mắt và tặng các em một vườn đầy hoa và rộn tiếng chim. Vì thế, khi bước chân vào lớp, con mắt của thầy phải đến với tất cả bốn mươi khuôn mặt và khắc sâu vào trái tim mình những hình dáng của mỗi em. Do đó thầy để các em đứng hơi lâu. Rất mong các em thông cảm. Thầy trò ta bắt đầu học bài mới.
Tiếng thầy Dân luôn hòa đồng với cảnh vật, tâm trạng nhân vật trong bài. Khi thầy trầm lắng, nhỏ nhẹ, thánh thót như tiếng đàn bầu trong đêm khuya thanh vắng. Khi thầy buồn buồn, ảm đạm như tiếng gió thổi, tiếng lá rơi xào xạc khua vào nhau giữa cái không gian bao la rộng lớn. Lại có lúc tiếng thầy sôi nổi, mạnh mẽ như tiếng sóng cuồn cuộn, ào ào của đại dương  mênh mông. Khi cần triết lý, khúc triết, tiếng thầy ngắn gọn và sắc như tiếng gươm đao chém vào thân cây, vào đá núi giúp học sinh hiểu bài sâu sắc. Khi cần biểu lộ tình cảm, tiếng thầy êm êm, mượt mà, thủ thỉ như những khúc dân ca, rót mật vào tai học sinh. Cả lớp im phăng phắc, lắng nghe như nuốt lấy từng lời. Chỉ có tiếng soàn soạt trên trang giấy. Lại có lúc, thầy dừng lại đặt những câu hỏi để học sinh phải suy nghĩ, dắt dẫn các em tiếp cận, tiếp thu bài giảng dễ dàng. Thầy khen ngợi, động viên,  khích lệ những ý kiến đúng đắn sâu sắc. Thầy ôn tồn nhận xét, chỉ bảo những ý kiến chưa hoàn thiện, chỉ ra cái đúng, cái hay và những thiếu sót của mỗi học sinh.
Khi thầy nói đến câu: Bài học của chúng ta đến đây là kết thúc. Cảm ơn sự chú ý lắng nghe của các em thì cũng là lúc tiếng trống trường vang lên tùng! tùng! tùng! Cả lớp đứng dậy chào thầy, kèm theo tiếng vỗ tay nhiệt liệt của học sinh. Các em nhìn người thầy giáo thương binh, bước thấp, bước cao đi ra khỏi lớp. Hình ảnh người chiến sĩ dũng cảm và hình ảnh người thầy giáo tài hoa quện vào nhau im đậm trong lòng mỗi học sinh.
Vừa về đến nhà, Hà đã rối rít khoe với ba, má và chị Hạnh:
- Bố Dân về dạy ở trường con. Tình cờ thế nào, tiết dạy đầu tiên của bố lại dạy lớp con. Lớp con bị bố thu hút ngay từ câu nói đầu tiên cho đến khi kết thúc bài giảng. Cả lớp im phăng phắc, há hốc mồm ngồi nghe, chỉ có tiếng bút đưa trên trang giấy. Bố Dân có giọng nói rất truyền cảm, ngọt ngào, không thừa, không thiếu và triết lý sâu sắc.
Ông Năm Mập nở nụ cười, vỗ vai con gái nói:
- Thế à? Liệu con có mắc chứng bệnh “Mẹ hát con khen hay không”? Hà  vờ nổi giận đấm nhè nhẹ vào lưng bà:
- Ba định kết tội con là xen lẫn tình cảm bố con trong việc nhận xét đánh giá chứ gì? Thiếu khách quan, vô tư chứ gì? Thưa ba! Con nhận xét hoàn toàn đúng với khách quan, khoa học công bằng vô tư.
Ông Năm quay lại xoa đầu con gái:
- Ba chịu thua rồi! Tốt lắm!
11. Ngày cưới An và Thứ sắp tới gần. Người lo lắng nhất là bà Huyền, sau nữa là Thứ và An. Thiếp mời gửi khắp nơi rồi. Thứ nói với bố:
- Bố đã thảo luận và đưa tiền cho ba Năm chưa? Kết quả thế nào?
- Xong rồi! Nhà mình một nửa, nhà anh chị Năm một nửa. Phương án ấy anh chị Năm không thể từ chối nổi.
- Nhưng bố lấy đâu ra tiền mà nhiều thế?
- Lấy trong Ngân hàng nhà nước!
Bà Huyền lo lắng cắt ngang lời chồng:
- Việc hệ trọng như thế mà ông còn đùa nổi à?
Ông Dân vừa cười, vừa vỗ vai vợ giải thích:
- Cái số đào hoa của tôi đi đến đâu cũng có quý nhân phù trợ. Chuyện là thế này, tuần trước, tôi đến nhà xuất bản in cuốn tiểu thuyết “Một bến hai đò” để nói lên tình yêu của tôi với bà. Tình cờ, tôi gặp anh Nguyễn Trọng Huân, giám đốc nhà xuất bản, bạn chiến đấu khi xưa. Anh còn là đồng hương của tôi.
Anh ấy quê xã nào, huyện nào?
Bà Huyền hỏi:
- Anh ấy quê miền đông, tôi chẳng nhớ ở xã nào? Gặp tôi,  anh ấy mừng lắm. Vì trong ký ức của anh ấy, tôi đã chết và nằm lại vĩnh viễn ở cứ điểm Al rồi! Lúc ấy, anh Bảy Huân làm Chính trị viên phó tiểu đoàn. Sau khi diệt xong cứ điểm Al, đơn vị rút khỏi cứ điểm, thương binh, liệt sĩ đưa ra hết rồi. Kiểm điểm lại chỉ còn thiếu một mình tôi. Anh Bảy Huân và Tân (chú Tân vẫn hay đến nhà mình) quay trở lại tìm tôi. Không tìm thấy người mà chỉ thấy khẩu súng ngắn, cái xà-cột đựng tài liệu và cái bình tong của tôi. Họ kết luận là tôi đã hy sinh. Họ phải ngủ rừng đêm hôm đó. Ngày hôm sau nhịn đói, nhịn khát cắt rừng, luồn rừng trở về. Đêm hôm sau, họ mới về tới đơn vị. Một lần nữa, tôi phải tái bản cuộc đời sống chết của mình cho anh Bảy nghe.
Anh Bảy xúc động gạt nước mắt nói:
- Thật không ngờ, anh em mình lại gặp nhau ở đây. Tôi cứ nghĩ, anh hy sinh mấy chục năm rồi và không biết có tìm thấy hài cốt không? Việc cưới vợ cho cháu, anh chuẩn bị đến đâu rồi? Tiền bạc còn thiếu bao nhiêu nữa?
Tôi ngồi lặng im, không biết nên trả lời anh thế nào cho phải. Anh Bảy nói ngay, anh định giấu tôi chứ gì? Một lúc sau, tôi đành phải nói thật:
- Tôi định giấu anh việc tiền bạc. Nhưng anh đã hỏi, tôi xin nói thật. Thật tình tôi rất kẹt tiền. Anh Năm Mập nguyên Chính trị viên tiểu đoàn, giờ là Thiếu tướng Phó Tư lệnh quân khu vừa mua cho hai bố con tôi hai chiếc xe máy trị giá khoảng 40 triệu đồng. Đám cưới con tôi, anh nhận lo từ đầu đến cuối. Tôi có bao nhiêu cũng được, vì chiếu cố vợ chồng tôi mới vào Sài Gòn còn lạ nước lạ cái. Thế mới khổ cho tôi chứ? Cuốn tiểu thuyết của tôi có giấy phép xuất bản rồi, nhờ anh in giùm và cho tạm ứng ít tiền.
Anh Bảy Huân thủng thẳng nói:
- Anh Năm Mập tôi nhớ rồi. Năm Mập nhưng mà “ốm” nhách chứ gì. Mời anh về đằng nhà dùng cơm với vợ chồng tôi, để tôi giới thiệu vợ con với anh.
Nhà anh Bảy Huân cũng, lớn như nhà anh Năm Mập và chẳng thiếu thứ gì. Vợ con anh bảy Huân đi vắng cả. Vì dở buổi, dở thì làm gì có ai ở nhà. Chị Bảy đi làm, các cháu đi học. Sau tuần trà xã giao, anh Bảy Huân mở tủ lấy bọc tiền đưa cho tôi:
- Tôi giúp anh bằng số tiền anh Năm Mập giúp, nghĩa là 50 triệu.
- Tôi một mực từ chối. Anh Bảy Huân cứ nhét tiền vào cặp và nói:
- Coi như tôi tạm ứng tiền nhuận bút cuốn tiểu thuyết cho anh. Khi nào lĩnh tiền nhuận bút anh trả lại tôi. Nếu anh quên, tôi sẽ trừ. Đồng tiền nó liền với ruột mà.
Bây giờ, tôi mới cầm số tiền ấy. Tôi nghĩ, có đến nhuận bút 5 cuốn tiểu thuyết tiền cũng chưa đủ số tiền này. Đến lúc này, tôi mới thấy mình có lỗi là chưa một lời hỏi thăm vợ con anh Bảy Huân. 
- Anh Huân! Cho tôi xin lỗi. Mải nói chuyện tiền bạc nên tôi chưa hỏi thăm chị và các cháu. Anh Bảy Huân giọng buồn buồn kể:
- Sau ngày giải phóng, tôi được phân công về nhà xuất bản. Tôi đã gặp cô Kiều Thị Thu Hương nhân viên đánh máy của nhà xuất bản. Cô ấy trẻ đẹp nên hút hồn tôi ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Tôi một sĩ quan trẻ, đẹp trai từng làm cán bộ chính trị, nói năng hoạt bát và có giọng hát vàng trời cho. Những buổi biểu diễn văn nghệ, hai chúng tôi thường hát cùng, đóng kịch cùng. Những vai vợ chồng mà chúng tôi đóng đều được khán giả nhiệt liệt tán thưởng,  khen ngợi. Trên sân khấu là thật, ngoài đời là giả. Thật giả cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần, chúng tôi yêu nhau lúc nào không hay. Tôi đón bố mẹ vào gặp ba, má cô ấy. Hai bên cha mẹ đều thấy chúng tôi là một  cặp đôi trời cho, thật là trai tài, gái sắc. Đám cưới của chúng tôi nhanh chóng tổ chức. Hương người tầm thước, thanh tú. Da Hương trắng hồng, mịn màng, lúc nào tôi cũng muốn hôn và cắn lên làn da của nàng. Đôi mắt của nàng mới đẹp làm sao, khi nàng ngước mắt lên sáng long lanh, thông minh sắc sảo lạ thường. Khi nàng nhìn xuống, mắt đen như hạt nhãn một nỗi buồn mơ màng, lãng mạn khó quên, tôi luôn ngụp lặn trong đôi mắt ấy. Cái cổ cao cao, bà mụ kẻ cho nàng ba đường ngấn thật tuyệt vời, Bờ vai tròn lẳn, trắng như ngó sen, mịn màng như nhung, lúc nào tôi hôn lên đó. Hàm răng của nàng đều tăm tắp, trắng ngần được bao bọc bởi cái miệng xinh tươi, cái môi đỏ đỏ như tô son, Đôi má bầu bầu trắng như bột lọc với hai cái lúm đồng tiền duyên dáng. Những lúc nhàn rỗi, tôi chỉ muốn hôn lên nơi ấy. Có lẽ, tôi là thằng đàn ông mắc bệnh ích kỷ, muốn giữ nàng ở nhà để hưởng thụ cái đẹp một mình. Lấy tôi được ba tháng, kiếm cớ nàng ốm nghén, tôi không cho nàng đi làm. Thế là nàng chỉ việc ở nhà lo trang điểm, cơm nước, giặt giũ chờ chồng đi làm về. Chiều nào, đi làm về, tôi cũng hôn nàng đến ngạt thở và nhấc bổng nàng lên. Tôi cứ nghĩ, tôi đã mang hạnh phúc đến cho nàng và nàng gắn chặt với đời tôi. Nhưng tôi đã lầm, trong khi tôi đi làm thì nàng đón người tình cũ về hú hí với nhau suốt từ sáng tới. Nàng cùng người tình cũ, vơ vét sạch bách tài sản của tôi rồi trốn tiệt… Người tình của nàng xưa là tên sĩ quan ngụy ác ôn khét tiếng, có nhiều nợ máu với nhân dân. Anh tính thế có đau không? Nghe đâu, họ đưa nhau trốn ra nước ngoài. Nàng để lại cho tôi mấy hàng chữ nhưng như dao đâm nát tim tôi, rằng:
 “Anh Huân thân mến! Cảm ơn anh! Những ngày sống bên anh,  Hương quá sung sướng, đầy dủ và quá tự do. Nhưng Hương phải đi theo tiếng gọi của trái tim. Và cũng xin nói thật, đứa con trong bụng Hương không phải là con anh. Nói ra điều này hơi tàn nhẫn  và độc ác nhưng vẫn phải nói.  Vì nó là sự thật. Vĩnh biệt anh”.
Anh Dân! Thế có trắng trợn, có tàn bạo không? Nếu tôi gặp hai kẻ đó, thì tôi sẽ xả cả băng AK cho chúng chết đi, dù tôi có phải đi tù!
-Thôi! Anh Huân ạ! Cái gì đã qua thì cho nó qua việc ấy đã thành sẹo rồi nhắc tới cũng chẳng ích gì. Thế thời gian bao lâu thì anh lấy chị sau? Tôi hỏi.
Anh Huân buồn buồn, mắt ươn ướt nói: Cũng phải ba, bốn năm sau tôi mới lấy vợ, vì lúc đó, tôi rất căm ghét phụ nữ. Người vợ sau của tôi tên là Dương Thị Hòa. Cô ấy làm công nhân. Đúng với cái tên cha mẹ đặt. Cô ấy chỉ biết thu vén cho cái gia đình nhỏ, tất cả dành cho chồng con. Nhiều khi, tôi phải cáu gắt, cô ấy mới chịu ăn ngon, mặc đẹp. Cô ấy sinh cho tôi hai thằng con trai.
Nhận số tiền ấy, chia tay anh Huân tôi đi thẳng đến nhà Năm Mập và đưa cho anh ấy 30 triệu. Số tiền các con dành dụm được và tiền mừng cưới sau này, các con giữ lấy làm vốn liếng. Số còn lại giao cho bà quản lý và chi tiêu.
Bà Huyền mở to mắt nhìn chồng, nhìn con:
- Đây là tiền của anh, em giữ làm gì. Anh cất đi sau này còn trả người ta.
- Tiền trong túi anh là tiền của anh. Tiền của anh cũng là tiền của em. Em chẳng giữ thì còn ai vào đây nữa.
Bà Huyền cầm bọc tiền cất vào trong tủ. Kể từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay, lần đầu tiên trong đời bà được quản lý số tiền lớn như vậy. Số tiền này, bà bán mặt cho đất, bán lưng cho trời cả đời cũng không có. Bỗng bà ngồi thừ ra, nếu ông ấy không bị thương và bị bắt thì ông ấy chẳng kém anh Năm, anh Bảy.
Thứ động viên mẹ:
- Mẹ cứ yên tâm đi! Cưới xong, nợ ai chúng con trả bằng hết “đồng tiền đi liền với ruột”, vợ chồng con chịu khó ít năm là đủ tiền trả nợ. Bố mẹ cực khổ quá nhiều rồi, quãng đời còn lại, bố mẹ nghỉ ngơi cứ an tâm.
Đám cưới Thứ - An diễn ra đúng với dự kiến. Bạn bè của bố mẹ, ba má Năm một thời chiến đấu sống chết có nhau đều tới dự đầy đủ cả. Bạn bè của Thứ - An không thiếu một ai. Anh em nhà ông Năm, ông Tư Thành có mặt đông đủ. Đám cưới thật là đông vui, ai cũng khen cô dâu, chú rể thật là đẹp đôi, hạnh phúc. Đúng là trai tài gái sắc. Mặc dù ngoại út tuổi cao,  sức yếu đường xa, không tới dự cưới hai cháu. Nhưng ngoại gửi tặng cháu sợi dây chuyền 5 chỉ, tặng cháu rể chiếc nhẫn vàng hai chỉ. Bác Hai, anh trai ruột ông Tư Thành lặn lội từ Mỹ Tho lên Sài Gòn dự lễ thành hôn của hai cháu và tặng một phong bì trị giá 5 triệu đồng.
Tiệc cưới khá lớn, vượt xa dự kiến của Thứ - An, cũng ngoài sự tưởng tượng của bà. Nhưng thời đại này, ở thời điểm này, tiền mừng còn gấp đôi, gấp ba số tiền phải chi. Vì thế các nhà quan chức, quyền thế, giàu sang, khi cưới vợ, cưới  chồng cho con tổ chức ăn uống linh đình tới hai, ba ngày, khách mời cả tỉnh, cả thành phố. Ở thành phố này, nghèo như Tân, Hà cũng phải 300 trăm ngàn đồng tiền mừng mới dám đi dự cưới, người giàu sang thì không giới hạn. Nhiều người ân tình với Thứ - An thì đây là dịp trả ơn, người ta mừng nhau bằng những tờ  đô la. Ban bè nhiều, khách khứa đông tỷ lệ thuận với số tiền mừng càng lớn.
Cưới con xong, ông Dân đem tiền đem trả ông Năm Mập và ông Bảy Huân. Ông Năm Mập trả lời, thằng Thứ là con anh thì cũng là con vợ chồng tôi. Đây là trách nhiệm của vợ chồng tôi đối với con. Ông Bảy Huân thì trả lời theo kiểu khác, đó là quà tặng của vợ chồng tôi đối với cháu. Chẳng lẽ chú không có quyền tặng quà cháu à?
Tài hùng biện như ông Dân cũng đành ngậm hạt thị mang tiền về.
CHƯƠNG SÁU
1. Chập tối nay, ông Dân kêu đau nhức chân, tức ngực và đau bụng dữ dội. Bà Huyền năn nỉ, nài ép mãi mà ông không ăn hết nổi bát cơm. Bà bón cơm cho ông nhưng ông cứ lắc lắc và ngoảnh mặt đi. Ông nói: Tôi không ăn nổi, bà đừng ép nữa.
Con trai đi trực vắng, con dâu đòi đưa bố đi viện. Ông Dân nói “Bố không sao đâu! Thời tiết thay đổi, bố thường vẫn đau nhức như vậy. Chỉ nghỉ ngơi ít ngày là khỏi thôi mà”. An cho bố uống thuốc giảm đau và thuốc an thần. Ông Dân nằm yên. Có lẽ ông ngủ được một giấc khá dài là nhờ thuốc của con dâu. Bà Huyền nghĩ, chồng đã dứt cơn đau nên mới ngủ ngon như vậy. Bà Huyền ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Ông Dân trở mình hoài. Ông quằn quại như con thú bị thương. Ông đau quá nhưng thấy vợ đang ngủ ngon nên gắng chịu mà không gọi vợ. Ông cắn răng chịu đựng.
Mười hai giờ đêm. Bà Huyền tỉnh giấc. Cơn đau dữ dội đang hành hạ ông Dân. Chân thẳng đừ, nhức như kim châm khiến ông Dân không co người lại được, không trở mình nổi. Nằm ngửa mãi, người ê ẩm đau nhừ, ông chỉ nằm nghiêng được một nửa người phía trên. Cuối cùng ông phải cầu cứu vợ “Em giúp anh trở mình qua bên trái một chút”. Bà Huyền phải ngồi nhổm dậy. Nặng nhọc, vất vả lắm, bà mới giúp chồng trở mình nổi. Vì bà nhỏ nhắn sức không được khỏe, ngược lại chồng bà cao lớn, to béo. Các ống xương chân ông Dân tê dại, đau buốt như có ai đang khoan vào từng đốt xương. Ngực ông đau ê ẩm như khi tụi ngụy quân dùng chày nện thình thịch xuống người. Xương sườn mềm nhũn, đang muốn gãy ra hàng loạt. Ông thấy đau cả tim phổi ruột gan. Ông co rúm người lại như con tôm và quay cuồng vật vã. Cổ ông nghẹn tắc lại. Hai lỗ mũi như có ai nhét bông vào. Nghẹt thở quá, khí quản như có cái gì mắc ở trong đó. Ông quằn quại đòi trở mình liên tục, vừa trở mình sang bên này đã thấy ê ẩm lại muốn trở mình sang bên kia…
Người ông Dân đầm đìa mồ hôi. Ông nằm bất động. Lúc rên to, khi rên nhỏ. Bà Huyền ôm lấy chồng lay gọi “Anh! Anh!” Ông Dân chỉ ậm ự. Ông đưa mắt nhìn bà, miệng há hốc mà không nói thành lời. Bà tự trách mình vô tâm. Khi chồng lên cơn đau mà không biết. Tính ông ấy đến kỳ lạ, đau thì phải gọi vợ con chứ, đằng này cứ nằm im mà chịu đựng. Vợ con chứ đâu phải người hàng xóm mà phải giữ ý giữ tứ.
Bà Huyền hốt hoảng gọi con dâu. Bà vừa gọi một tiếng, An biết ngay, tỉnh ngay. Chị biết bệnh tình của bố chồng đang trong cơn nguy hiểm. Chị luống cuống, nhấc máy điện thoại, gọi điện cho chồng “Bố ốm nặng, anh đưa xe về đón bố đi viện ngay”. Tiếng Thứ run run hỏi lại “Bố làm sao? Khi chiều, anh đi bố vẫn bình thường. Có gì khác không? An không kìm được lo lắng, chị  gắt chồng “Anh hỏi gì mà lạ thế? Nếu không nguy hiểm, ai gọi điện vào giờ này” Chị quay sang nói với mẹ chồng: “Mẹ ơi! Mẹ chuẩn bị đồ dùng theo bố con vào bệnh viện ngay bây giờ. Tình hình không thể chần chừ, chậm trễ được nữa. Khẩn trương lên mẹ!”.
Nghe con dâu nói vậy, bà Huyền luống ca luống cuống như gà mắc tóc, chân tay cứ run lẩy bẩy. Bà không đủ minh mẫn, sáng suốt xem phải mang những thứ gì. Cả đời, bà chưa một lần đi bệnh viện, chưa một lần đi nuôi người ốm. Bà ngồi nặn chân, tay cho chồng và khóc. Nước mắt của bà, tưới ướt mặt chồng. Nhờ những giọt nước mắt nóng bỏng của vợ, ông Dân tỉnh lại, ông khe khẽ nói: “Cho tôi đi bệnh viện gấp”. Đầu bà Huyền gật gật, miệng càng khóc to hơn.
Vừa lúc ấy, tiếng còi ô tô inh ỏi ngoài cửa. Thứ chạy xộc vào nhà. Anh vội vàng cõng bố lên xe. Bà Huyền leo lên xe theo chồng. An thu dọn nhà cửa, khóa cửa đi xe máy đến sau. Chị vừa bước chân ra khỏi cửa thì chuông đồng hồ điểm mười hai tiếng dõng dạc.
Các bác sĩ chuyên khoa: Tim mạch, phổi, gan, dạ dày và chấn thương được mời hội chuẩn gấp. Cẩn thận hơn, chắc chắn hơn phải thông qua máy móc, phương tiện kỹ thuật hiện đại kiểm tra để có kết luận chính xác. Kết luận: Các vết thương ở chân tái phát làm đau buốt từ chân tới háng. Các xương sườn bị thương đang nhũn ra, gan phổi có dấu hiệu ung thư. Tim mạch hoạt động yếu. Phổi bị suy nhược gây ra khó thở. Tóm lại một cơ thể bị ọp ẹp hoàn toàn.
Thứ buồn lắm. Anh suy nghĩ rất nhiều mà chưa tìm ra cách nói với mẹ về tình hình của bố. Anh sẽ nói với mẹ thế nào đây? Nói hết bệnh tình của bố, sợ mẹ chịu không nổi. Lúc này đây, nói dối là cần thiết. Nói dối để mẹ đỡ buồn. Và nỗi buồn đến với mẹ chầm chậm, từ từ tránh cú sốc lớn về  mặt tình cảm đối với mẹ. Nhưng nói dối 100% cũng không nên. Lương tâm anh bị cắn dứt. Từ xưa tới nay, anh chưa một lần mở miệng nói dối mẹ điều gì. Thế mà hôm nay, anh buộc phải nói dối người mẹ thân yêu, kính trọng nhất. Bố mẹ anh vừa được sống bên nhau đúng với nghĩa vợ chồng đầy đủ, hạnh phúc trọn vẹn mới được hơn một năm. Thời gian họ sống vì nhau, chờ đợi nhau, một lòng một dạ chung thủy với nhau quá dài cho dù phải chết. Tình yêu, tình vợ chồng quá son sắt. Bây giờ, bố lâm vào hoàn cảnh này, mắc phải căn bệnh hiểm nghèo này, sự sống chỉ mong manh như tia nắng, mẹ buồn lắm. Mẹ không chết nổi thì mẹ cũng sống dở, chết dở, sẽ ngất lên, ngất xuống cho mà xem. Nỗi đau đớn, tủi nhục chồng chết của người phụ nữ, người mẹ gánh chịu gần ba chục năm trời chứ có ít đâu. Nó vừa xóa đi nỗi mất chồng vĩnh viễn thì nay lại đang rập rình ập xuống đầu mẹ bất cứ lúc nào. Nỗi đau phải xa vợ, xa con của bố cũng chẳng kém. Có ai sống trong cảnh độc thân, cô đơn, lẻ loi chờ đợi và tìm kiếm vợ con hơn hai chục năm trời như bố? Bố đi đành phận bố. Nỗi đau trút cả lên đầu mẹ. Tốt nhất chỉ nói với mẹ: “Các vết thương cũ đồng loạt tái phát làm bố đau đớn toàn thân. Điều trị ít ngày dần dần sẽ khỏi. Mẹ cứ yên tâm” Bố con vẫn chẳng nói: “Không sao đâu, thời tiết thay đổi, bố thường đau như vậy, nghỉ ngơi vài ngày là khỏi thôi mà”. Bà Huyền buồn rầu trả lời:
- Bố con lúc nào chẳng nói vậy!
Lòng Thứ cũng đau từng khúc ruột. Hết thương mẹ lại thương bố. Đời bố sao khổ thế. Nhưng đối với An, anh chẳng cần giấu giếm gì. Vì An là bác sĩ. Theo thói quen nghề nghiệp, cô ấy bình tĩnh, kín đáo và có kinh nghiệm giao tiếp với bệnh nhân. Hơn nữa tình cảm của An đối với bố chưa được thời gian bồi đắp nhiều. Thật không ngờ, anh vừa nói dứt lời. An khóc toáng lên. Cô ấy khóc thảm thiết: Bố ơi! Đời bố sao khổ cực và đau đớn thế? Bố nếm đủ những trận đòn độc ác, tàn bạo nhất thế gian của lũ quỷ dữ đội lốt người của nhà tù Mỹ ngụy. Bom đạn kẻ thù biến bố thành người tàn tật. Bao nhiêu năm sống trong cô đơn, côi cút, lủi thủi một mình như cái bóng, đêm ngày chờ đợi, hy vọng tìm được vợ con. Vừa gặp được vợ con, hạnh phúc vừa bất đầu, bình minh vừa hé rạng lại bị mây đen bao phủ. Căn bệnh hiểm nghèo, ung thư gan, phổi, xương sườn bị nhũn, chân bị liệt, cùng một lúc bố coi như lĩnh ba án tử hình. Bố ơi! Đời bố sao khổ thế! Ông trời sao nỡ ăn ở bất công đối với bố. Bố ơi!  Bố là người sống rất nhân hậu. Tại sao bố tôi khổ thế!?
Thứ sợ quá. Anh vuốt vuốt mái tóc vợ:
- Anh cầu xin em đấy. Em khóc to như vậy, mẹ biết thì khốn… Mẹ ngất xỉu thì nguy. Nghe lời chồng, An không dám khóc nữa. Chị vội lấy mùi xoa lau mặt. Rất may, lúc đó bà Huyền đi ra cổng mua cái gì đó. Nhưng từ cổng bệnh viện trở về, bà Huyền đã nghe tiếng khóc của con dâu. Bà nhìn thấy mắt An còn đỏ hoe. Bà sững sờ chẳng hiểu đầu cua tai nheo thế nào? Bà hỏi dồn dập:
- Tại sao con khóc? Vì sao con khóc? Vợ chồng lại bất hòa chứ gì? Con hãy nói cho mẹ nghe?
Thứ chưa biết trả lời mẹ thế nào cho ổn. An lau nước mắt ráo hoảnh ;
- Không! Không! Bố tỉnh rồi, mừng quá nên con khóc!
- Không đúng! Bố tỉnh con phải cười mới đúng. Nhất định có điều gì các con giấu mẹ, Thứ tìm cách lảng chuyện:
- An nói đúng đấy mẹ! Mẹ cứ yên tâm đi. Chẳng có điều gì đáng lo đâu. Mẹ trông nom bố giúp chúng con. Chúng con có chút việc phải đi ngay. Khoảng hơn tiếng nữa, chúng con quay lại.
Ông Dân vẫn nằm bất động. Đôi mắt nhắm nghiền, chân duỗi thẳng. Chỉ có tiếng thở khò khè, nặng nề. Bà Huyền vỗ nhè nhẹ vào người chồng:
- Anh! Anh! Ông Dân mở to đôi mắt nhìn vợ. Đôi mắt uể oải, mệt mỏi từ từ khép lại:
- Anh mệt lắm à? Ông Dân khe khẽ gật gật. Thái độ này ít thấy ở ông Dân. Xưa nay, khi nói chuyện trả lời vợ con bao giờ ông cũng lịch lãm, tươi cười vui vẻ. Nếu tỉnh táo, minh mẫn chắc ông ấy lại tặng bà những lời ngọt ngào như mía nướng hoặc pha trò khiến bà phải phì cười, có khi cười đến vỡ bụng. Dù bực tức đến đâu, bà cũng phải dịu xuống. Ông nổi tiếng là có tài hùng biện, nói ăn phải nhẽ, thuận tình, biết động viên khích lệ mọi người.
- Em bón nước cam nóng cho anh nhé! Bà Huyền hỏi chồng. Ông Dân há miệng ra nhưng không nói thành lời. Cái đầu khẽ ngọ nguậy thay cho lời khước từ. Quan sát kỹ mặt, đôi mắt ông mờ mờ đục như nước hến chậm chạp. Đôi môi khô rộp. Với thần sắc của chồng và thái độ của con dâu, con trai, bà Huyền đoán chắc bệnh tình của chồng rất nguy kịch. Con trai, con dâu đều là bác sỹ chúng nó biết quá đi chứ. Chúng cố tình giấu bà. Chúng sợ bà buồn và khóc.
Hết giờ làm việc, Thứ đến thăm bố. Dáng đi hấp tấp, nét mặt buồn thiu. Anh nặng nề hỏi mẹ:
- Tình hình sức khỏe của bố con thế nào hả mẹ?
- Ô hay! Con là thầy thuốc mà lại hỏi mẹ câu đó?
- Con xin lỗi mẹ. Mẹ là người chăm sóc, theo dõi sức khỏe của bố?
- Mẹ là người trần mắt thịt. Có mắt cũng như mù, biết gì mà nói.
Thứ biết mẹ đang trách khéo anh. Anh lặng lẽ ngồi xuống bắt mạch và theo dõi sức khỏe của bố. Anh định lại đi liền. Mẹ anh kéo lại:
- Sáng nay, mẹ thấy vợ con khóc sướt mướt. Con thì tìm cách lẩn tránh mẹ. Phần nào mẹ cũng đoán được bệnh tình của bố con rồi.
 Thứ miễn cưỡng nở nụ cười:
- Mẹ đoán bệnh tình của bố con thế nào?
- Bệnh tình của bố con rất nặng, nếu không muốn nói là rất nguy hiểm, đang chờ ngày ra đi.
- Ai nói với mẹ như vậy. Con cũng đoán vậy, không hơn mẹ điều gì.
- Nói dối! - Bà gào thật to. - Con không biết thì ai biết nữa. Vợ chồng con bàn bạc với nhau để lừa dối mẹ chứ gì? Nhưng không lừa dối nổi mẹ đâu. Mẹ biết tất cả rồi.
- Mẹ ạ! Con hiểu lòng mẹ. Mẹ thương bố, lo lắng cho bố bao nhiêu thì lòng con cũng vậy. Việc gì cũng phải có thời gian. Mẹ cứ yên tâm chăm sóc nuôi dưỡng bố thật tốt. Việc này không ai làm tốt hơn mẹ. Còn việc thuốc thang cho bố chúng con lo, với những loại thuốc tốt nhất, hiện đại nhất hiện nay. Con ngàn lần cầu xin mẹ.
Bà Huyền quay sang đấu dịu với con:
- Mẹ hiểu tấm lòng của các con lắm. Vì thương mẹ mà các con mắc tội nói dối cả với mẹ. Mẹ cầu xin các con đừng giấu mẹ điều gì nữa. Mẹ biết, cũng chẳng giúp gì cho các con. Mẹ biết để chuẩn bị tinh thần đón nhận những điều chẳng lành đến với bố con.
- Mẹ cho con khất. Con cần có thời gian theo dõi, bàn bạc với các bác sỹ chuyên gia đầu ngành, những chuyên gia giỏi. Con thương mẹ lắm, mẹ phải đánh đổi cuộc đời của chính mình để có tình yêu, hạnh phúc như ngày hôm nay. Cái giá mẹ phải trả là quá đắt, gần như suốt cuộc đời phải giành giật lấy hạnh phúc, giành giật lấy chồng con. Tình cảm của bố mẹ mặn mà và sâu nặng như nước biển Đông, đẹp như một bài ca, tấm gương sáng về lòng chung thủy đáng để cho mọi người noi theo. Mẹ vừa gặp lại bố, vừa cưới con dâu, đứa cháu nội mẹ hằng mong muốn cũng sắp ra đời. Nhưng mẹ phải hiểu cho con, bao nhiêu năm nay, con mới được gặp người cha đích thực của mình bằng xương, bằng thịt. Con không cha như nhà không nóc. Con đang đứt từng khúc ruột, khúc gan. Nhưng con phải vững vàng tay lái để con thuyền đi đúng hướng, cập bến an toàn, không thể lơ đễnh, nghiêng ngả. Nếu mẹ ở địa vị con, mẹ cũng phải làm vậy. Xin mẹ hiểu cho lòng con.
Nghe con trai nói, bà Huyền lấy tay gạt nước mắt. Từ xưa tới nay, con trai bà chưa nói dối mẹ điều gì. Chắc có điều gì khó nói lắm nên nó cứ ầm ừ như người mắc cái xương cá ở họng. Khi còn trẻ, mỗi lần gặp ông ấy, bà vui mừng khôn xiết, chỉ muốn bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. Nhưng lại thấp thỏm lo âu, chỉ sợ có ai nhìn thấy. Khi trao thân gửi phận cho nhau để ngày mai ông ấy ra trận cũng phải vụng trộm. Gần ba mươi năm, bà chờ đợi và hy vọng. Nhiều khi, bà an phận là người đàn bà góa chồng, chỉ biết một lòng, một dạ thờ chồng, nuôi con. Nhưng đời bà đầy rẫy những ngang trái và trớ trêu. Bao nhiêu năm qua, ngày giỗ, ngày Tết bà thờ cúng Lượng nhưng đêm đêm lại mơ được nằm bên Dân, ôm ấp Dân cho thỏa lòng mong ước. Cái giả cứ phải cư xử như thật. Cái giả được phép nước và xã hội, xóm làng công nhận. Cái thật phải đào sâu chôn chặt, chỉ mình biết với mình. Bây giờ, sự thật trở về với sự thật. Cuộc đời bà được giải mã, mã hóa. Vợ chồng mới được gần nhau hơn một năm. Cuộc sống vợ chồng vừa được bắt đầu thật hạnh phúc. Ông ấy lâm bệnh, nằm bên cạnh chồng như nằm bên khúc gỗ khi bà chưa hết tuổi hồi xuân. Thật trớ trêu. Thật ngang trái. Đêm ngày bà phải theo dõi, chăm sóc ông ấy từ hơi thở, tiếng rên và mỗi khi trở mình với tất cả tình thương yêu của người vợ. Lại phải lo thuốc thang cho ông ấy. Tiền bạc không thiếu. Ban bè đến thăm đông nghịt. Tất cả trái cây, đường sữa, bánh kẹo chất đầy giường. Ông ấy ăn được đâu. Ba mẹ con bà còn tâm trạng hứng thú gì nữa mà ăn, Những thứ ấy phần lớn bà “phân phối” và biếu cho những bệnh nhân nằm cạnh mạnh khỏe và gia đình bên cạnh. Nhà anh Năm chẳng thiếu gì, nhà ông bà thông gia Tư Thành ở xa. Thỉnh thoảng Tân Hà tới thăm bà bắt các em chở về ăn giùm. Tiền thuốc thang đã có quân đội. Gia đình chỉ phải đóng góp phần nào. Ai đến thăm, tặng quà, bà chỉ biết cảm ơn. Bà mệt mỏi, uể oải  nhét từng cái phong bì vào ở đầu giường. Khi nào con dâu tới, bà lại ấn vào túi xách của An. Bà không hề biết bao nhiêu phong bì, mỗi phong bì là bao nhiêu tiền, là của ai? Lúc đói sắn chẳng có mà ăn, rau dưa cũng thiếu. Suốt đời mơ một bữa cơm không phải độn ăn với thịt cá đầy đủ. Bây giờ vợ chồng gặp nhau, tiền bạc dư thừa, ông ấy lại ốm thập tử nhất sinh thì chỉ biết nhìn nhau, không tài nào nuốt nổi miếng cơm. Thật nghịch lý và trớ trêu.
Hôm nay, ông Dân tỉnh táo hơn, ông mở to mắt nhìn những tia nắng vàng rực rỡ đang ùa vào phòng, đùa giỡn, nhảy múa trước mắt. Gió thổi nhè nhẹ mát dịu. Xa xa tiếng chim đang hót líu lô trên cành cao. Tiếng nói chuyện râm ran, ồn ào. Tiếng chân người đi lại rậm rịch hối hả. Ông Dân thấy người khoan khoái, dễ chịu. Bệnh của ông giảm rồi chăng? Vợ ông đang ngồi như bức tượng đá quay mặt nhìn ra cửa. Ông khẽ khẽ đập tay phía vợ, bà Huyền vội ngoảnh lại. Nhìn thấy chồng nở nụ cười đáng yêu như mọi ngày. Bà Huyền mừng vui như người vừa qua giấc mơ đẹp, lạc vào động tiên:
- Anh tỉnh lại rồi à? Anh làm em lo quá, chết ngất đi. Tiếng ông Dân nói nghe nặng nhọc, vất vả như rất vui:
- Anh vừa đi gặp ông Nam Tào về. Lại một lần nữa, ông Nam Tào định xóa sổ anh. Anh nói “Mấy chục năm nay, tôi mới gặp vợ con. Tôi cắn rơm, cắn cỏ xin cho tôi sống một thời gian nữa. Tôi sống không phải vì tôi mà để phục vụ vợ con, bù đắp những năm qua. Họ vì tôi mà khổ sở, vất vả, ăn đói, mặc rách”. Ông ấy mỉm cười, gật gật. Anh sướng quá, chạy vội về thông báo cho em và các con.
Bà Huyền khẽ quệt tay vào má chồng:
- Anh thì chứng nào tật ấy. Vừa tỉnh táo một chút lại bịa chuyện đi gặp Nam Tào để làm yên lòng vợ con. Anh là cầu thủ nịnh siêu hạng. Bà dỗ ngon, dỗ ngọt chồng - Anh tỉnh rồi, anh chịu khó ăn bát cháo cho có sức khỏe để tiếp tục nịnh vợ con. Và nịnh hay hơn nữa, hấp dẫn hơn nữa nhé!
Ông Dân nể vợ, thương vợ nên gắng sức nuốt gần hết bát cháo nhỏ, uống cốc nước cam tươi. Ông lại tiếp tục ngủ. Bà Huyền vui vẻ, sung sướng như lần gặp lại chồng sau gần ba mươi năm xa cách. Bà kể cho các con nghe, chuyện bố đi gặp ông Nam Tào về. Thứ và An cũng tỏ ra rất vui để an ủi mẹ và giấu kín nỗi lo lắng trong lòng. Thứ  thừa biết, bố như ngọn đèn sắp tắt cố lóe sáng lần cuối, mẹ anh rất mừng. Ngược lại, anh rất lo, đây là biểu hiện bố sắp ra đi rồi. Bố gồng hết sức lực còn lại, gượng cười, gượng nói, gượng ăn uống cho mẹ vui để đáp lại tình yêu của mẹ.
Ông Dân yếu lắm rồi. Ông đang trong cơn hôn mê, bất tỉnh. Đôi mắt nhắm nghiền. Khi bà Huyền gọi: Anh! Anh ơi! Ông Dân chỉ máy môi, tỉnh nhưng không nói được. Bà Huyền ghé sát vào tai ông, chú ý lắng nghe. Nhưng bà thất vọng chẳng hiểu ông nói gì.
Thế rồi, chân tay ông lạnh toát. Lạnh cả người. Để tay vào mũi, bà thấy hơi thở yếu, yếu dần và lịm đi. Bà Huyền mắt tối sầm lại. Tinh thần bà hoảng loạn. Bà vừa khóc, vừa gọi:
- Anh Dân! Anh Dân! Anh đi thật rồi ư?
Vợ chồng Thứ và một số bác sĩ đứng ở đó nhìn nhau lắc đầu. An để những giọt nước mắt tuôn trào, ngoằn nghèo trên má. Chị sợ khóc to làm kinh động đến mẹ chồng. Chị cố kìm nén nhưng không nổi, tiếng khóc cứ bật ra. Thấy con dâu khóc, bà Huyền ôm lấy chồng và gào  lên:
- Anh Dân ơi! Đời anh sao khổ thế? Bao nhiêu năm sống, chết trong nhà tù của Mỹ ngụy nếm đủ những ngón đòn tàn bạo, dã man, độc ác nhất trên thế gian mà không giết nổi anh. Mười mấy năm trời, ăn đói mặc rách, nhịn khát đi khắp chốn cùng nơi để tìm vợ con nhưng vừa gặp vợ con, anh vội bỏ vợ con mà đi sao đành. Anh ơi! Anh nỡ bỏ mẹ con em mà đi à? Đứa cháu nội chỉ con mấy tháng nữa sẽ ra chào đời. Nó sẽ hỏi em ông đi đâu. Em biết trả lời cháu sao đây? Không lẽ, em trả lời, ông nội cháu vừa chết à? Đau xót quá anh ơi! Thương cho con trẻ quá anh ơi, vừa ra đời đã không biết mặt ông. Anh vừa nói hôm qua thôi: “Chết thế nào được anh. Anh vừa đi gặp ông Nam Tào kiện đòi quyền sống. Trước lý lẽ sắc bén của anh, ông Nam Tào phải nhượng bộ, ông ấy cười và không xóa tên anh nữa” thế mà nay anh đi thật rồi. Trên thế gian này, có ai khổ như chồng tôi không? Tại sao ông trời ăn ở bất công với chồng tôi đến thế? Chồng tôi là người nhân từ, phúc hậu, sao ông nỡ bắt chồng tôi đi khi tuổi còn quá trẻ, hạnh phúc gia đình vừa mới bắt đầu. Trời ơi! Sao ông độc ác thế? Ông bất công đến thế là cùng. Ông ưu ái với người khác. Ông đối xử tệ bạc với chồng tôi. Thử hỏi chồng tôi làm gì nên tội gì? Tội gì? Không lẽ vì yêu nước, yêu đồng đội, yêu vợ con à?
Ruột gan bà Huyền đứt ra từng khúc. Trái tim bà ngưng đập. Đầu óc bà muốn vỡ tung ra nhiều mảnh. Bà ngã gục xuống đất. Bà ngất xỉu đi. Mặt bà tái mét, cắt không còn giọt máu. Chân tay bà lạnh toát. Chỉ có tiếng đập khe khẽ của con tim và hơi thở nhè nhẹ yếu ớt. Các bác sĩ xúm nhau lại đưa bà về phòng cấp cứu.
An không kìm nổi xúc động. Chị gào toáng lên: Bố ơi! Bố bỏ chúng con mà đi sao đành? Từ nay con biết trông cậy vào ai? Ai là người dạy con những điều khôn lẽ phải, ai là người dạy cháu sau này, con không cha như nhà không nóc bố ôi! chúng con sống sao nổi bố ơi là bố ơi!
Thứ đôi mắt đỏ hoe. Anh lấy khăn lau nước mắt, nuốt nỗi đau vào trong lòng, một mặt lo cấp cứu cho mẹ, mặt khác lo chuẩn bị đưa bố về nơi vĩnh hằng. Vừa khi ấy, Tân đến nơi. Anh chạy bổ vào ôm choàng lấy ông Dân mà khóc và kể lể. Anh Dân ơi! Những năm sống và chiến đấu bên anh. Anh thương em và thằng Hà hơn cả bản thân mình, anh sẵn sàng ăn đói, nhịn khát, nhường cơm và nước uống cho tụi em. Anh luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về phần mình, nhường thuận lợi cho bạn. Năm 1972, đơn vị đánh vào cứ điểm AL. Một quả bom rơi trúng hầm chỉ huy, anh bị thương và bị bắt. Đơn vị tưởng anh hy sinh đã tổ chức truy điệu anh. Em và thằng Hà khóc anh như cha chết, mẹ chết, nước mắt đầm đìa. Nhiều người cười em và Hà là đồ đàn bà, con nít. Nhưng họ hiểu đâu nổi những tình cảm sâu nặng của người chỉ huy và người lính. Nhưng bom đạn của kẻ thù, đòn tra tấn dã man của kẻ thù của lũ mặt người dạ thú không giết nổi anh. Sau bao năm xa cách, vừa đặt chân tới Sài Gòn, anh quên cả vợ con tới thăm em ngay. Thương em nghèo, thương Hà bệnh tật đau yếu luôn, anh chia cho chúng em 1,3 số tiền tích cóp, dành dụm mấy năm trời dạy học. Mới hôm nào, anh em ta còn uống rượu mừng anh từ cõi chết trở về. Thế mà hôm nay, anh đi thật rồi. Tai sao những người nhân đức, hiền từ như anh, lại phải chết, phải nhận bao nỗi bất hạnh. Tai sao anh phải chết? Những kẻ độc ác như con thú dữ, phản dân hại nước lại sống nhăn răng ra đó? Trời đất ơi! Anh nằm đây mà vợ con anh chưa kịp vuốt mắt cho anh. Anh ơi! Chị Huyền vì anh mà bị ngất. Chị ấy vừa được đưa tới phòng cấp cứu. Tính mạng chị ấy trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, chẳng biết sống chết ra sao? Chị ấy vì anh mà phải chịu bao nỗi đắng cay, nuôi mẹ chồng người ta, thờ cúng cha mẹ người ta để nuôi con anh khôn lớn trưởng thành như ngày nay. Chị ấy chờ đợi anh suốt mấy chục năm trời. Vừa gặp nhau, anh đã vội ra đi, đi xa mãi mãi, để chị ấy sống dở, chết dở. Anh Dân ơi! em thay mặt chị và các cháu vuốt mắt cho anh và quàn bên linh cữu của anh. Cháu An lo cấp cứu cho mẹ. Cháu Thứ lo chuẩn bị tiễn anh về nơi Tây phương cực lạc.
Anh Dân ơi! Bạn bè người thân đang đứng xung quanh anh. Đây là vợ con em, vợ con thằng Hà. Thằng Hà đang nằm viện thực hiện lời khuyên của anh. Nhưng vừa nhìn thấy anh, Hà không kìm nổi xúc động, Hà đã bị ngất lại phải đưa đi cấp cứu. Vợ con em, vợ con thằng Hà sẽ đội khăn tang đưa tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Anh Dân ơi! Anh rất xứng đáng được kính trọng, kính trọng nhiều lắm.
Nhận được điện của Thứ, gia đình ông Năm Mập, ông Bảy Huân giám đốc nhà xuất bản, ông Tư Thành tức tốc phóng xe lên ngay. Tất cả họ đều đứng bên linh cữu của Dân, người nào người ấy đều sụt sùi khóc. Nhìn thấy ông nằm trơ trên giường, người phủ tấm khăn trắng toát. Vợ con ông chẳng thấy đâu, mọi người đều ngạc nhiên. Ông Năm Mập chỉ thấy nhân viên bệnh viện và bạn bè, đồng đội khi xưa, ông hỏi Tân:
- Vợ con anh Dân đi đâu cả chú Tân? Tân khẽ gạt nước mắt nói với người thủ trưởng cũ:
- Chị Dân bị ngất chẳng biết sống chết thế nào? Cháu An lo cấp cứu cho mẹ chồng. Cháu Thứ trong lúc tang gia bối rối biết bao công việc đặt trên vai nó. Thứ phải lo hậu sự cho anh Dân. Em ở đây túc trực bên linh cữu anh Dân.
Ông Năm Mập mở tấm vải trắng, nhìn Dân, nhìn người đông chí thân thương, người bạn lần cuối cùng, ông nhìn trời xúc động nói:
- Anh Dân ơi! Thường ngày, nắng như dải lụa mềm mại, mượt mà khổng lồ phủ kín bầu trời Sài Gòn, gió thổi miên man như những bàn tay nhẹ nhàng vuốt ve từng ngôi nhà, từng đường phố. Hôm nay hòn ngọc Viễn Đông từ ngày trở về với nhân dân được sự chăm sóc, mài rũa thêm hồng, thêm đẹp. Nhưng than ơi! Trời Sài Gòn hôm nay bỗng dưng u ám, ảm đạm và lặng gió. Cây cối đứng im. Chim ngưng ca hát. Tất cả, tất cả để tiễn đưa một người chiến sĩ, quê hương ở xứ sở hoa đào đã dũng cảm,  kiên cường và không tiếc máu xương gìn giữ cho những bông mai vàng, bảo vệ Sài Gòn về nơi an nghỉ cuối cùng.
Vĩnh biệt anh! Vợ con tôi, Bảy Huân, Tư Thành, Tân và Hà và các bạn bè, đồng đội của anh đều mang khăn tang, nước mắt như mưa.
Anh Dân ơi! Anh là tấm gương sáng về nhiều mặt cho chúng tôi học tập. Lòng quả cảm, kiên định lập trường trước kẻ thù, tình yêu thương đối với đồng đội, luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn bè. Nhờ vậy, tôi còn sống đến ngày hôm nay. Tôi mãi mãi biết ơn anh. Anh luôn lạc quan yêu đời, tin tưởng vào ngày chiến thắng. Mặc dù kẻ thù tàn bạo dã man nhưng không khuất phục nổi anh. Trái lại, anh làm cho tụi nó khiếp sợ trước sự dũng cảm, kiên cường của anh.
Anh Dân ơi! Anh còn là tấm gương sáng về lòng chung thủy đối với vợ con, anh một lòng, một dạ yêu thương vợ con. Gần hai mươi năm, anh không quản ngại đường xa, khó khăn, gian khổ, anh miệt mài đi tìm vợ con một cách kiên nhẫn, không biết mệt mỏi. Lòng kiên nhẫn ấy đã được đền bù, cuối cùng anh gặp vợ con.
Anh Dân ơi! Anh có người vợ thật tuyệt vời. Chị ấy một lòng, một dạ chung thủy với anh, mòn mỏi, chờ đợi anh bao năm. Thế mà anh lại bỏ chị ấy mà đi sao đành. Chị ấy ngất lên, ngất xuống, tính mạng đang trong cơn nguy kịch, chẳng biết sống chết thế nào?
Anh Dân ơi! Thằng Thứ con trai anh thật hoàn hảo, thông minh, tài năng và đức độ như bố. Thứ lúc nào cũng nghĩ tới cha. Nhưng cây muốn lặng gió chẳng đừng, cha con anh vừa gặp nhau, anh đã vội bỏ nó mà đi cho đành.
Vĩnh biệt anh, chúng tôi nguyện sống xứng đáng với anh. Anh Bảy Huân nói với Dân:
Anh Dân ơi! Tiểu thuyết: “Một bến hai đò” vừa in xong. Nhưng anh chưa được nhìn đứa con tinh thần ra đời, anh đã ra đi. Vĩnh biệt anh, vợ chồng tôi vô cùng thương tiếc anh.
Bà Khang đi bên chồng, vừa khóc, vừa nói lên nỗi lòng mình:
- Anh Dân ơi! Anh đi đành phận anh. Người đau khổ nhất sau chuyến đi xa này của anh là chị Huyền. Chị ấy, gánh chịu bao năm gian nan tủi cực nuôi con khôn lớn trưởng thành. Chị ấy ngày đêm mong tin anh trở về. Vợ chồng vừa gặp nhau, hạnh phúc vừa mới bắt đầu mà anh nỡ bỏ chị ấy mà đi sao đành. Anh Dân ơi! Anh có hiểu nỗi đau của chị Huyền và những người phụ nữ chúng tôi không?
Ba má đi rồi, Hà còn đứng như trời trồng và khóc sướt mướt. Cô thổn thức:
- Bố Dân ơi! Bố nỡ bỏ con mà đi sao đành. Nhờ bố, kỳ thi tốt nghiệp vừa qua con đạt điểm tối đa về môn văn và ngoại ngữ. Ước mơ của bố là dạy con thật giỏi về môn Pháp văn còn dang dở. Tại sao, bố không sống cho tới khi con đi lấy chồng. Bố vẫn hằng mơ ước, khi nào con khôn lớn, bố gả chồng cho con cơ mà. Con là con gái chấy rận của bố. Ước mơ còn đó, bố vội bỏ con mà đi sao đành? Đau xót lắm bố ơi! Ối trời cao đất dày ơi, sao các người độc ác thế? Tôi vừa gặp bố mà các ông lại bắt bố con tôi chia lìa nhau.
Bà Năm xúc động quá nên kéo con gái đi theo chồng. Bà không khóc và kể lể như con gái. Nhưng lòng bà đau xót vô cùng như có ai cầm dao đâm cắt tim gan bà ra từng khúc. Bà thương ông Dân, luôn sống vì bạn bè, hai lần cứu chồng bà thoát chết. Chồng bà có được hạnh phúc và quyền cao chức trọng như ngày hôm nay, một phần là nhờ ông Dân. Những người ăn ở hiền lành, phúc hậu tại sao cứ gặp những điếu chẳng lành? Bà thương ông Dân suốt cả cuộc đời gặp toàn những điều gian nan nguy hiểm, sẵn sàng ở giá để đi tìm vợ con. Chị Huyền cũng là người phụ nữ hiếm có, dám yêu hết mình, dám xả thân vì chồng con. Vợ chồng vừa đoàn tụ, chị ấy vừa hưởng hạnh phúc ít ngày thì nay lại vụt tắt ngay, mất mát, to lớn hơn bất cứ mất mát nào. Anh ấy ra đi vĩnh viễn thật rồi sao? Chị ấy lại tiếp tục làm nàng Tô Thị.
Dự lễ tang ông Dân còn có cặp vợ chồng khoảng dưới 50 tuổi. Họ ăn mặc lịch sang trọng trông rất quý phái. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, không biết vợ chồng họ quan hệ thế nào với gia chủ. Khi người vợ xõa tóc, vấn khăn tang lên đầu và khóc thảm thiết thì mọi người mới rõ:
Anh Dân ơi! Thầy Dân ơi! Em là Hồng đây, từ khi xa nhà đi khắp các tuyến đường Trường Sơn mở đường cho xe các anh ra mặt trận. Em đã ba lần bị thương mà không chết. Hòa bình lập lại, em gặp Khoan. Em là cô gái quá lỡ thì nhưng Khoan rất thông cảm với em. Chúng em nên vợ, nên chồng và có hai đứa con, một trai, một gái. Hiện nay chúng em công tác ở ủy ban Thành phố. Đời sống cũng tạm ổn. Suốt những năm qua, em luôn nhớ anh và chịu ơn anh nhiều lắm. Giữa trưa hè, em bị cảm nắng. Anh đã cõng em từ đỉnh đồi đầy nắng xuống chân đồi. Anh bảo bạn bè bẻ lá cây làm giường cho em nằm.
 Em thương anh nhiều lắm. Sáng nay, nghe tin cáo phó em mới biết anh ở thành phố này. Anh Dân ơi! Nhiều đêm, anh kèm cặp dạy thêm cho em và Huyền. Thế rồi đất nước có chiến tranh, em tạm biệt quê hương, tạm biệt bạn bè đi thanh niên xung phong. Trước khi đi, em dặn Huyền: Mày ở nhà phải lấy anh Dân để trả cái ơn mạng của hai đứa mình, vì tao đi chưa biết bao giờ gặp lại, có thể không trở về. Em những mong đêm ngày và cầu phúc cho hai người suốt đời được ở bên nhau, con đàn cháu đống.
Biền biệt từng ấy năm trời, hôm nay gặp lại anh và Huyền thì anh lại vĩnh viễn đi xa, Huyền đang nằm ở phòng cấp cứu chưa biết sống chết thế nào. Em đã kịp nói gì với Huyền đâu. Em đau đớn. Thương anh cả đời gặp toàn những gian nan vất vả, nguy hiểm. Anh từng sống côi cút, lẻ loi và lặn lội đi tìm vợ con. Thương  anh vò võ, từng ấy năm trời chờ vợ con. Vợ chồng vừa gặp nhau, hạnh phúc vừa nhen nhóm lại vụt tắt.
Anh Dân ơi! Ông trời  ăn ở chẳng công bằng chút nào. Nơi đất cao thì cứ bồi thêm mãi, nơi đất trũng thì cứ xói lở, đào bới thêm. Người sung sướng thì cứ sung sướng mãi, người khổ lại khổ suốt đời.
Bà Huyền vẫn nằm lả. Nước da nhợt nhạt như người chết đuối vừa vớt ở dưới nước lên. Đôi mắt bà nhắm nghiền chỉ có tiếng thở đều yếu ớt của con tim. Bà Khang nhìn thấy cảnh con gái, đầu tóc rối bù, quần áo nhàu nát đang khóc bố chồng. Chị không ngớt gọi tên ông. Bà Khang vừa thương, vừa lo cho con. Bà sợ con gái lăn khóc mãi sẽ ảnh hưởng đến thai nhi trong bụng. Bà ở lại phòng cấp cứu, giúp con gái chăm sóc mẹ chồng, cũng là người bạn thân thiết của bà.
Tối hôm ấy bà Huyền tỉnh lại. Người bà còn yếu lắm. Vừa tỉnh lại bà đã gọi;
- Anh Dân ơi! Anh đang ở đâu? An ơi! Con dắt mẹ đi tìm bố. Thứ ơi! con ở đâu. Các ông, các bà bác sĩ ơi. Làm ơn, làm phúc tìm chồng giúp tôi. Anh Dân ơi! Anh ở đâu? Anh giận em à? Em có làm gì sai trái mà anh giận em  đâu? Tại sao anh không trả lời em đi! Bà Huyền đột nhiên vùng dậy. Bà lao thẳng ra cửa. Bao nhiêu người chạy theo giữ bà lại. Bà gầm lên:
- Các ông, bà buông ra để tôi đi tìm chồng. Tôi cầu xin các ông, các bà đấy.
Bà dùng hết sức lực còn lại để thoát khỏi sự níu của hai người đàn ông lực lưỡng. Bà cong người như con tôm, chân đạp lung tung. Đôi tay bà đập mạnh vào hai người đàn ông giữ bà. Bà kêu gào thảm thiết.  Nhưng sức bà có hạn, bà lại lả mềm như sợi bún. Người ta đưa bà trở lại giường, thuốc thấm vào cơ thể, bà nằm im. Một lúc sau bà thiếp đi.
2. Sáng hôm nay, nắng non vừa tỏa khắp thành phố, báo hiệu một ngày đẹp trời trong  xanh cao hun hút. Gió thổi nhè nhẹ. Cây cối lao xao rì rào, cành cao chim hót líu lô. Nghi lễ tiễn đưa ông Phạm Đình Dân về nơi an nghỉ cuối cùng được cử hành. Người ngồi bên xe chở linh cữu, hàng bên phải có Thứ, An. Hàng bên trái là bà Hồng, người bạn thân cùng quê với ông Dân và bà Huyền cùng Hà. Hai xe tiếp theo là đại diện đơn vị ông Dân từng công tác và chiếu đấu. Xe đại diện của  cơ quan Thứ, An. Kế tiếp là xe của các gia đình ông bà ông Năm Mập và vợ con, xe của ông Bảy Huân và vợ con, xe của vợ chồng thông gia và các con.
Theo sau là xe của vợ chồng con cái Tân, Hà - những người bạn cùng chiến đấu với ông Dân. Cuối cùng là xe của bạn bè thân hữu của ông Dân, bà Huyền và Thứ, An. Đặc biệt là xe của các thế hệ học sinh của ông Dân.
Đoàn xe từ từ rời khỏi thành phố. Tiếng nhạc hiếu át cả tiếng chạy xình xịch của các đoàn xe và tiếng ồn ào, náo nhiệt ở hai bên đường. Đoàn xe ra khỏi thành phố, thẳng tới nghĩa trang.
Trời bắt đầu trở gió. Mây đen ùn ùn kéo tới che khuất mặt trời. Mưa! Mưa! Mưa rơi lộp bộp trên nóc xe, mặt đất. Gió tăng tốc. Mưa mau và nặng hạt. Gió thổi mạnh. Mưa nghiêng ngả. Mưa xiêu xiêu hắt nước vào trong xe. Các xe đều đóng kín mít để chắn nước bắn vào trong xe làm ướt người. Mưa ào ào trút xuống. Cái gạt nước ở phía trước xe quay liên tục, quay hối hả cố hất những giọt làm khuất tầm nhìn của lái xe. Nước mưa trút xuống mặt đường ngày càng nhiều. Bánh xe chuyển động mạnh làm nước từ mặt đường bắn tung tóe. Xe đóng kín cửa, người trong xe lại đông nên rất ngạt thở nhất là người già yếu và trẻ con. Sáu Hà xúc động nói với mọi người:
- Cái số anh Dân khổ đến thế là cùng. Chết cũng không được yên thân. Trời vừa nắng đẹp, bỗng đâu mưa ngay được, cứ như trẻ con chơi trò ú tìm. Nếu ở nông thôn,
đi bộ mưa thế này trú vào đâu? Người chết cũng khổ, người đưa ma còn khổ hơn.
Tân bực dọc quát Sáu Hà
- Thôi! Mày im đi. Tao muốn phát điên lên đây vì sự bất hạnh này đây.
Xe tới nghĩa trang thì đừng lại. Mọi người vẫn ngồi trên xe, có tiếng ai đó kêu lên:
- Ngạt quá! Mở cửa xe ra.
- Lại có nhiều tiếng đáp lại:
- Mở cửa xe thì ướt hết à? Gắng chịu đựng chút nữa! Mưa ngớt rồi.
Hết mưa, Gió ngưng thổi. Nắng lại bừng lên. Mọi người thở phào nhẹ nhõm và đua nhau xuống xe. Nhưng niềm vui lại vụt tắt. Huyệt đầy nước. Tình huống bất ngờ xảy ra. Ngay lập tức, xe chở đô tùy quay lại thành phố lấy xô, chậu để múc nước. Thời gian đi về và tát nước mất khá lâu. Mọi người phải ngồi chờ ở nghĩa trang. Ai cũng nóng lòng, suốt ruột về sự chờ đợi này. Không ai nói ra, nhưng ai cũng thương cho số phận của ông Dân. Ông Năm Mập, Bảy Huân mặt buồn rầu: “Anh Dân đến lúc chết cũng khổ”.
Hạ huyệt xong, nắng trở lại rực rỡ. Trời lại trong xanh, cao thẳm. Gió thổi nhè nhẹ.
Nắng lâu ngày cũng phải mưa thôi. Mưa mãi rồi cũng phải tạnh. Buồn đau rồi cũng phải nguôi. Bà Huyền đã qua cơn hiểm nghèo. Người bà xanh như tàu lá, như cái dưa phơi nắng. Nhìn lên bàn thờ chồng, khói hương nghi ngút. Ông ấy đang nhìn bà đăm đăm. Bà hiểu tất cả, không cần giải thích. Chồng bà đã chết và được chôn cất xong xuôi.  Bà muốn đi thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của chồng mà không đủ sức. Nước mắt đã cạn kiệt, không còn đủ sức để khóc chồng. Nhưng ông ấy luôn luôn ở trong trái tim bà, cùng ăn, cùng ngủ với bà. Ông ấy luôn tươi cười, âu yếm vuốt ve, che chở cho bà. Ông ấy còn nói những lời pha trò, để bà lúc nào cũng vui. Lúc nào ông ấy cũng luôn tự hào, bom đạn của kẻ thù, những đòn tra tấn dã man, độc ác của lũ quỷ mặt người, còn không giết nổi ông ấy. Ông ấy, hai lần đi gặp ông Nam Tào để đòi quyền sống. Những người như ông không thể chết. Ông ấy còn ngồi kia. Ông ấy, đang mỉm cười với bà. Anh mất thật rồi à? Anh bỏ em mà đi sao đi sao đành. Bà lẩm nhẩm - Cuộc sống vợ chồng, mật ngọt của hạnh phúc vừa tới miệng đã bị tử thần cướp mất. Gần ba mươi năm, em làm việc cực nhọc, ăn đói mặc rách, nuôi mẹ, nuôi con, nhưng lúc nào cũng nhớ tới anh. Anh không chịu lấy ai, kể cả em Đào. Bố mẹ em và em Đào cũng thuận gả cho anh. Lúc nào, anh cũng một lòng một dạ tâm niệm đi tìm vợ con. Tình yêu của anh đẹp như một bài thơ, như bông hoa huệ trắng ngần, thơm ngào ngạt. Em đợi anh như hoa đợi nắng, như nương chè, nương sắn, mảnh ruộng chờ mưa. Anh đi tìm em và con như người mò kim đáy biển nhưng anh không mảy may nản lòng. Thế mà ông trời không cho chúng ta sống bên nhau trọn vẹn đến lúc đầu bạc răng long. Anh nỡ bỏ em mà đi. Ông trời độc địa làm sao? Không! Tất cả là do chiến tranh. Tất cả là do đế quốc Mỹ đưa quân vào xâm lược nước ta. Nếu không vì thế, anh chỉ biết vui vẻ, say mê sự nghiệp trồng người. Em sẽ là kỹ sư nông nghiệp, đêm ngày bạn cùng đồng ruộng, chuồng trại chăn nuôi đàn gà, đàn lợn. Vợ chồng mình sẽ sống bên nhau. Không còn chối cãi gì nữa, cuộc chiến tranh tàn bạo, có một không hai của đế quốc Mỹ đã chia cắt hạnh phúc vợ chồng và cướp mất anh, biến em thành người góa bụa. Càng nghĩ, em càng thương mình, thương anh và căm thù lũ cướp nước và lũ bán nước.
Được các con chăm sóc, bồi dưỡng, ăn uống chu đáo, thuốc thang đầy đủ, bà Huyền thoát khỏi lưỡi dao tử thần. Bà đã thấy thần chết thôi uốn éo vũ điệu c bi ai. Tinh thần và sức khỏe tạm ổn. Hôm nay, bà Huyền bắt các con đưa bà đi thăm mộ chồng. Đó là mong mỏi bấy lâu nay của bà.
Trời hôm ấy, thấp như cái chảo khổng lồ, úp xuống nghĩa trang và như đám mây đen lởn vởn bay. Đứng trước mộ chồng, bà Huyền chắp tay trước ngực, mắt nhìn ảnh chồng, miệng lầm rầm khấn vái:
- Anh Dân ơi! Tha lỗi cho em. Khi tiễn biệt anh về nơi yên nghỉ cuối cùng, em đang nằm ở phòng cấp cứu, chín phần chết, chỉ có một phần sống nên không được nhìn anh lần cuối, không được vuốt mắt cho anh. Hôm nay, em mới thoát khỏi cơn nguy kịch và bàn tay tử thần. Các con cứ lần nữa mãi, không chịu đưa em tới thăm anh. Vì chúng thấy sức khỏe của em còn yếu. Anh Dân ơi! Nghĩa tử là nghĩa tận, em không muốn thế. Khi ấy, em chỉ muốn đi cùng anh để chúng ta được sống bên nhau. Nhưng em còn nặng nợ với đời nên trời không cho em đi. Anh cứ yên nghỉ ở nơi vĩnh hằng. Hẹn ngày sum họp.
Khấn xong, bà Huyền phục xuống bên mộ chồng. Bà cảm thấy như đang ở bên chồng. Hơi ấm của ông ấy, làm cơ thể bà bừng lên, tim bà như đang ca hát, reo vui. Ông ấy như đang vuốt mái tóc bà, âu yếm bà. Bà không khóc, nhưng miệng cứ lầm dầm như đang nói chuyện với chồng. Chẳng biết bà nói gì với ông. Và hẳn là điều bà nói, chỉ có bà và ông mới hiểu.
Khi bó nhang đã cháy hết. Thứ nhẹ nhàng nói với mẹ:
- Mẹ ơi! Nhang cháy hết rồi. Mẹ đã làm tròn phận sự của người vợ với bố Dân và bố Lượng một cách chu toàn và rất tình nghĩa. Mẹ ơi! Đời mẹ như một bến sông, suốt đời âm thầm, lặng lẽ đứng nhìn dòng sông êm đềm, lững lờ trôi và những con thuyền tấp nập, nhộn nhịp ngược xuôi. Một lúc nào đó, thuyền dừng lại bến, thuyền nghỉ ngơi, thuyền nhận hàng. No hàng, thuyền lại ra đi. Còn bến sông như là mẹ thì ở lại cứ đứng nhìn dòng sông trôi. Thuyền ra đi. Mẹ như bến, chờ mãi, đợi mãi cho đến khi hóa đá.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng 23 Tháng Hai, 2022 “Ở một chừng mực nào đó, dịch giả cũng giống như một người đầu bếp. Từ nguyên vật l...