Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 3b

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 3b

Trần Nguyên Hãn trở về lán trại của mình thấy Doãn Nỗ vẫn chưa ngủ, chàng muốn đàm đạo, trao đổi với Nỗ về Binh thư. Trước khi vào trận nói chuyện với nhau về kế sách đánh giặc thiết nghĩ đâu có thừa. Tuy là con nhà vọng tộc nhưng về sau do hoàn cảnh gia đình sa sút, Doãn Nỗ chưa có điều kiện tìm hiểu nhiều về Binh thư yếu lược nên với một thái độ cầu thị, mỗi lần nghe quan Tư đồ nói về Binh thư, Doãn Nỗ lại chăm chú, hào hứng, lắng nghe. Lần này Trần Nguyên Hãn luận về đạo làm tướng. Chàng nói:
- Phàm cái nguồn để biến đổi quân kì quân, chính là ở chỗ: Đến thì không nói. Dùng binh thì bí mật. Cho nên việc thì nắm trước, động thì lặng im, dùng thì người ta không ngờ, mưu thì người ta không biết. Phàm muốn thắng thì trước tỏ cho địch biết là ta yếu rồi mới đánh. Vì thế, quân ít mà công nhiều. Chưa thấy thắng mà đã đánh thì quân tuy nhiều cũng thua! Người đánh giỏi thì bình tĩnh mà không rối. Thấy thắng thì đánh. Thấy không thắng thì dừng.
Doãn Nỗ há mồm nghe như muốn nuốt lấy từng lời của Trần Nguyên Hãn. Quan Tư đồ  tiếp tục:
- Vào trận, nếu thấy đường tiến dễ, đường lui khó thì nên săn ở phía trước. Nếu đường tiến khó, đường lui dễ thì nên đến sát mà đánh. Đóng quân ở nơi thấp, nước không có chỗ thông, lại hay mưa dầm thì nên tháo nước vào cho ngập. Đóng quân ở nơi chằm hoang, cây cỏ um tùm, gió thổi lồng lộng thì nên đốt mà tiêu diệt. Quân đóng mãi một nơi, tướng sĩ trễ nải, quân không đề phòng thì nên lẻn mà đánh úp.
- Tuyệt vời! - Sắc mặt Doãn Nỗ sáng bừng, chàng reo lên sung sướng như người ta bắt được cục vàng, rồi giục - Còn gì nữa không? Quan Tư đồ nói tiếp đi. Đệ xin làm môn sinh. Quả thật, nếu không có học mình chỉ là một võ biền.
- Thế nhưng xin thượng tướng hiểu cho, các cụ dạy rằng, dùng trí để phục thiên hạ mà thiên hạ phải phục trí nhưng trí vẫn không thắng. Dùng phép để chế thiên hạ mà thiên hạ phải theo phép nhưng phép cũng không thần. Vậy trí với phép không phải là cái hay ở trong cái đầu. Bậc thánh võ trị đời, đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không có lũy, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng như mưa rơi trên không mà dựng lên cuộc đời vô sự. Thôi, thượng tướng ngủ đi lấy sức ngày mai vượt sông. Mà không thấy quân Minh động tĩnh gì là cớ làm sao nhỉ?
Câu hỏi của Trần Nguyên Hãn được quân Minh trả lời ngay vào rạng sáng hôm sau.
Trời mới mờ sáng. Bóng đêm còn vương đầy trong các vòm cây. Tiếng chim “bắt cô trói cột”, “năm trâu sáu cọc” vừa gặp nhau mãi trong rừng sâu. Trần Nguyên Hãn và Doãn Nỗ cũng vừa thức dậy. Cả hai người chưa kịp rửa mặt thì có một người lính chạy ập vào. Mặt mũi anh ta đầm đìa mồ hôi. Quỳ xuống trước mặt Trần Nguyên Hãn, người lính ấy vừa thở hổn hến, vừa tấu trình:
- Thưa Quan Tư đồ: giặc Minh đang hành quân tìm diệt nghĩa quân. Rất có thể trong một hai ngày tới bọn chúng sẽ đến vùng này.
Trần Nguyên Hãn bước tới cầm tay người lính bảo anh ta đứng lên và bình tĩnh hỏi:
- Bọn chúng có đông không?
- Tâu tướng quân: Rất đông! Không rõ là bao nhiêu nhưng chắc chắn đông hơn chúng ta gấp nhiều lần.
- Thôi được rồi. Cho đệ lui.
Đợi người lính trinh sát bước ra khỏi lán, Trần Nguyên Hãn nói với Doãn Nỗ:
- Quân Minh đông lắm có nghĩa là lực lượng của bọn chúng nhiều hơn, mạnh hơn một ngàn quân với một thớt voi của chúng ta. Bởi vậy, dàn thế trận chúng ta phải giành thế chủ động. Dựa trên thực tế Hà Khương nằm ở Bắc sông Bố Chính, lại là một vùng đất liền với bờ sông, có địa hình núi non hiểm trở. Đồng thời, Hà Khương còn nằm trong khu vực tả ngạn của cửa sông Bố Chính… Cho nên ý ta là thế này, thượng tướng nghe, rồi có đề xuất thêm gì không.
Hai người thì thầm trao đi đổi lại một lúc thì trời sáng hẳn. ánh nắng bắt đầu ửng hồng trên những ngọn cây cao nhất. Được mật truyền, binh lính thức dậy ai nấy lục tục chuẩn bị gươm, giáo sẵn sàng vào trận. Theo kế sách và mật lệnh của chủ tướng Trần Nguyên Hãn, nghĩa quân nhanh chóng được chia làm hai. Một nửa theo Thượng tướng Doãn Nỗ đi làm nhiệm vụ phục binh, còn một nửa theo Trần Nguyên Hãn nhận nhiệm vụ đi nhử địch.
Tân Bình - Thuận Hóa là một vùng đất rộng mênh mông với núi cao, rừng rậm, sông dài, ruộng đồng bát ngát. Nơi đây trước kia là Thuận Hóa gồm có năm châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô và châu Rí của Chiêm Thành. Từ năm 1069 sau cuộc chiến tranh với nhà Lý, Đại Việt bị thua,Vua Chiêm Thành đành phải cắt ba châu Địa Lý, Ma Linh, phía Bắc Bố Chính để cầu hòa và đặt tên là Tân Bình. Đạo quân mà lính trinh sát báo cho Trần Nguyên Hãn biết chính là đạo quân đang trấn giữ trị sở ở Bắc châu Bố Chính, do tướng Nhậm Năng chỉ huy.
Làm chủ một vùng, từ nhiều năm nay Nhậm Năng tha hồ tự tung tự tác, tha hồ tự do bắt bớ, cướp bóc, hãm hại dân lành. Cũng có khi ở nơi này nơi khác, lẻ tẻ có cuộc nổi dậy chống quân nhà Minh nhưng liền bị Nhậm Năng trấn áp, đè bẹp ngay! Lần này mới nghe trình báo có nghĩa quân Lam Sơn đem quân từ phía Bắc tràn vào nhằm giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa, cho rằng Hào trưởng Lê Lợi dám vuốt râu hùm, Nhậm Năng đùng đùng nổi giận. Để ra uy với đạo quân của mình, Nhậm Năng bảo, không ngồi chờ địch tới mới bị động hành động. Một đội quân mạnh là phải chủ động tìm địch mà diệt! Phải đánh phủ đầu, tiêu diệt địch trước khi địch tấn công! Với phương châm ấy, Nhậm Năng đich thân dẫn quân đi.
Đường đến cửa sông Bố Chính, đạo quân của tướng Nhậm Năng lúc phải qua núi cao, lúc phải vượt rừng sâu, lúc lại băng qua những cánh đồng, những thung lũng. Vậy mà từ ngựa, voi đến binh lính vẫn mải miết đi như không hề biết mệt. Chưa trông thấy đạo quân thì từ xa hai mắt đã thấy từng đám bụi đất bốc lên ngang trời như những đám mây, hai tai đã nghe được tiếng bước chân, tiếng hò reo rầm rầm như sấm động. Khi trông thấy thì có cảm giác đấy không phải là người mà là một dòng thác lũ đang cuồn cuộn chảy, đất cát tơi vụn dưới chân, cây cối đổ nát bên đường. Với một đạo quân dũng mãnh như vậy, Nhậm Năng sẽ đè bẹp đối phương như người ta giẫm nát một con giun dưới chân, bóp nát đối phương như người ta vò một chiếc lá trong tay!
Nhậm Năng dẫn quân đến một cánh đồng nhỏ hẹp. Phía trước có một con đường nhỏ trườn từ bên kia sườn núi ra. Nghe có tiếng động lạ, Nhậm Năng cảnh giác cho dừng quân. Lát sau, quả nhiên từ phía bên kia sườn núi xuất hiện một đoàn quân, đông phải tới vài trăm. Đấy là nghĩa quân của Trần Nguyên Hãn.
Gặp nhau giữa cánh đồng, hai bên cùng dàn thế trận xong, Nhậm Năng ngồi trên lưng ngựa, chỉ mặt Trần Nguyên Hãn, mắng:
- Tên giặc cỏ nhãi ranh kia! Người từ đâu dám vác xác đến đây? Ta là Nhậm Năng. Khôn hồn thì bó giáo lai hàng. Nếu không, đầu ngươi sẽ rơi ngọn cỏ.
Cũng ngồi trên lưng ngựa, Trần Nguyên Hãn điềm tĩnh bảo:
- Lời lẽ ấy lẽ ra phải dành cho nhà ngươi mới đúng. Nhậm Năng! Tại sao bọn nhà ngươi dám đem quân sang xâm chiếm nước ta, gây tội ác với dân. Bọn ngươi hãy cút về nước đi, bằng không, máu các ngươi sẽ chảy thành sông, xác các ngươi sẽ chất thành núi. Hãy trả lời ta đi!
- Thôi! Không nhiều lời nữa. Đây là câu trả lời của ta.
Dứt lời, Nhậm Năng múa đao, ra lệnh cho quân sĩ xông trận, ào ào tiến lên. Trần Nguyên Hãn liền rút gươm thần trong bao, vung lên. Lưỡi gươm bắt ánh nắng sáng lòe. Nhậm Năng hung hăng lao tới, phóng một đường đao, lóe sáng như ánh chớp. Trần Nguyên Hãn vung gươm đỡ. Tiếng gươm, đao va nhau  “choang choang” cùng tiếng “a, a, a” vang vang như sấm dậy một vùng trời.
Tướng, sĩ giao chiến mấy hiệp chưa phân thắng bại, bỗng nhiên Trần Nguyên Hãn quay gươm, ra hiệu cho nghĩa quân quay đầu, rút chạy. Nhậm Năng đắc thắng, ngửa mặt lên trời, ha hả cười, rồi thúc ngựa, thúc quân thừa thắng đuổi theo, quyết bắt sống Trần Nguyên Hãn.
Theo hướng Trần Nguyên Hãn bỏ chạy, Nhậm Năng dẫn quân đuổi theo. Rượt đuổi đối phương đến đoạn đường một bên là vách núi cao, một bên là dòng sông Bố Chính, đạo quân của Nhậm Năng bất ngờ bị nghĩa quân Lam Sơn do tướng Doãn Nỗ chỉ huy phục kích ở trong rừng ùa ra, chặt làm đôi. Bấy giờ Nhậm Năng chợt nhận ra mình đã bị Trần Nguyên Hãn vờ thua để đưa vào “bẫy” thì đã muộn. Nhậm Năng định quay đầu nhưng đâu có được. Đầu trên, Trần Nguyên Hãn quay lại đánh tiếp. Đầu dưới, thượng tướng Doãn Nỗ vung gươm chỉ huy nghĩa quân xông ra chiến đấu. Ở cái thế đừng chẳng được, tướng Nhậm Năng liều chết lao lên quyết chiến với Trần Nguyên Hãn. Lạ lỳ thay là mấy lần liền Nhậm Năng vung đao chém trúng Trần Nguyên Hãn mà sao quan Tư đồ vẫn không hề xây xước gì! Nhậm Năng làm sao biết, ngoài giỏi võ thuật, Trần Nguyên Hãn còn có tấm áo “Ma y” do một người cao lớn, hình dáng kỳ dị tặng cho tại xứ đồng Chằm Xoan ngày nào!
Kinh hoàng trước sức mạnh kỳ lạ của Trần Nguyên Hãn, Nhậm Năng liền quay đao, ghìm cương ngựa, quay đầu tháo chạy. Như rắn mất đầu, đạo quân Minh mất sức chiến đấu, thế trận bị tan vỡ hoàn toàn: Nhậm Năng thì chạy bán sống, bán chết, còn quân lính thì,  phần bị chém đầu, phần lăn xuống sông Bố Chính mà chết đuối không biết bao nhiêu mà kể.
Trận tan! Trần Nguyên Hãn phát lệnh thu quân. Chàng ngỡ ngàng không dám tin vào mắt mình khi nhìn thấy nghĩa quân chỉ còn khoảng hai phần ba con số. Nước mắt Hãn ứa ra. Anh em hy sinh nhiều quá, Trần Nguyên Hãn cảm thấy mình như người có lỗi trong chuyện này. Doãn Nỗ đọc được tâm tư của quan Tư đồ liền nói:
- Đã là chiến tranh tránh sao khỏi mất mát. Xin quan Tư đồ chớ mềm lòng. Những binh sĩ của chúng ta chết hôm nay là cần thiết vì họ đều hy sinh cho dân, cho nước.
- Biết thế, nhưng ta vẫn nghĩ: Một người cầm quân giỏi là phải biết tiết kiệm từng giọt máu của người lính. Liệu có cách nào đánh giặc tốt hơn để đỡ tốn xương máu của anh em? - Trần Nguyên Hãn hỏi Doãn Nỗ vậy cũng là hỏi chính bản thân mình, cho nên câu trả lời hãy còn bỏ ngỏ. Chàng vội bàn sang vấn đề khác - Quân ta còn quá ít so với quân Minh, chắc chắn sau khi củng cố lực lượng bọn chúng sẽ tiếp tục đánh lại chúng ta. Vì vậy ý Thượng tướng nên như thế nào?
- Thưa quan Tư đồ. Nhiệm vụ giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa chúng ta vẫn chưa thực hiện được trong khi nghĩa quân lại bị tổn thất đáng kể. Bởi thế theo thiển nghĩ của đệ, chúng ta phải xin thêm viện binh.
Doãn Nỗ nói đến đấy, Trần Nguyên Hãn vội thốt lên:
- Ý Thượng tướng rất đúng với ý ta. Chúng ta phải xin viện trợ khẩn cấp, không phải hành quân trên bộ mà đi bằng đường biển. Các chiến thuyền vượt biển đến thẳng cửa sông Bố Chính. Từ đấy nghĩa quân sẽ tiến đánh phía Bắc châu  Bố Chính, theo đó, tiến sâu vào Nam, đánh chiếm Tân Bình - Thuận Hóa.
Hai người bàn bạc, cân nhắc thiệt hơn, trao đi đổi lại một lúc lâu, Thượng tướng Doãn Nỗ không có ý kiến gì thêm, Trần Nguyên Hãn mới bảo:
- Ra quân trận đầu, chiến thắng thế là giòn giã, thượng tướng lo chuyện khao quân, sớm có chế độ ban thưởng cho người có công, và tổ chức lễ cầu siêu cho những người tử trận.

16. Nhận được tin của Trần Nguyên Hãn cấp báo về, Bình Định vương chấp nhận phương châm chiến thuật, chiến lược mà quan Tư đồ tấu trình và lệnh cho các tướng Lê Ngân, Lê Bôi đem ngay bảy mươi chiến thuyền từ Nghệ An ngày đêm vượt biển vào hội quân với Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ đang ở Bố Chính để tiêu diệt giặc.
Được chi viện kịp thời, chủ tướng Trần Nguyên Hãn hợp quân lại. Sau khi thắng lớn ở Bắc Bố Chính, quan Tư đồ quyết định mở một đợt tổng công kích vào hậu phương của giặc Minh ở Tân Bình - Thuận Hóa. Theo binh pháp cổ truyền của dòng họ Đông A mà Trần Hưng Đạo tổng kết: “Dĩ đoản binh, chế trường trận”, được Trần Nguyên Hãn vận dụng một cách sáng tạo với phương châm hành động: “Lấy ít địch nhiều: Thường dùng mai phục - Lấy yếu chống mạnh: Hay đánh bất ngờ”. Nhờ có sách lược đúng đắn, trong tay lại có bốn thứ quân: Bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thủy binh, quân thủy và quân bộ cùng tiếp ứng cho nhau tạo nên một thế mạnh áp đảo. Nhờ vậy, chỉ sau vài trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh đã nhanh chóng tan rã. Lính và dân thuộc giặc Minh trước đây ở khắp nơi đều quy thuận. Quân, tướng nhà Minh phải rút chạy vào thành cố thủ. Cùng với cả một vùng rộng lớn Tân Bình - Thuận Hóa được giải phóng, nghĩa quân Lam Sơn cũng trưởng thành vượt bậc: Từ chỗ chỉ chống vây quét, tiến lên những trận tiến công lớn như hạ thành, vây thành, tiêu diệt quân chủ lực địch. Công lao cũng như uy tín của Trần Nguyên Hãn từ đấy càng tăng thêm. Quan Tư đồ càng được Bình Định vương trọng dụng, tin yêu. Các tướng lĩnh càng cảm phục và quân sĩ càng tin tưởng vào tài thao lược của chủ tướng Trần Nguyên Hãn. Tuy vậy, quan Tư Đồ vẫn chưa thấy hài lòng với những gì mà nghĩa quân đạt được. Trần Nguyên Hãn nghĩ, sở dĩ chỉ trong vòng có mười tháng mà nghĩa quân Lam Sơn giành chiến thắng như vậy chính là vì phần lớn do sự bố phòng cũng như khả năng chống đỡ của quân Minh tại Tân Bình - Thuận Hóa phải nói là yếu ớt. Vả lại, chiến thắng này đâu đã trọn vẹn khi mà hai thành trì Tân Bình, Thuận Hóa kia vẫn chưa bị triệt hạ. Nhưng thôi, có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ. Tất cả còn đang ở phía trước. Thắng thua là ở trận cuối cùng. Công việc trước mắt lúc này chàng phải cùng Bộ chỉ huy cho chấn chỉnh tổ chức hành chính các cấp, giải quyết những gì còn tồn tại do chế độ nô dịch và hà khắc của giặc Minh để lại, đặc biệt là phải quan tâm đến“hiểu dụ nhân dân”… Trần Nguyên Hãn nghĩ vậy và suốt mấy hôm nay chàng và các tướng lĩnh đều đang làm vậy.
Vừa rạng sáng, Trần Nguyên Hãn đã dắt ngựa ra khỏi tàu. Với ý định sáng nay sẽ “ mục sở thị” xem việc nghĩa quân phá kho lương thực của giặc, cấp phát cho nhân dân chống đói, Trần Nguyên Hãn nhảy lên lưng ngựa, phóng đi.
Trần Nguyên Hãn cho ngựa dừng chân trước một ngôi làng nhỏ. Đó là làng Vạn Hạc. Làng này ngày trước có một ngôi đình lớn. Án ngữ ở cửa vào đình có hai con hạc rất to, có lẽ bởi thế người ta mới gọi vùng này là Vạn Hạc. Tương truyền, xưa kia có một công chúa dẫn quân vào khai phá nơi đây rồi đặt tên cho ba thôn là: Cậy Đòi có nghề hát bội, Cậy Hạc chuyên làm nghề nông và Cậy Lau chuyên nghề săn bắn. Để ghi nhớ công lao khai sơn lập địa của công chúa, dân làng xây miếu gọi là miếu Bà thờ nàng bên cạnh đình làng. Phía trước cổng làng là cánh đồng, một năm hai vụ lúa. Làng khá trù phú. Đã bao đời nay các dòng họ trong làng sống đoàn kết thân ái với rất nhiều lễ hội, phong tục tập quán tốt đẹp. Thế nhưng từ ngày giặc Minh đem quân sang xâm chiếm nước Đại Việt, làng Vạn Hạc bị chúng chiếm đóng, dân tình chịu trăm bề cực khổ: Nào sưu cao thuế nặng, nào phu phen, nào đi lính, nào xuống biển lên rừng khai thác hải sản, lâm sản, nào đình chùa miếu mạo bị triệt phá. Xóm làng tiêu điều xơ xác! May thay, giữa lúc cái đói đang hành hạ, tưởng cả làng chết vì không có cái gì ăn sống người thì nghĩa quân Lam Sơn đến. Làng được giải phóng, làng lại được nghĩa quân lấy lương thực của giặc chia cho dân. Cái tin ấy loang đi rất nhanh như một một làn gió mát, người nọ gọi người kia, nhờ vậy mà mặt trời vừa mới nhô lên khỏi dãy núi phía sau làng, mọi người đã có mặt bên kho thóc ở đầu làng.
Dân làng tấp nập kéo đến nhận quả thực rất đông. Nghĩa quân đang phát thóc cho dân. Trần Nguyên Hãn xuống ngựa, vờ như không biết, hỏi một người đàn bà:
- Cụ ơi! Bà con làm gì mà đông vậy?
Người đàn bà cóc cáy, gầy chỉ còn da bọc xương, đầu tóc bạc trắng, xua tay:
- Đừng gọi rứa. Tui chưa năm mươi đâu - Trần Nguyên Hãn không thể hình dung được một người chưa đến năm mươi tuổi mà bị cuộc sống lam lũ, vất vả biến thành già nua đến thế! Người đàn bà hai mắt hấp háy cười, trả lời vào câu hỏi của Hãn - Mọi người đến nhận thóc nghĩa quân phát chứ có mần chi mô.
- Nghĩa quân nào vậy?
- Lam Sơn. Tui nghe nói rứa.
- Ông nhà đâu không đi?
- Ông ấy chết rồi. Đi đào thành đắp lũy cho giặc Minh bị bọn chúng đập chết mấy năm ni rồi.
Đúng là ở đâu có giặc Minh thì người dân ở đấy không làm sao có được một cuộc sống bình yên. Trần Nguyên Hãn một lần nữa lại thầm kết luận. Chàng dắt ngựa đi vào nơi nghĩa quân đang cấp phát lúa gạo cho dân. Thoáng nhìn thấy quan Tư đồ mấy người lính vội dừng tay. Trần Nguyên Hãn ra hiệu bảo họ tập trung nhân dân lại, nhân dịp này chàng sẽ “hiểu dụ dân” - Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng như cầm quân đánh giặc.
Trong đám đông có đàn ông, đàn bà, có người già, người trẻ đang ồn ào cười nói bỗng im bặt sau mấy lời giới thiệu và giọng nói sang sảng của Trần Nguyên Hãn vang lên:
- Thưa bà con! Nước Đại Việt ta tuy nhỏ bé nhưng từ xưa đến nay luôn lập nhiều chiến công hiển hách để gìn giữ non sông gấm vóc thân yêu của chúng ta. Đó là, đời Ngô phá Hán, đời Lý đánh Tống, đời Trần bình Nguyên, và đến bây giờ là đời Lê đang đánh đuổi quân Minh. Đời Lê tôi nhắc tới ở đây tức là Lê Lợi. Ông vốn là một hào trưởng có chí lớn. Lê Lợi từng nói: “Làm trai sinh ở trên đời nên giúp nạn lớn, lập công to, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?” Do vậy, ông dựng cờ nghĩa ở núi rừng Lam Sơn, tập hợp hào kiệt khắp nơi về để cùng nhau đánh giặc. Nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Bình Định vương Lê Lợi đã tiến quân về đây đánh chiếm Tân Bình, Thuận Hóa, bà con có biết để làm gì không? - Tất cả lặng thinh chưa có câu trả lời, Trần Nguyên Hãn thấy cần phải lý giải ngay cho mọi người hiểu về đường lối và mục đích của nghĩa quân - Thưa bà con, ngoài việc mưu cầu giải phóng cho nhân dân thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh, nghĩa quân không có mục đích nào khác.
Từ trong đám đông bỗng vỡ òa lên tiếng hò reo và tiếng vỗ tay hoan hô rầm rầm như sấm động. Trần Nguyên Hãn vẫy vẫy tay nhắc mọi người im lặng, chàng say sưa nói tiếp:
- Thưa bà con! Để chứng minh cho mục đích duy nhất này, trước mắt, thay mặt Bình Định vương Lê Lợi, chúng tôi quyết định phá các kho lương thực của giặc để cứu đói cho nhân dân, theo đó sẽ miễn tô thuế cho bà con liên tục trong ba năm liền. Đồng thời để bảo vệ thành quả đã đạt được chúng ta phải  thực hiện tốt chế độ tuyển dụng nghĩa binh.
Có một người hỏi chen ngang:
- Tướng quân ơi, chế độ tuyển dụng nghĩa binh, nghĩa là răng?
- Nghĩa là chúng tôi khuyến khích, hoan nghênh đối với những người tự nguyện tham gia, những gia đình nếu có ba tráng đinh trở lên hì nhất thiết phải có một người xung lính. Có như thế nghĩa quân mới đông, mới mạnh, mới mau chóng quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi nước ta.
- Nhưng tướng quân ơi, biết đến khi mô chuyện đó mới thành?
- Bà con biết không? Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị đánh quân Hán, hạ được sáu mươi lăm thành trì phải mất ba năm mới tự lập làm Vua. Bà Triệu Thị Trinh cầm đầu một ngàn quân sĩ, đánh nhau với quân Hán suốt ba năm mới chịu tử tiết. Lý Nam Đế, tiếp đến là Triệu Việt vương giao chiến với quân nhà Lương mất năm mươi năm. Dương Diên Nghệ tiếp đến Ngô Quyền phải đánh nhau với quân Nam Hán mất bảy năm trời mới giành được độc lập. Lý Thường Kiệt giao chiến với quân Tống mất gần hai năm. Rồi nhà Trần phải đánh nhau với hai đạo quân Nguyên - Mông mất năm năm mới đuổi được chúng về nước. Nhắc lại lịch sử của cha ông để bà con tự hào và nên hiểu rằng, chiến tranh giải phóng dân tộc không phải là chuyện một sớm, một chiều mà làm xong. Hiện nay, bởi Hồ Quý Ly nhu nhược nên đất nước ta mới bị quân Minh xâm chiếm. Chúng ta phải kiên trì và đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa thì nhất định nghĩa quân Lam Sơn sẽ chiến thắng. Mỗi người dân Đại Việt chúng ta phải vừa là một nông dân, vừa là một người lính, thế thì mới mong mau giành thắng lợi. Bà con có đồng ý vậy không?
Tiếng vỗ tay hoan hô cùng tiếng hò reo hưởng ứng một lần nữa lại vang lên rầm rầm.
Quá xúc động trước tình cảm của nhân dân, sắc mặt Trần Nguyên Hãn đỏ bừng. Chàng vẫy tay chào mọi người, rồi nhảy lên ngựa phi tiếp.
Vó ngựa đưa Trần Nguyên Hãn đến Lèn Vị.
Lèn Vị là tên gọi xa xưa của một hòn núi mọc lên ở giữa làng Thủy Tiên. Núi cao như một tấm bình phong sừng sững. Nhưng khi mây xuống thấp tưởng như chạm đến đỉnh trời. Tại đây không rõ tự bao giờ đã trở thành chốn thâm nghiêm và đầy sự uy linh. Hằng năm cứ vào dịp sau giỗ Tổ Hùng vương một tháng, dân làng Thủy Tiên lại cùng nhau tổ chức lễ hội Phù Đổng Thiên vương.
Chuyện các cụ bô lão làng Thủy Tiên kể rằng: Ngày xưa người dân làng Thủy vô cùng khổ cực. Mất mùa thường xuyên xảy ra. Đói kém với người dân là chuyện hằng ngày. Quanh năm người dân Thủy Tiên chỉ biết lấy nghề rừng rú làm nguồn sống chính. Từ người già đến trẻ con ngày ngày phải lên rừng hái các loại quả cây đem về bán ở các chợ quanh vùng lấy tiền mua gạo, mua khoai để sống qua ngày. Nhưng rồi không hiểu nhờ Trời Phật phù hộ thế nào mà liên tục mấy năm liền Thủy Tiên được mùa to. Nhờ thế đời sống mới bớt cảnh nghèo đói, hắt hiu.
Một hôm có một cụ ông, người cao tuổi nhất trong làng, kể về giấc mơ của mình nhân một buổi hội đình rằng: Cụ đã gặp một vị thần về giúp dân làng. Vị thần này đầu đội mũ kim ô, ngồi trên lưng con ngựa sắt. Tay ngài cầm một chiếc roi sắt và rượt đuổi bọn giặc lân bang từ phương Nam đến quấy phá. Sau khi đuổi được bọn giặc chạy xa rồi thì vị thần kia quay về. Trên đường đi ngài qua vùng ThủyTiên. Thấy cảnh đẹp, Ngài mới cho binh lính nghỉ lại một đêm. Khi biết dân làng Thủy Tiên còn nhiều khổ cực, vị thần liền xin nhà Trời cho ở lại vài hôm để dạy dân cấy cày, trồng trọt. Đến khi thấy mọi công việc nhà nông người dân đã thuần thục, Ngài một mình một ngựa bay ra phía Bắc. Đến vùng núi Nghĩa Lĩnh, ngài cho ngựa hạ xuống. Nhưng ngài cũng chỉ ở Nghĩa Lĩnh một thời gian ngắn, rồi lại bay tít lên Trời và không bao giờ quay về hạ giới nữa!
Nghe hết câu chuyện về giấc mơ của ông cụ, các vị tiên chỉ làng bàn với các vị chức sắc trong làng cử một đoàn gồm những đinh tráng khỏe mạnh đem gạo nếp, lợn, bò…,là toàn những sản phẩm được nuôi trồng tại đất Thủy Tiên, đi bộ gần một tháng trời ra tận Đền Hùng xin tế lễ. Tiếp đó lại đến tận đền thờ Thánh Gióng làm lễ tạ ơn và xin một ít đất, xin lập lư hương rước về làng thờ cúng. Được dân làng góp công, góp của, chỉ sau một thời gian ngắn, tại Lèn Vị đã có một ngôi đền đẹp nhất, to nhất vùng mọc lên. Hôm khánh thành đền, làng Thủy Tiên tổ chức hội đền dài ba ngày. Hương nến, đèn đuốc sáng trưng một góc núi. Người người ở nhiều nơi nườm nượp kéo đến cầu lộc, cầu cho quốc thái dân an. Nhìn lên bức bình phong nơi chính giữa đền tạc hình Phù Đổng Thiên vương ngồi trên lưng ngựa sắt, tay cầm roi sắt, hai bên có hai vị tướng hộ tống ngước mắt nhìn theo Ngài bay về Trời ai ai cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ và cúi mình kính cẩn. Cũng từ đó dân làng hai giáp: giáp Đông, giáp Đoài được các cụ chức sắc trong làng Thủy Tiên phân công trực tiếp làm cỗ cúng thi. Năm nào cũng làm và rồi thành lễ hội Phù Đổng Thiên Vương của làng.
Đồ cúng trong lễ hội đều được chế biến từ những sản phẩm tự làm ra trên cánh đồng làng, đặc biệt là xôi và các loại bánh. Muốn có được các loại xôi ngon, bánh dẻo thì ngay từ khi lúa chín sắp gặt những nam thanh nữ tú trong làng đã phải ra tận ruộng chọn những bông nhiều hạt, chắc mẩy ngắt về phơi riêng, rồi cất trên sàn nhà cả bồng chẹn. Khi sắp đến ngày lễ hội mới đem bồng chẹn xuống đạp ra, lấy lúa xay, giã thành gạo. Có gạo rồi, các giáp lại tuyển những cô gái giỏi giang chọn ra những hạt gạo cật, trắng, nguyên vẹn không gãy vỡ đem đồ xôi.
Gạo nếp ngâm trong nước được vớt ra, khi xôi phải qua ba bước: Bước một, khi hông xôn hạt nếp lên đều hơi thì đổ nếp ra nong, quây mỏng cho nguội. Nguội rồi lại đổ vào hông làm như bước một. Bước ba, lại làm như bước hai. Phải hông ba lần xôi mới đạt yêu cầu.
Xôi chín, một nửa đơm vào một chiếc mâm, nửa còn lại bỏ vào cối giã. Đầu chày giã phải bọc bằng lụa mo cau. Mỗi lần giã có ba trai tráng cầm chày giã nhịp ba. Mệt, thay kíp khác. Giã đến khi nào xôi nhuyễn thành bánh thì cử một người khỏe dùng cả hai tay vắt cả nhả bánh ném thật mạnh vào lòng cối. Ném đến khi nào bánh không còn dính vào lòng cối mới thôi.
Bánh đạt yêu cầu phải vừa trắng, vừa dẻo, vừa mượt. Khi lấy dao cắt, mặt bánh phải lì, không có hơi rỗng phía trong mới được nhận phần thưởng của làng.
Lễ hội thường kéo dài ba bốn ngày. Nhiều năm cứ sau lễ cầu đảo, trời lại đổ mưa - Những cơn mưa như Trời Đất giao hoan làm cho lúa má, hoa màu xanh tốt bời bời, khiến dân làng vui sướng và lại càng tin vào sự linh nghiêm thiêng liêng của đền thờ.
Thế nhưng cũng như nhiều làng quê khác trên dải đất nước Đại Việt này, từ ngày giặc Minh xâm chiếm, làng Thủy Tiên không còn tổ chức lễ hội được nữa. Mãi đến bây giờ khi quê hương được giải phóng, dẫu chưa đến ngày nhưng vì vui mừng quá, làng Thủy Tiên bảo nhau bày cỗ mở hội tạ ơn Trời Đất, tạ ơn Thánh Thần và nghĩa quân Lam Sơn.
Được tắm mình trong không khí lễ hội của làng quê, Trần Nguyên Hãn lại da diết nhớ về những ngày ở Đa Cai với những hội đánh phết, hội thi nấu cơm. Chao ôi, chuyện như vừa mới hôm qua mà đã cách nay hơn chục năm trời rồi! Được một cụ già râu tóc bạc phơ kể cho nghe về sự tích lễ hội Phù Đổng Thiên vương ở nơi đây, Trần Nguyên Hãn tự hỏi, tại sao đánh tan giặc Ân, Thánh gióng lại bay về Trời nhỉ? Và chàng nghĩ, hóa ra trên khắp nước ta ở đâu cũng cùng là một cội nguồn: Cùng là con cháu Hùng vương, cùng biết gieo trồng lúa nước, cùng một mạch nguồn văn hóa thờ cúng tổ tiên, Quân Minh muốn chia ra để trị, muốn đồng hóa dân tộc Đại Việt. Âm mưu ấy bọn chúng đạt làm sao được!
Suốt một ngày vi hành, tận mắt được nhìn thấy cuộc sống đang hồi sinh của nhân dân do nghĩa quân Lam Sơn đem lại, tai được nghe những nguyện, những mong ước của nhân dân đòi hỏi nghĩa quân phải tiếp tục làm Trần Nguyên Hãn vui quá. Chàng vừa cởi mở trải lòng mình với Doãn Nỗ xong thì thượng tướng cũng cho chàng biết:
- Thưa tướng quân. Nhờ chúng ta thực hiện nhiệm vụ “hiểu dụ nhân dân” tốt nên theo chỗ tôi biết, người dân Tân Bình, Thuận Hóa từ vùng nông thôn đến miền núi đều quy thuận nghĩa quân. Ngoài ra, chúng ta đã tuyển được thêm hai vạn tráng đinh để bổ sung vào đội quân Lam Sơn.
Quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn vui mừng nắm chặt tay Thượng tướng Doãn Nỗ. Hai người nhìn nhau cùng hài lòng. Đó là một cặp tướng lĩnh song trùng hiếm có.
Đang vui, Trần Nguyên Hãn nhận được chiếu chỉ của Bình Định vương Lê Lợi. Trong chiếu chỉ, Lê Lợi xác nhận: Tướng Nguyễn Chích là người đề ra đường lối chuyển hướng chiến lược, nhằm tạo ra bước tiến nhảy vọt của nghĩa quân. Trần Nguyên Hãn là người đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chiến lược ấy do đích thân Bình Định vương giao phó. Nay lực lượng nghĩa quân đã hùng mạnh, sẵn sàng bước vào một giai đoạn chiến đấu mới, Quan Tư đồ khẩn trương đưa nghĩa quân ra Bắc, chuẩn bị tiến đánh Đông Quan! Đọc hết chiếu chỉ, Trần Nguyên Hãn nói lớn, giọng dứt khoát:
- Tuân chỉ!
17.
Tháng 8 năm 1426, nhận chiếu chỉ của Lê Lợi, trên đường ra Bắc, quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn có ghé về thăm quê hương và gia đình mấy ngày. Trong thời gian ngắn ngủi ấy, chàng đã kịp cho thiết lập ở Rừng Thần một đồn sở để “dĩ ứng Minh binh chi hậu”, nhằm ứng phó với quân Minh về sau này, và tuyển lựa được mười lăm tráng đinh khỏe mạnh, trong đó có Nguyễn Văn Bờ - người bạn thân từ thủa hàn vi - cùng tham gia nghĩa quân Lam Sơn.
Thu xếp công việc xong, Trần Nguyên Hãn cấp tốc đi đến làng Phù Liệt. Tại đây, Lê Lợi triệu tập một hội nghị rất quan trọng: Bàn việc tấn công thành Đông Quan!
Hầu như các tướng lĩnh ai cũng biết, Phù Liệt là nơi từ đầu thế kỷ thứ X, thời kỳ loạn 12 sứ quân, Nguyễn Siêu là một trong những sứ quân mạnh lúc bấy giờ đã lập căn cứ ở Phù Liệt. Tới thời Lý, vị vua đầu tiên là Lý Thái tổ, vào năm Thuận Thiên thứ 2, khi vừa mới dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long đã cho xây chùa Hưng Long trên đất Phù Liệt và một loạt chùa ở trong và ngoài thành. Tiếp đến đời Lý Thánh tông, lại có hai công chúa con vua đã về tu ở Hưng Long. Khi hai công chúa tạ thế, được dân địa phương xây mộ gọi là Lăng Nhị vị. Tưởng nhớ hai nàng công chúa, hằng năm cứ vào ngày 15 tháng 3 âm lịch, trong vùng tổ chức lễ hội kéo dài đến ba ngày, gọi là hội Nhót. Đất Phù Liệt còn có nhà sư Lâm Khu, được hai triều vua Lý là Lý Thái tông và Lý Thánh tông phong tới chức Tả Nhai Đô tăng thống, là vị sư đứng đầu các nhà sư cả nước. Đến thời nhà Trần lên ngôi, nhà vua và thân mẫu cũng về tu ở chùa Phù Liệt và người tự vẫn tại nơi này.
Lấy một nơi đã từng ghi nhiều dấu ấn trong lịch sử như vậy để họp là Lê Lợi có cái ngụ ý muốn nhắc nhở các tướng lĩnh, phải noi gương tiền nhân mà chiến đấu. Với ý nghĩa ấy, đợt công phá thành Đông Quan được bắt đầu với lực lượng tấn công chia thành ba mũi:
Một mũi do tướng Đinh Lễ chỉ huy, đánh vào cửa Tây.
Một mũi do Lê Lợi đích thân đốc xuất tấn công vào cửa Nam.
Một mũi đánh vào cửa Nam bằng quân thủy được giao cho Trần Nguyên Hãn.
Giao mũi thứ ba đánh bằng đường thủy cho Trần Nguyên Hãn là Bình Định vương Lê Lợi biết người, biết việc. Chúa công biết Trần Nguyên Hãn là dòng dõi tôn thất nhà Trần. Từ thời thủy tổ là Trần Quốc Kinh vốn làm nghề chài lưới, nổi lên từ làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường., rồi đền khi nhà Trần được nước thì việc tổ chức quân thủy và các đội chiến thuyền rất được đề cao. Trần Nguyên Hãn là hậu sinh chắc chắn được thừa hưởng cái gien ấy của cha ông, hơn thế, quan Tư đồ lại tinh binh pháp, lại sinh ra và lớn lên ở, bên bờ sông Lô, có dòng ăn thông vào tới tận đầu làng… Bình Định vương giao cho Trần Nguyên Hãn phụ trách 100 chiến thuyền, tấn công vào cửa Nam là hợp lẽ.
Trần Nguyên Hãn đã không phụ lòng tin của Lê Lợi. Với nhiệm vụ: Cắt đứt cầu phao - Đầu mối liên lạc giữa thành Đông Quan với các đồn Điêu Điêu, Thị Cầu và các thành nằm trên tuyến đường từ Xương Giang, Khâu Ôn về Trung Hoa, Quan Tư đồ nhận hơn 100 chiến thuyền và đội thủy quân, theo sông Lục Giang vừa đánh địch, vừa tiến thẳng ra sông Hát, thuận dòng liền cho quân đánh thẳng xuống sông Nhị Hà, chiếm bến Đông Bộ Đầu. Trận chiến này, ngoài việc đã bắt được rất nhiều chiến thuyền của địch, đội thủy quân của Trần Nguyên Hãn đã góp phần cùng với nghĩa quân tấn công vây hãm thành Đông Quan, buộc tướng Vương Thông của quân Minh phải co cụm lại, cố thủ ở trong thành.
Vương Thông nối nghiệp cha làm tới Đô Chỉ huy sứ. Hai cha con Vương Thông đều lập nhiều công tích đối với nhà Minh. Khi Minh Nhân Tông lên ngôi, Vương Thông được giao quản hậu phủ. Tháng 9 năm 1426 được phong làm Tổng binh và điều sang Đại Việt thay Tham tướng Vinh Xương để chống đỡ trước sự tấn công của nghĩa quân Lam Sơn. Nhưng tại Tốt Động và Chúc Động, dù Vương Thông trực tiếp chỉ huy, quân Minh vẫn bị nghĩa quân Lam Sơn do tướng Đinh Lễ cầm quân mai phục đánh cho thua to: Tán quan vụ Trần Hiệp, Nội quan Lý Lượng bị tử trận, bản thân Vương Thông bị thương, phải rút về thành phòng thủ!
Bị nghĩa quân Lam Sơn vây riết trong thành, đánh Vương Thông không dám đánh, thua không chịu thua. Cuối cùng tổng binh nhà Minh phải dựa vào tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ  từ năm 1407 để ra điều kiện với Lê Lợi rằng: Vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên nhà Minh mới phải đem quân sang Đại Việt đánh nhà Hồ, lập lại nhà Trần. Nay nếu Bình Định vương Lê Lợi tìm được và lập con cháu nhà Trần lên làm vua thì Vương Thông sẽ rút về nước.
Điều kiện của Vương Thông đã thực sự làm khó cho Lê Lợi. Vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút quân về nước để đỡ tốn máu xương của binh lính, đỡ hao người tốn của của nhân dân Lê Lợi sẵn sàng chấp nhận. Nhưng con cháu nhà Trần là ai lên làm vua nước Đại Việt lúc này mới là một quyết định quá khó khăn cho Lê Lợi. Quả thật, Bình Định vương có nghĩ đến quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn, mới nghĩ thôi lại vội lắc đầu: Không thể như vậy được. Trần Nguyên Hãn đang là một dũng tướng phải công nhận là có tài, tuy thế để Hãn xưng vương thay ta thì không được! Nếu không phải Trần Nguyên Hãn thì là ai? Câu hỏi ấy khiến Bình Định vương đau đầu, mất ăn mất ngủ mấy ngày. Cân nhắc mãi rốt cuộc Bình Định vương vẫn phải sai người đi tìm con cháu nhà Trần theo yêu sách của Vương Thông.
Ít ngày sau, Lê Lợi được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử Trần Cảo, người tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông. Nhằm đối phó với Vương Thông và với mong muốn đất nước sớm được yên bình, Bình Định vương đồng ý lập Trần Cảo làm vua, với danh nghĩa kế tục nhà hậu Trần nhưng vẫn cho người ở bên cạnh, bề ngoài là phò tá, bề trong là để giám sát nhà vua.
Sau khi Trần Cảo được Minh Nhân Tông phong lên làm vua nước Đại Việt, Bình Định vương Lê Lợi cũng tự xưng là Vệ quốc công và vẫn toàn quyền quyết định chiến sự về chống quân Minh.
Lê Lợi đâu có đề phòng đến chuyện Vương Thông tuy viết thư xin giảng hòa để rút quân nhưng lại âm thầm sai quân đào hào, cắm chông phòng thủ và bí mật cho người về nước xin cứu viện. Đúng hôm hai bên định ngày quân Minh rút quân thì quân Lê Lợi bắt được người đưa thư của Vương Thông. Quá tức giận bởi thái độ lật lọng của Vương Thông trước “con bài Trần Cảo”, Vệ quốc công Lê Lợi tuyên bố xóa bỏ hòa ước và đánh tiếp.
Lập tức cùng với việc chuyển Bộ chỉ huy về dinh Bồ Đề, Vệ Quốc công Lê Lợi lệnh cho các tướng đem quân đi đánh các thành Điêu Điêu, Thị Cầu, Tam Giang, Khâu Ôn… Riêng thành Xương Giang, Vệ Quốc công giao cho tướng Lê Sát cùng bốn tướng nữa đem quân tiến đánh. Giữa lúc tin chiến thắng ở các hướng tới tấp bay về thì Lê Lợi lại nhận được cấp báo: Để giải vây cho thành Đông Quan trước nguy cơ có thể bị thất bại hoàn toàn, Minh Tuyên Đức đã cử tướng Liễu Thăng và Mộc Thạch đem quân sang cứu viện. Đứng trước tình hình khẩn cấp như nước sôi lửa bỏng ấy, Vệ Quốc công lập tức cho triệu các tướng lĩnh về dinh Bồ Đề ở làng Phú Viên bàn cách đánh trả.
Làng Phú Viên nằm cách con sông Cái không xa. Phía Nam làng có một bến sông. Bên kia sông là thành Đông Quan. Dựa vào cái địa thế này mà từ hai, ba tháng nay Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn do Vệ Quốc công Lê Lợi cầm đầu đã “đứng chân” tại đây. Vì làng Phú Viên có một cây bồ đề gốc to đến mấy người ôm mới xuể, tán bồ đề vươn cao, vươn rộng, cành lá đan xen quấn quít, xum xuê, quanh năm xòe tán tỏa bóng mát nên mọi người mới gọi là Dinh Bồ Đề! Tại dinh Bồ Đề, cùng với Nguyễn Trãi, Trần Nguyễn Hãn và nhiều tướng lĩnh khác vẫn thường được Lê Lợi với đến luận bàn chiến sự.
Bấy giờ là một ngày đầu tháng 6 năm 1427, nắng mùa hạ trải mênh mông trên những vạt dâu xanh mướt mát hai bên bờ sông Cái đang cuồn cuộn chảy. Trong tiếng chuông chùa làng Phú Viên ngân vang, tại bản doanh dinh Bồ Đề, Vệ Quốc công Lê Lợi nói với các tướng lĩnh:
- Với mục đích cứu đạo quân Vương Thông đang bị nghĩa quân của chúng ta vây hãm ở Đông Quan, từ đầu năm nay nhà Minh đã quyết định phái hai đạo quân viện lớn sang nước Đại Việt. Một đạo gồm mười vạn quân do Liễu Thăng chỉ huy sẽ đi đường Quảng Tây. Một đạo gồm năm vạn quân đi đường Vân Nam. Toàn bộ số quân chính quy này bao gồm bộ binh và kỵ binh tinh nhuệ được điều động từ khắp các xứ Sơn Đông xuống Quảng Tây, từ Quảng Đông sang Tứ Xuyên. Ấy là chưa kể số dân phu chuyển vận lương thực, vũ khí và thổ binh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Như các thần biết, cả hai viên tướng Liễu Thăng và Mộc Thạnh đều là những người có nhiều kinh nghiệm chinh chiến trên đất nước ta từ những năm trước đây. Bên cạnh Liễu Thăng, Mộc Thạnh còn có Lương Minh là một viên tướng rất thiện chiến, có Lý Khánh, Hoàng Phúc là hai viên quan cao cấp thượng thư làm tham mưu cho Liễu Thăng. Âm mưu địch là thế, lực lượng địch về đại thể là vậy. Ý của quân sư Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh ra sao? Chúng ta phải làm thế nào để vừa đánh thắng được viện binh của địch, vừa bao vây, tiến tới giải phóng Đông Quan?
Đưa vấn đề “hai trong một” ấy ra để mọi người, thảo luận xong, Lê Lợi đưa mắt nhìn các tướng lĩnh. Trước mắt Vệ Quốc công là Nguyễn Trãi, một quân sư, người đã dâng Bình Ngô sách - Một kế sách lớn nhằm diệt giặc, cứu nước, người mà hằng ngày ngồi trên lầu tại dinh Bồ Đề trông vào thành Đông Quan xem xét mọi hoạt động của quân Minh, rồi bàn luận quân cơ với Lê Lợi và thảo thư từ đi lại. Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào Đông Quan chiêu dụ Vương Thông. Là quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn, một võ tướng tinh thông binh pháp, đã từng lập hai chiến công lớn ở trận đánh Tân Bình - Thuận Hóa và Đông Bộ đầu... Là Lê Sát, một trong những người đầu tiên hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa. Nhờ có võ nghệ rất cao cường lại dũng cảm, giàu mưu lược nên ngay từ đầu Lê Sát được Lê Lợi tin cậy mà trao quyền chỉ huy một trong những những đơn vị nghĩa sĩ của Lam Sơn. Hồi đầu năm nay Lê Sát được Lê Lợi giao cho đem quân vây đánh Xương Giang nhưng thành chưa bị hạ thì lại phải điều về tăng cường cho nghĩa quân vây thành Đông Quan ở cửa phía Tây! ánh mắt Lê Lợi dừng lại hơi lâu trên khuôn mặt gồ ghề, sạm đen của Lê Sát. Lê Sát cảm thấy mặt nóng lên như chạm vào ngọn nửa liền nhanh nhảu đứng phắt dậy:
- Thưa Vệ Quốc công! Theo thần nghĩ, Vệ Quốc công nên cho dồn toàn bộ lực lượng nghĩa quân tập trung đánh chiếm Đông Quan trước khi có viện binh đến.
Nhiều tướng lĩnh có mặt cũng đồng tình với phương án của Lê Sát. Lê Lợi chưa nói gì chỉ đưa mắt nhìn Nguyễn Trãi vẻ chờ đợi. Quân sư thong thả đứng dậy, vuốt râu. Sau mấy tiếng  ho khan, Nguyễn Trãi bình tĩnh, chầm chậm nói:
- Tâu Vệ Quốc công. Ý thần lại nghĩ khác.
- Khác là sao? Quân sư cứ nói.
- Thần nghĩ rằng, lúc này mà chúng ta đem quân tập trung đánh thành Đông Quan là hạ sách. Bởi vì, Đông Quan là một thành được xây dựng kiên cố, vững chắc, quân lại đông. Nếu chúng ta đánh hàng tháng, hàng năm vẫn không hạ nổi thì sẽ dẫn đến hậu quả quân mệt, chí nản. Lúc bấy giờ viện binh của nhà Minh kéo đến, chúng ta sẽ rơi vào tình cảnh, trước mặt, sau lưng đều bị đánh. Đó là con đường nguy! Chi bằng nuôi quân lấy sức, giữ lấy nhuệ khí của nghĩa quân để đợi viện binh giặc. Mà một khi viện binh giặc bị phá thì quân trong thành tất phải hàng. Xem vậy, đã đến lúc nghĩa quân phải thay đổi chủ trương tác chiến, coi “diệt viện, vây thành” là một chiến lược mang tính chất quyết định trong tình hình hiện nay. Đó mới là toàn kế vậy, thưa Vệ Quốc công.
Lê Lợi lại nhìn vào quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn như muốn nghe thêm ý kiến của một danh tướng được coi là tinh binh pháp. Trần Nguyên Hãn phân tích:
- Thưa Vệ Quốc công! Thần nhận thấy rằng, trong hai đạo viện binh của nhà Minh thì đạo quân do tướng Liễu Thăng chỉ huy lắm quân, nhiều ngựa hơn. Vì vậy, chúng ta cần dốc sức tấn công trước. Mà muốn diệt được đạo quân này, thần nghĩ, trước hết chúng ta phải hạ được thành Xương Giang. Bởi Xương Giang nằm trên đường từ Lạng Sơn về Đông Quan. Đánh thành Xương Giang là đánh thông đường để đại binh của ta tiến lên Lạng Sơn giành thế chủ động chặn đường viện binh của giặc.
Nghe Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn trình bày, Vệ Quốc công Lê Lợi nhận thấy chiến thuật, chiến lược của hai người tương đối trùng hợp với chủ trương của mình là, phải tập trung chủ lực tiêu diệt cánh quân Liễu Thăng trước. Kiềm chế, ngăn chặn cánh quân Mộc Thạnh bằng lực lượng thứ yếu để tạo điều kiện tiêu diệt địch ở bước tiếp theo. Đồng thời, nghĩa quân vẫn duy trì một lực lượng tiếp tục vây hãm Đông Quan, không cho quân của Vương Thông hợp quân với viện binh. Giờ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn bàn vậy, Lê Lợi thấy phải, liền đồng tình với kế sách ấy nhưng lại nhìn Lê Sát mà nói, vẻ như khiển trách:
- Từ mấy tháng trước đây ta đã phái Lê Sát phối hợp với quân dân Lạng Sơn vây đánh thành Xương Giang thế mà đến nay thành vẫn chưa bị hạ!
Lê Sát lại đứng lên tâu trình:
- Tâu Vệ Quốc công! Xương Giang là một thành kiên cố. Tường thành vừa cao, vừa dày. Ba bên bốn bề phía ngoài thành lại có hào sâu bao bọc, địa thế rất hiểm trở.
- Giặc Minh ở đó có bao nhiêu?
- Tâu Vệ Quốc công! Quân giặc không đông lắm nhưng các tướng ở đó đều rất am hiểu binh thư, lại liều chết giữ thành. Thêm nữa, bọn chúng đã bắt hàng vạn sĩ dân các vùng lân cận vào thành để làm bia đỡ đạn. Vì thế, việc đánh thành thật là khó.
- Khó mấy cũng phải làm cho bằng được - Lê Lợi quả quyết, rồi kết luận - Ta đồng ý với kế sách mà quân sư  và quan Tư đồ vừa nói. Chúng ta phải hạ được thành Xương Giang trước khi viện binh Liễu Thăng đến. Nhiệm vụ trọng đại này ta giao cho quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn làm chủ tướng. Tình thế gấp lắm rồi, quan Tư đồ sửa soạn đi ngay...
Vốn là người có tài, đặc biệt là tài cầm quân nhưng ít học, tính tình cục cằn, nóng nảy nên tướng Lê Sát khiến cho người ta sợ mà theo nhiều hơn là phục mà theo. Ngay bây giờ trước mặt Lê Lợi, ghen tỵ với Trần Nguyên Hãn và cảm nghĩ Vệ Quốc công không tin tưởng mình, gần như cách chức chỉ huy của mình, không kiềm chế được, Lê Sát nóng gáy lên, hỏi:
- Vậy còn thần đây ngồi chơi xơi nước hay sao?
Biết tính Lê Sát, đọc được tâm trạng của Lê Sát, Vệ Quốc công lắc lắc đầu, mỉm cười cảm thông:
- Tướng Lê Sát cùng Lưu Nhân Chú đem một vạn quân tinh nhuệ, một trăm ngựa và năm voi chiến tiến lên bố trí mai phục trước ở ải Chi Lăng. Lê Lý, Lê Lan đem ba vạn quân lên tiếp ứng và chuẩn bị sẵn một trận mai phục ở Cần Trạm, phía dưới Chi Lăng. Còn cánh quân của Mộc Thạnh ở hướng Vân Nam vì sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên ta giao cho Phạm Văn Xảo cùng Trịnh Khả chỉ cố thủ chứ chưa đánh - Vệ Quốc công đứng dậy, trang trọng tuyên bố -  Trước khi nghĩa quân biến thành Xương Giang thành một pháo đài án ngữ đường tiến quân của viện binh nhà Minh về Đông Quan, ta phong cho quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn lên chức Thái úy.
Trần Nguyên Hãn đứng nghiêm lại:
- Đội ơn Vệ Quốc công. Thần tuân lệnh!

18. Thành Xương Giang án ngữ ngay trên đường thiên lý từ Quảng Châu về Đông Quan và chỉ cách Đông Quan chừng năm mươi cây số. Những người có trách nhiệm giữ thành là Đô chỉ huy Lý Nhậm, Phó Đô chỉ huy Kim Dận, Tri phủ Xương Giang Lưu Tử Phụ cùng Cổ Phi Phúc, Lưu Thuận, Phùng Trí… Toàn những tướng mà Lê Sát cho rằng họ rất hiểu binh thư và liều chết giữ thành.
Nhận lệnh của Vệ Quốc công Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn liền dẫn quân lên Xương Giang. Chưa vội triển khai kế hoạch hạ thành, Thái úy đích thân bỏ ra mấy ngày liền đi thị sát để tận mắt thấy, tai nghe rồi mới đưa ra quyết định. Đúng là thành Xương Giang được quân Minh xây thành đắp lũy ở một vùng tương đối bằng phẳng nhưng lợi thế là chỗ hiểm yếu. Xung quanh thành có hệ thống sông, đầm lầy và rộc trũng. Địa thế này rất khó tấn công.
Là Thái úy, một chức quan võ cao nhất của nghĩa quân Lam Sơn, nhưng Trần Nguyên Hãn vẫn giả làm một nông phu, quần nâu áo vải vi hành lang thang vào một số làng gần thành Xương Giang, trong đó có làng Cò.
Nghe nói, làng Cò ngày xưa là một vùng quê đất lành chim đậu, trên lũy tre bao quanh làng có tới mấy ngàn con cò trú ngụ. Chiều chiều sau một ngày bay đi kiếm ăn ở những cánh đồng xa, cò lại bay về đậu trắng trên lũy tre làng. Có phải vì làng có quá nhiều cò mà thành tên? Làng Cò bây giờ chẳng còn bóng cò nào nữa. Xóm làng cũng nghèo đói xác xơ như bao làng khác. Thái úy ghé vào một ngôi nhà bên đường. Một lão nông bị cụt chân, đầu tóc bạc phơ, râu ria lờ phờ từ trong mái nhà tranh tre xập xệ tập tễnh bước ra mời Trần Nguyên Hãn ngồi trên chiếc chõng tre long nan, bốn chân xiêu vẹo như sẵn sàng quỵ xuống bất cứ lúc nào. Rót một bát nước từ trong cái ấm đất ra, ông lão mời:
- Ông uống tạm ngụm nước.
- Cám ơn cụ. Nước vối ngon quá.
Uống liền một hơi hết bát nước, Trần Nguyên Hãn thật lòng khen và nôn nao nhớ về Đa Cai, nhớ đến những buổi tối mùa đông cả nhà ngồi bên bếp lửa. Những tối ấy bao giờ mẹ cũng cho cha con Hãn ăn sắn nướng, uống với nước vối. Chắc hẳn lão nông ngờ người lạ mặt này là kẻ hành khất nên nói:
- Ông uống nước đi rồi có xin gì thì đến làng khác chứ dân làng Cò đói rách lắm, chẳng có gì cho nhau đâu ông ơi!
Trần Nguyên Hãn thấy khóe mắt mình cay cay, giọng bỗng nghèn nghẹn:
- Tôi cũng đói lắm nhưng chỉ dám xin cụ một ngụm nước này thôi. Làng mình ngày trước có vất vả, khó khăn nhiều không hả cụ?
Cặp mắt lão nông hơi sáng lên. Hình như những ký ức về ngày xưa của làng đã làm cho ông lão vui lên một chút. Lão kể:
- Ngày xưa, tức là trước khi quân nhà Minh sang đây, ông có biết không, vùng quê Xương Giang này là một vùng đô hội sầm uất lắm. Có thể coi nơi đây là một trung tâm buôn bán, nối liền giữa trung du với vùng duyên hải. Quanh năm tấp nập ngày đêm trên bến dưới thuyền. Đấy là những đoàn thuyền chở đầy tơ lụa xuôi, ngược sông Thương, nối với sông Thao về Bạch Hạc, Phong Châu. Đêm đêm trên các bến sông lung linh đèn nến với những bữa tiệc sang trọng, với âm vang tiếng đàn, tiếng ca. Sông nước nơi đây thì hiền hòa. Câu hát ở đây thì ngọt ngào, tha thiết. Người dân thì cần cù, no đủ… Thế mà, đau thương quá ông ơi! Lợi dụng nhà Trần sụp đổ, nhà Hồ cướp ngôi lại non yếu, nhà Minh đã sang cướp nước ta, đuổi nhà Hồ ở Bắc Giang về hạ lưu sông Thái Bình, rồi cho xây thành Xương Giang ở đây. Từ khi có thành Xương Giang thì đời sống bà con chúng tôi cơ cực không biết dường nào mà kể.
Trần Nguyên Hãn im lặng lắng nghe. Thái úy không ngờ một lão nông nhìn bề ngoài thì quê mùa, cũ kỹ mà bên trong lại am tường nhiều chuyện về nhân tình, thời thế đến vậy. Trần Nguyên Hãn gợi hỏi:
- Nhà Minh xây thành Xương Giang, bà con mình có phải đóng góp gì không hả cụ?
- Ông chưa biết đâu, thành Xương Giang nằm trong vùng đất thấp, có sông nhỏ và những thửa ruộng trũng bao quanh. Vì vậy, muốn có thành cao, hào sâu, chứa được nhiều vũ khí, lương thực, có chỗ ăn ở cho nhiều người, nhiều tướng, nhiều lính thì phải tốn nhiều công sức lắm. Bởi thế, người dân khắp vùng Lạng Giang này, từ người trẻ đến người già đều phải đến Xương Giang làm lao dịch. Nào khoét đồi lấy đất, nào đào hầm hào, nào đóng gạch, nào nung gạch ngói, nào xây thành, nào xây dinh thự. Thôi thì, việc gì dân cũng phải làm. Biết bao người dân hiền lành đã ngã xuống làm nền móng cho thành Xương Giang cao chất ngất như bây giờ. Chính tôi cũng bỏ lại ở đấy một bên chân này đấy ông ạ.
- Hóa ra cụ cũng từng phải làm lao dịch ở thành Xương Giang? Thành chắc là kiên cố lắm?
Giống như dòng nước bị tắc nghẽn lâu ngày nay có người khơi thông, lão nông được dịp bộc lộ sự hiểu biết của mình:
- Thành được xây cách nay gần hai mươi năm rồi. Bởi tôi là người phải đi lao dịch ngay từ những ngày đầu tiên nên tôi biết. Thành hình chữ nhật. Chiều dài theo hướng Đông Nam dài khoảng sáu trăm mét. Chiều rộng theo hướng Bắc Nam, dài khoảng trên bốn trăm mét. Tường thành vừa cao, vừa dày, rộng khoảng sáu mét. Chân thành đắp bắng đá hộc, gạch vỡ, rộng khoảng mười sáu mét. Bốn góc thành có bốn pháo đài. Xung quanh thành có hào sâu, rộng bao quanh. Thành có bốn cửa. Cửa chính trông về phía Tây. Cứ theo thiển nghĩ của tôi thì thành Xương Giang kiên cố vào loại bậc nhất. Mà nếu có thua chỉ thua thành Đông Quan là cùng thôi ông ạ.
Dường như vừa cảm thấy mình quá cởi mở với một người lạ mặt, sợ bị liên lụy gì đó về sau, ông cụ liền ngừng lại. Lát sau cụ bảo Trần Nguyên Hãn:
- Là tôi nghe người ta đồn đại thế tôi nói thế. Xin ông coi như chưa nghe thấy gì nhé, hoặc là nghe đây thì bỏ đây thôi.
Biết được sự lo lắng của ông già, Thái úy nói:
- Tôi chỉ là một hành khất, dẫu có nghe cũng ù ù, cạc cạc như vịt nghe sấm thôi nào có ích gì!
Là nói cho lão nông yên tâm chứ những chuyện cụ kể thật tình đã giúp Trần Nguyên Hãn hiểu thêm nhiều điều.
Tổng hợp những gì tai mình nghe, mắt mình thấy và qua nhiều nguồn tin khác nữa về thành Xương Giang, Thái úy Trần Nguyên Hãn cho mời Thiếu úy Lê Triện, Lê Lý cùng nhiều người dưới quyền đến đình làng Thọ Xuân để luận bàn về việc hạ thành.
Tương truyền rằng, ngày xưa, một hôm có ba anh em nhà kia đi dẹp giặc từ phương Bắc trở về. Khi đi đến một quả đồi thấy có nhiều cây cao bóng cả mới bảo nhau dừng chân ngồi nghỉ. Chả hiểu bị trúng luồng gió độc nào mà cả ba vị đều bị cảm nhập tâm và đột tử luôn. Dân xung quanh đồi cây biết chuyện ai nấy đều vừa cảm phục, vừa thương tiếc. Họ bảo nhau dựng một ngôi miếu thờ, thờ chung cho ba anh em ngay tại nơi các vị hóa. Sau, lại phân công mỗi làng thờ một vị: Làng Hà Vị một, làng Nam Xương một, làng Thọ Xuân thờ người em thứ ba. Không biết tên thật của ông là gì, chỉ thấy sắc vua phong là Tam thai Đại vương.
Làng quê nước Đại Việt vốn từ xưa đến nay mỗi làng vẫn được coi như một tiểu quốc, không làng nào quan hệ với làng nào. Nhưng từ ngày ba làng ở gần đồi cây, cùng thờ ba anh em - ba vị anh hùng -  nên dân thuộc ba làng cũng thân nhau như ruột thịt. Chả thế mà hằng năm cứ đến ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, ba làng lại cử người đội một mâm chè kho ra cúng chung ở miếu trên đồi cây trước, rồi mới được đem về làng mình cúng sau.
Trong đình làng Thọ Xuân hiện có dòng chữ nho “Tuấn lương đệ tam uy liệt đô đốc ất sơn Đại vương” (Ba vị đại vương có uy quyền, đạo đức, tài năng), treo dưới án thư có chữ “Đạo tại thị” (Đạo tại đây). Hai bên có hai câu đối: “Tam sinh huynh đệ tồn thiên địa - Nhất đẳng thánh thần trấn cổ kim” (Ba anh em còn sống mãi - Một lớp thánh thần giữ từ xưa đến nay)
Dưới bóng đa rợp mát ở cuối sân đình cổ kính, các tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn đang lắng nghe Trần Nguyên Hãn nói:
- Thành Xương Giang là mục tiêu chiến lược duy nhất mà nghĩa quân phải tiêu diệt trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang nước ta. Để diệt được mục tiêu này không phải là chuyện đơn giản. Là bởi vì, đây là thành đã được quân Minh và máu xương của nhân dân ta xây đắp và bồi trúc gần hai mươi năm nên rất kiên cố. Hơn thế, thành lại nằm ở một địa thế rất hiểm yếu. Các anh em biết không, ba phía Đông, Tây, Nam thành đều có sông bao bọc. Riêng phía Bắc lại có núi như một bức tường thành ngăn cách. Bên cạnh nào núi, nào sông còn có nhiều khe sâu nối tiếp nhau, đan xen chằng chịt, tạo cho Xương Giang có cái vẻ vừa kín đáo, vừa bí hiểm. Thành nằm trên một vùng đất tương đối cao. Tường thành vừa cao, vừa dày. Trong thành là doanh trại, là kho tàng, là các bệ đất đặt pháo. Ngoài thành được bao bọc bởi ba bên bốn bề đều có hào sâu.
Nhằm bảo vệ phía Bắc và phía Nam thành, nhà Minh đã bố trí một ngàn quân đóng ở Cần Trạm, năm trăm quân đóng ở Mỹ Trạm. Ngoài ra, quân Minh ở Xương Giang còn nham hiểm cưỡng ép hàng vạn người dân xung quanh thành phải vào trong thành ở với chúng, trước mắt làm tải lương và nếu chúng ta hạ thành thì bị đẩy ra làm bia đỡ đạn cho chúng. Như các anh em đã biết, hai chủ tướng Lý Nhậm, Kim Dận tại thành Xương Giang đều là những tướng tài của nhà Minh. Cậy mình đông quân, nhiều của bọn chúng liều chết giữ thành, chờ viện binh tới. Vì vậy, suốt mấy tháng nay tướng Lê Sát vẫn chưa hạ được thành, cho dù quyết tâm không thiếu. Trước tình hình này, muốn thắng địch, mà phải thắng nhanh chóng, ta phải thực hiện một kế sách khác, nghĩa là phải hết sức sáng tạo và táo bạo.
Thiếu úy Lê Triện băn khoăn, lo lắng:
- Thưa Thái úy, kế sách đó là sao ạ?
Giọng Trần Nguyên Hãn có phần nhỏ lại:
- Đó là, sử dụng hai phương pháp đánh. Đánh với mọi thứ chiến cụ và hỏa lực mà nghĩa quân đang có. Đồng loạt nội công, ngoại kích cả bốn bên thành, cả trên mặt thành và dưới hầm sâu. Để làm được, không chỉ có nghĩa quân mà còn phải huy động sức mạnh của toàn dân. Nghĩa là…
Thái úy vẫy tay ra hiệu gọi mọi người quây tròn lại trước tấm bản đồ. Rồi vừa chỉ, Trần Nguyên Hãn vừa nói với một giọng trầm ấm nhưng đĩnh đạc, dứt khoát. Thái úy vừa dứt lời, những người cộng sự liền “dạ” ran, tiếng vang như sấm dậy.
Trần Nguyên Hãn dẫn đầu đoàn người tiến vào trong đình. Thái úy thắp một tuần hương trước ban thờ thành hoàng làng, rồi rút gươm thần sáng loáng, dâng lên ngang đầu, miệng lầm rầm cầu khẩn thánh thần phù hộ độ trì cho nghĩa quân đánh thắng, còn mình thì quyết sống không để hổ thẹn với tiền nhân.
Thực hiện lệnh của Thái úy Trần Nguyên Hãn, nghĩa quân Lam Sơn đang vây thành Xương Giang khẩn trương chuẩn bị cho một trận tổng công kích: Bốn mũi cùng tiến, cùng đánh với mọi chiến cụ và hỏa lực. Khắp mặt trận bừng lên một hào khí mới, đâu đâu cũng hào hứng, sôi nổi bàn bạc, quyết chí giết giặc lập công.
Phát huy tính năng, tác dụng các loại vũ khí sẵn có như câu liêm, giáo dài được nghĩa quân trang bị cho mọi thứ quân, phù hợp ở tất cả các địa hình, nỏ cứng sẽ dùng để bắn tên mang lửa bay vào thành. Rồi hỏa tiễn, hỏa pháo, những vũ khí mới do Hồ Nguyên Trừng chế tạo, có tác dụng gây sức phá hủy lớn, cũng sẽ huy động, sử dụng trong trận chiến này. Rồi các đồi từ đồi Phục, đồi Cút đến đồi Hương Mãn, đồi xóm Chùa xung quang thành đều được nghĩa quân dùng làm nơi đặt tên lửa, súng lửa. Phát huy sức mạnh nhân dân, nghĩa quân vận động nhân dân các làng Thọ Xương, Hòa Yên, Hà Vị, Nam Xương, Đồng Nham… Sát cánh cùng với mình, ngày đêm bí mật đào công sự tại các khu rừng lân cận, khoét đất, đào hầm ngầm xuyên qua thành từ ngoài vào trong thành giặc. Thang Vân Thê, một loại thang đã được nghĩa quân chế tạo chuẩn bị cho đánh thành Đông Quan sẽ cải tiến dùng để nghĩa quân trèo qua thành hoặc trèo lên mặt thành. Để đạt được mục đích hạn chế thấp nhất sự phản ứng có hiệu quả của quân Minh, và gây cho chúng khiếp sợ trước sự tấn công của nghĩa quân, Thái úy Trần Nguyên Hãn tính toán kỹ lưỡng mọi phương án tấn công, nhằm giành thắng lợi nhanh nhất mà quân ta  tổn thất máu xương ít nhất.
Trong khi nghĩa quân hối hả, khẩn trương chuẩn bị cho một trận chiến mới thì, với sách lược công tâm, đánh vào lòng người và với một tư tưởng nhân nghĩa, quân sư Nguyễn Trãi được sự ủy nhiệm của Vệ quốc công Lê Lợi đã viết thư dụ hàng gửi cho tướng, sĩ trong thành Xương Giang. Thư viết:
… Ta nghe đạo quân nhân nghĩa, kẻ nào thuận đức thì sống, kẻ nào trái đức thì chết. Vì người cầm quân ấy, giữ việc đánh giết, nắm quyền sống chết. Khi thì khoan hồng như khí âm đều tuân theo lẽ phải của người, không thể theo ý riêng của mình được. Nay các ông bằng một nghìn quân một mình giữ thành trơ trọi. Đã đến hơn một năm nay, tin tức không thông, mà tự cho là thành cao, hào sâu, có khác gì người mù mà không sợ chết, không biết tự liệu sức mình.
… Nếu các ông biết tỉnh ngộ thì không những người trong thành đó được an toàn, mà cả sự giàu có của các ông cũng giữ được lâu dài, đức hiếu sinh của Thượng đế cũng thấm đến khắp lòng dân. Nếu không thế thì giữa người thuần đức với người trái đức, tất có một kẻ sống, một kẻ chết, đó là lẽ tự nhiên, ta có thể tự theo ý riêng mình sao được! Các ông nên mau mau mở cửa thành, cởi áo giáp cùng ta hòa giải. Ta nếu trái lời giao ước tất nhiên giời chẳng dung tha cho, nếu các ông cứ chấp nê, ta tất không tha thứ…
Lý Nhậm, Kim Dận không thèm trả lời. Nguyễn Trãi vẫn kiên trì vận động. Quân sư lại gửi thư tiếp:
…Lấy lời nói chăm chăm hiểu dụ, thực tình vì nhân mạng trong thành là hệ trọng, mà không nỡ làm cho thương tổn.
Kể ra thích cho người sống mà ghét việc giết người là một người tưởng có nhân nghĩa, xét biết thời cơ và biết lượng sức mình là một người tướng có tri thức.
Thành Xương Giang nhỏ mọn kia dám chống lại mệnh Trời, nổi giận đi đánh… Nếu cứ mê muội không hiểu biết gì thì đến ngày thành bị hạ, ngọc, đá không phân biệt được thì không phải ta làm cho bạo ngược bừa bãi mà là lũ các ngươi làm ra tội nghiệt đó thôi.
Tính mạng của mấy vạn đàn ông, đàn bà trong thành đều bị các ông lừa dối, làm hại, làm cho bọn người vô tội một mai bị chết. Cho nên ta không ngại nói đi, nói lại.
Các ông nên mau mau mở cửa thành, cởi áo giáp cùng ta hòa giải. Ta nếu trái lời giao ước, tất nhiên Trời chẳng dung cho. Nếu các ngươi cứ chấp nê, tất ta không tha thứ…
Hai trưởng, phó đô chỉ huy thành Xương Giang vẫn bỏ ngoài tai mọi lời lẽ mềm dẻo, phân tích có lý, có tình của Nguyễn Trãi. Tướng Thái Phúc giữ thành Nghệ An đã đầu hàng nghĩa quân cũng được Lê Lợi đưa tới tận chân thành thuyết phục quân Minh nhưng đều không có tác dụng gì. Rốt cuộc, việc gì đến tất phải đến, thời cơ đã chín muồi, Thái úy Trần Nguyên Hãn phát lệnh: Toàn mặt trận đồng loạt tấn công hạ thành!
Đó là đêm 28 tháng 9 năm 1427, giữa lúc quân Minh trong thành Xương Giang đang chập chờn thức ngủ thì bỗng có hàng loạt tên lửa, súng lửa từ các quả đồi xung quanh thành bắn tới tấp vào thành. Hai loại vũ khí hiện đại nhất của nghĩa quân Lam Sơn là hỏa tiễn, hỏa pháo này, ngay từ phút đầu đã gây sức phá hủy rất lớn! Nhà cháy, kho quân lương cháy. Lửa, khói bốc lên ngùn ngụt. Bầu trời sáng rực. Quân tướng nhà Minh nhớn nhác chưa kịp hiểu đầu đuôi sự kiện dữ dội xảy ra từ đâu thì từ bốn phía thành lại rộ lên tiếng trống, tiếng thanh la cùng tiếng hò reo xung trận, vây thành rầm rầm vang lên. Biết thành bị đánh bất ngờ, Lý Nhậm, Kim Dận vội vã hô hét xua quân bắn pháo, vác đao, kiếm ùa ùa lao ra đánh trả. Nhưng đã muộn! Nghĩa quân Lam Sơn hò nhau bắc thang Văn Thê dưới chân thành, ào ạt tràn lên như sóng dữ. Lý Nhậm, Kim Dận đừng chẳng được đành liều chết trèo lên mặt thành để chỉ huy quân sĩ. Trong quầng lửa nhập nhòa, hai bên  giao chiến kịch liệt. Tiếng gươm khua, tiếng giáo dài va nhau choang choang. Người ngã xuống như ngả rạ. Lợi dụng lúc quân Minh đang tập trung lo chống đỡ nghĩa quân Lam Sơn từ bên ngoài tràn vào thì, đùng một cái, nghĩa quân từ các đường hầm ngầm, đội đất vụt lên, bất thần xuất hiện giữa lòng thành, đông như kiến cỏ. Biết mình đã bị rơi vào tình thế “ nội công, ngoại kích”, khó mà xoay chuyển được tình hình, khó mà chạy thoát, Lý Nhậm, Kim Dận liền nhảy từ trên thành cao xuống tự tử. Đúng lúc ấy, dưới mặt đất Tri phủ Lạng Giang Lưu Tử Phụ cũng bị nghĩa quân chém chết! Thế là, giống như rắn mất đầu, ong mất chúa, quân Minh lốc nhốc xin hàng. Thành Xương Giang bị hạ trong vòng chưa đến hai giờ đồng hồ.
Tin chiến thắng bay về dinh Bồ Đề, Vệ Quốc công Lê Lợi cả mừng, nói với quân sư Nguyễn Trãi:
- Thanh Xương Giang kiên cố là thế, địa hình hiểm trở là thế, quân sĩ đông và nhiều tướng tài là vậy, nhưng vẫn bị quân ta tiêu diệt nhanh chóng, quân sư có biết là vì sao không? - Nguyễn Trãi chưa kịp lý giải thì Lê Lợi đã cắt nghĩa - Theo ta, ấy là nhờ vào lối đánh táo bạo, cùng sự điều hành phù hợp nhiều loại vũ khí, sự phối hợp tuyệt vời giữa quân với dân cùng tiến đánh của Thái úy Trần Nguyên Hãn.
Nguyễn Trãi cũng nói:
- Thưa vệ quốc công! Như vậy là sau hơn ba mươi trận giao tranh, thành Xương Giang mới về tay chúng ta. Đối phương đã tử thủ nhưng dưới sự chỉ huy tài ba của Thái úy, nghĩa quân vẫn thành công. Trong lịch sử chống ngoại xâm trước đây, cha ông ta đã đánh thắng nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Thanh… nhưng cũng mới chỉ phá được trại, đánh được đồn, hoặc phá lũy phòng thủ, chứ triệt hạ được một thành trì quan trọng với một số quân đông như Xương Giang thì chỉ đứng sau sự kiện Lý Thường Kiệt hạ thành Ung Châu mà thôi.
Không kìm nén được niềm vui tràn ngập trong lòng, Lê Lợi thốt lên trước mặt Nguyễn Trãi:  
- Đúng là Thái úy Trần Nguyên Hãn đã không phụ lòng ta. Tài cầm quân của Thái úy quả là bản triều không ai sánh kịp. Sắp tới ta lại phải phái Trần Nguyên Hãn lên Chi Lăng cùng Lê Sát chặn đánh Liễu Thăng một phen mới được. 
19.
Đúng mười ngày sau khi thành Xương Giang bị hạ, mười vạn viện binh do Liễu Thăng cầm đầu, rầm rập tràn xuống nước Đại Việt. Nhưng trước đó, Vệ Quốc công Lê Lợi cũng dời dinh Bồ Đề lên phía Bắc cùng với quân sư Nguyễn Trãi trực tiếp chỉ huy diệt viện. Triệt để thực hiện binh pháp: “Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục - Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ” mà Trần Nguyên Hãn hiến kế. Đồng thời, với chủ trương như đã nói với các tướng quân: “Đánh thành lúc này là hạ sách, nay ta hãy cứ giữ dưỡng binh lấy sức để đợi quân địch đến thì ra đánh. Hễ viện binh mà thua, thì quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải làm một việc mà thành được hai không?”. Một mặt, Lê Lợi giao cho Trần Nguyên Hãn gấp rút biến thành Xương Giang thành một pháo đài án ngữ đường tiến quân của đối phương về Đông Quan, sẵn sàng phối hợp với các lực lượng đơn vị khác để bao vây tiêu diệt số quân Minh còn lại và ngăn chặn mọi đường tiếp tế lương thực của địch. Mặt khác, Vệ Quốc công đích thân đi thị sát xem việc bài binh bố trận của Lê Sát, Lưu Nhân Chú ở cửa Chi Lăng, của Lê Lý, Lê Lan mai phục ở Cần Trạm. Yên tâm với thế trận đã bày sẵn, Lê Lợi nói với Nguyễn Trãi: “Nay Liễu Thăng lại đây, đường xá xa xôi, người, ngựa mỏi mệt, nhất định ta phải thắng”.
Mở màn cho một đợt viện binh lớn, tướng Liễu Thăng nhằm vào sáng ngày 8 tháng 10 năm 1427 đặt chân vào cửa Pha Lũy, nơi địa đầu Đại Việt. Nhưng vừa đến đây đã bị tướng Trần Lựu, được Lê Sát phân công đánh nhử. Theo kế đã định, sau vài hiệp, Trần Lựu giả thua, rút quân chạy về giữ đồn ải Lưu.
Liễu Thăng thừa thắng, dẫn quân tiến đánh ải Lưu. Trần Lựu lại bỏ chạy về ải Chi Lăng.
Chi Lăng có chiều dài gần bốn cây số, theo hình bầu dục. Nơi rộng nhất khoảng một ngàn mét. Hai đầu Bắc Nam ải thu hẹp dần gần như khép kín. Phía Tây ải là dãy núi đá lởm chởm, vách đá dựng đứng, rất hiểm trở. Phía Đông ải là dãy núi Quỷ Môn. Dưới chân các dãy núi là đầm lầy.
Chiếm được ải Lưu, Liễu Thăng bỏ qua mọi lời bàn của các tướng thuộc hạ, không thèm đọc thư xin cầu hòa của Lê Lợi. Ngày 10 tháng 10 năm 1427, bỏ đại quân chạy theo phía sau, Liễu Thăng đem 100 lính kỵ binh cùng mình kiêu ngạo băng lên phía trước, đuổi theo Trần Lựu tiến về ải Chi Lăng. Đuổi được một đoạn, đội kỵ binh của Liễu Thăng liền bị sa vào chỗ bùn lầy, không thể đi được. Đúng lúc ấy, tướng Lê Sát cùng Lưu Nhân Chú và đội kỳ binh của Trần Nguyên Hãn, tung quân phục binh ra đánh. Tướng Liễu Thăng bị chém đầu ở sườn núi Mã Yên. Hơn một vạn quân Minh bị tiêu diệt. Số kỵ binh theo Liễu Thăng cũng bị phục binh của Lê Sát và Lưu Nhân Chú đánh cho tan tác.
Thoát khỏi ải Chi Lăng, quân Minh chỉ còn khoảng chín vạn. Phó chỉ huy Lương Minh lên thay Liễu Thăng chỉ huy đại quân. Mặc dù nhận được thư khuyên rút quân của nghĩa quân Lam Sơn nhưng Lương Minh không chịu khuất phục mà vẫn tiếp tục dẫn quân tiến về hướng thành Xương Giang.
Ngày 15 tháng 10 năm 1427, viện binh của Lương Minh đến Cần Trạm.
Cần Trạm nằm dưới chân núi Bảo Đài, là nơi tiếp giáp giữa miền thượng du và trung du của Lạng Sơn. Nơi đây có thành lũy bằng đất, được xây trên một vùng bằng phẳng, bên cạnh các đồi núi nhỏ của hệ thống núi Bảo Đài. Đến Cần Trạm, viện binh của Lương Minh liền bị lọt vào trận địa phục kích của tướng  Lê Lý và Lê Lan, cộng thêm quân tiếp ứng của tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Trần Nguyên Hãn từ Chi Lăng rút về, chiến trường mà hai bên giao chiến diễn ra trên cánh đồng dài gần một cây số, kéo dài từ Đông Bắc thành đến tận phía Nam thành. Hai vạn quân Minh bị diệt. Phó tổng binh Bảo Định Bá Lương Minh, vừa thay Liễu Thăng được 5 ngày đã bị một mũi đao của nghĩa quân Lam Sơn đâm chết!
Đô đốc Thôi Tụ vội vã lên nắm quyền thay Lương Minh, rồi cùng Bộ binh Thượng thư Lý Khánh và Công bộ Thương thư Hoàng Phúc, vừa cố chống đỡ, vừa mở đường, gấp rút kéo quân hướng về thành Xương Giang.
Ngày 18 tháng 10 năm 1427 viện binh nhà Minh do Đô đốc Thôi Tụ cầm đầu dẫn quân đến Phố Cát.
Phố Cát là một vùng đồi nằm thoai thoải giữa Cần Trạm và Xương Giang và chỉ cách Xương Giang có 9 cây số. Vừa đến đây, quân Minh lại bị đạo kỵ binh do Trần Nguyên Hãn chỉ huy bất ngờ tiến ra đánh vào bên sườn, chia cắt đội hình ra làm đôi. Đội quân lương đi sau cùng cũng bị đạo quân của Thái úy và các đạo quân của Lê Sát, Lê Lý bao vây, cô lập, thu hết lương thảo, khí giới. Quá khiếp sợ trước nghệ thuật quân sự vừa đánh, vừa rút để nhử đối phương vào trận địa mà tiêu diệt của nghĩa quân Lam Sơn, Lý Khánh đã phải thắt cổ tự tử!
Ba đại tướng và ba vạn quân bị tử trận sau hơn mười ngày vào đất Đại Việt! Tuy bị thất bại nặng nề nhưng quân Minh còn đông và mạnh nên Đô đốc Thôi Tụ, Thượng thư Hoàng Phúc vẫn cố liều chết đem quân tiến về Xương Giang. Chúng dự tính lấy thành Xương Giang làm nơi trú quân, sau đó liên hệ, phối hợp với thành Chí Linh và thành Đông Quan, hòng cứu vãn lại một tình thế nguy khốn.
Đến gần Xương Giang, Thôi Tụ, Hoàng Phúc mới biết tin thành đã bị nghĩa quân Lam Sơn hạ cách đây 10 ngày! Hy vọng cuối cùng được ứng cứu, thế là tan thành mây khói. Mệt mỏi, thất vọng, hoang mang, đấy là tâm trạng chung cho cả tướng lẫn quân của viện binh nhà Minh lúc này. Chúng bị cô lập hoàn toàn. Phía trước, sau lưng đều bị đánh. Còn biết làm gì hơn là phải mau chóng đắp lũy ngoài đồng để tự vệ.
Nơi Thôi Tụ cho viện binh đóng quân nằm ở phía Bắc thành Xương Giang, cách thành chừng 3 cây số. Đó là một vùng đồng ruộng và xóm làng rộng lớn. Vì phải đóng quân giữa một vùng trơ trọi, khó lợi dụng địa hình để tổ chức cầm cự nên bọn chúng phải tàn sát và đuổi dân các làng như làng Cò, làng Am, làng Gai… đi nơi khác. Rồi phá nhà, cướp của dân, chặt cây cối, dựng rào, đắp lũy giữa cánh đồng để tạm thời phòng vệ.
Trong lúc viện binh nhà Minh đang bối rối, từ thế chủ động chuyển sang bị động thì Vệ Quốc công Lê Lợi cho họp Bộ chỉ huy nghĩa quân. Với chủ trương chưa tiến công ngay mà vây hãm một thời gian khiến quân địch thật rã rời, thật kiệt sức, lúc bấy giờ mới làm một trận cuối cùng, Lê Lợi mời Thái úy Trần Nguyên Hãn trình bày kế hoạch bao vây viện binh địch trước các tướng quân.
Từ sau ngày hạ thành Xương Giang trong vòng có 2 giờ, quả thật tên tuổi Trần Nguyên Hãn trở nên sáng chói. Từ các tướng quân đến quân sư Nguyễn Trãi, Vệ Quốc công Lê Lợi đều tâm phục, khẩu phục Thái úy là người rất “Tinh binh pháp”. Trong hơn mười ngày vừa qua, kể từ khi Liễu Thăng đem viện binh đặt chân vào Đại Việt, Trần Nguyên Hãn lúc thì được Lê Lợi giao đem quân phối hợp cùng Lê Sát diệt viện binh ở Chi Lăng, lúc đem quân hỗ trợ Lê Lý giết giặc ở Cần Trạm, lúc lại đem quân chặn đánh viện binh tải lương. Việc nào cũng gấp gáp, cũng quan trọng nhưng Trần Nguyên Hãn đều hoàn thành xuất sắc. Bên cạnh niềm vui là mình đã có công lao góp phần cùng nghĩa quân liên tiếp làm nên những chiến thắng, Trần Nguyên Hãn còn có nỗi buồn riêng. Vẫn biết là chiến tranh thì không sao tránh khỏi mất mát, nhưng trước cái chết của 15 người cùng quê theo Hãn đi đánh đuổi giặc Minh, trong đó có Nguyễn Văn Bờ - người bạn bè từ thủa hàn vi, ở trận chiến trên sông Cái, tại trận Đông Bộ Đầu khiến Trần Nguyên Hãn cứ băn khoăn mãi! Họ đã chiến đấu dũng cảm và đã anh dũng hy sinh mà sao Hãn vẫn thấy dường như mình có lỗi trước cái chết của họ. Một người tướng tài là phải biết quý từng giọt máu của người lính. Vậy mà Hãn đã để quân sĩ trên chiến thuyền nhà Minh giết mất họ. Máu của họ đã đổ xuống sông. Thân xác họ đã chìm dưới đáy sông! Nữa mai về Đa Cai, Hãn biết nói với cha mẹ, vợ con họ thế nào? Hãn cứ nghĩ mãi về họ và hình như linh hồn họ vẫn dõi theo từng việc làm của Hãn, phù hộ cho Hãn. Có phải thế mà Hãn làm việc nào cũng hanh thông? Đầu óc Hãn luôn sáng láng, nghĩ ngợi việc gì ra việc ấy. Giờ, Vệ Quốc công lại yêu cầu Hãn trình bày kế hoạch vây hãm đội quân Thôi Tụ ở Xương Giang - Nơi mà Hãn thuộc như lòng bàn tay - Hãn đứng dậy vừa chỉ bản đồ, vừa nói liền một mạch:
- Thưa Vệ Quốc Công và các tướng quân! Thần thấy địa hình vùng Xương Giang khác hẳn với Chi Lăng, Cần Trạm.  Chi Lăng là một miền núi rừng hiểm trở. Cần Trạm lại là vùng giáp ranh giữa núi rừng trung du và đồng bằng. Địa hình ấy rất thích hợp với lối đánh mai phục, chia cắt đội hình địch thành từng bộ phận để tiêu diệt như nghĩa quân ta vừa thực hiện. Còn Xương Giang lại là đồng bằng trống trải, chỉ có xen vài quả đồi thấp chạy sát ven sông. Loại địa hình này dễ cơ động hơn. Chúng ta có thể triển khai được lực lượng tương đối lớn, hoặc tập trung binh lực cho những trận đánh tiêu diệt với một quy mô to.
Lê Lợi nhắc lại:
- Nhưng chủ trương của nghĩa quân là chưa đánh ngay mà chỉ tập trung vây hãm.
- Vâng! Thưa vệ Quốc công! Chúng ta chỉ tập trung vây hãm cũng có nghĩa là nghĩa quân chuẩn bị sẵn một thế trận bao vây để tiêu diệt địch tại vùng này khi thời cơ đến. Vậy thì thưa Vệ Quốc công và các tướng quân: Trước mặt quân địch đang đóng quân ở đây là thành Xương Giang đã thuộc về chúng ta, coi như một pháo đài kiên cố, chặn đứng không cho chúng tiến về Đông Quan.
Quân thủy, bộ của ta sẽ lợi dụng đoạn sông Thương chảy qua nơi này để bố trí bao vây địch ở mặt phía Tây, khi cần thiết sẽ theo sông Thương, sông Lục Nam tiếp ứng cho các lực lượng khác. Một bộ phận quân bộ nữa chiếm lĩnh những điểm cao bên tả ngạn sông Thương, lập thành những trại quân.
Phía Đông Nam có sông Lục Nam ngăn cách với thành Chí Linh. Đối với địch, dòng sông này sẽ là một con hào tự nhiên khó mà vượt qua được. Đối với ta, lại rất thuận cho thủy quân cùng bộ binh bao vây, khống chế địch.
Phía Bắc, đã có hai đạo quân: Một, của tướng Lê Sát và Lưu Nhân Chú, Một nữa, của tướng Lê Lý và Lê Lan từ Phố Cát tiến xuống, hình thành thế bao vây, ép chặt địch.
Phía Nam, cách Xương Giang hai mươi cây số, tại thành Thị Cầu, sau khi thắng ở Chi Lăng đã có tướng Trần Lựu trấn giữ, chặn con đường về Đông Quan của địch.
Địch còn khoảng bảy vạn quân. Với số quân này bọn chúng vẫn có thể liều lĩnh phá vây để tháo chạy, hoặc là về nước, hoặc là tiến xuống Đông Quan. Vì thế, thưa Vệ Quốc công, đề nghị Bộ chỉ huy phải tăng cường lực lượng bố trí bịt kín các ngả đường về Quảng Tây và xuống Đông Quan.
Các tướng quân có mặt lắng nghe Trần Nguyên Hãn trình bày xong, mọi người đều đồng tình ngay. Lê Lợi phân tích, bổ sung thêm một số ý và phân công mỗi tướng quân chỉ huy một mặt trận. Riêng Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi vẫn giao cho nhiệm vụ: “Chia quân đóng giữ những nơi yếu hại, ngăn chặn mọi đường tiếp tế lương thực của địch”. Kết hợp với vòng vây ngày càng siết chặt, Lê Lợi giao quân sư Nguyễn Trãi viết thư khuyên Thôi Tụ, Hoàng Phúc nên lui quân… Kết thúc, Vệ Quốc công nói:
- Xem thế, viện binh nhà Minh đã hoàn toàn lọt vào vòng vây khép kín và dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp của quân thủy, quân bộ chúng ta. Thế trận của ta đã vững. Bọn chúng dù đông cũng không thể nào thoát nổi, tiến không được mà lui cũng không xong. Hãy để chúng đợi đấy. Vấn đề bây giờ là nghĩa quân phải lo cách tiêu diệt ngay đạo quân Mộc Thạnh ở phía Vân Nam.
Sẵn có ý định từ trước, Lê Lợi nói qua về kế sách của mình cho các tướng quân cùng biết, đoạn Vệ Quôc công lên kế hoạch, phân công người thực hiện nhiệm vụ này ngay lập tức.
Mộc Thạnh là một đại thần của nhà Minh cai quản khu vực Vân Nam, đã từng sang nước Nam hai lần. Lần thứ nhất vào tháng 2 năm 1407, Mộc Thạnh đem quân đánh nhà Hồ. Tháng 6 cùng năm, quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly, Mộc Thạnh cùng Trương Phụ rút về nước. Lần thứ hai vào tháng 12 năm 1408, Mộc Thạnh đem 4 vạn quân sang chinh phạt Giản Định đế bị Giản Định đế đánh thua, may mà được cứu thoát về thành Đông Quan. Mãi đến tháng 6 năm 1413, Mộc Thạnh cùng Trương Phụ đánh thành Hóa Châu. Tháng 4 năm 1414, Trùng Quang đế thua. Mộc Thạnh mới lại cùng Trương Phụ rút quân về nước. Và lần này là lần thứ ba, Mộc Thạnh lại được Minh Thái tổ giao cho đem quân theo đường Vân Nam, tiến đánh cửa ải Lê Hoa để cứu Vương Thông đang bị nghĩa quân của Lê Lợi vây hãm ở Đông Quan.
Vốn biết Mộc Thạnh được vua Minh trọng dụng vì lòng trung thành cũng như uy tín của họ Mộc tại Vân Nam, một vùng đất xa kinh thành, chứ khả năng dụng binh của bản thân Mộc Thạnh không được giỏi nên Lê Lợi giao cho tướng Phạm Văn Xảo cùng Trịnh Khả cầm quân lên ải Lê Hoa, chỉ đánh kiềm chế, ngăn chặn không cho quân Minh tiến sâu, chuẩn bị lực lượng, chiếm lĩnh sẵn những nơi yếu hại, chờ thời cơ phản công.
Đúng như dự đoán của Lê Lợi, Mộc Thạnh dẫn quân từ Vân Nam tiến sang Đại Việt nhưng tỏ ra dè dặt, không dám tiến sâu. Rồi Mộc Thạnh cho đóng quân ở vùng biên giới để nghe ngóng, chờ tin của đạo quân Liễu Thăng.
Biết chắc Mộc Thạnh đang nóng lòng chờ tin của Liễu Thăng, Vệ Quốc công Lê Lợi mới sai một số tù binh, trong đó có một chỉ huy và ba tên thiên hộ, mang bằng sắc cùng ấn tín của Liễu Thăng và một bức thư ký tên Lê Lợi, do Nguyễn Trãi thảo, đi mấy ngày đêm, đem đến ải Lê Hoa, trao tận tay cho Mộc Thạnh.
Nội dung bức thư là đề cao Mộc Thạnh, cho Mộc Thạnh là người nhân đức, văn võ song toàn. Thư lại kể chuyện Liễu Thăng ngoan cố, không chịu nghe lời khuyên bảo của nhân nghĩa, không biết “đạo trời ưa sóng, lòng người ghét loạn, cậy vào đức thì tốt, cậy vào sức thì chết, mà tự chuốc vạ vào thân nên chết trong trận không biết lẫn lộn vào đâu”. Thư có đoạn nhún nhường đề nghị:
“Nay chúng tôi nhờ ơn của đại nhân như trời đất, cha mẹ, nên mới thổ lộ tình thực, mong đại nhân thương cho. Đại nhân đem lòng người quân tử nhân đức, tất sẽ làm được việc nhân nghĩa để cho người đời này đều tiến lên cõi thái hòa, há lại chịu lấy đất chỗ An Nam bé nhỏ nốt ruồi, mà làm cho thiên hạ nhọc ư? Nay vua tôi nước tôi một lòng, quân lính cùng một chí hướng. Về cái nghĩa kính trời, thờ nước lớn không dám bỏ thiếu!” Cuối thư viết, yêu cầu Mộc Thạnh về tâu với triều Minh “cởi giáp giải hòa”.
Đọc xong thư, hai mắt lại trông thấy ấn tín, bằng sắc của Liễu Thăng, hai tai lại nghe tin Lương Minh, Lý Khánh đều đã tử trận. Toàn thân Mộc Thạnh toát mồ hôi nhưng lại run lên lập cập. Khiếp sợ quá! Dù là đang đêm, Mộc Thạnh cũng vội vàng ra lệnh đem quân gấp rút tháo chạy về nước. Bấy giờ các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả mới chớp lấy thời cơ, tung quân ra đuổi đánh. Nghĩa quân Lam Sơn diệt một vạn tên địch, bắt sống một nghìn tên, một nghìn ngựa và thu rất nhiều chiến lợi phẩm gồm nào vũ khí, nào lương thực, nào vàng bạc. Chỉ có Mộc Thạnh một mình, một ngựa là chạy thoát!
Tin chiến thắng từ Lê Hoa bay về Xương Giang càng làm cho tinh thần quân dân vô cùng phấn khích. Đạo viện binh Mộc Thạnh đã bị đập tan! Lúc này Bộ chỉ huy nghĩa quân chỉ còn lo tập trung lực lượng giải quyết nốt số quân của Thôi Tụ, Hoàng Phúc.
Ở Xương Giang, đạo quân của Thôi Tụ, Hoàng Phúc càng bị vòng vây nghĩa quân Lam Sơn khép chặt. Viện binh rơi vào cái thế tiến thoái lưỡng nan. Tiến thì bị quân bộ, quân thủy của nghĩa quân Lam Sơn trên sông Thương và thành Xương Giang chặn đánh. Mà lui cũng không xong, vì các đạo quân của Lê Sát, Lê Lý vẫn bám sát phía sau! Quân đông, lương thực thiếu, cả tướng lẫn quân hằng ngày phải ăn đói, nhịn khát, sức khỏe sa sút, tinh thần bạc nhược. Bị phơi mình trên cánh đồng Xương Giang trống trải, giống như cá nằm trên thớt trước khi giãy chết, Thôi Tụ, Hoàng Phúc còn cố sai quân bắn pháo, báo tin cho các thành Đông Quan, Chí Linh xin ứng cứu. Nhưng vô ích. Đông Quan và Chí Linh cũng đang bị quân Lam Sơn bao vây, đỏ mắt chờ quân cứu viện. Ốc chưa mang nổi mình ốc, sức đâu mà cõng rêu!
Tuy biết viện binh quân Minh đang khốn đốn nhưng nhằm mục đích giành thắng lợi với tổn thất ít nhất không chỉ cho nghĩa quân mà cho cả quân Minh. Và, với tinh thần nhân nghĩa: “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn - Lấy chí nhân thay cường bạo”, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi lại viết một bức thư như một tối hậu thư  cho Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Thư nói rõ là hẹn trong 3 ngày sẽ mở đường về cho viện binh và hết lời khuyên nhủ:
… “Tính việc ngày nay không gì bằng lui quân ra ngoài bờ cõi, tôi lập tức đem ngay các quân nhân đã bắt được ở các thành trả lại hết. Rồi đem thư của nước tôi và bản tâu nói rõ đầu đuôi tâu lên Triều đình. May ra lời bàn của Triều đình ưng cho, thì hơn bọn các ông có thể không mất tiêng tốt, mà Nam, Bắc nay vô sự. Đó không những là sự may cho nước tôi, cũng lại may lớn cho bàn dân thiên hạ”…
Thư được nghĩa quân bắn tin dụ hàng vào trong thành nhiều lần, nhưng viện binh vẫn ngoan cố. Hẳn là Thôi Tụ, Hoàng Phúc vẫn cố tình kéo dài thời gian cầm cự để chờ, hoặc là quân ở Chí Linh, Đông Quan đến ứng cứu, hoặc là quân của Mộc Thạnh từ Vân Nam xuống tiếp viện. Thuyết phục, dụ hàng mãi không xong, cuối cùng Vệ Quốc công Lê Lợi nhằm vào ngày 15 tháng 10 năm Đinh Mùi, tức là ngày 3 tháng 11 năm 1427, quyết định tổng công kích!
Được lệnh tấn công, nghĩa quân Lam Sơn theo hướng đã định, đồng loạt tiến công vào các khu vực phòng ngự của quân Minh. Nào tượng binh, nào kỵ binh, nào bộ binh của nghĩa quân phối hợp một cách ăn ý, ào ạt xông vào khu trung tâm trú quân của quân Minh. Vừa đâm chém, quân của nghĩa quân vừa kêu gọi: “Ai hàng thì sống. Ai chống thì giết!” Không bao lâu, viện binh nhà Minh rơi vào tình thế rối loạn. Thế trận của Thôi Tụ đã bị nghĩa quân Lam Sơn phá vỡ. Quan quân nhà Minh phần bị giết chết, phần phải bỏ chạy. Viện binh tan vỡ hết!
Từ mặt trận, Trần Nguyên Hãn phóng ngựa như bay về xóm Chùa, nơi mà Lê Lợi, Nguyễn Trãi đang trực tiếp chỉ huy, báo tin chiến thắng:
- Thưa Vệ Quốc công! Quân Minh đã đại bại! Khoảng ba vạn viện binh đã bị giết. Các tướng chỉ huy như Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An, Trần Dung và nhiều hàng binh đã bị bắt. Nghĩa quân thu được rất nhiều khí giới, ngựa xe, vàng, bạc…
Lê Lợi vui mừng hỏi:
- Ta bắt sống được cả Thôi Tụ, Hoàng Phúc sao?
- Thưa Vệ Quốc công! Vì Thôi Tụ quyết không đầu hàng nên thần đã ra lệnh giết rồi ạ!
- Thái úy xử lý thế là rất phải. Ta có lời khen các tướng quân và toàn thể binh sĩ. Thái úy mau trở lại chiến trường, giải quyết những công việc còn lại, rồi chuẩn bị vây đánh thành Đông Quan.
- Xin tuân chỉ!
Dứt lời, Trần Nguyên Hãn nhảy vọt lên lưng ngựa, giật cương. Con ngựa chiến hí lên một hồi dài, đoạn nhao vụt đi như một tia chớp. Còn Lê Lợi quay sang nói với Nguyễn Trãi:
- Quân sư biết không, với vai trò là một chủ tướng, qua trận Chi Lăng - Xương Giang này, Thái úy Trần Nguyên Hãn đã tạo nên một nghệ thuật quân sự tiêu diệt địch thật tuyệt vời - Nguyễn Trãi chưa kịp hỏi thêm, Lê Lợi nói tiếp - Đấy là, dụ địch đến, rồi khéo léo dẫn chúng vào trận địa mai phục mà tiêu diệt; là ghìm chân địch, căng địch ra mà đánh; là khi cần lại gói chúng lại mà diệt; là tích cực “đánh vào lòng người”, làm lung lay ý chí quân xâm lược và tăng thêm sức mạnh cho các lực lượng tiến công. Ta tạm rút ra mấy bài học như vậy, quân sư nghĩ sao?
20.
Tương truyền rằng, năm 1010 khi vua Lý Công Uẩn cho rời đô từ Hoa Lư về đến đất Đại La thì Người nhìn thấy rồng bay lên nên gọi kinh đô mới là Thăng Long. Đầu thế kỷ thứ XIV, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, chuyển kinh đô về Thanh Hóa, gọi là Tây Đô. Năm 1400 nhà vua đổi tên nước Đại Việt thành nước Đại Ngu, còn Thăng Long đổi là Đông Đô. Đến năm 1407, lấy danh nghĩa lập lại nhà Trần, Minh Thành tổ cho quân sang đánh Hồ Quý Ly, chiếm Đại Ngu. Thăng Long bị quân Minh chiếm đóng và chúng đổi Đông Đô là Đông Quan, coi Đại Ngu chỉ là một quận, quận Giao Chỉ thuộc Trung Hoa. Thế là dù có mong ước có một đất nước yên vui, hòa bình  nhưng vì nhà Hồ không được lòng dân nên đã làm mất nước. Quốc hiệu Đại Ngu chỉ được sử dụng có 7 năm! Giờ đây những kẻ xâm lược Đại Việt ở trong thành Đông Quân đang phải run lên trước sự tấn công như vũ bão của nghĩa quân Lam Sơn.
Sau đại thắng ở Chí Linh - Xương Giang, theo lệnh của Lê Lợi, nghĩa quân kéo về vây gấp thành Đông Quan. Bộ chỉ huy lại chuyển về dinh Bồ Đề.
Được tin nghĩa quân thắng trận trở về, người dân Bồ Đề đua nhau đem gạo, thịt đến đại bản doanh của Vệ Quốc công Lê Lợi để khao quân. Hàng ngàn người trong vùng lại đua nhau đi cắt những gánh cỏ non cấp cho đoàn ngựa chiến… Hàng trăm dân chài ở xung quanh bờ Bắc Nhị Hà, lợi dụng bóng đêm đầy sa mù, cùng nhau bí mật chở thuyền, bè đón quân của nghĩa quân Lam Sơn sang bờ Nam sông, tiêu diệt căn cứ pháo binh và trạm tiền tiêu của giặc Minh ở Vạn Xuân. Và, như trong huyền thoại, chỉ trong một đêm thôi, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lê Lợi, dân sở tại kết hợp với nghĩa quân đã đắp xong một chiến lũy bảo vệ, chạy từ Yên Hoa tới tận cửa Bắc thành Đông Quan!
Tại thành Đông Quan, Tổng binh Vương Thông vừa mỏi mắt chờ viện binh, vừa dốc hết số quân trong thành và cố công kích ra bên ngoài nhưng đều không thành. Có lần Vương Thông bị ngã ngựa, suýt nữa bị bắt sống! Giữa lúc quân tướng đều sức cùng, lực kiệt, hoang mang, hoảng loạn, không còn tinh thần chiến đấu thì nghĩa quân Lam Sơn lại cho đắp hai chiến lũy chắn ngay cửa Bắc và cửa Nam thành. Bây giờ nếu có muốn ra ngoài thành, bắt buộc quân Minh phải phá lũy, còn đi cửa khác, nghĩa là tự dẫn thân vào trận địa mà đối phương đã phục sẵn.
Trong khi Vương Thông loay hoay chưa biết tiến, thoái thế nào thì Lê Lợi vẫn tiếp tục thực hiện kế sách của Nguyễn Trãi vừa công thành, vừa dụ hàng, với phương châm: “Ta mưu trí đánh dẹp bằng cách đánh vào lòng người, khiến không đánh mà quân giặc phải tự khuất phục”. Đồng thời, Lê Lợi lại khích lệ tướng sĩ, hứa rằng, sau khi hạ thành Đông Quan, quét sạch bóng giặc Minh sẽ cho 25 vạn người về quê cày ruộng. Vệ Quốc công lại bảo, có bậc văn nhân tài tử nào chưa ra làm quan, có thể viết thư đưa vào thành, khuyên dụ giặc mở cửa thành ra hàng, hoặc giảng hòa để về nước, sẽ được trọng dụng ngay. Còn Nguyễn Trãi thì trực tiếp viết thư cho Vương Thông. Về việc bãi binh, Nguyễn Trãi mềm mỏng phân tích: “Không chỉ riêng một nước Đại Việt được may mà cũng là may lớn cho vạn bang trong thiên hạ vậy”.
Với âm mưu muốn kéo dài thêm thời gian chiếm đóng để mưu tính, Vương Thông nấn ná, viện các cớ như phải chờ chỉ dụ của Minh Thành tổ, phải chờ Đại Việt lập xong con cháu nhà Trần lên ngôi, phải chờ dâng biểu cầu phong… mới trả lời nghĩa quân. Nguyễn Trãi cương quyết: “Ngày nay, hòa nghị không thành, tín nghĩa hóa hão, không phải là lỗi tại tôi vậy” - Theo đó, quân sư chỉ ra 6 lẽ khiến quân Minh tất phải thua và viết tiếp - Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, tôi lấy làm tiếc cho ông lắm. Ông suy nghĩ cho kỹ, bằng không thì nên chỉnh quân, bày trận, giao chiến ở chốn đồng bằng, quyết một trận được, thua để xem khéo, vụng”
Nhằm gây sức ép, buộc Vương Thông sớm phải đầu hàng, Lê Lợi cử người đem tất cả nào văn thư, nào ấn tín, nào bài “Song hổ phù” của Liễu Thăng vào thành báo cho Vương Thông biết.
Trước một thực tế sức hết, lực cùng, quân lính mệt mỏi, trong thành thiếu lương thực, ngoài thành không viện binh, và tận mắt nhìn thấy những di vật của Liễu Thăng tử trận. Hoàn toàn tuyệt vọng, Vương Thông run lên vì khiếp sợ. Mặt Thông trắng bợt ra, tưởng cắt không còn một giọt máu. Miệng Vương Thông méo xệch đi. Lúc lâu sau, Thông mếu máo nói với Sơn Thọ là một viên tướng thân cận: “Tình thế này chúng ta phải chấp nhận giảng hòa để chính thức tuyên bố rút quân về nước như Nguyễn Trãi yêu cầu mất thôi”!
Bấy lâu nay Sơn Thọ cũng chỉ mong câu nói ấy từ miệng Vương Thông nhưng hắn vẫn làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Giảng hòa ư? Chắc Tổng binh thừa biết làm vậy là một cách đầu hàng vô điều kiện, một kết cục nhục nhã của quân Minh?
- Ta còn biết, nếu cuộc giảng hòa diễn ra ngay bên thành mà ta đã cố thủ là một điều sỉ nhục đối với một danh tướng như ta, là sự hủy hoại thanh danh của Minh triều. Nhưng thôi, Sơn Thọ ơi! Vì mạng sống của ta, của Sơn Thọ cũng như của nhiều quân sĩ, không còn cách nào khác, buộc chúng ta phải chịu sự nhục nhã này - Lặng đi một lúc khá lâu, Vương Thông lại nói - Tuy vậy, để cứu vớt danh dự, ta vẫn phải có một vài điều yêu sách đối với nghĩa quân Lam Sơn. Nếu Lê Lợi chấp nhận ta mới đồng ý xin hòa.
Nhận tin xin giảng hòa của Vương Thông, Lê Lợi cử quân sư Nguyễn Trãi là người duy nhất sát gần mình, cùng mình ở trên chòi cao dựng tại bản doanh dinh Bồ Đề bên bờ sông Nhị để hằng ngày vừa điều khiển toàn diện cuộc chiến đấu, vừa quan sát tình hình của địch trong thành, vừa thảo những bức thư dụ hàng, cùng với tướng Lưu Nhân Chú làm con tin vào thành bàn với Tổng binh Vương Thông về những việc cần làm cho cuộc giảng hòa.
Khi trao đổi với Vương Thông, Nguyễn Trãi đề nghị:
- Cuộc giảng hòa cho quân Minh về nước là rất hợp ý trời và lòng người. Vì vậy, cần phải thi hành nghiêm chỉnh để đạt được thành công. Ngài đại diện cho triều đình, đại diện cho quân Minh thì cần có lời nguyền trung thực, để tướng sĩ và dân chúng nước tôi tin nghe mà đồng ý, cũng là để tướng hiệu, quan quân và binh lính nước ngài yên lòng, tránh điều nghi hoặc. Muốn vậy phải mở hội thề trước trời đất, thần linh, có đại diện cả hai bên chứng kiến. Tại hội thề, đích thân ngài phải đọc lời thề thiêng liêng, long trọng đó.
Trước những lời lẽ thấu tình đạt lý của Nguyễn Trãi, Vương Thông không thể chối từ nhưng bắt bẻ:
- Sao lại gọi là hội thề? Nên gọi cuộc giảng hòa này là họp thề mới đúng.
Nguyễn Trãi vuốt râu, lý giải:
- Ngôn ngữ nước Đại Việt chúng tôi, hội có nghĩa là một cuộc vui tổ chức có đông người dự, khác hẳn với họp. Chúng tôi thấy dùng “hội thề” hay hơn là “họp thề”. Vả lại, “hội thề” vừa trang trọng, vừa gợi ý “niềm vui”. Đấy là một niềm vui cho cả hai phía. Vui vì, chúng ta chấm dứt được một cuộc chiến tranh tàn sát và phá hoại. Vui vì, quân Minh các ngài được rút về nước, sum họp với gia đình một cách an toàn, tuyệt sẽ không có chuyện trả thù hay xâm phạm tài sản. Vui vì, nghĩa quân Lam Sơn chúng tôi đạt được mục tiêu cao cả là giành lại chủ quyền đất nước, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt, chứ không còn là một quận huyện của các ngài.
Một lần nữa Vương Thông lại đồng ý với Nguyễn Trãi và nhất trí để Nguyễn Trãi thảo tờ hòa ước với các điều khoản minh bạch, chặt chẽ cho hai bên cùng theo để đạt tới hòa hữu, mở đường cho quân tướng nhà Minh rút về nước, chấm dứt chiến tranh, trả lại đất đai cho Đại Việt. Tổng binh cũng đồng ý người đứng đầu của đoàn tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn trong Hội thề là Lê Lợi chứ không phải Trần Cảo. Tổng binh chỉ khăng khăng yêu cầu người đứng tên thứ hai, sau Lê Lợi, phải là Thái úy Trần Nguyên Hãn. Vương Thông lý giải thêm về yêu cầu của mình:
- Minh Thành tổ cho quân sang Đại Việt đánh Hồ Quý Ly là để khôi phục lại nhà Trần. Bởi thế, không có lý gì, là một tông tộc nhà Trần như Trần Nguyên Hãn lại không được Lê Lợi của các ông trọng dụng?
Yêu sách thế là Vương Thông có thâm ý riêng, cố tình can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của nghĩa quân Lam Sơn. Đây là vấn đề tế nhị và vô cùng nhạy cảm. Nguyễn Trãi biết vậy. Quân sư ý tứ nhìn tướng Lưu Nhân Chú. Hai người ngầm hiểu và cùng xin được trả lời sau, với lý do, còn phải trình tấu Vệ Quôc công Lê Lợi.   
Tuy biết không phải vô tình mà Vương Thông gây khó dễ cho mình trong việc xử lý về chuyện con cháu nhà Trần. Nhưng vì yêu sách này của Tổng binh nhà Minh lại trùng với ý định của Lê Lợi nên nghe Nguyễn Trãi tấu trình, Vệ quốc công gật đầu, chấp thuận: Giành cho Trần Nguyên Hãn sự vinh quang trước cả nước, trước quân Minh: Tên của Thái úy đứng hàng thứ hai, liền kề với tên Vệ quốc công Lê Lợi!
Ngày 10 tháng 12 năm 1427, được tin Vương Thông xin giảng hòa, các tướng sĩ và nhân dân Đại Việt vì căm thù quân Minh tột độ; bởi 20 năm qua bọn chúng đã gây nên không biết bao nhiêu là đau thương, tang tóc: Con mất cha, vợ mất chồng, họ hàng mất người thân thích, đất nước lầm than, nghèo khổ… nên bà con quanh vùng Bồ Đề kéo đến đại bản doanh xin gặp Vệ Quốc công, cử đại diện đề nghị Lê Lợi nên giết hết bọn giặc Minh đi!
Vệ Quốc công nhìn thấu nỗi lòng dân chúng nhưng vì đại nghĩa, đại sự mà khuyến dụ rằng:
- Trả thù và báo oán là lẽ thường tình của con người. Nhưng, không nỡ giết người là bản tâm của bậc có lòng nhân đức. Với lại, giết kẻ đã hàng là điều xấu không gì sánh được. Nếu được hả mối thù trong chốc lát mà phải mang tiếng xấu với muôn đời là giết kẻ đã hàng thì chi bằng tha mạng cho tất cả lũ chúng để nhân đó, dập tắt hết thảm họa chiến tranh cho đời sau, khiến sử xanh phải ghi mãi tiếng thơm đến muôn thủa. Đó chẳng phải là việc lớn sao?
Nghe Vệ Quốc công dạy phải, dân chúng mới bảo nhau về, thắc thỏm đợi chờ đến ngày hội thề.
Hội thề sẽ được diễn ra tại My Động, cách ô Cầu Dền gần 2 cây số. Đó chính là nơi cách đây 8 tháng, khi mới ở Thanh Hóa ra, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã từng đóng đại bản doanh, Tổng binh Vương Thông đã bất ngờ cho quân đánh úp doanh trại của Thái giám Lê Nguyễn. Lê Nguyễn bị rơi vào thế cô, Lê Lợi sai Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem 500 voi chiến ứng cứu. Quân giặc vờ thua, bỏ chạy. Đinh Lễ, Nguyễn Xí đuổi theo đến My Động thì bị phục binh của Vương Thông chém chết. Đứng từ thành Đông Quan nhìn ra thì My Động nằm ở phía Nam thành. Đứng ở dinh Bồ Đề nhìn sang thì đây là vùng đất giáp sông Nhị, có bãi bồi lầy thụt. Chọn nơi đây tổ chức hội thề là Lê Lợi có ý muốn nhắc nhớ đến những tướng, quân đã đổ máu hy sinh trên mảnh đất này và cũng đề phòng sự bất trắc có thể xảy ra. Biết đâu…
Đúng hẹn, sáng ngày 16 tháng 12 năm 1427, phái đoàn hai bên có mặt tại My Động.
Về phía nghĩa quân Lam Sơn có 14 người, do Vệ quốc công Lê Lợi dẫn đầu. Theo đó là Thái úy Trần Nguyên Hãn cùng 12 tướng quân, gồm Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê Ngân, Phạm Văn Xảo, Bùi Bị, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Nguyễn Lý, Phạm Bôi, Lê Văn An, Bế Khắc Thiện và Mã Luân. Đoàn từ dinh Bồ Đề sang trên một chiến thuyền. Những nơi cần thiết ở hai bên bờ sông đều có một  lực lượng quân tinh nhuệ đóng quân nhằm bảo vệ đoàn.
Về phía quân Minh có 17 người, do Tổng binh Vương Thông dẫn đầu. Theo đó là các tướng Mã Anh, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Trần Tuấn, Chu Kỳ Hân, Trần Hựu, Quách Vĩnh Thanh, Dực Khiêm, Lục Quảng Bình, Hồng Bình Lương, Lục Trinh, Dường Thời Tập và Quách Đoan. Đoàn đi từ trong thành Đông Quan ra, cùng với một số rất ít người đã được chọn kỹ để làm nhiệm vụ phục dịch.
Buổi sáng cuối đông, trời đầy sương mù. Trong màn sương màu trắng sữa, những lá cờ trận, cờ thần được cắm xung quanh đàn thề nhìn huyền ảo như thực như mơ.
Trước đàn thề uy nghiêm, đèn nến sáng lung linh, khói hương lan tỏa, đứng trước Thái úy Trần Nguyên Hãn, Vệ quốc công Lê Lợi đầu đội mũ bình thiên, mình khoác áo bào, lưng đeo gươm thần trịnh trọng đọc lời thề. Vốn là người có tiếng nói vang như chuông, giọng của Lê Lợi lúc này càng vang vọng như lời của núi sông, non nước:
- Từ sau khi lập lời thề này, quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng, để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lý trong bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm.
Bọn Lê Lợi chúng tôi, nếu còn chứa lòng làm hại, tự làm việc lừa dối, không dẹp xa ngay quân lính, ngựa voi, việc làm không đúng lời nói… thì trời, đất, thần minh, núi cao, sông lớn, cho đến thần kỳ các xứ, tôi cùng con cháu của tôi và cả người nước tôi, giết chết hết cả, không để sót lại một mống nào!
Đến lượt Tổng binh Vương Thông cũng mũ áo chỉnh tề, cúc cung tứ bái, rồi quỳ đọc văn thề. Với chất giọng trầm đục, Tổng binh dọn giọng cố đọc cho lời rõ, ý đúng:
- Nếu tôi không giữ lòng thực, tự trái lời thề, không làm theo giao ước lập tức đem quân về nước, mà còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh, cùng là ngày về đến triều, lại không theo sự lý trong bản tâu, lại bàn khác đi, hoặc cho quan quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân thì trời, đất cùng là danh sơn, đại xuyên và thần kỳ các xứ tất cả đem bọn Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích, làm cho chết hết và cả quan quân cũng không một người nào được về đến nhà. Trời, đất, thần kỳ cùng soi xét cho.
Sau lời thề, hai bên nhất trí từ ngày 29 tháng 12 năm 1427 đến ngày mùng 3 tháng 1 năm 1428, mặc dù là sắp đến Tết Đinh Mùi nhưng mười vạn quân Minh phải rút hết về nước.
Lê Lợi ra lệnh:
- Số giặc về bằng đường thủy thì cấp cho 500 chiếc thuyền, giao cho Phương Chính, Mã Kỳ nhận lãnh. Số giặc về bằng đường bộ thì cấp thêm lương thực, giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc nhận lãnh. Riêng số giặc bị bắt hoặc đầu hàng từ trước, tổng cộng hơn hai vạn người cùng với hơn hai vạn con ngựa thì giao cho Mã Anh nhận lãnh và giao cho Chinh Man tướng quân là Trần Tuấn đem quân trấn thủ đi theo.
Hội thề kết thúc cũng là lúc sương tan hết. Nắng bỗng bừng lên ấm áp. gió từ Nhị hà tràn đến. Những lá cờ trận, cờ thần nhiều màu sắc tung bay, như reo vui, như nhảy múa.
Thực hiện đúng như lời cam kết trong Hội thề, Vương Thông đã rút quân về nước, cho dù chưa có lệnh bãi binh của thiên triều. Trên đường về, quân Minh còn kéo đến Dinh Bồ đề để lạy tạ các tướng lĩnh của nghĩa quân Lam Sơn. Có nhiều tướng sĩ không biết vì tủi hổ hay vì cảm động mà rơi nước nước mắt? 

21. Tính đến ngày 29 tháng 12 năm 1427, khi Tổng binh Vương Thông kéo quân về nước, Lê Lợi đã trao trả cho nhà Minh vừa tù binh, vừa hàng binh có đến ngót chín mươi ngàn người. Số người bị giữ lại không tính được. Tháng Giêng năm 1428, Minh Tuyên Thông có thư sang, yêu cầu Lê Lợi trả hết số người và vũ khí hiện còn ở Đại Việt, Lê Lợi liền ra lệnh cấm người Việt không một ai được chứa, giấu người Minh, dù chỉ giấu một người thôi cũng bị xử tội chết! Bởi vậy, người Minh ở khắp các nơi, từ hang cùng đến ngõ hẻm, từ miền ngược đến miền xuôi đều lần lượt ra đầu thú và được trả về nước.
Đại Việt không còn một bóng quân thù. Nhân dân khắp nơi tưng bừng mở hội vui Tết, đón Xuân Đinh Mùi.
Giống như nhiều miền quê khác, bà con làng Cổ Loa, làng Phù Linh, sau bao nhiêu năm không có hội, năm nay lại bảo nhau tổ chức lễ hội mùa xuân để mừng đất nước từ nay được sống trong cảnh thanh bình.
Lễ hội mùa Xuân! Đó là một lễ hội cổ truyền của Đại Việt, một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh cộng đồng đã được hình thành từ rất lâu đời. Lễ hội truyền thống này không những thể hiện tinh thần tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn mà còn là sự tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa, những người có công với dân, với nước. Thế mà giặc Minh, vì muốn đồng hóa Đại Việt, muốn tận diệt văn hóa Đại Việt nên từ nhiều năm nay đã ngăn cấm người Việt mở hội mỗi khi Tết đến, Xuân về!
Muốn được sống lại với những kỷ niệm từ tuổi thiếu thời trong không khí  hội hè, đình đám ở quê hương và cái chính là để tìm hiểu thêm về đời sống của nhân dân Thái úy Trần Nguyên Hãn, giả là một thường dân, làm một chuyến vi hành ra ngoại thành sau những ngày đón Tết ở trong thành Đông Quan. Điểm đến đầu tiên của Thái úy là Lễ hội Cổ Loa.
Lễ hội Cổ Loa được nhân dân làng Phong Khê tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm để ghi nhớ công ơn của vua An Dương vương, vị anh hùng dân tộc. Mà công lao trước hết là một vị vua đã chọn được địa thế đắc địa để tụ cư và đóng đô. Phong Khê lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú. Việc dời đô từ vùng núi Hy Cương về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của cư dân Việt cổ - Giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng trung du bán sơn điạ về định đo tại đồng bằng. Việc xây dựng thành Cổ Loa là thể hiện ý chí và là một quyết sách sáng suốt của An Dương vương, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tầm và thế của một vị vua chủ. Vậy nhưng vì muốn hòa hảo với nước láng giềng mà An Dương vương đã gả con gái Mỵ Châu cho con trai Triệu Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu cho xem nỏ thần và bí mật làm một cái nỏ khác, thay vuốt rùa vàng, rồi nói dối vợ là về phương Bắc thăm cha. Trọng Thủy nói với Mỵ Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha mẹ, nếu như hai nước bất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta muốn tìm nàng lấy gì làm dấu?” Mỵ Châu bảo chồng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đau đớn khôn xiết”.
Có nỏ thần rồi, cha con Triệu Đà kéo nhau sang đánh nước Nam. Chống không nổi, An Dương vương cùng con gái phải bỏ cả thành trì để chạy thoát thân. Chạy đến đỉnh một quả đồi thấp, ngựa dừng lại. Những tưởng đây là đất dừng chân, nào ngờ tiếng vó ngựa của cha con Triệu Đà đã dồn dập phía sau. Vua mới than thở: “Sao  chạy đến đâu giặc cũng dò được đường đuổi theo ta?” Bấy giờ nhà Vua mới được Rùa vàng cho biết: “Kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc”. An Dương vương rút kiếm chém đầu Mỵ Châu, rồi men theo chân núi đi ra phía biển. Đã cùng đường, nhà vua ngửa mặt lên trời mà than rằng: “ Cơ đồ của ta đến đây là hết!”
Cho dù phải làm chứng cho một câu chuyện buồn về nguyên do đất nước rơi vào tay giặc, nhưng trải qua thời gian, thành Cổ Loa vẫn mãi là một niềm tự hào của người Đại Việt về lịch sử chống ngoại xâm.
Năm nay mừng đất nước sạch bóng giặc, dân Loa thành tổ chức lễ hội trang trọng lắm. Sau lễ dâng hương của ban tế, trong tiếng nhạc của phường bát âm, các nghi lễ lần lượt được diễn ra. Thoạt đầu là nghi thức tế lễ và đọc mật khẩn của nhà vua về việc dựng đô và xây đắp thành Cổ Loa tại làng Quậy. Theo đó là nghi thức tế lễ của hội đồng bát xã Loa thành. Tiếp theo là chương trình rước kiệu của hội đồng bát xã. Đi đầu là kiệu của dân Cổ Loa, rước bài vị vua An Dương vương, sau đó là kiệu của dân bảy làng lân cận. Cùng với rước kiệu còn có các trò chơi như đấu vật, chọi gà, thổi cơm thi.
Đóng vai một thường dân đi xem hội, Trần Nguyên Hãn ghé vào ngồi nghỉ tại một quán nước bên đường. Chủ quán là một ông lão đầu bạc, râu bạc rót đưa khách một bát nước nụ vối. Trần Nguyên Hãn uống một cách ngon lành, đoạn dò hỏi xem sự hiểu biết của người dân về việc nhà vua để mất Loa Thành ra sao:
- Cụ ơi! Cụ cho tôi hỏi thật nhé?
- Xin ông cứ việc. Biết đến đâu, lão này xin tâu đến đấy.
- Chắc cụ biết chuyện An Dương vương làm mất Loa thành chứ ạ?
- Biết chứ! Biết chứ! Nhưng bảo vua làm mất thì không phải. Tại Mỵ Châu đấy chứ.
- Tôi lại nghĩ khác.
- Ông nghĩ khác là sao?
- Việc gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy là do vua quyết định, đúng không ạ? - Ông lão gật đầu - Việc Mỵ Châu cho Trọng Thủy xem nỏ thần là chuyện thường tình, tình cảm vợ chồng với nhau mấy ai từ chối được. Đúng không ạ? - Ông lão lại gật gật đầu - Dựa vào việc đó mà Rùa vàng bảo Mỵ Châu là giặc, rồi nhà Vua giết Mỵ Châu, tôi thấy thật oan cho nàng quá! Tôi cứ nghĩ, sự nghiệp dựng nước, công lao xây thành, chế tạo vũ khí để giữ nước của nhà vua bỗng chốc tan tành,  đó là vì An Dương vương vừa chủ quan, vừa mất cảnh giác, vừa khinh địch nên mới dẫn đến cái thảm bại đó, phải không cụ?
Lão chủ quán lần đầu tiên thấy ông khách lạ, nói ra cái điều chưa có ai dám nói thì có vẻ hoảng hốt. Hai tay lão luống cuống, châm mãi mà cái đóm vẫn không bén lửa để hút thuốc lào. Trần Nguyên Hãn đứng dậy, nói tiếp:
- Đừng đổ lỗi cho kẻ khác. Có sai lầm thì dám nhận rằng mình sai lầm.  Vậy mới xứng là bậc đế vương cụ ạ.
Điểm đến thứ hai của Trần Nguyên Hãn là hội Gióng.
Hội gióng năm nay được diễn ra ở cả hai nơi: Hội Gióng ở Sóc Sơn - Nơi Thánh gióng bay về Trời và hội Gióng ở làng Phù Đổng - Nơi Thánh Gióng sinh ra. Trần Nguyên Hãn về Hội Gióng Sóc Sơn.
Các cụ bô lão kể lại, theo truyền thuyết, sau khi đánh tan giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa bay đến một ngọn núi thuộc làng Phù Linh, vùng Sóc Sơn, thì dừng lại. Đây là nơi dừng chân cuối cùng trước khi Người cởi bỏ áo giáp, phi ngựa lên Trời mà hóa! Từ lâu lắm rồi, hằng năm cứ đến ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch dân làng ở đây lại mở hội linh đình với đầy đủ nghi lễ truyền thống để tỏ lòng ghi nhớ đến một bậc thánh có công dẹp giặc, cứu nước.
Khác với hội Gióng ở làng Thủy Tiên mãi trong Tân Bình - Thuận Hóa, nơi mà Trần Nguyên Hãn có dịp tham dự từ năm 1425, hội Gióng ở đây có những nghi lễ thật đặc biệt: Nào là lễ Dục vọng để mời ông Gióng về với các lễ vật, phẩm vật được chuẩn bị chu đáo, bày tỏ lòng thành kính, mong đức Thánh Gióng phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nào là Lễ Khai quang, tắm cho pho tượng Gióng. Mùng 7, ngày Thánh hóa là chính hội thì có nghĩ lễ dâng hoa tre và chém đầu giặc tại đền Sóc.
Hoa tre được người dân làm bằng những thanh tre dài khoảng 50 cm, đường kính khoảng 1cm, một đầu thanh tre được vót thành xơ và nhuộm màu. Sau lễ dâng, “hoa tre” được tung ra trước sân đền, người dự hội nô nức xúm vào, cướp lấy để cầu may. Còn nghi thức chém tướng giặc được mô tả bằng cách chém đầu một pho tượng. Trò diễn này, diễn lại câu chuyện Thánh Gióng dùng tre đằng ngà, quật chết tên tướng cầm đầu giặc Ân ở Thạch Linh.
Không mấy quan tâm đến những trò diễn trong lễ hội, Trần Nguyên Hãn lững thững dạo quanh khu đền Sóc, nơi thờ Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên vương. Đang hòa mình trong đám đông, đi như vô định, Trần Nguyên Hãn bỗng để mắt đến một cụ già. Ông cụ này đầu đội khăn xếp, mình mặc áo the đen, quần trắng, chân đi đôi guốc mộc nhìn có vẻ như một hàn sĩ, bất đắc chí.
Trần Nguyên Hãn đoán không sai. Ông cụ ấy là một đồ nho nghèo, tuy thi cử đỗ đạt nhưng không chịu ra làm quan cho giặc Minh. Cụ sống ẩn, làm nghề gõ đầu trẻ như thầy Nguyễn Thái An của Hãn, ở một làng quê cách đền Sóc không xa. Trần Nguyên Hãn làm quen với cụ, rồi được cụ bộc bạch nỗi lòng:
- Tôi năm nay đã lục tuần rồi. Trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen. Cuộc đời đắng cay, chìm nổi đều đã trải. Bây giờ được chứng kiến cảnh nước nhà không còn bóng giặc, vui mừng thật không sao kể xiết. Tuy vậy, ông có biết không, lòng dân chúng tôi quả là vẫn không yên.
Trần Nguyên Hãn trố mắt, ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy, thưa cụ?
Ông cụ vẫn điềm tĩnh, nói:
- Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần nhưng đâu có giữ được nước. Nay tướng quân Lê Lợi đánh đuổi được giặc Minh nhưng liệu có làm được như nhà Trần, có xây dựng được đất nước như thời Trần Hưng Đạo?
- Lòng dân mình vẫn còn hướng về nhà Trần sao?
- Tôi không hiểu lắm về Hưng Đạo vương, nhưng tôi biết tư tưởng quán xuyến suốt cuộc đời của Trần Hưng Đạo là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Trước khi qua đời Hưng Đạo vương còn dặn vua con là Trần Anh Tông rằng: “Phải nới sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc” cho sự nghiệp lâu dài của đất nước. Lời di huấn ấy của Trần Hưng Đạo là sâu sắc lắm đấy ông ơi! Sau chiến tranh, không biết Lê Lợi sẽ làm gì cho dân tộc Đại Việt hồi sinh?
Nghe vị hàn sĩ giãi bày tâm sự, Trần Nguyên Hãn càng cảm thông với những băn khoăn lo lắng của người dân. Có thể vì còn nhiều nghi ngờ, lo ngại về một cuộc đổi đời nên lòng dân mới nuối tiếc về thời vàng son của một vương triều đã sụp đổ? Làm như mình chưa biết gì về Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn bảo:
- Cụ cứ yên tâm. Chắc là nay mai lên ngôi hoàng đế, tướng quân của nghĩa quân Lam Sơn, sẽ có những quốc sách để xây dựng lại quốc gia Đại Việt chứ ông ấy không bay về trời như Phù Đổng đâu cụ ạ.
Ông cụ vuốt chòm râu lưa thưa, bạc trắng, cười mà rằng:
- Tôi và mọi người cũng hy vọng là như vậy. Mà ông này, Thánh Gióng dẹp xong giặc liền bay về giời thì được dân mình thờ. Giả dụ ông ở lại thì sao nhỉ?
Hỏi để mà hỏi vậy thôi chứ ông cụ cũng không có ý định nghe Trần Nguyên Hãn trả lời. Mà biết nói thế nào? Phù Đổng Thiên vương là bậc Thánh chứ có phải người trần mắt thịt đâu!
Loanh quanh với lễ hội, khi Trần Nguyên Hãn về tới Đông Quan thì trời đã tối.
Đông Quan xưa gọi là Thăng Long. Cách nay trên bốn trăm năm, ngày từ Hoa Lư về Đại La, trong Chiếu dời đô tự tay mình viết, Lý Công Uẩn đã đánh giá đây là “vùng đất nằm ở vị trí trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt”. Đây là “chốn hội  tụ hội trọng yếu của bốn phương, cũng là nơi xứng làm kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Rời bỏ nơi chật hẹp, ẩm thấp để đến nơi thoáng đãng, cao rộng, quả là Lý Công Uẩn có một tầm nhìn xa để mưu lợi cho “vạn dân lâu dài, dân sinh phồn thịnh” chứ đâu phải là chỉ chọn một chỗ ở cho đế vương.
Để có nơi thiết triều và chỗ ở cho hoàng thất, Lý Công Uẩn đã cho xây một cụm kiến trúc trung tâm gồm tám điện, ba cung. Phía trước, dựng điện Càn Nguyên làm chỗ thiết triều. Bên tả điện Tập Hiền - Nơi tập hợp các quan văn, trí thức. Bên hữu là điện Giảng Võ - Nơi tập huấn các võ tướng, quân sư. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn. Hướng chính Nam dựng điện Cao Minh. Trước các điện  đều có thềm rồng. Trong thềm rồng có hành lang dẫn ra bốn phía xung quanh.
Các cung điện được bao quanh bằng một vòng thành, được bảo vệ nghiêm nhặt gọi là Tử Cấm thành.
Hoàng thành là vòng thứ hai. Phía ngoài đào hào, mở 4 cửa: Ở phía Đông là Tường Phù, ở phía Tây là Quảng Phúc, ở phía Nam là Đại Hưng và ở phía Bắc là Diệu Đức.
Đại La thành hay còn gọi La thành là vòng tròn thứ ba, được đắp bằng đất nện chặt, có chức năng vừa bảo vệ vòng ngoài cho Hoàng thành và Tử Cấm thành, vừa là để chống lụt cho cả kinh thành.
Cấm thành và Hoàng thành là khu vực hành chính, trung tâm chính trị của Đại Việt. Bên cạnh Cấm thành, Hoàng thành và La thành là khu vực phố thị, tức là khu vực dân cư hợp thành những phố, những phường làm các nghề thủ công, buôn bán, bên những xóm làng làm nông nghiệp và một hệ thống chợ, bến sầm uất bên bờ các con sông Tô, sông Đáy, sông Kim Ngưu… Những con sông này vừa là giao thông đường thủy, vừa là nơi chống úng, thoát nước.
Từ hôm nghĩa quân tiếp quản Đông Quan, được sống tại kinh thành, Trần Nguyên Hãn vô cùng cảm phục nhà vua anh minh. Với trí óc sáng suốt của mình, Lý Công Uẩn đã định vị xây kinh đô của đất nước ở thế “rồng cuộn, hổ ngồi” là để cho kinh thành nằm trọn trong một vùng đất cao, rộng; tuy có 4 con sông là Nhị Hà, sông Đáy, sông Tô, sông Kim Ngưu bao bọc nhưng lại không lo bị ngập lụt. Bởi 4 con sống ấy cũng như rồng cuộn, vừa là nguồn cung cấp nước, đồng thời lại như con kênh thoát nước. Bên cạnh thế rồng cuộn, kinh đô còn có chỗ dựa là 3 ngọn núi: Phía Tây Bắc có núi Ba Vì và núi Tam Đảo ở phía Đông Bắc nằm phủ phục bảo vệ cho kinh đô như hổ ngồi, đường bệ, oai phong! Có phải vậy mà từ triều Lý đến triều Trần,  ba bốn trăm năm trôi qua, Thăng Long mãi vẫn là kinh đô của Đại Việt? Thế nhưng hai mươi năm nay, Thăng Long - Đông Đô lại rơi vào tay giặc Minh! Bọn chúng đã biến nơi đây thành một trung tâm đầu não, bày đặt ra không biết bao nhiêu chính sách hà khắc để đàn áp, bóc lột nhân dân. Nhờ có nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi nên bây giờ Thăng Long mới lại là của Đại Việt và Trần Nguyên Hãn mới có dịp đặt chân tới kinh đô văn hiến.
Trần Nguyên Hãn chưa vội về điện Giảng Võ mà rẽ sang điện Tập Hiền. Thái úy muốn gặp Nguyễn Trãi.
Lâu rồi, vì công việc của mỗi người nên hai anh em chưa có dịp hàn huyên, thấy Trần Nguyên Hãn đến, Nguyễn Trãi mừng quá vội chạy ra tận hành lang nghênh đón:
- Thái úy! Mời Thái úy vào phòng xơi nước.
- Xin sư huynh cứ gọi Hãn là đệ như ngày trước. ở đây chỉ có huynh với đệ thôi mà. Ta ngồi ngoài này nói chuyện huynh ạ.
Chiều ý Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi trải chiếu trên hành lang. Hai anh em không uống trà mà nhân không khí Tết Đinh Mùi vẫn còn, Nguyễn Trãi bảo, uống chén rượu xuân cho vui. Sau ba tuần rượu, hai anh em đều ngà ngà say, câu chuyện giữa hai người vì thế mà vừa chân thành cởi mở, vừa thật thà thẳng thắn. Nguyễn Trãi nhấp thêm ngụm rượu, đoạn nói với Trần Nguyên Hãn:
- Đệ với huynh đi theo Lê Lợi mới đấy mà đã được mười năm. Mười năm chỉ là một chớp mắt so với lịch sử nhưng với đời một con người, quả thật huynh thấy đệ đã làm được rất nhiều việc.
- Nào đệ đã làm được gì nhiều đâu.
- Lại không ư? Mười năm qua đệ đã tham gia chỉ huy bốn trận: Nào là chiến dịch Tân Bình - Thuận Hóa; Nào là tiến vây Đông Quan; Nào là hạ thành Xương Giang; Rồi chủ tướng tổng công kích trận Chi Lăng - Xương Giang. Trong bốn trận ấy, đánh bộ có, đánh voi có, đánh ngựa cũng có, đánh thủy có, phục kích có, bình định có, công thành có, truy kích cũng có… Nghĩa là đệ đã phải đương đầu với đủ các lực lượng, đủ các loại binh chủng, đủ các loại địa hình. Thế mà trận nào đệ cũng giành chiến thắng giòn giã. Là người trong cuộc, có thể đệ chưa biết đâu, mọi người đều thừa nhận đệ là người nổi bật nhất trong hàng các võ tướng của Lê Lợi đấy. Uy tín của đệ trong quân sự thật tuyệt vời. Huynh nói thật đấy. Nếu không vậy tại sao Vệ Quốc công lại đồng ý với yêu cầu của Tổng binh Vương Thông, để đệ đứng hàng thứ hai trong Hội thề Đông Quan vừa qua? Mà đệ ơi, đứng hàng thứ hai trong hội thề này, Trần Nguyên Hãn đâu chỉ là quan Thái úy của nghĩa quân mà còn xứng danh là dòng dõi tôn thất nhà Trần nữa.
Thoáng nghe Nguyễn Trãi nhắc đến mình là tôn thất nhà Trần, Trần Nguyên Hãn vội xua tay ra hiệu bảo Nguyễn Trãi nói nho nhỏ thôi. Nguyễn Trãi cũng chợt hiểu đây là chuyện khó nói, Lê Lợi không muốn nhắc đến… Cả hai người đều biết rất rõ vấn đề “ con bài Trần Cảo” đang làm Vệ Quốc công Lê Lợi quá khó xử!
Trần Nguyên Hãn lái câu chuyện sang hướng khác. Thái úy nói:
- Cả ngày hôm nay đệ vi hành. Đến hai lễ hội thì cả hai đều kể về các vị anh hùng dân tộc có công dẹp giặc phương Bắc. Đệ cứ thắc mắc, không hiểu sao hàng ngàn năm nay hết triều này đến triều khác, giặc từ phương Bắc lại thay nhau sang xâm chiếm nước ta là cớ làm sao hả huynh? Tại làm sao họ không để chúng ta có một cuộc sống yên ổn mà làm ăn? - Không đợi Nguyễn Trãi trả lời, Trần Nguyên Hãn lại hỏi tiếp - Mà tại sao An Dương vương để đất nước rơi vào tay giặc lại đổ lỗi cho con gái? Tại sao Thánh Gióng dẹp xong giặc lại bay về trời? 
22.
Ăn Tết xong, để đối phó với nhà Minh trong tình thế tạm thời, Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua nhưng trên thực tế không có quyền hành gì, viết biểu rồi sai sứ đem sang nhà Minh xin được phong vương. Biểu viết:
Thái Tổ Cao hoàng đế khi mới lên ngôi, tổ tiên của thần là Nhật Khuê trước tiên dâng lễ triều cống, được ơn đặc biệt khen thưởng và ban cho tước vương. Từ đó, đời đời giữ gìn bờ cõi, không hề thiếu sót lễ nghi triều cống. Mới đây, nhân họ Hồ soán nghịch, Thái Tông Văn hoàng đế dấy quân hỏi tội. Sau khi dẹp yên, nhà vua hạ chiếu tìm kiếm con cháu họ Trần để giữ cho việc thờ cúng. Bấy giờ Tổng binh quan Trương Phụ chưa kịp tìm kiếm rộng khắp, đã vội xin đặt nước tôi làm quận, huyện.
Thần trước đây vì nước rối loạn, phải chạy trốn sang Lão Qua, chỉ muốn cho chút hơi tàn được tạm kéo dài ra thôi. Dè đâu người nước quen thói tục man di, xa nghĩ đến ơn trạch của tổ tiên nhà thần, ép thần phải về nước. Bất đắc dĩ thần phải gượng theo. Dẫu rằng việc làm hấp tấp này là do người nước ép buộc, nhưng cũng là cái tội bởi thần không biết đắn đo, suy lường.
Vừa đây, đã đến cửa quân tạ tội, nhưng không được đâu để ý lắng nghe. Người nước bấy giờ sợ bị giết chết, mới phải đem nhau đi giữ những nơi quan ải để làm cái chước tự vệ lấy minh. Nào ngờ quan quân từ xa đến, thấy voi, hoảng sợ, tự cùng nhau lánh chạy, tan vỡ. Việc đã đến thế, tuy là do sự bất đắc dĩ của người nước, mà cũng là tội lỗi của thần. Nhưng số quân và ngựa bị bắt đều đã thu lượm nuôi dưỡng, không dám tơ hào xâm phạm.
Nép mong Hoàng thượng dựa theo lời chiếu của Thái Tông Văn Hoàng đế để cho tìm kiếm con cháu họ Trần, nghĩ đến lòng thành thực của cha ông nhà thần đã dâng lễ triều cống trước tiên, tha cho thần cái tội to như đống gò, miễn cho thần khỏi bị giết chết bằng rìu búa, khiến thần được nối dõi ở cõi Nam, triều cống cửa trời.
Ngoài sự riêng sai bồi thần thân tín đem dâng tạ biểu và đưa đến kinh đô nộp trả ấn tín và người ngựa, nay xin đem danh sách và số mục kính cẩn tâu lên để nhà vua soi xét”.
Thừa biết là Lê Lợi không có ý tôn Trần Cảo nhưng vì quân Minh cứ thua mãi nên Minh Tuyên Thông cũng đồng ý phong cho Trần Cảo làm vua Đại Việt cho xong việc!
Đứng trước một thực tế ấy, các tướng của nghĩa quân Lam Sơn, toàn là những người có công với Lê Lợi ngay từ buổi đầu dấy binh khởi nghĩa, nói với Lê Lợi rằng: “Thưa Vệ quốc công! Trần Cảo là người không có công cán gì, cớ sao lại để cho ăn trên ngồi chốc mọi người? Tốt nhất là trừ khử hắn đi!” Phải trừ khử Trần Cảo để tuyệt lòng mong nhớ nhà Trần của thiên hạ và mới có cơ hội củng cố chính quyền nhà Lê. Các tướng quân nói phải. Biết thế, nhưng Lê Lợi lại không ra mặt làm thế. Bề ngoài Vệ Quốc công càng đãi ngộ với Trần Cảo hậu hơn nhưng bên trong lại ngấm ngầm sai người tìm cách hại Trần Cảo. Về phần mình, Trần Cảo tự biết người trong nước phần không theo mình, phần nhà Minh lại không còn có ý định can thiệp thì mình khó mà tồn tại ở ngôi vị cao nên nhà vua bèn bỏ trốn đi Ngọc Ma. Được tin, Lê Lợi cho quan quân đuổi theo. Bị bắt về giam trong thành Đông Quan, Trần Cảo liền uống thuốc độc tự tử!
Lê Lợi tâu với nhà Minh, Trần Cảo bị bệnh mà chết và hai ba lần sai sứ sang nhà Minh xin cầu phong nhưng Minh Tuyên Thông vẫn không chịu, vẫn bắt phải tìm con cháu nhà Trần để lập làm Vua. Cuối cùng, Lê Lợi phải cho các quan viên, phụ lão trong nước làm tờ khai rằng, con cháu nhà Trần thực sự không còn một ai nữa và xin phong Lê Lợi. Thấy vậy, vua Minh mới đồng ý để Vệ quốc công Lê Lợi lên làm vua Đại Việt.
Lê Lợi làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế đúng ngày 15 tháng 4 năm 1428. Nhà vua quyết định khôi phục lại tên nước Đại Việt và đổi tên thành Đông Quan thành Đông Kinh.
Trước đó, dù chưa lên ngôi Hoàng đế, vào tháng 2 năm 1428, Lê Lợi đã luận công ban thưởng, phong thần đợt thứ nhất cho 221 người theo mình khởi nghĩa từ Lũng Nhai. Rồi sau đấy gần một tháng, ngày mùng 6 tháng 3 năm 1428, Thái úy Trần Nguyên Hãn mới được Lê Lợi phong cho làm Tả tướng quốc. Cùng với Trần Nguyên Hãn còn có quân sư Nguyễn Trãi được phong chức Nhập nội đại hành khiển và Tướng Phạm Văn Xảo được phong chức thái úy và một số người nữa.
Được nhà vua ân sủng cho đem họ Lê, được phong làm Tả tướng quốc, một chức quan lớn đầu triều, tương đương với Hữu tướng quốc do Thái tử Lê Tư Tề, con trai trưởng của nhà vua Lê Thái Tổ đang giữ, dù chưa một lần chấp sự, Trần Nguyên Hãn vẫn tự thấy vị trí của mình trong vương triều thật là cao. Bên cạnh niềm vinh dự, tự hào rằng mình đã sống xứng danh với cha ông, tiên tổ, Trần Nguyên Hãn cũng lại thấy, hình như tại mình là con cháu nhà Trần nên đã gây bao nhiêu điều phiền toái, khó xử cho Lê Lợi. Sao lại phải bận tâm vì mình là tông tộc nhà Trần nhưng Tả tướng quốc vẫn không sao gạt bỏ được những băn khoăn, ái ngại. Trước những hành xử của Lê Lợi từ khi đất nước có hòa bình khiến Trần Nguyên Hãn phải nghĩ suy nhiều điều. Tả Tướng quốc đặt ra cho mình nhiều câu hỏi, rồi lại tự lý giải về mối quan hệ giữa bản thân mình với tình thế chính trị của nhà Lê trong buổi đầu dựng nước. Muốn tranh thủ thêm ý kiến của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn định sẽ sang điện Tập Hiền gặp Nguyễn Trãi để bày tỏ nỗi niềm riêng.
Trần Nguyên Hãn chưa kịp đi thì Nguyễn Trãi đã sang điện Giảng Võ tìm gặp Trần Nguyên Hãn.
Nguyễn Trãi được Lê Lợi giao kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng nhưng trong Khu Mật viện này, cơ quan cao cấp của Triều đình, Trần Nguyên Hãn lại là cấp trên trực tiếp của Nguyễn Trãi. Tuy vậy, những lúc chỉ có hai người họ vẫn xưng hô với nhau theo vai vế trong gia đình.
Vốn là người không hay rượu nhưng thấy Nguyễn Trãi đến, Trần Nguyên Hãn vẫn đem ra một chai rượu trắng. Rót rồi đưa bằng hai tay cho Nguyễn Trãi chén rượu, Trần Nguyên Hãn trịnh trọng nói:
- Mời huynh! Xin huynh hãy coi đây là chén rượu mừng. Một lần nữa chúc mừng huynh với chức Nhập nội đại hành khiển.
- Huynh cũng chúc đệ với chức Tả tướng quốc. Mừng cho dòng tộc nhà Trần có một người như đệ.
Hai người ngửa cổ uống cạn chén rượu mừng, đoạn Trần Nguyên Hãn bảo:
- Đệ đang định tìm huynh để hỏi huynh chuyện này, may quá, huynh lại sang đây, huynh cho đệ hỏi luôn nhé?
Chuyện mà Trần Nguyên Hãn định hỏi phần nào Nguyễn Trãi đã đoán biết được. Chính vì đọc được tâm trạng của Tả Tướng quốc trong những ngày vừa qua, và mặc dù đang bận việc do nhà vua giao nhưng Nguyễn Trãi vẫn dành thời gian chủ động tìm gặp Trần Nguyên Hãn trước. Hy vọng là sẽ chia sẻ được với Trần Nguyên Hãn vấn đề nào đó, Nguyễn Trãi chăm chú hỏi:
- Có phải chuyện về vấn đề vua Trần Cảo không? Chuyện đó đã qua rồi việc gì đệ phải bận tâm kia chứ!
Trần Nguyên Hãn tợp thêm một ngụm rượu nữa, giọng nhỏ lại như chỉ muốn nói riêng cho Nguyễn Trãi nghe:
- Huynh biết rồi đấy, đệ theo và tôn Lê Lợi làm minh chủ, cùng nghĩa quân Lam Sơn lăn lộn mười năm đánh giặc là vì  muốn đem cái tài mọn của mình ra cứu dân, cứu nước chứ đâu phải mưu đồ khôi phục lại vương triều nhà Trần. Thế nhưng những ngày vừa qua đệ cảm nhận thấy nhà vua đã không nghĩ thế về đệ - Trần Nguyên Hãn ngừng lại, ngước mắt nhìn thăm dò thái độ của Nguyễn Trãi, Thấy Nguyễn Trãi im lặng lắng nghe, vẻ đầy khích lệ, Trần Nguyên Hãn liền dốc hết bầu tâm sự - Đệ là người không ham chức tước, không màng bổng lộc nhưng đệ không thể không quan tâm đến những ứng xử của nhà vua trong mấy tháng trời nay. Như huynh biết, chuyện vua Lê căn cứ vào việc tham gia khởi nghĩa ở thời điểm sớm hay muộn để phân định luận công. Căn cứ đó, những tướng sĩ tham gia từ ngày ở Lũng Nhai đã được định công trạng và ban thưởng trước, gồm trên hai trăm người. Còn các tướng cũng như các quan văn võ, bất luận công to đến đâu, cũng đều định công, ban thưởng đại trà, muộn hơn một tháng. Với đệ, dù đệ là Tả Tướng quốc cũng chỉ được cấp cho 114 mẫu ruộng, trong khi đó những người thân thuộc với nhà vua lại được cấp từ 300 đến 500 mẫu, có người từ 500 đến cả 1.000 mẫu.
Việc đối xử không công bằng kể trên nói lên điều gì, nếu không phải là đã xuất hiện tâm lý phân biệt người trong họ với người ngoài họ với nhà vua, xuất hiện tư tưởng phân biệt người vùng trong với người vùng ngoài của một vương triều vừa mới thành lập? Ấy là nói về việc chung, còn việc riêng? Đệ hiểu, Lê Lợi biết Trần Nguyên Hãn là dòng dõi quý tộc nhà Trần nên đệ luôn được kính trọng và trọng dụng. Nhưng đấy là chuyện trong chiến tranh. Còn bây giờ? Hình như đã khác trước rồi huynh ạ. Bằng chứng ư? Thì huynh thấy đấy. Trong khi lòng dân vẫn nhớ về nhà Trần thì nhà Minh tuy đã thất bại, đã phải rút quân về nước nhưng vẫn khăng khăng đòi lập con cháu nhà Trần lên làm vua mới chịu đặt quan hệ ngoại giao chính thức. Đệ nghĩ, điều này mới thực sự gây khó dễ cho Lê Lợi. Chẳng vậy tại sao đệ là con cháu nhà Trần bằng thực mà Lê Lợi đâu có dám công bố ra? Lê Lợi đã đưa con bài Trần Cảo mặc cả với triều Minh. Rồi phải cho họp các quan viên, các bô lão trong cả nước cam kết khai rằng, con cháu nhà Trần không còn ai mới được vua Minh chấp nhận cho Lê Lợi đăng quang! Chuyện này nói lên điều gì, nếu không phải là sự nghi kỵ về dòng họ, về triều đại của nhà vua? Việc Vương Thông yêu cầu trong danh sách những người tham gia Hội thề của nghĩa quân Lam Sơn ghi thứ nhất là Lê Lợi, thứ hai là Trần Nguyên Hãn như huynh đã biết, đó là thâm ý của triều Minh, cố ý khoét sâu, làm tăng thêm lòng nghi kỵ của vua Lê Thái Tổ đối với cá nhân đệ. Đệ nghĩ thế, huynh thấy có đúng không?
Do luôn được ở gần Lê Lợi mà Nguyễn Trãi hiểu nhà vua bao nhiêu càng phải công nhận những suy luận của Trần Nguyên Hãn đúng bấy nhiêu. Một bên là nhà vua, một bên là Tả tướng quốc, là người em, khiến Nguyễn Trãi không biết nói với Trần Nguyên Hãn thế nào cho phải. Hai anh em ngồi im như hai pho tượng. Phía bên ngoài thấp thoáng có bóng người đi qua, đi lại mấy lần, rồi biến mất trong bóng đêm. Không quan tâm đến việc hình như có kẻ rình mò, nghe  trộm, đọc được cái sự khó trả lời của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn lại nói:
- Huynh còn nhớ không, cách nay mười năm, ngay từ lần đầu gặp Lê Lợi, đệ đã nói với huynh  tướng công có tướng như Việt vương thì chỉ có thể chung hoạn nạn chứ không thể chung hưởng yên vui”… Nay ngẫm lại thấy điều đó quả là không sai. Đệ còn nhớ hồi ở Đa Cai, nhân ngày giỗ ông nội, bố đệ có nói về cách ứng xử của quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán là: “Quân tử kiến cơ nhí tác, bất sĩ chung nhật”. Đệ tự thấy, đã đến lúc đệ cũng phải học ông nội về điều này thôi huynh ạ?
Nguyễn Trãi tròn mắt, ngạc nhiên, hỏi:
- Đệ định xin khất quy hưu?
Trần Nguyên Hãn gật đầu rồi bảo, giọng dứt khoát:
- Đúng vậy! Để tránh đi một mâu thuẫn hiện đang tồn tại giữa nhà vua và đệ, đệ sẽ xin nghỉ chính sự.
Một người vừa giỏi binh pháp, vừa có học thức như Trần Nguyên Hãn, chỉ có bị vướng mắc vào những điều như vừa nói nên Tả tướng quốc mới không còn chí thú gắn bó việc chính sự với vương triều nữa! Bảo là hỏi nhưng thực ra trong lòng Trần Nguyên Hãn đã quyết. Thấu hiểu, cảm thông với nỗi niềm của Trần Nguyên Hãn và cũng là người hiểu hết chuyện nhân tình thế thái nên Nguyễn Trãi không một lời can gián mà chỉ buông ra một tiếng thở dài đoạn lẩm nhẩm một câu ca thán:
- Đất nước vừa mới giành được độc lập, danh vọng và quyền lợi hầu như chưa được hưởng, tuổi còn trẻ, sức còn khỏe mà đệ đã phải xin về hưu. Thật tiếc lắm thay!
Một quyết định khó khăn, khó khăn gấp nhiều lần so với buổi đầu tìm đường cứu nước, cứu dân đã được nói ra, đã được chia sẻ với Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn thấy trong lòng thảnh thản, nhẹ nhõm như bầu trời đang đầy mây vần vũ bỗng trong sáng hẳn ra. Mấy hôm sau, Tả tướng quốc xin gặp nhà vua để bày tỏ nguyện vọng.
Đúng hẹn, một mình Trần Nguyên Hãn vào điện Càn Nguyên gặp vua Lê Thái tổ.
Mới hai, ba tháng đăng quang mà từ nơi thiết triều đến chỗ ngồi của Lê Lợi đã khác xưa nhiều quá! Sang trọng, oai nghiêm và đường bệ đã tạo ra một khoảng cách rõ rệt giữa chủ và khách. Đó là cảm nhận đầu tiên của Trần Nguyên Hãn khi bước chân vào phòng làm việc của nhà vua.
Đất nước vừa đi qua chiến tranh, lại vừa mới lên ngôi, Lê Thái Tổ gặp quá nhiều khó khăn. Do hậu quả tận diệt văn hóa Đại Việt của nhà Minh nên từ các tài liệu, thư tịch đến văn học nghệ thuật đều bị tàn phá hết sức nặng nề. Đồng thời, các học giả, các người tài của Đại Việt cũng đều bị giặc Minh bắt đem về Trung Hoa. Vì vậy, nhà vua phải bắt đầu lo hầu hết mọi chuyện nào về kinh tế, nào về luật pháp, nào về học hành. Nhiều việc và bận rộn quá! Tuy thế, dù chưa biết là về việc gì nhưng nhà vua vẫn đồng ý cho Trần Nguyên Hãn yết kiến.
Trần Nguyên Hãn là một tướng tài, có nhiều công trạng đối với nhà Lê nhưng Hãn lại là con cháu nhà Trần. Điều này làm cho Lê Lợi khó xử đến mấy lần. Lần thứ nhất, khi vây thành Đông Quan, Vương Thông viện cớ tìm con cháu nhà Trần để yêu sách, buộc Lê Lợi đành phải lập Trần Cảo lên ngôi chứ không phải là Trần Nguyên Hãn. Lần thứ hai, cũng vẫn là Vương Thông yêu cầu đưa Trần Nguyên Hãn đứng hàng thứ hai tại Hội thề. Lần này tuy trùng với ý nguyện của Lê Lợi nhưng nhiều người vẫn hiểu là do Vương Thồng đề xuất! Lần thứ ba, quân Minh đã thua, nhưng triều Minh vẫn đòi tìm và lập con cháu nhà Trần lên ngôi vua, trong khi lòng dân vẫn hướng về nhà Trần. Việc này buộc Lê Lợi vẫn phải giấu kín Trần Nguyên Hãn đi. Vì cống bố ra để Trần Nguyên Hãn làm vua thì Lê Lợi không bao giờ muốn. Mà đưa Trần Nguyên Hãn vào quan hệ giả dối như Trần Cảo thì đâu có qua được tai mắt của nhà Minh! Đúng là phải chèo chống khôn khéo lắm, nhún nhường lắm, triều Minh mới chấp thuận để Lê Lợi làm vua Đại Việt. Từ khi ngồi lên ngôi báu, Lê Lợi mới giật mình, chợt nhận ra, đây từng là chỗ ngồi của hoàng đế họ Trần. Bản thân Lê Lợi cũng vừa phải đẩy “hư vị” của Trần Cảo đi nên mới có ngai vàng này. Là tông tộc của nhà Trần, trong chiến tranh Trần Nguyên Hãn cùng ta chiến đấu, trong hòa bình liệu Trần Nguyên Hãn có thực lòng với ta nữa không? Đau đáu với câu hỏi ấy, Lê Thái tổ gặp Trần Nguyên Hãn.
Trà Lê Lợi uống bây giờ là thứ trà sao từ búp chè “một tôm, hai cá”, được ướp trong hoa sen ở Hồ Tây. Nước pha trà là nước sương đọng trên lá sen. Nghe nhà vua giới thiệu cái thú thưởng trà thực thật thanh tao, thật tinh tế mà Trần Nguyên Hãn thấy cầu kỳ, xa lạ quá! Thật chả bù cho những ngày ở Chí Linh, ở huyện Khôi tướng cũng như quân đều phải ăn măng rừng thay cơm!
Uống cạn một chén trà tự tay nhà vua đưa, Trần Nguyên Hãn viện cớ về gia cảnh của mình ở quê đang gặp nhiều khó khăn: Cha mẹ mất sớm, vợ ốm yếu, con thơ dại mà thưa bẩm với Lê Thái tổ:
- Vì những lẽ ấy thần xin bệ hạ cho thần được nghỉ chính sự để về quê lo việc gia đình.
Chắc là Lê Thái tổ đang đợi câu nói này của Trần Nguyên Hãn nên nhà vua chỉ thoáng chút ngạc nhiên và hỏi lại cho rõ ràng:
- Khanh xin khất quy hưu ư?
- Tâu bệ hạ. Đây là tâm nguyện của thần. Kính mong bệ hạ rộng lòng chuẩn y để thần được toại nguyện.
 “Nếu Tả tướng quốc nghỉ chính sự thì ta sẽ được vơi đi một nỗi lo và xóa bỏ được nhiều điều khó xử”. Nghĩ vậy, Lê Thái tổ tỏ ra thông cảm và thoải mái tới mức dễ dãi:
- Khanh đã muốn thế, trẫm đành bằng lòng cho khanh về nhà. Nhưng khanh nhớ là, mỗi năm phải về kinh đô chầu nhà vua hai lần.
- Đội ơn đức vua. Thần xin tuân chỉ.
Lê Thái tổ vẫy tay ra hiệu bảo Hãn đứng lại chờ. Bước tới ban thờ, nhà vua cầm lấy thanh gươm trao cho Trần Nguyên Hãn:
- Đây là thanh bảo kiếm gia truyền mà khanh dâng ta cách đây mười năm. Mười năm qua chúng ta đã đem xương da của mình và thanh gươm này báo đền xã tắc. Nay đất nước sạch bóng ngoại xâm, trẫm trao lại để khanh gìn giữ.
Chưa hiểu tại sao nhà vua lại trả lại gươm báu cho mình nhưng Tả tướng quốc vẫn đưa hai tay ra nhận. Trần Nguyên Hãn linh cảm rằng, mối quan hệ giữa mình và nhà vua đã đến hồi kết. Mười năm cùng nhau đồng cam cộng khổ, mười năm cùng nhau vào sinh ra tử đến lúc chia tay cứ tưởng phải như thế nào, hóa ra lại kết thúc quá nhanh chóng, quá giản đơn đến thế này sao?
PHẦN THỨ BA   
Người về chốn cũ
23.
Rất nhiều năm về sau này người ta còn lưu truyền mãi câu chuyện, lần đầu tiên sau mười năm đi chinh chiến, Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, về ở lại ngôi nhà cũ.
Đó là một ngày đầu thu năm 1428.
Hôm ấy trời đầy nắng vàng. Gió từ phía Rừng Thần thổi tràn về mát rười rượi. Dòng sông Lô vừa qua mùa lũ, thu mình lại khúc ẩn, khúc hiện sau những bụi lau phất phơ bông trắng. Từng đàn chim sáo không biết từ đâu về bay chấp chới trên không.
Sau mấy ngày trời một mình một ngựa, lúc phi như bay, lúc lững thững thả từng bước, Trần Nguyên Hãn mới về đến quê hương. Khi bến Đông Hồ hiện ra trước mắt, Hãn liền xuống ngựa. Con ngựa chiến từng theo Hãn suốt mười năm qua, giẫm chân rồi hí lên một hồi dài như muốn cất lời chào nơi thôn dã. Trần Nguyên Hãn ôm lấy cổ ngựa, vỗ vỗ vào đầu nó mấy cái đoạn chàng ngồi bệt xuống vạt cỏ vàng khô. Lúc sau, Hãn nằm ngửa, hai tay, hai chân giang ra với một tư thế vô cùng thoải mái. Hai mắt chàng đăm đắm nhìn lên bầu trời cao xanh, nhởn nhơ mây trắng bay.
Khi hai con mắt ngắm trời ngắm đất đã no nê, Trần Nguyên Hãn ngồi dậy. Chàng cởi bộ sắc phục của Tả tướng quốc mà nhà vua mới ban cho cách nay mấy tháng, quăng xuống sông. Nước sông Lô trong xanh, đang lững lờ trôi, vội vã nhận bộ quần áo của Hãn và cuốn dần vào lòng, lặng lẽ đưa về phía bến đò Phú Hậu. Như muốn trút hết bụi đường, Trần Nguyên Hãn liền nhào xuống sông. Chàng lặn một hơi thật dài, thật sâu rồi bất ngờ ngoi lên ở giữa dòng sông. Hai tay vuốt mặt, vuốt đầu, miệng nhổ nước phì phì một chặp đoạn lại giang tay bơi sải. Bơi đi bơi lại chán, chàng lại bơi ngửa. Hết bơi ngửa lại bơi ếch.
Vẫy vùng, ngụp lặn thỏa thuê với con sông quê cho tới khi mười đầu ngón tay nhăn lại, Trần Nguyên Hãn mới chịu lên bờ. Bây giờ chàng ăn mặc như một thường dân. Đầu đội trời, chân đạp đất, Trần Nguyên Hãn dắt ngựa về làng.
Ngày ấy, thôn Đa Cai mới chỉ có mấy chục nóc nhà, lại ở phía cuối trang Sơn Đông, nhưng  thôn vẫn có cổng làng. Nhìn hai chữ “hạ mã” gắn trên  cổng xây theo lối cuốn vòm, nhắc nhở ai ai qua cổng, bất kể sang hay hèn, đều phải xuống ngựa để tỏ ý tôn trọng lệ làng, Trần Nguyên Hãn cúi đầu, mỉm cười lặng lẽ. Từ làng này ra đi, chàng hiểu phía sau cánh cổng làng kia là nơi tụ cư của những người đang sống, còn bên ngoài cánh cổng này là đồi gò, là đồng ruộng và nghĩa địa. Mặc dù rất muốn nhưng Trần Nguyên Hãn chưa thể về ngay nhà được, chàng rẽ trái, cùng chú ngựa đi về phía Rừng Thần. ở đấy là nơi có ngôi mộ của ông Trần Nguyên Án, cha chàng và bà Lê Thị Hoàn, mẹ chàng. Do vậy, chàng không thể không ghé vào thăm viếng trước khi về với vợ con.
Trên đường đến Rừng Thần, Trần Nguyên Hãn phải qua đồng Chằm Xoan, Đồng Đè, Ao May… Mỗi bước đi lại gợi lên trong Hãn rất nhiều kỷ niệm của thời thơ ấu… Kia là nơi Hãn hay cùng lũ bạn thả diều mỗi mùa hạ tới. Kia là chỗ Hãn hay đánh đáo, đánh khăng. Và, kia là nơi tập trận giả, mỗi bên một phe rồi lấy đất ném nhau, có khi bươu trán, chảy cả máu đầu.
Trời đã ngả về chiều. Nắng gió xôn xao trên khu Rừng Thần. Thoát ra khỏi những hoài niệm, Trần Nguyên Hãn buộc ngựa dưới chân đồi, một mình chàng lững thững đi lên rừng.
Ghé qua khu đồi sở hoang vắng, lấy mấy nén hương, chàng nhanh chân đi  đến nơi an nghỉ cuối cùng của cha và mẹ.
Hai ngôi mộ thấp bé lè tè nằm sóng đôi bên nhau. Cỏ dại cùng sim mua, lau sậy mọc um tùm. Gió đuổi gió hiu hiu thổi rì rào trong vòm cây. Mấy bông hoa lau cuối mùa rũ xuống như cờ tang.
Trần Nguyên Hãn lấy gươm phát cây cỏ phủ trùm quanh mộ, đoạn chàng thành kính thắp lên mỗi ngôi mộ ba nén hương. Khói hương vật vờ bay rồi tan biến trong không gian yên tĩnh. Chàng quỳ xuống trước hai nấm mộ, cúi đầu sát đất, lạy ba lạy dài. Miệng chàng lẩm nhẩm:
Con nam mô a di đà Phật!
Kính lạy ngài Đương cai thái tuế chí đức tôn thần, Kim niên hành binh, Công tào phán quan.
Ngài bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương.
Ngài bản xứ thần linh thổ địa tôn thần
Các ngài Ngũ phương, Ngũ thổ long mạch tôn thần, Tiền chu tước, Hậu huyền vũ, tả thanh long, hữu bạch hổ, cùng liệt vị Tôn thần cai quản ở trong xứ này.
Tín chủ con là Trần Nguyên Hãn, người thôn Đa Cai, trang Sơn Đông. Hôm nay sau những ngày đi xa, con được trở về đến thăm mộ cha mẹ… Con cúi lạy thần linh đất này, thành hoàng bản thổ nơi đây, đất lành chim đậu, đức dày thanh cao, giữ lành công lao, có kết có phát nhờ vào thần quan, tôn thần long mạch cao sang, nhị thập tứ hướng, nhị thập tứ sơn quanh vùng. Chọn đây an táng mộ phần, thỏa yên muôn thủa, hồng ân đời đời, gia ân mãi mãi không thôi. Con có vài lời cầu xin: Bái tạ thủ mộ thần quan, cho chân linh dưỡng cho hài cốt nguyên vẹn toàn, phù hộ con cháu trần gian, an khang mạnh khỏe, ăn làm gặp may. Âm dương cách trở, bát nước nén hương, biếu tấm lòng thành, cúi xin chứng giám, phục duy cẩn cáo!
Khấn ba lần xong, Trần Nguyên Hãn cúi đầu lạy tạ ba lần nữa, sau đó chàng lẩm nhẩm nói tiếp:
- Con kính lạy hương hồn cha mẹ! Cha mẹ ơi! Sau mười năm theo Lê Lợi giết giặc, con lại về với cha mẹ đây. Ở dưới suối vàng, xin cha mẹ hãy yên lòng. Đất nước đã sạch bóng quân thù rồi. Gươm báu mẹ trao cho con ngày ấy, con đã không làm hổ thẹn với dòng tộc. Lê Lợi lên ngôi, con được làm Tả tướng quốc. Nhưng vì không thể cùng hưởng yên vui, sung sướng được với nhà vua nên thưa cha mẹ, con phải học theo cách xử sự của ông nội con ngày trước để làm phương châm xử thế của mình. Con của cha mẹ đã “khất quy hưu” về với quê hương”..
Nói đến đấy, Trần Nguyên Hãn cảm thấy trái tim mình run lên vì xúc động. Chàng bỗng mềm yếu đi. Nước mắt chàng rỉ ra, láng ướt trên hai gò má sạm đen, nhô cao. Trần Nguyên Hãn lại cúi lạy mộ cha mẹ ba lạy dài nữa.
Phía dưới chân mép Rừng Thần con ngựa chiến hí lên một hồi như muốn nhắc nhở Hãn về thời gian.
Hoàng hôn đang buông. Trời thu tím sẫm lại. Gió nổi lên  đuổi nhau, chạy ào ào trên vòm cây lá úa.
Trần Nguyên Hãn đứng dậy, quệt tay lau nước mắt và phăm phăm đi xuống.
Tin Trần Nguyên Hãn về quê không có cánh mà bay rất nhanh từ nhà này sang nhà khác trong trang Sơn Đông. Đến tối, tại ngôi nhà tường đất, mái gianh xập xệ của vợ chồng chàng, đã chật ních những người là người. Tiếng nói, tiếng cười râm ran như họp chợ. Đấy là những bà con hàng xóm láng giềng, sớm tối có nhau, đến chơi thăm hỏi sức khỏe Trần Nguyên Hãn, chia vui với vợ con chàng và uống nước chè tươi.
Người dân Đa Cai tuy không trồng chè nhưng cả thôn lại có một tập quán: Cứ vào buổi tối hay buổi trưa, bà con trong thôn lại quây quần ngồi uống nước chè tươi với nhau. Vừa uống nước, vừa chuyện trò, thân mật như người trong một gia đình. “Hội” uống chè tươi thường ngồi ở một nơi thật đơn giản: Nếu uống buổi trưa thì ngồi ở trong nhà, quanh bàn nước, hoặc tấm phản. Nếu uống buổi tối thì ngồi ở ngoài sân, trên chiếc chõng tre hoặc trên một cái chiếu cũ trải xuống đất. Tối nào không có trăng thì đốt đèn, mùa rét thì ngồi xúm xít quanh bếp lửa. Biết được cái tập quán ấy của thôn, ngay từ chập tối Lê Thị Tuyển đã  hãm sẵn một nồi nước chè,  thu dọn nhà cửa, giường chiếu chuẩn bị cho chồng đón khách.   
Trần Nguyên Hãn giản dị trong bộ quần áo ngả màu nước dưa. Đây là bộ quần áo mà chàng vẫn thường mặc trong những ngày hai vợ chồng đi bán dầu dọc ngày xưa. Nhìn chàng lúc này giống hệt một nông phu, rắn rỏi mà chất phác, hiền lành. Trong quầng sáng úa vàng của hai đĩa đèn dầu dọc đặt ở hai đầu cột cuối nhà, Trần Nguyên Hãn đích thân rót nước mời từng người. Chàng vui vẻ kể cho mọi người nghe đủ mọi thứ chuyện. nhưng lảng tránh không nhắc tới chiến dịch Tân Bình - Thuận Hóa ra sao? Không nhắc đến chuyện tiến vây thành Đông Quan như thế nào? Nhiều người gặng hỏi, chàng vẫn không chịu kể về chiến công hạ thành Xương Giang. Ngay như chuyện mình là chủ tướng trong chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang  chàng cũng chỉ cười trừ chứ không nói gì. Đừng tưởng ở một vùng quê xa xôi, hẻo lánh dân làng không quan tâm gì, không hay biết gì về những ngày xông pha trân mạc của Hãn! Qua những câu hỏi thì hóa ra bà con biết hết cả. Có điều người ta không biết tường tận mà chỉ biết Trần Nguyên Hãn là một dũng tướng luôn đi theo trận mạc và đi đến đâu là lập chiến công đến đấy. Có một trai đinh mới lớn hỏi, thập thò đứng lên, mạnh dạn hỏi:
- Chú Hãn ơi! ở quê chúng cháu nghe nói, nhờ có áo Ma y với thần kiếm nên chú mới chém được đầu Liễu Thăng. Mà cũng phải chém đến bảy cái đầu, Liễu Thăng mới chịu chết, phải không hả chú?
Trần Nguyên Hãn bật cười trước câu hỏi ngây thơ của chàng trai. Chợt nghĩ, có thể vì quá yêu mến Tả tướng quốc nên mọi người đang thêu dệt nên những câu chuyện mang tính giai thoại, huyền thoại về mình, chàng vội vàng bảo:
- Liễu Thăng là con người bằng xương, bằng thịt, làm gì có những bảy cái đầu mà phải chém tới bảy lần. Liễu Thăng chết bởi hắn trúng “phiêu” của ba nghĩa binh chứ không phải tôi chém. Ba nghĩa binh này là ba anh em trai có tên là Thanh Kiền, Bạch Thuộc, Thống Thánh. Họ là con ông bà Bảo Công và Liên Hoa quê ở phủ Từ Sơn đấy!
Cải chính xong cái tin đồn không đúng về công trạng của mình, Trần Nguyên Hãn thấy nhẹ cả người. Chàng vui vẻ nói thêm với bà con:
- Giặc Minh đã thua. Bọn chúng đã phải cút về nước. Dân mình đã có độc lập, có tự do. Từ nay chúng ta chỉ phải lo chuyện cấy cày làm ăn, xây dựng lại quê hương, làng xóm sao cho giàu mạnh - Và chàng phô tin - Riêng Hãn tôi, từ nay cũng được trở về sống mãi với gia đình, với vợ con, với dân làng Đa Cai.
Nghe Trần Nguyên Hãn nói vậy, tất cả đều vỗ tay reo hò, mừng vì có một vị tướng tài về sống với quê hương, chỉ có Phạm Toán lên tiếng nghi ngờ, thắc mắc:
- Đất nước vừa mới giành độc lập, chắc chắn huynh phải có chuyện vướng mắc gì đó với nhà vua nên mới xin nghỉ chính sự để về vườn vội thế. Đúng không?
Biết Phạm Toán là con người “đa nghi Tào Tháo”. Hơn mười năm trước chính Toán đã nghĩ là, Hãn cưới mất người tình trong mộng của Toán, Toán thù ghét Hãn. Tưởng rằng thời gian sẽ làm Toán thay đổi, nào ngờ chó đen giữ mực. Biết thế, nhưng Hãn vẫn nhũn nhặn lắc đầu, mỉm cười:
- Nói thế nào để huynh hiểu tôi nhỉ? Bởi vì, huynh có phải là tôi đâu!
Cụ đồ Nguyễn Thái An cũng có mặt ngay từ chập tối để mừng Hãn trở về. Như thấu hiểu nỗi niềm của Hãn, cụ vuốt chòm râu lơ thơ, bạc trắng, gật gù bảo:
- Bà con chúng ta ngồi đây ai cũng biết chuyện Thánh Gióng cả chứ? Chính vì dẹp xong giặc Ân, Thánh Gióng không ở lại trần gian mà ngài bay về giời nên mới được người đời sau ghi công đức, lập đền thờ! Học người xưa, dẹp giặc xong, Hãn về với đời thường, tôi cho là phải lắm.
- Thưa thầy! Con đâu dám sánh với Phù Đổng. Con về chỉ là vì con muốn về thôi  ạ.
Sợ thầy bình luận quá xa về chuyện mình “khất quy hưu”, Trần Nguyên Hãn vội nói chen ngang. Không dừng lại, cụ đồ An vẫn tiếp tục dòng suy nghĩ của mình:
- Xưa nay các bậc tiền nhân vẫn nói: “Thiên địa bế. Hiền nhân ẩn”. Một khi xã hội bế tắc thì người hiền đi ở ẩn cũng là chuyện thường gặp ở đời.
 Vớ được câu nói có vẻ hơi bị đụng chạm đến thời cuộc của cụ đồ, Phạm Toán liền chỉ tay vào mặt người thầy cũ, dọa:
- A! Thầy bảo xã hội này bế tắc hả? Thầy nhớ đấy nhé!
Cụ Nguyễn Thái An vuốt râu, ngực hơi ưỡn ra:
- Không dám! Tôi đâu dám làm thầy của bác! Mà bác yên tâm, tôi đã nói thì tôi không có sợ - Quay về phía đám đông, cụ đồ nói tiếp - Với Trần Nguyên Hãn, bà con chúng ta phải coi chàng là một anh hùng. Tự tri giả anh. Tự thắng giả hùng. Người anh hùng là người tự biết mình và tự thắng những ham muốn tầm thường của mình. Hãn là người có công chống giặc Minh được vua Lê phong tới chức Tả tướng quốc mà chàng không màng tới danh lợi, người như vậy không đáng gọi là anh hùng sao?
Mọi người im lặng tỏ ý đồng tình với thái độ của cụ đồ nhưng vì bị Phạm Toán phá đám nên câu chuyện đang vui chuyển sang chiều hướng căng thẳng. Mấy trai tráng trong thôn xúm lại, túm cổ Phạm Toán tống ra khỏi cổng. Nhân đấy, cụ Nguyễn Thái An bảo bà con về sớm cho Hãn đi nghỉ. Nghe cụ, kẻ trước người sau, lần lượt chào vợ chồng Hãn ra về.
Khách lục tục về hết. Căn nhà yên tĩnh trở lại như vốn có từ trước. Đến lúc này Trần Nguyên Hãn mới có thời gian giành cho vợ con. Chàng cùng Lê Thị Tuyển thu dọn nhà cửa, giường chiếu. Xong việc, Lê Thị Tuyển gọi con vào nhà. Cậu bé Trần Trung Khoản lên mười tuổi, người nhỏ thó, ngồi lọt thỏm trong lòng mẹ. Mặc mẹ bảo phải gọi người đàn ông mới xuất hiện trong nhà từ chiều nay bằng cha nhưng nó vẫn không chịu nghe. Mất mấy lần dỗ dành, làm quen với con, Khoản vẫn sợ hãi mếu máo, co rúm người lại, Hãn bảo vợ:  Không trách con được, bởi ngày ta ra đi, nó còn phải ẵm ngửa! Đặt hai tay lên vai vợ, nhìn vào mắt vợ, Hãn ân cần hỏi:
- Những năm tháng ta đi vắng, nàng ở nhà một mình nuôi con, có vất vả lắm không?
Hỏi để mà hỏi thôi chứ Hãn biết, mười năm chàng đi xa, ranh giới giữa cái sống cái chết thật là mong manh đối với người ở ngoài trận mạc thì hẳn là nàng ở nhà đã phải chịu đựng quá nhiều lo lắng, quá nhiều vất vả. Rồi nhạc phụ, nhạc mẫu qua đời khi chàng vắng mặt, một mình nàng phải đứng ra lo toan, gánh vác. Tất, tất cả những cảnh ngộ ấy đã làm cho nhan sắc nàng phai nhạt nhường kia! Nhìn hai vai nàng nhô cao, mặt mày nàng hốc hác, Trần Nguyên Hãn xa xót như có ai xát muối trong lòng. Chàng đặt môi hôn lên mái tóc xác xơ khô cứng của vợ, nhẹ nhàng nói:
- Nàng cho con ngủ trước đi. Ta ra ngoài một chút.
Trần Nguyên Hãn đi ra sân. Mùa thu, trời se se lạnh. Vầng trăng thượng tuần đang chới với rơi xuống chân mây ở phía Tây, cố tỏa sáng nhạt nhòa. Hãn đi thẳng đến bên ao Son, nơi có tảng đá mà trước đây, đêm đêm dưới ánh trăng chàng đã ngồi mài gươm suốt mười năm trời! Ao Son vẫn còn đây. Tảng đá vẫn còn đây. Chỉ riêng tứ thân phụ mẫu là mãi mãi Hãn phải chia xa!
Trần Nguyên Hãn ngồi bệt xuống bên tảng đá. Hai tay chàng giang ra như muốn ôm lấy vết lõm do mài gươm mà ra dài đến bốn mươi phân. Đúng lúc ấy Lê Thị Tuyển đi  tới. Trần Nguyên Hãn đứng dậy, âu yếm hỏi vợ:
- Con đã ngủ chưa?
- Nó đang đợi chàng đấy.
- Nàng gọi ta là chàng chứ không gọi ta là Tả tướng quốc sao?
- Thì trong lúc ăn cơm tối chàng đã chẳng bảo thiếp đừng gọi chàng là Tả tướng quốc đó sao?
- Phải rồi! Đừng gọi ta là Tả tướng quốc nữa. Với ta, chức tước chẳng qua là cái nhãn mác người ta gắn cho ai thì người đó được. Nay gắn cho người này, mai gắn cho người khác. Xem vậy nó có gì quan trọng đâu. Cái quý nhất của cuộc đời mỗi con người, theo ta nghĩ, là mình đã làm được việc gì có ích thiên hạ. Đúng không? - Bất chợt Trần Nguyên Hãn hỏi vợ - Nhà mình có còn uống nước vối nữa không? Có sẵn vối không? Nếu có, nàng đun cho ta một ấm. Chao ôi, ta bỗng thấy thèm nước vối quá.
Lê Thị Tuyển vội vàng “vâng, dạ” rồi đi vào nhà. Phải rồi, nàng sẽ đun một ấm nước vối thật ngon để đãi chàng. Ai mà biết được sau nhiều năm xa quê, khi trở về cái thèm đầu tiên của chàng lại là nước vối quê hương. Cũng may là hai mẹ con nàng ở nhà vẫn thường xuyên uống nước vối nên mới có cơ hội không phụ lòng chàng.
Ngày đầu tiên Trần Nguyên Hãn về ở lại ngôi nhà cũ của mình là như thế đấy!  

24. Phải mất mười năm đi chinh chiến Trần Nguyên Hãn mới lại có được một giấc ngủ ngon. Chàng bừng tỉnh bởi tiếng chó sủa ngoài đầu ngõ. Lê Thị Tuyển thức dậy từ lúc nào? Nàng đang hí húi đun nấu gì dưới bếp? Ánh lửa hắt ra sáng hồng một góc sân.
Trong ánh sáng nhập nhòa, Trần Nguyên Hãn vuốt vuốt đầu Trần Trung Khoản và âu yếm nhìn con. Chú bé vẫn ngủ say tít, hai chân, hai tay ra. Nằm bên con, Trần Nguyên Hãn nhìn đăm đắm lên mái nhà. Trời chưa sáng hẳn, ánh trăng hạ tuần xuyên qua mái lá thủng, đọng từng đám loang lổ trên nền nhà ẩm thấp. Những lỗ thủng lỗ chỗ kia, vào những ngày có mưa, hẳn hai mẹ con nàng khó mà kiếm được một chỗ khô dáo để nằm? Giá như Hãn ở nhà thì đâu đến nỗi. Nay mai nếu có điều kiện, nhất định chàng sẽ phải sửa lại cái nhà. Các cụ dạy, có an cư mới lạc nghiệp.
Không ngủ lại được nữa, Trần Nguyên Hãn vục dậy, đi ra sân. Rạng sáng. Phương Đông đã ửng lên màu cà chua chín. Tiếng gà gáy gọi mặt trời mọc cũng rộ lên khắp nơi trong làng. Mấy con gà mái “cùng cục” dẫn con ra chuồng. Đàn gà nhép nhìn như những cục bông biết đi, lép nhép chạy theo. Hai cây cau cuối sân vươn cao ngất nghểu, xòe tán như hai chiếc ô, lặng lẽ tỏa hương thơm ngan ngát. Chao ôi, những âm thanh quen thuộc, những hương vị thanh khiết thường thấy mỗi mai thức dậy ở nhà quê, cũng phải mất mười năm Trần Nguyên Hãn mới được gặp lại. Với một tâm trạng vô cùng thanh thản, chàng vươn vai hít căng lồng ngực cái không khí trong veo, không một gợn bụi của buổi sáng mùa thu ở miền quê trung du.
Sau khi “đi” mấy đường quyền cho giãn gân cốt, Trần Nguyên Hãn bước tới dưới mái gianh. Ở chỗ này, cách nay 38 năm, ông Trần Nguyên Án đã chôn nhúm nhau của Hãn trong cái nồi đất. Thời gian trôi nhanh như vó câu qua cửa sổ, đất nước biết bao vật đổi sao rời, nhưng cái nồi đất ấy vẫn còn đây - Nơi chôn nhau, cắt rốn Trần Nguyên Hãn vẫn nằm đây. “Thập đại kinh luân mao ức lý, nhân trạch từ miếu”. Sau mười năm đi chinh chiến, ta về ở lại ngôi nhà cũ. Trần Nguyên Hãn lại rưng rưng nhớ tới song thân. Chàng vội vã quay đi. Múc nước trong cái chum dưới gốc cau ra chiếc chậu thau, Trần Nguyên Hãn gọi con Trần Trung Khoản ra rửa mặt.
Hai cha con Trần Nguyên Hãn ăn sáng bằng mấy khúc sắn luộc chấm với muối vừng do Lê Thị Tuyển bày trên chiếc đĩa bê từ dưới nhà bếp lên. Vừa ăn, chàng vừa vui vẻ kể cho vợ con biết những món ăn được làm từ sắn: Nào là xôi sắn, là cơm trộn sắn, là bánh trôi sắn, bánh dày sắn, bánh chưng sắn và thật thơm bùi, thật giòn là món sắn nướng! Trần Nguyên Hãn bảo vợ, chàng thèm một bữa canh sắn nấu với ốc quá! Lê Thị Tuyển nói: “Tưởng chàng muốn ăn gan trời trứng trâu em mới chịu chứ món này, ngay trưa nay mẹ con em sẽ có đãi chàng” -  “Nàng đào đâu ra?” - “Em đi mò. Những năm tháng vắng chàng, em vẫn đi mò cua, bắt ốc như mọi người đấy chàng ạ” - “Nàng vất vả quá. Ta sẽ làm gì đây để mẹ con nàng đỡ khổ?”
Cả nhà ăn sáng xong, Trần Nguyên Hãn bảo vợ con, hôm nay chàng phải đến thăm cha mẹ Nguyễn Văn Bờ. Bờ đã hy sinh trong đợt vây đánh thành Đông Quan từ năm 1426. Còn sống trở về, Hãn vẫn có ý định dành thời gian đến thăm ông bà ấy đầu tiên. Và, nhân thể bàn với ông Bụi một việc mà theo chàng, cần thiết phải làm.
Nhà ông Nguyễn Văn Bụi ở cuối thôn Đa Cai. Đấy là một ngôi nhà tre, vách đất, mái rạ bạc phếch, nằm nép mình dưới một gốc mít già, cành lá xùm xòa. Thấy Trần Nguyên Hãn đến, ông Bụi ôm lấy cột nhà, miệng méo xệch sang một bên, nghẹn ngào gọi “Bờ ơi”, rồi khóc không thành tiếng. Còn bà Bụi, ôm lấy cổ chàng mà nức nở gào lên: “Ối con ơi, Bờ ơi! Cũng đi đánh nhau sao anh Hãn được về mà con lại không về với bố mẹ hả Bờ ơi là Bờ?” Vừa khóc, bà Bụi vừa gọi con nghe thảm thương quá. Hai khóe mắt Trần Nguyên Hãn cũng đỏ hoe, cay xè. Có ai từng đi qua chiến tranh, giờ phải chứng kiến cảnh kẻ mất, người còn như thế này mới thấm thía hết nỗi đau, mới thấy lòng mình tan nát!
Ông Bụi mới Hãn ngồi trên tấm phản cũ kỹ, long đinh đoạn quay sang nhắc vợ, giọng vẫn còn nghèn nghẹn:
- Thôi, đừng khóc nữa bà ơi! Việc gì qua đã qua rồi. Con nó chết cũng đã chết rồi. Nếu khóc mà nó sống lại thì cả làng này đều khóc. Tôi nói thế có phải không bác Hãn?
- Dạ, ông dạy rất phải ạ. Đã gọi là chiến tranh thì làm sao tránh khỏi hy sinh, mất mát. Mà sự mất mát, hy sinh ấy lớn lắm. Con cứ nghĩ, nếu như chúng ta thắp cho mỗi người ngã xuống ngoài chiến trường một ngọn nến thì cả nước Đại Việt này sẽ luôn luôn bừng sáng từ Bắc vào Nam. Nhờ có cái chết của Bờ với rất, rất nhiều người khác nữa, đất nước mình mới có độc lập như ngày hôm nay.
Nói ra điều này là nói thật lòng mà sao Trần Nguyên Hãn vẫn cảm thấy nhạt nhẽo, vô duyên trước nỗi đau không gì bù đắp nổi của bố mẹ Bờ. Ngồi lặng đi một lúc khá lâu, Trần Nguyên Hãn mới nói:
- Ông ơi, hôm nay con đến thăm sức khỏe ông bà, thấy ông bà còn được thế này là con mừng rồi, chứ như ông bà vãi cháu Khoản nhà con thì con buồn quá!
- Hồi hai cụ bên nhà về với tổ tiên tôi có sang cúng tam nhật, tứ cửu cho các cụ cả đấy.
- Con cám ơn ông! Độ này ông có còn đi cúng làm phúc nữa không?
- Tôi già yếu rồi, trừ những nơi nào không chối được mới đi.
- Vậy thì con muốn nhờ ông giúp con một việc.
- Việc gì hả bác? Nếu làm được, tôi cố hết sức.
- Chả là con muốn tổ chức một lễ cầu siêu…
- Làm lễ cầu siêu ư?
- Vâng! Làm lễ cầu siêu để tưởng nhớ đến các anh em đã hy sinh trong chiến đấu, con nghĩ là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối với anh linh các liệt sĩ và đồng bào tử nạn. Đây còn là một việc làm thể hiện tinh thần, đạo lý uống nước nhớ nguồn và đạo lý tri ân, báo ân của dân tộc Đại Việt. Mà không chỉ tưởng niệm, cầu nguyện cho hương linh các liệt sĩ được siêu sinh tịnh độ, buổi lễ còn cầu nguyện cho quốc thái dân an và các gia đình thân nhân liệt sĩ được an lành, hạnh phúc.
- Nếu bác đứng ra tổ chức được thì hay quá. Thế bác định làm ở đâu?
- Tại miếu Trúc trên Rừng Thần. Được không ạ?
Cho đến tận bây giờ Trần Nguyên Hãn vẫn chưa hiểu tại sao khu đồi gò ấy lại được gọi là Rừng Thần. Chỉ biết rằng ngay từ thời còn nhỏ, Hãn đã được thầy giáo Nguyễn Thái An kể cho các trò nghe là, trong Rừng Thần có một ngôi miếu, dân làng gọi là miếu Trúc. Miếu Trúc thờ thần Hổ. Ngày xưa, khi chưa có tên nơi đó là một khu rừng rất rậm rạp. Sống trong khu rừng này có một con hổ dữ. Hằng năm cứ đến mùa thu hoạch hổ dữ lại mò về Đa Cai, ngoài phá khách hoa màu nó còn, khi thì bắt trâu bò, khi thì vồ chó của bà con. Mặc dù dân làng đã bảo nhau, cùng nhau tìm mọi cách đề phòng mà vẫn không tài nào ngăn cản được sự phá hoại, gây nên biết bao thiệt hại chỉ vì một con hổ!
Thế rồi một hôm, thôn Đa Cai có một cụ già trong giấc ngủ đã mơ thấy một ông già. Ông già này có mái đầu bạc, chòm râu bạc. Tay ông già chống một chiếc gậy trúc. Mình ông già khoác chiếc áo bằng lông hổ. Ông già này bảo cụ già thôn Đa Cai rằng: Đa Cai phải lập đền thờ thần Hổ thì dân làng mới làm ăn yên ổn và phát đạt. Dứt lời, ông già biến mất!
Hôm sau, cụ già liền kể lại chuyện mình gặp trong mơ với các vị kỳ mục, quan viên trong làng. Tuy còn bán tín, bán nghi nhưng các vị vẫn dắt nhau đi về nơi có khu rừng rậm. Quả thật, các cụ đều mục sở thị nơi cửa rừng có một bãi cỏ bị rất nhiều dấu chân hổ dẫm nát. Sau đó ít lâu, các vị quan viên, kỳ mục thôn Đa Cai họp với các bô lão để cùng nhau bàn việc đóng góp xây một ngôi miếu thờ thần Hổ. Đó chính là miếu Trúc.
Từ ngày miếu Trúc được xây để thờ thần Hổ, thật là lạ lùng, con hổ dữ không về phá hoại mùa màng, vồ bắt gia súc nữa, đồng thời cũng từ đấy lại có nhiều câu chuyện ứng nghiệm về việc thần Hổ giúp đỡ dân làng. Ví như chuyện có một ông là dân Đa Cai lên rừng tìm kiếm lâm lộc không may bị lên cơn sốt rét và phải nằm lại trong một hang đá. Cơn sốt đột ngột làm ông ta mê man, liên miên không còn hay biết gì nữa. Đến khi tỉnh lại ông thấy mình đã được phủ kín bởi một lớp chăn toàn bằng lá rừng! Và một con hổ! Con hổ to bằng con bê nằm ngay ngoài cửa hang. Ông sợ quá, nằm im không dám cựa quậy. Con hổ vươn mình đứng dậy, đi đến bên ông ta. Nó ngửi ngửi lên khắp người, khắp mặt ông. Ông đang nghĩ phen này chắc là mình sẽ bị hổ dữ ăn thịt thì không ngờ con hổ lại quay đầu đi khỏi cửa hang. Ông còn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi vòng kiểm soát của hổ thì thật bất ngờ, con hổ lại càm từ đâu đó về một cái đùi nai. Để đùi nai lại cho ông rồi hổ chạy biến vào rừng. Chờ một lúc lâu sau không thấy hổ quay lại, ông mới yên tâm ngồi dậy, đốt lửa, nướng thịt nai. Qua hai ngày phải nhịn đói vì cơn sốt hành hạ, nay bệnh đã khỏi hẳn, lại có thịt nai nướng thơm lừng nên ông ăn uống thật ngon lành. Sức khỏe của ông bình phục rất nhanh. Chờ trời sáng hẳn, ông vội vã ra về. Ông kể lại chuyện được hổ cứu giúp cho vợ con nghe. Sau đó gia đình ông sửa soạn một lễ đem lên miếu Trúc để tạ ơn thần Hổ.
Lại một chuyện khác nữa. Thôn Đa Cai có một cậu con trai con ông phú hộ. Cậu này còn trẻ, tính tình nghịch ngợm. Một hôm sau mấy trận đánh khăng, đánh đáo ở ngoài bãi xong, lúc trở về qua khu rừng sau miếu Trúc, cậu ta liền chui vào những hàng cây, len lỏi rình bắt chim. Đi được một đoạn, đến bên một bụi rậm, cậu ta bỗng nghe thấy nhiều tiếng động sột soạt. Vạch lá tìm kiếm một lúc thì cậu trông thấy 4, 5 con vật nhìn rất giống con mèo. Con nào cũng có bộ lông màu vàng, có vằn đen, rất đẹp. Thích quá, cậu ta không đi tìm chim nữa mà bắt ngay hai con “mèo” đem về nhà. Không nói lại chuyện này với ai, cậu đem giấu “mèo” vào một chỗ thật kín. Đêm hôm đó, những người dân ở gần miếu Trúc hầu như ai cũng nghe thấy tiếng hổ gầm. Và, cũng đêm hôm đó, con trai ông phú hộ bỗng nhiên phát cơn ốm nặng! Sáng sơm hôm sau, ông phú hộ phải đón thầy lang đến tận nhà chữa bệnh cho con. Vừa mới đến cổng làng, thầy lang nhìn thấy trên mặt đất có rất nhiều dấu chân hổ. Hai người hốt hoảng chạy vào nhà, cùng lúc đó vợ phú ông báo cho chồng biết, dưới chuồng chó có hai con “mèo” đang bị nhốt! Nhìn hai con hổ con đang bị đói lả, phú ông biết ngay nguyên do sự việc. Ông cho người đem hổ con thả về rừng và sai người nhà giết lợn, bày cỗ đưa lên miếu Trúc làm lễ tạ. Công việc xong xuôi, không cần uống thuốc thang gì, con trai phú ông cũng khỏi bệnh.
Những chuyện mang sắc màu liêu trai đại loại như thế, không rõ thực hư ra sao nhưng tự trong tâm mỗi người dân Đa Cai ai cũng tin miếu Trúc thờ thần Hổ là một chốn linh thiêng. Với Trần Nguyên Hãn, ngay từ thủa tóc còn để chỏm, được thầy Nguyễn Thái An kể cho nghe, chính chàng cũng hoang mang. Lớn lên, qua nhiều trải nghiệm từ việc vợ chồng bà Lê Thị Hoàn đi cầu con ở chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo, rồi được Giao Long phủ ở bến Đông Hồ, ông Trời cho Tiên đồng giáng thế xuống làm con nên mới sinh ra Trần Nguyên Hãn, rồi chàng được báo mộng đi theo Lê Lợi ở đền Bạch Hạc đến chuyện nàng Thị Duy hóa thành con cáo cứu chàng thoát khỏi vòng vây của giặc Minh, chuyện áo May giúp chàng tránh được những lưỡi gươm của tướng Nhậm Năng trong trận giao chiến ở Tân Bình - Thuận Hóa… Tuy không lý giải nổi tại sao như vậy nhưng các câu chuyện ấy đã buộc chàng không thể vô tâm. Trần Nguyên Hãn muốn làm lễ cầu siêu cho mọi người đã khuất và lại muốn tổ chức ngay tại miếu Trúc là xuất phát từ một tấm lòng, một niềm tin vào đấng hư vô, người trần mắt thịt thấu tỏ làm sao được!
Sau giây lát đắn đo, cân nhắc, ông Nguyễn Văn Bụi gật đầu:
- Được! Ở đấy thì được. Nhưng tôi tưởng, lễ cầu siêu thì phải đón thầy sư về tụng, chứ tôi…
- Không sao đâu ông ơi! Miễn là ông biết tụng và miễn là mình lòng thành thì việc mình làm đều đạt kết quả như sư thầy làm thôi ông ạ.
Được ông Nguyễn Văn Bụi đồng ý nhận làm lễ cầu siêu, Trần Nguyên Hãn tìm đến thầy Nguyễn Thái An, nhờ thầy xem nên làm vào ngày nào.
Nhà cụ đồ vẫn ở chỗ cũ. Mười mấy năm qua đi, ngoài mái nhà mòn cũ hơn, mấy cánh dại trước hiên ọp ẹp hơn, còn lại cảnh trí vẫn như hồi Hãn theo học. Thầy An gọi Hãn bằng anh, xưng thầy, chứ không gọi là trò như ngày xưa nữa. Biết Hãn muốn nhờ thầy xem ngày để làm lễ cầu siêu, thầy mừng lắm. Thầy khen Hãn là người có hiếu, có chung. Phải là người có cái tâm, cái tình ấy mới nghĩ đến chuyện đó. Thầy bảo:
- Nếu vậy anh nên làm vào ngày rằm tháng Bảy, ngày Vu lan báo hiếu là thuận ý, thuận tình nhất. Anh biết sự tích cùng ý nghĩa của lễ Vu lan là thế nào chưa?
- Thưa thầy, thật tình là con có nghe nói nhưng hiểu cặn kẽ thì chưa. Thầy tính, con đi đánh giặc liên miên làm gì có cơ hội để tìm hiểu ạ.
- Vậy thì thầy kể để anh nghe nhé. Ngày xưa có ông Mục Kiền Liên là một đệ tử lớn của đức Phật. Sau khi đạt chính quả A la hán, ông dùng thiên nhãn để quan sát khắp các cõi sống thì thấy mẹ mình đang bị nạn đói khát giày vò trong cõi quỷ đói. Ông Mục Kiền Liên liền cầm bát cơm xuống cõi quỷ, đưa cho mẹ. Bà mẹ cầm bát cơm vừa đưa lên miệng thì cơm bỗng hóa thành than hồng cháy đỏ. Mục Kiền Liên không biết làm sao được, ông trở về xin đức Phật ra tay cứu giúp.
Đức Phật bảo rằng: “ Mẹ ông lúc sống xan tham, keo kiệt nên mới phải chịu khổ báo là quỷ đói. Một mình ông không thể cứu nổi đâu. Nhân ngày rằm tháng Bảy, ông phải cúng dường đức Phật và chúng thánh tăng mười phương, rồi nhờ vào sức mạnh chú nguyện của đức Phật và chúng tăng mười phương thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được.
Làm theo lời Phật dạy, đến rằm tháng bảy là ngày tự tứ ra hạ của chư tăng đem thức ăn, đèn, sáp, hương, hoa đặt vào chậu lớn, cúng dường trại tăng. Mẹ của Mục Kiền Liên nương nhờ vào uy lực của giới đức và phúc đức chư tăng và cũng nương nhờ vào công đức bố thí mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói.
Sau đấy, Phật Thích ca nói với Mục Kiền Liên là: Làm người Phật tử có đức hiếu thuận là phải thường xuyên ghi lòng tạc dạ công ơn cha mẹ đời này cho đến cha mẹ bảy đời. Mỗi năm đến rằm tháng bảy phải làm lễ Vu lan cúng dường Phật và chúng Tăng để báo ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, cầu cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi và sau khi mạng chung thì được sinh vào cõi an lành.
Vu lan là dịp lễ vô cùng cao đẹp của Phật giáo nói riêng và là ngày lễ hội báo hiếu nói chung của mọi người con hiếu thảo trên thế gian này. Dù là người nghèo khổ hay bậc quyền cao chức trọng thì điểm gặp gỡ vẫn là tinh thần báo hiếu trong nhiệt huyết con tim mỗi người. Từ khi Phật giáo truyền vào nước ta, mùa Vu lan không còn đơn thuần mang ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành “Lễ hội văn hóa tình người”. Hiếu kính cha mẹ, phụng thờ tổ tiên, ông bà, nối kết ân tình nghĩa cảm giữa người còn kẻ mất là truyền thống cao đẹp trong dòng chảy văn hóa tình người của dân tộc. Ngoài giá trị tư tưởng về mặt tôn giáo, ý nghĩa xã hội của lễ Vu lan rõ rệt nhất là nền tảng đạo đức xây dựng một đời sống gia đình phát triển lành mạnh trong môi trường kỷ cương và văn hóa. Đồng thời, mùa Vu lan còn giáo dục đạo lý truyền thống, là dịp tưởng nhớ về nguồn cội, các bậc thiền sư tài đức, các vị anh hùng đã có công lao to lớn với đất nước trong lịch sử dân tộc, giúp mọi người nâng cao ý thức và đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn các thế hệ cha ông và các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh xương máu cho quê hương, đất nước được an bình, cuộc sống mọi người được ấm no, hạnh phúc. Vì những ý nghĩa ấy, nếu anh định làm lễ cầu siêu cho các anh em hy sinh trong cuộc chiến tranh chống giặc Minh vừa qua thầy thấy là việc làm tốt và cần thiết lắm, thầy đồng tình với anh.
Vui vì được thầy đồng tình về việc làm lễ cầu siêu, càng vui hơn khi những suy nghĩ của mình lại trùng hợp với những điều thầy vừa mới nói, Trần Nguyên Hãn mạnh dạn bày tỏ thêm những dự định với người thầy giáo già:
- Thưa thầy. Mới hồi hương chưa được bao lâu nhưng qua hỏi chuyện con biết là, trong thời gian con đi xa, sống dưới chế độ hà khắc của giặc Minh, làng quê ta đã phải xóa bỏ mất khá nhiều phong tập, tập quán tốt đẹp. Từ lễ Vu lan như thầy vừa nói đến các lễ hội thi nấu cơm, đánh phết đều không còn. Nay đất nước đã bình yên, ý con muốn tới đây phải cho dân làng mình khôi phục lại. Không chỉ chú ý đến văn hóa tinh thần mà còn phải tụ hội bà con lại hướng dẫn cho mọi người biết làm sống lại nghề gốm cổ truyền ở Đa Cai, rồi cấy lúa, trồng ngô khoai trên đồng, thả cá trong ao, nuôi lợn gà trong chuồng. Rồi thu hái quả dọc trên rừng về ép dầu. Rồi đóng thuyền bè ngược sông Lô, sông Phó Đáy để giao thương buôn bán đồ gốm và các thứ nông sản. Có làm được vậy thì đời sống người dân mới được cải thiện dần, phải không thưa thầy?
- Anh nghĩ phải lắm. Có điều chúng tôi già cả rồi. Cái đầu nghĩ được nhưng cái chân, cái tay không còn làm được. May mà có anh trở về, chúng tôi đặt niềm tin ở nơi anh. Không ở lại triều đình là tôi biết cái cốt cách của anh khác với đời thường nhiều lắm. Nói thật là, thầy rất mừng. Bởi quyền lực là thứ làm cho con người ta hư hỏng nhanh nhất. Lịch sử đã chứng minh, trong chiến tranh giữ nước, giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, người ta sẵn sàng quên đi tất cả từ hận thù cá nhân đến quyền lợi của dòng tộc để mà tập hợp lực lượng, chiến đấu giành thắng lợi. Nhưng trong hòa bình, các bậc minh quân rất bị sự hấp dẫn của quyền lực, lại thêm bọn xu thời xiểm nịnh mà sinh ra nghi kỵ, bất công, từ đó chia bè cánh, tàn sát lẫn nhau, dẫn đến đất nước suy vong. Anh khuất quy hưu về với dân làng, mong làm giàu cho Đa Cai, thú thật thầy không còn cái mừng nào mừng hơn.
Trời ơi! Sao thầy Nguyễn Thái An lại như người “đang đi guốc trong bụng” Hãn thế này. Thì ra, lúc nào thầy cũng hiểu Hãn, từ thủa ấu thơ cho đến tận bây giờ. Hãn phải sống sao cho xứng với lòng tin của thầy?
Chào thầy, Trần Nguyên Hãn ra về với rất nhiều dự định, trước mắt là chuẩn bị cho lễ cầu siêu.
Cứ tưởng làm Lễ cầu siêu chỉ cần cái tâm của mình thành kính và trong sáng, còn về hình thức thì đơn giản thế nào cũng xong nhưng khi đưa ra cho các bô lão trong làng bàn, các cụ lại hiến rất nhiều kế hay. Các cụ bảo, phải xây chùa trên Rừng Thần. Chưa xây được thì phải dựng lán. Công sức, tranh tre, nứa, lá các cụ sẽ huy động bà con tham gia đóng góp. Và, nhất thiết phải đón thầy sư trụ trì trên chùa Tây Thiên về tụng niệm. Thực hiện ý định phải tổ chức Lễ cầu siêu cho đàng hoàng, chu đáo, đúng bài bản của dân làng, Trần Nguyên Hãn nhận trọng trách lên Tam Đảo tìm, mời thầy sư về Đa Cai.
Không biết đây có phải là sư thầy Thích Thiện Tâm đã làm lễ cầu con cho vợ chồng Trần Nguyên Án từ năm nào hay không mà khi ngồi đối diện với thầy, Trần Nguyên Hãn cứ có cái cảm giác ấy. Nghĩ rằng đây là một cơ hội để tìm hiểu về Phật giáo nên dưới mái tam quan, bên cây ngâu chúm chím nở hoa vàng thơm ngát, Trần Nguyên Hãn ngồi nhấm nháp chén trà sen với sư thầy và hỏi:
- Bạch thầy! Là người trụ trì nơi đây đã lâu, nếu có thể xin thầy cho phật tử tôi biết về sự ra đời của giáo phái Trúc Lâm ở nước mình không  ạ?
Dù hơn Hãn phải đến mấy chục tuổi nhưng sư thầy vẫn gọi chàng là thí chủ và thưa gửi như bạn bè bằng hữu:
- Mô Phật! Thí chủ ơi! Theo như tôi được biết thì sự ra đời của Giáo phái Trúc Lâm của Đại Việt được đánh dấu bằng việc vua Trần Nhân Tông xuất gia đi tu trên núi Yên Tử vào năm Kỷ Dậu, cách nay trên hai trăm năm. Từ một vị vua, Trần Nhân Tông trở thành Trúc Lâm đệ nhất tổ là điều đáng để chúng ta phải nghĩ ngẫm lắm đấy ạ.
- Bạch thầy! Thuyết lý của Trúc Lâm Yên Tử ra sao ạ?
- Mô Phật! Thuyết lý mà Trần Nhân Tông sáng lập không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, mà sống, tu đạo và hành đạo theo cách “hòa lẫn thói thường chứ không làm trái hẳn với đời”. Giáo lý luôn đề cao nhân nghĩa, giáo dục lòng nhân đạo, khuyên các tín đồ phải sống thật thà, không phân biệt giàu sang nhưng khuyên nhủ người giàu phải yêu thương kẻ khó. Giáo lý phản đối việc theo đuổi dục vọng vật chất tầm thường. Giáo lý yêu cầu Phật tử phải tự soi xét cái tâm của mình để diệt trừ mọi dục niệm mà tiến lên thành Phật, thành một người có ích cho quốc gia, xã tắc.
Trần Nguyên Hãn lại hỏi về thế đất đặt chùa, sư thầy bảo:
- Mô Phật! Chọn đất dựng chùa chẳng phải chỉ để hướng về cõi hư vô, mà còn hướng về sinh sôi phát triển. Bên trái chùa phải trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ bao bọc. Bên phải cao dày, hình hoa sen. Trước mặt có minh đường hay không có minh đường đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề. Thế là đất tốt. Về nguyên tắc chung là vậy còn vận dụng ra sao cũng còn tùy vào từng hoàn cảnh. Có điều, chùa không nên đặt gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian. Vì gần thì ồn ào, mà xa thì không ai giúp đỡ.
Liên hệ với những điều sư thầy nói, Trần Nguyên Hãn thấy Rừng Thần quả là nơi hội đủ những điều kiện để dựng một ngôi chùa. Chàng lại hỏi thầy về những biểu tượng thiêng liêng của Phật giáo. Sư thầy Thích Thiện Tâm giảng giải:
- Mô Phật! Biểu tượng thiêng liêng Phật giáo trước hết là những pho tượng đặt thờ trong chùa. Nơi thí chủ chưa xây được chùa nên chưa có tượng, vì vậy hôm làm Lễ cầu siêu chỉ cần treo một bức tranh Quan thế âm bồ tát. Thế là đời, âm là tiếng kêu, bồ tát là vị Phật - Vị Phật thấu hiểu mọi tiếng kêu rên của chúng sinh. Quan thế âm bồ tát có quyền lực rất lớn và là người có nhiều phép lạ kỳ diệu lắm ạ.
Tháng Bảy âm lịch đến trong tiết trời se lạnh. gió thổi lao xao, rì rào suốt ngày qua các lùm cây. Mây trắng bay ngổn ngang trên bầu trời xanh cao vời vợi. Lá vàng rụng bời bời, trải đầy trên các lối đi. Nhìn cảnh ấy lòng người bỗng trở nên buồn hiu hắt, một nỗi nhớ nhung vô cớ cứ bâng khuâng, man mác. Trước rằm mấy hôm, trời lại đổ mưa. Những cơn mưa ngâu bất chợt đến, bất chợt đi càng làm cho con người ta thêm nhung nhớ về những gì đã mất!
Rồi rằm tháng Bảy tới, đồng nghĩa với Lễ Vu lan tới. Đúng như dự định, trên Rừng Thần, gần Miếu Trúc, bà con thôn Đa Cai đang chuẩn bị tổ chức Lễ cầu siêu. Dưới mái nhà tranh mới được dân làng góp công, góp của dựng lên rộng mênh mông là vậy mà bây giờ đã chật cứng những người là người. Đó là những ưu bà ni, ưu bà tắc - Những người đàn bà, đàn ông không xuất gia tu hành nhưng đã nghe Phật thuyết pháp; Là những nam thanh nữ tú, là những trẻ em chín, mười tuổi… Tất cả đứng xúm xít vây quanh bức tranh tượng Quan thế âm bồ tát. Mọi người im lặng dõi theo từng động tác của sư thầy Thích Thiện Tâm.
Dưới ánh đèn nến lung linh, sư thầy Thích Thiện Tâm hướng dẫn thầy Nguyễn Thái An, ông Nguyễn Văn Bụi, Trần Nguyên Hãn cùng nhiều người nữa làm lễ dâng hương ở chùa, dâng hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu trước bàn lễ Phật. Đang hành lễ thì trời đổ mưa. Mưa sầm sập như trút nước. Và gió nổi đùng đùng. Mái lá rung lên bần bật… Đám đông nhốn nháo. Cứ đà này buổi lễ khó mà thực hiện được trọn vẹn. Trước bàn thờ Quan thế âm bồ tát, sư thầy chắp tay phát tâm xin tạnh mưa. Thật kỳ lạ, cơn mưa nhỏ dần, sau đó thì ngớt hẳn. Gió cũng yếu dần, rồi ngưng hẳn. Nắng hửng lên. Buổi hành lễ lại tiếp tục.
Khi sư thầy Thích Thiện Tâm đọc kinh, kỳ lạ quá, cây đề bên ngoài chùa xum xuê cành lá cứ rung rung và nghiêng dần về một phía, rồi bật gốc đổ rầm xuống trước sự ngạc nhiên, lo lắng của bao nhiêu người. Để mọi người yên tâm, sư thầy nói:
- Mô Phật! Xin các phật tử đừng sợ hãi. Đấy là tín hiệu cho thấy có hàng ngàn, hàng vạn vong hồn về dự lễ. Như thế có nghĩa rằng, anh linh những người đã khuất vẫn tồn tại, sẵn sàng lắng nghe và thấu tỏ tấm lòng người sống.
Tất cả lại im lặng, lắng nghe lời sư thầy cầu nguyện. Giọng thầy trầm trầm vang lên cùng tiếng mõ gõ điểm nhịp đều đều:
- Chúng con thành tâm cầu siêu cho vong linh cửu huyền thất tổ, cha mẹ, tổ tiên, thân bằng quyến thuộc nhiều đời, nhiều kiếp.
Những vong linh liên hệ và không liên hệ đến chúng con
Những vong linh chúng con đã lỡ gây hại, sát hại trong quá khứ
Cùng những vong linh mất trong chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, và vì mọi lý do chưa được vãng sinh
Chúng con thành tâm cầu nguyện xin tha thực từ bi của mười phương chư Phật, chư Bồ tát, Đức từ phụ A Di Đà Phật, Đức Mẹ Quan thế âm bồ tát, Đức Đại Nguyện địa tạng vương Bồ tát, cùng chư vị giúp đỡ để các vong linh được tiếp dẫn về nơi an lạc, siêu sinh tịnh độ.
Chắp tay trước ngực, sư thầy lạy một lạy. Mọi người không ai bảo ai, đều làm theo. Sư thầy Thích Thiện Tâm lại đọc tiếp:
- Chúng con xin hồi hướng, chia xẻ công đức đến cha mẹ, thân nhân, đến chư Thiên, chư Thần, chư Thánh, chư Hộ Pháp và chư vị đã giúp đỡ cho chúng con, đến những vong linh mà chúng con lỡ gây hại, sát hại, cùng tất cả các vong linh chưa được vãng sinh và pháp giới chúng sinh.
Chúng con nguyện dâng lòng thành kính tri ân, quy y Tam bảo, cầu xin Chư vị Phật mười phương, chư Bồ tát, Đức từ phụ A Di Đà Phật, Đức mẹ Quan thế âm bồ tát từ bi gia hộ để chúng con và chúng sinh đồng được duyên lành tu học thoát khỏi sinh tử luân hồi, trên tri ân chư Phật, dưới cứu hộ chúng sinh. Chúng con đồng lòng xin nguyện được vãng sinh về Cực Lạc Quốc!
Sư thầy chắp tay lạy thật chậm rãi, ba lạy. Giữ tâm chí thành, chí kính, Trần Nguyên Hãn cùng mọi người lạy theo.
Buổi Lễ cầu siêu kết thúc. Bão tan. Mưa tạnh. Nắng bừng lên vàng ươm và trong suốt như thủy tinh. Trần Nguyên Hãn cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm, thanh thản như người ta vừa được trút đi một gánh nặng. Quá khứ chẳng bao giờ mất nhưng tâm linh được giải tỏa, từ nay chàng sẽ cùng dân làng bước sang một cuộc sống khác, với biết bao mơ ước tốt đẹp cho tương lai.
25.
Trần Nguyên Hãn trở về quê hương được vua Lê Thái tổ phong cho 100 mẫu ruộng làm thực ấp nhưng Lê Thị Tuyển nhắc đến lần thứ ba chàng mới tổ chức thực hiện cái công việc gọi là “quan điền” ấy. Hai lần trước, Trần Nguyên Hãn nói với vợ: “Khi đương chức, ta vốn là người không ham chức tước, tiền bạc. Nếu ham, ta đã lắm tiền, nhiều của từ trận hạ thành Xương Giang, bởi trong trận ấy nghĩa quân thu bao nhiêu là ngọc lụa, vàng bạc, châu báu nhưng ta không lấy thứ gì mà đem chia cho quân lính cả. Xưa khổ thế ta vẫn giữ gìn được phong cách liêm chính, thanh cao của cha ông, nay nghỉ hưu, ta cần gì một trăm mẫu ruộng đó nữa mà nhận?” Vợ chàng tính toán thực tế hơn, nàng bảo: “Mười năm chàng đi xa được làm quan tới chức Tư đồ, Thái úy, vậy mà thiếp ở nhà vẫn một sương hai nắng, cày sâu, cuốc bẫm nuôi con, có khi nào thiếp kêu ca, đòi hỏi gì ở chàng đâu! Bây giờ chàng về, nhân có lộc vua ban, thiếp nghĩ chúng mình nên sửa lại ngôi nhà tranh dột nát này để lấy nơi thờ cha mẹ”... Phần thương vợ con, phần nghĩ nàng bàn cũng phải, Trần Nguyên Hãn quyết định đi nhận ruộng.
Theo quy định của nhà vua, Trần Nguyên Hãn được đi ngựa một ngày để nhận đủ 100 mẫu ruộng. Ngựa đi tới đâu thì những thửa ruộng nằm ở bên tay trái đều thuộc về chàng cả. Biết vậy, nhưng vì tính không tham lam nên Trần Nguyên Hãn cứ nhẩn nha uống nước, hút thuốc mãi, đợi đến lúc mặt trời lên cao đến con sào chàng mới cùng mấy người tùy tùng rời khỏi Đa Cai.
Qua cổng làng có hai lối rẽ: Rẽ trái là trục đường chính, qua Gò Dê. Rẽ phải là trục đường phụ, qua Nam Sơn Bình lên Xuân Lôi. Trần Nguyên Hãn chọn trục đường phụ, đường gập ghềnh, ngựa khó đi hơn.
Mới nửa buổi, nắng sớm tưng bừng trải mênh mông trên những vạt đồi cây cối xanh um và gió hây hẩy thổi, đuổi nhau dào dạt trên những thửa ruộng bậc thang, lúa mùa bén rễ đang lên xanh ngan ngát. Có tiếng chim cu gáy đâu đó trên rặng tre đồi, nghe ấm áp và bình yên quá.
Gần trưa, Trần Nguyên Hãn và mấy người tùy tùng đang lững thững đi trên con đường mòn bỗng phải cho ngựa dừng lại, bởi từ dưới cánh đồng lúa xanh mơn mởn có tiếng hát ví của một người nào đó cất lên cao vút: “Tay cầm bán nguyệt xênh xang - Muôn vàn ngọn cỏ lai hàng tay ta”. Tưởng ai, hóa ra đấy là giọng hát của một cô gái đang cắt cỏ trên đồng. Bất ngờ quá! Sao ở vùng sơn cước này lại có một người con gái nhan sắc thế kia? Nước da nàng trắng, mái tóc nàng vừa đen, vừa dài, đôi mắt nàng long lanh tình tứ, và đặc biệt, nàng có giọng hát hay quá, vừa cao, vừa trong thật hiếm thấy ở vùng quê heo hút này!
Trong số tùy tùng có một người ghé tai nói cho Trần Nguyên Hãn  biết, cô gái này đã từng có người làm thơ vịnh về nàng. Thơ rằng: “Sắc tài, hai chữ kém chi ai - Gót ngọc nhởn nhơ chốn bảo đài - Mày liễu sương pha không có nhuộm - Má đào tuyết mộ vẫn còn tươi - Nghìn năm, hương khói ơn giời thỏa - Một dải trung trinh cõi đất dài - Nay đất Xuân Lôi là đất cũ - Sắc tài, hai chữ kém chi ai”. Cô gái ấy có tên là Nguyễn Thị Ngọc Lãng, dân làng vẫn yêu mến, quen gọi nàng là “ chúa Lối”.
Chúa Lối từ dưới bờ ruộng bước lên, thoáng nhìn nàng cũng đoán được người cưỡi ngựa đang đứng trước mặt nàng là một trang hào kiệt. Sau khi nghe giới thiệu, nàng lễ phép cúi người kính cẩn chào và nói:
- Thì ra Tả tướng quốc là chàng ư? Chuyện về chàng em đã được nghe. Thiên hạ vẫn khen chàng là người hữu học thức, tinh binh pháp. Thật là vinh hạnh hôm nay em mới được gặp.
- Thiên hạ khen đấy là chuyện của ngày hôm qua. Còn hôm nay ta chỉ là một nông phu như tất cả mọi người. Nhà nàng ở gần đây không?
Ngọc Lãng chỉ tay về phía cuối cánh đồng nhỏ hẹp, chạy ôm quanh mấy quả đồi, mời:
- Trời cũng sắp trưa rồi. Nếu không chê xa, nhất là không chê nhà em nghèo, em xin mời chàng và mọi người về nhà em chơi.
Chưa biết là ngựa đi đã được mấy mẫu ruộng nhưng trước lời mời của cô gái xinh đẹp, dịu dàng, Trần Nguyên Hãn không nỡ từ chối, chàng vui vẻ nhận lời.
Nhà Ngọc Lãng ở dưới chân đồi. Sáng nay bố mẹ nàng đi vắng, chỉ còn một mình nàng ở nhà. Nàng kính mời Trần Nguyên Hãn và mấy người cùng đi với chàng vào nhà nghỉ chân. Chú ngựa được buộc dưới bới tre, thoải mái ăn cỏ do nàng vừa cắt đem về.
Trần Nguyên Hãn uống chưa nhạt một ấm trà thì từ dưới bếp, Ngọc Lãng bưng lên một mâm cơm. Lại không nỡ chối từ lời mời nhiệt tình và chân thành của người con gái dẫu mới gặp nhưng về tình cảm thì dường như quen biết đã lâu nên Trần Nguyên Hãn bảo mấy người cùng ngồi uống chén rượu cho vui!
Ngọc Lãng vừa tiếp rượu, vừa thật thà nói:
- Rượu này là rượu được cha em nấu bằng gạo nếp, ủ bằng nem thuốc Bắc, ngon lắm. Rượu nếp mà nhắm với món này thì thật tuyệt. Mà em đố chàng và mọi người biết món này là món gì? - Ngọc Lãng hỏi và chỉ tay vào hai đĩa thức ăn trong mâm. Trần Nguyên Hãn và mấy anh em cùng đoán là món cá nhưng không phải cá luộc, cá kho, cá rán thế thì cá gì mà vừa bùi, vừa thơm, vừa chua chua, đằm đặm? Ngọc Lãng tươi cười bảo - Cá thính đấy. Món này chỉ quê em mới có. Các cụ gọi nó là đặc sản đấy ạ.
- Đặc sản cá thính ư? Nàng có biết làm cá thính không? - Trần Nguyên Hãn sốt sắng hỏi.
- Thưa, em biết chứ ạ.
- Cá thính ngon quá! Nàng hướng dẫn cho ta cách làm với nào.
Không giấu nghề, Ngọc Lãng bảo rằng, muốn làm cá thính người ta phải chuẩn bị mấy thứ:
Về dụng cụ: Phải có một cái chĩnh bằng sành, miệng rộng từ 7 đến 8cm. Một cái chậu sành, thành cao từ 5 đến 7cm. Một cái vại sành đựng được khoảng 10 lít nước. Một cái vại con hoặc một hòn đá đặt lọt được vào cái vại.
Về phụ gia khác: gồm có lá ổi tươi, rơm khô. Cứ 10 cân cá thì cần 2, 3 lạng lá và rơm. Muối ăn thường bằng 1/3 tổng lượng cá. Thính ngô: Ngô chín già, rang thật vàng rồi giã nát thành bột. Cá: Thường dùng cá chép, cá mè, cá diếc, cá rô. Mỗi con từ 2, 3 lạng đến 7, 8 lạng là tốt nhất. Nếu cá lớn phải cắt thành từng khúc, từng mảnh.
Cách làm cá thính đại thể như sau: Cá rửa sạch, bóc bỏ lá khế, mổ bỏ ruột, để ráo nước. Nhét muối bên ngoài và nhồi muối vào trong bụng cá. Xếp cá vào vại. Mỗi lượt cá một lượt muối. Sau đó nén cá lại.
Một tuần sau lấy cá ra. Rũ sạch muối rồi đem trộn cá với thính thật đều. Nhét thính vào bụng cá. Cứ 10 cân cá cần 4 cân bột thính.
Đưa cá vào chĩnh sành. Mỗi lượt cá một lượt thính và lá ổi. Cuối cùng dùng rơm sạch phủ lên, dùng que tre gài chặt, rồi ép chặt rồi úp ngược cả chĩnh cá vào khay nước sạch.
Chĩnh cá này để từ một tháng đến 1, 2 năm thì ăn rất ngon. Cá xiên vào que rồi đem nướng. Nướng bằng than lõi ngô cá càng thơm ngon hơn. Khi nướng, cá chín đều, ngả màu vàng, mùi thơm có dư vị chua chua, ngòn ngọt, khiến người xung quanh mới thấy mùi đã phải ứa nước miếng.
Nghe Ngọc Lãng “phổ biến” xong cách làm cá thính, Trần Nguyên Hãn gật đầu khen “ hay lắm” và chàng nói thêm:
- Đặc sản ẩm thực là những vật phẩm đặc biệt, vừa khác thường, vừa có chất lượng cao. Nó còn có thể là sản vật hoặc là các món ăn, thức uống mà ở nhiều nơi khác cũng có nhưng ở vùng miền được nói đến lại có cách chế biến riêng, có hương vị riêng, không thể lẫn với nơi khác. Mà món ăn thức uống ấy phải ngon, phải phù hợp với khẩu vị của nhiều người, kể cả những người sành ăn, đã từng thưởng thức sản phẩm đó ở những vùng, những miền khác…Ví như món cá thính của nàng đây, là đặc sản của quê hương mình đấy. Nàng phải phổ biến, nhân rộng ra, đem bán cho nơi khác, để tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Ngọc Lãng ngoan ngoãn “vâng, dạ” và nàng lại tiếp tục ra thêm mấy tuần rượu nữa.
Vui vì có rượu ngon, thức nhắm ngon, cái chính là được uống rượu trong một không khí dân dã với những người quê mùa thật thà, chất phác như hạt lúa củ khoai nên Trần Nguyên Hãn không phải đề phòng, giữ gìn ý tứ gì. Trong hơi men ngà ngà, chếnh choáng Trần Nguyên Hãn nâng chén rượu lên “tuyên bố”:  “Ta uống cạn chén này là uống cái tình người với nhau đấy nhá!” Và, chàng uống cạn thật. Rượu làm cho Trần Nguyên Hãn quá vui. Vui hết mình, chàng bỗng muốn chia sẻ nỗi niềm riêng. Trần Nguyên Hãn tâm sự: Những ngày đi đánh giặc Minh, chàng được ở gần tướng Phạm Văn Xảo, một người tài ba, nổi tiếng văn thơ. Nhờ thế, chàng mới biết, ông Đỗ Phủ là nhà thơ mãi bên Trung Hoa có một câu thơ như thế này: “An đắc quảng hạ thiên vạn gian - Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan” Tức là: Mong sao có ngàn vạn ngôi nhà lớn - Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ mặt mày. Chính con người có tấm lòng muốn cứu giúp cho muôn người nghèo khổ ấy cũng lại là người làm ra bài thơ Giang đầu. Tạm dịch nghĩa như sau: Ngày nào cũng thế, hồi triều ôm áo tìm ra đầu sông gán rượu - Uống cho tận say mới về - Nợ rượu chuyện vặt đâu chả có - Chỉ tuổi bảy mươi của con người ta là hiếm xưa nay - Kìa con chuồn chuồn đạp nước - Con bươm bướm đang luồn hoa - Nghĩ thấu lẽ đời lại thấy làm vui - Hà cớ gì phải chạy theo cái danh hão cho bẩn tấm thân. Trần Nguyên Hãn nhấn mạnh: Ý tứ sâu xa của bài thơ là nằm ở hai câu cuối cùng này: “Tế suy vật lý tu hành lạc - Hà dụng phù danh bạn thử thân”. Những người có mặt đều vỗ tay, khen thơ hay quá!
Bữa cơm trưa tuy đạm bạc mà vui. Rượu uống càng về sau càng nồng. Cuộc rượu tàn cũng là lúc đã xế chiều. Bóng nắng đổ dài trên mảnh sân trước cửa. Thế là đã hết “tiêu chuẩn” một ngày cưỡi ngựa đi nhận ruộng. Trần Nguyên Hãn chia tay chúa Lối, cho ngựa quay về Đa Cai trước khi trời tối.
Có người đi cùng làm chứng, Trần Nguyên Hãn có được mấy chục mẫu ruộng. Lê Thị Tuyển bàn với chồng bán đi một nửa để lấy tiền làm nhà. Có tiền rồi, nàng lại bàn: Nếu chàng đồng ý, theo thiếp, chàng nên cho sắp xếp lại trình tự của toàn bộ khu đất này theo một trật tự, nàng cười cười, nói vui, kiểu như Phủ đệ của một vị quan Tướng quốc. Được thế, hẳn tứ thân phụ mẫu ở dưới suối vàng cũng ngậm cười. Thương vợ vì mình mà vất vả mười năm, nay nàng muốn mở mày mở mặt với dân làng, Trần Nguyên Hãn bảo: Tùy nàng. Nàng muốn làm sao cũng được, miễn là có được một nơi trên kín, dưới bền để vừa là nơi ở, vừa là nơi thờ cha mẹ.
 Được chồng giao cho công việc xây dựng, kiến thiết nhà cửa, Lê Thị Tuyển nhờ anh em bên đằng ngoại đến lo liệu, trông nom giúp đỡ. Mấy tháng sau trên mảnh đất do vợ chồng ông Trần Nguyên Án khai phá, nơi mà Trần Nguyên Hãn cất tiếng khóc chào đời đã mọc lên một ngôi nhà xây, mái ngói gọn gàng, đẹp đẽ, khang trang,  nhìn bề ngoài hơn hẳn những mái nhà tranh, vách đất ở Đa Cai. Chỉ có thế thôi mà chàng Phạm Toán mấy lần đi qua, đi lại, lần nào hắn cũng bô bô kêu lên: Trần Nguyên Hãn xây phủ đệ lớn lắm. Cả trang Sơn Đông này không ai có một cơ ngơi to đẹp đến thế!
Phạm Toán cứ thổi phồng lên vậy chứ thực ra cơ ngơi ấy làm sao được gọi là “phủ đệ”! Bởi, phủ là tên gọi tắt của vương phủ, là dinh cơ của các ông hoàng. Còn đệ là nơi cư ngụ của các bà chúa.  Kiểu dáng cổng phủ đệ là biểu hiện vai vế, đẳng cấp, tính cách, tâm hồn của chủ nhân nên phải được xây bằng gạch, cao ráo, rất dày. Rồi cổng tam quan uy nghi, hoành tráng, đầy vẻ quyền quý, uy nghiêm chỉ được xây nơi dinh ông hoàng, bà chúa. Phần phụ trên vòm cổng phải có nhiều họa tiết. Chính giữa gọi là cửa vương phủ. Hai bên tả, hữu thường có hai câu đối bằng chữ Hán, cũng nhằm biểu hiện một thái độ, quan điểm sống của ông chủ. Rồi bên trong phủ đệ phải có bình phong, hồ nước, sân nhà. Nhà có gian chính để thờ tự, gian tiếp khách, phòng sinh hoạt, phòng ngủ, nhà bếp. Theo luật phong thủy trong xây dựng, phủ đệ lại phải có những vườn cây um tùm bao bọc chung quanh. Đối chiếu với những tiêu chuẩn để được gọi là phủ đệ ấy thì ngôi nhà của vợ chồng Trần Nguyên Hãn chỉ được coi là một dinh cơ cư trú mà thôi! Dinh cơ này được thiết kế theo kiểu nhà chữ  “U” thanh thoát, nhẹ nhàng. Cuối chữ U là gian thờ tổ tiên, cha mẹ và phòng khách. Dọc hai bên thành chữ U, bên là nhà ở, bên là nhà bếp. Ở giữa là cái sân được lát bằng gạch. Cũng có cổng nhưng đó là cổng trình bằng đất. Cánh cổng đóng bằng gỗ. Xung quanh cũng có vườn nhưng đấy là vườn cây ăn quả gồm các loại na, nhãn, vải, ổi, hồng xiêm… Để được yên tĩnh, Lê Thị Tuyển bảo thợ xây xung quanh nhà một bức tường. Vin vào cớ đó, Phạm Toán lại nói nống lên, nhà Trần Nguyên Hãn đúng là kín cổng, cao thành!
Không quan tâm đến những lời đồn đại, bàn tán của bàn dân thiên hạ về việc xây dựng nhà cửa của mình, theo phong tục, vợ chồng Trần Nguyên Hãn bảo nhau nhất thiết phải làm Lễ nhập trạch trước khi về nhà mới.
Trước hôm làm Lễ nhập trạch, Lê Thị Tuyển đến tận nhà thầy Nguyễn Thái An nhờ thầy mở sách xem chọn cho giờ tốt, ngày tốt, đến nhà ông Nguyễn Văn Bụi nhờ ông tới làm thầy cúng. Theo ông Bụi chỉ dẫn, đồ lễ cho Lễ nhập trạch gồm nhiều thứ lắm. Ngoài xôi, gà, muối, gạo, nước trắng, rượu trắng còn cần có nào quần áo thần linh, mũ, hia, nào vàng mã, trầu cau, hoa, oản… Trần Nguyễn Hãn bảo vợ, nàng lo được đến đâu hay đến đấy. Có sao nên vậy. Các cụ đã dạy rồi, “ Tâm động quỷ thần chi”. Mình mới nghĩ quỷ thần đã biết. Vậy nên, cốt ở cái tâm mình. Tâm mình mà thành kính, trong sáng thì mọi việc mới tốt. Nói là nói vậy chứ Trần Nguyên Hãn vẫn bảo vợ chuẩn bị một mâm cơm canh thật thịnh soạn, trước để thắp hương ông bà tổ tiên, sau anh em con cháu hưởng lộc. Cùng mấy anh em chú bác bên nhà vợ, Trần Nguyên Hãn còn mời thầy Nguyễn Thái An, ông bà Nguyễn Văn Bụi và bà cụ Mến đến uống rượu, chia vui với vợ chồng chàng.
Phần làm lễ cúng thần linh khi nhập trạch, Trần Nguyên Hãn nhờ ông Bụi khấn giúp, còn  văn khấn cáo yết gia tiên đích thân chàng làm lấy, không phải là không tin ông Bụi mà chàng muốn tự mình làm cái việc tri ân, báo hiếu ấy!
Sau một loạt nghi lễ: Xin nhập vào nhà mới, xin lập bát hương thờ thần linh, xin phép thần linh cho vong linh gia tiên về nơi ở mới này để con cháu thờ phụng do ông Bụi làm, Trần Nguyên Hãn nhóm bếp, đun nước, pha trà dâng thần linh và gia tiên, dâng thanh bảo kiếm đặt lên ban thờ xong, gọi con trai Trần Trung Khoản đến cùng mình đứng trước bàn thờ, đoạn chàng mới trịnh trọng thắp ba nén hương, cắm vào bát nhang, rồi lầm rầm khấn:
Nam mô a di đà Phật!
Kính lạy tổ tiên nội ngoại họ Trần.
Hôm nay là ngày mười sáu, tháng một, năm Canh Tuất
Gia đình chúng con mới dọn đến đây là thôn Đa Cai, trang Sơn Đông…
Chúng con thiết lập linh sàng, sửa biện lễ vật, bày trên bàn thờ, trước linh tọa kính trình các cụ nội ngoại gia tiên: Nhờ hồng phúc tổ tiên, ông bà cha mẹ, chúng con đã tạo lập được ngôi nhà mới. Nhân chọn ngày lành, tháng tốt, thiết lập án thờ, kê giường, nhóm lửa, kính lễ khánh hạ. Cúi xin các cụ, ông bà cùng chư vị hương linh nội ngoại họ Trần, thương xót con cháu, chứng giám lòng thành, giáng phó linh sàng thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì cho chúng con, lộc tài vượng đến, gia đạo hưng vượng, cháu con được bình an, mạnh khỏe, xuất nhập hưởng phần lợi lạc. Anh linh chiếu giám, cảm niệm ơn dày, chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di đà Phật!
Khấn xong, Trần Nguyên Hãn nhắc Trần Trung Khoản cùng mình cúi gập người, vái ba vái dài. Khoản ngượng nghịu làm theo cha, còn Trần Nguyên Hãn lại thấy cay cay ở sống mũi và hai con mắt. Thực tình lúc này chàng thương nhớ song thân quá. Chẳng hiểu ở dưới suối vàng ông bà Trần Nguyên Án có thấu tỏ nỗi niềm của con trai?
Đợi tàn ba tuần hương, Trần Trung Khoản đem hóa vàng ở cuối góc sân xong, Trần Nguyên Hãn mới mời mọi người vào nhà ăn cơm. Mặc dù vợ chồng Trần Nguyên Hãn da diết mời nhưng bà cụ Mến cứ đay đảy một mực từ chối, chỉ đòi ngồi cùng mâm với mẹ thằng cháu Khoản, nên mâm chiếu giữa chỉ có chàng với thầy An, và ông Bụi.
Ông Nguyễn Văn Bụi cầm hai cái chân gà giơ lên, nheo mắt ngắm nghía. Ông gật gù ra chiều tâm đắc lắm. Trần Nguyên Hãn vui vẻ hỏi:
- Thế nào, có phải “trong luồn, ngoài cúi” không ông?
Chỉ vào cái chân gà, ông Bụi bảo:
- Đẹp. Chân tương đối đẹp. Đây này: Da gà mỡ đọng lung linh - Làm chơi, được thật, mặc tình vui chơi. Nhưng bác nên cẩn thân đấy nhé. Vì rằng: Khe chân gà hở tơi bời - Tiền vào rồi cũng phủi rồi tay không - Ba ngón đội lên một chồng - Tốt thì có tốt, phải phòng người trên.
Nghe ông Bụi nói thế, Trần Nguyên Hãn bỗng thừ mặt ra. Không muốn tin nhưng chàng vẫn thoáng liên hệ đến nhà vua Lê Thái tổ. Chả lẽ chàng phải sống đề phòng với Lê Lợi sao? Thầy Nguyễn Thái An ngồi bên liền xua tay:
- Con người ta ai cũng có sao chiếu mệnh cả, tôi thấy chả có liên quan gì đến cái chân gà! Vả lại, các cụ đã dạy, nhân định thắng thiên, đức năng thắng số. Sống, ăn nhau ở cái đức cụ ạ. Nào mời cụ, mời bác, chúng ta uống đi chứ!
Rượu vào, vui chuyện, Trần Nguyên Hãn phô với thầy giáo cũ và bố của bạn, và qua đó chàng muốn tranh thủ thêm ý kiến của hai người về những dự tính của mình. Chàng nói:
- Thầy với ông ạ. Ý tưởng của con là tới đây con sẽ cho khôi phục lại nghề ép dầu dọc gia truyền của cha mẹ con, con cũng sẽ mua thêm một số ngựa…
Ông Nguyễn Văn Bụi vội hỏi cắt ngang:
- Nhà mình neo thế, bác lấy đâu ra người làm?
- Anh em bên ngoại nhà con sẽ làm. Không phải là người ở, cũng không phải là người làm thuê mà kiểu như “gia thần nội thủ”, những người giúp việc là bà con, anh em trong nhà thôi ạ.
Ông Bụi gật đầu, đồng tình:
- Tạo công ăn việc làm cho anh em, thế thì được.
- Cùng với hai việc mà con vừa nói, con sẽ thuê thợ mộc đến xẻ gỗ, đóng thuyền tại nhà, trước mắt có cái để bà con tham gia hội thi bơi chải vào mùa xuân tới, sau là để các trai đinh Đa Cai luyện tập, thi thố tài năng trên sông nước. Có lẽ biết con là người hiểu về binh pháp lại có võ nghệ nên vừa rồi nhiều bậc phụ huynh trong trang Sơn Đông tìm đến nhờ con truyền cho con em họ về Binh thư, về Tứ thư ngũ kinh và các thế võ. Họ bảo, cho các cháu tập võ là để rèn luyện sức khỏe và để bảo vệ đất nước khi cần. Con đang băn khoăn không biết có nên nhận lời hay là thôi?
Ông Nguyễn Văn Bụi nói, nếu bác làm được thì quá tốt. Chúng tôi ủng hộ nhưng chỉ là ủng hộ cái lỗ mồm thôi chứ trên sáu mươi tuổi đầu rồi chả còn mó máy được việc gì nữa đâu. Thầy Nguyễn Thái An vê vê chòm râu bạc trắng, chậm rãi bảo:
- Bác đã “rửa tay gác kiếm”. “Phủ đệ” có rồi. Coi như an cư lạc nghiệp. Nay bác muốn đem tài sức còn lại của mình đóng góp với dân làng, thầy cho là rất phải, là rất quý. Chỉ có điều, từng ấy công việc được mở ra, được tiến hành cùng một thời gian, thầy cứ hình dung nhà bác lúc nào cũng sẽ tấp nập kẻ vào, người ra, nhộn nhịp y như là một cơ sở hoạt động riêng trong vùng - Sắc mặt thầy thoáng hiện nét lo lắng. Thầy hỏi nhỏ - Như thế liệu có thuận không nhỉ? Mà này, bác khất quy hưu nhưng có phải lo giữ gìn hình tích không?
Không thấy Trần Nguyên Hãn trả lời câu hỏi ấy của thầy Nguyễn Thái An. Chả biết có phải tại tiếng nói cười râm ran ở mấy mâm rượu bên cạnh khiến chàng chẳng nghe được thầy hỏi, hay là nghe được mà chàng không nói gì?
26.
Đúng như thầy Nguyễn Thái An hình dung: Từ mấy tháng nay, “phủ đệ” của Trần Nguyên Hãn, bà con vẫn quen mồm gọi thế, cứ rộn ràng, tấp nập suốt ngày, suốt đêm. Đấy là những “gia thần nội chủ” đến giúp Trần Nguyên Hãn làm sống dậy nghề ép dầu dọc gia truyền. Từ quả dọc thành dầu dọc phải qua những mấy công đoạn: Người ta chia nhau tản về mấy vùng quê lân cận tìm hái quả dọc đem về, là công đoạn thứ nhất. Phơi khô, bóc lấy hạt, là công đoạn thứ hai. Giã hạt dọc nhỏ như bột ngô, là công đoạn thứ ba. Đun sôi bột hạt dọc lên đoạn trộn với rơm khô, đóng thành từng bánh, là công đoạn thứ tư. Cuối cùng là ép từng “bánh” bột ấy ra dầu. Có dầu rồi lại phải gánh đi bán tại các chợ quanh vùng. Dầu bán được mới ra đồng tiền... Từng ấy công việc cũng đủ thu hút trên dưới hai chục người làm mỗi ngày. Song hành với lực lượng làm dầu dọc ở trong “phủ đệ”, tại đồn sở được thiết lập để “ứng Minh chi hậu” trên Rừng Thần, là các môn sinh thuộc trang Sơn Đông tìm về học võ, tập đua ngựa, nghe giảng Binh thư, Tứ thư, Ngũ kinh do Trần Nguyên Hãn truyền giáo, cũng có khi chàng mời cả thầy Nguyễn Thái An đến trợ giảng. Khi các môn sinh đến, khi các môn sinh về, nhất là những lúc các môn sinh múa võ, cưỡi ngựa, thôi thì tiếng hô, tiếng hét cứ rậm rịch, vang dậy một vùng rừng núi. Bên cạnh đó, Trần Nguyên Hãn còn thuê một tốp thợ tới đóng thuyền, đóng chải tại nhà. Cánh thợ mộc này cũng góp một phần làm náo động không gian. Họ xẻ gỗ xoèn xoẹt, họ gõ đục chí chát suốt ngày. Để có chải cho các trai tráng luyện tập kịp dự thi hội bơi chải trên sông Lô vào mùa xuân tới, họ phải làm từ lúc rạng sáng đến tối mịt.
Đâu chỉ quan tâm đến công việc của nhà mình, thực hiện dự định như đã nói với thầy Nguyễn Thái An hôm nào, Trần Nguyên Hãn tổ chức họp bàn với các bô lão Đa Cai vận động bà con làm sống lại nghề đan thuyền, nghề làm gốm và tập trung phát triển trồng trọt, chăn nuôi. Nhờ vậy, Đa Cai như cô gái đến tuổi dậy thì, mỗi ngày một khởi sắc, một thay da đổi thịt. Thôn làng như béo đẫy ra trong mùa thu hoạch. Khi rơm lên cây, thóc vào bồ, cũng là những ngày heo may từ phương Bắc tràn về. Vừa mới mùa đông đấy, loanh quanh vỗ con lợn chưa kịp béo thì Tết đã xồng xộc đến sau lưng. Nếu tính từ ngày giặc Minh cuốn cờ về nước, Tết này là năm thứ hai nhân dân Đại Việt nói chung, bà con Đa Cai nói riêng, đón Tết, mừng Xuân trong không khí tưng bừng của người dân có được độc lập, tự do. Đó là mùa Xuân Kỷ Dậu, năm 1429!
Ăn Tết xong đến ra giêng là vào mùa lễ hội mùa xuân. Trong rất nhiều trò chơi, trò diễn của những ngày hội, Trần Nguyên Hãn chọn người tham gia thi bơi chải trên sông Lô.
Gọi là bơi chải trên sông Lô nhưng thực ra đó là thi bơi chải Bạch Hạc. Ngã ba Hạc nằm trên vùng đất hợp lưu của sông Hồng, sông Đà, sông Lô. Nơi đây, từ lâu đã nổi tiếng là vùng sông nước hữu tình, sơn thanh thủy tú. Theo truyền thuyết, tại ngã ba sông Bạch Hạc này, Hai Bà Trưng đã lấy bãi Hạc và bến Tam Giang làm nơi đóng thuyền và huấn luyện quân sĩ. Đến đời nhà Trần, có Trần Nhật Duật là con thứ 6 của vua Trần Thái Tông được giao trấn giữ thành Bạch Hạc. Ông cũng lấy bãi sông Bạch Hạc làm nơi luyện thủy quân, đóng chiến thuyền. Tại đền Tam Giang, năm 1285 Trần Nhật Duật đã tổ chức Hội thề “Giết giặc Thát, báo đền nợ nước, ơn vua”. Ông là một vị tướng kiệt xuất trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông của dân tộc. Nhằm ghi nhớ công ơn của các tướng lĩnh, lễ hội bơi chải ra đời để ghi lại những chiến công thủy chiến lẫy lừng trên sông Hạc. Lễ hội thực sự là một chỗ dựa tinh thần của cư dân vùng sông nước, là dịp để nhân dân nêu cao tinh thần thượng võ dân tộc, luyện tay nghề, bản lĩnh của nghề sông nước, tăng cường rèn luyện thể chất và lòng dũng cảm, đồng thời gửi gắm những khát vọng của cuộc sống. Lễ hội bơi chải truyền thống hầu như năm nào cũng được tổ chức nhưng từ ngày giặc Minh xâm chiếm Đại Việt, xây thành Tam Giang, cách Bạch Hạc không xa, lễ hội vì thế mà không còn nữa. Năm nay, mừng đất nước hòa bình, các bô lão làng Bạch Hạc bàn với dân làng khôi phục lại hội thi bơi chải cho các giáp quanh vùng tham gia thi thố tài năng trên sông nước. Nhờ vậy Trần Nguyên Hãn mới có cơ hội đưa chải của mình từ Đa Cai bên sông Lô về ngã ba Hạc tham dự.
Ngay từ trong năm, Trần Nguyên Hãn đã thuê thợ đến đóng chải. Chải được đóng bằng gỗ chò, sơn đỏ. Chuôi dầm cũng sơn đỏ. Mái giầm sơn trắng. Đầu chải hình chim phượng. Thân chải thót dần hình đuôi tôm, cong ngược. Chải dài khoảng 20, 5 mét, lòng chải chia thành nhiều khoang, chỗ rộng nhất chừng 1, 5 mét. Có chải rồi Trần Nguyên Hãn lại tuyển chọn lấy 36 tay dầm là những trai tráng khỏe mạnh trong làng. Vào cuộc thi, 36 tay giầm này được chia thành 18 cặp, ngồi quỳ một chân xuống mạn trải theo một tư thế thống nhất, tay cầm dầm đúng chiều. Khi bơi, miệng thì phụ họa theo tiếng hò và tay thì phải bơi đúng nhịp hò của người hò mõ cầm chịch! Những hôm Trần Nguyên Hãn mới cho anh em luyện lập ngoài bến Đông Hồ thôi mà không khí đã rộn ràng, náo nức lắm! Bà con kéo ra xem đứng đông chật cứng trên bờ. Tiếng vỗ tay, tiếng hò hét cổ vũ, động viên của mọi người cứ  rộ lên từng đợt như sấm dậy.
Theo lễ tục, lễ hội bơi chải Bạch Hạc mùa xuân này mới chỉ có 4 chải. Mỗi chải sơn một màu chải khác nhau. Chải Tiên Hạc màu xanh; chải Đông Nam màu trắng; chải Thần Chúc màu vàng; chải Đa Cai của Trần Nguyên Hãn màu đỏ. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày: Ngày đầu bơi dạo để kiểm tra chải. Ngày thứ hai các trải đưa kiệu xuống trải bơi ra sông Hồng để đón Thần về. Ngày thứ ba là ngày bơi chính để đọ sức giữa các chải với nhau. Đường bơi bắt đầu từ cửa bến Đình về làng Đức Bác, rồi quay lại đền Tiên Cát. Đến đền Tiên Cát thì các chải ném thẻ chải xuống. Nhận thẻ chải mới, các chải lại khẩn trương bơi về bến Đình. Đương nhiên chải nào đến đích trước tiên là chải ấy giật giải nhất! Quy định chung là vậy còn trên đường đua các đô chải phải kết hợp thật ăn ý mới tạo nên một sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng. 
Trong tiếng trống thúc dục liên hồi và tiếng hò reo náo nhiệt của hàng ngàn người xem đứng trên bờ sông, Trần Nguyên Hãn giữ vai người hò mõ của chải Đa Cai đang gõ từng nhịp mõ dứt khoát và cất giọng hô vang vang để cầm chịch và cổ vũ khích lệ sự hăng hái của các tay bơi. Trên dòng sông trong xanh, theo nhịp bơi ào ạt, các chải vun vút lao lên phía trước để lại phía sau những luồng nước sục sôi, cuồn cuộn. Trời trong xanh. Nắng lấp lóa. Bọt nước tung lên trắng xóa. Trần Nguyên Hãn có cảm giác như mình đang sống lại không khí trong trận vây thành Đông Quan trên sông Nhị năm xưa! Mồ hôi vã ra chảy đầm đìa trên khuôn mặt bừng đỏ của Hãn. Không thấy mệt, chàng chỉ thấy tâm hồn mình phơi phới như đang hòa nhập với không khí vô cùng sôi động, như đang bay lên cùng với thiên nhiên vô cùng trong sáng, vô cùng tươi đẹp ở bến sông này.
Đúng hôm Trần Nguyên Hãn thay mặt cho chải Đa Cai bước lên bục nhận phần thưởng của hội bơi chải Bạch Hạc thì ở kinh thành Đông Kinh bọn gian thần lại thậm thụt mò tới cung điện tấu trình với vua Lê Thái tổ những tin tức mới nhất về chàng.
Số là, trong những ngày Trần Nguyên Hãn về chốn cũ với ngôi nhà cũ, rồi chàng bị cuốn hút, bận rộn với những công việc nào tổ chức Lễ cầu siêu, nào đi nhận ruộng, nào xây “phủ đệ”, nào ép dầu dọc, nào dạy võ, nào đóng thuyền bè, luyện thi bơi chải. Cuộc sống nơi thôn dã làm chàng dường như quên đi mọi nỗi buồn về nhân tình thế thái. Thực sự là chàng đang sống an vui cùng sơn khê, cùng mọi người chung tay tìm cách cứu dân thoát khỏi cảnh bần hàn, xây đời no ấm. Thế nhưng cũng trong thời gian ấy, ở Đông Kinh, trước sự bối rối của Lê Thái tổ vì  sau khi chiến thắng giặc Minh nhưng thế lực chưa đủ mạnh để giữ ngôi Hoàng đế của mình nên đã tiềm ẩn nhiều vấn đề (chính trị xã hội) phức tạp, nay trở thành mâu thuẫn. Mà mâu thuẫn chủ yếu là sự kèn cựa về địa vị. Sự kèn cựa ấy lại có liên quan đến Trần Nguyên Hãn. Dù chàng không còn ở triều đình nữa nhưng nỗi lo lắng về Tả tướng quốc - một con người hữu học thức, tinh binh pháp - vẫn ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí Lê Thái tổ, đặc biệt là những lúc nhà vua nghĩ về người kế vị mình trong tương lai. Đón bắt được ý vua, những kẻ vô danh tiểu tốt trong chiến tranh chẳng có công trạng gì giờ được dịp nhảy vào thời cuộc, lợi dụng “đục nước béo cò” ra sức tâng công, dèm pha, dâng sớ tấu trình mưu cầu lợi ích cho phe cánh. Đứng đầu bọn cơ hội này là Đinh Bang Bản, một thân cận của đại công thần Lê Sát và Lê Quốc Khí, cháu gọi Lê Thái Tổ bằng bác.
Dạo này, Lê Thái tổ luôn thấy trong người không được khỏe. Trên mười năm trận mạc, trải qua không biết bao nhiêu là khó khăn gian khổ, sức lực của một hào trưởng đã bị tàn phá một cách nhanh chóng. Mới 44 tuổi mà nhà Vua hay ca thán, tuổi già lắm bệnh! Từ khi lên ngôi báu, những lúc ngồi trong cung điện Lê Thái tổ thường bày tỏ với những quần thần thân tín về bản thân mình rằng: “Ta tuy làm chủ tướng nhưng xét lại mình, ta một là, già ốm lại bất tài; hai là, sức học nông cạn; ba là, gánh nặng khó nổi… Cho nên ta phải nhún mình, lấy lòng thành mà khuyên các hào kiệt cùng nhau hết sức cứu giúp muôn dân”. Tự biết mình là vậy nên tuy nhà Lê mới thành lập nhưng Lê Thái tổ đã sớm lo chọn người kế nghiệp. Ngay từ dạo Trần Nguyên Hãn chưa “khất quy hưu” trong triều đình đã hình thành phe cánh xung quanh việc Thái tử Lê Tư Tề và Lê Nguyên Long, ai sẽ kế vị Lê Thái tổ?
Khi ấy, Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo lên tiếng ủng hộ Lê Tư Tề. Với cái lý Thái tử là con trưởng của chính thất của Lê Lợi. Hơn thế, Lê Tư Tề từng theo cha đi đánh giặc Minh. Tư Tề là con người dũng cảm, gan dạ. Trước Hội thề Đông Quan, chấp nhận yêu cầu của Vương Thông, Lê Lợi đã sai Lê Tư Tề cùng tướng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin. Vương Thông rút về nước, Lê Tư Tề mới được trả về. Lê Lợi lên ngôi, Lê Tư Tề được phong làm Hữu tướng quốc. Ganh ghét và đố kỵ với Tả tướng quốc về tài năng quân sự từ trong chiến tranh, Lê Sát âm mưu làm ngược lại với Trần Nguyên Hãn bằng cách ủng hộ Thái tử Lê Nguyên Long. Cho dù Lê Nguyên Long còn nhỏ, lại là con thứ,  và chỉ là con vợ thứ của nhà vua, Lê Sát vẫn quyết tâm ủng hộ.
Trần Nguyên Hãn “khất quy hưu” bỏ lại chính sự của vương triều phía sau lưng để tránh đi một mâu thuẫn đang tồn tại không có lợi cho mình và nhà vua. Trong cung đình chỉ còn lại Lê Sát, do ảnh hưởng của phe Lê Sát, Lê Thái tổ đành phải, một mặt dùng Lê Tư Tề làm quốc công coi việc nước nhưng không phải là thái tử để thừa kế. Mặt khác, lại lập Lê Nguyên Long, mới 10 tuổi lên làm thái tử là người sẽ kế vị. Muốn triệt tận gốc những ai đối lập với mình, Lê Sát cùng bọn gian thần liên tiếp bày đặt vu cho đối phương những chuyện nọ, chuyện kia làm nhà vua rất khó kiểm chứng. Thực hiện âm mưu này, thấy cơ hội đến, Lê Sát bày cho Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí xin gặp Lê Thái tổ...
Sáng nay không thiết triều, nhà vua ngồi trong lầu lục giác nghe Đinh Bang Bản và Lê Quốc Khí bẩm báo những chuyện về Trần Nguyên Hãn.
Đinh Bang Bản thuộc diện đầu thì đầu dơi, mặt thì mặt chuột, mắt thì ti hí mắt lươn. Hắn cúi gập người trước mặt vua Lê Thái tổ và ngóc đầu lên, nói:
- Muôn tâu bệ hạ. Theo nhiều nguồn tin mà hạ thần nhận được cho thấy rằng: Cách nay hơn một năm, sở dĩ đất nước vừa mới giành độc lập, lợi quyền, danh vọng chưa hưởng được bao nhiêu, tuổi tác cũng đang còn trẻ khỏe mà Hãn đã vội xin nhà vua được “khất quy hưu” chính là vì, sau thắng lợi oai hùng của dân tộc thì Trần Nguyên Hãn không muốn gắn kết với bệ hạ nữa! Hãn đã nói với người thân của Hãn là “Nhà vua có tướng như Việt vương Câu Tiễn, cho nên ta không thể yên hưởng vui sướng được”.
- Người thân của Hắn là ai vậy?
- Tâu đức vua là Nguyễn Trãi ạ.
- Tại sao khanh biết?
- Tâu bệ ạ! Tối hôm ấy thần đi qua điện Giảng Võ, tình cờ tai thần nghe được Trần Nguyên Hãn nói với Nguyễn Trãi câu ấy ạ.
- Tướng như Việt vương Câu Tiễn là sao?
- Tâu đức vua! Người có cổ dài, mép quạ, tức là tướng chim đấy ạ.
Nuốt giận vào lòng, nhà vua bình thản hỏi:
- Hãn coi tướng ta và dám bảo ta giống như  Câu Tiễn bên Trung Hoa sao?
Lê Quốc Khí, vị quan thấp lùn, mặt trắng, mũi hếch, ỷ thế là con cháu nhà vua, từng khuất tất làm nhiều điều xằng bậy, khoanh tay trước ngực, nhanh nhảu đỡ lời Đinh Bang Bản:
- Thưa bệ hạ! Hãn không chỉ xem tướng, nói không tốt về nhà vua mà hiện nay tại trang Sơn Đông Hãn còn xây phủ đệ với nhiều nhà cửa, kiến trúc kiểu như biệt thự, biệt cung. Thế chưa đủ, Hãn còn mua binh khí, tậu ngựa, tậu voi, đóng thuyền, đóng chải, luyện võ, luyện quân, cứ rầm rập suốt ngày. Những việc làm này của Hãn há chẳng phải ra cái dáng là một sứ quân, nghênh ngang một cõi thì là gì, thưa đức vua?
- Muôn tâu bệ hạ! - Đinh Bang Bản phụ họa thêm - Theo thiển nghĩ của thần, đâu chỉ làm ra dáng một sứ quân, nghênh ngang một cõi mà làm vậy là rõ ràng Hãn có ý thoán nghịch, phản lại triều đình.
Vua Lê Thái tổ gật đầu nhưng vẫn thận trọng hỏi thêm:
- Đấy mới là những tin đồn, các khanh có bằng chứng gì không?
Rút từ trong chiếc tay nải màu nâu ra một bộ quần áo, Lê Quốc Khí dâng lên trước mặt vua:
- Thưa bệ hạ. Bằng chứng đây ạ.
- Thứ gì vậy?
- Thưa, đây là bộ sắc phục Tả tướng quốc mà khi về đến quê Trần Nguyên Hãn đã cởi bỏ rồi quẳng xuống sông Lô.
- Làm sao thần có bộ sắc phục này?
- Tâu bệ hạ! Một người làm nghề cất vó bè, tên là Sóng, ở bến đò Phú Hậu vớt được, sau đó giao lại cho Phạm Toán là người cùng quê với Trần Nguyên Hãn. Thưa bệ hạ. Phạm Toán chính là người viết sớ tố cáo Hãn xây phủ đệ khang trang, đóng thuyền bè, tuyển tráng binh, tích trữ khí giới, biến ao Son, sông Lô trước cửa nhà Hãn, thành nơi luyện tập thủy quân để phục vụ cho ý đồ làm phản của Hãn và giao nộp triều đình bộ sắc phục này đấy ạ.
Sắc mặt Lê Thái tổ nghiêm lại. Nhà vua như chợt hiểu, nói:
- Thì ra Trần Nguyên Hãn không giữ gìn hình tích, cũng không thèm về kinh đô chầu vua như ta đã hẹn mỗi năm phải hai lần là vì vậy ư?
Câu nói nhỏ như chỉ đủ cho một mình nghe ấy của Lê Thái Tổ, cũng lọt được vào tai Đinh Bang Bản. Hắn “vồ” ngay lấy và vội vàng “tham mưu”:
- Muôn tâu bệ hạ! Thần nghĩ, tất cả những điều ấy đã là đủ chứng cớ. Xin nhà vua xem xét mà trừ khử sớm đi để tránh mọi tai họa về sau này.
Sau lời đề xuất của Bản, không khí trong lầu lục giác bỗng lặng như tờ. Lê Quốc Khí với Đinh Bang Bản thì ngồi im, nín thở chờ sự phán quyết của nhà vua, còn Lê Thái tổ thì trầm ngâm suy nghĩ: Đứng trước một thực tế, gần đây không hiểu vì sao Thái tử Lê Tư Tề sinh ra mắc chứng điên khùng, giết bừa các tỳ thiếp; Còn Thái tử Lê Nguyên Long lại quá trẻ thơ, trong khi đó Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo đều là những người có công giúp nước, lại đang rất được người đương thời trọng vọng. Đối trọng này buộc lòng nhà vua phải băn khoăn, lo lắng. Bây giờ hay tin Trần Nguyên Hãn ở quê đang có những việc làm phục vụ cho ý đồ phản nghịch của mình. trong lòng Lê Thái tổ càng trở nên oán hờn, tức giận Hãn! Thế thì, đúng là Trần Nguyên Hãn có chí khác thật rồi! Vì sự tồn tại của nhà Lê, thôi thì, theo lời các thần đây, ta sẽ tuyên cáo Trần Nguyên Hãn có ý làm phản và ban chiếu bắt Tả tướng quốc về triều đình để khảo vấn xem sao. Là Lê Thái tổ mới dự định thế chứ sau một hồi lặng im, nhà vua chỉ bảo:
- Hai khanh cứ về đi. Việc này để ta sẽ suy xét, quyết định sau.
Đinh Bang Bản và Lê Quốc Khí cùng cúi gập người sát đất, đồng thanh nói lớn:
- Bệ hạ sáng suốt!
Lê Thái tổ nhỏ nhẹ nhắc nhở thêm:
- Hai thần nhớ theo dõi thêm Nguyễn Trãi và Phạm Văn Xảo. 
27.
Phải nói ngay công nhận là, từ trước đến nay Trần Nguyên Hãn không gây thù oán gì, thậm chí cũng không trêu ghẹo gì đối với Phạm Toán, vậy mà Toán vẫn không ưa Hãn. Toán không ưa Hãn ngay từ thời tóc hai đứa còn để chỏm và cùng theo học thầy Nguyễn Thái An. Ngày ấy, thấy Hãn học giỏi hơn mình, Toán đã ghét. Chơi trận giả hay đánh khăng, đánh đáo, Hãn toàn giành phần thắng, Toán đã tức lộn ruột. Lớn lên, Toán mê Tuyển, định cưới Lê Thị Tuyển làm vợ thì Hãn lại nẫng tay trên mất. Mười năm Hãn đi đánh giặc Minh, Toán những tưởng Hãn sẽ phơi thây ngoài chiến trường như bao người khác. Nào ngờ, danh tiếng Hãn càng nổi như cồn với biết bao chiến tích. Là Tả tướng quốc, Hãn về trí sĩ, cả trang Sơn Đông này ai cũng nể trọng Hãn, yêu mến Hãn. So với Trần Nguyễn Hãn sao mà Phạm Toán thua kém nhiều bề. Cùng là đáng môn với nhau mà nay Hãn như người bay trên trời, còn Toán lại rơi xuống vực. Không thể lúc nào mình cũng chịu thua kém Hãn. Phải cho Hãn nếm mùi thất bại, ít nhất là một lần. Mang nặng lòng ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi ấy, Phạm Toán luôn kiếm cớ gây sự với Trần Nguyên Hãn. Nhân có lão già làm nghề chài lưới vớt được bộ sắc phục Tả tướng quốc do Hãn ném xuống sông đưa cho Toán, lại tận mắt thấy, tai nghe những việc Hãn làm từ khi về quê, Phạm Toán liền tìm cách mật báo cho triều đình biết. Tin là phen này thế nào Trần Nguyên Hãn cũng sẽ nhận được một bài học cay đắng về cái thói hiếu thắng! Cũng chỉ hy vọng đến thế thôi, Phạm Toán đâu có nghĩ đến việc, chỉ dựa vào cái sớ tấu trình vớ vẩn của Toán, đích thân vua Thái tổ lại ra chiếu bắt Trần Nguyên Hãn. Phạm Toán biết thông tin này trước khi có chiếu vua ban là nhờ thông qua mồm Lê Quốc Khí. Thế này là to chuyện rồi. Với tâm trạng thắc thỏm nửa mừng, nửa lo, Phạm Toán tìm đến gặp Trần Nguyên Hãn tại phủ đệ.
Buổi trưa, cánh “gia thần nội thủ” trong nhà Hãn đều nghỉ việc. Trần Nguyên Hãn đang ăn trưa cùng con Trần Trung Khoản dưới nhà bếp. Phía cuối sân, dưới bóng cây hải đường nở hoa đỏ rực, Lê Thị Tuyển đang bận ru rín bé Trần Đăng Huy - cậu con trai thứ hai, nàng mới sinh được vài tháng. Tiếng trẻ khóc oa oa và tiếng ru à ơi của mẹ vang lên trong buổi trưa mùa xuân yên tĩnh, nghe sao mà ấm áp, thanh bình.
Phạm Toán cất tiếng chào Tuyển. Sau giây phút ngỡ ngàng trước sự có mặt của Phạm Toán, Lê Thị Tuyển nói:
- Gớm chưa? Hôm nay rồng lại đến nhà tôm kia đấy! Bác đến có việc gì vậy?
- Cứ gì phải có việc. Ta đến chơi không được sao? Nàng không mời ta vào nhà ư? Trần Nguyên Hãn có nhà không?
Trần Nguyên Hãn dời mâm cơm ra đón Toán. Hai người đi vào phòng khách mà ánh mắt Phạm Toán vẫn “nhìn quặt lại đằng sau” vì nhan sắc của Lê Thị Tuyển như dân gian vẫn nói.
Uống chưa cạn chén trà, thực hiện ý định của kẻ ném đá giấu tay, Phạm Toán làm ra vẻ lo lắng thay cho Trần Nguyên Hãn, hắn hỏi:
- Huynh đã biết tin gì chưa?
Nhận ra thái độ là lạ của Phạm Toán, Trần Nguyên Hãn hỏi lại:
- Huynh hỏi vậy là sao? Tin gì nhỉ? Tôi chưa hay biết gì cả.
Nhìn vào mặt Trần Nguyên Hãn để thăm dò thái độ của Hãn, Phạm Toán thì thào:
- Người ta đang đồn rằng, nhà vua ban chiếu triệu huynh về triều đình mà huynh vẫn chưa biết gì thật ư?
- Lê Thái tổ triệu ta về Đông Kinh? Về việc gì vậy?
- Việc gì thì làm sao tôi biết được. Hình như có kẻ xấu ở trang Sơn Đông muốn tâng công với nhà vua, hắn đã dèm pha, thêu dệt những điều không hay về huynh, rồi vu cho huynh có mưu toan phản nghịch thì phải. Mà tôi nghe nói, tướng Phạm Văn Xảo, người cùng phe cánh với huynh ở triều đình cũng bị nhà vua bắt rồi! - Nửa kín, nửa hở, đưa hai cái tin Toán nghĩ, như sét đánh ngang tai với Hãn xong, nhận thấy sắc mặt Trần Nguyên Hãn hơi tái đi, tuy trong bụng mừng thầm nhưng Phạm Toán vẫn cứ nói - Chỗ người cùng làng, lại là bạn đồng môn với huynh nên tôi mới nhanh mồm nhanh miệng báo cho huynh biết. Huynh nên sớm có phương án chống lại nhà vua, hoặc là bỏ trốn đi. Nếu không, sẽ liên lụy đến Lê Thị Tuyển và hai cháu.
Chưa thể tin vào miệng lưỡi của Toán nhưng cũng không thể bình chân như vại trước thông tin Phạm Toán vừa nói, Trần Nguyên Hãn nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, chàng bảo:
- Tạ ơn huynh vì đã báo tin trước. Tuy nhiên tôi sẽ không bỏ trốn đi đâu cả. Tôi ở đây đợi chiếu của nhà vua và rất muốn biết ai là kẻ xấu ở cái trang Sơn Đông này.
Phạm Toán xoa xoa tay, hềnh hệch cười:
- Tôi còn nhớ, thầy Nguyễn Thái An của chúng ta hay nói, sống trong thời buổi nhiễu nhương, nhiều khi lòng tốt lại bị nghi ngờ. Tin là trong trường hợp này huynh không hiểu lầm về việc làm có thiện chí của tôi chứ?
- Đấy là huynh nghĩ thế  chứ tôi đã nói gì đâu!
Làm xong cái công việc của kẻ “khẩu Phật, tâm xà”, Phạm Toán ra về, yên tâm là sẽ không có ai nghĩ xấu về mình. Còn Trần Nguyễn Hãn thì bàn với Lê Thị Tuyển, nếu sự việc như Phạm Toán nói xảy ra, nàng phải đưa hai con trốn đi. Hơn ai hết, chàng hiểu từ khi lên ngôi, Lê Thái tổ đã làm được nhiều việc cho dân nước như ban chiếu quy định về thuế khóa, chia ruộng đất, ban hành luật lệnh, mở khoa thi, tổ chức quân cấm vệ, cắt đặt quan chức, tưởng lục công thần, dựng trường học quy mô sáng nghiệp có thể là rộng lớn, nhưng nhà vua lại là người hay nghi kỵ và đa sát. Mà mối nghi ngại lớn nhất của Lê Thái tổ là với triều đại cũ! Không thế, tại sao nhà vua lại hãm hại Trần Cảo - một người tự nhận là tôn thất nhà Trần, từng được đưa lên nắm ngôi hoàng đế bù nhìn? Không thế, sao ép Cung từ hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, mẹ của thái tử Lê Nguyên Long - một người có họ Trần phải đổi sang họ Trình để kiêng húy? Những việc xử sự ấy của Lê Thái tổ chỉ muốn làm cho thiên hạ quên hẳn nhà Trần đi! Với Trần Nguyên Hãn, là con cháu của hai danh thần có nhiều danh vị của triều Trần cũ thì nhà vua càng khó mà tránh khỏi nghi ngờ và phòng tránh.
Hôm sau, giữa lúc Trần Nguyên Hãn đang ngồi giảng về Binh thư cho các trò nghe ở tại đồn sở trên Rừng Thần thì có quan Khâm sai do nhà vua phái đi làm nhiệm vụ đặc biệt, đem chiếu chỉ đến cho chàng. Chiếu chỉ do đích thân Lê Thái tổ viết trên tấm lụa với ấn chỉ đỏ chót của nhà vua đóng ngay bên cạnh. Lĩnh hội đầy đủ nội dung ghi trong chiếu chỉ, Trần Nguyên Hãn nói với quan Khâm sai: “Ta tuân chỉ!”
Theo trù tính từ trước, Trần Nguyên Hãn bí mật bố trí cho Lê Thị Tuyển đem hai con chạy trốn sang làng Kẻ Nú, bên phủ Tam Đới. Trước lúc chia ly, Trần Nguyên Hãn động viên vợ: “Đang ở vương triều ta xin về chốn cũ là muốn được sống yên ổn, hạnh phúc mãi bên nàng và các con. Nào ngờ cái mong ước giản dị đó của ta cũng không thành. Nay ta phải xa nàng và hai con là ở cái thế không thể khác. Chuyện riêng của ta, hiện nàng chưa hiểu được đâu. Thôi, nàng đưa con đi đi!”. Nói xong, Hãn ứa nước mắt nhìn vợ con khuất dần sau đồi cây. Hãn biết đây có thể là cuộc chia tay cuối cùng, bởi chàng biết, mình không chết vì kẻ thù bạo ngược nhưng có thể sẽ chết vì sự nghi kỵ của nhà vua trong lúc thái bình.
Tin vua Lê Thái tổ hạ lệnh triệu hồi Trần Nguyên Hãn về thành Đông Kinh để khảo vấn giống như một vết dầu loang, loang rất nhanh khắp trang Sơn Đông. Lập tức thầy Nguyễn Thái An, ông Nguyễn Văn Bụi, nàng “chúa Lối”, già lão chân chậm, mắt mờ như bà cụ Mến cũng chống gậy cùng bà con thân tín đến tận “phủ đệ” hỏi han, chia buồn với vợ chồng chàng. ở lại phủ chỉ còn Trần Nguyên Hãn. Các “gia thần nội thủ”, các võ sinh đều tỏ ra tức tối trước chiếu chỉ của nhà vua. Có người nói với Trần Nguyên Hãn:
- Thưa ông! Chúng ta vừa đông, vừa có nhiều người có võ nghệ cao cường. Ông không nên  “tuân chỉ” dễ dàng như thế được.
- Ý mọi người là sao?
- Phải chống lại lệnh của nhà vua! Ông có làm gì sai trái mà vua sai người về bắt chứ?
Trần Nguyên Hãn lắc đầu. Chàng nói:
- Cho dù ta biết trước là ta không thể sống được với nhà vua nên ta mới xin khất quy hưu nhưng nay nếu ta ra mặt chống lại, viện vào cái cớ này, nhà vua sẽ tàn sát, sẽ giết hại hết con cháu, dòng dõi nhà Trần mất. Tốt hơn hết là chỉ để một mình ta chịu chết thôi!
Thầy Nguyễn Thái An, ông Nguyễn Văn Bụi, bà cụ Mến ngậm ngùi bảo nhau, “số” Hãn thế còn biết làm gì được! Riêng nàng chúa Lối tỏ ra rất hiểu Hãn lại nói, một người từng tâm đắc hai câu thơ Tế suy vật lí tu hành lạc - Hà dụng phù danh bạn thử thân của Đỗ Phủ như Trần Nguyên Hãn thì xử sự của chàng sẽ không thể khác được. Ai nấy lặng lẽ gạt nước mắt vì thương Hãn.
Trần Nguyên Hãn xin quan Khâm sai cho mình làm lễ cáo trời đất trước khi về kinh thành.
Vẫn biết, xưa nay các bậc đế vương coi mình là thiên tử, la con trời, mà Trời là đấng chí tôn giữ gìn vận mệnh và ban phát hạnh phúc cho muôn dân nên hằng năm họ đều tổ chức long trọng lễ tế Trời Đất. Vì là con Trời, thay Trời trị dân nên đích thân nhà vua phải đứng làm chủ tế để chứng tỏ lòng hiếu nghĩa của một người làm con. Với tấm lòng thành của cả vua quan cùng dân chúng dâng lên Trời Đất và các bậc thần linh, nhà vua cầu mong cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình. Nhưng không hiểu sao vào lúc này, tự đáy lòng mình, Trần Nguyên Hãn lại muốn làm lễ cáo với Trời Đất về một đại họa sắp xảy ra với mình.
Lễ được tổ chức ngay trong sân “phủ đệ”. Lễ vật thật giản đơn chỉ có một bát hương, trà nước, rượu, đèn nến và hoa quả. Trong làn khói hương nghi ngút, Trần Nguyên Hãn chắp hai tay trước ngực, lầm rầm cầu khấn. Khấn hết bài, chàng ngửa mặt lên Trời mà dõng dạc nói:
- Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân. Nay sự nghiệp lớn đã thành. Hoàng thượng nghe lời dèm pha mà hại tôi. Hoàng thiên có biết không?
Đáp lại câu hỏi nhức nhối của Trần Nguyên Hãn chỉ có bốn bề im lặng. Bầu trời cuối mùa xuân ngổn ngang mây đen, mây trắng mịt mù dường như thấu hiểu nỗi lòng của Hãn nhưng lại không thể lên tiếng.
Trần Nguyên Hãn đi vào nhà, châm mấy nén hương thắp lên bàn thờ tổ tiên, cha mẹ. Chàng chắp tay, lầm rầm khấn vái một lúc lâu rồi quay ra, vẫy tay chào mọi người.
Với thái độ bình thản, ung dung, Trần Nguyên Hãn đi nhanh về nơi có chiếc thuyền to đang chờ sẵn ngoài bến sông, ngay phía trước mặt “phủ đệ” nhìn ra. Theo sau Trần Nguyên Hãn có quan Khâm sai và gần bốn mươi người vốn là “gia thần nội thủ”, những bạn bè, đồng chí từ thủa hàn vi cùng chàng tập võ, mài gươm. Những người này, mặc Hãn can ngăn, họ vẫn quyết xuống thuyền theo chàng, nếu phải chết, họ tình nguyện chết theo chàng!
Dòng sông Lô vào dịp cuối mùa xuân nước vẫn trong xanh, phẳng lì như một tấm gương, sáng lấp lóa dưới ánh nắng vàng tươi rực rỡ. Từ Cống Khẩu nước vẫn lững lờ trôi xuôi miên man chỉ khi đến ghềnh Đông Hồ dòng sông mới bất ngờ hẹp lại. Tại đây, gặp những tảng đá đứng, đá ngồi giữa lòng sông chặn lại, nước bỗng lồng lên, réo sôi, tung bọt trắng xóa. Cư dân sống trên sông nước gọi đây là “cửa tử”. Người lái thuyền bè phải giỏi giang lắm, khéo léo lắm mới không bị mắc nạn. Vượt qua “cửa tử” lòng sông lại rộng ra thênh thang, dòng nước lại mệt mỏi lừ đừ chảy thật êm đềm.
Thuyền đưa Trần Nguyên Hãn về kinh thành gần đến ghềnh Đông Hồ.
Ngồi gần người cầm lái, chàng đưa mắt đắm đuối nhìn xóm làng nằm xúm xít hai bên bờ sông và ngẫm ngợi mung lung. Càng ngẫm ngợi, Trần Nguyên Hãn càng thấy chiếu chỉ của nhà vua là một hành vi xúc phạm ghê gớm đến thanh danh một danh tướng. Nhận chiếu chỉ, chàng biết ngay rằng, mình sẽ không có cơ hội để tự minh oan. Chàng cảm thấy uất ức và xấu hổ quá! Hỡi ôi! Vì thiếu chút bình tâm mà nhà vua tin lời xúi bẩy, ra lệnh bắt ta. Bởi vậy, dẫu ta có trở thành anh hùng cũng vẫn không là một công thần trọn vẹn của triều Lê. Việc đã đến nông nỗi này, ta còn sống làm gì nữa? Ta tự chết là để nhà vua khỏi mang tội lớn giết một công thần khai quốc, giết một tướng tài đã cùng mình làm nên sự nghiệp nhà Lê đó!
Thuyền sắp đến Đông Hồ.
Đã nghe thấy tiếng thác ghềnh réo sôi ầm ầm ngay bên tai. Trần Nguyên Hãn đứng bật dậy, chàng ngửa mặt lên trời, một lần nữa, hỏi lớn:
- Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân. Nay nghiệp lớn đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm pha mà hại tôi. Hoàng thiên có biết không?
Tiếng của Trần Nguyên Hãn tan ra, chìm đi trong tiếng thác nước. Chàng cúi xuống nói lời cuối cùng với những “gia thần nội thủ” đồng chí hướng:
- Các huynh, các đệ ơi! Ai một lòng một dạ theo ta thì hãy nhìn xuống nước. Nếu ai còn vì cha mẹ già, con dại thì hãy ngửa mặt lên trời.
Thuyền đã đến sát ghềnh Đông Hồ.
Không có ai ngửa mặt nhìn lên trời cả. Thế có nghĩa là, tất cả đều tự nguyện làm theo ý chàng. Trần Nguyên Hãn hô: “Gác dầm lên!” Như là có sự chuẩn bị trước, thống nhất trước, người cầm lái gác mái dầm lên. Không có lái, nhanh như chớp, con thuyền quay ngang, lao đánh “rầm” xuống ghềnh. Thuyền vỡ! Sóng nước chồm tới ào ạt cuốn những cánh tay chới với, những mái đầu nhấp nhô vào lòng, rồi mất hút!
Hôm ấy là ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429). Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn mới 39 tuổi!. 
VĨ THANH
Buổi thiết triều kết thúc, Đinh Bang Bản và Lê Quốc Khí liền tìm cớ lẻn vào gặp nhà vua tại nội cung. Lê Sát vừa nói cho bọn chúng biết một tin động trời từ trang Sơn Đông, mừng quá, chúng vội vàng tâng công lên Lê Thái tổ.
Đinh Bang Bản cúi gập người, bẩm báo:
- Tâu bệ hạ! Trần Nguyên Hãn cả gan chống lại lệnh của nhà vua. Hắn không về triều đình mà tự trầm rồi!
Lê Thái Tổ thoáng giật mình, tròn mắt kinh ngạc:
- Nhà ngươi nói sao? Trần Nguyên Hãn tự chết ư?
Lê Quốc Khí bình tĩnh tấu trình rõ ràng hơn:
- Tâu bệ hạ! Đúng là Trần Nguyên Hãn đã chết thật rồi ạ. Đây là tin do Phạm Toán, người cùng quê với Hãn, trước dâng sớ tố cáo Hãn có ý làm phản, giờ lại báo tin Hãn cùng mấy chục võ binh và kẻ ăn người ở của Hãn cùng tự trầm tại thác Đông Hồ trên sông Lô. Nhà vua sáng suốt. Xin bệ hạ cho ý chỉ ạ.
Từ hôm phái quan khâm sai đi triệu Trần Nguyên Hãn về triều để khảo vấn, Lê Thái Tổ nóng lòng chờ đợi giờ phút gặp lại Hãn xem con người “có chí khác” này phản ứng ra sao, nay Hãn không dám gặp mặt ta, tức là Hãn có ý phản ta bằng thật. Hãn sợ ta hay là oán hận ta mà Hãn tự chọn lấy cái chết cho mình? Phạm Văn Xảo ta đã sai người bắt và tịch thu gia sản. Trần Nguyên Hãn cố ý phản ta, tất cùng chung số phận với Xảo. Ánh mắt tối lại, hai cằm bạnh ra, nhà vua cả giận, đập tay xuống bàn:
- Các ngươi mau mau về trang Sơn Đông thu hồi ruộng đất, nhà cửa, tài sản của Trần Nguyên Hãn lại và bắt giam ngay vợ con Hãn cho ta!
Bọn Bản, Khí  “dạ” ran, rồi cùng nói:
- Bệ hạ sáng suốt! Chúng thần xin tuân chỉ!
Hai ngày sau, người của nhà vua gồm một quan khâm sai và bảy vệ sĩ, về đến trang Sơn Đông vào lúc bà con thôn Đa Cai tìm thấy thi thể Trần Nguyên Hãn và những người tự trầm cùng chàng trên chuyến thuyền định mệnh nổi lên, dạt vào bờ sông ở phía dưới ghềnh Đông Hồ.
Quan khâm sai và bảy vệ sĩ kia đâu có hay, từ lúc biết tin Trần Nguyên Hãn tuẫn tiết trên sông Lô, cả thôn Đa Cai nhớn nhác như kiến vỡ tổ. Từ đầu thôn đến cuối thôn đâu đâu cũng có tiếng con khóc cha, vợ khóc chồng và tiếng hờ gọi, kêu gào thảm thiết. Ngày cũng như đêm, bà con bảo nhau kéo nhau ra đứng xúm đông xúm đỏ bên bờ sông để tìm kiếm, để chờ đợi thi thể người thân! Giữa lúc chẳng còn ai hy vọng gì vào việc kiếm tìm gần như vô vọng ấy nữa thì họ lại thấy thi thể Hãn và hơn mười người nổi lập lờ dưới vựng sâu. Các trai đinh không ngần ngại liền nhảy xuống sông, đưa anh em lên bờ. Thầy Nguyễn Thái An, ông Nguyễn Văn Bụi thay nhau vuốt mắt cho Trần Nguyên Hãn nhưng mắt chàng vẫn mở. Bà cụ Mến bước thấp bước cao, thập thững từ trong làng đi ra. Rẽ đám đông, bà cụ ngồi thụp xuống, vừa vuốt mắt cho Hãn, vừa nói trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Hãn ơi! Trời cao chưa biết nhưng bà và dân làng Đa Cai, ai cũng biết con là một  anh hùng mà lại phải chết oan chết ức thế này. Bà tin là rồi đây con sẽ được minh oan. Thôi, nghe bà, con hãy đi đi cho mát mẻ!” Lạ lùng thay, sau mấy lời đầy nước mắt ấy của cụ Mến, mắt Trần Nguyên Hãn khép lại. Chàng như người đang nằm ngủ say trên tấm chiếu bên bờ sông lộng gió.
Thầy Nguyễn Thái An bàn với các bô lão trong làng đưa Hãn về an táng ở Rừng Thần. Ở đấy, có đồn sở của chàng, có mộ của cha mẹ chàng. Còn những người tuẫn tiết cùng chàng thì đưa về mai táng tại nghĩa trang của làng. Ông Nguyễn Văn Bụi cũng bàn, phải đón sư thầy Thích Thiện Tâm ở chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo về làm lễ cầu siêu cho Trần Nguyên Hãn và những người cùng mất trong vụ chìm thuyền. Bà cụ Mến thì bảo, tôi là đàn bà lại già cả rồi, mọi việc làm phúc do các cụ quyết định, nhưng ý tôi muốn là, sau khi chôn cất mồ yên mả đẹp cho Hãn xong, làng ta nên xây một ngôi đền thờ Trần Nguyên Hãn. Bố nó sống khôn, thác thiêng lắm đấy. Cho rằng, cụ đồ An, ông Bụi và bà cụ Mến đề xuất những việc thật hợp tình, hợp lý, hợp lòng người nên các bô lão đều đồng tình ngay.
Quan khâm sai không lùng bắt được vợ con Trần Nguyên Hãn theo lệnh của nhà vua thì vội vã lệnh cho bảy vệ sĩ hồi triều ngay. Thực tình là quan cũng thấy sờ sợ trước những ánh mắt nhìn như có lửa của người dân nơi này. Quan khâm sai tự nhủ, một khi lòng dân không yên, cách phòng tránh tốt nhất là chớ có chơi với lửa!
Đúng một trăm ngày sau khi Trần Nguyên Hãn “tự trầm”, trên nền ngôi nhà cũ - nơi mà ông bà Trần Nguyên Án lên Đa Cai khai cơ, lập nghiệp trước đây - bà con quanh vùng đã góp của, góp công xây dựng xong một ngôi đền để cúng tế Tả tướng quốc. Đó là một ngôi đền nhỏ, phía trước nhìn thẳng xuống ao Son, hướng ra sông Lô. Hôm khánh thành đền, cụ đồ Nguyễn Thái An đọc một câu đối: “Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa - Lô thủy thần tâm đối nghĩa thiên”. Đọc xong, cụ lại giảng ý tình của câu đối cho mọi người cùng hiểu: Sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này - Lòng trung quân của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có trời đất biết.
Viết tại làng Ao Gỗ
Khởi thảo ngày 25 - 2- 2013
Viết xong ngày 25 tháng 10 năm 2013.

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...