Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 4b

Tiểu thuyết Vĩnh Phúc - Phần 4b

Thời gian nằm viện đã hơn hai tháng. Dân bỏ nạng, tập tễnh tập đi. Mỗi bước đi, anh thấy buốt lên tận đầu. Anh tự nhủ phải cố gắng, kiên trì luyện tập. Nhưng mới chỉ đi quanh phòng bệnh, anh thấy mệt nhoài, ngồi xuống giường nghỉ, mồ hôi vã ra như tắm. Nghỉ được một lúc, mồ hôi ráo, anh lại tiếp tục tập đi. Hắn lại tới. Hắn nở nụ cười hềnh hệch và đầy bí hiểm:
- Chúc mừng anh, vết thương đã sắp lành. Hy vọng chúng ta sẽ có cuộc nói chuyện vui vẻ, thú vị và thân tình trong một ngày không xa.
Dân lạnh lùng trả lời:
- Cảm ơn những lời nói tốt đẹp của ông.
Hắn cười khùng khục thật to, khả ố và nham hiểm:
- Chúng tôi đánh giá về ông không lầm, hoàn toàn chính xác. Chào tạm biệt. Hẹn gặp lại.
Dân ngồi im lặng.
Trời tối mịt. Không rõ mặt người, nếu không có điện thắp sáng. Một chiếc ô tô, bịt kín mít, chạy thẳng vào phòng của Dân. Hai tên lính xuống xe theo lệnh của hắn. Chúng đẩy Dân lên xe và sập cửa, bấm khóa lại. Xe nổ máy đi thẳng. Ra khỏi bệnh viện có xe theo sau hộ tống. Xe chạy qua nhiều đường phố, liên tục rẽ phải, rẽ trái khiến Dân chóng mặt. Anh không tài nào hình dung và nhớ nổi, xe đã chạy qua bao đường phố. Nhìn qua kẽ hở nơi thành xe, anh chỉ thấy đèn nhoang nhoáng. Thỉnh thoảng xe dừng lại ở ngã tư có đèn đỏ.
Xe dừng lại hẳn. Chúng dắt Dân đi qua nhiều phòng, nhiều cửa. Chúng mở còng số 8 cho Dân. Rồi đẩy anh vào căn phòng tối om, khóa chặt cửa lại.
Đèn bật sáng. Dân nhìn thấy bộ mặt phèn phẹt, đen xì xì của tên sĩ quan ngụy đang ngồi chờ sẵn. Vẫn thái độ, giọng nói ấy, chỉ khác hôm nay Hắn mặc quần áo sỹ quan an ninh mà không mặt quần áo thầy thuốc nữa. Hắn đặt ra nhiều câu hỏi bắt buộc Dân phải trả lời. Dân tự nhắc mình, phải thật bình tĩnh. Trước sau phải trả lời thống nhất, phải suy nghĩ thật chín, đừng để sai sót, nhầm lẫn.
- Tôi là người lính. Tôi bị thương nên bị các ông bắt và chạy chữa vết thương cho tôi. Tôi ghi nhận điều đó.
Hắn cáu và gắt om lên:
- Biết rồi! Nói mãi! Anh nên biết điều một chút. Họ tên anh là gì? Quê quán ở đâu?
Điều này, Dân đã chuẩn bị từ lâu. Dân bịa ra cái tên và quê quán. Anh nói:
- Tên tôi là Nguyễn Quang Trung, quê ở Đồng Hỷ, Bắc Thái (*).
Hắn vẫy tay. Một lũ đầu trâu, mặt ngựa ùa vào. Thằng nào, thằng ấy đều béo tốt, khỏe mạnh và cởi trần. Có thằng ngực đầy lông lá. Lại có thằng ngực xăm con rồng, con cọp để hù dọa người yếu bóng vía. Thằng nào bắp tay cũng nối lên cuồn cuộn. Khi chúng dùng tay thụi vào người, lúc chúng dùng chày nện xuống người anh. Nhưng chúng càng đánh, Dân càng lì ra. Trước Dân còn trả lời, sau chỉ im lặng. Anh luôn tâm niệm: Im lặng là vàng. Nói dễ nhầm lẫn. Anh chết đi sống lại nhiều lần. Mỗi lần ngất đi. Chúng đổ nước vào người rồi bỏ mặc nằm đó. Khi anh tỉnh chúng lại đánh tiếp. Cứ như thế cho đến sáng. Dân nằm sóng xoài trên sàn nhà, chỉ còn thoi thóp thở. Lũ ác ôn mệt nhoài. Mỗi lần giải lao chúng hò hét nhau uống bia, uống rượu.
Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, Dân tỉnh táo trở lại. Anh thấy mình nằm trong bệnh viện. Nhưng không phải bệnh viện lần trước. Sở dĩ chúng làm vậy để các bác sĩ, y tá, hộ lí không biết anh là ai. Toàn thân anh đau ê ẩm, không nhấc nổi chân tay. Anh nằm như một cái xác không hồn. Người quen khó nhận ra anh. Vì mặt mày thâm tím, sưng phù. Duy có đầu óc Dân vẫn tỉnh táo và minh mẫn, theo dõi các diễn biến ở xung quanh.
Đèn điện bật sáng. Dân mở mắt, biết là tối từ lâu. Nghe tiếng quen thuộc, anh biết là hắn. Hắn nói với bác sĩ:
- Các ông có trách nhiệm chạy chữa, thuốc thang cho tên này mau lành vết thương, càng sớm càng tốt.
Ngay sau đó, anh được khám, cho uống thuốc và tiêm thuốc. Anh lại được “chăm sóc” như trước. Về mặt thuốc thang có phần “ưu ái”, canh phòng cẩn thận hơn. Hắn thường xuyên đến. Nhưng anh nhắm mắt lờ như không biết. 
(*) Bắc Thái tức Thái Nguyên ngày xưa.
Qua một tuần điều trị, Dân tỉnh táo hơn. Trên mình đầy thương tích, khắp người tím bầm như người nhuộm mực tím. Đầu óc Dân ong ong đau buốt như có ai cầm búa nện vào. Lồng ngực đau ê ẩm, các xương sườn như muốn gãy ra hàng loạt. Cái chân vừa mới liền nay lại gãy rời ra, dính được nhờ lớp da. Vì thế cái chân lại phải bó bột. Thêm một cánh tay phải bó bột nữa. Cả ngày Dân phải nằm ngửa. Thỉnh thoảng anh mới trở mình nằm nghiêng một chút nhưng rất đau đớn. Rất may, chân tay cùng bó bột một bên.
Nắng chiều vừa tắt. Hoàng hôn phủ khắp. Hắn lại tới. Hắn đến bên giường của Dân với vẻ quan tâm và thân mật. Hắn nói:
- Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi và anh thật tốt đẹp và đầy ý nghĩa. Tôi hy vọng nó để lại trong anh những kỷ niệm sâu sắc khó quên và nhắc anh phải có thái độ đúng đắn và thức thời hơn.
Dân cố ghìm đau đớn trả lời hắn:
- Cảm ơn ông! Ông nhắc tới cuộc “nói chuyện” chết người vừa qua. Vì nó mà tôi “được” nằm viện của các ông lần thứ hai. Cảm ơn ông! “Sự quan tâm chăm sóc” của ông. Nếu được nói chuyện với ông lần thứ hai, chắc tôi đi gặp Diêm vương.
Hắn cười khớ khớ. Hắn đi đi, lại lại trong phòng. Bỗng hắn quay lại chỉ tay về phía Dân:
- Anh hóm lắm. Chứng tỏ anh là người thông minh và hiểu biết. Vì thế anh cần phải sống để trở về với gia đình, vợ con. Anh có vợ chưa? Ở tuổi anh chắc vợ con đầy đủ rồi. Họ đang mong anh trở về đấy! Có người vợ nào lại muốn xa chồng vĩnh viễn đâu. Có đứa con nào muốn mất cha đâu chứ!
- Là con người ai chẳng có cha mẹ. Khi khôn lớn trưởng thành ai cũng phải có vợ con. Đó là quy luật của tạo hóa. Ở trên đời này, có ai chui từ khe nẻ, kẽ cây lên đâu. Và chỉ có những người tu hành mới không có vợ con. Tôi chỉ là con người bình thường, đâu phải thần thánh nên đều nằm trong cái chung đó. Nhưng thưa ông sĩ quan, thương yêu cha mẹ, vợ con là bổn phận của mỗi con người nhưng không vì thế mà bán rẻ lương tâm, cam phận làm tôi tớ cho ngoại bang để kiếm bát cơm thừa, canh cặn.
Dân trả lời hắn.
Hắn tức lắm. Mặt hắn sa sầm xuống như cái thớt. Hắn chạy xồng xộc tới giường Dân. Hai tay hắn bóp cổ Dân và buông lời đe dọa:
- Được! Rồi tao sẽ cho mày biết tay để mày giữ trọn cái lương tâm trong sạch và trung thành với lý tưởng, với Đảng của mày. Chúng mày là những thằng ngu muội, tin tưởng một cách mù quáng. Ngày đi gặp “Diêm vương” của mày không còn xa đâu, hãy nhớ lấy. Xuống dưới đó để mày giữ lương tâm trong sạch.
Dân tưởng nó bóp chết anh ngay lập tức. Nhưng nó chỉ dọa thế thôi. Dân cảm thấy nghẹt thở và đau thắt ở cổ. Dân đưa đôi mắt căm thù, giận dữ về phía hắn. Hắn tức giận bỏ đi. Lòng Dân nặng trĩu căm hờn. Tiếng dày lộp cộp nên trên nền nhà xa dần và mất hẳn.
Hai tháng sau, vết thương đã lên da non, màu hồng, khép miệng thành sẹo. Dân có thể tự đi lại trong phòng, sức khỏe bình phục. Nước da có phần tươi tắn hơn. Dân nghĩ: Chúng sắp làm thịt mình đến nơi rồi. Dân chuẩn bị sẵn sàng để bước vào cuộc chiến đấu mới, một mất, một còn. Cuộc chiến đấu không cân sức, tụi nó có đủ sức mạnh, mưu mô xảo trá. Còn Dân, một mình, với thân hình gày còm, ốm yếu. Chỉ duy nhất có trái tim yêu nước, trí óc thông minh sáng suốt, Nhưng Dân sẽ thắng.
Kẻ địch thâm độc, nham hiểm lắm. Chúng không giết anh ngay. Chúng cho anh chết từ từ, chết đi sống lại, thân tàn ma dại. Chúng thuốc thang, chạy chữa cho Dân khỏi để rồi đánh tiếp. Mục đích của chúng làm cho Dân đau đớn, khiếp sợ và cuối cùng gục ngã, đầu hàng chúng, phản bội lại đồng đội, nhân dân, Tổ quốc với hy vọng biến anh thành những tên tay sai, mẫn cán, đâm chén, bắn giết không biết ghê tay, uống máu đồng đội và nhân dân không biết tanh. Dân tự nhủ: “Chết trong còn hơn sống đục. Nếu phải chết, Dân sẽ ngẩng cao đầu, chết dũng cảm, kiên cường như đã hứa với Huyền để khỏi vẩn đục quê hương và sáng mãi màu áo tím hoa sim.
Thông báo hết giờ làm việc vang khắp bệnh viện. Mọi người tấp nập ra về. Bệnh nhân chuẩn bị đón bữa cơm chiều. Dân sống trọn ngày yên ổn.
Bỗng một chiếc ô tô bịt kín mít chạy tới phòng Dân. Chúng bắt Dân đưa tay vào còng số 8. Tên sĩ quan tâm lý ngụy làm ra vẻ lịch thiệp:
- Tôi đến mời anh đi dự bữa tiệc đặc biệt. Tôi hy vọng lần này anh vui vẻ, biết điều hơn.
Dân nhếch mép cười, trả lời hắn:
- Ông mời tôi đi dự tiệc mà vẫn còng tay tôi? Tôi đón chờ nó từ lâu rồi. Xong bữa tiệc “đặc biệt” của ông, tôi thành ma đói đi gặp Diêm Vương cũng nên. 
Hắn khềnh khệch cười trả lời:
- Điều ông mong muốn chẳng khó khăn gì. Chúng tôi sẽ chiều ông.
Bốn tên lính nhảy bổ vào lôi Dân lên xe. Cửa xe khóa lại, xe chạy liền.
Bữa “đại tiệc” theo cách gọi của tên sĩ quan ngụy bắt đầu. Các “món ăn” bày biện đầy đủ và phong phú. Người phục vụ dày đặc, chạy đi, chạy lại như đèn cù. Món “khai vị” là những câu hỏi thẩm vấn cũ rích. Dân nhắc lại những câu trả lời thuộc làu làu:
“Tôi là người lính. Tôi bị thương nên bị các ông bắt, đưa vào bệnh viện thuốc thang chạy chữa. Rồi đánh tôi bị thương và các ông lại thuốc thang chạy chữa cho tới khỏi, Và tôi bị đánh tiếp.
Món thứ hai chúng gọi là “giã giò”, chúng vật ngửa Dân ra sàn nhà, căng chân tay anh về bốn phía và buộc vào cọc. Lũ đầu trâu, mặt ngựa dùng chày giáng tơi tấp xuống bụng và ngực Dân. tiếng chày nện “bịch bịch” lúc mau, lúc chậm như người giã giò. Lúc đầu Dân còn cảm thấy đau đớn. Vài phút sau, Dân chẳng còn biết gì nữa. Thỉnh thoảng hắn cho dừng lại khẽ hỏi nho nhỏ: “Anh ở đâu? Anh làm gì?”. Trước Dân còn nghe rõ nhưng không trả lời, sau chẳng biết gì nữa. Người “giã giò” xem chừng cũng mệt. Người bị giã giò mềm như bún, mười phần chết chín nhưng quyết không khai báo. Đổ nước vào người nó. Giải lao, nghỉ xả hơi - Hắn ra lệnh.
Món thứ ba “mề gà”. Chúng treo ngược Dân lên xà nhà, ròng dây thả anh xuống lưng chừng, lơ lửng như cái bao cát của những người tập đấm bốc. Chúng đứng xung quanh đẩy đi, đẩy lại cùng đấm. Hắn ngồi điều hành những tên đao phủ tra tấn Dân. Dân như cái xác không hồn mặc chúng hỏi và đánh.
Món cuối cùng “tắm rửa”. Trước khi sang món này, chúng lại xả hơi, giải lao. Chúng thả Dân xuống và cởi trói cho anh. Chúng dựa anh vào xó nhà. Dùng vòi nước xả nước vào đầu. Lưng anh dựa vào hai góc tường đón dòng nước từ trên cao dội xuống. Đầu Dân đau buốt như bị hàng ngàn kim đâm vào hộp sọ, lan đi khắp cơ thể. Nước lạnh buốt. Lúc đầu Dân run khe khẽ. Cuối cùng Dân không còn đủ sức để run. Dân vật ngã xuống sàn nhà, nằm bất động. Người Dân như cái dưa héo, mềm oặt. Chúng bỏ mặc Dân nằm đó.
Hôm sau, chúng lại đưa Dân vào nhà thương. Vì chúng biết Dân còn sống. Dân nằm lại ở nơi đây ba tháng trời. Chúng thuốc thang cầm chừng, ngày có, ngày không. Chúng cho anh ăn cơm gạo hẩm với mắm thối. Hai lần trước chúng thuốc thang, “chăm sóc tử tế” nhằm âm mưu khai thác thông tin và mua chuộc. Lần này, chúng định bỏ Dân chết đói với thương tật đầy người và bệnh tật. Biết âm mưu ấy, Dân tích cực ăn uống và tiêm thuốc. Khi Dân tạm bình phục chúng vội đày anh đi Côn Đảo
7. Ông Huyền kéo vợ ngồi xuống giường, nói:
- Bà ngồi xuống đây, bình tĩnh tôi kể bà nghe. Chuyện dài lắm, phức tạp lắm. Cách đây lâu lắm rồi, cái thời trai trẻ đầy hoài bão, ước mơ. Khi ấy tôi chưa lấy bà, nên chẳng liên quan tới bà. Từ khi vợ chồng lấy nhau, tôi cũng quên khuấy đi mất chưa kể cho bà nghe. Chuyện chẳng có gì hay ho cho lắm. Nếu là chuyện vui có khi, tôi kể cho bà nghe rồi. Nhưng đây là chuyện buồn và đau lòng. Bà đừng bận tâm làm gì.
Lúc còn trẻ, tôi rất đẹp trai lại hát hay nữa! Nhiều cô chết mê chết mệt tôi. Tôi trở thành của quý hiếm. Ai cũng muốn có tôi. Tôi thả sức mà lựa chọn, đứng núi này, đọ núi kia. Tôi tham gia đội văn nghệ của xã. Tôi thường sắm vai vua trong các vở chèo Tấm Cám, Đường Minh Hoàng du nguyệt điện.
Cô Nức là em lão Dân thường sắm vai cô Tấm và hoàng hậu trong các vở trên và vai vợ trong nhiều vở diễn khác nữa. Ngoài đời chúng tôi là bạn bè là người cùng làng và là đội viên đội văn nghệ xã. Khi lên sân khấu, tôi và Nức là vợ chồng. Giả mà thật. Thật mà giả. Cứ như thế diễn đi diễn lại nhiều lần. Cũng vì thế tôi và Nức rất quý mến nhau. Trên sân khấu, dưới ánh đèn sáng trưng, tôi và Nức có thể ôm hôn nhau như vợ chồng thật. Việc làm ấy không bị chê cười và lên án. Trái lại khán giả còn vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng và cổ vũ. Khi khán giả vỗ tay cổ vũ, cả hai chúng tôi đều vui, không một chút e ngại rụt rè mà còn hăng hái nhiệt tình hơn. Ngoài đời, tôi chưa một lần cầm tay Nức. Vì tôi rất nhát gái.
Cô Nức rất đẹp, quả tình tôi rất thích cô ấy. Trái tim tôi nhiều khi rung động, đập rộn ràng. Nhưng tôi chưa dám tỏ tình với Nức. Vì gia đình tôi thuộc diện nghèo khó. Nhà Nức thuộc loại có máu mặt, bố Nức là người có học. Cái quan niệm môn đăng hậu đối còn đè nặng nơi ông ấy. Nghĩ vậy, tôi không dám tỏ tình với Nức. Xem chừng Nức thích tôi và đem lòng yêu vụng nhớ thầm tôi.
Nức dáng người tầm thước. Mặt trái xoan. Đôi mắt bồ câu, đen như hạt nhãn, long lanh như nước suối mùa thu. Da trắng như trứng gà bóc. Mái tóc dày, dài dưới thắt lưng và xanh mướt. Ai nhìn thấy Nức cũng chết mê, chết mệt. Cổng nhà Nức thường xuyên có những chàng trai trồng si nhưng mà không thành. Thời bây giờ kỷ luật nghiêm lắm. Lơ mơ là ăn đòn liền và đánh rất đau. Nên ai cũng sợ.
Thế rồi giông bão bất ngờ ập đến. Cô Nức có thai. Cái bụng của Nức  ngày một lớn dần lên. Trước còn giấu kín, sau cả làng đều biết vì nó cứ chềnh ềnh ra đó. Nó đâm thẳng vào mắt lão Dân. Cụ Hương Bản suy nghĩ và xấu hố quá. Cụ ốm và chết trong tiếng eo xèo của dân làng, Người nhiều chữ nhất làng lại không biết dạy con, để con hư đốn. Cái đau của cụ Hương Bản là ở chỗ đó. Nỗi đau trút lên cả đầu lão Dân. Ai là người dám cả gan, đào móng, khoét tường nhảy vào vườn cấm bẻ cành, trộm đào? Lão Dân lồng lộn như con thú dữ bị thương. Lão tra hỏi em gái:
- Nức! Mày ăn nằm với thằng nào? Có mang với thằng nào?
Nức im lặng. Ngọn roi lại vút, vút, vút dội xuống người Nức. Nhưng Nức vẫn câm lặng như hến, thi gan với những trận đòn roi ngày lại ngày. Lão Dân đi dò la, tra hỏi hết nơi này đến nơi khác mà vẫn kín như bưng, không tài nào tìm ra manh mối, tìm thủ phạm. Dùng đòn roi tra khảo không kết quả, lão Dân dùng chiến thuật dụ dỗ ngon ngọt:
- Em là con gái út trong nhà, bố mẹ và các anh chị rất thương em. Em bị hại, anh rất đau lòng như có ai cắt từng khúc ruột, khúc gan. Ngày đêm anh lo cho em.
- Em chót dại, ăn nằm với ai thì nói với anh để anh còn thu xếp với gia đình người ta tổ chức, cưới xin đàng hoàng. Các em nên vợ, nên chồng, hưởng hạnh phúc trăm năm, cả nhà đều vui. Em cứ im lặng một mình gánh chịu, còn kẻ đang tâm phá hại đời em nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Đẹp như em, hát hay, múa dẻo mà lại chửa hoang thật phí cả cuộc đời. Dân làng chê cười bố mẹ mình không biết dạy con. Bố mẹ rất buồn phiền, ra đường không dám nhìn ai, không biết giấu mặt đi đâu.
Mặc cho anh trai nói, cô Nức không hề hé răng, mở miệng nửa lời. Cô câm lặng như cái xác không hồn. Lão Dân thay đổi phương pháp, chuyển sang xỉ vả:
- Nức! Mày ngứa nghề lắm phải không, thèm khát quá phải không? Sao mày không phơi cái “ấy” ra giữa trời mà kêu lên rằng “ai thèm, ai khát” thì đến. Ngày xưa con gái không chồng mà chửa hoang thì phải cạo đầu bôi vôi dắt đi khắp làng rồi nhét vào rọ ném xuống sông.
Bị đánh đập, xỉ vả thậm tệ, không chịu nổi, cô Nức nhảy xuống giếng tự tử cho thoát nợ đời. Nhưng thật khốn khổ cho cô, chẳng may có người nhìn thấy. Họ cứu được Nức. Cô thoát chết. Nức bỏ làng từ đó đến nay. Cô ở đâu, sống chết ra sao, có trời mà biết.
Đối tượng bị nghi vấn nhiều nhất là anh. Người đầu tiên lão Dân nghĩ tới là anh. Lão có rất nhiều lý do để nghi ngờ anh. Vì anh và Nức thường đi tập và biểu diễn văn nghệ với nhau. Đêm hôm khuya khoắt, anh và Nức thường đi về cùng nhau, lại chỉ có hai người. Có trời mà biết điều gì đã xảy ra. Trước còn nghi ngờ, sau qua tìm hiểu, lão khẳng định anh là người bẻ hoa, đang tâm dẫm nát hoa. Trong anh lóe lên lòng nhân đạo, muốn nhận mẹ con Nức về nuôi. Sau nhiều đêm đắn đo suy nghĩ, anh từ bỏ ý nghĩ ấy. Vì chẳng ai hiểu cho là anh vì nghĩa cả, vì lòng thương Nức. Anh không thể nhắm mắt làm ngơ để lão Dân vu khống buộc tội. Anh cãi lại lão Dân:
- Ngoài những đêm, những thời gian đi tập và biểu diễn văn nghệ với tôi, em gái ông còn đi với ai, ngủ với ai ông có biết không? Ông có bắt quả tang tôi và Nức nằm với nhau không? Ông có bắt được trai trên, gái dưới không? Nếu có tại sao cô Nức không nói với tôi? Vì thế ông không thể nhắm mắt nói bừa, theo kiểu chó cùng cắn dậu.
Lão Dân ngồi im như thóc. Nhưng trong lòng lão vẫn đầy giông bão đối với anh. Lão ta đào sâu cái hố hận thù với anh. Trong trí nhớ của lão ta, anh là kẻ bẻ trộm hoa, chơi hoa chán, lại tàn nhẫn dẫm nát rồi bỏ trốn. Lão bảo anh sở khanh là vì thế. Cái hố sâu hận thù kéo dài mấy chục năm qua. Nếu cái Huyền có thai với con nhà khác thì đâu đến nỗi này. Nếu thằng Dân ở nhà, chắc gì lão ấy cho thằng Dân lấy con Huyền nhà mình. Thằng Dân đi bộ đội lại đang chiến đấu ở miền Nam, lão mới có cớ để từ chối và trả thù. Uất chết đi được, tôi thề không nhìn mặt lão.
Công bằng mà nói, tôi với bà dạy con không đến nơi đến chốn, không đến đầu đến đũa. Đêm hôm để nó tự do đi lại với nhau. Cái kim không đứng im, sợi chỉ lùa thế nào nổi. Tôi muốn khép lại cánh sửa hận thù đối với gia đình lão. Khi biết thằng Dân quan hệ với con Huyền, tôi làm ngơ, bỏ qua. Tôi muốn mở mối quan hệ mới thân thiết bắt đầu từ đôi trẻ. Nào ngờ, khi con gái tôi bị con trai lão đánh cắp cái trinh trắng ngàn vàng, lão lại ngoảnh mặt làm ngơ, còn già mồm lên án, lăng mạ tôi. Những lời nói và hành động của lão là sự trả thù thô bạo và mù quáng. Lão muốn con tôi phải bước theo vết xe đổ của cô Nức, bỏ làng mà đi, cuối cùng chết mất xác ở nơi nào đó. Lão muốn gia đình tôi thành đám tang, cái bia cho thiên hạ chê cười. Lão thâm độc, nham hiểm ở chỗ đó. Tôi sẽ cho lão biết mặt, lành làm gáo, vỡ làm môi, lôi thôi làm thìa.
Cái máu Hoạn Thư trong người mẹ Huyền âm ỉ được dịp bùng cháy. Bà biết cư xử theo kiểu Hoạn Thư. Bà buông ra những câu mát nước thối đá:
- Không có lửa sao có khói. Biết đâu, ông chẳng có phần trong đó, không đúc cốt thì cũng tráng men…
Bố Huyền uất ức, ứa máu lên tận cổ. Ông thét lớn:
- Bà ăn phải bả của lão Dân từ bao giờ. Bà định tiếp tay cho bố con lão Dân để hại tôi à? Bà lợi lộc gì trong chuyện này.
Mẹ Huyền sợ quá. Mặt bà biến sắc. Bà cúi mặt nhìn xuống chân. Bà không đủ can đảm nhìn thẳng vào mặt chồng. Bà thấy ân hận, nhưng toại chân thì dễ, toại miệng thì khó.
Bố Huyền đập tay xuống giường:
- Trách nhiệm của bà để đâu? Bà đẻ con ra mà không biết dạy con. Người xưa nói: “con hư tại mẹ” chẳng sai chút nào. Là người mẹ, bà phải dạy con gái tứ đức, tam tòng, công dung ngôn hạnh. Cái phẩm giá quý nhất của người con gái là gì bà biết không? Chữ trinh. Người con gái mà đánh mất cái đó coi như bỏ đi. Nó với thằng Dân thậm thà, thậm thụt với nhau những lúc đêm khuya thanh vắng bà phải biết chứ. Bà phải theo dõi sát sao và ngăn chặn từ xa khi mới chớm nở chứ.  Đằng này, nó ngủ với con gái bà ngay trước mắt mà không biết. Đến khi con gái bà ễnh cái bụng thì bà mới biết. Bà vô trách nhiệm đến thế là cùng. Thời con gái bà cũng buông thả thế à? Đến tôi là thứ mấy? Bà nói đi xem nào?
Biết chồng đang lên cơn điên khùng, nói năng bừa bãi, lung tung nên bà không chấp. Lúc khác, bà quyết không để ông ấy xúc phạm đến nhân phẩm. Lúc này một điều nhịn chín điều lành. Chồng tới vợ lui, các cụ dạy rồi. Bà chỉ cần cãi lại một câu, cuộc ẩu đả xảy ra tức thì. Bà sẽ nhận được những quả đấm thôi sơn, những cú đá cực mạnh cho đến khi mặt mày sưng vù lên mới thôi. Gia đình sẽ tan nát. Bà tiếp tục ngồi lặng im, cúi mặt xuống.
Bố Huyền nói mãi chỉ tổ mỏi miệng, tốn sức. Ông đành ngồi im. Nếu bà ấy chỉ cần cãi lại một câu là ông đấm đá cho bớt giận và hả lòng hả dạ. Nhưng bà ấy không bỏ đi, không cãi lại mà cứ ngồi im. Thế mới tức chứ. Tức điên người lên. Ông gầm thật to. Ông đi  hết trong nhà lại ra ngoài sân. Ông muốn đập bỏ, đốt cháy cái nhà này đi. Đi thật xa, bỏ lại phía sau tất cả. Nhưng cả dân làng kéo tới. Lạy ông con ở bụi này. Ức chết đi được mà không dám mở miệng, không dám nói to.
Chẳng biết làm gì cho hả cơn giận, ông chạy đi tìm rượu. Ông cầm cả chai rượu đổ ồng ộc vào miệng. Ông uống như người khát rượu từ nhiều năm. Càng uống, càng tỉnh thế mới tức chứ. Chờ mãi, đợi mãi bà ấy không hề mở miệng nói một lời, ức không chứ. Bà ấy là người hiểu ông hơn ai hết. Nhiều năm chung sống với ông đã dạy cho bà ấy “Im lặng! Ngồi đó mà nghe. Đứng lên bỏ đi là tan của nát nhà. Nhừ đòn” Tức quá, ông uống hết một chai 65 rượu. Xưa nay, ông đâu phải hạng người rượu chè be bét. Ông chỉ uống rượu khi vui và có thức nhắm. Uống vài chén cho vui và câu thức ăn. Thế mà hôm nay ông uống nhiều như vậy. Say quá, ông nằm vật xuống giường. Ông ngủ như chết, ngáy như sấm. Giấc ngủ, ông chờ đón cả tháng nay. Giấc ngủ, ông cảm thấy sướng nhất trên đời. Nhờ nó, ông quên tất cả: Vợ con và mọi người xung quanh..
8. Đêm về khuya. Ngoài trời thật là yên tĩnh. Trong nhà chỉ có tiếng ngáy đều đều của ông ấy và mấy đứa trẻ. Mẹ Huyền sang buồng con gái. Bà vặn to ngọn đèn dầu. Con gái bà vẫn thức và đang khóc. Nước mắt đầm đìa cả gối. Đôi mắt  sưng vù như quả nhót, chín đỏ. Người nó gầy rạc đi. Bà nhẹ nhàng hỏi con:
- Đến giờ này mà con chưa ngủ à?
- Con ngủ sao nổi! Vì con mà bố mẹ nặng lời với nhau. Gia đình ta vốn hòa thuận, vui vẻ. Giông bão nổi lên cũng vì con. Gia đình lúc nào cũng nặng nề, âu sầu, ủ rũ chẳng khác nhà có đám tang. Nó khác đám tang vì không có kèn trống, người thăm viếng. Đám tang đứa con gái hư hỏng... Nếu con có gan chết thì thành đám tang ngay tức thì. Bố mẹ khỏi xấu hổ, khỏi bị dân làng chê cười.
Mẹ Huyền động viên, an ủi con gái:
- Con đừng nghĩ quẩn. Chết đâu phải là hết. Voi chết để lại da. Con chết nhưng tai tiếng chửa  hoang vẫn còn mãi mãi. Nhưng người ta cười ba tháng chứ không đóng đám cười ba năm. Việc đã rồi, xấu cũng xấu rồi, khóc cũng chẳng ai thương. Câu chuyện cô Nức em gái ông Dân chửa hoang bỏ làng đi mấy chục năm rồi. Dân làng có quên đâu. Người ta nhắc tới cô, như nhắc tới bài học để răn dạy con gái. Phải dũng cảm lên mà sống. Nồi nước nóng lên rồi phải nguội, không nóng mãi đâu mà sợ. Gió, mưa rồi phải tạnh, phải ngừng. Biết đâu, khi anh Dân về, con và anh ấy lại đoàn tụ thì sao? Phía trước vẫn còn rộng mở. Biết đâu hôm nay là họa, là xấu ngày mai là phúc lại được tôn vinh: Mối tình chung thủy, sống hết mình vì nhau.
- Nhưng bố con đâu hiểu như mẹ. Con rất muốn sống bên bố mẹ và các em, chấp nhận tất cả mọi tai tiếng, mọi lời chê cười. Nhưng “cây muốn lặng gió chẳng dừng”
- Con cứ yên tâm mà sống rồi đâu sẽ có đó. Mẹ sẽ giải thích với bố con dân dần, từ từ. Bố con tính ngay thẳng, nóng nảy nhưng không để bụng lâu.
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa lên khỏi ngọn tre. Các con đi vắng cả, bà Huyền ở nhà vì chồng bị ốm. Ông Huyền tỉnh giấc. Người ông mệt lả. Ông cảm thấy như vừa qua trận ốm nặng. Ông muốn vùng dậy, đi lại cho khây khỏa. Nhưng cái thân không cất nổi cái đầu. Cái đầu cứ rúi rụi xuống. Nó đau nhức và nặng trình trịch, như có ai cầm cái gì đập vào đầu ông. Toàn thân đau ê ẩm. Ông chống tay định ngồi dậy mà không tài làm nổi. Ông đổ vật xuống giường đánh “uỵch”, làm giường rung bần bật. Ông buồn đi tiểu quá. Ông cố lấy sức còn lại, trở dậy. Ông lết ra mép giường. Ông vừa đặt chân xuống đất, cố đứng lên. Nhưng vừa đứng lên, ông ngã chúi đầu xuống đất. Nghe tiếng “huỵch”, bà Huyền từ bếp vội chạy lên. Thấy chồng nằm dưới sàn nhà. Bà định dìu chồng lên giường. Ông Huyền xua tay nói:
- Bà cho tôi đi tiểu! Tiếng ông khàn khàn nghe không rõ.
Bà Huyền hỏi lại 
- Ông nói to lên. Tôi nghe không rõ.
- Bà cho tôi đi tiểu!
- Ông không đi nổi đâu. Ông cứ ngồi yên đấy, tôi đi lấy chậu.
- Nhanh lên!
Ông Huyền đứng dựa vào thành giường. Ông loay hoay mãi mà không cởi nổi quần. Biết vậy, bà Huyền giúp ông làm việc ấy. Ông Huyền nằm xuống giường, người ông như cái dưa héo. Bụng ông nóng như lửa đốt và cồn cào như đang bị bào mỏng. Miệng ông khô cháy, chỉ muốn uống nước. Một cốc, hai cốc nước vẫn thèm, vẫn khát.
Bà Huyền bưng bát cháo hành nghi ngút, thơm nức từ dưới bếp lên, bà ngồi xuống giường dịu dàng, ngọt ngào nói:
- Ông ăn bát cháo hành, tía tô nóng cho đỡ mệt. Cảm sốt mà ăn cháo hành, tía tô là nhẹ ngay thôi mà. Từ trưa hôm qua đến giờ, ông vẫn nhịn đói, có gì ở trong bụng đâu.
Ông Huyền ú ớ trong miệng, ra hiệu:
- Bà đỡ tôi dậy!
Bà trèo lên giường đỡ ông ngồi dậy, tựa vào đầu giường. Bà bón cháo cho chồng, nhỏ nhẹ giải thích:
- Việc đã rồi. Đằng nào thì hoa cũng tàn sau cơn mưa, gió. Ông có phép thần cũng chẳng thể làm tươi trở lại. Ông uống rượu như thế chẳng giải quyết được gì. Nhất thời, ông quên những bực tức, giận hờn, khổ đau. Nhưng sau đó đâu lại hoàn đấy. Chẳng may, rượu say mềm, trúng gió độc, lỡ xảy ra việc gì, vợ con khổ suốt đời, tai tiếng con lưu truyền mãi về sau. Họ không nhận con, nhận cháu, thì vợ chồng mình nhận, có chết ai đâu mà sợ. Việc cái Huyền chửa hoang bay đi khắp làng rồi. Liệu ông có bịt được miệng thiên hạ không? Bàn tay ông có che nổi mặt trời không? Cái mo đã gắn vào mặt ông, mặt tôi rồi. Liệu ông có gỡ nổi không? Ở đời ai chả muốn đẹp, muốn giòn. Chẳng ai muốn trên mặt có vết bớt đen xì xì, xấu xí. Nhưng trời bắt tội vợ chồng mình, chạy đâu thoát. Âu cũng là cái đức, cái vận nhà mình mỏng. Ông cứ điên khùng mãi, cái Huyền dại dột, nghĩ  quẫn bắt chước như cô Nức thì khổ cả đời, uổng công nuôi nó mười mấy năm trời.
Ông Huyền không nói nửa lời mà cứ như cái dọc khoai héo. Nhưng ông vẫn ăn hết bát cháo ngon lành. Ông thấy đỡ mệt và tỉnh táo hơn. Ông lại nằm quay ra giường. Bà Huyền mang tăm, nước cho chồng. Bà không nói nữa. Bà hiểu tính ông như ruộng lúa, ruộng khoai. Khi bà nói, ông im lặng là lúc ông nhận ra đúng, sai, lầm lỗi. Nếu không biết dừng, cứ nói lải nhải mãi, ông lại khùng lên, bất cần đời, hậu quả khó lường. Sức chịu đựng của ông có hạn. Hầu như người đàn ông nào cũng vậy. Là vợ phải biết điều đó, gia đình mới hạnh phúc. Bà để yên cho ông nghỉ.
Ông Huyền nằm vắt tay lên trán, Ông nghĩ bà ấy nói phải. Nhân lúc đắm đò, ta giặt mẹt luôn một thể. Ta dạy cho lão Dân bài học để hắn nhớ đời và trả mối thù xưa, muốn đến đâu thì đến, không nhất thì bét. Đằng nào thì con ông đã chửa hoang rồi, bị kết tội là không dạy được con. Mặt vấy mực rồi, bôi đen luôn một thể, thiên hạ chê cười luôn một thể. Nhưng bằng cách nào? Ông Huyền nghĩ mãi không ra. Ông phải giữ thật kín, đừng để cho ai biết kể cả vợ con.
Những ngày tiếp theo, ông Huyền bình phục rất nhanh. Ông câm lặng như thóc. Ông không hề đi khỏi nhà.
Trưa hôm ấy, mặt trời ngả về Tây. Ông Huyền mang dao đi mài. Ông mài con dao bầu thật sắc, cạo đứt những sợi lông ở chân. Ông quay vào nhà uống vài chén rượu để lấy thêm dũng khí khi bước vào trận. Nhân lúc vợ con lúi húi  dọn dẹp dưới bếp, ông dắt dao vào người và đi thẳng ra cổng.
Bà Huyền linh cảm có điều gì hệ trọng sắp xảy ra. Bà chạy sang nhà em trai. Bà hốt hoảng kêu toáng lên, mặt không còn giột máu:
- Chú Hai ơi! Chú Hai. Án mạng! Án mạng!
- Có việc gì mà bác hốt hoảng thế kia?
- Chú sang ngay có việc gấp. Án mạng xảy ra đến nơi rồi  Bố cái Huyền vừa uống rượu xong tay cầm con dao bầu sáng loáng, mặt sát khí đằng đằng, ông ấy vừa đi ra cổng. Tôi đoán chắc, ông ấy đến nhà lão Dân. Chú chạy nhanh lên can ông ấy lại. Thế nào cũng xảy ra án mạng.
Ông Hai chạy đuổi theo. Bà Huyền chạy lẽo đẽo theo sau. Ông Huyền vừa đi, vừa múa tay, miệng thét lên. Tao liều chết với mày. Người lớn, trẻ con đứng chật hai bên đường. Chạy một đoạn, ông Hai đuổi kịp anh trai. Vừa chạy, ông vừa gọi:
- Bác Huyền! Dừng lại nghe em nói đã!
Ông Huyền lặng thinh, chẳng nói, chẳng rằng. Ông cắm đầu chạy thật nhanh. Tới gần nhà ông Dân, ông càng bước nhanh hơn. Ông đẩy cổng bước vào. Vừa tới sân, ông thét lớn:
- Lão Dân đâu? Ra đây nói chuyện với ta. Ta quyết sống mái với mi.
Không có tiếng trả lời. Tiếng con chó vàng vừa sủa, vừa rút lui: Gâu, gâu.
- Lão Dân đâu? Ra đây ta hỏi? Mi muốn sống hay muốn chết?
Ông Hai nắm áo ông Huyền kéo lại:
- Bác về đi. Bác cho em xin!
Ông Huyền quát lại em trai.
- Chú mặc tôi!
Nghe tiếng người la hét, tiếng chó sủa, mấy đứa trẻ từ nhà bên cạnh chạy về:
- Bố mẹ cháu đi vắng rồi!
Rồi chúng chạy vội đi. Chúng đang mải đánh bi với nhau.
- Mày trốn à? Sợ rồi chứ gì? Ông Huyền nói như thách thức. Ông quay trở về. Ông ấm ức vẫn chưa giết được lão Dân. Ông Hai và bà Huyền lẽo đẽo theo sau. Mừng là án mạng không xảy ra. Ông Hai khuyên giải anh:
- Bác hành động như vậy để làm gì, giải quyết được gì? Bác giết chết người ta. Bác rũ tù. Thế là cả hai cùng chết. Chết! Tiếng xấu để đời. Mối hận thù, từ đời, truyền sang đời con. Máu còn chảy, chảy không ngừng. Ván đã đóng thuyền rồi còn nói gì nữa. Ta mang thuyền ra mà sử dụng. Việc gì phải đập phá thuyền cho phung phí. Ở đời, ai cũng muốn hơn người, chẳng ai muốn đui mù, khoèo tay, thọt chân. Số trời đã định rồi, bác cưỡng cũng không nổi. Bác làm vậy chỉ tổ cho thiên hạ chê cười. Bác không thấy dân làng đứng chật hai bên đường à? Người ta đang xem bác diễn trò và cười bác đó.
Ông Hai quay ra cổng nói với mọi người:
- Bà con cho anh em tôi xin, mời bà con về nhà cho!
Ông Huyền chịu không nổi, thét lớn:
- Chú không phải dạy khôn. Tôi biết cả rồi!
Ông Hai chen ngang:
- Biết rồi mà bác hành động vậy à? Nếu hôm nay ông Dân ở nhà, điều gì sẽ xảy ra. Hai con trâu húc nhau, không chết thì cũng què.
- Tôi không cần chú dạy khôn. Có phải con chú đẻ ra đâu mà chú đau xót. Người ta chê cười tôi đâu cười chú. Chú có cởi truồng đâu mà xấu hổ. Chú về đi! Về đi! Biết anh đã nổi khùng, lên cơn điên. Ông Hai lặng lẽ bỏ về.
9. Đêm hôm ấy, trời không trăng sao. Ngoài trời thật là yên tĩnh. Gió thổi nhè nhẹ. Mắt Huyền chong chong từ chập tối đến giờ. Các em ngủ say không biết trời đất là gì. Bố mẹ mấy ngày đêm căng thẳng, mệt nhoài. Đêm nay không còn sức mà thức nữa, bố mẹ ngủ từ 10 giờ. Mọi thứ sắp xếp rất cẩn thận. Bố mẹ đâu ngờ đến nước cờ Huyền bỏ nhà ra đi. Chị biết ra đi là rất nguy hiểm. Cái chết cầm chắc trong tay. Nhưng Huyền phải ra đi. Số phận mẹ con chị gửi vào may rủi, gửi vào lòng từ bi của đức Phật và lòng tốt của mọi người. Cho dù phải chết, chị không hối  tiếc, không oán trách ai. Chị nhìn căn nhà lần cuối. Hai hàng nước mắt hối hả tuôn chảy. Chị khe khẽ nói: “Con chào bố mẹ, chị chào các em”. Chị vội vàng xách túi ra đi.
Mọi ngày, ông Huyền dậy rất sớm. Uống xong bình nước chè, ông đi nấu cơm, nấu cám lợn. Mệt quá, ông dậy muộn hơn ngày thường. Nhưng hôm nay là chủ nhật, dậy muộn một chút cũng chẳng sao.
Khi cả nhà ngồi cả xuống mâm cơm mà vẫn chưa thấy Huyền dậy, bà Huyền vội chạy lên gọi con. Bà hốt hoảng, sững sờ không thấy con đâu. Bà nhìn xung quanh, quần áo, các đồ dùng cá nhân của Huyền đều không còn. Bà hốt hoảng, choáng váng kêu toáng lên:
- Ông ơi! Ông ơi! Cái Huyền bỏ nhà đi rồi! - Bà dậm chân, đấm ngực thùm thụp. - Ối giời ơi! Ối làng nước ơi! ối con ơi là con ơi! Con đi đâu, bỏ bố mẹ, bỏ các em! Thế là ông giết con tôi rồi. Ông đánh đập, xỉ vả thậm tệ nó chịu sao nổi. Ông hả giận chưa?
Cả nhà đứng dậy, bỏ mâm cơm chềnh ềnh giữa bếp. Đàn gà gọi nhau ùa vào, thi nhau mổ vào bát cơm, nồi cơm. Tranh nhau ăn, đánh nhau chí chóe, kêu quang quác. Con mực thả sức đuổi gà.
Bà Huyền ngồi ở giữa sân vừa khóc, vừa gào:
- Ối làng nước ơi! Con tôi đâu? Con đi đâu, bỏ bố mẹ, bỏ các em.
Ông Huyền mắng át đi:
- Bà làm gì ầm lên thế. Bình tĩnh đi nào.
Nghe tiếng khóc của chị dâu và các cháu, ông Hai là người chạy đến đầu tiên. Hỏi ra mới biết Huyền bỏ nhà đi từ đêm. Ông thấy rõ trách nhiệm của người chú thay mặt cha. Ông nói:
- Tôi nhờ anh em, bà con đi tìm khắp các giếng, hồ ao, sông ngòi. Ai có phương tiện thì đi xa, không có phương tiện thì đi gần. Hàng chục người vội vã, khẩn trương chạy đi khắp nơi, bốn hướng.
Nghe tiếng kêu khóc, dân làng kéo đến thăm hỏi và nghe ngóng tình hình. Người đứng chật sân. Người đứng đầy cổng. Người ta bàn tán, trao đổi đủ điều. Người khen thì ít, người chê thì nhiều. Khen chê đều có lí do. Họ nói: “Con gái hư hỏng, mất nết. Bỏ nhà ra đi, để rồi chết mất xác ở nơi nào đó. Chứ hay ho gì”. Có người lại nói: “Xấu thì đã xấu rồi. Ở nhà đẻ rồi nuôi con. Việc gì phải đi đâu”. Người nói: “Chết là dại. Con chó còn muốn sống huống chi là con người”. Người khác nói: “Sống nhục thì chết quách cho xong. Chết là hết không phải nghe tiếng eo xèo. Như thế là người biết trọng nhân cách. Cô Huyền không chịu nổi sự đánh đập, xỉ vả của gia đình, xã hội”.
Hai giờ sau các ngả đi tìm kiếm trở về đều thông báo không thấy Huyền đâu cả.
Ông Hai lại nói với mọi người:
- Sau khi xem xét kỹ đồ đạc và đọc thư của cháu Huyền, tôi thấy cháu không có ý định tự tử, cháu chỉ bỏ đi thôi. Nhờ  các bác, các anh đi tìm các bến tàu, bến xe ở quanh vùng này chắc là thấy. Mọi người lại hăng hái nhiệt tình ra đi, có người chưa kịp ăn cơm sáng. Ở nông thôn, khi gặp hoạn nạn, bất kỳ ai cũng xả thân giúp đỡ, kể cả công sức, tiền bạc.
Gần trưa. Mặt trời nghiêng nghiêng nhìn rõ căn nhà vẫn chật cứng người. Những người già và là chỗ thân tình, anh em, bà con với ông bà Huyền còn ở lại để chia sẻ nỗi buồn với ông bà và chờ tin những người đi tìm kiếm.
Tất cả đã trở về. Người nào người ấy đều mệt mỏi, bơ phờ, cùng nhau nói không thấy Huyền đâu. Ông Hai đọc thư cho mọi người nghe:
Bố mẹ muôn vàn kính yêu!
Các em vô cùng yêu thương!
Bố mẹ nuôi con từng ấy năm trời, chưa báo đáp được gì. Con để lại tiếng xấu, lời chê cười khiến bố mẹ đau lòng. Vì thế con phải ra đi. Đi đâu con chưa biết? Nhưng đó là lối thoát duy nhất để bố mẹ khỏi đau lòng, khỏi bị chê cười, mai mỉa. Nhờ nó mà ngăn nổi cuộc chiến tranh, hận thù giữa hai gia đình, máu không chảy phí hoài. Cả hai gia đình có chung dòng máu, chung một sinh linh nhỏ bé.
Một đóa hoa nở rồi phải tàn. Tàn sớm hay muộn cũng là kiếp hoa. Bố mẹ cứ xem như con đã chết từ khi mới lọt lòng, đừng thương tiếc và đừng đi tìm kiếm đứa con bất hiếu mà ảnh hưởng sức  khỏe. Trước khi đi, con xin kính dâng bố mẹ lòng biết ơn vô bờ bến. Bố mẹ đừng tìm kiếm con làm gì cho tốn công, vô ích.
Nếu con còn sống sẽ có ngày trở về. Cha con ông cháu sẽ vui vẻ sum vầy. Nhược bằng con không còn nữa, con xin vĩnh biệt bố mẹ và các em yêu quý.
Tạm biệt bố mẹ và các em.
Bà Huyền nói:
- Con Huyền bỏ nhà đi, mang tất cả quần áo lành rách, mới cũ và mọi đồ tư trang.
Cụ Khải là chú ông Huyền nói như đinh đóng cột:
- Căn cứ vào thư cháu để lại và các thứ mang theo, ta có thể kết luận: Cháu Huyền bỏ nhà trốn đi vì những bức bách chứ không có ý định tự tử.
Mọi người đều nhất trí với kết luận của cụ Khải. Bố mẹ Huyền thấy phần nào cảm yên tâm vững dạ hơn. Vì ông bà và mọi người còn hy vọng có ngày Huyền sẽ trở về.
Tuy vậy, gia đình ông Huyền vẫn như bị phủ kín tấm bạt lớn của sự nặng nề, không khí buồn thảm, ảm đạm khắp nhà, ngoài sân, ngoài vườn. Gia đình như một đám tang, bà Huyền và những đứa em khóc lóc gọi con, gọi chị. Chỉ khác đám ma là không có khăn tang, không có kèn trống. Mọi công việc ngưng trệ. Ngày vẫn ba lần đỏ lửa nhưng ăn uống chẳng ra sao. Bố mẹ Huyền thở ngắn than dài và đổ lỗi cho nhau, vào lúc khác có khi đã cãi nhau, đánh nhau rồi.
Ông Huyền nói:
- Chung quy, chỉ tại bà dạy dỗ con không đến nơi đến chốn “Phúc đức tại mẹ. Con hư tại mẹ.” Cổ nhân dạy chẳng sai câu nào.
Bà Huyền không chịu nổi, đổ lỗi cho chồng với lý lẽ sắc sảo:
- Con tôi cũng là con ông. Dạy con là trách nhiệm của ông và tôi. Cho con bú mớm là người phụ nữ. Dạy con biết điều phải trái là trách nhiệm của ông. Nếu ông không đánh đập, xỉ vả  nó thậm tệ thì đâu đến nỗi. Ông có mang nặng đẻ đau đâu mà ông xót - Bà bật khóc tức tưởi - Huyền ơi! Bây giờ con ở đâu? Huyền ơi! Việc gì con phải tự kết tội mình và đày đọa thân mình? Huyền ơi! Con sống hay chết? Huyền ơi! Con có thương mẹ và nhớ các em không?
Đau xót quá, ông Huyền vẫn tỏ ra cứng cỏi, thét vợ:
- Bà im miệng cho tôi nhờ. Tôi đang chết từng khúc ruột, khúc gan đây. Con mất đằng con, nỗi nhục này bao giờ rửa nổi?. Bà không chia xẻ còn đay nghiến cái nỗi gì. Bà muốn tôi phải làm gì?
Ông đi đi, lại lại. Bà ngồi kể hành, kể tỏi… Vợ chồng điều qua tiếng lại đủ rồi. Chỉ còn cách thượng cẳng chân, hạ cẳng tay thôi. Nhưng lúc này... Đau đớn quá. Buồn nẫu ruột. Ông lại tìm đến rượu để giải cơn sầu. Rượu đưa ông vào giấc ngủ và quên tất cả. Hết rượu, ông tỉnh lại. Ông lại uống tiếp. Chẳng biết ông uống đến bao giờ. Hay chỉ khi nào con ông trở về và hết oán hận với lão Dân, ông mới thôi uống rượu. Anh em làng xóm khuyên can, ông coi như không nghe, không biết. Ông sống trong thế giới riêng.

10. Nắng Côn Đảo chan hòa rực rỡ. Trời Côn Đảo xanh xanh thắm. Thỉnh thoảng đám mây lững lờ trôi. Biển Côn Đảo tít tắp màu xanh trong. Sóng ngày đêm ì ầm vỗ bờ. Từng đàn Hải Âu sải cánh bay. Con tàu phành phạch rẽ sóng đưa đoàn người ra Côn Đảo.
Dân đến Côn Đảo vào một ngày như thế và mang theo hồ sơ: “Cán binh Bắc Việt, bị thương và bị bắt làm tù binh, qua nhiều lần thẩm vấn”.
Cái lệ ở đây, những tù nhân từ đất liền ra Côn Đảo đều phải qua một lần thẩm vấn để bổ sung vào hồ sơ. Tùy theo mức độ “ngang bướng”, cuộc thẩm vấn này có thể coi là khúc nhạc dạo đầu, chào mừng tù mới nhập đảo. “Khúc nhạc” này đã khiến nhiều người trở thành tàn phế vĩnh viễn thậm chí ra đi không về. Nếu vượt qua cửa ải này sẽ được xếp “thứ hạng tù”.
Buổi tối hôm ấy, Dân được thiếu tá Thiềng “đón tiếp”. Thiềng là dân võ biền, chữ nghĩa không kín cái lá đa. Nhưng hắn đi lên từ đấm đá nội bộ và bắn giết nhân dân. Tuy ít học nhưng Thiềng rất ranh ma, lọc lõi.
Thiềng to lớn khỏe mạnh, bắp chân, bắp tay nổi cuồn cuộn. Hắn tôn thờ Hít-le và Nguyễn Cao Kỳ làm sư phụ và thần tượng. Hắn để râu theo kiểu quan thầy. Đôi mắt ốc nhồi, trắng dã như lợn luộc. Lông mày sâu róm. Mồm rộng, tiếng nói ồm ồm và điệu cười hềnh hệch khả ố. Tóc chải mượt theo kiểu gọng kính. Nước da đen xì gần giống người Ma-rốc. Nhờ thành tích chém giết, hắn được giao phụ trách an ninh, chỉ dưới quyền “chúa đảo” nhưng có quyền theo dõi cả lãnh chúa. Vì thế tên này thường gầm ghè lại chúa đảo, luôn tìm cách để quật với chúa đảo. Hắn thường nói ra miệng: “Những tên Việt Cộng ra tới đây gan cóc tía cũng phải mở miệng. Nếu không nhận thì cầm chắc phải què quặt, hoặc toi mạng”.
“Tiếp” Dân, hắn cởi trần trùng trục. Cây thánh giá ngoại cỡ lủng lẳng trước ngực như muốn nói với mọi người hắn là con chiên ngoan đạo. Trước khi hỏi Dân, hắn không quên làm dấu “cha con thánh thần” và uống rượu. Ngực hắn đầy lông lá. Cánh tay xăm hàng chữ “Hận thù cộng sản”. Hắn thường giải thích: “Cộng sản bắn chết cha hắn, cướp toàn bộ đất đai tài sản của hắn. Nên hắn phải theo chúa vào Nam”. Cha hắn là địa chủ cường hào gian ác có nhiều nợ máu với nhân dân. Bản thân hắn, khi còn ở miền Bắc cũng đi lính và có nhiều tội ác với nhân dân.
Hắn hách dịch hỏi Dân:
- Quê tỉnh nào?
Im lặng. Hắn quát:
- Mày câm à? Không trả lời phải không?
Dân trả lời rõ  ràng:
- Tôi khai trong hồ sơ rồi. Ông không đọc đấy thôi.
Hắn trợn đôi mắt ốc nhồi, đỏ ngầu:
- Mày bướng với ông à?
Hắn như con thú dữ, ngực đầy lông lá, vung cánh tay xăm chằng chịt lao về phía Dân, “tặng” ngay anh quả “phật thủ” vào mặt. Hắn hét:
- Đ. mẹ chúng mày. Tao bỏ quê theo chúa vào đây mong được yên thân mà chúng mày không buông tha. Chúng mày tham lắm, nhường một nửa nước mà vẫn chưa hài lòng.
Xem chừng chưa hả dạ, hắn bồi thêm mấy quả nữa vào người Dân. Dân thấy mắt nảy đom đóm, cứ như sao sa, đầu choáng váng, loạng choạng suýt ngã. Dân gắng gượng đứng dậy. Mặc dù bị những quả đấm như búa tạ giáng vào mặt. Nhưng Dân không khiếp sợ, tuy rất đau. Hắn tống thêm một loạt nắm đấm vào ngực, vào bụng anh. Dân đứng không vững nữa, ngã gục xuống sàn nhà.
Hắn cười sằng sặc:
- Ngã rồi à? Chịu không nổi à? Đau lắm phải không?
Hắn bỏ Dân nằm đó, đi uống rượu. Dân nghĩ, phải cố chịu đựng, không để bọn chó săn, bán nước coi thường. Ở đời,  hơn nhau lòng dũng cảm, lòng kiên trì chịu đựng. Hắn nói gì, cứ mặc xác, tạo cho hắn tâm lí “chiến thắng và vui vẻ”.
Hắn sai đổ nước cho Dân tỉnh. Tự tay hắn trói Dân vào cột. Hắn lại tiếp tục đánh anh. Đánh mãi đau tay nên hắn phải dùng gậy. Trong sâu thẳm lòng hắn, căm thù và không đội trời chung với cộng sản. Nhưng đối với cộng sản Bắc Việt lòng căm thù còn tăng lên gấp bội. Hắn đánh Dân tới trưa. Mặc dù đau đớn nhưng Dân nghe rõ tiếng chuông đồng hồ. Mệt quá, hắn bỏ đi, buông lại lời phía sau: “Thằng này gan lì tướng quân và chịu đòn giỏi lắm. Tao thấy ít đứa như nó”.
Hôm sau, Dân tỉnh táo trở lại. Mặt trời chiếu những tia nắng vàng rực rỡ đầu tiên xuống căn phòng. Căn phòng trống trải, hôi hám vắng bóng người. Lũ chuột, lũ gián thi nhau chạy đi chạy lại. Người Dân đau nhừ. Dân biết hắn tống vào nhà biệt giam.
Những ngày sống trên đảo, tin tức bên ngoài đều bị bưng bít và bóp méo. Vì những người đưa tin không ai khác ngoài những tên lính, tên ác ôn khét tiếng, đâm chém người không ghê tay. Nghe để mà nghe, không ai dại dột, tin vào đầu lưỡi những tên dạ thú mặt người ở nơi đây. Nhiều khi nghe chúng nói phải hiểu ngược trở lại, tốt thành xấu và xấu thành tốt.
Những ngày cuối tháng tư năm 1975, tụi chúng bàn tán rất nhiều về tình hình chiến sự, cư xử với tù nhân mang chút tính người hơn.
Sáng hôm ấy, mặt trời lên cao, tù nhân nghỉ giải lao. Tên thiếu tá Thiềng, khét tiếng ác ôn nói với Dân:
- Quân giải phóng tiến sát Sài Gòn rồi. Miền Nam sẽ hoàn toàn giải phóng. Nay mai, các ông sẽ được trở về với đồng đội.
Dân hỏi lại:
- Còn ông đi đâu? Làm gì?
Hắn cười hề hề, để lộ bộ răng cải mả với những chiếc răng vàng khè,  to đùng. Hắn thừ người buồn rầu trả lời:
- Ngồi thay chỗ các ông! Được chưa? Vui lòng chưa?
- Nếu đúng như ông nói. Chúng tôi không độc ác và đánh đập tù nhân  tàn bạo, dã man như các ông đâu. Tôi hứa danh dự. Các ông cứ tin đi.
Hắn chép miệng, cười hềnh hệch:
- Không tin cũng phải tin. Các ông không đánh đập, không giết người như chúng tôi. Nhưng các ông dùng quần chúng nhân dân đấu tố, xỉ vả chúng tôi. Khi ấy, tôi thà ăn kẹo đồng cho xong chứ không chịu để ai làm nhục.
Dân không nói gì thêm, lặng lẽ bước đi. Bỏ mặc hắn ở lại phía sau. Dân nghĩ: Chiến thắng đến nơi rồi. Dân sẽ trở về với đồng đội, cha mẹ, người thân và Huyền. Dân lại bước chân vào giảng đường Đại học để học nốt năm cuối. Đó là ước mơ, nguyện vọng của Dân. Với điều kiện sức khỏe, Dân không thể ở trong quân ngũ. Đó là điều đáng tiếc và thiệt thòi. Ngày tàn của chế độ tay sai bán nước và lũ cướp nước đã điểm. Lòng Dân vui như đi trẩy hội, trống giục cờ bay.
Những tên quỷ mặt người, cứ tưởng không biết sợ là gì. Ai ngờ, hôm nay chúng đang khiếp sợ trước khí thế chiến thắng như chẻ tre của quân dân ta. Gần đây, chúng nó bàn tán sôi nổi, ầm ĩ việc di tản chạy ra nước ngoài. Vợ con những tên cai ngục ra sức thu gom đô-la, vàng để chuẩn bị chuồn ra nước ngoài. Công việc quản lý tù nhân có phần lỏng lẻo hơn. Chúng lo cho số phận, tương lai tiền đồ hơn công việc. Tiếng dùi cui, tiếng roi vọt, tiếng chửi bới thưa hẳn, giảm hẳn. Những tiếng nói có chút tình người bắt đầu xuất hiện trên miệng lũ thú dữ tưởng là điều không tưởng thì nay là sự thực.
Khi quân ta tiến vào dinh Độc Lập, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng như tiếng sét nổ trên đầu chúng giữa trời quang mây tạnh. Cả hệ thống chính trị và lý tưởng chống cộng bao năm qua hoàn toàn sụp đổ không thể cứu vãn. Chúng chỉ còn nghĩ tới cách thoát thân, ba mươi sáu chước, chuồn là thượng sách. Nhưng chuồn có nhiều cách khác nhau, tùy thuộc khả năng tiền bạc, chức vụ, tội ác của mỗi tên. Tên Thiềng giữ đúng lời hứa, dùng súng bắn vào đầu kết liễu cuộc đời dã thú của hắn. Đó là cách chạy trốn thứ nhất.
Hôm ấy, trời âm u, ảm đạm. Sóng biển ầm ầm đổ vào bờ cát mịn. Gió thổi mạnh. Tàu Mỹ như con vật khổng lồ, chết từ lâu, mùi hôi thối  tỏa ra làm ô uế không khí và biển cả. Những sĩ quan, binh lính ngụy như những con ruồi nhặng bu vào cái xác chết, đậu vòng trong vòng ngoài, chen chúc nhau để kiếm ăn.
Người leo được lên tàu rồi, muốn tìm cho mình một chỗ ngồi. Nhưng tàu chỉ có hạn, người đi tàu lại quá nhiều nên xảy ra cuộc cạnh tranh, ẩu đả gay gắt chẳng khác nào cái chăn hẹp người này kéo thì người kia bị hở. Cuộc giành giật này tất xảy ra xô xát nhau, để có nơi ngồi yên ổn, thoái mái. Quy luật của muôn đời là kẻ mạnh thắng kẻ yếu. Chúng loại trừ, khử nhau bằng các cuộc ẩu đả chết người, người yếu sẽ bị hất khỏi tàu rơi xuống biển. Thỉnh thoảng lại có tiếng người rơi xuống biển “ùm, ùm”. Lúc này rơi xuống biển hãy còn may, không phải làm mồi cho cá, chầu hà bá. Họ có thể ngoi lên bờ, tiếp tục cuộc chen lấn trên mặt đất.
Người còn đứng ở cầu tàu, mang hết sức lực mà xô đẩy, chen lấn để lên tàu. Cầu tàu nhỏ hẹp, người đứng chật ních, ai cũng muốn lên được tàu. Cuộc chiến ở đây còn nguy hiểm hơn. Người phía trước chưa dịch bước nổi vài centimét, người phía sau ép tới, giục “nhanh lên”. Có người còn dùng vật cứng nện vào đầu người phía trước, kêu chí chóe. Có người đau quá, ngồi thụp xuống, bị người phía sau đè lên trên, xéo lên đầu, lên chân, lên tay kêu oai oái. Ngạt quá, đứng lên để thở liền bị hất xuống biển “òm, òm”. Người ta vội ngoi lên lại tiếp tục vào cuộc chen lấn trên mặt đất. Người vất vả, khổ sở hơn cả trong cuộc di tản này là phụ nữ và trẻ em. Họ có tội tình gì mà phải di tản, chịu cảnh chen lấn chết người này.
Người còn đứng trên đất liền mới đông và dài, dài vô kể. Cảnh hỗn độn ở đây còn mãnh liệt, tàn bạo hơn, dễ gây ra tai họa cho con người. Họ hò hét nhau cố lên lên nhưng tàu đã chật ních. Người trước không lên được tàu, người sau cứ đẩy lên, nhiều cuộc xô xát, đánh lộn đã xảy ra. Đã có người bị thương và bỏ mạng. Dòng người cứ như thác lũ ào ào tràn về.
Con tàu nổ máy, chuyển mình, hất không biết bao nhiêu người còn đứng ở cầu tàu lăn xuống biển. Có người cố bám vào tàu, lập tức bị người trên tàu nện vào tay một cách tàn nhẫn không tương tiếc. Tàn bạo hơn, có người còn dùng dao chặt đứt người bám vào tàu, liên tiếp tiếng “òm, òm”  “ùm, ùm” ngã xuống biển. Tàu dứt tình ra đi, dứt tình với các “chiến hữu, đồng minh”. Vì kẻ điều khiển con tàu cũng phải nghĩ đến nếu không muốn bị quân giải phóng bắt làm tù binh…
Những tên lính và hạ sĩ quan có cuộc chạy trốn cho riêng mình. Việc làm đầu tiên là vứt bỏ vũ khí để thoát thân. Bỏ súng nghĩa là đầu hàng, không ai còn nổ súng vào kẻ đầu hàng. Nhưng vẫn con quần áo mũ nón, giày dép mang trên mình thì vẫn là lính. Thế là họ cởi hết, vứt hết cả ra đường mà chạy. Súng đạn, quần áo, giày do kẻ bại trận quẳng ra đường khiến đến nỗi làm nghẽn tắc giao thông, cản trở việc đi lại của nhân dân.
Những lá cờ ba sọc, một giờ trước đây còn đứng trên cột cao, trên nóc các công sở phấp phới, ngạo nghễ tung bay trong gió. Giờ đây cũng nằm trong số phận chung bị ném cả ra đường. Bị bàn chân của chính những người chạy trốn đầy bùn đất dẫm lên. Cuối cùng chỉ còn là mảnh giẻ rách, đầy bùn đất. Tất cả đều chung số phận với chế độ sản sinh ra nó.
Quân giải phóng  ra đảo tiếp quản và đón các chiến sĩ bị tù đày về đất liền. Mọi người cùng nhau hò hét, cùng nhau hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, cùng nhau nhảy múa. Hình như tất cả sức lực còn lại sau những năm tù đày họ đều mang ra hết ca hát, nhảy múa cho thỏa tích. Những người yếu quá, họ vui đón ngày giải phóng bằng nụ cười, nước mắt và những cái vẫy tay. Những lá cờ của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phần phật, hiên ngang tung bay trên đảo trong nắng gió biển. Ai cũng hả lòng, hả dạ và đều thấy như mình được sinh ra từ đây. Ngày vui trọn vẹn khiến Dân lại nhớ tới đồi sim quê nhà, nhớ Huyền, nhớ tới cha mẹ, người thân. Ngày vui sum họp đến từng ngày, từng giờ. Khi về tới nhà, đặt ba lô xuống, Dân sẽ chạy tới ôm Huyền vào lòng thật chặt, kể cả con nếu có.
11. Rời Côn Đảo, nơi có nhiều kỷ niệm bi tráng, rời nơi rèn luyện khí phách của người chiến sĩ cách mạng, Dân về đất liền vào đúng dịp hoa phượng nở rực đỏ. Dân nhớ tới đời sinh viên với bao hoài bão ước mơ, nhớ những mùa thi. Những kỷ nệm của thời trai trẻ, ùa về choáng ngợp tâm hồn anh. Dân được nghỉ ngơi, bồi dưỡng sức khỏe và học tập về tình hình, nhiệm vụ mới của đất nước. Niềm vui chiến thắng hân hoan giúp anh nhận rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước. Thể theo nguyện vọng của Dân, anh được trở lại trường để học năm cuối cùng.
Vào một ngày đẹp trời, mây núi giăng đầy. Chim hót líu lo, ánh mặt trời thẹn thùng đã nấp sau những dãy núi phía xa. Hoàng hôn vội vã buông xuống núi,  những tia nắng vàng yếu ớt cố vươn lên, đậu trên những ngọn cây.
Vợ chồng ông Dân vừa đi làm về. Bà Dân ba chân, bốn cẳng đi chuẩn bị cơm tối. Ông Dân lúi húi rửa chân ngoài giếng. Bỗng có tiếng: “Con chào bố”. Ông Dân ngẩng đầu lên, ngỡ ngàng kêu: “Bà ơi! Thằng Dân về” Bà nói từ trong bếp vọng ra: “Ông có mê không đấy. Thằng Dân hy sinh rồi còn đâu. Dân kêu lên: “Mẹ ơi! Con về thật đấy!”. Mừng quá, bỏ cả nồi cơm, bà chạy nhào ra. Mẹ con ôm chầm lấy nhau. Hàng xóm, láng giềng chạy ùa cả tới. Mọi người đều ngỡ ngàng trước sự trở về của anh. Ông bà Dân mừng lắm. Bà Dân nóng bỏng trên má bởi những dòng nước mắt. Ông can bà: “Con về, tại sao bà khóc. Bà phải vui lên chứ!” Bà trả lời chồng: “Tôi mừng quá đấy mà”. Bà đi nấu ấm nước để mời mọi người uống. Nhà ông Dân chật kín người đến mừng đón Dân trở về. Ông Dân sai con đi mượn thêm bàn ghế, ấm chén khắp xóm mà vẫn thiếu. Người già, người lớn tuổi ngồi trên giường, trên phản, bàn ghế. Người trẻ tuổi đứng chật trên hè, dưới sân. Ai cũng muốn biết về sự sống chết của anh. Dân kể vắn tắt cho mọi người nghe. Anh không may bị thương, bị giặc bắt làm tù binh và đày ra Côn Đảo từng ấy năm. Đơn vị tưởng anh chết nên báo tử về gia đình. Ai cũng trầm trồ, ngạc nhiên và mừng anh còn sống trở về.
Nhìn thấy con gầy còm, ốm yếu, chân bị thương đi tập tễnh, lòng mẹ quặn đau. Mẹ khóc sụt sùi. Mặc dù, anh đã được nghỉ ngơi, bồi dưỡng, sức khỏe tăng lên nhiều rồi. Nhưng Dân vẫn như cái cây bị ốm, phơi mình dưới nắng hạn, mưa bão nhiều năm nên phải có thời gian bồi bổ sức khỏe mới hoàn toàn phục hồi.
Cả một tuần, nhà Dân lúc nào cũng đông nghịt người đến thăm. Dân suốt ngày bận bịu tiếp khách và luôn miệng “tái bản” về sự sống chết của mình. Những người đến thăm, Dân thấy thiếu gia đình Huyền và cũng chẳng thấy ai nhắc tới nàng. Linh tính báo cho Dân biết những điều chẳng lành và khoảng cách giữa hai gia đình không nhỏ. Trái tim Dân nhói nhói lo âu dù chưa biết sự việc ra sao? Thực lòng, Dân muốn chạy đến hỏi xem sự thể thế nào? Nhưng Dân thấy chưa tiện, vì đối với ông bà Huyền anh chỉ là người dân người làng, thân thiện hơn là người kèm cặp Huyền học tập. Từ ngày về, Dân chưa đến kịp thăm gia đình nhà ai, kể cả chú bác ruột anh.
Nhìn thấy bảng vàng Tổ quốc ghi công liệt sĩ Phạm Đình Dân treo trên tường và bàn thờ, đầy chân nhang lòng anh không khỏi bùi ngùi, quặn đau. Dân bắc ghế trèo lên tường gỡ bằng Tổ quốc ghi công xuống và dọn dẹp bàn thờ cất đi làm kỷ niệm.
Nhân buổi tối rỗi rãi, đẹp trời. Gió thổi nhè nhẹ.  Dân đến thăm bố mẹ Huyền. Vừa thấy anh, bà Huyền òa khóc và kể lể:
- Huyền ơi! Anh Dân  đã trở về và đến tìm con. Hiện nay con ở đâu, còn sống hay chết? Nếu còn sống, con hãy bế con về gặp anh ấy. Chẳng may con đã chết thì con báo mộng về cho mẹ và anh Dân biết. Nếu con chết rồi, con sẽ thổi tắt ngọn đèn cho mọi người cùng nhìn. Chờ mãi, đợi mãi, ngọn đèn vẫn sáng tỏ. Bà Huyền nở nụ cười: Nó còn sống anh Dân ạ!
 Trong lòng Dân lóe lên tia hy vọng. Dân thành thật nói:
- Huyền còn sống mẹ ạ! Con tin là như vậy. Huyền không thể chết. Mẹ hãy kể lại tường tận, tỉ mỉ những gì xảy ra khi con đi vắng?
Những lời mẹ Huyền nói như xoáy vào tim gan Dân, làm vỡ tung ra ngàn mảnh. Đầu óc Dân choáng váng, nhìn ngọn đèn lúc tắt, lúc tỏ cứ như những vì sao trên trời lấp lánh tỏa sáng.
Ông Huyền ngồi lỳ trên phản chẳng nói chẳng rằng, miệng ông như người vừa trúng gió độc bị cấm khẩu.
Dân đến bên bà Huyền từ tốn nói:
- Con xin lỗi mẹ. Lỗi là tại con. Mẹ kể hết đầu đuôi câu chuyện với con rồi. Những ngày tới con sẽ đi tìm Huyền. Nếu không tìm thấy cô ấy, con thề suốt đời chẳng lấy ai để chuộc lầm lỗi của mình. Con nhớ mãi lời thề, đêm chia tay trên đồi sim, Huyền nói: - Kẻ nào phản bội sẽ bị chú cuội ném cành đa vào mặt cho tới khi chết. Con và cô ấy nặng tình, nặng nghĩa lắm. Cô ấy mang theo giọt máu của con. Vì muốn con yên tâm đi đánh giặc nên Huyền tự nguyện hiến dâng tất cả cho con. Một tấm lòng vị tha, sự hy sinh cao cả. Con mãi mãi biết ơn Huyền. Nhờ Huyền mà con yên tâm đi đánh giặc. Nhờ Huyền mà con dũng cảm, hiên ngang trước kẻ thù. Thành tích mà con có được và sự tiến bộ như hôm nay, công lao một nửa thuộc về Huyền. Con xin cha mẹ, một ngàn lần cầu xin cha mẹ tha thứ và đừng trách cứ cô ấy. Người có tội là con. Tất cả là tại con. Xin cha mẹ cứ trách phạt.
Dân đứng tựa lưng vào cột như người tự trói mình, ngay bên cạnh ông Huyền. Dân chờ đợi sự hỏi tội của ông bà Huyền. Chờ mãi, đợi mãi, không thấy ông bà Huyền ra tay. Dân lại giục:
- Bố mẹ còn ngần ngại gì nữa mà không ra tay. Bố mẹ có thể chửi mắng, đánh đập cho hả lòng, hả dạ. Thậm chí có thể chém bỏ, con không một lời ca thán. Con làm thì con chịu. Con đã nhiều lần đối mặt với kẻ thù, nhận đủ những đòn tra tấn tàn bạo, độc ác mà chưa hề rơi nước mắt, chưa một lời van xin. Nhưng trước cha mẹ con xin chịu mọi sự trách phạt:
- Cha mẹ con đắn đo gì nữa. Hãy xử tội con đi!
Bà Huyền gạt nước mắt giục chồng:
- Ông Huyền! Ông nói gì đi chứ!
Ánh đèn tỏa sáng. Ông Huyền ngồi như phỗng đá, nước mắt chảy từng dòng, từng dòng trên mặt. Lần đầu bà thấy ông khóc. Bà cũng xịt xoạt khóc theo. Bỗng ông Huyền như tỉnh cơn mê. Ông đứng dậy, đôi tay run run, kéo Dân ngồi xuống phản:
- Con ngồi xuống đây, bố mẹ nói con nghe!
Nhưng Dân không ngồi, anh đứng như trời trồng. Mặt Dân đanh lại, mắt nhìn thẳng, môi mím chặt. Ông Huyền bộc bạch nỗi lòng giấu kín bấy lâu:
- Con và Huyền thương yêu nhau, bố mẹ có biết. Bố mẹ không ngăn cản, trái lại còn ngấm ngầm tác thành cho các con. Tình yêu của các con được nhom nhén từ khi để chỏm, ngồi trên lưng trâu, giúp đỡ nhau học tập cho tới khi khai hoa kết quả. Con là người có tài, có đức được mọi người yêu mến. Con và Huyền rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Ngày qua tháng lại sâu nặng tình nghĩa tao khang. Con đi chiến đấu. Huyền có thai. Nếu ông bà bên ấy nhận con, nhận cháu thì cái Huyền không bỏ nhà ra đi, mới dẫn đến cảnh chia ly đau xót và thương tâm. Anh trở về, bố mẹ rất mừng. Nhưng lòng bố mẹ quặn đau, đứt từng khúc ruột, khúc gan, xót thương cái Huyền bụng mang dạ chửa một mình thân gái dặm trường, lành ít, dữ nhiều. Nhờ trời, nhờ Phật phù hộ, nó còn sống chắc có ngày tái ngộ. Chẳng may, mẹ con nó không còn nữa, âu cũng là số phận, biết trách ai. Nếu Mỹ không đưa quân vào xâm lược miền Nam, con không đi bộ đội vào Nam chiến đấu, không bị tù đày thì đâu đến nỗi. Con không nên bận tâm, không phải kết tội và hành hạ bản thân nữa. Con đã đổ nhiều xương, máu trong chiến đấu, lại bị chúng đánh đập, tra tấn hành hạ nhiều năm trong nhà tù. Bố mẹ rất hiểu và thương con. Khi con trở về, đối xử với bố mẹ rất tình nghĩa. Con yên tâm học tập và bồi dưỡng sức khỏe. Hạnh phúc còn dài, tương lai rộng mở phía trước. Bố mẹ mừng cho con.
Hôm nay, bà Huyền mới hiểu lòng chồng. Thì ra ông ấy cũng rất thương anh Dân và cái Huyền. Bao nhiêu năm suy nghĩ để ông nói được như hôm nay. Bà Huyền hồ hởi nói thêm:
- Bố con nói vậy là rất phải. Cái Huyền chắc cũng yên phận ở nơi nào đó rồi. “Con mọc răng nói năng gì nữa”. Nếu còn sống chắc mẹ  tin một ngày nào đó, cái Huyền sẽ dẫn con về. Chẳng may số phân hẩm hiu đối với nó cũng đành biết làm thế nào. Thời gian đâu còn ngắn nữa.
Lúc này Dân mới dám mở miệng:
- Con còn một khuyết điểm nữa. Khi sự việc xảy ra, con không nói cho bố mẹ con biết. Đêm chia tay cuối cùng, con và Huyền mới chính thức ăn ở với nhau. Sáng hôm sau, con phải đi sớm nên không kịp nói với bố mẹ. Con ân hận mãi, gửi bao nhiêu thư về nhà mà không tới. Một ngàn lần, một vạn lần xin bố mẹ tha tội chết.
Ông Huyền ngước mắt nhìn Dân nói:
- Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại. Con biết nhận lỗi, bố mẹ cũng lượng thứ. Nỗi đau thành sẹo rồi. Nhắc tới là nói tới kỷ niệm, để thông cảm và thương nhau hơn. Nếu con không đi đánh giặc nơi xa thì đâu đến nỗi này. Tất cả đều do chiến tranh. Bây giờ con định làm gì?
- Cám ơn bố mẹ. Con sẽ học nốt năm cuối cùng Đại học. Sau đó con đi dạy học. Dạy học là nghề con yêu quý, tự nguyện gắn bó suốt đời.
Những ngày ở nhà, lúc nào Dân cũng thở ngắn than dài, đứng ngồi không yên. Lúc nào, lòng Dân cũng như lửa đốt. Ngày ăn không ngon, đêm ngủ không tròn giấc. Nỗi nhớ nhà đau đáu từng ấy năm trời. Về tới nhà lại thiếu vắng, trống trải cái gì đó mà không gì bù nổi mà cũng không thể nói ra được. Lúc nào anh cũng nghĩ tới vợ con. Vì anh mà mẹ con Huyền phải đội trên đầu hai tiếng “chửa hoang”. Mẹ chửa hoang, con hoang. Người đời chê cười, dè bỉu mẹ con Huyền. Nỗi nhục dai dằng suốt cuộc đời. Chỉ khi nào tìm thấy mẹ con cô ấy mới cởi được cái mũ “chửa hoang” trên đầu. Nó như cái vòng kim cô Phật bà quan âm gắn trên đầu Tôn Ngộ Không. Vì thế Huyền phải bỏ nhà ra đi,  lìa bỏ cha mẹ và các em. Mười năm rồi, Huyền chưa dám về thăm quê, thăm cha mẹ và các em. Mẹ con cô ấy sống tha phương cầu thực nơi nào? Còn sống hay chết? Huyền còn sống, con anh còn sống. Huyền chết, con anh chết. Hai mẹ con nhưng là một. Nó là con trai hay con gái? Nó mạnh khỏe hay èo ọt? Nếu con sống, con anh hơn chín tuổi rồi. Liệu có được học hành đến nơi đến chốn không? Đời sống của mẹ con Huyền ra sao? Dân gian có câu: “Tốt phô ra, xấu xa đậy điệm”. Cứ theo cách đó mà suy, mẹ con Huyền không về quê, không tin tức gì là mẹ con Huyền đang gặp khó khăn trở ngại lớn. Nếu bố anh nhận con, nhận cháu thì không có sự chia lìa này. Bao nhiêu câu hỏi cứ khoan, xoáy mãi vào trái tim anh. Dân chưa tìm ra câu trả lời. Lẽ ra hôm nay, anh và Huyền được sống bên nhau. Anh được ôm vợ con vào lòng mà hôn hít, tận hưởng hạnh phúc sau bao năm xa cách. Dân tha hồ mà kể cho Huyền nghe những câu chuyện chiến đấu hào hùng, những ngày gian khổ ác liệt thừa sống thiếu chết trong nhà tù của Mỹ - ngụy. Huyền sẽ gục đầu vào vai anh mà khóc rồi kể về sự đau đớn khi phải vượt cạn và nỗi vất vả, khổ cực phải nuôi con một mình.
Sự cố chấp của cha mẹ anh dẫn đến hậu quả là sự chia ly, đẩy Huyền ra ngoài đường đang lúc bụng mang dạ chửa, trong tay không một đồng xu dính túi. Bước chân khỏi nhà, Huyên không biết đi đâu, sống bằng gì, tương lai mờ mịt, chui vào đường hầm không lối ra. Liệu bố mẹ có độc ác không? Không những thế, bố mẹ anh còn nặng lời với bố mẹ Huyền. Vì sao bố mẹ anh hành động như vậy? Mặc dù sau khi Huyền đi, bố mẹ nhờ người đi tìm Huyền cả tháng trời. Liệu có thật lòng, hay để trấn an dư luận xã hội? Bố mẹ có thật lòng thương con, cháu hay làm vậy để cứu vãn lương tâm. Bây giờ anh phải làm gì? Đương nhiên phải đi tìm vợ con. Nhưng tìm ở đâu, bằng cách nào, bắt đầu từ đâu. Một loạt câu hỏi cứ xoáy mãi vào đầu anh mà không có câu trả lời.
Dân hờ hững với tất cả. Tất cả đều vô nghĩa. Anh gấp quần áo vào ba lô để sớm hôm sau đi từ lúc mặt trời chưa mọc. Mẹ anh thấy vậy vội nói với chồng:
- Ông ơi! Thằng Dân định đi đâu ông ạ! Tôi thấy nó gập quần áo nhét vào ba-lô.
Ông Dân lo lắng, gọi con đến hỏi:
- Con định đi đâu bây giờ mà gấp quần áo?
Dân im lặng. Im lặng. Dân cố ghìm nén những giông bão đang nổi trong lòng. Người đối diện với anh là cha đẻ. Thật khó nói, khó trả lời.
- Con định đi đâu bây giờ? Ông tự trả lời. Thương vợ, con là phải quá đi rồi. Nhớ vợ, nhớ con cũng chẳng có gì là sai. Bố đã trải qua những tình cảm ấy mỗi khi xa nhà. Bố rất thông cảm với con. Con định kết tội bố mẹ chứ gì? Cho dù bố mẹ là kẻ điên khùng, rồ dại, cởi truồng chạy ra ngoài đường thì vẫn là người đẻ ra con, nuôi con học hành khôn lớn. Cho dù bố mẹ là kẻ tù tội, liệu con dám bỏ không? Một bên là vợ con từng gắn máu thịt với con. Một bên là bố mẹ đẻ ra con, san sẻ máu thịt cho con. Con sẽ đặt lên bàn cân, bên nào nặng hơn, bên nào nhẹ hơn? Con là người có học, cư xử thế nào cho phải đạo. Cái Huyền bỏ nhà ra đi, bố mẹ nhờ người đi tìm kiếm nhiều nơi mà vẫn biệt vô âm tín. Điều ấy chứng tỏ, bố mẹ rất thương con, cháu. Khi gia đình bên ấy đến báo Huyền có thai với con. Bố mẹ phải điều tra, xem xét hư thực thế nào? Chẳng lẽ bố mẹ chấp nhận ngay. Trước khi con đi, con nói gì với bố mẹ đâu. Nhưng gia đình bên ấy và cái Huyền quá nóng vội. Sự hiểu lầm và hận thù giữa hai gia đình là sâu sắc, có từ lâu. Nhân việc cái Huyền có thai với con thổi bùng ngọn lửa oán hận lên. Hai gia đình điều qua tiếng lại, hòn bấc ném qua, hòn chì ném lại là điều không tránh khỏi. Thậm chí bố cô ấy còn vác dao đến nhà để chém bố. Thật may, hôm đó, bố đi vắng nên không xảy ra án mạng. Cái lỗi đó là do cả đôi bên, tại anh, tại ả chứ chẳng của riêng ai. Con chẳng có lý do gì để oán hận và kết tội bố mẹ. Nhưng dù sao, con cũng phải thương bố mẹ già chứ. Bố chừng này tuổi, ngày nào cũng phải theo đít con trâu từ lúc rạng đông đến tối mịt mới có bát cơm đổ vào miệng. Mẹ con suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời và còn bao nhiêu việc ở nhà nữa cũng vì ai? Vì ai? Tình thương bố mẹ cạn kiệt trong con rồi à? Lòng con đầy ắp những oán giận, hận thù đối với người đẻ ra con, nuôi con ăn học khôn lớn trưởng thành? Đó là sự lầm lẫn, điểm tối trong tư duy của con. Con định bỏ bố mẹ, bỏ các em mà đi à? Đó là hành động nóng vội nhất thời. Thế là con có nghĩa với vợ. Nhưng bất hiếu với cha mẹ. Con bỏ mãi được chăng? Dân làng sẽ chê cười con chứ không chê cười bố mẹ đâu. Bố thất vọng về con nhiều quá.
 Ông Dân dừng lại. Ông đi xuống bếp. Tay lăm lăm con dao dựa, nét mặt đầy dữ tợn. Ông đặt con dao lên bàn, ông lạnh lùng nói với con:
- Dân! Để tỏ lòng chung thủy với cái Huyền, để hả giận và khỏi phải nhìn mặt người cha này, con cầm dao chém bố đi. Bố rất vui được con chém chết đấy. Ông ngồi xuống ghế, thét lớn:
- Dân! Chém đi! Chém chết tao đi!
Bà Dân từ dưới nhà chạy lên. Bà vừa khóc, vừa van vái:
- Tôi xin ông. Tôi van ông! Dân ơi! Mẹ cầu xin con đó!.
Dân ngồi ngay như phỗng, không mở miệng nói lấy nửa lời. Mặc bố mẹ làm gì, nói gì. Chỉ biết sáng hôm sau, Dân đi thật sớm khi bố mẹ và các em chưa ngủ dậy. Dân đi như kẻ chạy trốn, trốn mình và trốn tất cả.
12. Dân trở về đơn vị. Anh vạch ra kế hoạch ôn tập, chuẩn bị cho năm học tới. Cả ngày, cả đêm, Dân vùi đầu vào trong đống sách, hô gọi kiến thức trở lại. Thực hiện khẩu hiệu: “Học! Học nữa! Học mãi! Anh chỉ dừng lại để giải quyết những sinh hoạt và khi đã thấm mệt. Những ngày đầu, Dân thấy quá mệt mỏi, đầu óc như đặc lại không có kẽ hở để kiến thức chui vào và dừng lại. Học trước quên sau, đầu óc muốn vỡ tung ra từng mảng. Anh cố nhét vào thì chúng lại trồi ra. Tay cầm bút cứng đơ đơ, khó khăn lắm mới viết nổi, nét chữ cứ như gà bới, khó đọc, khó nhìn. Khi ấy, anh thấy nản lòng bỏ sách vở nằm trơ trên bàn. Anh đi thăm bạn bè mang theo nỗi buồn không nguôi. Rồi anh tự kết tội mình là kẻ ngại khó, đầu hàng trước những thử thách mới. Anh đứng giữa đôi dòng nước: Một là tiếp tục học tập, không ngừng cố gắng vươn lên, hai là đầu hàng và gục gã trước những tri thức và đòi hỏi mới, xin đi công tác khi trong tay không bằng cấp. Nhưng anh dần tĩnh tâm và với lòng kiên trì, quyết tâm cao, những kiến thức rơi vãi trong những năm ở chiến trường lần lượt quay trở lại. Anh vui vẻ, phấn khởi hẳn lên. Anh càng say mê học tập.
Từ ngày Dân khoác ba-lô về trường đến nay vừa tròn ba tháng. Anh không thư từ. Lòng ông Dân lúc nào cũng như lửa đốt, ăn không ngon, ngủ không yên. Vì ông đã để thằng con tuột khỏi tay. Nhưng ông vẫn giấu vợ giấu con để cố tạo ra không khí yên bình của một gia đình mà cả Hợp tác xã và dân làng đều khen là hòa thuận. Ông vừa giận con, lại vừa thương con. Hai mặt đó cứ đan xen, chằng néo với nhau. Ông tự hào vì nó thông minh, học giỏi và rất ngoan ngoãn. Dù sóng gió ập đến gia đình, dù cha con ông bất hòa. Nhưng cha con ông mãi mãi vẫn là cha con. Sự đụng độ, va chạm giữa cha con ông là sự nóng nảy, bực dọc nhất thời. Nhưng dù sao cũng sứt mẻ những tình cảm vốn có. Nó bỏ nhà đi là cố quên những gì đau buồn vừa xảy ra.  Ông cảm thấy thông cảm với con hơn bao giờ hết. Nó thừa chết thiếu sống vì bom đạn, vì những đòn tra tấn dã man, tàn bạo của kẻ thù. Khi đi hai bàn tay trắng, lúc trở về vẫn hai bàn tay trắng, vợ con bỏ nhà đi không biết đâu mà tìm.
Nhưng ông cũng thất vọng về con, tiếc công nuôi con ăn học  khôn lớn và trưởng thành. Người có học lại được rèn luyện trong chiến đấu mà thiếu dũng cảm, xem xét, phán xử vấn đề thiếu khách quan và công bằng như thế thì thật là buồn. Khi gia đình bên ấy nhờ người đến báo cái Huyền có thai với thằng Dân, ông biết ngay chẳng thằng con ông thì ai vào đây nữa. Vì ông biết chúng thương yêu nhau và gắn với nhau như nhựa. Cái sai lầm lớn nhất của ông là không vui mừng đón nhận con, cháu mà đem lòng hận thù trước đây của ông và ông Huyền để đối xử với con, cháu. Gia đình ông Huyền thì nóng nảy gây chuyện tày đình. Hậu quả là con, cháu ông phải gánh chịu. Thế rồi ông lấy quyền làm cha để nóng nảy với thằng Dân. Ông đứng ở địa vị người cha mà phán quyết nó nên nó không chịu nổi. Tại sao hôm ấy ông lại nóng nảy và khùng lên như con trâu điên?
Hai bố con, trời không chịu đất thì đất chịu trời vậy. Ông phải kéo con trở về và giữ nó bên ông. Mệt quá, ông Dân ngủ thiếp đi. Mờ mờ sáng, từ ngoài ngõ, ông Tục, đội trưởng sản xuất gọi toáng lên:
- Ông Dân ơi! Sáng nay bừa đồng Bứa nhé!
Ông Dân vội mở mắt trả lời:
- Vâng! Vâng!
Ông Dân vùng dậy vác bừa, lùa trâu đi. Cánh đồng Bứa lọt giữa hai triền núi, bùn lầy nước sâu. Nơi đây chỉ có bừa cho chìm và rập cỏ xuống dưới bùn, nước, không phải cày. Nói đến hai tiếng đồng Bứa thợ cày, thợ cấy đều giãy nảy như đỉa phải vôi. Công bừa, công cấy gấp đôi nơi khác. Vì chiếu cố gia đình ông Dân khó khăn, đông con nên ông Tục thường dành những công việc nhiều công điểm khoán cho ông Dân. Thêm nữa, ông Dân cũng mạnh khỏe, chịu khó, ít suy bì, tị nạnh.
Ông Dân lùa trâu xuống ruộng. Bùn, nước sâu đến ngập ức trâu, trên đùi ông. Người và trâu vừa rạch, vừa ngoi như con cá rô đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Con trâu cứ nghiêng bên này rồi nghiêng bên kia một cách nặng nề, vất vả để từng bước tiến lên.
Khi mặt trời vượt khỏi ngọn núi trước mặt. Nắng nóng gay gắt. Trâu thở phì phò. Thỉnh thoảng con trâu lại đập sừng sang hai bên xua đuổi ruồi muỗi. Nước bắn tung tóe. Con trâu cảm thấy khoan khoái, dễ chịu hơn. Nó lại miệt mài kéo bừa. Ông Dân cố gắng bước để theo kịp con trâu. Mồ hôi ướt đẫm vai áo, ông Dân thấm mệt nhưng vẫn cố sức đi tiếp.
Nắng gắt quá. Mệt quá, con trâu nằm ềnh xuống ruộng. Ông Dân quát mắng mỏi miệng và lấy roi quất vào hai bên mông. Những vết roi hằn như con trạch mà con trâu cứ ỳ ra đó. Đổi chiến thuật, ông dỗ dành nó. Cố lên con! Một chút nữa thôi. Bừa xong, tao đãi bát cháo cám, bù vào sự vất vả này. Con trâu chẳng thèm để ý tới lời ông. Trâu nằm chềnh ềnh ra ruộng, thản nhiên nhai trầu bỏm bẻm. Thương trâu quá, ông tháo bừa cho trâu nghỉ gặm cỏ.
Vào rừng, chặt một đoạn cây, ông buộc cây vào hai bên thiếu. Ông bắc vai trâu vào vai mình, thay trâu bừa ruộng. Đoạn cây được ông kéo đi khắp ruộng, cỏ bị vùi dập xuống ruộng phẳng lì. Bùn, nước ngập trên đùi non, khi lên tới bẹn. Bùn nước còn bắn lên ướt sũng cả áo. Ông cứ phải nghiêng bên này, rồi lại nghiêng bên kia lạch từng bước mà đi lên.
Mệt quá, ông lên bờ ngồi nghỉ. Chân tay run bần bật, mồ hôi vã ra như tắm. Mắt hoa, nhìn mặt trời cứ tưởng bảy tám ông mặt trời. Tối qua, hầu như ông thức trắng đêm. Sáng nay đi bừa chẳng có gì nhét vào bụng. Nghĩ tới trách nhiệm, nghĩ tới sự tín nhiệm của ông đội trưởng Tục, nghỉ một lúc, ông lại tiếp tục bừa cho bằng xong.
Bừa xong thửa ruộng. Mặt trời vừa đứng bóng. Người ông mệt lả, chân không buồn bước. Nhưng ông rất vui. Buổi sáng, ông được 5 công. Ông có thêm gạo nuôi con. Ông lại quên tất cả nỗi cực nhọc.
Trời còn tối đất, nhìn chưa rõ mặt người. Cuối thu, chớm đông, trời se se lạnh. Bờ cỏ hai bên đường ướt đẫm sương đêm. Ông Dân xách túi rời nhà xuống Hà Nội thăm con. Mặc dù, từ nhà tới ga, ông phải cuốc bộ hai tiếng đồng hồ. Ông hăm hở, quên cả mệt nhọc vì lòng ông rất vui. Đi sớm càng tốt, chờ tàu cũng được. Trong túi ông chỉ có nắm cơm ăn đường, một nải chuối tiêu, 30 quả trứng gà mà ông thấy nặng quá, mỏi rã cả tay. Để có quà cho con như thế, gia đình ông phải dành dụm cả tháng.
Tàu chuyển bánh, ông Dân mở cơm nắm ra ăn. Nắm cơm to quá, ông chỉ ăn hết một nửa. Nửa còn lại ông dành để ăn trưa.
Đúng 12 giờ tàu đến Hà Nội. Ông ngồi nghỉ ở gốc cây cổ thụ ven đường, mở gói ăn nốt nắm cơm còn lại. Một giờ sau, ông tới trường. Vừa đúng lúc Dân ngủ dậy. Gặp bố, Dân vui lắm. Anh nở nụ cười tươi rói:
- Bố ăn cơm chưa? Bố xách gì nặng thế?
- Bố ăn cơm rồi! Của nhà, cây vườn, bố mang cho con nải chuối tiêu và ba chục quả trứng gà để con bồi dưỡng!
- Bố mẹ già rồi! Tại sao không để những thứ ấy ở nhà bồi dưỡng. Con trẻ khỏe, ăn uống thế nào cũng xong!
- Xuống thăm con chẳng lẽ lại đi tay không à? Bố nhớ con lắm.
- Con nhớ bố mẹ quá, nhưng ngặt vì bận học quá. Nghỉ lâu quá. Quên hết nên phải cố gắng bố ạ!
- Bố cũng nhớ con lắm. Mẹ con còn sốt ruột hơn.
- Chiều nay con phải lên lớp. Bố ở nhà nằm nghỉ.
Dân dứng dậy dọn dẹp, rũ chiếu để bố nằm nghỉ, rồi xin phép đi học. Thái độ và cách cư xử của Dân khiến ông Dân rất vui. Nằm xuống là ông ngủ ngay. Chiều ấy Dân mua thêm thức ăn và lấy cơm ở nhà bếp tập thể. Hai bố con vừa ăn cơm vừa nói chuyện vui vẻ. Cả ông và con không ai nhắc tới chuyện cũ. Ông say sưa kể chuyện gia đình, chuyện Hợp tác xã. Dân báo cáo với bố về sức khỏe và tình hình học tập:
- Con nghỉ học lâu quá, kiến thức rơi vãi khắp chiến trường. Bây giờ trở lại trường, con phải cố gắng lắm mới theo kịp bạn bè. Bố mẹ thông cảm cho con.
 Ông Dân được lòng như cởi tấm lòng. Ông nói:
- Bố mẹ nào giận con. Khi nào biển Đông hết nước thì bố mẹ mới hết lòng thương con.
- Tối con phải học bài, bố cứ ngủ trước. Hôm nay, hai bố con ngủ chung cho vui.
-Ngày mai, bố về sớm.
- Bố cho con gửi lời hỏi thăm mẹ và các chú, các bác, các em.
Trở lại trường sau bao năm gián đoạn học tập. Đây là một thách thức lớn, đòi hỏi Dân phải nỗ lực, cố gắng phi thường. Anh ở lì tại trường. Chỉ có dịp Tết anh mới về thăm gia đình. Anh như ông thầy tu, cả ngày chỉ biết tụng kinh gõ mõ, quên hẳn chung quanh. Ngoài  giờ lên lớp nghe giảng, anh tới thư viện. Anh vừa đọc, vừa ghi chép. Buổi tối, anh không bao giờ ngủ trước 12 giờ đêm. Chỉ có dùng tất cả thời gian vào học tập, lòng anh mới vợi đi nỗi nhớ vợ con. Anh cần mẫn như ong tìm kiếm nhị hoa. Nhưng ở đời được mặt này thì mặt kia lại sa sút, kém nhất là sức khỏe. Cuối năm, anh nhận bằng tốt nghiệp loai ưu, được giữ lại trường học tiếp để làm cán bộ giảng dạy đại học. Để có kết quả này, anh sút mất 3kg, người gầy còm ốm yếu. Nhưng đó là phần thưởng lớn đối với anh. Điều mà trước đây anh không dám mơ ước.
Anh vội vàng báo cáo và xin ý kiến bố mẹ. Anh nói:
- Thực tình con muốn học tiếp để làm cán bộ giảng dạy, việc này nhiều người mơ cũng chẳng được. Nhưng sức khỏe của con lại không tốt. Vì thế con muốn xin về dạy cấp ba.
Bố anh lòng tràn ngập vui sướng. Ông viết thư trả lời con:
Bố mừng và tự hào lắm. Nhưng quyết định thế nào là tùy con, bố không can thiệp.
Dân được phân công về dạy ở một trường cấp ba thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Từ nhà anh đến trường khoảng 15 km, đường núi, nhiều dốc khó đi. Anh phải ở lại sinh hoạt tại trường. Phương tiện đi lại khi ấy chủ yếu là chiếc xe đạp. Điều quan trọng hơn cả sức khỏe của anh không cho phép anh đạp xe đi lại hàng ngày. Nếu bận việc, một tháng, hai tháng anh mới về thăm gia đình. Nhưng có khi chỉ nửa tháng, một tuần anh lại đạp xe về thăm bố mẹ.
Mười bảy năm giảng dạy ở trường này, khi còn là anh lính mới “tò te” về trường. Đến nay, anh “lên lão” trở thành giáo viên lâu năm nhất trường. Gia tài, anh tích cóp những năm qua: Một chiếc giường cá nhân, trên mặt phủ chiếc chiếu đã sờn cũ. Giường kiêm luôn cả tủ đựng quần áo, chăn màn. Đó là kiểu giường có hòm ở đầu giường. Người ta nghĩ ra kiểu giường này là rất phù hợp với điều kiện kinh tế hồi bấy giờ. Người tạo ra nó chắc được cấp bằng “sáng chế” như ai đó sáng tạo ra “rô bốt” thời nay. Quần áo chưa mặc, gói vào túi ni lông để ở đầu giường làm nhiệm vụ của cái gối. Giữa phòng kê bộ bàn ghế, vừa dùng để tiếp khách, là bạn bè và phụ huynh học sinh tới thăm, vừa dùng để làm việc, và là bàn ăn cơm. Góc giường là cái bếp dầu và mấy cái xoong, nồi. Một miếng ván đặt trên mấy hòn gạch dùng làm chạn bát, đũa. Tiền thân của nó là cái ngăn kéo “bàn chết”. Phía đuôi giường là kệ sách. Vốn là những phần thành giường, thành bàn đã được “khai tử” ghép lại với nhau bằng những cái đinh. Nhờ bàn tay tài hoa, khéo léo, bào nhẵn, ghép lại và đóng đinh nên không đến nỗi thô kệch và chướng mắt. Kệ sách khá phong phú, sắp xếp ngăn nắp gọn ghẽ. Sách nằm trên kệ chủ yếu là phục vụ cho giảng dạy hàng ngày. Những sách quý hiếm đắt tiền cất kỹ ở cái hòm đuôi giường, khóa cẩn thận. Một cái điếu cày dựng ngay ở đầu bàn. Trên nền nhà lổn nhổn những bã thuốc lào. Căn phòng thoảng mùi thuốc lào khen khét.
Căn phòng là nơi dừng chân, nghỉ ngơi, uống nước của những giáo viên trống giờ. Phòng rộng rãi lại gần văn phòng nhà trường. Từ đây đến các phòng học không xa, đường đi lại dễ dàng và sạch sẽ. Phòng luôn mở cửa. Chỉ khi trời rét mới khép. Thầy cô giáo tự do ra vào. Mọi chuyện ở trường như: Ông A đến muộn bị trực tuần không cho vào lớp. Cô B quản lý lớp không tốt, ồn ào như cái chợ. Ông C vợ mới đẻ. Bà E mất sổ gạo mặt méo như cái bị rách… đều được thông báo tới mọi người, coi như “chuyện vui nhà giáo” Buổi trưa, nếu cần ở lại để dạy tiết một buổi chiều hoặc phải họp nhiều giáo viên vẫn góp gạo nấu cơm chung với Dân. Những buổi vui vẻ, họ góp tiền mua thịt, rượu cùng ăn với nhau. Ở đây không có chủ, khách. Người vo gạo, người nhặt rau, người xách nước, người thái thịt. Bát đũa thiếu, chạy tới các gia đình giáo viên trong khu tập thể mượn...
Dân là người chung thủy với bếp ăn tập thể nhất. Vì anh muốn dành nhiều thời gian cho việc học hành. Nhưng cái chính là anh ngại đun nấu. Bếp tập thể bị “khai tử” cùng với cơ chế bao cấp, anh buộc phải sắm bếp dầu, xoong nồi, bát đũa nấu ăn riêng. Bạn bè, đồng nghiệp quý mến, thương yêu Dân nên phòng anh không bao giờ vắng khách. Bạn bè, đồng nghiệp chẳng may vợ ốm, con đau hoặc có việc riêng phải nghỉ được lãnh đạo nhà trường đồng ý, anh sẵn sàng dạy thay không hề suy tính. Nếu các đồng chí trong tổ có việc hiếu, hỷ anh thăm hỏi chu đáo và sẵn sàng giúp đỡ không tiếc công sức.
Thế nhưng không hiểu vì sao, xấp xỉ ngũ tuần mà Dân vẫn “phòng không”. Có người gọi đùa “Đại tướng phòng không” anh chỉ cười. Nếu có ai hỏi: Anh định cắm sào đợi ai? Anh ngồi im không nói. Anh sống trong một thế giới riêng đầy bí ẩn. Nếu ai hỏi chuyện vợ con, anh ngồi lặng, mắt nhìn đâu đâu coi như không nghe, không biết. Trong tổ có ý định ghép anh với cô giáo cùng môn. Xem chừng, cô ấy cũng ưng thuận. Dân đánh bài chuồn coi như không nghe, không biết. Có người đoán anh không có cái số ta, hoặc của quý đó bị hỏng. Họ bàn nhau, tổ chức khám xét. Anh không phản đối, trốn  tránh. Anh sẵn sàng hiến mình làm vật thí nghiệm. Họ muốn làm gì anh chiều hết.
Anh là người chịu đọc, chịu học. Ngoài giờ lên lớp, soạn bài, chấm bài thì toàn bộ thì giờ còn lại anh đều dùng cho việc đọc, học. Một năm chỉ có ngày Tết, ngày hè là Dân vắng trường. Dân được mọi người đặt cho cái biệt danh “Dân bám trường, bám lớp”.
Mười bảy năm qua, “Dân bám trường, bám lớp” học thêm được hai ngoại ngữ là Anh, Pháp và đang tiếp tục học thêm Hán Nôm theo học lớp tiến sĩ tại chức. Nhiều năm “Bám trường, bám lớp” được bầu là giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua. Vì anh có học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia. Những giờ thao giảng nhân ngày 20-11 và 22-12 giáo viên toàn trường tới dự. Có những giờ người đến dự còn đông hơn cả học sinh. Tiết học phải dạy trên hội trường mới đủ chỗ ngồi. Một cô giáo dạy sinh vật nhận xét:
- Nghe anh Dân dạy văn, tôi càng thêm yêu văn học. Yêu thực sự. Đôi khi tình cảm trỗi dậy, yêu luôn cả người dạy văn.
Hiệu phó Hào vừa cười, vừa nói:
- Nếu cô đồng ý lấy Dân để tôi giới thiệu.
Cô ấy không nói gì, mặt đỏ như trái bồ quân chín.
Tập thể giáo viên giới thiệu “Bám trường, bám lớp” vào Ban lãnh đạo nhà trường. Qua bỏ phiếu kín, Dân được 95% phiếu đồng thuận, nhưng anh một mực khước từ.
- Cám ơn các đồng chí yêu mến và tín nhiệm. Nhưng tôi sức khỏe yếu, năng lực quản lý kém. Các đồng chí cho tôi thời gian rèn luyện và phấn đấu.
Đó là cách từ chối khéo rất khiêm tốn. Nhiều người bực tức đặt câu hỏi tại sao “Bám trường, bám lớp” khước từ tín nhiệm của tập thể? Mùa hè năm nào “Bám trường, bám lớp” cũng không về nhà, không ở trường, đi đâu, làm gì ai biết không. Đó là sự mờ ám, chúng ta cần tìm hiểu xem…
13. Gần hết hè, Dân mới về thăm bố mẹ và các em. Ông Dân ngạc nhiên hỏi ngay:
- Tại sao nghỉ hè ba tháng mà bây giờ con mới về thăm nhà?
Dân chống chế, vui vẻ nói:
- Bố mẹ thông cảm. Con theo học lớp trên Đại học và chuyên ngữ tiếng Anh. Sau đó, vui bạn bè lên Lào Cai nghỉ mát một chuyến. Đây là dịp may hiếm bố ạ! Nếu không có bạn bè giúp đỡ, con đi sao nổi.
Ông Dân nói:
- Con nói vậy bố tin. Nhưng bố thấy con ít quan tâm đến gia đình!
- Bố thứ lỗi cho con.
Tối hôm đó, Dân tới thăm và biếu quà ông bà Huyền và các em. Bà Huyền nhanh nhảu hỏi ngay:
- Anh đi đâu về mà cho chúng tôi quà nhiều thế?
- Con đi thăm Lào Cai, Yên Bái!
Cái Đào liền hỏi:
- Có gì vui, anh kể cho cả nhà cùng nghe?
Dân nở nụ cười vui. Thật là một chuyến đi có một không hai ở đời. Nó để lại cho anh nhiều kỷ niệm khó quên. Lên tới Thị xã Yên Bái. Anh thuê nhà trọ nằm ở giữa ga và bến xe thị xã Yên Bái cho thuận tiện việc đi lại. Tìm được nhà trọ lý tưởng như vậy không phải là dễ, có khi mất cả buổi.
Hàng ngày, khoảng 8 giờ sáng là anh có mặt ở nhà ga. Anh như người đi tàu, chờ tàu. Nhưng anh quan sát, theo dõi, tìm kiếm trong số người lên tàu, xuống tàu và cả người chờ tàu nữa. Nam giới không nằm trong tầm nhìn của anh. Đối tượng anh quan sát, tìm kiếm là nữ giới. Bà già, con nít bỏ qua. Anh đặc biệt chú ý phụ nữ tuổi từ 35 đến 45. Vì khuôn mặt, nước da, dáng đi sẽ phản ánh đúng độ tuổi. Nhưng rất nhiều người mặc dù ở độ tuổi ấy, do hoàn cảnh kinh tế, đời sống có thể trẻ hơn hoặc già hơn. Nên từng trường hợp cụ thể mở rộng đối tượng hơn. Nhưng khốn khổ cho anh, phụ nữ thường hay đội nón, che kín mặt. Nhiều khi đứng xa không quan sát nổi. Gặp trường như vậy, anh phải tìm cách đến tận nơi bắt chuyện. Chẳng hạn chị đi tàu ngược hay tàu xuôi, kiếm cớ hỏi thăm đường, làm quen khi chờ tàu v.v…
“Phục” ở nhà ga cả tuần mà chưa thấy đối tượng cần tìm. Anh rất buồn! Anh nghĩ, đã lên tới đây rồi, thì nên kiên trì. Nhưng sáng đi hăng hái, nhiệt tình. Chiều về buồn tênh. Nỗi cô đơn trống vắng tràn ngập tâm hồn. Chân anh bước trên đường mà chẳng biết đi đâu. Anh lại về nhà trọ.
Bến xe Yên Bái người đi lại tấp nập, nhộn nhịp. Xe ra, vào bến cứ ầm ầm, còi inh tai. Nắng lên, hào phóng tưới khắp bến xe. Có lẽ ở nơi đây nắng lên muộn hơn thì phải. Nắng lên, những chiếc xe sơn màu bạch kim chói sáng, nhìn loang loáng. Các xe sơn màu sẫm trở lên tươi sáng hơn. Bến xe không thiếu gì người bán hàng hai bên đường. Nhiều hơn cả là hàng quà bánh. Người đông như kiến cỏ. Vừa lúc ấy, Dân có mặt ở bến xe. Bỗng anh nhìn thấy người phụ nữ mặc áo màu tím hoa sim. Liệu có phải người anh đang tìm kiếm. Nhưng người ấy đội nón che kín mặt. Anh chỉ nhìn thấy sau lưng và dáng đi. Anh quyết định đuổi theo. Anh nhào lên chạy theo. Thấy anh chạy có người hốt hoảng kêu “Cướp! cướp” người này chuyền người kia “Cướp! cướp”. Có người chạy đuổi theo.
Mải đuổi theo bóng áo tím, anh chẳng còn để ý tới ai. Vừa đến chỗ rẽ, anh loạng choạng đâm ngay vào bà già bán bún sườn. Đổ hết nồi canh và rá bún của bà đó. Anh thản nhiên cứ rượt đuổi. Bến xe náo động. Đồn công an ngay gần đó. Thấy có tiếng người kêu “Cướp”. Công an có mặt kịp thời. Anh bị bắt. Chẳng hiểu tội gì? Họ yêu cầu anh tường trình sự việc xảy ra. Anh nói, tôi lên đây tìm em gái. Vừa trông thấy một người mặc áo tím, dáng đi giống em gái tôi. Tôi liền đuổi theo nên không nghe thấy tiếng kêu và không may làm đổ gánh bún của cụ già. Cụ ấy như mẹ tôi ở nhà. Tôi nhận khuyết điểm, xin lỗi cụ và mọi người. Tôi xin bồi thường những thiệt hại gây ra cho cụ. Thấy anh nói vậy, cụ già thương tình. Cụ nói:
- Bún bán gần hết rồi, còn không đáng kể. Ở đời, ai chẳng có lúc nhỡ nên tôi không bắt anh ấy đền!
 Anh mừng rỡ, đứng dậy chắp tay nói:
- Con cảm ơn mẹ.
Người mặc áo màu tím, dáng đi giống Huyền khiến anh chạy thục mạng đuổi theo mà vẫn không kịp. Buồn bã, mờ mờ sáng hôm sau, anh nhảy tàu đi Lào Cai. Như ở Yên Bái, anh thuê nhà trọ gần bến xe và nhà ga. Cứ sáng ra bến xe. Chiều về nhà ga. Anh thu mình vào nơi khuất quan sát, tìm kiếm kiên trì không biết mệt mỏi. Ngày lại ngày, không vẫn hoàn không. Anh tự hỏi Huyền có thể đi đâu? Huyền có thể từ Vĩnh Phú đi tàu lên Yên Bái, Lào Cai để tìm việc làm. Nhưng giả định của anh chưa có lời giải, một ẩn số khó tìm. Quyết tâm đi tìm Huyền của anh không giảm mà luôn luôn được hâm nóng. Nhưng thời gian, tiền bạc hết sạch sau một năm dành dụm, tích cóp. Anh phải quay về chuẩn bị cho năm học mới.
Nghe tới đây, cả nhà đều thông cảm và thương anh gấp bội. Bà Huyền và mấy cô em gái, em dâu đều nước mắt ngắn, nước mặt dài. Riêng ông Huyền ngồi lặng yên. Một lúc sau ông nói:
- Việc làm của anh thể hiện lòng thương vợ, thương con như núi cao, biển rộng. Điều đó bố mẹ rất trân trọng và quý mến, đó là sự khác biệt giữa anh và những người xung quanh. Có được người con rể như anh khác nào trong nhà có vật quý báu. Anh đi tìm mẹ con nó khác nào mò kim đáy biển. Vợ chồng tôi bàn bạc với nhau rồi. Chúng tôi bắt chước cụ Nguyễn Du trong truyện Kiều đem duyên em thay duyên chị. Chúng tôi đã hỏi ý kiến em Đào, em gái của Huyền rồi. Đào rất quý mến và thương yêu anh. Khi chúng tôi nói, anh biết Đào trả lời thế nào không? Đào e thẹn, mặt đỏ bừng ngập ngừng nói: - Tùy bố mẹ quyết định. Con gái nói thế là đồng ý rồi còn gì nữa. Sau này tìm được Huyền thì chị vẫn là chị, em vẫn là em. Một nhà đoàn tụ càng vui anh Dân ạ! Đó là tấm lòng của vợ chồng tôi. Anh đùng từ chối.
- Con xin cảm ơn bố mẹ! Con không thể tham lam theo kiểu hoa thơm bấng cả cụm. Con không thể phản bội Huyền để lấy bất kỳ người phụ nữ nào. Nếu con lấy Đào, khi tìm thấy Huyền, chúng con không thể thành vợ chồng được. Vì luật pháp không cho phép, mặc dù con và Huyền đã con với nhau tuy chưa có cưới xin. Bây giờ lấy Đào con phải cưới xin đoàng hoàng, phải được pháp luật công nhận, phải báo hỷ với dân làng. Luật hôn nhân gia đình của nhà nước quy định một vợ, một chồng. Huyền sẽ là người đứng ngoài nhìn hạnh phúc của con với Đào. Như thế không xong về mặt pháp luật và không ổn về mặt tình cảm, đạo đức.
Bà Huyền nói thêm:
- Anh Dân ạ! Anh đừng tự làm khổ mình nữa. Anh cứ nghe vợ chồng tôi đi. Tội lỗi, vợ chồng tôi nhận tất.
Thân là con trai ông Huyền cũng hùa vào:
- Anh Dân đừng quan trọng hóa vấn đề. Thế gian đầy người cưới vợ chui, chẳng cần đến pháp luật. Vấn đề cốt lõi là gia đình ta đồng thuận, không để xảy ra mâu thuẫn là được.
- Con đã nói hết lẽ rồi, xin bố mẹ và gia đình đừng ép nữa. Nói như em Thân lại càng không được, anh là một đảng viên, người ta không bỏ qua đâu. Một lần nữa con xin cảm ơn bố mẹ và các em.
Ông bà Huyền không nói gì thêm. Và từ đấy mối quan hệ giữa gia đình ông Huyền với Dân mở ra trang mới, gắn bó và sâu sắc hơn..
Mỗi lần về thăm quê, Dân không quên đến thăm ông bà Huyền. Tết nào Dân cũng đến đón xuân và chung vui cùng gia đình. Có miếng gì ngon, ông bà Huyền cũng dành cho Dân. Thỉnh thoảng Dân lại mua biếu ông bà bộ quần áo. Đôi khi Dân còn mua thuốc bổ để ông bà bồi bổ sức khỏe. Quan hệ giữa hai gia đình ông Huyền và ông Dân cũng bớt căng thẳng. Khi giỗ cha mẹ hai bên đều mời nhau. Người mời đầu tiên là ông Dân và sau đó thành lệ.
14. Mùa hè năm sau, Dân lại tiếp tục  cuộc hành trình đi tìm Huyền. Lần này, Dân đi  Cao Bằng - Lạng Sơn. Giữa đường Dân dừng lại ở Bắc Giang, Thái Nguyên. Mỗi tỉnh anh dừng lại một tuần. Từ nhà ga đến bến xe ô tô, anh đều tìm đến. Lúc ẩn vào nơi kín đáo để tìm kiếm. Khi giả làm người đi tàu, đi xe lẫn vào dòng người đông đúc, nhộn nhịp để quan sát, theo dõi. Gặp những người có dáng giống Huyền, anh cố gắng tiếp cận để nhìn thật kỹ.
Đêm nay, Dân ngủ tại ga để có thể tìm Huyền trong số những người đi tàu đêm. Anh thấy thiếu sót lớn là bỏ lỡ, bỏ phí mất nửa thời gian. Thời gian đối với anh quý hơn vàng. Thời gian là người chiến thắng. Vì không nắm được lịch chạy tàu nên anh đến muộn.
Gần sáng còn hai chuyến tàu nữa. Nếu về nhà trọ sợ ngủ quên, anh trải tấm ni lông ngủ tại phòng chờ của nhà ga. Người ở đâu mà đông như kiến cỏ, nằm ngổn ngang, la liệt kín cả phòng chờ. Nóng ngoài trời, nóng từ cơ thể người phả ra. Ngoài trời cây cối im phăng phắc. Cứ nóng hầm hập thế này thì chịu sao nổi. Phòng chờ nóng như cái chảo rang. Người nào, người ấy đều mong có làn gió thổi tới dù là nhỏ. Nếu vài ba giờ nữa mà không có gió, không mưa thì mấy đứa trẻ sẽ chết ngạt mất. Tiếng khóc của trẻ nhỏ, tiếng đàn muỗi vo ve khiến Dân không sao ngủ nổi. Anh liền tay phe phẩy cái khăn mặt. Muỗi đâu mà nhiều thế, Dân chỉ quờ tay đã vớ được muỗi rồi. Đắp kín mặt thì chúng lại đốt dưới chân. Đôi bàn tay thì một tay phải ôm cái túi mang theo, còn tay kia xua chỗ này thì chúng tia nơi khác. Mệt mỏi quá, trở mình liên tục. Dân không tài nào ngủ nổi. Mắt cay xè, đầu nhức như búa bổ. Người nhơm nhóp mồ hôi vì nằm trên tấm ni-lông.
Một lúc lâu, tiết trời dịu mát, đàn muỗi chắc cũng no bụng  nên “bỏ quên quý khách”. Dân vừa chợp đi một lúc, bỗng nghe tiếng kêu thất thanh của người phụ nữ: “Trộm! Trộm!”. Dân choàng mắt, tỉnh dậy. Tay anh vẫn ôm cái túi xách. Anh cảm thấy yên tâm. Cái túi vẫn còn,  anh giữ túi cẩn thận hơn, ngoắc dây túi vào tay. Dân định ngủ tiếp nhưng chỉ ngủ gà, ngủ vịt. Bỗng thấy người phụ nữ khoảng 50 tuổi đang ngồi kêu khóc:
- Trời đất ơi! Kẻ cắp lấy hết tiền bạc đồ dùng của tôi rồi. Các ông nhà ga ơi! Các ông công an ơi! Tìm giúp tôi cái túi với! Phải bắt kẻ trộm cắp đền tội và lấy lại cái túi cho tôi.
Nghe tiếng kêu ngày càng lớn và thống thiết, hai anh công an đường sắt xuất hiện, đến phòng chờ xem xét tình hình. Trời sáng rõ. Người phụ nữ nhìn rõ cái túi của mình nằm gọn trong lòng Dân. Chị ta vui mừng kêu lên:
- Cái túi của tôi đây rồi! Kẻ trộm cắp ngang nhiên, đàng hoàng ngủ tại phòng chờ, có ghê gớm không? Anh công an khẽ khẽ đập tập tay vào người Dân. Dân mệt mỏi lăn qua, lăn lại, ầm ừ… Anh miễn cưỡng ngồi dậy, mắt nhắm, mắt mở. Nhìn thấy hai anh công an, anh tỉnh hẳn. Anh công an hỏi:
- Tại sao anh lại lấy cắp túi của chị này?
Dân tức giận hét lên:
- Đề nghị các anh cẩn thận khi phát ngôn. Đây là túi của tôi. Tôi không thèm lấy cắp!
Người đàn bà không kìm nổi tức giận. Bà chạy lại giằng lấy cái túi của mình. Dân co người kéo lại, cố giữ chặt lấy túi. Người kéo đi, người kéo lại. Người đàn bà gầm lên:
- Đây là túi của mày à?
- Đây là túi của tôi. Chị đừng có vu khống đặt điều!
Hai anh công an bảo Dân buông tay, đưa túi cho bà ta. Bà ấy mở túi ra. Trong túi đựng toàn quần áo phụ nữ, có cả đồ lót và gương lược. Bà ấy chìa những thứ ấy trước mặt Dân và gay gắt hỏi:
- Đây là túi của mày à? Túi đựng gương lược và đồ lót của bà nội mày! Mày còn cãi nổi không?
Nhìn cái túi, Dân ngạc nhiên, hốt hoảng lúc ấy anh mới nhạn ra cái túi của anh đã không cánh mà bay. Dân kêu lên:
- Túi của tôi đâu? Khi nằm ngủ, tôi vẫn còn ôm túi cơ mà! Cẩn thận hơn, tôi còn ngoắc quai túi vào tay!
Người đàn bà mất túi mỉa mai:
- Đi mà hỏi cái túi của mày, không biết xấu hổ, gái đĩ con già mồm. Trông mặt mũi sáng sủa thế kia mà đi ăn cắp. Hai anh công an ngăn lại và mời hai người về cơ quan làm việc. Khi mở túi xách ra, các đồ dùng còn nguyên nhưng tiền bạc mất sạch. Anh công an hỏi Dân:
- Anh còn gì để nói không? Tiền bạc của bà ấy anh để đâu hay đã tiêu những gì? Anh công an lục soát túi áo của Dân. Chỉ có ít tiền ăn đường, giấy chứng minh thư nhân dân ghi nghề nghiệp dạy học và một thẻ thương binh. Anh công an hỏi giọng mỉa mai:
- Anh là thương binh, là thầy giáo mà đi ăn cắp à? Khi đứng trên bục giảng, anh nói về đạo đức với học sinh thế nào? Chẳng lẽ bảo chúng đi ăn cắp như thầy à?
Không kiềm chế nổi khi bị xúc phạm tới nhân cách người thầy giáo, Dân  phản đối gay gắt:
- Cấm anh lăng mạ tôi khi sự việc chưa rõ ràng. Tôi nhỡ tàu phải ngủ lại nhà ga để đi chuyến tàu sáng mai. Suốt đêm, tôi không hề chợp mắt vì nhà ga lắm muỗi và bẩn quá. Gần sáng tôi vừa chợp mắt, còn ngủ gà, ngủ vịt thì nghe tiếng kêu thất thanh “Trộm! Trộm!”. Mở mắt ra, túi còn trong tay nên tôi lại ngủ tiếp. Ngờ đâu, kẻ gian lại xảo quyệt đến thế là cùng. Chúng lấy túi của người này ngoắc vào tay người khác để đánh lạc hướng điều tra của công an, tạo ra sự  nghi ngờ trong nội bộ nhân dân chúng ta, còn chúng vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nếu tôi là kẻ cắp, không dại gì ôm cái túi lấy cắp được ngủ tại nhà ga. Làm thế khác gì lạy ông tôi ở bui này, nằm chờ các ông tới bắt. Tôi có thể lầy hết tiền bạc, quẳng cái túi ra ngoài sân ga, quay lại ngủ ngon lành mà vẫn bình yên vô sự.
Người đàn bà mất của không để lọt tai những lý lẽ của Dân. Chị ta gay gắt:
- Tang vật sờ sờ ra đấy vẫn còn ngoan cố không chịu. Tôi đề nghị các anh công an tống nó vào nhà tù và bắt nó hoàn lại số tiền cho tôi. Những loại người này chỉ có nhà tù, chỉ có nhà tù mới tâm phục, khẩu phục và nhận ra lẽ phải, biết đạo lý làm người. Nhà tù sẽ làm cho nó câm họng, không cãi láo nữa. Cuối cùng phải tống cổ loại người này ra khỏi ngành giáo dục. Thầy bà gì cái tụi ăn cắp, ăn trộm. Con sâu bỏ rầu nồi canh, làm xấu cả ngành giáo dục. Con cháu tôi nhiều người đi dạy học, chắc không chịu nổi những loại người này ở trong ngành.
 Hai người nói qua, nói lại không dứt. Càng nói, lý lẽ của người đàn bà càng sắc sảo, mạnh mẽ, dễ thuyết phục người nghe. Trái lại Dân càng lâm vào thế bí, bất lợi, không biết làm thế nào thoát khỏi cái trận đồ bát quái này. Chẳng ai thừa nhận anh mất túi. Tang vật còn nằm sờ sờ ra trước mặt mọi người.
Anh công an nói:
- Nghe anh trình bày, tôi thấy có lý, có sức thuyết phục. Nhưng cái túi đánh đổ tất cả, lý lẽ của anh, niềm tin của chúng tôi. Trước mắt chúng tôi lập biên bản giữ anh lại.
Thật hú vía. Ngay lúc đó, các anh công an đi tuần tra dẫn tên kẻ cắp tới. Lúc gần sáng, khi đang làm nhiệm vụ, các anh phát hiện thấy tên này ôm túi chạy qua bờ rào. Các anh bắt nó lại để khám xét. Nhìn thấy cái túi của mình, Dân reo to lên:
- Cái túi của tôi đây rồi. Chúng mày chạy lên trời, chui xuống đất cũng bị kéo xuống, đào lên để trị tội.
Mở túi ra, các đồ dùng của anh còn nguyên. Cuộc lục soát và thẩm vấn nhanh chóng chuyển sang tên ăn trộm.
Công an hỏi tiền bạc của bà này mày để đâu?
- Tôi không biết. Tôi có lấy túi của bà này đâu.
- Anh đừng ngoan cố nữa! Tiền bạc để đâu? Khai mau!
Lục soát túi của nó. Số tiền người bà mất còn nguyên. Thời gian gấp quá, hàng quán chưa bán nên tên trộm chưa kịp tiêu xài được.
Dân được minh oan. Lý lẽ của anh trở nên sắc bén như đao, gươm. Anh nhẹ nhàng hỏi người công an:
- Anh suy nghĩ gì về những lời lăng mạ, buộc tội tôi vừa rồi của anh. Các anh là người cầm quyền, cán cân của pháp luật, cần phải thận trọng khi đánh giá, xem xét một hiện tượng, sự việc. Các cụ dạy: “Ăn phải nhai, nói phải nghĩ” “Toại chân thì dễ, toại miệng thì khó”.
Anh công an vui vẻ nói:
- Tôi xin lỗi bác. Chúng tôi quả là hơi vội vàng khi xem xét và kết luận. Nếu không bắt được tên trộm, bác ngồi tù oan.
Dân quay sang người đàn bà, nhẹ nhàng hỏi:
- Bây giờ, bà còn đổ lỗi cho tôi nữa không? Còn định bỏ tù tôi nữa không? Khi sự việc chưa chắc chắn, đừng nên buộc tội người khác.
Người đàn bà cười trừ, nói:
- Em xin lỗi bác! Nhìn thấy bác ôm cái túi của em ai mà không tin. Con đau, của xót, em tiếc của, nóng vội cũng là thường tình. Không ngờ tụi nó lại ranh ma, xảo quyệt đến thế khiến anh em mình nghi ngờ lẫn nhau.
Mười mấy năm qua, hè nào, Dân cũng đi tìm Huyền. Bến tàu, bến xe của hầu hết các tỉnh phía Bắc đều in dấu chân anh.. Tiền bạc dành dụm được đều ném vào cuộc đi tìm kiếm này. Sau mỗi chuyến đi, người anh gầy rạc, đen nhẻm. Vì ăn uống thất thường, nghỉ ngơi, tắm giặt không được thoải mái, chân cẳng không được khỏe. Cuộc đời con người chẳng là bao, Dân tự nhủ với lòng mình: “Anh sẽ đi tìm Huyền hết quãng đường còn lại. Kiếp này không tìm thấy Huyền, nếu sau được làm người xin nguyện tiếp tục đi tìm Huyền. Vì anh mà Huyền hiến dâng và hy sinh tất cả. Anh cũng vì em mà không tiếc công sức, tiền của đi tìm. Đó là lẽ công bằng ở đời, đạo lý làm người, là giữ trọn lời thề, lời Huyền dặn lại đêm trăng khi chia tay”. Nhưng đất nước thì dài rộng,  mà bàn chân anh thì ngắn và còn bị thương tật…

19/1/2018
Nguồn: Tuyển tập tác phẩm đoạt 
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1997 - 2016
Theo http://hoivhntvinhphuc.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi tri thức bị đánh cắp

Khi tri thức bị đánh cắp Trong nội hàm văn hóa, ăn cắp là lối ứng xử tiêu cực tự hạ thấp mình. Tri thức bị đánh cắp là điều dễ thấy, nhưng...