Bali, Ngưỡng cửa vào thiên đường
I. Mũi nhọn du lịch quần đảo Nam Dương
Quần đảo Nam Dương và Bali
Chiếm một khoảng rộng 2000 km bề ngang, hơn 5000 km chiều dọc
ở vùng Đông Nam Á, Nam Dương Indonesia là quần đảo lớn nhất thế giới. Kể cả mặt
biển, diện tích nước nầy lên đến 30 triệu km2, chỉ riêng đất liền cũng đã 2 triệu,
phân phối trên 14.000 hòn đẩo. Trong số nầy chỉ có khoảng 6.000 hòn có người ở,
có những hòn lớn như Sumatra, Java,... có những hòn nhỏ như Lambok, Sumba,... Trước
kia, thuở mặt biển còn thấp, Nam Dương chưa là quần đảo, Bali và Java dính vào
nhau và là một bán đảo của châu Á, còn Lombok thì hợp với châu Úc. Ngày nay, eo
biển giữa Bali và Lombok là nơi nước sâu nhất. Sau nầy, khi Bali và Java tách
khỏi lục địa châu Á thì đồng thời Bali và Java cũng rời nhau. Huyền thoại kể
lúc ấy một ông giáo sĩ có một đứa con chơi bời lêu lổng, muốn đày nó đi xa. Hai
cha con đi bộ thật lâu, đến một chỗ vắng, ông giáo sĩ lấy ngón tay vạch một đường
trên cát giữa hai cha con, niệm một câu thần chú tức thì nước biển chảy vào
tách rời Bali ra khỏi Java.
Thôn làng vùng Ubud
Tuy trước kia thuộc cùng một lục địa, mỗi hòn đẩo có một tính
chất riêng biệt, vẻ đẹp đặc thù của mình, nhưng Bali đặc biệt được đưa ra làm
mũi nhọn du lịch cho cả quần đảo. Từ tk XVI, trong khi các nước châu Âu đang mịt
mù khói lửa với những cuộc chiến tranh tôn giáo thảm khốc, châu Á được xem như
là một vùng xa xăm, mọi rợ vì không có tín ngưỡng, khó lòng giao du, nhưng cũng
là nơi núi sông hiểm trở, phong tục lạ lùng, dễ bề hấp dẫn kẻ giang hồ mạo hiểm.
Chính những người thích phiêu lưu đầu tiên đã đem về châu Âu những nhận xét về
phong cảnh cùng như những phân tích về đời sống ở châu Á. Dần dần những thương
thuyền châu Âu vượt đại dương, lân la lại gần các bờ biển phương đông, can đảm
đi tìm nơi buôn bán. Từ Bali, phong cảnh những hàng dừa chạy dọc các bải biển
cát vàng êm dịu, những điệu nhạc lạ tai nhưng trầm bổng, hình ảnh nhưng cô gái
da ngăm, mắt đen lánh, tóc xỏa dài, lắm lúc ở trần không mặc áo,... đã được đưa
về, biểu tượng một cảnh tượng thiên đường ở thế gian. Người bản xứ kể cho khách
nghe huyền thoại nguyên thủy của họ. Thuở mặt đất mới sẵn sàng đón nhận nhân loại,
hai vị thần Batana Guru và Brahma đua nhau nặng tượng hình người nhưng nặng mãi
chẳng ra hình thù thích muốn. Nghĩ phải cần cho thêm một chút màu sắc gì, họ bỏ
vào lò nung đốt, mong ngọn lửa biến hóa tượng hình. Lần đàu tiên nung không đủ
lâu, các tượng vẫn còn trắng. Lần thứ hai, nung quá lâu, tương trở thành đen
thui. Qua lần thứ ba, thời gian nung đúng mức, các tượng nhuốm một màu da ngăm,
thích họp cho cả hai vị thần. Họ liển niệm thần chú thổi sinh khí vào hình tượng
làm thành dân tộc khởi nguyên Bali. Thật ra không ai biết con người đã lại định
cư ở Bali thuở nào. Nếu người Homo erectus đă được khám phá ở đảo
Java kế cạnh, ngành khảo cổ cũng phát hiện ra được ở Bali những dụng cụ thời đại
đồ đá. Vào lúc hiện ra những trống đồng loại Đông Sơn, khoảng 500 năm trước
Công nguyên, Bali đã đông đúc dân cư. Ảnh hưởng trực tiếp văn minh Ấn Độ đã
thấm nhuần tư tưởng họ. Vào tk IX, nhiều chứng tích Phật giáo thấy được ghi khắc
vào đá.
Nhà cửa, chợ búa ở Kusamba và BedugulQua tk XI, Bali bị vương triều Majapahit ở Java qua thôn
tính, từ đó Ấn giáo bắt đầu phát triển, nhất là ở kinh đô Gelgel, miền nam đảo.
Cuối tk XV, vương quốc Hồi giáo Demak miền bắc Java lần chiếm toàn đảo, đánh đổ
đế quốc Majapahit, Bali nhân đó thoát khỏi nền đô hộ Java. Trong khi Hồi giáo
ngày càng lan rộng khắp quần đảo Nam Dương, Bali thành công chống cự và trở nên
nơi bảo tổn Ấn giáo. Nhiều trí thức, vương hầu, nhiều nghệ sĩ, thợ giỏi, nhiều
nhà quyền quý, thế lực rời bỏ Java, vượt biên qua lánh nạn ở Gelgel, giúp Bali
mở mang một nền văn hóa đặc thù. Một số lớn văn bản về di tích cổ truyền, tục lệ
tập quán, căn bản ngôn ngữ Java được bảo tồn ở Gelgel. Nhưng cũng từ đó Bali và
Java trở nên thù địch. Cuối tk XVII, nhiều rắc rối lủng củng nội bộ buộc triều
chính phải dời kinh đô Gelgel lên Klungkung. Tuy kinh đô mới không cách xa bao
lăm, hậu quả là vương quốc tan rả, nhiều tiểu quốc ra đời. Mặc dầu chính thức
phục tùng Klungkung, các tiểu quốc thật ra tranh dành quyền lực với nhau. Bắt đẩu
từ tk XIX, lịch sử Bali đi đôi với cuộc xâm lăng Hòa Lan. Thương thuyền Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Anh Cát Lợi rạch biển ngòai khơi Bali từ đầu thế kỷ XVI mà
mãi đến năm 1597 mới có một hạm đội Hòa Lan chính thức cập bến, lâu dài hơn những
lần ghé mua thức ăn hay tìm nước uống. Lúc ban đầu chỉ là hợp tác thương mãi,
trao đổi ngoại giao và, nếu cần, thám hiểm rừng biển. Những báo cáo đầu tiên
đưa về châu Âu trình bày Bali như là một miền đất phì nhiêu sản xuất lúa, bông,
hương liệu đủ thứ, triều đình lại là nơi xa hoa, lộng lẫy, vàng bạc sáng chói ở
mọi đồ trang sức, dụng cụ. Thêm vào, đó, Bali có thể lập thành tiền đồn để đi
xâm chiếm các đảo khác. Vương triều Bali tuy không hùng mạnh, cũng có khả năng
tức khắc "động viên 30 vạn bộ binh, 10 vạn kỵ binh" thể hiện một đồng
minh đắc lực trong tương lai để chống chỏi những vương triều Hồi giáo các đảo kế
cạnh.
Chợ búa vùng BedugulCùng đi với những thương gia là các nhà học giả. Họ tin Bali
là nơi sống sót một hệ thống tôn giáo Ấn Độ đã từng chế ngự miền Đông Nam
Á nghĩa là một viện bảo tàng sống của nền văn minh Java xưa. Tuy nhiên, họ
cũng trách người Bali thiếu văn minh đã làm thoái hóa nền Ấn giáo cao cả trước
kia, mặc dầu đồng thời làm tan rã chế độ phong kiến của những vị quân chủ tàn bạo
đã duy trì một sự phục tùng quá đáng của dân cư. Từ thương mãi qua văn hóa, từ
văn hóa qua chính trị, một bước dễ vượt qua. Dần dần người Hòa Lan muốn trực tiếp
điều khiển, nhất là họ cho Bali không có chính phủ, các tiểu vương chỉ biết lợi
dụng sự tùng phục của người dân để trị vì: vua chúa xem dân như kẻ nô tỳ, đụng
đâu xử chém đấy, bắt các bà góa bụa nhảy vào đống lửa tự thiêu theo chồng,... Họ
cho người Bali còn dã man, cần phài được cai trị, cần phải dược khai hóa. Luận
điệu nầy sao nghe quen quá, mặc dầu ở một xứ khác thỉ có những lý do khác. Để bắt đầu,
Hòa Lan chỉ buộc các tiểu vương thừa nhận chủ quyền của mình qua các hiệp ước
thương mãi. Không thành công, họ dùng quân lực chiếm đóng các tiểu quốc
Buleleng, Jembrana ở miền bắc, rồi Karangasem ở phía đông. Đầu tk XX, bị
Klungkung đe dọa, Gianyan không biết làm gì hơn là chạy lại cầu cứu quân
Hòa Lan. Cỏng rẳn cắn gà nhà đã từng thấy trong lịch sử. Năm 1904, một chiếc
ghe của người Hòa Lan bị mắc cạn ở Sanur, miền nam đảo, bị dân Bali cướp mất mọi
đồ đạt. Người Hòa Lan buộc tiểu vương Badung chịu trách nhiệm và phải bồi thường
một số tiền lớn. Được Tabanan và Klungkung ủng hộ, Badung mạnh dạn từ chối.
Thương thuyết mãi không thành, quân Hòa Lan đổ bộ lên Sanur và tiến về kinh đô
Denpasar. Mặc dầu nhiều can đảm và đầy khí khái, người Bali không sao đương đầu
nổi với súng ống Hòa Lan. Và đây diễn ra một biến cố vô tiền khoáng hậu trong lịch
sử thế giới.
Phong cảnh vùng UbudĐể tránh một cuộc đầu hàng nhục nhã, trọn vẹn triểu đình
Badung, từ vua chúa, vọ con, họ hàng cho đến giáo sĩ, quân binh, quan chức cùng
các nghệ sĩ, nô tỳ, dân quê không cùng đẳng cấp nhưng thuộc quyền nhà vua, tổ
chức một cuộc quyên sinh tập thể ngày nay còn truyền tụng qua danh từ puputan trong
ngày Tận số. Toàn mặc áo quần trắng tinh, cài hoa và mang đủ đồ trang sức tráng
lệ, đàn ông đặc biệt mang thanh kiếm tượng trưng kriss lóng lánh ngọc
bích, giữa tiếng trống, tiếng mõ, giữa khói lửa mịt mù, tiếng nổ rầm trời tạc đạn
đại phá, họ tuần tự, thản nhiên tiến lại quân địch như diễn viên trên sân khấu
ra chào cảm ơn khán giả. Lẽ tất nhiên, họ tiếp tục nhau ngã gục dưới làn đạn của
quân Hòa Lan. Để cho chắc chắn là tất cả cùng nhau hiến thân, nhiểu ông đã lầy
liếm đâm vợ, nhiều bà đâm con trước khi chính mình bị bắn chết. Cảnh tượng vô
cùng khủng khiếp dễ sợ nầy được Vichi Baum miêu tả trong cuốn truyện Liebe
and Tod in Bali (bản dịch tiếng Pháp Sang et Volupté à Bali) rùng rợn, có
phần bi thảm hơn cả những câu vè Thất thủ Kinh đô kể lại biến cố năm 1885 ở Huế
tương đương với biến cố Mậu Thân... Cuộc tàn sát tiểu vương Badung mở cửa rộng
cho quân Hòa Lan vào Bali. Ngay sau đó đến lượt vương tộc Pemacutan cũng bỏ
mình trong một cuộc quyên sinh tương tự, còn gia đình tiểu vương Tebanan thì tự
sát khi bị bắt. Sau đó, quân Hòa Lan tấn công Klungkung, lại diễn ra một puputan khác.
Tiếp sau tiểu vương Bangli đầu hàng, quân Hòa Lan làm chủ toàn đảo rồi từ đấy
đi chiếm cứ các đảo kế cạnh và qua năm 1910 thì thống nhất tất cả quần đảo Nam
Dương thành một thuộc địa chạy dài từ Borneo đến Irian Jaya.
Đời sống ở Kusamba và MengwiBắt đầu từ đây, quá trình phát triển Bali đi đôi với lịch sử
Nam Dương và lịch sử Nam Dương diễn biến song song với lịch sử Việt Nam, ít nhất
cũng cho đến ngày hai nước tuyên bố độc lập. Những bạn đọc cùng tuổi tôi chắc
còn nhớ những ngày xuống đường năm 1945 ủng hộ Nam Dương đòi độc lập. Hòa Lan dựa
lên Nam Dương để xây dựng nền kinh tế của mình cũng như để thực hiện kỹ nghệ của
"mẫu quốc". Đầu tk XX, Nam Dương là một nước sản xuất tiêu và
quinin lớn nhất thế giới, cung cấp một phần ba cao su, một phần năm trà, cà
phê, đường, dầu tổng lượng thế giới. Nhưng Nam Dương vẫn luôn nghèo khổ. Nhiều
tổ chức chính trị ra đời tranh đấu cho một cuộc sống đầy đủ hơn. Quan trọng nhất
là phong trào Hồi giáo (từ 1909) và đảng Cộng sản (từ 1920). Năm 1927, một kỷ
sư trẻ tuổi, Sokarno, thành lập một đảng quốc gia nhưng ông sớm bị bắt và đưa
đi đày. Ngày 9 tháng ba năm 1945 (không phải tình cờ) Nhật Bản đảo chính Hòa
Lan và ngày 17 tháng tám năm đó nước Nam Dương Cộng hòa ra đời với Sokarno làm
tổng thống. Như Pháp ở Đông Dương, Hòa Lan khư khư muốn dành lại thuộc địa và
năm 1946 tái chiếm Bali. Mãi đến ngày 17 tháng tám năm 1950, đúng 5 năm sau lần
thứ nhất, được Liên hiệp quốc dàn xếp, nước Cộng hòa Nam Dương thống nhất thật
sự độc lập ra đời luôn với Sokarno làm tổng thống. Khó khăn rất nhiểu cho một
nước thế giới thứ ba muốn vươn lên nhất là Sokarno theo đuổi một con đường
chính trị quá chống đối tây phương. Thêm vào đó, Hòa Lan vẫn còn lăm le muốn
chiếm lại đảo Irian Jaya.
Dân cư ở Bedugul và SingaradjaNền kinh tế Nam Dương trở nên vô cùng khủng khoảng với một cuộc
lạm phát lên đến 680% năm 1965. Một nhóm sĩ quan trẻ tuổi, mà chính quyền cho
là được đảng Cộng sản khuyến khích, tìm bắt và xử tử sáu vị đại tướng. Một ông
may tránh khỏi là Suharto lập tức được đưa lên làm tổng tư lệnh quân đội để đối
phó với tình hình cấp bách. Mặc dầu trách nhiệm của đảng Cộng sản Nam Dương
trong cuộc đảo chính nầy không được chứng minh rõ ràng, đảng bị chụp mũ là thân
chính quyền Bắc Kinh đồng thời Hoa kiều ở Jakarta bị ghen ghét vì làm ăn phát đạt,
được đưa ra làm dê tế thàn: một cuộc lùng bắt diễn ra trước ở Sumatra, sau qua
Java, Lambok, Bali,...giết hại hàng chục ngàn người. Đây là biến cố đau buồn nhất
của Nam Dương từ ngày độc lập. Sau đó, cuộc tranh dành quyền lực giữa hai nhà
lãnh tụ kéo dài đến 1965 là năm Suharto được chính thức bầu làm tổng thổng thứ
nhì Nam Dương. Công việc ưu tiên của ông tân tổng thống là tu bổ nền kinh tế
đang kiệt quệ, ngăn chận lạm phát đang leo thang. Nhiều cố vấn Hoa Kỳ được mời
giúp sức, nhiều nhà tư bản bắt đầu lại đầu tư, khai thác gỗ rừng, các mỏ đồng,
thiếc và nhất là dầu khí. Tuy khám phá ra từ năm 1883, gần đây Nam Dương mới đạt
đến mức độ các nước sản xuất dầu khí lớn nhất thế giới. Lợi tức quốc gia vọt nhảy
nhưng chính quyền luôn cần rất nhiều tiền vì ngoài công việc củng cố quân đội,
cảnh sát, còn phải mở mang công vụ, chỉnh đốn từ hạ tầng cơ sở, đương sá cầu cống,
đến các ngành giao thông giáo dục cũng như nhân khẩu, chức nghiệp,... Từ đây, nảy
ra ý kiến tu bổ, cải thiện một nguồn thu nhập mới là ngành du lịch. Ở Bali, thật
ra không phải đợi đến độc lập văn đề du lịch mới được đề cập đến. Sau những biến
cố puputan khủng khiếp, chính quyền Hòa Lan có phần bối rối và như muốn
người ta quên đi cuộc giết chóc tàn bạo tuy không phải lỗi hoàn toàn tại họ. Họ
tuyên dương Bali là nơi mang nặng giá trị văn hóa cần phải giữ gìn và đưa hình
thức "du lịch văn hóa". Vì đã xem Bali như là một viện bảo tàng sống
nền văn minh Ấn Độ - Java, họ muốn không những bảo vệ Bali chống mọi tiếp xúc với đời
mới tối tân có thể đem lại ảnh hưởng tệ hại, mà còn muốn dạy cho người Bali biết
bảo tồn bản chất thuần túy của mình trong một chương trình "Bali hóa
Bali". Qua giáo dục ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật, họ thúc đẩy thanh
nhiên Bali ý thức rõ ràng tài sản phong phú của dân tộc mình.
Thiếu phụ và thiếu nữ ở Goa Lawah và KutaNgay sau đấy, nghĩa là từ 1908, sở du lịch bắt đầu tiến hành.
Tuy nhiên, cũng phải đợi đến đầu thập niên 20 mới thấy khách bắt đầu lại viếng
Bali và khách sạn lớn đầu tiên, Bali Hotel, chỉ được xây lên ở Denpasar năm
1928. Đến lượt những du khách quảng cáo cho Bali. Trong số nầy phải kể tác giả
người Đức Gregor Krause cho ra một cuốn sách tái bản nhiểu lần, trình bày
thiên nhiên và con người, từ rừng rậm cây ngàn, hội hè đình đám qua hình tượng
chạm trổ nhân thể trần trụi. Đợt khách thứ nhì đến Bali là các nghê sĩ. Trong
những năm đầu thập niên 1930, họa sĩ cũng người Đức Walter Spies mở xưởng ở
Ubud, miền trung hòn đảo, và thành lập "làng nghệ sĩ" với những nhà cộng
sự có tên tuổi như Margarel Mead, Gregory Bateson. Một họa sĩ khác, Miquel
Covarrubias, người Mễ Tây Cơ, cũng là một nhà dân tộc học, cùng với phu nhân
Rose, người Hoa Kỳ, soạn thảo một cuốn sách đầy thú vị về văn hóa, Island of
Bali. Bắt đầu từ đây, khách du lịch ngày càng đông đến nỗi có người kêu la: Coi
chừng, Bali đang bị du lịch đe dọa, Bali rồi sẽ hết còn Bali. Một cuộc tranh luận
sôi nổi trên đề tài du lịch bắt đầu từ hồi ấy. Người lạc quan không tin Bali sẽ
mất nhân cách vì con người Bali có khả năng đồng hóa, họ không chịu nhượng bộ
dù chút nhỏ cốt yếu bản chất mình. Được vậy là nhờ họ không phải đồ vật thụ động
để ngắm nhìn mà là cá nhân năng động có khả năng xây dựng chẳng hạn những cụộc
biểu diễn theo thị hiếu của khách nhưng vẫn giữ nguyên lễ nghi cổ truyên của
mình. Khách thích, xem đông thì tài chánh trở nên dồi dào, nghệ sĩ có thêm điều
kiện để hoàn hảo cuộc trình diễn, từ đó khách lại càng nhiều thêm. Luận pháp
nây như tuồng được nhà cầm quyền chấp nhận và ủng hộ vì năm 1978, Suharto bổ nhậm
làm thống đốc đảo, giáo sư Bagus Mantra, một người rất am tường văn hóa, thay
thế một viên đại tá người Java thiều kiến thức mà Bali phải chịu đựng từ ngày
Sokarno xuống chức.Bắt đẩu từ đây, Bali đóng góp rất lớn vào ngân quỷ quốc gia,
đồng thời củng cố đia vị của đảo trong tập thể Nam Dương. Thành thử câu hỏi
không phải là văn hóa Bali có sống còn được không sau cuộc tiếp xúc vói du lịch
ngoại quốc mà bản chất văn hóa Bali là gì?.II. Bản chất và văn hóa Bali Ngày nay, đi dạo quanh Bali, đặc biệt ở vùng nam đảo, trong
khu tam giác Denpasar-Sanur-Kuta, nơi tập trung các khách sạn du lịch, theo luật
lệ hiện hành, khách thấy nhà cửa không được xây cao quá ngọn cây dừa, từ ngày
Bali Beach Hotel cao đến 10 tầng làm dân cư hoảng sợ. Dù chung đụng với du lịch
tây phương, người Bali biết sống trong một khuôn khổ nặng đầy thủ tục, tôn
giáo. Đời sống hằng ngày của họ phân chia giữa nhiệm vụ xã hội và bổn phận đạo
giáo. Ngay nghệ thuật cũng phản ảnh môi trường của cộng đồng. Từ thuở ấu thơ, đứa
trẻ Bali nhờ đang còn thanh khiết nên được xem như một vật thiêng liêng, không
được đánh đập, la mắng quá độ. Lớn lên, tục lệ mài răng không chỉ để cho mọc thẳng
đẹp mà còn có nghĩa để hạn chế những tật xấu của con người: tham lam, giận dữ,
ghen tuông, dục vọng,... Nếu là con gái, nhất là thuộc đẳng cấp cao, thì có lễ mừng
tuổi dậy thì, ra mắt phụ nữ. Tôi may măn gặp được những cô cở tuổi nầy, trẻ đẹp,
da ngăm, quần jean, áo cụt, mang một rỗ đầy hoa sắp thành mâm nhỏ, thoăn thoắt
bước qua đường, chạy từ cổng nầy qua cửa khác, đặt các mâm hoa lên lên thành đá
hay ngưỡng cửa, có khi ngay cả trên vỉa hè, vệ đường, bất chấp người xe qua lại,
để tạ ơn một thần linh nào hay để cầu khấn ma quỷ đừng lại quấy nhiễu. Bất cứ
trai hay gái, phải lập gia đình mới là trưởng thành. Ở Bali có hai cách lấy
nhau: hoặc nhà trai lại xin cưới, quà cáp tốn kém lại phải viếng thăm mất nhiểu
thì giờ, hoặc phấn khích hơn là anh chàng lại bắt cóc ngay cô nàng. Lúc trước
chàng trai phải trèo tường, leo thang, vượt qua biết bao chướng ngại, tưởng
mình như ông hoàng Ạrjuna, người hùng của truyện Mahabharata. Ngày nay, thời đại
mới cho phép chàng trai đem xe hơi lại phổng, có khi được bạn bè phụ giúp. Tuy
vậy, tối hôm ấy cặp trai trẻ phải ra làm lễ ở miếu thờ thần Đất Pertini và sau
đó vài hôm phải tổ chức một lễ cưới chính thức có giáo sĩ lại cầu chúc trước
bàn thờ tổ tiên đòng thời cũng phải đi cúng lạy ở các miếu đền khác trong xóm,
trong làng.
Vì vậy, nói chung mỗi làng, mỗi phường trong thành phố có kiểu cách của riêng mình từ đấy thường được tổ chức hằng năm những cuộc thi điệu múa, bản nhạc. Trong một xứ gần như độc nhất trên thế giới thời nay hằng ngày sống theo nhịp múa và tính nhạc, không có gì lạ khi nghe khắp làng những tiếng gõ, nhạc cồng, tiếng trống, xập xỏa đệm theo những điệu múa bố trí thanh lịch minh họa bầu trời đầy dẫy thần thánh từ thiện cũng như ma quỷ hung ác. Nhạc điệu chính là phương cách để chinh phục những nhân vật hoang đường này. Dàn nhạc chính thức có tên gamelan cốt yếu là một bộ nhạc khí gõ: cồng (ageng, kenong, bonang), đàn kim loại (saron, peking, demung, slentem, gender), đàn phiến gỗ (gambang), trống (ciblon, kendang), có khi đàn dây (rebab, lacapi), sáo (suling) và hát hai giọng nam nữ. Thường nhạc công đánh trống kendang được xem như là nhạc trưởng. Có nhiều chuyên gia xem toàn thể gamelan như một nhạc cụ độc nhất. Nhạc khí được xem là thiêng liêng và không ai dám bước qua vì chân được cho là không trong sạch. Cũng vì vậy mà gamelan có mặt trong mọi tế lễ, đám cưới. Vai trò dàn nhạc rất quan trọng, không chỉ đệm theo tuồng hát. Khởi phát từ những động tác nhẹ nhàng nhịp điệu của các nhạc công, tiếng nhạc gô, tiếng cồng kim loại thôi thúc liên hồi một nghị lực vừa bản thân, vừa tập thể, có khả năng đưa khán giả vào một trạng thái xúc cảm đồng cốt, từ đó dẫn họ đến một miền vô định, lạc thú. Gamelan làngTelepud đặc biệt thần diệu, có tiếng tăm, có thể xem như là dàn nhạc lịch sử của đảo. |
Cùng với Gambuth, tuồng cổ Wayang Wong là mẫu
căn bản để phát triển mọi sáng tác về bố trí điệu múa và về dàn cảnh tuồng kịch
truyền thống Bali. Cả hai tuồng nầy có thể xem như là sườn cốt nghệ thuật và lš
thuyết nhưng không chỉ là một mô hình thẩm mỹ mà còn là một kịch trường trọn vẹn
trong ấy tham dự vừa nhạc hát, múa nhại, vừa khúc hát nói, đối thoại nói. Chính
trong khuôn khổ những phương cách sum sê dồi dào ấy mà lẫn lộn các màn tình ái
mộng mị, các hồi đoạn chiến đấu, các màn xen khôi hài, các cuộc đuổi bắt sống động,
.... trong lúc huyền thoại tuần tự diễn biến, tiếp nối nhau những cảnh tượng
sôi sục và những phong cảnh nên thơ yên tĩnh. Có những nhân vật tuy không cốt yếu
nhưng rÃt có ích là các chú hề: một bên Tuelen, Merdah hai người phục
vụ hoàng tử Rama, bên kia Delem, Sangut hai tay sai của vua
quỷ Ravana. Nếu những nhân vật chính diễn đạt với một ngôn ngữ chải chuốt
trong triều ngày xưa, loại văn chương khó hiểu, ngay cho cả người bản xứ, những
vai hề đùa nghịch với nhau, bình phẩm chế nhạo các nhân vật qua lối nói bình
dân để cho mọi khán giả có thể theo dõi các cuộc tranh luận. Trong ngành nhạc,
họ được xem như là phần đối âm để có thể thấu hiểu diễn biến sự tích. Nghệ thuật
kịch câm của họ lên cao đến nổi năm 1936, tay nghề hài kịch nổi tiếng thế giới
Charlie Chaplin lại xin cùng ở vài tháng để thấm nhuần tâm tính. Tuồng ‘’Bắt cóc Sita’’ trích từ sử thi Ramayana Ấn
Độ, qua cải biên thuật sọạn điệu múa ‘’tuồng hát bóng không bóng’’, là thành
công lớn nhất vở Wayang Wong của Bali. Những diễn viên nhảy múa đều
mang mặt nạ mà cử chỉ điệu bộ cũng như quần áo trang phục đều phỏng theo những
con rối bằng da Wayang kulit. Mặt nạ xác định đẳng cấp của nhân vật : trắng,
vàng hay lục cho hàng quý phái, nhăn nhó dễ sợ cho quỷ sứ. Những nhân vật ít có
biết diễn đạt tinh tế : người xấu thì thật xấu, người tốt thì thật tốt, nhưng
những sự kiện đều là điển hình phong tục tập quán cả vùng. Bản kịch sân khấu
luân phiên bài múa, bài ca quanh nhạc điệu gõ gamelan. Hai người thuyết
minh, một trai, một gái, diễn mọi vai trò, trực tiếp giải thích sự tích. Ở rạp
Pleyel, những lời bình còn được dịch ra tiếng Pháp chiếu cao trên sân khấu. Một
tờ chương trình chi tiết từng màn kịch bản được phát cho khán giả. Ramayana, còn
gọi Kỳ tích Rama, là huyền thoại lớn nhất sau Mahabharata. Được cho
là do nhà thơ Valmiki - hẳn nhiên hoang đường - sáng tác, Ramayana xuất
phát từ những yếu tố lịch sử liên quan đến các bất đồng dữ dội trong thời cổ đại,
có khi đi đến đánh giết nhau, giữa một quốc vương trên bờ sông Hằng Hà và những
bộ tộc trên đảo Tích Lan tức là Sri Lanka ngày nay. Bài trường thi dài 48.000
câu thơ nầy kể lại thành tích của hoàng tử dũng khí Rama (Ramawijaya)
vương quốc Ayodya được phú thêm quyền thế ma lực, chồng của công
chúa Sita, con vua Janata láng diềng. Đôi vợ chồng mới cưới cùng
với hoàng tử Lakshmana, em Rama, vâng lệnh vua cha Dasarata, để
giải quyết bất bình gia đình, phải đi sống lưu vong mười bốn năm. Họ vào ở
trong một ngôi rừng tình cờ là nơi ngự trị của một đoàn quỷ sứ ăn thịt người Raksasas
đứng đầu là vua quỷ hung ác Ravana. Vua quỷ nấy thừa cơ bắt cóc Sita.
Để cứu nàng, Rama phải nhờ tướng khỉ Hanuman giúp sức và
thành công sum họp vợ chồng. Sự tích rất dài, kể hết chi tiết phải cần một cuốn sách dày,
diễn xuất trọn vẹn cần hơn một trăm giờ. Thường chỉ một đoạn đuợc chọn lưa, tùy
theo hoàn cảnh. Ví dụ khi có khô hạn, đoạn được diễn xuất là màn ‘’thoát nước‘’: một người em của Ravana làm nghẽn nguồn suối để cho địch quân
thiếu nước, phải bỏ chạy khi đoàn khỉ lại đánh, và nước đuợc tháo ra… Có những
màn khác bị cấm không thì cả làng mang vạ bị cháy! Chỉ các trận đánh nhau giữa
hai đội quân khỉ và đội quân quỷ với những đòn ma quái khủng khiếp qua lại
không ngừng đã là một cảnh tượng khá dài. Đoạn diễn xuất ở Paris điễn hình những
màn trình bày trong các đền miếu nhân các buổi tế lễ tôn giáo hay ruộng đất. Trận
giao chiến cuối cùng thường dành cho hai thủ lĩnh Rama và Ravana.
Nếu Ravana mặt mày dữ tợn, Rama trong trẻo luôn có mặt
trong nhà thờ chư thần như là hóa thân của Vishnu. Ramayana trở
nên truyền thuyết phổ biến nhất ở Ấn Độ cũng như ở các nước Đông Nam Á. khi văn
hóa Ấn Độ trở thành nền tảng những đế quốc Hindu tương lai. Không biết rõ vào
thời gian nào văn hoá nầy đã được đem vào quần đảo Nam Dương, người ta đoán khoảng
chừng vào thế kỷ IV những sử thi Ramayana và Mahabharata được
chuyển qua trộn lẫn với những truyền thuyết địa phương làm thành một di sản
riêng biệt Indonesia. Nếu cốt lõi sử thi Ấn Độ vẫn được giữ nguyên, những nhân
vật được địa phương hóa: Rama, Sita trở thành một hoàng tử, một cô
công chúa Java, trong tuồng này thì là Bali.
Kịch bản từ lâu không có thay đổi bao lăm. Ở màn đầu, Tuelen và Merdah, hai người phục vụ hoàng tử Rama chuyện trò ở lâu đài Mantila của vua Janaka. Rama và tùy tùng sắp sửa lên đường về Ayodya sau lễ cưới với Sita. Nàng khóc vì Rama ra đi mà không thức nàng dậy. Vua Dasarata và Lakshmana, thân phụ và thân huynh Rama, lại dỗ dành Sita, bảo anh chỉ đi chào vua Janaka. Cả đoàn lên đường, qua rừng gặp ẩn sĩ Ramaprasu, thách thức thi đấu với Rama. Ông đưa ra một cái cung nặng, thách Rama nhất lên. Rama dễ dàng nâng cung rồi hướng mũi tên về Ramaprasu. Sợ quá, ông xin chịu tội và hiến Rama thiên đàng mà Rama trước đã được thần Indra ban cho. Về đến Ayodya, vua Dasarata báo cho Rama biết ông nhường ngôi cho chàng. Màn sau, hai tay sai Delem và Sangut hộ tống vua quỷ Ravana. Ông ra lệnh cho bộ hạ Trisirah, Kara và Dursana giết hết các tu sĩ trong rừng. Trong lúc ấy, vì lỡ hứa với vợ nhưòng ngôi cho Bharata, anh của Rama, vua Dasarata khuyên Rama đem cô vợ Sita và người em Lakshmana lánh vào rừng để tránh xích mích. Gặp con quỹ dữ ăn thịt người Wirada đặc biệt đi với hai tay, hai anh em bắt và xé nó ra. Người gặp sau là Surpanaka, em gái Ravana, đem lòng yêu hai chàng trai trẻ đẹp và muốn quyến dũ, Lakshmana tức giận cắt lỗ tai, cô ta gào thét vì đau, chạy đi mách Ravana. Bên phần ông vua quỷ nấy thì lại muốn chiếm đoạt Sita bèn sai bộ hạ Marica biến thành con nai có sừng vàng lại quyến dũ. Nàng muốn bắt nhưng không được, con nai lại chạy xa, Rama chạyđuổi theo. |
Ra xa, Marica giả giọng Rama kêu cứu, Lakshmana chạy đuổi tiếp. Khi thấy Sita ở lại một mình, Rovana liền giả dạng ẩn sĩ già Peranda đến bắt cóc Sita đem về vương quốc Lanka. Dọc đường, có con chim huyền thoại Garuda Jatayu, bạn của vua Dasarata, muốn cứu nhưng không nổi, lại bị cắt hai cánh rơi nằm xuống đất. Hai anh em Rama và Laksmana không bắt đuợc con nai, trở về thì gặp Jatayu kể cho biết Sita đã bị bắt cóc. Vào lúc ấy đại tướng quân khỉ Hanuman lại cầu cứu giúp vua khỉ Surgriva đang bị anh là Subali tiếm ngôi. Rama giết Subali và Hanuman vâng lời Surgriva cùng đi cứu Sita. Trong lúc ấy, Ravana muốn quyến rũ Sita mà không được. Rama gởi Hanuman mang chiệc nhẫn cưới của mình đi Lanka dò xem Sita ở đâu. Trong rừng, ngồi hóng mát trong một cái động, một phụ nữ đẹp, Swayampraba, mời Hanuman ăn đồ trái và đề nghị hiến tặng quyền lực mầu nhiệm để đi mau tới Lanka với điều kiện là nhắm mắt lại. Bất ngờ cô biến Hanuman thành quỷ Celuluk và bầy khỉ thành bầy quỷ sứ ăn thịt người. May nhờ chim thần Sempati, em của Jatayu, hoá pháp cho phục hồi lại thành khỉ. Sau đó, cả đội quân khỉ tiến đến đảo Lanka nhưng chỉ có Hanuman có phép bay vào gặp Sita bị Rovana giam trong cung điện. Sita rất vui mừng nhận ra chiếc nhẫn cưới và cậy Hanuman mang về Rama một cái hoa. Lập tức, Rama, Lakshmana, Hanuman cũng đội quân khỉ tiến vào tấn công Lanka, đánh bại đoàn quân quỷ sứ và Ravana chịu thua… |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét