Ba chiêu thức mở đường cho thơ đi
tới bến
Lời nói đầu:
Vào cuối thập niên 30 của thế kỷ 20, khi phong trào Thơ Mới đang nở rộ, một thi sĩ trẻ tài năng vì hoàn cảnh trớ trêu, đã phải dai dẳng chất chứa trong lòng một nỗi tủi nhục buồn sầu sâu nặng. Nhưng chính nhờ cái tâm sự tủi nhục buồn sầu đó ông đã sáng tác 2 bài thơ trong đó có một bài được đánh giá rất cao về giá trị nghệ thuật. Đó chính là thi sĩ Vũ Hoàng Chương và hai bài thơ được đề cập đến là Phương Xa và Say Đi Em.
Thành Sầu Của Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương sinh năm 1916, lúc Nho học đang lụi tàn. Khoa thi Hương cuối cùng là khoa Mậu Ngọ (1918), tổ chức tại trường Thừa Thiên. Sau khoa thi Hương này, ngày 28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Khoa thi Hội và thi Đình cuối cùng được tổ chức năm 1919. Những người thi đỗ có bằng nhưng không được bổ nhiệm chức vụ gì. (1)
Cha mẹ Vũ Hoàng Chương, cũng như rất nhiều bậc cha mẹ thuộc hàng quan lại, khá giả thời bấy giờ, ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Một là, giữ lấy chút tiết tháo, thà để con lông bông chịu dốt chứ không thèm hợp tác với ngoại bang. Hai là, cho con theo Tây học để mở mang kiến thức, có cơ hội thăng tiến trong xã hội mới. Họ, hầu hết, đã chọn con đường thứ hai. Vũ Hoàng Chương nhờ thế, đỗ Tú Tài Pháp ban toán năm 21 tuổi (1937).
Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ, đi làm Phó Kiểm Soát Sở Hỏa Xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh – Na Sầm. (2)
“Vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân Pháp nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm quyền đang cố tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (Năm 1930, Nguyễn Thái Học và mười hai liệt sĩ VN Quốc Dân Đảng khác phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, sau đó là chiến dịch lùng sục bắt bớ ở nhiều nơi), đồng thời để ru ngủ thanh niên nên các trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào (còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản. Người ta đua nhau ăn diện, nhiều cậu công tử Hà Thành diện đúng mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường.
Vũ Hoàng Chương ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng - rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn "hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (2)
Như vậy, “thành sầu” của Vũ Hoàng Chương là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc. Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức phục vụ bộ máy cai trị ấy. Và chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc. Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu.
(Đoạn này có vài chỗ được trích hoặc mượn ý từ những bài viết trước của Phạm Đức Nhì)
Hai Bài Thơ
Để giải tỏa nỗi buồn sầu cao ngất đó, ông đã nghĩ ra hai giải pháp:
1/ Bỏ đi thật xa: Lênh đênh trên biển cả hoặc ghé vào một bến bờ hoang sơ nào đó để tránh những đôi mắt coi thường, khinh bỉ của người đời.
2/ Tìm quên trong khói thuốc phiện, men rượu, tiếng nhạc du dương dưới ánh đèn màu, vòng tay vũ nữ.
Giải pháp 1, theo tôi, chắc chỉ là trong tâm tưởng và sau đó bộc lộ trên trang giấy bằng bài thơ Phương Xa
Giải pháp 2 được ông thực hiện nhiều lần và kết quả là – trong một lúc xuất thần “say không còn biết chi đời” - đã để lại cho vườn thơ nhân loại tuyệt phẩm Say Đi Em.
Cả hai bài đều nằm trong tập Thơ Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1940.
PHƯƠNG XA
1/
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Đông hay giạt tới phương Đoài
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi
2/
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.
3/
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.
4/
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan.
SAY ĐI EM
1/
2/
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
3/
(Vũ Hoàng Chương)
Đây là hai bài thơ cùng một tâm trạng, được viết bởi cùng
một thi sĩ tài hoa – ngôn ngữ, hình tượng chắt lọc, đẹp đẽ, cao sang, câu cú
gọn gàng trong sáng -
nhưng có khác biệt khá lớn về mấy điểm trong kỹ thuật thơ – tạm gọi là “3 chiêu thức căn bản”. Tôi muốn nói đến thể thơ, cách gieo vần và phân bổ số chữ trong câu.
1/ Thể Thơ Và Cách Dàn Trải Tứ Thơ.
a/ Phương Xa viết theo thể Thơ Mới Trường Thiên, phân mảnh đứt đoạn cả về ý lẫn về vần. Bài thơ được chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn 4 câu - diễn tả một ý, một mảnh tâm sự riêng. Nhìn toàn cảnh thì tứ thơ được dàn trải thành 4 “vũng thơ” riêng biệt, không có dòng chảy.
Dàn trải tứ thơ kiểu này có lợi trước mắt là có thể dồn tâm trí vào một ý nhỏ, một mảnh tâm sự - xong ý này thì bước sang ý khác - chứ không cần lúc nào cũng phải bận rộn với toàn cảnh của bài thơ.
Nhưng có một bất lợi rất lớn là bài thơ bị đứt mạch cảm xúc - cảm xúc không có “sóng sau dồn sóng trước” nên không thể lớn mạnh được. Thi sĩ dù kỹ thuật thơ có điêu luyện đến cỡ nào, khi làm thơ có cao hứng đến đâu, những lúc ngừng nghỉ để chuyển đoạn, lý trí sẽ xuất hiện - điều chỉnh chỗ này, uốn nắn chỗ kia. Và cơn cao hứng sẽ hạ xuống, cảm xúc sẽ như bong bóng bị xì hơi, không đủ mạnh để tạo hồn thơ.
Tệ hại hơn, khi có mặt của lý trí chữ “xạo” sẽ có cơ hội tung hoành. Câu 3 của đoạn 3 là một thí dụ rõ ràng.
“Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị”
Tâm hồn Vũ Hoàng Chương lúc ấy đầy ắp tủi nhục và mặc cảm tội lỗi chứ đâu có “giản dị” như ông tự nhận với văn chương để đỡ ngượng. Và mắt người đời có chút rẻ rúng, coi thường ông cũng là lẽ tự nhiên chứ đâu có gì là “kiêu bạc”. Chính lý trí đã đứng sau lưng đẩy “cái tôi văn hoá” của ông ra trước mặt thiên hạ viện lẽ chống chế chứ nếu là “cái tôi đích thực” thì chữ “xạo” đâu có đất dụng võ.
b/ Say Đi Em là Thơ Mới nhất khí liền mạch. Trong Say Đi Em tâm sự của tác giả được dàn trải liền lạc một mạch, từ đầu đến cuối bài thơ. Nhờ số chữ trong câu thay đổi với biên độ rộng, cách gieo vần tài hoa nên dòng chảy của tứ thơ thông thoáng, đặc biệt 2 đoạn sau dòng chảy rất mạnh.
Hơn nữa, tác giả viết trong cơn say đến mức lạc thần trí nên cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng. Lời thơ là tiếng lòng Chân Thật (viết hoa) của “cái tôi đích thực” chứ không có bóng dáng của chữ “xạo” như trong bài thơ Phương Xa.
Đoạn thơ:
đã chúng minh điều đó. Ông không chống chế, tránh né như trong bài Phương Xa mà cúi đầu chấp nhận. Nỗi tủi nhục buồn sầu ấy là có thật, to lớn như một bức tường thành lúc nào cũng sừng sững trước mắt ông.
2/ Vần
a/ Phương Xa: Vần gián cách cả 1/3 lẫn 2/4. Bài thơ 16 câu có 8 cặp vần trong đó 5 cặp chính vận (đứa nữa, kỷ dị, vơ sơ, tắt hắt, khoan ngoan) và 3 cặp thông vận gần (sóng rộng, Đoài vơi, khinh đênh). Thơ Mới Trường Thiên - mỗi câu 8 chữ đều đều, tẻ nhạt - gieo vần như thế là quá nhiều, hội chứng nhàm chán vần rất rõ nét.
b/ Say Đi Em: Vần trong Say Đi Em không theo một quy luật nào, thường là vần liên tiếp nhưng cũng có mấy đoạn vần gián cách xen vào để làm mới lạ âm điệu:
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Ngoài ra, thuận theo dòng chảy của âm thanh, thi sĩ cũng chẳng ngại ngùng đưa vào 2 câu lục bát cho thêm phần du dương.
Đặc biệt hơn cả là một đoạn thơ dài điệp vận vần bằng (rồi trôi môi rời ơi) được xen kẽ bằng 3 câu vần trắc (vững nữa lửa)
đọc không ngán mà hiệu quả cảm xúc rất cao. Thêm nữa, hai nhóm chữ “em ơi” ở câu đầu và câu sau cùng của đoạn cuối hòa cùng nhóm vần “rồi trôi môi rời ơi” của đoạn điệp vận tạo thành một giai kết hoàn toàn với âm vang tuyệt vời kết thúc dòng nhạc của bài thơ.
Theo tôi, cách gieo vần khác lạ của Say Đi Em không chỉ đến từ kỹ thuật thơ điêu luyện của thi sĩ mà chính cảm xúc mạnh mẽ trong cơn say “say không còn biết chi đời” đã góp phần lèo lái, tạo nên “giàn vần” độc đáo, tuyệt vời của bài thơ.
3/ Phân Bổ Số Chữ Trong Câu
a/ Phương Xa: Mỗi câu 8 chữ đều đặn từ đầu đến cuối. Nhịp điệu tẻ nhạt.
b/ Say Đi Em: Số chữ trong câu không cứng ngắc mà thay đổi tùy hứng, với biên độ rất rộng, không theo một quy luật nào. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?). Đặc biệt có mấy đoạn nhiều câu ngắn xen giữa những đoạn câu dài nên nhịp điệu của bài thơ lúc khoan, lúc nhặt, chứ không đều đều, nhàm chán.
Nhìn trên bề mặt chữ nghĩa thì Say Đi Em vần dầy đặc, có khi còn hơn cả Phương Xa nữa, nhưng số chữ trong câu thay đổi với biên độ rất rộng đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần.
Ngoài ra, 3 chiêu thức căn bản trên còn ảnh hưởng dây chuyền đến:
Dòng Chảy Của Tứ Thơ
a/ Phương Xa: Chỉ là 4 “vũng thơ”, không có dòng chảy.
b/ Say Đi Em: Tứ thơ chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối; bắt đầu từ đoạn 2 dòng chảy rất mạnh. Bài thơ có 3 dòng chảy quyện vào nhau: Dòng chảy của tứ thơ, dòng chảy của âm thanh và dòng chảy của cảm xúc.
Cao Trào
a/ Phương Xa không có cao trào.
b/ Say Đi Em: Cao trào - với độ cao chót vót - nằm ở 2 câu:
“Trong men cháy giác quan đều bén lửa
Say không còn biết chi đời”.
Cảm Xúc
a/ Phươg Xa:
Cảm xúc tầng 1 mạnh nhờ ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú trong sáng
Cảm xúc tầng 2 khá mạnh nhờ bố cục dễ hiểu: Ý chính nằm ở 2 đoạn giữa, đoạn đầu thuyền nhổ neo rời bến, đoạn cuối thuyền “theo gió” tiếp tục lênh đênh. Tuy nhiên, phân bổ lực lượng như vậy không hợp lý - đoạn đầu và đoạn cuối quân đông (mỗi đoạn 32 chữ) mà nhiệm vụ lại quá nhẹ - sinh ra nhiều chữ thừa và hiện tượng “thừa giấy vẽ voi”.
Cảm xúc tầng 3: Do lý trí đứng ra đạo diễn bài thơ nên cảm xúc tầng 3 không có.
b/ Say Đi Em
Cảm xúc tầng 1 cũng mạnh do ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú trong sáng.
Cảm xúc tầng 2: Trong Say Đi Em thi sĩ họ Vũ không dàn ý trước (như trong Phương Xa) mà cho cảm xúc cực mạnh của mình thúc đẩy “cái tôi đích thực” “bật” ra những con chữ và để chúng mặc tình tuôn chảy bất cần bố cục, phương hướng.
Với tư cách một người đọc, tôi xin mạn phép chia bài thơ làm 3 đoạn.
Đoạn 1: Phần dẫn nhập, giới thiệu khung cảnh vũ trường và cô ca ve bạn nhảy.
Đoạn 2: Đắm hồn trong tiếng nhạc, bước nhảy, men rượu – trên đường tới điểm đến của tứ thơ (KHÔNG CHỦ Ý)
Đoạn 3: Gặp tứ thơ một cách bất ngờ - nỗi tủi nhục buồn sầu mà “cái tôi văn hóa” luôn che giấu.
Lẽ ra cảm xúc tầng 2 chỉ là khoái cảm của người đọc khi nhận biết cách dàn quân khéo léo, hợp lý của bài thơ. Nhưng ở đây chính vì tác giả tước bỏ quyền hành của lý trí ngay từ trong việc định hướng tứ thơ nên bài thơ thấm đẫm chất tình. Ngay bố cục của bài thơ cũng đã tặng cho người đọc cái “luồng hơi nóng”, cái “sướng” của cảm xúc tầng 3.
Cảm xúc tầng 3:
Sau đoạn đầu với âm điệu nhẹ nhàng, nhịp điệu chậm rãi, có nhiệm vụ dẫn nhập và giới thiệu, phần còn lại của bài thơ gồm 34 câu, 214 chữ - do thi sĩ đang trong cơn say, cao hứng đến lạc thần trí - câu nào, chữ nào cũng thấm đẫm cảm xúc. Ba dòng chảy - vừa nhanh, vừa mạnh - quyện vào nhau, chỉ trong khoảnh khắc đã tạo nên hồn thơ lai láng, thôi thúc độc giả đọc một mạch đến hết bài mà không chán.
Nguyên Nhân Sự Thành Công Của “Say đi Em”
Thành công to lớn về phương diện nghệ thuật của Say Đi Em trước hết, là nhờ tác giả đã chọn 3 chiêu thức căn bản (trong kỹ thuật thơ) hoàn toàn trái ngược với Phương Xa:
1/ Thể thơ nhất khí liền mạch tạo dòng chảy cho tứ thơ (không độc đáo nhưng là điều kiện cần thiết – không có dòng chảy thì không có “sóng sau dồn sóng trước”, cảm xúc không thể lớn mạnh và chắc chắn không thể có hồn thơ).
2/ Số chữ trong câu thay đổi tùy tiện với biên độ lớn khiến dòng nhạc trong thơ lúc khoan, lúc nhặt, không đều đều tẻ nhạt.
3/ Vần liên tiếp là chính nhưng cũng có xen kẽ vần gián cách. Nhìn thoáng qua thì vần đậm đặc nhưng sự biến đổi của số chữ trong câu đã hóa giải hội chứng nhàm chán vần.
Say Đi Em ngoài 3 chiêu thức trên còn có thêm 2 điểm đặc biệt nổi trội:
1/ Nhờ cảm xúc cực mạnh trong cơn say bí tỉ, điệp vận dầy đặc và đúng lúc nên dòng chảy của các con chữ bắt đầu từ đoạn 2 rất xiết, bài thơ lên đến cao trào ở 2 câu:
Trong men cháy giác quan đều bén lửa
Say không còn biết chi đời.
2/ Đọc Say Đi Em từ đầu đến gần hết bài thơ cũng chưa thấy bóng dáng của tứ thơ. Chỉ thấy tác giả kể lại một đêm đắm mình trong men rượu, tiếng nhạc và vòng tay gái nhảy ở vũ trường. Mãi đến hết đoạn 2, khi dòng chảy của các con chữ, dòng nhạc và dòng cảm xúc đã lên đến đỉnh điểm, tạo thành cao trào, tứ thơ mới lộ diện:
Đó là nỗi tủi nhục buồn sầu, không biết từ lúc nào, đang đứng sừng sững như một bức tường thành trước mắt tác giả.
Chữ “chưa” chứng tỏ nó đã lởn vởn trong tâm hồn ông từ lâu lắm. Một lúc sau chữ “không” xuất hiện, cho biết nó to lớn quá, mọi nỗ lực trốn tránh, xua đuổi, tìm quên đều thất bại.
Lúc ấy tác gjả đã lạc thần trí, các con chữ hoàn toàn từ cảm xúc tuôn ra làm hồn thơ lai láng. Không có sự can thiệp của lý trí, đó chính là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.
Tầm Quan Trọng Của 3 Chiêu Thức Căn Bản
Phương Xa và Say Đi Em là hai bài thơ của cùng một tác giả, diễn tả cùng một tâm trạng. Chỉ khác nhau ở 3 chiêu thức căn bản trong kỹ thuật thơ - thể thơ, cách gieo vần và phân bổ số chữ trong câu - mà giá trị nghệ thuật cách nhau rất xa. Phương Xa chỉ ở trên mức “thường thường bậc trung” chút ít. Còn Say Đi Em đã lên đến đỉnh điểm, đạt được mục đích tối thượng của người làm thơ – giao tiếp với đồng loại bằng Tiếng Người Chân Thật, đưa thi sĩ và tác phẩm của ông bước vào và ung dung ngồi ở vị trí trang trọng trong Bến Bờ Thi Ca.
Đồng ý Say Đi Em lên đến đỉnh là nhờ ở “2 điểm đặc biệt nổi trội” được đề cập ở phần trên. Nhưng nếu không có 3 chiêu thức căn bản làm nền thì “2 điểm đặc biệt nổi trội” đó không thể chen vào bài thơ được.
Bất cứ thi sĩ nào, nếu sử dụng 3 chiêu thức trên, bài thơ của ngài tuy không bảo đảm là sẽ thành công như Say Đi Em nhưng ít nhất hội chứng nhàm chán vần sẽ được giảm thiểu tối đa hoặc loại bỏ, nhịp điệu đều đều, tẻ nhạt sẽ biến mất, tứ thơ, nhạc điệu, cảm xúc sẽ nhập chung thành một dòng thênh thang chảy về phía trước. Nếu làm thơ trong lúc có hứng cảm xúc tầng 3 ít nhiều cũng sẽ xuất hiện.
Trong trường hợp thi sĩ “nổi điên” đến mức lạc thần trí, 3 dòng chảy nhập một đó sẽ rất xiết, bài thơ sẽ ngập tràn cảm xúc, hồn thơ lênh láng (3).
Tôi Không Ác Cảm Với Thơ Mới Trường Thiên
Như đã nói ở phần trên, Thơ Mới Trường Thiên cũng có chỗ hữu dụng của nó. Vì lý trí thường tái xuất hiện khi chuyển đoạn nên ý tứ của mỗi đoạn – có sự quan tâm của lý trí - thường tươm tất hơn, sâu sắc hơn, nét đẹp văn chương của mỗi đoạn hoàn chỉnh hơn.
Nhưng cảm xúc bị nghẽn mạch nên không thể lớn mạnh được. Cơn cao hứng của thi sĩ cứ mỗi lúc ngừng nghỉ lại xì hơi, xẹp xuống, rất khó tạo được cảm xúc tầng 3 chứ đừng nói chi đến hồn thơ.
Khá đông thi sĩ trẻ nhiều triển vọng hiện đang sử dụng thể Thơ Mới Trường Thiên trong phần lớn những tác phẩm của họ. Thậm chí đại đa số thơ của một thi sĩ lão thành trong một trang web văn học uy tín, đều được viết theo thể này. Có nghĩa là - nếu không thay đổi kỹ thuật thơ – thì dù có cao hứng cỡ nào, cố gắng cách mấy, thơ của ông, cho đến hết đời, cũng chỉ “dậm chân tại chỗ”, không thể nào đến gần Bến Bờ Thi Ca được.
Kết Luận:
Làm thơ, ai cũng muốn đứa con tinh thần của mình được nhiều người mến chuộng, yêu thích. Người có tài, mộng lớn hơn - muốn thơ của mình bay lên tận đỉnh cao hoặc bước vào khu vườn tươi đẹp của Bến Bờ Thi Ca.
Xin các nhà thơ có cao vọng hãy nghĩ đến việc thao dợt để sử dụng nhuần nhuyễn 3 chiêu thức kỹ thuật nói trên rồi chờ đợi. Bất chợt một hoàn cảnh, một tứ thơ nào đó khuấy động tâm hồn đến mức “nổi điên” – vâng, đúng lúc đó nếu phóng bút, cơ hội có được bài thơ để đời sẽ rất cao.
CHÚ THÍCH:
1/ Chi Tiết Thú Vị Về Khoa Thi Nho Học Cuối Cùng, Chí Đức (https://kienthuc.net.vn/)
2/ (Vũ Hoàng Chương, Wikipedia.org) (https://vi.wikipedia.org/wiki/)
3/ Để diễn tả loại cảm xúc không phải đến từ câu chữ, thế trận của bài thơ một số tác giả sử dụng những nhóm chữ như: Bài thơ có hồn, hồn thơ man mác, hồn thơ khá mạnh, hồn thơ nhè nhẹ, hồn thơ lai láng
Để tránh nhập nhằng lẫn lộn cảm xúc từ câu chữ, thế trận với cảm
xúc từ cơn cao hứng của tác giả, tôi chia cảm xúc thành 3 tầng:
a/ Cảm xúc tầng 1: Khoái cảm người đọc có
được khi gặp ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú có cấu trúc mới lạ, trong sáng.
b/ Cảm xúc tầng 2: Khoái cảm người đọc có
được khi tiếp xúc với bố cục, thế trận hợp lý của bài thơ.
c/ Cảm xúc tầng 3: Khoái cảm không phải từ câu chữ, thế trận mà hình như từ đâu đó “giữa 2 hàng kẻ” do cơn cao hứng của thi sĩ truyền vào bài thơ. Đó là thứ khoái cảm cao cấp, luồng hơi nóng tạo cảm giác “sướng” đặc biệt.
Khi thi sĩ lạc thần trí, nổi điên, 3 dòng (tứ thơ, nhạc, cảm xúc) quyện vào nhau, chảy rất mạnh, tạo thành cao trào. Lúc đó ta có hồn thơ. Lời thơ là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.
Theo cách dùng chữ của tôi chỉ có “hồn thơ lai láng” mới được xếp
vào loại “hồn thơ”. Còn những nhóm chữ như “bài thơ có hồn”, “hồn thơ man
mác”, “hồn thơ khá mạnh”, “hồn thơ nhè nhẹ”, đều được gọi là cảm xúc tầng 3.
Thí dụ: Cảm xúc tầng 3 có nhưng không đáng kể, cảm xúc tầng 3 nhè nhẹ, cảm xúc
tầng 3 khá mạnh, cảm xúc tầng 3 rất mạnh…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét