Mặc dù tên tôi là Văn, nhưng lại ưa nghiệp
võ! Văn Cao cười, nói hóm
như thế khi hồi tưởng thời trai tráng của mình. Ấy là giai đoạn cả nước chạm
phải những thử thách lịch sử nghiêm trọng. Văn Cao, thuở ấy, là một thành
viên nòng cốt trong ban ám sát, hoạt động bí mật giữa "băm sáu phố
phường" (1) bị
kiềm tỏa bởi quân đội phát xít Nhật. Người nghệ sĩ tuổi đôi mươi, có vóc dáng nhỏ nhắn và đôi mắt lạnh
lùng kia thoắt ẩn thoắt hiện qua nhiều giai thoại đậm đà chất tráng sĩ. Như
chuyện chàng khử tay mật thám Đỗ Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải Phòng. Sát ngày tổng khởi nghĩa, Văn Cao vào khu vực chùa Hương làm
nhiệm vụ trừ gian. Trở về, chàng ốm liệt giường. Thứ sáu 17-8-1945, Đảng Đại
Việt tổ chức mít tinh công chức ở Hà thành. Văn Cao gượng dậy, trà trộn vào
đám đông để quan sát tình hình. Giữa cuộc mít tinh, lực lượng Việt Minh bất
ngờ chiếm diễn đàn, treo cờ đỏ sao vàng. Đồng thời, loa phóng thanh vang lên
tiếng hát: Đoàn quân Việt Minh đi Chung lòng cứu quốc Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa Cùng lúc đó, bài hát nọ - đã in sẵn thành truyền đơn - được phát
ngay cho quần chúng. Người ta cầm truyền đơn, hát theo. Đấy là lần đầu
tiên Tiến quân ca được trình diễn công khai. Không chỉ Tiến quân ca, những hành khúc khác của
Văn Cao đã liên tục sôi sục, dồn vang theo bước bao chiến sĩ anh hùng
lạnh lùng vung gươm ra sa trường (2), theo
bước trùng trùng quân đi như sóng(3) qua
nhiều cung bậc thăng trầm của lịch sử dân tộc. Một trong những thành tựu xuất sắc nhất của dòng âm nhạc kháng
Pháp, như nhiều nhà nghiên cứu nhận định, là tác phẩm thanh nhạc phức
điệu Sông Lô, một sáng tác dài hơi của Văn Cao: Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa. So với những tác phẩm thể hiện cùng đề tài - chẳng hạn "Lô
giang" của Lương Ngọc Trác, "Chiến sĩ sông Lô" của Nguyễn Đình
Phúc, "Trên sông Lô" của Phan Huỳnh Điểu, "Tiếng hát trên sông
Lô" của Phạm Duy - thì Sông Lô của Văn Cao vượt hẳn về
cả hai phương diện nội dung và hình thức. Bên cạnh tráng ca và âu ca, những tình ca của Văn Cao đã làm mê
say muôn con tim. Không riêng dân Việt mà khán thính giả sành nhạc ở Âu Mỹ
cũng ái mộ giai điệu trữ tình Văn Cao. Đặc biệt, tại Hoa Kỳ, trước khi phi
thuyền Apollo 11 phóng vào không gian, các phi hành gia được nghe một ít nhạc
phẩm chọn lọc, trong đó có Thiên thai của Văn Cao (4): Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên Kìa đường lên tiên Kìa nguồn hương duyên Và còn bao tình khúc Trương Chi, Suối mơ, Cung đàn xưa,
Bến xuân/ Đàn chim Việt, Thu cô liêu, Buồn tàn thu của Văn Cao bâng
khuâng luyến nhớ, dạt dào kỷ niệm. Tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm, nên Văn Cao gặp lắm rắc
rối gian nan. Từ cuối thập niên 1950, Văn Cao ít sáng tác âm nhạc. Nói đúng
hơn là chỉ "nghỉ khỏe" với ca khúc suốt nhiều năm, chứ Văn Cao
thỉnh thoảng vẫn soạn nhạc phim. Sau khi đất nước thống nhất, Văn Cao bỗng
bật bài hát Mùa xuân đầu tiên rộn ràng điệu valse, đăng báo
Sài Gòn Giải Phóng số xuân Bính Thìn 1976, nhưng sau đó không thể diễn xướng
ở Việt Nam, trong lúc ở Liên Xô lại thoải mái phổ biến. Năm 1981, rộ lên
"cuộc vận động sáng tác quốc ca mới", song rốt cuộc chẳng bài nào
thay nổi Tiến quân ca.Tuy chỉ học trường Mỹ thuật Đông Dương/ Ecole Supérieure des
Beaux-Arts de l'Indochine một thời gian ngắn với tư cách dự thính viên tự do,
nhưng Văn Cao vẽ khá sắc sảo. Phái lập thể/ cubisme/ cubism ảnh hưởng sâu
đậm đến đường nét, sắc màu, mảng khối của Văn Cao. Ba bức sơn dầu Cô gái dậy thì, Thái Hà ấp đêm mưa, Cuộc
khiêu vũ của những người tự tử mà Văn Cao lần đầu tiên trưng bày tại
salon Unique / phòng triển lãm Duy Nhất nơi nhà Khai Trí Tiến Đức bên hồ Gươm
năm 1943 đã khiến giới mỹ thuật ngạc nhiên vì bút pháp mới lạ. Sau này, các
họa phẩm của Văn Cao cũng tạo sự thú vị cho người thưởng lãm. Ví dụ bức Say. Nhưng
chẳng phải ai ai cũng khoan khoái. Từng có kẻ phán: mấy họa phẩm này "có
vấn đề" đấy!Suốt nhiều năm, Văn Cao tập trung vào nghệ thuật tạo hình: minh
họa cho thơ với truyện ngắn lẫn truyện dài, vẽ vignette cho báo chí, thiết kế
nhãn hộp diêm, trình bày sách và chơi sơn dầu. Một số tranh của Văn Cao đã được đưa vào Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam. Nhiều hoạ phẩm của Văn Cao được giới thưởng ngoạn gần xa nhắc, chẳng
hạn Cô gái và đàn dương cầm, Dân quân miền núi, Vợ chồng Mèo đi chợ,
Nhà văn Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Tiến, Lâm cà phê, Chân dung bà Băng (tức
Nghiêm Thúy Băng - vợ của Văn Cao). Vẫn cách diễn hình, diễn khối
biểu lộ sự tìm tòi giàu chất trí tuệ. Vẫn những đường, những mảng dựng theo
lối lập thể. Điều này khiến đông người yêu thích, và dĩ nhiên, một số kẻ lại
thấy… nghịch nhãn!.Văn Cao gia nhập làng văn bằng vài mẩu truyện và kịch ngắn đăng
trên tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Các sáng tác này, lúc ấy bị chìm lỉm bởi những
tên tuổi cỡ Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ trong Tự Lực Văn Đoàn, và
Tô Hoài, Nam Cao, Bùi Hiển, Nguyễn Công Hoan trong nhóm Tân Dân. Mãi đến khi
những tình khúc của Văn Cao ra đời, giành được cảm tình của đông đảo công
chúng, thì người ta mới chú ý đến các loại hình nghệ thuật khác của người
nghệ sĩ đa tài này. Những ca khúc trữ tình của Văn Cao thành công không chỉ nhờ cấu
trúc và hình tượng âm nhạc, mà còn nhờ ca từ. Ca từ đẹp. Đẹp như thơ. Xét kỹ,
thấy lời ca của Văn Cao chính là thơ, loại thơ đã kết hôn cùng âm nhạc. Còn những bài thơ do Văn Cao làm rải rác đó đây - trong sổ tay,
bên lề sách, trên vỏ bao thuốc lá, v.v... - tuy ít đăng báo nhưng đã tạo lập
được "một kênh thơ khác". Cổ nhân từng nhắc: thi trung hữu họa, thi
trung hữu nhạc. Ưu thế ấy, với đôi tai âm nhạc và cặp mắt hội họa, Văn Cao
phát huy rõ trong thơ. Như dăm dòng lục bát với thủ pháp điệp từ: Vi vu… Rừng lại sang rừng Xa xôi tiếng hát cũng ngừng xa xôi. Nương nương qua tiếp đồi đồi Áo chàm nàng thổ pha phôi sắc chàm. Cầu mây treo giữa gió ngàn Mây bông treo giữa trăng ngàn đêm sương. Sương lưng chừng núi vấn vương Tiếng chim lạ cất tiêu thương buồn trời. Cái gì cũng thấy chơi vơi… (5)Càng về sau, thơ Văn Cao càng cô đọng hơn, thâm trầm kín đáo
hơn, như cây giấu bóng tối trong đá. Văn Cao sẵn sàng phá vần để xây tứ một cách phóng khoáng. Ông
từng cùng Nguyễn Đình Thi bênh vực thơ không vần. Không vần, nhưng Văn Cao
vẫn đảm bảo tiết tấu thơ, và đặc biệt, chất tạo hình nổi lồ lộ: Từ trời xanh rơi vài giọt tháp Chàm quanh Quy Nhơn tôi như đứa nhỏ yêu huyền thoại (6) Nhiều người đã ca ngợi chất suy tưởng lẫn độ tinh nhạy của cảm
xúc trong thơ Văn Cao. Éo le thay! Khối kẻ khác đọc thơ Văn Cao thì bị
"dị ứng"!.Sau cơn mưa, trời lại sáng dần. Nhạc trữ tình Văn Cao lại được
công diễn. Tranh Văn Cao lại được trưng bày. Và cùng với những bài viết của
Văn Cao tái xuất trên báo chí, những bài thơ Văn Cao sáng tác suốt mấy chục
năm qua - tưởng đã như mùa thu chết rơi theo lá vàng (7) -
được nhà xuất bản Tác Phẩm Mới tuyển thành tập và in ra với nhan đề: Lá. Tập thơ Lá gồm 28 bài, ấn hành tháng 6-1988, mở
đầu bằng mấy dòng: Ở rẻo cao lá sà mu gọi mưa Ở rừng sâu lá thùy dương gọi suối Ở biển xa lá phi lao gọi mặt trời… Điểm lại lịch sử văn nghệ trong cũng như ngoài nước, hỏi có mấy
nghệ sĩ thọ nhận vinh quang ngay khi đang tại thế như trường hợp Văn Cao?Hiện nay, năm Nhâm Thân 1992, trên căn gác hai của ngôi nhà 108
Yết Kiêu, có một cụ già râu tóc bạc phơ ngày lại ngày cứ ngồi trầm ngâm nhắp
rượu làng Vân và ngước qua ô cửa sổ để thấy bầu trời Hà Nội chuyển tông từng
giờ từng phút, để nghe bao nhiêu tạp âm của phiên chợ chiều đang diễn ra ngay
trước hiên nhà, để chiêm nghiệm về những màn những cảnh trong tấn-trò-đời mà
mình từng đích thân nếm trải. Thi thoảng, cụ cười. Nụ cười ngây thơ làm sao!
Nhà thơ Thanh Thảo so sánh: "Ngây thơ như đạo sĩ". Văn Cao đó. Trong căn gác mốc thếch, cây piano đã hỏng. Song, tứ thơ và nét
vẽ của Văn Cao vẫn run run triển chuyển trên giấy, trên toan. Mới đây, nhà thơ Trinh Đường đặt câu hỏi: - Làm thế nào để có thơ hay? Văn Cao đáp: - Đó là hỏi đến sự bí mật của sáng tạo. Điều này chỉ tìm thấy ở
Beethoven và người viết về ông ta là Romain Rolland và Stefan Zweig. Nhưng
càng nói, càng bí mật thêm!. Chú thích: (1) Ca dao xưa có câu: Hà Nội băm sáu phố phường. Nhiều tác
phẩm văn nghệ lâu nay cũng ghi nhận không khác. Tập bút ký nổi tiếng của nhà
văn Thạch Lam được in lần đầu năm 1943 dùng nguyên dòng ca dao nọ làm nhan
đề. Thế nhưng, Nguyễn Vinh Phúc (1926 - 2012), nhà giáo ưu tú, nhà Hà Nội
học, 1 trong 11 công dân thủ đô ưu tú năm 2010, viết trong tập 1 Hỏi đáp
1000 năm Thăng Long - Hà Nội (NXB Trẻ, 2000; trang 28 - 30) rồi in lại
trong sách 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (NXB Trẻ, 2009; trang 79 -
82): "Thực ra, phố và phường là 2 phạm trù khác nhau. (…) Không làm gì
có cái gọi là Hà Nội 36 phố phường. Chỉ có Thăng Long thời Lê có 36 phường
hoặc là Hà Nội thời Minh Mạng có 239 phường, thôn, trại và Hà Nội thời Tự Đức
với 153 phường, thôn, trại. (…) 36 phường thời Lê không thể là 36 phố +
phường được". (2) Trích ca từ bài
hát Chiến sĩ Việt Nam. (3) Trích ca từ bài hát Tiến về Hà Nội. (4) Chi
tiết ấy đã được một số cây bút nêu, chẳng hạn Trường Giang viết trong
bài Văn Cao - một tâm hồn, một tài năng, một nỗi ưu tư từng đăng
báo Giáo Dục và Thời Đại, đã được giải thưởng Sugi Ryotari của Nhật Bản,
rồi in vào sách Thời cuộc, con người và số phận (NXB Lao Động,
Hà Nội, 1994; trang 15). Cần kiểm định tính xác thực của chi tiết ấy. Một số
người khác - trong đó có Nguyễn Thanh Giang, Thanh Thảo, Nguyễn Thuỵ Kha -
còn viết rằng bài Thiên Thai của Văn Cao được hòa tấu và "được
chọn đưa vào băng nhạc để các phi hành gia Mỹ đem vào vũ trụ trên tầu
Apollo". Thông tin này chẳng chính xác, bởi vào tháng 7-1969, với mục
đích sử dụng riêng cá nhân, phi hành gia Neil Amstrong đã mang lên phi thuyền
Apollo 11 - chuyến bay đầu tiên đưa con người lên bề mặt nguyệt cầu - băng
cassette Music Out of the Moon (Nhạc từ mặt trăng) của Samuel
Hoffman tự biên tự diễn những nhạc phẩm sáng tác năm 1947 trên nhạc cụ điện
tử theremin, và băng cassette New World Symphony (Giao hưởng Thế
Giới Mới) của Antonín Leopold Dvořák (1841 - 1904). (5) Bài
thơ Đêm ngàn. (6) Khổ
đầu bài thơ Quy Nhơn 3.
(7) Trích ca từ bài hát Buồn tàn thu.Văn Cao Ảnh: David Alan Harvey đã đăng lần đầu trên tạp chí National Geographic tháng 11-1989Văn Cao tự họaNhà văn Đặng Thai Mai. Tranh sơn dầu: Văn CaoNhà báo Phan Kim Thịnh Tranh sơn mài: Văn CaoMột số bìa sách do Văn Cao thiết kế. Ảnh: PhanxipăngVăn Cao minh họa ấn phẩmVăn Cao cùng vợ Nghiêm Thúy Băng trong tiệc vui con trai Nguyễn Nghiêm Bằng cưới Kim Bình tại Hà Nội năm 1979Văn Cao với họa sĩ Bùi Xuân Phái, nhà văn Nguyễn Tuân: những nghệ sĩ Nhân Văn Giai PhẩmVăn Cao vẽ á hậu Trần Vân Anh có sự hiện diện của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại Sài Gòn năm 1989Văn Cao cùng nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương tại Sài Gòn năm 1993. Ảnh: Duy AnhNhạc sĩ Nguyễn Thiên Đạo từ Paris, Pháp, về Việt Nam, đến bệnh viện Hữu Nghị tại Hà Nội thăm Văn Cao ngày 3-7-1995, tuần sau thì nghệ sĩ đa tài qua đời. Ảnh: Nguyễn Đình Toán Mùa xuân Canh Thìn 2000, nhạc sĩ Phạm Duy viếng mộ bạn tri kỷ Văn Cao. Phanxipăng Theo http://chimvie3.free.fr/ |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét