Chủ Nhật, 4 tháng 7, 2021

Lịch sử Âm nhạc Việt Nam

Lịch sử Âm nhạc Việt Nam

Âm nhạc Việt Nam là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh đúng những nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong tục, địa lý,… của đất nước Việt Nam, trải dài qua suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Âm nhạc Việt Nam bắt đầu từ những nền văn minh đầu tiên qua những phát hiện khảo cổ về những nhạc cụ và tranh vẽ trong hang đá. Trải qua những triều đại phong kiến, nền âm nhạc Việt Nam có được những nét phát triển rõ rệt và đặc trưng. Tới thời kỳ đô hộ của Trung Quốc ngoài ra của các nền văn hóa ngoại lai khác như Ấn Độ, Chăm Pa,… Âm nhạc Việt Nam sớm có được những ảnh hưởng và quan điểm mới, dung hòa hoàn hảo những yếu tố ảnh hưởng từ nước ngoài với những nét nổi bật vốn có của âm nhạc truyền thống, từ đó tạo nên những loại hình âm nhạc cổ truyền của từng vùng miền như hát xẩm, hát chèo, ca trù, hò, cải lương, đờn ca tài tử, nhã nhạc cung đình Huế, quan họ,…
Âm nhạc phương Tây xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 14. Giai đoạn Pháp thuộc vào cuối thế kỷ 19 đặc biệt góp phần giúp âm nhạc Việt Nam được tiếp xúc với những phong cách và quan điểm của văn hóa phương Tây, đồng thời tiếp tục phát triển với những nét đặc trưng riêng. Tân nhạc Việt Nam ra đời vào cuối thập niên 1930 với dòng nhạc tiền chiến rồi tiếp hơi cho những làn điệu mới trong thời gian đất nước chia đôi dưới hai chính thể: Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhạc đỏ ra đời sau năm 1945 ở miền Bắc với sự xuất hiện của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng, sau này trở thành cột trụ của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại, trong khi đó nhiều thể loại âm nhạc mới như nhạc vàng, nhạc trẻ, du ca nở rộ ở Miền Nam.
Sau năm 1975, âm nhạc Việt Nam bắt đầu học tập nhiều phong cách từ khắp nơi trên thế giới. Sau khi đất nước mở cửa vào cuối thập niên 1980, đặc biệt là việc những lứa nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên được cử đi du học ở nước ngoài, âm nhạc Việt Nam đã theo kịp xu hướng của thế giới, mang theo nhiều phong cách và thể loại chưa từng xuất hiện tới nền văn hóa đại chúng nói chung và nền âm nhạc nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, một số lượng lớn nghệ sĩ hải ngoại cũng góp phần xây dựng đáng kể vào sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam ngày nay. Âm nhạc hiện đại Việt Nam bao gồm nhiều yếu tố kết hợp của các nền văn hóa châu Á, châu Âu, thậm chí châu Mỹ và châu Phi qua việc gia tăng cộng tác của các nghệ sĩ trong nước với các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Trên hết, âm nhạc Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
Lịch sử âm nhạc Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ dài nên chia làm các giai đoạn chính sau:
1. Thời kỳ vua Hùng và Bắc thuộc
2. Thời phong kiến
3. Thời cận đại
4. Giai đoạn 1975 đến nay
Thời kỳ vua Hùng và Bắc thuộc
Thời kỳ vua Hùng
Âm nhạc Việt Nam bắt đầu từ nền âm nhạc dân tộc rất cổ xưa. Từ đời các Vua Hùng dựng nước và giữ nước, âm nhạc dân tộc thuộc về văn hóa đồng thau, mà trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) là một hiện vật biểu trưng được biết đến cho đến tận ngày nay.
Trống đồng Đông Sơn tại Thanh Hóa
Thời kỳ Bắc thuộc
Đến thời bị Trung Quốc đô hộ, văn hóa đồng thau của ta dần được thay thế bằng văn hóa tri thức. Đây là thời kỳ chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa Trung Hoa với các triều đại phong kiến như Hán, Tùy, Đường,… Sự xuất hiện của các loại nhạc cụ, nhạc khí mắc dây tơ như đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn nhị; các loại kèn, sáo làm bằng tre - trúc…
Trống bồng, nhạc khí màng rung. 
chi vỗ của dân tộc Việt/ Kinh
Đàn đoản (Đàn tứ), nhạc cụ dây gảy (cần ngắn)
Đàn tỳ bà, nhạc cụ dây gẩy của người phương Đông, 
qua một thời gian dài sử dụng đã được bản địa hóa 
với những tên gọi khác nhau theo từng vùng miền hoặc từng quốc gia.
Đàn tranh (Đàn thập lục), thuộc họ dây chi gảy,
là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông
Đàn nhị, nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ
Thời phong kiến
Âm nhạc, với đặc điểm có trước sự xuất hiện của chữ viết, từ lâu luôn là phương tiện để người dân thể hiện mọi cảm xúc của mình về thế giới xung quanh, dù là tình yêu đôi lứa, lòng căm thù hay sự buồn giận, chán nản. Âm nhạc ở Việt Nam còn sớm thể hiện những tư tưởng tôn giáo, đời sống tâm linh và phong tục tập quán của dân tộc.
Vào thời phong kiến, âm nhạc Việt Nam là sự giao thoa và tiếp thu giữa các yếu tố âm nhạc lân cận ở Châu Á. Cộng thêm sự đa dạng về sinh học, nhiều dân tộc cư ngụ trên lãnh thổ cùng với những phát triển mở đất xuống phía nam đã tạo cho nền âm nhạc nước ta thời kỳ này mang nhiều sắc thái khác nhau.
Với chiến thắng Ngô Quyền năm 938 thì đất nước ta bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, phục hưng văn hóa dân tộc sau hơn 1000 năm bị phương Bắc đô hộ. Trải qua các thời đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần, nền văn hóa dân tộc của ta dần được phục hồi và phát triển. Trong đó không thể không kể đến âm nhạc dân gian, vốn được nhà nước coi trọng, làn điệu dân ca thời kỳ này được trau chuốt hơn với thành phần âm phong phú, đã tạo nên tính chất trữ tình trong các diễn xướng dân gian và dân ca nghi lễ. Bên cạnh các loại hình nghệ thuật đã có từ thế hệ trước, những thể loại ca nhạc dân gian khác với đặc trưng riêng phong phú gồm:
Chèo
Xẩm
Quan họ
Ca trù (Hát ả đào)

Hát chầu văn
Thời phong kiến - Chèo, Xẩm
Chèo
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.
Xẩm
Nghệ thuật hát xẩm xuất hiện từ sớm, có thể được hình thành khoảng thế kỷ thứ 14. Những nghệ nhân trong “làng xẩm” vẫn truyền tai nhau truyền thuyết về ông tổ nghề xẩm. Tương truyền, vua Trần có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực, hoàng tử Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt và bỏ giữa rừng sâu. Trong một lần ngủ mơ, Trần Quốc Đĩnh mơ thấy bụt dạy ông cách làm đàn từ vỏ quả khô và dây rừng. Tỉnh dậy, Trần Quốc Đĩnh mầy mò làm theo hướng dẫn và thật kỳ lạ, cây đàn vang lên những âm thanh tuyệt vời. Những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm đến và đưa ông về.
Thời điểm lưu lạc ở dân gian, Trần Quốc Đĩnh đã dạy đàn cho người nghèo, người khiếm thị, giúp họ có được niềm vui và cách kiếm sống. Tiếng đồn về tài năng âm nhạc của ông lan đến tận hoàng cung. Nhà vua cho vời ông vào cung hát và cha con nhận ra nhau. Tuy đã trở lại cuộc sống cung đình, nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục dạy mọi người đàn hát kiếm sống. Sau này, hoàng tử Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ của nghề hát xẩm. Hàng năm, để ghi nhớ công ơn của ông, những người hành nghề hát xẩm đã lấy ngày 22/2 và 22/8 âm lịch là ngày giỗ tổ nghề hát xẩm.
Thời phong kiến - Quan họ, Hát Ả đào
* Quan họ
Ý nghĩa từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ “âm nhạc cung đình”, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (“họ”). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.
Ngồi tựa song đào
Bèo dạt mây trôi
* Ca trù (Hát Ả đào)
Hát ca trù hay hát ả đào là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố phía Bắc. Hồ sơ đề cử Ca trù là di sản văn hóa thế giới với không gian văn hóa Ca trù trải dài khắp 16 tỉnh phía Bắc gồm: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Thời phong kiến - Hò, Hát chầu văn
* Hò
Hò là một loại ca hát trình diễn dân gian phổ biến đến đời sống, là nét văn hóa của miền Trung và miền Nam, khởi nguồn từ tập quán sinh hoạt vùng chiêm trũng, diễn tả tâm trạng của người lao động. Trong sinh hoạt những đêm trăng những nhóm con trai đi chơi, thường cất lên những điệu hò để dò hỏi những cô gái về những công việc. Điệu hò giao duyên giữ hai bên đối đáp lại nhau, người con gái hay một nhóm sẽ hò đáp trả lại khi đó. Trên sông nước khi đi đò, người hò thường hò điệu giao duyên giữa hai chiếc đò gần nhau. Hò và lý tuy có phần giống nhau nhưng hò thường gắn liền với một động tác khi làm việc còn lý thì không.
Một số bài dân ca của các quốc gia khác hay các vùng miền khác có nội dung và tiết tấu tương tự cũng được đặt tên là “hò”, tỉ như bài dân ca Nga “Hò kéo thuyền trên sông Volga”.
Các loại hò phổ biến:
Hò Đồng Tháp
Hò kéo lưới
Hò Qua sông hái củi
Hò khoan
Hò mái nhì
Hò Giã gạo
Hò Xay lúa
Hò Kéo gỗ
Hò Đạp lúa
– Hò đối đáp giao duyên
Một bài thuộc loại Hò khoan Lệ Thủy, 
loại hình dân ca của cư dân sông nước 
tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình 
– Hò đối đáp nam nữ ân tình
Một bài thuộc loại Hò Giã gạo
* Hát chầu văn
Hát chầu văn là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn chau chuốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan.
Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói…
Trích đoạn chầu văn Múa Hát Xá Thượng
Thời cận đại
Âm nhạc Việt Nam thời cận đại có thể chia làm các giai đoạn sau:
1. Thời Pháp thuộc
* Giai đoạn chuẩn bị
Vào những năm đầu thế kỷ 20. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong nghệ thuật văn học Việt Nam nói chung, xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây được du nhập vào Việt Nam gây nên những xáo trộn lớn trong xã hội. Nhiều giá trị tư tưởng bền vững mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ Tây học xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. Tầng lớp tư sản, tiểu tư sản ở thành thị hình thành. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có một lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Âm nhạc của châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó người dân được làm quen với “nhạc nhà binh” qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu thế kỷ 20, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi mandoline, ghita và cả vĩ cầm, dương cầm.
Giai đoạn trước 1937 được xem là giai đoạn hình thành Tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là “giai đoạn tượng hình”. Còn Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là “thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới”. Giống như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền chiến chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Thời kỳ này một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là “bài tây theo điệu ta”. Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như: Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Tango mystérieux trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ chung tình… Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là Hoài tình rất được ưu chuộng.
Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton… mà họ yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C’est à Capri, Tant qu’il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j’aime éperdument, Les gars de la marine, L’Oncle de Pékin, Guitare d’amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella… mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The Border… đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt được giới trẻ yêu thích, đã có những hội Ái Tino được thành lập ở Hà Nội, Hải Phòng.
Năm 1930, trong thời gian bị tù ở Côn Đảo, nhạc sĩ Đinh Nhu đã viết ca khúc Cùng nhau đi Hồng binh. Theo Trần Quang Hải thì Cùng nhau đi Hồng binh là ca khúc tân nhạc đầu tiên của Việt Nam. Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, ba thành viên của nhóm Tricéa đã viết nhiều ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản Trên sông Hương năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng cũng có Xuân năm xưa năm 1936. Giai đoạn từ 1935 tới 1938 được nhạc sĩ Phạm Duy gọi là “thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam”.
Bài hát Histoire d’un Amour được 
phổ lại lời Việt với tên Chuyện tình yêu
* Giai đoạn thành lập (1938-1945)
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của Tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đoạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 ông phổ một bài thơ của người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với Thống đốc Nam Kỳ. Viên Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Pagès [1] nghe ông hát và mời ông du lịch sang Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Ngược lại ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ cho đi một vòng Việt Nam ra Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là “âm nhạc cải cách” (musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì các bài hát cải cách đã có sẵn ở đây. Tại hội Trí Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
Tiếp đó tháng 9 năm 1938, tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín khi ấy, cho đăng những bản nhạc đầu tiên Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc…
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Từ đầu 1939, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách, phần đầu hình thành Tân nhạc Việt Nam.
Bài hát Một kiếp hoa (Hoa tàn) của 
Nguyễn Văn Tuyên được phổ từ thơ 
của Nguyễn Văn Cổn
Bài hát Bản đàn xuân của Lê Thương
2. Giai đoạn 1945- 1954
Từ năm 1945, tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô và những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng một số vẫn ở lại trong vùng kiểm soát của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại thành phố.
Với đề tài kháng chiến, ở miền Bắc, Đỗ Nhuận viết Du kích sông Thao, Nhớ chiến khu, Hoàng Vân có Hò kéo pháo, Văn Chung viết Quê tôi giải phóng, Lê Yên viết Bộ đội về làng… Ở miền trung có Bình Trị Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thương, Lời người ra đi của Trần Hoàn, Đoàn vệ quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh Điểu, Du kích Ba Tơ của Dương Minh Viên… Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với Lên ngàn, Nhạc rừng, Nguyễn Hữu Trí với Tiểu đoàn 307, Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng, Con kênh xanh xanh của Ngô Huỳnh. Một đề tài sáng tác mới nữa của các nhạc sĩ là ca ngợi Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam. Lưu Hữu Phước đã viết Chào mừng Đảng lao Động Việt Nam, Lưu Bách Thụ viết Biết ơn Cụ Hồ. Tham gia kháng chiến, Văn Cao đã sửa lời Bến xuân thành Đàn chim Việt và viết Trường ca Sông Lô, Ca ngợi Hồ Chủ tịch. Các ca khúc này đánh dấu sự ra đời thực sự của nhạc kháng chiến, hay “nhạc đỏ”. Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình quê hương của Việt Lang. Tham gia kháng chiến, Phạm Duy cũng có Chiến sĩ vô danh, Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh. Nhưng ông cũng viết Bên cầu biên giới và bài hát bị coi là không hợp với hoàn cảnh chiến đấu khi đó và về sau ông rời bỏ miền Bắc vào Nam. Ở các vùng đô thị thuộc kiểm soát của Pháp, những nhạc sĩ vẫn sáng tác nhạc lãng mạn như Văn Giảng với Ai về sông Tương, Lâm Tuyền với Tiếng thời gian, Văn Phụng với Mơ khúc tương phùng… Lê Thương vào miền Nam viết các bản nhạc hài hước, trào phúng Hòa bình 48, Liên Hiệp Quốc. Ở Hà Nội, năm 1947 Nguyễn Đình Thi viết ca khúc Người Hà Nội. Trong giai đoạn này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951, hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh, Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc Hội nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy, Tiếng thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường…
Sau thành công của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ của báo chí, nhiều nhóm nhạc được thành lập và các nhạc sĩ phổ biến rộng rãi những tác phẩm của mình. Và ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ tài năng đã ghi dấu ấn với các nhạc phẩm trữ tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn này, phổ biến nhất là “nhạc tiền chiến”. Dòng nhạc tiến chiến còn kéo dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam.
Những bài hát cải cách nhanh chóng được giới trẻ sinh viên, trí thức ái mộ đón nhận, tuy vậy nó cũng gây nên nhiều ý kiến khác nhau. Các trí thức phong kiến thì chỉ trích còn giới dân nghèo thì thờ ơ. Với phong cách trữ tình lãng mạn, các ca khúc tiền chiến có lời ca mang tính văn học cao. Ngoài các ca khúc về tình yêu, chủ đề lịch sử, yêu nước là những đề tài chính của nhạc tiền chiến.
Hò kéo pháo của Hoàng Vân
Sơn nữ ca của Trần Hoàn
3. Giai đoạn 1954 - 1975
* Miền Bắc
Hiệp định Genève năm 1954 tạm chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự để chờ tổng tuyển cử toàn quốc năm 1956. Chính quyền Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa từ chối thi hành tổng tuyển cử theo hiệp định, hành động này đã chia Việt Nam thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.
Tại miền Bắc, nhạc kháng chiến tiếp tục và cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc. Các ca khúc nhạc đỏ để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ chiến tranh, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý tưởng cộng sản, cũng có cả những bài hát trữ tình, thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng.
Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, tân nhạc cũng như điện ảnh, có nhiệm vụ chính là cổ vũ chiến đấu. Dòng nhạc Cách mạng chiếm vị trí độc tôn, các nhạc sĩ lãng mạn như Văn Cao, Đoàn Chuẩn hầu như không còn sáng tác. Song song với lớp nhạc sĩ đầu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới Doãn Nho, Tô Hải, Hồ Bắc, Huy Thục, đã xuất hiện một số nhạc sĩ trẻ hơn Trọng Bằng, Cao Việt Bách…
Việc một số nhạc sĩ được gửi đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc… và nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các quốc gia Liên Xô và Đông Âu tới Hà Nội trình diễn đã tạo nên sự ảnh hưởng tới tân nhạc Việt Nam. Bốn chủ đề sáng tác chính của các nhạc sĩ miền Bắc thời kỳ này là:
– Hồ Chí Minh
Ca ngợi hình ảnh lãnh tụ được thể hiện qua nhiều bài hát như Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm Tuyên, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người của Trần Kiết Tường, Ðôi dép Bác của Văn An, Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ, Lời ca dâng Bác của Trọng Loan, Trồng cây lại nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận, Ca ngợi Hồ chủ tịch của Văn Cao, Tình Bác sáng đời ta của Lưu Hữu Phước…
– Phong cảnh và tâm hồn Việt Nam
Một số ca khúc như Quảng Bình quê ta ơi của Hoàng Vân, Vàm Cỏ Ðông của Trương Quang Lục, Tây Nguyên bất khuất của Văn Ký, Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh, Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh của Nguyễn Văn Tý, Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long của Huỳnh Thơ, Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ…
– Dân tộc thiểu số
Do hoàn cảnh chiến tranh, một số nhạc sĩ có những tiếp xúc với các dân tộc thiểu số và đã viết các ca khúc như Tiếng đàn ta lư (Huy Thục), Cô gái cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký), Bản Mèo đổi mới (Trịnh Lai), Em là hoa Pơ Lang (Ðức Minh), Bóng cây kơ nia (Phan Huỳnh Ðiểu)…
– Kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam
Tân nhạc với nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, đây là đề tài chính của nhiều bài hát: Anh vẫn hành quân (Huy Du), Chào anh giải phóng quân (Hoàng Vân), Lời anh vọng mãi ngàn năm (Vũ Thành), Bài ca năm tấn (Nguyễn Văn Tý), Lá thư hậu phương (Phạm Tuyên), Trai anh hùng, gái đảm đang (Ðỗ Nhuận), Bài ca may áo (Xuân Hồng), Hành khúc giải phóng (Lưu Nguyễn Long Hưng, tức Lưu Hữu Phước), Giải phóng miền Nam (Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước)… trong đó bài Giải phóng miền Nam được dùng làm bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 tới năm 1975.
Kế thừa thực tế Hà Nội là trung tâm của cả Đông dương thuộc Pháp, kiến thức văn hóa âm nhạc phương Tây được miền Bắc hấp thụ trước miền Nam, vốn có đờn ca tài tử làm chủ đạo. Trong những năm 1954-1975, do bị chính quyền giới hạn ở chủ đề sáng tác, các nhạc sĩ miền Bắc tập trung vào sáng tạo trong lĩnh vực chuyên môn âm nhạc với các kỹ thuật nhạc thính phòng và phô diễn các khả năng thanh nhạc nhiều hơn nhạc miền Nam cùng thời, vốn tập trung vào số lượng và sự tự do trong chủ đề sáng tác. Một số tác phẩm tiêu biểu chứng minh là Trường ca sông Lô, bài hát Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Tổ khúc quê hương với các thay đổi đột ngột trong cả nhịp điệu và phong cách, đồng thời yêu cầu ca sĩ phải có một kỹ thuật thanh nhạc tốt mới có thể trình bày các tác phẩm trên.
Ngoài các ca khúc phổ thông, nhiều thể loại khác cũng được các nhạc sĩ thể nghiệm. Ảnh hưởng bởi các màn hợp xướng do các đoàn văn nghệ Liên Xô và Đông Âu trình diễn ở Hà Nội, một số nhạc sĩ Việt Nam đã soạn các ca khúc cho nhiều bè như năm 1955 có Hò đẵn gỗ của Đỗ Nhuận, Sóng cửa Tùng của Doãn Nho, Chiến sĩ biên phòng của Huy Thục, năm 1956 và 1957 có Ta đã lớn, Hò kiến thiết của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng chim của Lưu Cầu, Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy của Tô Hải năm 1958…
Một số vở thanh xướng kịch cũng xuất hiện: Vượt sông Cái của Nguyễn Xuân Khoát viết năm 1955, Nguyễn Văn Trỗi của Đàm Linh theo lời thơ Chu Điền năm 1965. Một vài thể loại nữa là các ca kịch nhỏ (như Tục lụy của Lưu Hữu Phước), kịch hát nói (Căn nhà màu hồng ngọc của Hoàng Vân).
Sự xuất hiện các bộ phim điện ảnh cách mạng cũng dẫn tới nhiều ca khúc cho phim được sáng tác. Tác giả nhạc phim đầu tiên là Nguyễn Đình Phúc với phim Chung một dòng sông và Lửa trung tuyến. Tiếp đó tới các nhạc sĩ khác như Trọng Bằng với Cù Chính Lan, Biển lửa, Hồng Đăng với Hà Nội mùa chim làm tổ, Hoàng Vân với Con chim vành khuyên…
Nhớ ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ
* Miền Nam
Ở miền Nam, với sự tự do, đa dạng hơn trong sáng tác nghệ thuật, các nhạc sĩ đã viết các ca khúc thuộc nhiều thể loại. Dòng nhạc tiền chiến được Cung Tiến, Phạm Đình Chương tiếp tục. Một số nhạc sĩ trẻ như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An sáng tác các bản tình ca mới. Dòng nhạc vàng xuất hiện với các tên tuổi tiêu biểu Hoàng Thi Thơ, Trúc Phương, Lam Phương. Văn hóa Âu Mỹ tràn ngập miền Nam dẫn đến sự hình thành dòng nhạc trẻ. Bên cạnh đó là các phong trào Du ca và dòng nhạc phản chiến. Một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc phản chiến này và cả tình ca là Trịnh Công Sơn.
Khác với miền Bắc, ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 các nghệ sĩ về cơ bản được tự do sáng tác các loại nhạc, trừ nhạc phản chiến, nhạc cách mạng, và các nhạc phẩm thân Cộng hoặc có xu hướng chống Mỹ nói chung. Cũng như điện ảnh, tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này hình thành một thị trường sôi động. Các dòng nhạc tiến chiến, tình khúc, nhạc vàng đều có đông đảo người nghe và các nghệ sĩ riêng. Dòng nhạc tiền chiến được các giọng ca hàng đầu như Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu, Hà Thanh, Duy Trác tiếp tục. Nhạc vàng của các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam Phương được các ca sĩ Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền thể hiện. Các tình khúc mới của Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt qua các tiếng hát Khánh Ly, Lê Uyên, Lệ Thu. Một số ca sĩ, nhạc sĩ, ban nhạc trẻ xuất hiện đánh dấu sự ra đời của dong nhạc trẻ như Elvis Phương, Nguyễn Trung Cang, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Các hãng băng nhạc Sơn Ca, Trường Sơn, Shotguns… được phát hành đều đặn.
Giai đoạn 1975 đến nay
Sau khi Việt Nam thống nhất, nền âm nhạc Việt Nam có nhiều thay đổi thăng trầm. Trong nước các dòng nhạc vàng bị cấm hoàn toàn vì không phù hợp với chủ trương chính trị, các ca sĩ nhạc vàng được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống cách mạng (nhạc đỏ). Nhiều ca sĩ và nhạc sĩ Việt Nam phải vượt biên sang định cư tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác, đồng thời nhiều bài hát tiền chiến và tình ca bị hạn chế lưu hành. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra.
Đề tài sáng tác chủ yếu trong giai đoạn này là:
– Ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh: có các bài hát tiêu biểu như: Viếng lăng Bác, Miền Nam Nhớ mãi ơn người,Lời Bác dặng trước lúc ra đi…
– Ca ngợi Đảng: Đảng đã cho ta một mùa xuân…
– Ca ngợi chiến công lẩy lừng của cuộc kháng chiến như: Dáng đứng Bến Tre, 40 thế kỷ cùng ra trận, Tổ quốc yêu thương,
– Tình yêu quê hương đất nước và tình yêu lứa đôi: Quê Hương (Nguyễn Văn Tý phổ thơ Đổ Trung Quân), Đất nước lời ru (Văn Thành Nho), Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh (Xuân Hồng), Huyền Thoại Mẹ (Trịnh Công Sơn), Bài ca khong quên (Phạm Minh Tuấn), Thuyền và Biển (Phan Huỳnh Điểu), Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hòa), Giai điệu Tổ quốc (Trần Tiến)…
– Ca ngợi và phát động các phong trào lao động tập thể như Thanh Niên Xung Phong: Đêm rừng Đắc Min, Em nông trường anh ra biên giới, Hồ núi Cốc, Trị An âm vang mùa xuân, Tàu anh qua núi, Đêm thành phố đầy sao, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Mùa xuân từ những giếng dầu…
Các nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn này là: Diệp Minh Tuyền, Trần Long Ẩn, Thế Hiển, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Hiên, An Thuyên, Phó Đức Phương, Phong Nhã, Trần Tiến…
Nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền 
Nhạc sĩ Trần Tiến
Nhạc sĩ Phạm Tuyên
Đặc biệt Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trần Tiến chịu ảnh hưởng của phong trào du ca trước năm 1975 nên đã có nhiều sáng tác mới lạ thời bấy giờ nên được công chúng yêu nhạc đón nhận với các ca khúc: Mặt trời bé con, Tùy hứng lý qua cầu, Tạm biệt chim én…
Các ca sĩ thành danh như: Cẩm Vân, Bảo Yến, Nhã Phương, Quang Lý, Tuấn Phong, Cao Minh, Thế Hiển, Trần Tiến…
Thời kỳ này phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ, Hội âm nhạc Việt Nam được thành lập và hằng năm đều tổ chức nhiều chuyến du khảo hội trại sáng tác theo những chủ đề do nhà nước đặt hàng.
Các trường âm nhạc, văn hóa nghệ thuật được quan tâm thành lập tuy nhiên chỉ mới dừng lại ở quy mô dạy dòng nhạc thính phòng cỏ điển và âm nhạc tuyên truyền.
Nhiều văn nghệ sĩ có cơ hội giao lưu học tập tại Liên Xô (Nga) đã du nhập nhiều bản nhạc Liên Xô được hát bằng tiếng Nga hoặc dịch ra lời Việt: Một triệu đóa hoa hồng (Cẩm Vân trình bày), Chiều hải cảng, Đôi bờ, Cây thùy dương.
Bài hát Một triệu đá hoa hồng do Cẩm Vân trình bày
Sau Đại hội Đảng lần VI đề ra chủ trương đổi mới, văn hóa nghệ thuật cũng được cởi mở hơn. Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) đã tổ chức các cuộc thi tiếng hát truyền hình tạo cơ hội cho nhiều ca sĩ trẻ thành danh như: Như Quỳnh, Như Hảo, Thanh Thúy, Tạ Minh Tâm…
Ca sĩ Như Quỳnh
Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Tạ Minh Tâm
Tại miền Nam nhiều bài hát từ các nước phương Tây được các ca sĩ trình bày lời ngoại ngữ và lời việt: Tình cha (Phương Thảo)… Đặc biệt là phong trào hát nhạc Hoa lời Việt với các ca sĩ: Minh Thuận, Tú Châu, Lam Trường, Đan Trường…
Bài hát Ngây Thơ do Minh Thuận thể hiện
Nhạc Tình Ca (còn gọi là nhạc sến do đa số viết theo điệu B’lero và có giai điệu buồn với nội dung chủ yếu là mô tả tâm trạng thất tình) được tiếp tục phát triển với các nhạc sĩ như: Vinh Sử, Hàng Châu… với các giọng ca: Đình Văn, Ngọc Sơn, Chế Thanh, Thùy Dương…
Nhiều Trung tâm băng nhạc được thành lập như: Bến Thành Audio, Sài Gòn Audio, Kim Lợi Studio…
Vào năm 1996 bắt nguồn từ giải thưởng âm nhạc “Làn sóng Xanh” do đài tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, người đoạt giải là ca sĩ Lam Trường với ca khúc “Tình thôi xót xa” (nhạc sĩ Bảo Chấn sáng tác) khiến cho trào lưu nhạc trẻ ra đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như: Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Bên em là biển rộng, Giọt sương trên mí mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến… góp phần đưa hàng loạt ca sĩ trẻ nổi danh như: Mỹ Tâm, Đan Trường, Cẩm Ly, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh Lam, Quang Linh, Quang Dũng, Đức Tuấn, Tuấn Hưng, Đàm Vĩnh Hưng…   
Nhạc sĩ trẻ Hoài An đoạt giải thưởng từ cuộc thi sinh viên với bài hát “Tình thơ” với phần hòa âm mới lạ hiện đại lúc bấy giờ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc Việt Nam: phần nhạc dạo đầu bài hát và phần hòa âm và phối khí được chú trọng hơn so với trước đây làm cho ca khúc Việt Nam trở nên hiện đại hơn, hay hơn.
Nhạc sĩ Hoài An 
Tại Việt Nam cũng xuất hiện nhiều nhạc sĩ làm nhiệm vụ hòa âm phối khí như: Quốc Trung, Mạnh Trinh, Đức Trí, Hoài Sa… Nghề mix nhạc (DJ) cũng xuất hiện.
Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca cũng phát triển mạnh mẽ: “Vọng cổ buồn”, “Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang”, “Quê tôi mùa nước lũ”…
Vài ca sĩ Việt Nam có hoài bão vươn ra thị trường âm nhạc thế giới và đã đạt được một số thành công ban đầu: Mỹ Tâm được đài truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất, Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng.
Ca sĩ Mỹ Tâm
Ca sĩ Hồ Quỳnh Hương
Bài hát Chỉ là anh thôi do Hồ Quỳnh Hương thể hiện        
Cùng với những mặt sáng mà nền âm nhạc hiện đại đạt được, những mặt tối đã bắt đầu xuất hiện và có xu hướng ngày càng lan rộng. Nhạc giải trí dần thay thế nhạc truyền thống, ca khúc quần chúng lấn át giao hưởng thính phòng. Nhạc cổ truyền gần như không có điều kiện phát triển khi giới trẻ hoàn toàn bị cuốn theo các dòng nhạc ngoại nhập như K-pop, US-UK,… Những tác động của internet cũng như truyền hình ngày càng rõ nét với nhiều sân chơi, trò chơi âm nhạc khác nhau như V-pop, Trò chơi âm nhạc, Việt Nam Idol,…
Tuy nhiên, đó lại là điều kiện phát triển lý tưởng của ca nhạc đại chúng chạy theo số đông chứ không phải những giá trị lâu đời của nhạc cổ truyền hay giao hưởng thính phòng. Nói thị hiếu khán giả quyết định tất cả, là vì thế!.
11/5/2020
Nguồn: https://sites.google.com/
Theo https://hoiamnhachanoi.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...