Bão khô 1
Chiều trong làng
Cây thanh long mỗi ngày một xum xuê. Những nhánh cây như
nhành xương rồng, dài thậm thượt bò kín cả cái giàn trước nhà, leo lên cả bức
tường đầu hồi còn lại của ngôi nhà năm xưa, trông một màu xanh dịu mềm mại. Bên
mắt nhánh, những trái thon thon như những trái thơm nhỏ đeo lủng lẳng, nổi bật
màu da hồng tươi. Bức tường rêu chơ vơ bên nền nhà cũ trồng thuốc lá mang những
nhánh thanh long đầy quả nom vừa hoang phế, vừa tươi thắm. Chính vì vậy, Bước
không muốn phá bỏ bức tường để lấy gạch xây cho cái hầm ở đầu nhà. Vợ Bước căn
nhằn nhiều bận vì bức tường hầu như vô ích đó. Chị kêu hoài về cái hầm thiếu
kiên cố chỉ có hai thân cây nhỏ bằng bắp chân đỡ một lớp đất mỏng. Mong muốn của
chị là có những lớp gạch chồng ở trên vòm vừa gọn mắt, vừa vững chắc. Nhưng mỗi
lần chị mở miệng than, Bước đã vội bạt đi, nhất định giữ bức tường lại cho cây
thanh long. Có lần giận quá, chị bảo chồng:
"Bộ anh quý cây thanh long hơn vợ anh chắc. Anh có ngủ ở nhà đâu mà biết sợ
đạn?"
Bước cũng giận dữ bảo vợ:
"Mày nói như thể đêm nào mày cũng ngủ ở nhà, tụt xuống hầm coi cửa coi nhà
cho tao. Mày ngỡ tao không biết tao đi khỏi thì mày cũng kéo xuống nhà thằng thầy
pháp mà ngủ sao?"
Tới đây không còn ai nghĩ đến cây thanh long và căn hầm nữa. Trong đầu hai người
chỉ còn chung một hình ảnh. Lão thầy pháp. Lão thầy pháp là một lão già quái dị
ám ảnh hầu hết mọi người trong vùng. Trước kia nhà lão ở thánh thất, sau vì
xích mích với một vị chức sắc, lão dọn xuống ở dưới cuối thôn. Nhà lão rực rỡ
nhưng cũng bí ẩn như một cung điện nhỏ. Trong việc tín ngưỡng, người ta hãi lão
hơn sợ ông quận trưởng trong việc trị dân. Những người theo hầu lão nhiều khi
được nể vì hơn một người nghĩa quân. Người ta kể nhiều chuyện về lão. Chuyện
nào cũng lạ tai, hoang đường nhưng lại dễ lôi cuốn lòng tin của mọi người. Như
người lãng mạn tìm cái chết để tạo cho mối tình mình thêm thơ mộng một cách bi
thảm, người nghe những chuyện về lão tin lão để sợ hãi thêm trong việc tin tưởng
quỷ thần. Càng thấy sợ lão bao nhiêu, người ta càng tin tưởng ở lão bấy nhiêu
và càng thấy được che chở giữa đời sống chỉ có ý nghĩa vì bị nỗi chết ám ảnh.
Người ta tin lão dễ dàng như tin chuyện gã phu xe ngựa vừa dò vé số ở trước cửa
chợ đã ngã lăn ra chết sau đó năm phút, ruột người lẫn lội với ruột ngựa, như
tin chuyện lão già Phướn lên tỉnh ở với con cháu đã tưới dầu vào mái lá và vào
mình rồi châm lửa đốt… Vì vậy, ở đâu người ta cũng dễ dàng tìm được dấu vết nhắc
nhở tới lão thầy pháp. Nhìn lên đỉnh núi Chóp để coi mưa gió, người ta nghĩ đến
chuyện một kho tàng ông bà giấu ở đó dành cho con cháu bao giờ "lấy lá chuối
làm quần áo, lấy sỏi cát làm gạo bắp" thì sẽ cho phép lão thầy pháp giở chỏm
núi ra lấy phân phát cho dân chúng. Tuy dân chúng chưa gặp nỗi khốn khó như vậy
lâu lâu lão vẫn phải viếng kho tàng một lần bằng cách giở chóp núi ra kiểm điểm
lại. Nhìn những cây dương bên này bờ sông, người ta nhớ đến vị trí trước kia của
chúng. Trước kia hàng dương này ở mãi khúc quành bên kia sông, đến hồi lão thầy
pháp lấy được cái sọ của một người bị sét đánh mang về để điều động bọn âm
binh, thì bỗng nhiên sau một thời gian tản cư lên núi, lúc về người ta thấy đám
hàng dương đó đã được chuyển hết cả sang bên này do phép của lão. Có nhiều người
trẻ tuổi coi lão như thù nghịch, trỏ cho mọi người thấy vùng đất trồng dương bên
kia sông bị lụt cuốn đi và nhắc cho mọi người nhớ lại những dây dương nhỏ bên
này sông trước khi tản cư. Người nói cứ nói và người tin cứ tin. Mất lòng tin ở
nơi lão thầy pháp, họ còn biết tin ai, tin gì bây giờ. Nhất là từ ngày thánh thất
chỉ còn một người phế binh ở lại trông coi, nơi thờ tự trở nên hoang vắng thì
lão thầy pháp lại càng đắc thế. Nhóm người thù ghét lão phần nhiều thuộc lớp trẻ
đã đi lính hầu hết. Vả lại lão vốn là người ít đi ra ngoài trong những trường hợp
không cần thiết. Lão cũng không tỏ vẻ thù ghét ai bao giờ. Những ai muốn tìm một
cái cớ để buộc tội lão quả đã làm một việc vô ích. Nhưng những việc lão làm qua
những lời đồn đãi vẫn tỏ lão mà một người giảo quyệt. Người không ưa lão vẫn
nghe nói lão làm tiền các tín chủ, hành dâm với người nọ người kia. Nhưng ai
làm gì được lão. Nếu bỏ qua những lời đồn, rút cục lòng thù ghét lão chỉ là một
ông già có của, cưới được cô vợ nhỏ mười tám tuổi để một nơi gần tỉnh lỵ.
Nhưng với Bước lúc này, Bước thật tình thù lão vì nghi lão ngủ với vợ mình. Buổi
sáng ở tỉnh đạp xe về, nghe lõm bõm chuyện đó, Bước lặng người một lát. Bước về
nhà không đả động chi cả, sợ vợ cho mình ghen tuông vô căn cứ. Bước chờ khi nào
nắm chặt được bằng cớ, trị vợ cũng không muộn. Song từ hôm đó. Bước ít muốn góp
mặt nói chuyện dông dài với người nọ người kia. Bước sợ phải nghe lại những tố
cáo mơ hồ lõm bõm vừa làm Bước bồn chồn thêm vừa khiến Bước ngượng mặt. Kết cục
chỉ còn lại trong lòng Bước nỗi nghi ngờ, tức giận không có trớn biểu lộ. Có
chăng chỉ những lúc cãi cọ về cây thanh long, nỗi giận đó cũng biểu lộ một cách
mơ hồ qua câu trách vợ bỏ nhà ra đi ngủ ở chỗ khác lúc mình vắng nhà. Sự thực
chính Bước hồi mới bắt đầu lên thị xã ngủ nhờ, đã dặn vợ: "Nếu hãi ngủ nhà
một mình thì xuống ngủ dưới chị hai. Nhờ bác Sau coi dùm nhà cũng được".
Chị Hai, chị ruột của vợ Bước và là vợ lão thầy pháp. Vì vậy câu trách móc của
Bước sẽ hết ý nghĩa nếu biến thành chữ "xuống nhà thầy pháp mà ngủ"
thành "xuống nhà chị Hai mà ngủ". Bước chẳng còn biết sao hơn là im lặng,
tự cho cái khổ nghi vợ ngoại tình nằm chung hỗn độn với những nỗi khổ do súng đạn
gây ra.
Chị đàn bà ngồi bệt xuống cỏ giở nón ngửa cổ quạt. Bên chị,
gánh hàng bọc bằng hai cái bao vải bố cũ cao và cồng kềnh. Bước ngó những sợi
tóc dài và mềm dính ở cái cổ ngửa hất lên của chị thấy có vẻ là lạ hay hay. Chiếc
nón quạt thật đều như tạo một cử chỉ như toan quơ vào lòng một vật gì. Cái cổ
khỏe khoắn và tròn chốc chốc lại hất lên khi chị nhìn Bước nói chuyện. Chiếc
nút áo trên cùng lại ép chặt vào ngực chị hơn. Bước tưởng chị khi chỉ ngước mặt
lên thêm một chút, chiếc nút sẽ bật ra và chiếc áo trên người đàn bà sẽ nom thật
phong phanh. Bước ngạc nhiên, nhớ lại, thấy như chưa một lần mình để ý đến cái
cổ của vợ. Bước không biết cổ vợ có lúc nào dính những sợi tóc như chị đàn bà.
Nếu có, Bước tiếc lắm. Bây giờ, Bước muốn được lấy móng tay út gảy những sợi
tóc đó ra để gió thổi cho khô.
"Chợ bây giờ mau hết người mua quá, nhỉ?"
Bước hỏi. Người đàn bà như có một sự nôn nả qua cánh tay quạt nón liên tiếp.
Như vẫn theo dõi sự nôn nả của mình, chị đáp thờ ơ:
"Trước, một buổi mai bán ở chợ dưới, hàng bán còn gấp đôi số hàng bán cả
hai buổi bây giờ. Chợ chi mà chỉ có người bán".
"Chiến tranh mà chị".
"Chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ".
Giọng chị đàn bà vụt trở giọng dè bỉu. Bước thấy hơi lúng túng vì lỡ lời khơi
đúng cơn giận của người đàn bà nổi tiếng ưa gây lộn. Người chồng tập kệt của chị
như làm chị chuyên môn hơn trong những lời bới móc chiến tranh. Trong lúc mọi
người đàn bà khác chỉ lịm đi trong sợ hãi, chị Thiên - tên chồng chị đàn bà - lại
có những lúc ồn ào như một sự vùng vẫy bướng bỉnh. Chị ưa cãi cọ với mọi người
như thể họ là những người sống yên ổn khác hẳn chị. Thời chồng chị còn ở nhà,
chị mười tám tuổi đã nổi danh bắt nạt chồng. Chị lấy chồng năm mười sáu, hai năm
sau chị đẻ cho chồng hai đứa con. Mỗi lần rặn đẻ chị kêu tên chồng chị là đồ bỏ,
ham ôm súng hơn ôm vợ con. Chị chỉ trở nên ngoan ngoãn trước những người nghĩa
quân và lão thầy pháp. Ít lâu nay, Bước cũng như nhiều người trong làng thấy chị
lại nhà lão như đi chợ. Có người nói chị đến "trả ơn" lão đã phá thai
cho chị hồi chị lén lút ăn nằm với một anh con trai đã bỏ vô Sài Gòn. Người ta
ngờ sau khi trả ơn xong chị lại mắc cái ơn khác. Chiều nay Bước ngồi nói chuyện
với chị ở đây cũng vì những điều dính dáng với lão thầy pháp. Lúc đầu Bước chỉ
muốn gợi chuyện xem chị Thiên có rõ gì về chuyện vợ mình, nhưng lúc nhìn chị quạt
và những sợi tóc vơ vất ở cổ chị, Bước lại muốn tạm quên những thắc mắc, nói những
lời vu vơ, hay hơn. Tự dưng Bước muốn được trả thù vợ và lão thầy pháp qua người
đàn bà lúc nào cũng có vẻ nôn nả ngồi trước mặt. Nhưng Bước không biết làm gì
hơn là nhìn chị rõ nhiều hy vọng có lúc nào đó đôi mắt của người đàn bà bớt những
tia chạy nhảy, xa vời, dừng lại lúng túng trước mắt Bước. Bước nói từng câu ngắn,
vu vơ, bất chợt đến độ câu nói như một lời mào đầu, chìm ngay vào những câu hỏi
ồ ạt của chị Thiên chị nói thiệt nhiều nhưng Bước ít bắt kịp vì những lơ đãng
âm thầm nơi Bước.
Trời chiều nhưng nắng vẫn gay gắt. Làng mạc đằng xa không gợi một sinh hoạt.
Bóng cây đổ xuống chỗ hai người ngồi đậm màu và gọn. Đập nước trên nông giang đổ
nước như thác khiến Bước vu vơ một lo ngại về mùa mưa sắp tới. Ngày tháng qua
thiệt mau, Bước bám vào công việc đồng ruộng như bám vào một cành cây, treo
mình tòn ten. Bỏ tay xuống, ngã vỡ đầu. Tiếp tục bám để thấy mỗi lúc thêm vất vả
trước khi rớt hẳn xuống. Bước nghĩ tới vợ, lão thầy pháp và chặt lẳng tai nghe
chị đàn bà nói. Dường như nếu Bước không có mặt ở đây, chị ta cũng vẫn nói như
vậy. Tay quạt, miệng nói như vẫn chưa giải thoát nỗi nôn nả trong người chị.
Tia mắt vẫn chạy nhảy, xa xôi, không hề có chỗ đậu. Bước hết còn chịu nổi, bật
hỏi:
"Nghe chị hay lại nhà ông thầy pháp?"
Chị Thiên trả lời như nói tiếp câu chuyện, không mảy may khó chịu vì lời mình bị
ngắt ngang:
"Vợ anh cũng thường lại đó, đâu có riêng tôi. Ổng là người nhân đức,
thương người khổ cực".
"Vợ tôi nó khổ nỗi chi?"
"Không khổ bộ sướng sao? Con cái không có, đêm đến một mình ở nhà, không
khổ bộ sướng sao? Bọn đàn bà chúng tôi ơn ông như cha mẹ. Cha mẹ tôi còn sống
chắc tối tối cũng lên nằm trên thị xã, còn ổng lúc nào cũng có quỷ thần phò trợ,
lúc nào cũng ở bên những người còn lại trong làng, không ơn ổng sao được".
Bước ngẩn ra suy nghĩ rồi đột ngột:
"Ơn chi mà tới ngủ ở đó".
"Ai tới đó ngủ? Có mình vợ anh chớ ai".
Bước đỏ mặt chăm chăm ngó người đàn bà.
"Chị chớ nói giọng đó, nghe dị lắm".
Người đàn bà cười khan đứng dậy gánh hàng đi. Bước nhô ra khỏi bóng cây nhìn
theo giận dữ. Thế là hết. Không hỏi gì được về chuyện vợ mình, không nói được
những lời vu vơ mong muốn. Bước giận mình không định chắc chắn được chuyện gì.
Bước ngẩn ngơ ngồi bệt xuống chỗ người đàn bà vừa rồi. Hơi nóng bốc hai bên
thái dương không đủ để Bước để ý đến hơi nóng chỗ mình ngồi. Nỗi giận dữ của Bước
như có lẫn vẻ bực bội vừa ngây ngất. Bước như lây vẻ nôn nả của chị đàn bà
nhưng không hề có một cử động biểu lộ. Bước ngồi im nghe một nỗi hỗn độn trong
mình. Từ trước tới giờ, hiếm khi Bước gặp lòng mình có sự kỳ cục như vậy. Bước
từ trên thị xã về, đi làm ruộng tới xế chiều, về nhà sửa soạn lên thị xã như một
bánh xe lăn đều. Đến chiều nay cái bánh xe đó tự dựng bị kẹt. Bước, như sự đãng
trí của đời sống, thấy yêu một phần thân thể một người đàn bà trong một nỗi giận
bị xúc phạm xót xa.
Bước uể oải ra khỏi bóng mát, đi men theo đọc con mương. Trong cuộc chiến, người
ta thiếu điều làm khó dễ nhau bằng cách vò rối mớ tóc của vợ địch thủ. Con
mương nom hiền lành như chẳng hề biết nghe súng đạn, chẳng thể thêm một gam sức
nặng trên đĩa cân hơn thua, cũng nhiều lần bị đe dọa phá vỡ nếu còn những trái
đại bác dội vang trong núi. Bước giẫm trên những đám cỏ xanh, nhớ lại các buổi
sáng đạp xe về trên con đường bên kia mương, cái bóng Bước theo ánh sáng mặt trời
mới mọc, nhô dài sang bờ bên này tạo một vùng tối biết chạy. Vùng tối chạy tới
đâu, những đám cỏ nổi lên những giọt sương óng ánh tới đó. Những vẻ im lìm buồn
tẻ của đồng ruộng chỉ có vẻ sinh hoạt với những người quen thuộc, gần gũi với
nó. Bước chiều như chỉ còn mình Bước tìm cách băng qua con mương về làng. Bước
nghĩ sẽ có một chuyện cần nói với vợ.
Tới đầu thôn, nghe có tiếng kèn bát âm vọng ra, Bước thoáng chút ngần ngại. Bước
nghĩ về nhà chắc không gặp vợ. Nghĩ tới lão thầy pháp, Bước muốn tới ngay chỗ
đám ma xem dự đoán của mình có trúng không. Song nhìn quần áo lấm láp trên
mình, Bước lại đi thẳng về nhà. Đường vắng không, Bước tưởng mình là một kẻ về
muộn nhất.
Vợ Bước không có nhà thật. Hai cánh cửa lớn đóng chặt. Mấy trái bí rợ hồi sáng
để ở ngoài hiên đã được mang vào nhà. Bước như người lâu ngày về thăm nhà. Ý
nghĩ này có từ hồi Bước bắt đầu lên thị xã ngủ. Suốt một ngày Bước có mặt ở nhiều
nơi xa nhau. Lúc Bước thấy có thì giờ để nghĩ tới vài việc vặt trong nhà cũng
là lúc Bước sửa soạn phải đi. Thời gian ở nhà thật là quá ngắn ngủi. Buổi chiều
ngồi trên hiên vấn một điếu thuốc thật dễ chịu nếu không có nỗi buồn sắp phải lật
đật ra đi.
Bác Sáu ngồi yên lặng trên cái nắp hầm đầu nhà cắm đầu moi cùi dừa bỏ vào miệng,
không để ý tới Bước. Bước hơi khó chịu vì vể lạm dụng của bác. Từ hồi Bước đi
ngủ nhờ, bác thường có những lời trấn an bằng những bảo đảm săn sóc việc nhà
giùm Bước. Nhưng cũng từ đó bác coi mọi thứ trong nhà Bước như của bác, muốn rờ
rà, muốn xài lúc nào cũng được. Những trái dừa nước ngọt, uống chỉ thấy mát
không thấy ợ chua, những trái thanh long ăn sậm sựt, lần lượt bị bác hái xuống.
Nếu có vợ chồng Bước, bác mời cùng ăn như mời khách, nếu có một mình, bác vẫn
điềm nhiên ăn ngay tại nhà Bước. Bước cố nén lòng nghĩ đó là những cái vặt, việc
trông nom nhà cửa mình nếu phải trả giá, giá đó quá rẻ.
Bước ra mấy gốc dừa múc nước rửa mặt. Bác Sáu quăng trái dừa rỗng ruột vô đống
vở dừa khô, quẹt mép bảo Bước:
"Vợ mày nói cơm gói cho mày để ở trong nhà đó. Nếu nó chưa về kịp thì mày
cứ đi".
"Nó đi đám ma?"
"Tao không hỏi mà nó cũng không nói".
Bác Sáu sờ sà cái miệng hầm.
"Miệng hầm làm thế này lúc lật đật cụng bể đầu".
"Tôi chưa xuống lần nào. Có khi rắn rít đầy nhóc dưới đó".
Bác Sáu lại bàn lật bát uống nước. Bước vấn một điếu thuốc.
"Hầm kín để trốn tụi nó, chính phủ không cho làm, cho làm hầm lộ để tránh
bom đạn chính phủ, coi không hợp lẽ chút nào. Đại bác của chính phủ lỡ mà tới
nhà mình, làm sao biết trước mà lánh?"
Bước cười khẩy. Lúc này không biết vợ Bước cười hay khóc bên lão thầy pháp. Lúc
này không biết chị Thiên đã nghĩ tới đôi mắt ngó chị chăm chăm của Bước chưa.
"Cũng như hồi xưa chưa cấp chứng nhận cho người đi ngủ trên đó, quận thì
kêu nên đi ngủ mà tỉnh thì bắt nhốt vì không có tên trong sổ gia đình".
Bác Sáu nói tiếp. Bước bực mình:
"Bắt nhốt thì ngủ càng chắc chớ sao. Làng mình mà được chắc chắn như phòng
giam, mình khỏe biết mấy".
Bước vào nhà thay đồ, thấy gói cơm bọc lá chuối để trên mặt bàn thờ có mấy con
thạch sùng lại nhấm nháp, Bước mang ra đặt trên mặt bàn ngoài hiên. Gói cơm làm
Bước thấy đói nhưng không dám ăn. Mang lên thị xã ăn, đêm mới đỡ đói, mới đỡ thấy
thèm những hàng quà rong.
"Tôi đến chỗ đám ma một lát, bác coi giùm nhà".
Bước nói cho có lệ. Kỳ thực, chiều nay Bước không mong bác Sáu có mặt ở nhà
mình chút nào. Vẻ thản nhiên dùng các thứ trong nhà mình, nghĩ đến, Bước vẫn thấy
gai gai, không muốn nghe bác thêm một lời.
Ra đến ngoài đường, Bước thấy nghĩa quân đã đi bắt người gác cầu. Những bóng áo
đen vừa khuất, đường làng lại vắng không. Giờ này chắc bọn người trên núi bắt đầu
đi xuống. Những đứa trẻ con, những người đàn bà, con gái lại sắp được vào từng
làng la hét, lục soát, được nhìn những người đàn ông khỏe mạnh sợ hãi, năn nỉ.
Bước nghĩ tới những bụi rậm, những bờ tre có mình ẩn trốn hồi chưa đi ngủ nhờ.
Lúc đã ép thân trong những nơi đó, người thân chỉ còn là ánh sáng mặt trời. Tấm
thân chạy trốn lúc đó là cái đích cho những tràng đạn hoảng hốt điên cuồng của
bất cứ kẻ nào có súng đi ngang, giật mình vì một con chuột chạy trên lá khô, vì
một cánh chim vỗ lên bất ngờ trong bóng tối. Bước rùng mình như một kẻ thoát hiểm.
Quả thực, lên tỉnh ngủ, dù có bị nhốt giam vẫn thấy vững lòng hơn. Một lần bị bắt
nhốt với một số người cư trú bất hợp pháp khác, lúc vào phòng giam Bước thấy họ
lăn ra ngủ. Giấc ngủ cong queo trên nền xi măng phòng giam hết còn bị những
bóng ma ám ảnh, yên ả hơn bất cứ nơi nào. Bước cũng kiếm một xó, tiếp tục giấc
ngủ nhưng không thể yên tâm được như họ, Bước vẩn vơ lo ngại nhớ đến ngày mình
bị hỏi thẻ cử tri mấy năm trước. Lúc đó Bước đã ngớ người trước vẻ giận dữ của
người lính. Qua những lời hạch hỏi nạt nộ Bước thấy được giải thích. Bước thành
thực nói làng mình không có nghe nói bầu cử và kết cục bị bắt giữ như một người
đi biểu tình. Từ đó, Bước đinh ninh bất cứ lúc nào người ta cũng có thể có thêm
những giấy tờ mới - như tấm thẻ cử tri - để bắt lỗi mình. Bước trằn trọc mãi đến
gần sáng mới chợp mắt. Nhưng chỉ một lát, Bước lại ngồi nhổm dậy, dụi mắt lơ
láo ngó xung quanh. Nhìn ngọn đèn vàng khè trên trần và những người cong queo
bên mình, Bước mới nhớ ra mình đang ở đâu. Một người bên cạnh Bước cũng thức giấc.
Có vẻ nghi ngờ sợ Bước lần túi, càu nhàu:
"Đang ngủ thức dậy chi vậy cà?"
Bước bâng khuâng:
"Nghe như có tiếng gà gáy".
"Gà gáy con mẹ gì ở thành phố, ngủ đi".
Giọng càu nhàu tắt ngấm. Bước vội nằm xuống. Từ đó tới sáng, Bước nhắm mắt
nhưng thấy rõ mình trở mình nhiều bận.
Tới nhà có đám ma, Bước lén qua đám người lố nhố ngoài sân,
bước lên hiên. Lão thầy pháp ngồi cúng ê a trước cái bàn kê trước mấy tấm trướng,
mấy câu đối viết trên mấy tấm vải trắng thô. Trên bàn, tấm hình người em trai vừa
chết, bình bông lư hương… Sau lưng lão thầy pháp, người anh của người chết chít
khăn trắng mặc áo sô chân trần đứng sững mặt nhợt nhạt. Hai lỗ mũi nở lớn, đỏ vằng,
chốc chốc lại phập phồng theo cái chớp mắt hoặc di chân của anh ta. Đã sắp tới
giờ tốt để đưa đám. Ngoài cổng, cờ quạt nghiêng ngả. Tiếng trống nện cầm chừng.
Bọn thợ kèn ngồi ở cuối hiên nghỉ ngơi bên đống quần áo đen đủi của bọn khiêng
quan tài. Bước vào trong nhà hỏi han ít câu với người trưởng họ, hút một điếu
thuốc rồi sang gian để quan tài. Vợ Bước đứng đó, bên người mẹ có con chết. Người
mẹ được giữ lại trước quan tài. Giọng bà ta khản đặc. Bà kể lể từng lời rời rạc
như cười. Bà hỏi đứa con đã chết sao lại không chịu mặc manh áo đã vá hằng trăm
đường kim của bà. Bà hỏi về người con gái cãi lộn với con trước hôm con chết.
Bà hỏi về buổi chiều con trai lội xuống nông giang rửa mặt… Bà hỏi…
Bước thấy vợ như muốn cười với mình. Mi mắt chị ta đỏ như bị cấu. Chị ta lảng
nhìn chỗ khác như không muốn nói với chồng lúc này. Bước thấy sau gáy vợ mình
cũng buông nhiều sợi tóc. Những chân tóc bới lên nom cong cong lòa xòa. Vậy mà
lão thầy pháp đã rờ tới những chân tóc đó? Chỉ có ma quỷ mới tin được điều đó.
Bước lắc đầu, ra hiệu cho vợ quay trở ra, rồi ra phòng ngồi đợi. Nhưng chị ta
như không nom thấy, ở lì trong đó.
"Hay nó đã biết ý định của mình?"
Bước loay hoay thắc mắc. Ánh nắng trên một mái nhà đằng xa đã dịu màu. Những ngọn
cây cao sáng loáng ánh sáng. Đám ma ra khỏi nhà. Hơn chục người cởi trần lực lưỡng
hè nhau khiêng quan tài ra ngõ. Cờ dựng, trống khua, bát âm nổi dậy. Làng mạc
như bỏ trống, dồn của quanh đám ma. Lão thầy pháp hai tay áo rộng vén cao, ống
quần cạp vải trắng bó chặt căng nhầy lên cái minh tinh để ngoài ngõ hô những tiếng
âm hồn. Bọn lực lưỡng hô theo. Bước thấy trờn trợn. Nếu không quen biết, Bước
đã nghĩ những tấm thân lưng trần đó, sau khi bới đất lên quan tài sẽ vào một bụi
rậm nào đó lấy mỗi người một con mã tấu đi tìm một xác chết khác trong đêm.
Đám ma từ từ ra khỏi thôn. Ngọn cờ, bức trướng vật vờ phường bát âm và những
khúc hành vân, lưu thủy lằng nhằng, đẩy đưa. Tiếng trống như khua cả buổi chiều
nắng sắp rút. Những bờ dậu um tùm trên lối đi, những mảnh vườn trải nắng đất xốp
trắng khô, những bông hoa dại tím vàng len lỏi trong bờ tre, bụi rậm một vài
bóng người từ một bờ hiên cao, thấp thoáng sau cành cây ngó ra.
Tới bực đá cổng, Bước tìm vợ. Chị ta đã rời đám ma từ hồi nào. Bước quay về với
vài người ngại đi xa.
Vợ Bước đã về nhà. Thấy Bước, chị lườm:
"Sau không đưa luôn ra ngoài ruộng để tối nay ở nhà ra ngoài bụi mà nằm".
Bước cười:
"Ai mà đi đưa đám ma. Đi kiếm mình đó".
"Kiếm chi?"
Bước gượng gạo:
"Có chuyện mới kiếm, không chuyện bộ kiếm sao. Hồi nãy bộ không thấy người
ta chờ sao?"
"Ai mà biết".
Quả thật chỉ có ma quỷ mới tin vợ Bước ngoại tình. Buổi chiều hôm nay, thêm một
xích mích nhỏ với vợ, còn biết vui với ai.
"Có chuyện tôi mới về, không có tôi đã đưa đám ma tới ngoài ruộng rồi. Anh
biết chuyện chi không?"
Vợ Bước nhìn chồng. Thấy Bước ngơ ngác chị không cười như mọi khi.
"Nẫu vừa có lệnh cấm đi khỏi nhà ban đêm. Mấy người xe ngựa ở trển chạy về
nói vậy".
Bước ngẩn mặt. Lại có một lệnh mới truyền miệng về làng. Lên thị xã ngủ lại là
một tội mới.
Bước thở dài sau một lát im lặng cố nén. Thuở nhỏ Bước sợ ma quỷ bắt về âm phủ,
một góc nhà tối, một bụi cây um tùm, một khúc quẹo trên đường làng như đều có
âm binh xuống đón. Nhưng chưa bao giờ Bước gặp và những góc nhà bụi cây, khúc
quẹo đều gần Bước để Bước trông thấy rồi mới nghi mình bị đe dọa. Bây giờ từ miệng
một người phu xe qua thôn, từ một thành phố Bước chỉ tin là có vì được nghe
phát thanh chốc chốc lại nhắc lại: "Đây là tiếng nói nước Việt Nam phát
thanh từ…" từ một ngôi nhà làng… đâu đâu cũng có lệnh cho Bước, ai ai cũng
có thể ra lệnh cho Bước. Dẫu Bước không có một căn cứ cụ thể như có bụi cây để
nghĩ ma quỷ lẩn quất ở đó là hợp lẽ, bây giờ Bước vẫn phải tin và tuân những lệnh
đó và vẫn sợ những trừng phạt kèm theo. Mỗi một mệnh lệnh lại như thêm một bệnh
mới trong cái cơ thể quá suy nhược của người dân. Sớm muộn thế nào hắn cũng bị
vật chết.
"Nẫu nói tối mốt sẽ về kiểm soát từng nhà. Ai không có nhà bị coi là chống
Nẫu".
Vợ Bước nói xong bỏ ra sau nhà. Hết những lời thuật lại với chồng, chị như hết
lo lắng. Bước buông người xuống ghế vấn một điếu thuốc. Lưỡi Bước thè ra giữa
hai cặp môi dày nặng nề. Có tiếng cần kéo nước ken két nặng nề từ sau nhà. Bước
như nom rõ dáng người dẻo dai của vợ nghiêng mặt trên giếng và hai cánh tay với
lên thoăn thoắt kéo cần. Bước muốn ra kéo nước giùm vợ nhưng vẫn ngồi trên đẩu,
phập phèo từng hơi thuốc. Hai người như có nhiều việc riêng không có dính dáng
với nhau. Bước nghĩ đến chuyến đi của mình, đến những lời đe dọa và vợ Bước chắc
cũng nghĩ tới một chỗ chị cho là an toàn nào khác. Chắc chắn không ai nghĩ đến
những việc xa hơn. Tình thế này nhồi nhét biết bao biến cố, xử sự theo hoàn cảnh
trước mắt cũng là điều khó khăn, ai dại khờ chi mà đem đặt trong đầu một tính
toán xa vời. Bước đành coi lời đe dọa như không có và tiếp tục lên thị xã ngủ
Bước sẽ trông chừng người ta. Họ làm sao Bước làm vậy. Bước đành tin vào đám
đông khốn nạn như mình. Bước đành đem số phận mình ghép vào số phận chung mọi
người. Đó là điềm an ủi độc nhất cho Bước.
Bước đứng dậy, mang gói cơm buộc vào sau chiếc xe dưới hiên. Thấp thoáng qua những
cành dừa lòa xòa, Bước nom thấy người phế binh chống nạng đứng ở bên hông thánh
thất. Anh ta như một pho tượng thiếu một chân bên bức tường cao sững sững. Ánh
nắng đã rút tới bực thềm thứ ba. Những chiếc lá khô theo gió bay vòng vèo dưới
chân anh. Những con chim sẻ đã rút hết cả nóc ngói còn ngợp ánh mặt trời. Bước
chắc anh ta chờ rung chuông. Tiếng chuông đổ liên tiếp ngân vang lên lúc Bước ở
trên con đường lên thị xã. Lúc dời khỏi cổng thôn, Bước ít nghĩ tới những thứ
còn lại đằng sau. Nhưng lúc nghe tiếng chuông Bước không sao tránh được những
nôn nao về những con đường đất vắng không những ngôi nhà im ỉm đang dần dần sửa
soạn lẫn vào với cây cối. Đã lâu Bước không ngồi chơi cờ với anh thương binh để
xem anh nóng nảy thí quân một cách bừa bãi để cuối cùng dùng tượng của mình chắn
lối tượng của bên kia, Bước không thích chơi kiểu đó. Thường thường chơi được
hai ván, Bước cáo từ và chỉ trở sang bên đó những lúc rảnh chân tay nhất.
Ở sau nhà, vợ Bước tắm dội nước ào ào. Bước nhìn trời sốt ruột. Điều định nói với
vợ vẫn chưa nói được.
Bước ra gần buồng tắm lộ thiên. Vợ Bước kêu:
"Chớ có vô".
Bước bật cười:
"Làm như lạ lắm không bằng".
"Quen cũng không được vô".
"Lẹ lẹ lên. Có câu chuyện định nói mà đã nói được đâu".
Bước lên nhà. Ngoài đường đám người có chồng con lên núi đã đi gác cầu. Chị
Thiên cũng có mặt trong đó như mọi khi. Vai chị quàng một tấm khăn lớn sặc sỡ
như cái khăn tắm. Chị đi sát bên bờ dậu bên mấy người đàn bà khác yên lặng như
ngậm tăm. Bước chắc tấm khăn đó chị dùng đắp mặt lúc dựa vào thành cầu ngủ cho
khỏi sương. Vẻ nôn nả nhường cho bước chân đều đặn, hai tay buông xuôi. Tia mắt
chạy nhảy, xa vời, Bước không gặp lại vì chị đi cúi đầu.
Bước nhìn sang nhà bác Sáu thấy bác bế con đứng ở cổng ngó ra. Đoàn người đi khỏi,
bác quay sang cười với Bước. Bước vội quay vào trong nhà. Có tiếng vợ Bước trao
đổi với bác, Bước cau mày.
Một lát chị ta bước vào, thấy Bước vẫn ngồi chồm hổm trên cái ghế bụi, chị hỏi:
"Bộ anh toan ngủ ở nhà thiệt sao?"
Bước lắc đầu:
"Còn đi hoài".
Chị ta nhìn Bước dò xét:
"Chuyện chi vậy?"
Bước ngắm vợ, gượng gạo, chỉ vào cái giường.
"Chớ có tầm bậy. Ban ngày…"
Bước liếc ra ngoài rồi lại nắm hai vai vợ:
"Cả tháng nay rồi. Có đêm nào ngủ nhà đâu".
Giọng Bước có vẻ năn nỉ. Chị vợ vùng vằng toan nói. Bước như bị cái lách vai của
vợ làm dạn dĩ, vội đưa một tay khép cửa lại.
Bước ra khỏi phòng, nắng đã nhạt. Bước vội vàng nhấc xe, nhảy
lên. Vợ Bước mà ngoại tình, chỉ có ma quỷ mới tin được.
Bước đạp xe như chạy trốn. Tiếng chuông của người phế binh đã ngân nga. Trâu bò
đã về chuồng chỉ còn lại trên đường những vết chân bừa bộn, những đống phân
tung tóe. Trên núi Chóp đã nom rõ những đóm lửa lập lòe. Những tiếng súng đại
bác đã dội vang liên tiếp trong vùng núi.
Và ở cuối con đường lớn trong thôn, khăn quấn kín tay, áo dài đen, chân cạp vải
trắng, lão thầy pháp bước những bước chập chờn.
Bên ngoài khán đài
Người con trai đứng dậy đóng sập cửa. Không khí trong nhà
chìm theo tiếng mưa gió ầm ĩ bên ngoài. Bích vẫn mó đầu nắm từng quân bài. Người
con trai như vừa cất tiếng nói, Bích không nghe rõ. Bích nói mà không chắc anh
ta nghe:
"Nếu ngớt mưa, có lẽ em về. Đứa bạn em nó hẹn tối nay lại nhà nó có câu
chuyện".
Người con trai như cất tiếng cười bước lại gần Bích. Hai tay anh ta đặt lên
thành ghế Bích ngồi. Bích chắc anh ta đang cúi xuống nhìn cái gáy trần của
mình.
"Sao em cứ ham nói kiểu đó? "Nếu", "có lẽ", nghe em
dùng mấy tiếng đó, anh thấy anh như người lạ nói chuyện với em. Anh hết còn biết
em là người thế nào".
Bích xỉa đi xỉa lại cỗ bài. Người con trai ngồi xuống ghế cạnh Bích.
"Anh biết hôm nay em có chuyện buồn. Nhưng biết làm sao được khi người ta đã
cố tình…"
Giọng anh con trai nhiệt tình nhưng nhỏ. Tiếng mưa gió như làm anh ta đỡ thấy
giọng mình quá rõ, có thể hồi lại tai mình những lời khuyên nhằm làm mình đỡ áy
náy trước nỗi buồn của Bích hơn là làm Bích khuây khỏa. Người con trai chẳng
ích gì khi Bích buồn. Những chăm sóc kẻ cả thường ngày làm Bích chán. Nhưng
Bích vẫn nghĩ sẽ ở lại đây hết đêm nay. Bích biểu lộ nỗi buồn của mình tự nhiên
như mỗi khi rảnh tìm đến với anh ta nghe anh ta nói ít câu kỳ quặc lạ tai, giỡn
với anh ta một chặp rồi về. Anh ta đã không làm tròn câu chuyện bất cứ người
đàn ông nào gặp Bích cũng làm. Hồi người bạn thiếu úy của anh ta mang Bích lại
đây giới thiệu, anh ta có vẻ mừng cho người bạn và vui lây. Anh ta kêu Bích là
"chị" và mời hai người đi uống nước ngoài phố. Suốt thời gian ngỡ
mình sắp làm vợ, Bích hay lại thăm anh ta. Anh ta coi hồn nhiên, dễ dàng và ngồi
làm thơ suốt ngày. Những săn sóc, bất bình về một tấm áo quá mỏng, về một núm
xú chiêng bị móp, một câu nói bắt chước kiểu cách, anh cũng biểu lộ một cách thật
tự nhiên, dễ làm Bích có cảm tưởng anh ta muốn đóng vai kẻ cả. Hồi người thiếu
úy đã đổi đi xa, bỏ Bích và anh ta với một sự bỡ ngỡ. Sau đó anh ta hiểu rõ
Bích và không hề phàn nàn chi về người bạn. Bích vẫn tiếp tục lại thăm anh ta.
Cả hai đều cố tình quên người thiếu úy trong lúc gần nhau. Nhưng anh ta cũng
không biểu lộ một cố gắng nào hơn trước. Những lúc ngủ dậy, mở mắt thấy Bích gọn
ghẽ đứng ở đầu giường cười, những câu bất bình mỗi lúc nhòm, ngắm khắp người
Bích đã tạo cho anh ta một thói quen, một vui thích âm thầm mang nhiều hơi hướng
đàn bà, khác hẳn những thói quen khác. Nhiều lần anh ta có những câu nói thật kỳ
quặc (Thôi đi bà già. Em ca cải lương cho Mỹ nó nghe nó cũng sầu) những cử chỉ
bất thường như cố gắng làm giầu kỷ niệm, bện chặt những thói quen với Bích. Khi
người bạn đã đi, anh ta có thể nhìn Bích bằng con mắt khác có lợi hơn song anh
ta vẫn không thay đổi. Một lần nghi Bích không tin mình, giấu tiền không cho
mình vay, lúc hai người đang nằm ở giường, anh ta chợt nảy ý tưởng đòi khám
Bích. Bích từ chối cầm chừng. Lúc trật hai xú chiêng xuống nửa chừng, anh ta sững
sờ một lát rồi ôm Bích thật chặt, hôn Bích như một sự đánh liều để cố quên mình
đang có một cơ thể bị đòi hỏi hành hạ. Sau đó, anh ta nói một câu kỳ quặc nhưng
hơi mất bình tĩnh, "Vú Bích sáng ngời, nóng và trơn thế mà từ lâu anh nào
có hay". Từ đó, anh ta có vẻ không mấy yên ổn lúc Bích lại thăm. Một nửa,
anh bị ám ảnh bởi bộ ngực của Bích, một nửa, anh ngại nếu tiến thêm, Bích sẽ
nhòa đi như những người đàn bà anh đã gặp. Những thói quen mang hơi hướng đàn
bà, những săn sóc sẽ rã rời, tan theo và anh ta lại trở về với nguyên vẹn nếp sống
ngày chưa có những lời bất bình với Bích. Đêm nay là đêm đầu tiên Bích ngủ lại
đây, Bích không muốn chi cả. Nỗi buồn thêm thói quen dẫn lối, Bích tìm đến người
con trai này như để quên đi người đàn ông Bích vừa biết mình không phải là vợ
ông ta. Từ người thiếu úy, tới người đàn ông này, thời gian chẳng xa là mấy. Nỗi
buồn bị lường gạt vẫn nguyên vẹn. Và sau này, biết đâu chẳng còn những người nắm
những nỗi buồn tương tự chỉ mở ra lúc giơ đủ cả năm ngón tay vẫy Bích giã từ.
Nhưng Bích chẳng còn được lựa chọn được con đường nào khác ngoài con đường vừa
đặt chân lên đã phải nhắm mắt, liều tin thêm một lần. Nhưng bây giờ, Bích chỉ cần
người con trai cầm những lá bài đã chia sẵn trên bàn lên thay những lời anh ta
an ủi.
"Cầm bài lên đi anh".
Bích nói, chờ đợi. Người con trai úp cả bàn tay mở rộng chụp xuống mấy lá bài.
Bích gác lên chân anh ta, chăm chú đánh bài. Những nước bài chẳng định được ăn,
thua, không làm Bích thấy quên được bộ ria mép lúc cười bỏ đi của người đàn
ông, vẫn được Bích thản nhiên vật xuống.
Lúc trời đã ngớt mưa, người con trai ra ngoài hiên kêu vào một người đàn bà bán
hột vịt lộn. Anh ta như quên Bích, nói chuyện liên hồi với người đàn bà. Người
đàn bà đứng ở dưới sân, vai choàng một miếng vải nhựa kêu lạt sạt, vừa đặt trứng
lên tờ giấy báo vừa trả lời những câu hỏi của người con trai. Bà ta có vẻ cảm động
vì được nghe những lời săn sóc.
"Chắc bà ở dưới làng tản cư lên?"
Giọng người con trai băn khoăn. Người đàn bà vội đáp:
"Không phải đâu thầy. Tụi tôi là người tản cư, Tôi ở đây đã lâu. Tui có
nhà ở…"
Tới đây bà ta như đã chứng thực được mình không phải là người tản cư, đã có vẻ
bằng lòng, không cần cố gắng mô tả chỗ ở của mình nữa.
"Trời mưa lại giới nghiêm sớm, làm sao bà bán hết cả thúng hột vịt
này?"
"Mưa mấy thầy mấy ông mới ăn nhiều. Người ta giới nghiêm Việt Cộng, giới
nghiêm chi người buôn bán xách đèn?"
"Bán hết chỗ hột vịt này bà lời trăm bạc không?"
Người đàn bà như đã quen trả lời câu hỏi này của những người mua, cười khàn:
"Gì mà dữ vậy thầy. Trước kia, ba đồng một trái, hết trăm rưỡi hột, còn lời
được sáu bảy chục. Bây giờ ba đồng hai cắc lại không được lựa, không được tăng
giá vẫn phải bán. Không bán bọn tản cư nó cũng bán mất".
Người con trai nghe tới đây, có vẻ ngần ngại, vội vào lấy tấm áo mưa mang ra
đưa cho người đàn bà:
"Tôi cho bà mượn. Mưa lớn quá ướt hết, đi bán sao nổi. Hột vịt còn nhiều".
"Cám ơn quý thầy biết có lòng thương người. Tui thế này đi mới gọn".
"Bà cứ lấy mà mặc. Đêm nào bà không qua đây. Quen mà".
"Cám ơn quý thầy, mặc thêm áo khó đi".
Bích từ trong nhà ra giật tấm áo mưa trên tay người con trai:
"Bà ấy không cần, nói hoài chi cho mệt".
Người con trai trả tiền, mang hột vịt theo Bích vào nhà. Người con trai ngạc
nhiên:
"Sao em kỳ vậy? Người ta thực thà?"
Bích yên lặng.
"Ăn đi chứ. Anh không biết mời".
Bích cầm một hột vịt, đập một đầu, bỏ muối tiêu hút. Người con trai đưa cho
Bích nhánh rau răm:
"Ăn thêm rau này mới đủ. Nhân tiện để đêm nay diệt dục. Biết đâu chẳng nhờ
bà hàng vịt lộn, đêm nay anh và em đều thành những người thanh cao".
Giọng anh con trai nửa đùa nửa thật.
"Em không nên giận bà đó, phải cám ơn bà đó nữa mới phải. Em không thấy mấy
người tu hành người ta vẫn ăn rau răm, ăn cay thiệt nhiều nhiều để quên đàn bà,
con gái đó sao?"
Bích bĩu môi không rõ rệt.
"Nếu đi đạo mà có chồng như mấy người theo đạo có việc làm, em cũng
theo".
Người con trai nhìn Bích rồi đứng dậy lấy một chiếc áo sơ mi để lên vai Bích:
"Mặc vào cho đỡ lạnh. Trông em co ro như bị rét".
"Em đâu có lạnh. Rau răm làm nóng người. Ăn xong lại đánh bài nghe
anh".
Người con trai gật đầu. Mưa lại đổ lớn. Hai người đánh bài tới khuya mới đi ngủ.
Người con trai nằm bên Bích cố gợi lại những dáng người di cư lang thang trên đại
lộ duy nhất của thị xã, bên những đống rác cạnh một trại binh vòng dây thép
gai, để đỡ thấy Bích chỉ đơn giản là người có bộ ngực mình đã khám. Nhưng chỉ
thấy nỗi sốt ruột lúc hỏi chuyện người đàn bà bán hột vịt. Đã bao nhiêu lần, gặp
những người như vậy, anh cố tìm cách gần gũi dù biết mình quá vụng về. Chiến
tranh và nỗi khổ hỗn độn xung quanh như không trộn lẫn được những người công chức
thị xã với người dân nạn nhân. Những đêm nghe bom, đại bác dội về rung cả cánh
cửa, anh thấy chiến tranh không có giấc ngủ. Nhưng lúc nom những xác người nằm
trong một căn phòng nhà thương, anh lại thấy chiến tranh gồm toàn những giấc ngủ
triền miên, anh chẳng thể hỏi han như hỏi han bà hàng vịt lộn. Anh vẫn là kẻ thấy
dễ gợi lại nỗi thèm vì thiếu một tô mì vịt Chợ Lớn hơn nỗi xót xa vì người xung
quanh. Nỗi thèm muốn nói lên được nỗi khổ đông đảo sẽ biến thành một kỷ niệm, một
duyên cớ cho những người lạ mặt tương lai buộc tội nhiều khi bừng bừng trong
anh, tạo cho anh những lúng túng hơn cả những lúc ngồi bên Bích. Nhưng anh vẫn
chưa mang được nỗi khổ đó. Trong thơ anh, hơi hướng chăng, là những vần điệu ca
ngợi hòa bình.
Lúc Bích ở nhà người con trai về, trời vẫn chưa sáng hẳn. Mưa
kéo dài những hạt nhỏ. Những chiếc xe lăm-brét-ta chạy vào bến chợ gây những
náo động chớp nhoáng trên đại lộ vắng không. Những người dưới làng lên ngủ đêm
đã bắt đầu đạp xe trên những lối dẫn ra ngoài thị xã. Một toán lính có vẻ mệt mỏi,
lộn xộn giữa con đường về tiểu khu. Những tiếng ngáp xen lẫn những câu khôi hài
lửng lơ, những tiếng ống bơ bị đá lăn trên đường. Thấy Bích, vài tiếng huýt gió
nổi lên rồi lại tắt ngấm. Bích toan về nhà một người bạn nhưng lúc qua dãy nhà
của đám người tản cư, thấy cha đã mở cửa đứng trước nhà, Bích lại ghé vào. Ông
già cau mặt hỏi:
"Sao nghe nói mày đi…?"
Bích hững hờ:
"Đường đứt hết rồi. Xe đâu có đi được".
Bích móc túi đưa cho ông già ba tờ giấy trăm.
"Hồi này tôi kẹt quá. Ông đừng kiếm tôi hỏi tiền mất công".
Ông già cầm tiền, tay nắm chặt, giận dữ:
"Ai mà thèm kiếm mày. Tao đâu đã chết đói".
Tiếng ông cụ gay gắt làm Bích để ý tới mấy người trước các căn nhà bên cạnh tò
mò nhìn mình. Bích bĩu môi cố tình cho họ thấy. Một mụ đàn bà cau mày bĩu môi
trở lại có vẻ khiêu khích. Bích thấy giận bọn người xung quanh như đêm qua giận
người đàn bà bán vịt lộn dè bỉu đám dân tản cư. Đám người khốn khổ này dường
như hết còn ý niệm về sự nhục nhã của người khác. Họ quen dè bỉu cha con Bích đến
độ thản nhiên, hết còn biết mình tàn nhẫn. Những bộ mặt ngơ ngẩn đến đần độn,
không còn biểu lộ nổi một phẫn nộ trước cảnh bom nổ, nhà cháy, xác người giãy
chết, đã là những bộ mặt lên tiếng kết án một ông già có con gái mắc tính
hoang. Có bao giờ họ nghĩ cha Bích cũng là người tản cư như họ? Lão cũng có những
buổi trưa nắng và gió nóng bỏng phả vào căn nhà không đủ để lão bước mươi bước
những lúc lão quá sầu. Có bao giờ họ nghĩ đến những đêm lão giật mình nhỏm dậy
vì những tiếng đập cửa rầm rầm của một người lính dẫn theo gái ngỡ nhà lão là một
căn lều bỏ không? Có bao giờ họ biết lão có những trưa không ngủ được nhớ đến tổ
ong lúc nhúc lão nuôi trong cái hộp gỗ ở làng thường giúp lão tiêu khiển những
lúc rảnh rang, rồi nhận ra hiện tại của mình, không có tổ ong và chân tay lão bỏ
không, cứ yên vậy mà nhớ làng mạc. Lão như cùng đám người này cùng trên một con
thuyền phiêu lưu không định nhưng lão không được cất lời buồn chung với họ. Chỉ
có Bích thương lão nhưng lão lại hay nổi giận, coi việc Bích ở trước mắt lão
như việc hiện hình của những lời mỉa mai của bọn người làng. Nỗi đau lòng nhất
của lão là muốn biểu lộ nỗi vui mừng mỗi khi gặp mặt con gái mà không được.
Bích không nghi ngờ lòng cha thương mình. Nhưng mỗi lần thấy cha giận dữ một
cách vô lý, Bích không khỏi khó chịu. Thấy người đàn bà nhìn mình khiêu khích
Bích muốn chạy lại, cào móng tay nhọn vào mặt mụ cho bật máu ra để mụ đó nhớ lại
mình cũng là một người khốn khổ nhục nhã như Bích. Nhưng Bích lại nuốt nước bọt,
bỏ đi. Lúc này, nghĩ tới đêm hôm qua nằm với người con trai, yên lặng để nghe cảm
giác hai bên lườn mình được hai bàn tay luồn vào ve vuốt. Bích mới thấy dễ chịu
vì cử chỉ của người con trai. Bích cảm thấy mình được quí trọng thật sự. Những
cử động anh ta làm trên thân thể Bích chỉ có bấy nhiêu, chỉ là những cái vuốt
ve tỏ dấu thương mến. Cơn giận của Bích nguôi dần theo bước chân rời xa khu tản
cư và theo những hồi tưởng về người con trai. Anh ta là người đầu tiên, duy nhất
biết Bích mà không tỏ ra mình lầm lẫn. Những người đàn ông Bích đã chung sống;
dù khéo léo tới đâu cũng có lúc lộ một chút ân hận. Những lúc đó, có thể kéo mạnh
Bích vào lòng họ hơn, có thể lãnh đạm, "À, ra thế" "Bích phải tỏ
ra hiểu biết với anh một chút. Như anh đã hiểu Bích"… những lúc Bích muốn
khước từ. Bích nhớ nhiều đến vẻ ân hận của người thiếu úy bạn người con trai
đêm qua. Có thể người đó thu hút Bích hơn cả nên vẻ ân hận đó đậm màu nơi Bích.
Bích quen người thiếu úy trên con đường từ một thị trấn miền biển về thị xã.
Hôm đó Bích vận áo dài trắng như một nữ sinh. Lúc chuyến xe đò chở Bích dừng lại
ở trạm kiểm soát cuối cùng trước khi tới thị xã, người thiếu úy ngồi trên một tảng
đá ở chân ngọn đồi trước đồn. Người thiếu úy vận đồ trận, mang súng sáu, cầm một
cái gậy cúi đầu vẽ nhằng nhịt xuống lớp cát trước mặt. Bích nhìn ra, nom anh ta
có vẻ buồn. Tiếng một người nghĩa quân nạt anh lơ làm người thiếu úy ngửng lên.
Mắt anh ta gặp mắt Bích rất mau. Anh ta đứng dậy và tiến lại gần xe hỏi chuyện
Bích. Bích trả lời lễ độ nhưng đầy đủ. Giữa vẻ trầm ngâm lúc ngồi cúi đầu vẽ
trên cát với vẻ săn sóc hỏi han của anh như có sự xa lạ. Trước và sau khi thấy
khuôn mặt Bích, anh có hai đời sống.
Nói được ít câu, anh luôn luôn để ý đến người lơ xe đang tiếp tục cười và gãi
tai trước người nghĩa quân. Mũi giầy anh đá xuống đường có vẻ bất an. Bích đoán
anh ta sợ chiếc xe sẽ chạy mất. Chợt anh bậm môi, mắt sáng lên nhìn Bích rồi rảo
bước lại chỗ người nghĩa quân. Một lát anh quay lại với mấy người lính khác. Bằng
một giọng niềm nở nhưng cương quyết anh mời hành khách của mười mấy chiếc xe nối
đuôi nhau xuống. Mọi người còn đang ngơ ngác, lo lắng, anh đã cười giải thích,
tiếng rung và lớn:
"Thưa đồng bào, chắc đồng bào đã nghe nói nhiều về ấp Tân Sinh nhưng tôi
chắc có nhiều đồng bào - nhất là đồng bào thành phố - chưa rõ sinh hoạt của ấp
Tân Sinh như thế nào, vậy xin đồng bào hãy bỏ chút thì giờ ghé thăm cùng chúng
tôi một ấp Tân Sinh gần đây nhất, kiểu mẫu nhất và an ninh nhất. Nếu đồng bào
nghĩ rằng đây là một dịp để mình nhìn tận mắt một chương trình của chính phủ có
liên quan đến sự sống của đất nước, nếu đồng bào nghĩ rằng chúng tôi không như
bọn Việt Cộng phá đường, cướp bóc, dẫn đồng bào vào rừng rú cả hai ba ngày để
nhồi sọ, chúng tôi chắc đồng bào sẽ hoan hỉ nhận lời chúng tôi và coi đây như một
cuộc du lịch mà chúng tôi là những kẻ có bổn phận hướng dẫn.
Nghe nói, một số người bật cười, hưởng ứng kéo theo những người băn khoăn vì sợ
mất thì giờ hoặc vì quá mệt mỏi những giờ ngồi liền trên xe. Người thiếu úy có
vẻ bằng lòng vì sáng kiến của mình. Anh ta đi bên Bích và chỉ dẫn nhiều thứ
Bích đã quá rõ.
Bích về thị xã được vài giờ thì người thiếu úy tìm sang. Hai người ngồi trên xe
díp đi khắp thị xã. Người thiếu úy bảo Bích:
"Nếu người quân nhân nào cũng được như tôi, cũng được tin chỉ phút trước,
phút sau mình bắt được hạnh phúc, chắc họ sẽ không còn thấy đời lính chỉ có thuốc
nổ và xác chết".
Bích chỉ cười yên lặng. Từ đó về sau, khi hai người đã sống chung một căn nhà ở
một khu yên tĩnh. Bích vẫn có những nụ cười yên lặng. Bích chẳng mong gì hơn được
săn sóc người thiếu úy và nghe những lời thương yêu. Người thiếu úy tuy sống có
vẻ hối hả, vội vã nhưng cũng ưa khai triển hạnh phúc của mình để thấy mình miên
man là kẻ được thụ hưởng. Thấy Bích hay yên lặng cười sau khi nghe mình nao nức
nói, anh kêu "Bích cười và yên lặng để giữ ấm những lời nói sau khi đã buột
ra khỏi miệng anh". Thấy Bích băn khoăn vì không có giấy khai sinh để làm
thẻ căn cước, anh cười: "Đời sống của một người đàn bà có thêm chút lo lắng
tương lai chẳng khác một bông hồng óng ánh vài giọt nước". Gần anh, Bích
tưởng như lúc ngồi cắt móng tay anh cũng tìm thấy vui thích. Nhưng đến hôm, tự
dưng người thiếu úy nói nhiều về tấm căn cước của Bích, Bích bắt đầu cảm thấy
những thứ lặt vặt anh gán cho vẻ hớn hở đã thành những lo lắng cho Bích. Anh bảo
Bích:
"Anh có một người bạn làm phụ tá quận trưởng quận Sơn Thành. Em có thể lên
đó, nhờ anh ấy lo giùm giấy khai sinh. Ở đây, làm sao lo được".
Bích ngần ngại, lắc đầu:
"Quận đó em cũng biết. Nhưng giờ đi sao nổi. Cách đây cả năm trời, đường
lên đó đã nguy hiểm lắm rồi. Đường chi mà không vết bánh xe, cỏ mọc tùm lum,
mìn gài nhiều hơn cả gà rừng, hố nhiều hơn cả hố bẫy thú".
"Anh sẽ xin cho em đi nhờ máy bay".
Bích hơn ngạc nhiên thấy chưa bao giờ được săn sóc về việc mình không có giấy tờ
như vậy. Đến lượt Bích phải gạt đi, kêu đó việc vặt. Nhưng thỉnh thoảng trong
những lúc vô tình nhất, Bích lại nghe những lời tương tự. Vào hôm nghe tin người
thiếu úy sắp đổi đi do lời bạn anh ta nói lại, Bích chợt hiểu. Suốt một đêm,
Bích nằm khóc bên những đồ dùng để bừa bãi của anh. Sáng hôm sau, anh ta sang
thu dọn đồ, nói mình sắp đi hành quân trong một thời gian khá lâu. Anh ta nhắc
lại đến tấm thẻ căn cước. Lúc đó Bích hết còn bình tĩnh, bật khóc nức nỡ:
"Có phải anh muốn cho người bạn nào đó của anh ở quận Sơn Thành thay anh
ngủ với tôi phải không?"
Người thiếu úy sững sờ, đỏ mặt.
"Ai nói với em như vậy? Sao em lại có những lời vô căn cứ như thế?"
"Anh đừng hỏi lại tôi. Bây giờ tôi mới biết lời nói của anh với lòng dạ
anh nó khác xa nhau quá lắm. Tôi không có giấy tờ, chính phủ chưa có bắt tôi
nhưng các anh đã toan lợi dụng tôi thêm một lần nữa vì cái thẻ căn cước. Anh tưởng
tôi không biết gì về anh sao. Các anh định lợi dụng tôi bao nhiêu lần nữa, các
anh có biết không?
Người thiếu úy đỏ mặt sậm hơn nhưng bây giờ vì tức giận.
"Tôi lợi dụng Bích? Lợi dụng cái gì? Ai định lợi dụng ai? Bích nói hoài,
Bích không thấy ngượng sao?"
Bích cười, hai môi se lại:
"Tôi chỉ ngượng vì quá tin anh thôi".
Nghe Bích, người thiếu úy vung tay toan nói. Nhưng cử chỉ của anh lại biến
thành một ngăn cản yếu ớt để Bích đừng nói tiếp. Anh ta có vẻ không ngờ Bích đối
đáp mau mắn, sắc bén như vậy, cử động vung tay biến dạng làm anh bớt giận. Bích
thấy anh ân hận rõ rệt trong sự im lặng, ngập ngừng của anh. Anh nhìn những đồ
dùng rải rác khắp nơi như muốn thu thiếm hết rồi đi ngay cho rảnh. Nhưng Bích đứng
yên, hai mắt trân trối rỗng không đã thành một cản trở cho anh. Một cử động nhỏ,
một tiếng động đột ngột do anh tạo ra có thể làm Bích vỡ òa những phản ứng mới.
Anh lắc đầu, mắt vẫn nhìn những đồ dùng của mình, mặt vẫn ân hận. Sự ân hận,
rút cục cũng vì anh nghĩ mình bị phiền nhiễu khiến anh không thể ra khỏi căn
nhà một cách thong thả. Bích biết mình không được anh nghĩ tới. Nếu có, chỉ vì
những cản trở do Bích tạo ra. Nỗi ân hận phút cuối đó cũng chỉ vì riêng anh.
Bích, tấm thẻ căn cước, bông hồng đọng nước chỉ là những thứ người đàn ông dựa
vào đó khai triển những ý nghĩ về hạnh phúc cho mình.
Buổi chiều mưa tầm tã, trời mau tối. Lúc đã ngớt mưa, Bích và
người bạn tên Hiền ngồi trên chiếc xích lô đạp, ra khỏi thị xã. Giàn đại bác ở
tiểu khu đã bắt đầu khai hỏa. Từ các vùng núi mờ mịt hơi nước vọng lại những tiếng
nổ âm thầm. Bên người bạn phấn trát nhợt nhạt khoác tấm áo len mỏng hồng lợt,
Bích bắt đầu thấy đời mình đã tới một khúc quành. Bích lắc đầu không nghĩ nhất
định về một người đàn ông nào. Từ căn cước đã không còn bận tâm Bích. Đằng nào
Bích cũng bắt đầu sống trốn tránh vì những phút phơi mình như bạn.
Một người lính thấy hai người ra khỏi thị xã, có vẻ ngạc nhiên giơ tay ngoắc lại.
Hiền bĩu môi, hất tóc cười. Chị ta lập lại một câu nói nghe lỏm động cơ:
"Tụi mình về làng, tỉnh thành một thành phố chết".
Bích thắc mắc:
"Nhà chị mày có yên không? Đêm ngủ, Việt Cộng về viếng, tao chỉ còn nước
chết giấc".
Hiền phát vào đùi Bích:
"Nhà ngay bên kia cầu mà lộn xộn thì tỉnh yên sao được. Mà nếu có chuyện
chi, chị tao chỉ mất công năn nỉ khóc lóc một chút là êm hết. Chỉ khóc hay nhất
làng. Hồi nhỏ mấy thằng Pháp muốn đốt nhà chỉ nghe chỉ khóc nó cũng thấy rầu, bỏ
đi hỏng thèm đốt nữa".
Bích bật cười:
"Mày mà học khóc được như vậy, lính hết còn bắt nổi mày, đỡ tội cái thân tối
tối phải về quê nằm queo một mình".
Chiếc xe vượt khỏi cây cầu gỗ, dập dình đi vào con đường đầy vũng nước. Từ các
làng mờ mịt những người đàn ông khoác vải nhựa, áo tơi lá đạp xe lên tỉnh ngủ
nhờ, quần áo ướt át, mặt nhợt nhạt. Những gói cơm bọc trong túi ni lông để sau
xe lấm láp, nhớp nhúa. Họ nhấp nhỏm trên yên xe, gò người vượt ngược chiều gió.
Bích nghĩ tới người con trai làm thơ. Nếu dạo này lính không gắt gao xét sổ gia
đình chắc đêm nay Bích đã nằm trong căn nhà ấm cúng đó. Con đường chạy dài giữa
những thân dừa ẩm nước xõa lá, nom heo hút. Những bóng người vẫn chốc chốc hiện
thêm lẻ loi ở cuối đường. Giữa cánh đồng không còn người, một lò gạch tỏa khói.
Khói không bốc được cao, hòa lộn với một màn hơi nước như sa mù.
Chiếc xe dừng lại ở đầu một ngõ dẫn vào làng. Hiền kêu lớn:
"Không vô được sao?"
Người phu xe nói thoáng như cơn gió lạnh.
"Vô, không quay xe được. Đường vấy tổ cha. Xuống đại đi".
Người bạn Bích vùng vằng kéo Bích xuống. Hai người vén quần men theo bờ cỏ vào
ngõ. Tới một cái cổng có những bậc đá dẫn lên một mảnh sân cao, Hiền kéo Bích rẽ
vào. Đôi guốc cao gót của Bích đào vấy mảnh sân đất cát sạch sẽ, Bích thở ra một
hơi dài nhìn bạn bước lên cái thềm nhà cao tối tăm.
Từ trong nhà, chị của Hiền bước ra với một bầy con ngấp ngó sau lưng. Trong cảnh
nhá nhem tối, Bích thấy hai con mắt chị sâu viền quầng thâm. Hiền vào nhà bật
quẹt châm đèn và châm một điếu thuốc. Bích bước lên thềm. Chị của Hiền lùi vào
trong nhà nhường lối cho Bích. Bọn trẻ lùi vào một góc thềm che phên, biến vào
bóng tối.
Bích sờ tay xuống cái mặt ghế bụi đập mạnh mấy đập. Hiền lật cái bát úp trên mặt
bàn rót đầy bát nước uống ừng ực. Suốt buổi tối, cho tới lúc đi ngủ Bích ngồi
nói chuyện với người chị của Hiền. Chị Hiền là người đàn bà có chồng lên núi mấy
năm nay. Chị ngỏ ý mong có ngày chồng chị mang súng về nạp cho chính phủ như mấy
người ở thôn trên để mùa lụt, gia đình chị sẽ có tên trong danh sách những người
được phát tặng phẩm.
Đêm nằm bên Hiền, Bích có nhiều lúc chợt tỉnh vì tiếng chó sủa dồn dập hoặc vì
tấm liếp che ngoài hiên bị gió đập mạnh. Bích mở choàng mắt nhìn bóng tối ẩm ướt.
Tiếng ễnh ương kéo từng nhịp như phát ra từ một ống cống vang nghe xa lạ. Mùi
khế ủng ở ngoài đầu nhà như mang theo hơi lạnh phả vào mũi Bích làm Bích tỉnh táo,
khó tiếp tục giấc ngủ ngay được. Bích lại nghĩ tới người con trai với cảm giác
hai bên lườn được ve vuốt. Cảm giác đó có lúc đến ngay trong đầu khi Bích chợt
thức giấc sau một hồi ngủ mê mệt. Da thịt Bích như rung lại cảm giác đó khiến
Bích sợ hãi nhỏm người dậy.
"Ai đó?"
Giọng Bích cố thoát ra khỏi hai hàm răng. Một cánh tay vòng lấy lưng Bích chắc
nịch.
"Qua đây chớ ai".
Nghe có tiếng nói cất lên, Bích thấy đỡ sợ nhưng xúc động sợ hãi vẫn còn rung
da thịt. Bỗng thấy kẻ ôm lưng mình là một bóng đen cao lớn đã chui vào mùng từ
hồi nào. Vòng tay đó thắt chặt lại. Một tờ giấy được nhét vào tay Bích. Bích chắc
là một tờ giấy bạc và thấy mình bị kéo xuống khỏi giường. Bích vùng đạp mạnh
vào Hiền, cố giật người thoát ra khỏi vòng tay sau lưng. Hiền nhỏm dậy hỏi:
"Chi đó?"
Vòng tay tự nhiên nới rộng, mở ra. Hiền yên lặng đứng dậy, bước ra điềm nhiêm:
"Ông xã đó phải không?"
Bích đã hết sợ, ngồi dựa vào góc tường, ngạc nhiên.
"Ai ngủ với em trong đó?"
Giọng người đàn ông hỏi uy quyền.
"Bạn em đó".
Người đàn ông im lặng một lát rồi Bích thấy Hiền như bị ôm sát.
"Bữa nay có bạn em…"
"Bạn em thì sao?"
Bích thấy Hiền bị nhấc bổng ra khỏi mùng, theo bước chân người đàn ông ra khỏi
cửa. Một lát, bên giường chị Hiền có tiếng trở mình. Bích thấy chị rón rén bước
sang giường mình. Bích hỏi:
"Chuyện chi đó chị Hai?"
Người chị Hiền ghé ngồi vào trong mùng, nhỏ giọng:
"Còn chuyện chi nữa".
"Hiền nó đi với người đàn ông đến đâu?"
"Ra ngoài hiên chớ đâu".
Bích ngạc nhiên:
"Cha đó vào bằng lối nào kia?"
Mùi khế ủng lại thoảng vào trong mùng. Bích nghe như có một giọng đáp từ xa:
"Nhà này có khác chi nhà ông xã".
Mở mắt dậy, Bích thấy Hiền vẫn còn ngủ. Người Hiền co quắp in
những đường gãy trên tấm mền mỏng. Trong mùng những con muỗi bụng căng máu thấy
động đập cánh tìm lối ra. Ngoài đường như có một sự chuyển động rầm rộ. Những
tiếng người lao xao, những tiếng chân nặng nề truyền trong mạch đất. Hiền xuống
giường, ra cửa. Mấy đứa nhỏ con chị Hiền đứng trên mấy phiến đá xanh ở cổng
nhìn ra ngõ tò mò. Ngoài ngõ chật ních người. Những lá cờ những tấm biểu ngữ dựng
lên, xiêu vẹo. Một người đàn ông độ tuổi bốn mươi, mắt nhỏ, râu quai nón lởm chởm,
tay áo cuốn một cái băng vàng vào trước cổng, đứng trên bậc đá lớn tiếng nói ra
ngõ:
"Trước khi lên đường, tôi xin dặn lại lần cuối. Ra khỏi ngõ, đồng bào phải
đi cho có hàng lối rõ ràng. Bốn người một hàng, không được lộn xộn, không được
bỏ hàng. Người nào cầm cờ, người nào trương biểu ngữ, phải nghiêm chỉnh, không
được để xiêu đổ. Không ai được tự ý hô khẩu hiệu nếu chưa có lệnh. Hội nghị
toàn xã đã quyết định khen thưởng những người có mặt trong cuộc mít tinh này,
những người biết giữ kỷ luật… và sẽ dành một trừng phạt cho những người vắng mặt,
vô kỷ luật. Những người đó sẽ phải đi công tác".
Bích nghe giọng người đàn ông quen quen. Cuối mỗi câu nói, giọng nhẹ hẳn đi, nhạt
nhẽo. Bích chắc đó là ông xã tối qua.
Đoàn người bắt đầu đi. Bích quay vào đánh thức Hiền dậy.
"Bữa nay trên tỉnh có mít tinh".
Hiền hỏi một đứa bé đầu lở loét theo Bích về nhà:
"Má mày đâu?"
"Má tôi lên tỉnh với nẫu".
Hiền kéo Bích ra đầu nhà, múc nước ở một cái chum nhỏ đặt trên một cái cột xi
măng, rửa mặt. Lúc hai người ra khỏi ngõ, người phu xích lô tối qua đã chờ sẵn ở
đó.
"Bữa nay có tàu tới bãi biển. Có nhiều lính thủy".
Người phu xe vấn một điếu thuốc nói.
Trời u ám nhưng mưa thật nhỏ. Đưa tay ra mới thấy ướt, nhìn những giọt gianh mới
biết là mưa. Qua cầu, Bích nghe lõm bõm câu nói từ một chiếc xe truyền tin
"Kính thưa đồng bào, hôm nay, từ thành thị tới thôn quê…".
Bích thấy đói, bảo người phu xe:
"Tới tiệm Chân Thành nghe".
Những người cảnh binh rải dọc đường quần áo trắng toát, mới tinh. Những chiếc cầu
vai bằng dạ óng ánh bụi nước. Những hướng đạo đứng giữa đường chặn những bộ
hành và xe cộ. Chiếc xích lô của Bích bị chặn ở gần công viên lúc Bích tưởng đã
thoát. Mấy hướng đạo bu quanh chiếc xe, cười và chào Bích nhã nhặn. Bích móc
túi lấy năm đồng đưa cho họ. Cả bọn cười ồ khiến Bích ngơ ngác. Người con trai
mới nhớn có cái mũ chóp nhọn rung rung lúc cúi xuống gắn tấm phù hiệu lên vai
Bích, bảo Bích:
"Phù hiệu này nhắc nhở đồng bào nhớ đến ngày cách mạng của dân tộc, không
phải để quyên tiền".
Bích thở một hơi dài nhẹ nhõm. Tới tiệm Chân Thành, Bích thấy cha đang đưng vơ
vẩn ở trước tiệm, chiếc mũ thủng chỏm có một mảnh tóc trắng ngắn lởm chởm, đâm
ra nhô lên khỏi mấy chậu kiểng đặt trên bờ hè. Bích ngần ngại toan bảo xe đi thẳng,
thì cha Bích đã lật đật bỏ đi, rẽ vào cái ngõ bên hông tiệm. Tiệm đông người,
phần nhiều quân đội và công chức. Sau quầy hàng, trước một tấm gương đặt dài
trên tường soi hình khách ăn và xe cộ ngoài đường, một thùng hi-fi đang phát ra
một bản nhạc thương đời lính. Khách ăn ngồi xoay mặt cả ra ngoài đường. Những
lá cờ treo một hàng đều bên dãy phố đối diện ẩm nước tạt lên theo hướng gió.
Vài ba trái bóng bay kéo nhau lên trời. Bích cúi đầu ăn, yên lặng tránh những cặp
mắt quay vào nhòm ngó. Hiền bảo Bích:
"Có nhiều lính thủy thiệt".
"Ăn xong, xuống biển nghe?"
Hiền lắc đầu:
"Mệt tổ mẹ".
Ra khỏi tiệm, Hiền về nhà ngủ tiếp, Bích theo đoàn người đi xuống dưới biển.
Bích thấy Hiền thật "tốc", thật khó hiểu. Cơ thể Hiền lúc nào cũng dễ
mỏi mệt, lời Hiền luôn luôn có giọng hung hăng. Đêm qua lúc Hiền ra ngoài với
lão xã, Bích ngỡ Hiền chịu hắn. Lúc Hiền trở vào, nghe Hiền nói sẽ kêu bẻ gãy
răng lão vì tội trắng trợn coi Hiền phải đương nhiên chiều lão thay cho chị,
Bích thấy Hiền cũng có lúc biết thương người khác. Bích nhớ đến cha và dáng điệu
lẩn khuất của ông. Trong ước muốn của ông bây giờ, có lẽ là được về làng cúng
giỗ hai con trai để được uống rượu và kể lại thuở hai người còn ở nhà cày ruộng
với đám bà con, "Có bữa tụi nó cày tới cái vũng ở góc ruộng, không quay
trâu nổi, tụi nó giận quá nhảy đại xuống vũng, bắt đầy một chậu cá về nhậu, bỏ
cả trâu lẫn cày".
Ở cuối đại lộ chạy ra bãi biển, một khán đài được dựng thường xuyên, bữa nay
nom sáng hẳn vì lớp sơn mới quét vì những lá cờ tươi màu và những chậu kiểng
xanh tốt. Dân chúng vòng lấy những đoàn thể bao quanh khán đài bằng nhiều vòng
dày đặc. Những hồi chuông cầu hồn tử sĩ và cầu nguyện hòa bình từ nhiều nơi
khua vang thị xã. Bích thấy người con trai làm thơ đứng trên sân thượng ở ngôi
nhà bên kia đường, chính phía khán đài. Anh ta tươi cười bên mấy đứa nhỏ mặc
váy sặc sỡ, bên một ông lão cầm cái sào ngước cổ lên trời xua cho một đàn bồ
câu trắng bay cao.
Bích đi lần ra bãi biển. Trên những cây dương bám đầy người. Họ dướn mình, ngỏng
cổ về phía khán đài. Một chiếc tàu buông neo sát bờ, mấy ổ súng bao vải kín, nước
bơm ra sình sịch. Bích lại gần tàu nhìn xuống mũi tàu mở rộng. Có tiếng huýt gió
của mấy người ngồi dưới cửa tàu, Bích cười với họ. Chắc mấy người này phải ở lại
coi tàu, Bích bỏ đi tha thẩn tiến về một cái quán cuối bãi. Quán vắng không, mấy
cô gái bán quán ngồi trên mặt bàn gỡ tóc cho nhau, thấy Bích, họ phá lên cười.
Bích nhổ một bãi nước miếng vào gió, quây quả bước trở lại. Bích tự nhiên giận
hờn với chính mình. Nỗi giận hờn như hồi nhỏ đi ra chợ coi hát lạc mẹ. Đáng lẽ
Bích phải về nhà ngủ chờ người chủ nhà dẫn khách tới như Hiền mới phải. Bích ra
biển như không phải để gặp người lính thủy bắt tình, cũng không phải để dạo
chơi với những bước đi sụt xuống dưới cát. Bích đi, vì tấm phù hiệp người hướng
đạo gắn trên vai. Thị xã nhiều người nhưng nhỏ bé. Ít người ở đây thấy Hiền và
Bích là những kẻ xa lạ. Bích đã được nhìn như một điều đáp ứng xấu nhưng cần
thiết. Cái chóp mũ nhọn rung rung lúc cúi xuống gần vai Bích và tấm giấy ghim
trên áo không mất tiền làm Bích mơ hồ thấy mình được coi như những người bình
thường khác. Những người đó trùng điệp trước khán đài giữa cờ quạt, biểu ngữ,
dưới những chùm bong bóng bay và đàn bồ câu trắng và tất cả đều có một thúc đẩy
để dùng đủ mọi cách hướng về khán đài. Riêng Bích thì không. Bích thiếu hẳn sự
thúc đẩy. Cảm tưởng mơ hồ mình là một người bình thường qua một vòng lượn trên
bãi cát đã tiêu tan. Bích chợt thấy mình lảng vảng quanh đám người đông đảo,
không mục đích.
Đến bãi dương có những người trèo lên ngó về khán đài, Bích lại bắt gặp cái mũ
có mảng tóc thò ra của cha giữa những người lố nhố kiễng chân, nghển cổ. Chiếc
mũ luôn luôn di động, lúc ẩn lúc hiện sau hàng rào người. Vẻ lẩn khuất của ông
lúc ở tiệm ăn làm Bích nghi ngờ. Ông cụ len lỏi như không hề biết mệt. Tấm vai
nhô xương như một dụng cụ mở đường luôn luôn đưa ra theo hướng ông muốn lách. Tới
bên một thanh niên mặc đồ bà ba đầu tóc bờm sờm ông dừng lại, vỗ vai, nhe răng
cười. Thanh niên quay nhìn ông cụ, vừa nói vừa chỉ trỏ về phía khán đài. Hai
người nói chuyện có vẻ tương đắc. Giữa muôn ngàn khuôn mặt, từ lâu, Bích mới thấy
khuôn mặt của cha nổi bật. Bích như bắt được một ngày nào đó cha Bích được sung
sướng. Lúc đó dù phải vĩnh viễn khuất mặt một nơi để được nghe đồn đãi về sự
sung sướng của cha Bích cũng cam lòng.
Những tiếng ồn ào nạt nộ của mấy người cảnh binh với những người trèo trên cây
dương làm ông cụ quay lại. Thấy Bích ông cụ nhìn quanh một lát rồi đập vào vai
người thanh niên, rẽ đám đông bước ra.
"Bay cũng đi coi sao?"
Ông cụ hỏi, Bích lấy một ngón tay cong lại như cái móc cào cào vào mảng tóc lởm
chởm nhô ra ở vành mũ của cha.
"Cha cũng đi coi đó sao?"
"Nghe nói mày về ở bên kia cầu?"
Bích cười gật đầu. Không lần nào gặp Bích, ông cụ không "nghe nói".
Dường như lỗ tai ông lúc nào cũng hướng về những lời dính dáng đến Bích. Hai
cha con cùng yên lặng hướng về một đứa bé quần áo rách rưới như một đứa bé tản
cư khóc thút thít dưới một gốc dương bị cảnh binh đánh vì trèo lên ngọn cây túm
một con bồ câu trắng. Cả hai cùng chùng một nỗi nao nao vì những câu trao đổi
vu vơ nhưng dễ chịu hơn bao giờ. Lúc này sự bỏ quên của đám đông lại làm Bích dễ
chịu. Bích có thể nghĩ đến người khác không liên quan tới mình với một thanh thản
mơ hồ trong lòng.
Bích lượm một chiếc lông chim bồ câu, xoay tròn giữa hai đầu ngón tay. Cha Bích
hỏi:
"Chi vậy?"
Bích vuốt dọc theo chiếc lông chim đáp:
"Lấy về cho chị của con Hiền bôi thuốc cho mấy đứa nhỏ".
Ngày về của bọn họ
Ngưỡng đi như lẩn vào những gốc cây um tùm. Trên núi, tiếng
những người kiếm củi vọng xuống, nhỏ, lơ lửng giữa thinh không. Qua một vùng đất
quang bóng cây, Ngưỡng ngước nhìn lên rồi lại cắm cúi đi. Hồi mới tới đây, từ
xa, nom ngọn núi thật trần trụi, như chỉ có cỏ phủ trên đất. Ngưỡng đã nghĩ giá
có người đứng trên sườn núi, chắc nom rõ cả từng bước đi, cả từng cái dáng khom
người. Bây giờ, trên núi có người, nhưng phải để ý mới thấy một cái nón, một
bóng người quần áo đen nhỏ bé lẫn lộn với cây cối. Có người đeo giỏ củi đi trên
con đường mòn vòng quanh núi, trông thiếu hẳn bề cao lẫn bề dầy, chỉ còn là một
khối nhỏ di chuyển chầm chậm, câm lặng. Tiếng trao đổi của họ chỉ còn âm thanh
xào xạc, rời rạc, không còn hơi hướng tiếng nói. Trời lạnh, đi lâu dưới bóng
cây, Ngưỡng thấy rùng mình. Hai tay thọc sâu trong túi nhưng bước chân Ngưỡng
có vẻ dồn dập. Buổi sáng gió ít, có nắng, những người trên kia chắc đỡ lạnh
hơn. Ngưỡng nghĩ, giá mình với Diệu có một bãi cỏ trên sườn núi phơi nắng, thật
tuyệt.
Ngưỡng bước lên lối mòn dẫn vòng vèo tới vách đá sừng sững. Vách núi cao ngất
trơ đá màu ngà bị soi mòn, càng cao càng nhô ra ngoài tạo một vùng trống trải ở
dưới chân. Những phiến đá bám vào vách, như những phiến gỗ nứt toang hoác. Diệu
ngồi nhỏ bé trên một đường gờ như đào trên vách núi, hai chân buông thõng trên
những lá thầu dầu tía mọc hoang.
… 1.
Ngưỡng cười chỉ tay lên vách đá trên đầu Diệu. Diệu ngước lên như rồi lắc đầu,
tỏ dấu không nhìn thấy. Ngưỡng bước lên mấy cành gai khô, nhảy lên ngồi bên cạnh
Diệu:
"Trong hốc núi này, đến những kẻ thù ghét nhau nhất cũng biết khôi
hài".
"Chờ anh ở dưới kia mỏi cẳng quá, trèo đại lên đây".
Ngưỡng rút một điếu thuốc châm hút. Diệu cầm bao thuốc, tủm tỉm:
… 2.
Ngưỡng vuốt mái tóc Diệu rồi hít hít mấy cái. Diệu sầm mặt, quay ngó xuống mấy
tấm lá thầu dầu. "Tóc em nhẹ rồi đó. Cũng hết luôn mùi dầu dừa. Làm sao mà
sửa soạn mau vậy?". Ngưỡng hỏi, chợt để ý đến khuôn mặt Diệu. "Nói vậy
cũng giận sao?". Diệu lặng thinh. Ngưỡng thấy Diệu gần gũi mình, đáng yêu
hơn bao giờ. Những lúc Diệu yên lặng, Ngưỡng vẫn thấy Diệu đầm ấm hơn; hợp với
dáng mảnh dẻ của Diệu hơn. Ngưỡng vòng tay ôm vai Diệu kéo ngả lại mình. Vai Diệu
rung như có sự trở mình của một bắp thịt. Những khao khát trong các đêm nằm một
mình, hoang mang vì những tiếng súng gần bên, giảm xuống tới độ Ngưỡng hết còn
mường tượng nổi lại lòng mình các lúc đó. Ngồi bên Diệu, Ngưỡng thương Diệu hơn
thương mình. Đời sống thường ngày đầy lo lắng đã bị trật nhịp.
"Chừng nào anh nghỉ tết?". Diệu hỏi. Đời sống thật đã trật nhịp. Nghe
Diệu, Ngưỡng thấy chuyện về những dự tính lạc thú trở thành những điều không cần
nghĩ đến.
"Hai mươi bốn tháng chạp. Nhưng làm sao mà về?". Ngưỡng nói đến những
khó khăn ngăn trở chuyện về bằng một giọng bình tĩnh chưa có bao giờ.
Diệu gỡ tay Ngưỡng, đặt trở về đùi Ngưỡng: "Em chỉ muốn làm em anh".
"Em học ở đâu kiểu nói đó", Ngưỡng toan nói lại thôi. Nhưng nếu tình
yêu chỉ là những thỏa thuận tốt đẹp về nỗi vụng về, giả dối của nhau thì thật hỏng.
Ngưỡng cười thấy hai má thật lạnh: "Thì anh bao giờ chẳng muốn em làm em
gái của anh. Nhưng trong những đêm nằm ngoài bờ bụi mà mơ mộng được ôm em gái
mà nằm ngủ, kể ra cũng kỳ khôi".
Ngưỡng lại vòng tay đặt lên vai Diệu. Diệu ngả hẳn lưng vào vách đá, kêu nho nhỏ:
"Coi chừng, em té".
"Em té thì gãy cây thầu dầu".
Diệu tựa im vào vách đá, hai tay vòng trước ngực. Những lá thầu dầu dưới chân
có gió, lòa xòa lắc lư. Ngưỡng nói: "Anh về Sài Gòn, em muốn anh mua gì tặng
em?". Ống quần Diệu lật phật đập vào đá. Diệu nhìn hai bàn chân mình, do dự.
"Em không biết thứ gì để mà lựa. Thứ nào em nghĩ được cũng thấy thường hết".
"Để anh lựa giùm cho. Lúc anh ra ngoài này, em cũng thấy bất ngờ".
Ngưỡng mở fermeture áo len, cúi đầu xuống châm một điếu thuốc. Diệu nhìn những
cử động của Ngưỡng, miệng nhổ những sợi tóc vương vào bên mép. Đôi lông mi của
Ngưỡng dầy đậm, Diệu thấy phần đuôi ở trước mặt mình xếch ngược. Diệu khó hiểu
được một người có tướng dữ như Ngưỡng lúc nào cũng bận tâm về chuyện chạy trốn.
Diệu chợt cau mày nghe ngóng như Diệu chỉ mơ hồ tưởng có tiếng người xào xạc từ
trên cao vọng xuống. Diệu men theo vách đá, bước xuống. Ngưỡng muốn giữ lại
nhưng sợ Diệu ngã. "Đã về rồi sao?". Ngưỡng nhảy xuống những cành gai
khô, chặn Diệu, hỏi: "Ngồi mỏi quá sức", Diệu nói. Tiếng gai gãy ròn
dưới chân Diệu. Ngưỡng toan nhấc bổng Diệu lên song lại lấy chân giẫm bẹp những
cành gai lấy lối cho Diệu bước. "Từ giờ tới tết, tới hôm anh về anh muốn gặp
lại Diệu lần nữa ở đây". "Ở đây hãi lắm". Hai người xuống con đường
mòn. "Ở chỗ khác vậy." "Vậy cũng đủ rồi. Tết ra, gặp lại. Gặp
hoài coi dị lắm." "Mấy lần rồi mà gặp hoài?"
Ngưỡng nghe như mình nói uể oải. Diệu yên lặng, Ngưỡng cũng không muốn nói gì
thêm. Lần nào cũng vậy, trước khi chia tay, Ngưỡng tự nhiên nản một cách lạ
lùng. Trước lúc đến đây, trước khi thấy Diệu ở nơi hò hẹn, Ngưỡng vẫn bị ám ảnh
bởi những điều ở ngoài Diệu và trước khi rời Diệu, những ám ảnh đó lại lấp ló
hiện ra khiến Ngưỡng thấy những phút bên Diệu như một cách tìm sự lãng quên.
Ngưỡng đã định ôm Diệu hôn trên đống cây gai như nhớ lại Diệu, có lúc - dù
trong khoảnh khắc trật nhịp của đời sống - đã làm mình thương một người không
phải mình. Ngưỡng dành cho việc từ bỏ ý muốn đó như một đền đáp khiêm tốn với
Diệu.
Hai người rẽ sang trái hai con đường khác nhau lúc qua ngôi mộ đá tổ ong có nhiều
hốc tối dành cho rắn và bò cạp. Ngưỡng không thấy tiếc, thấy ngùi ngùi cho mình
và Diệu. Diệu cũng cần, cũng khao khát một chỗ bình yên, cũng cần được săn sóc.
Ngưỡng qua những ruộng mía, đi chậm lại. Cả một rừng bông mía vươn cao, trắng
ngát. Ngưỡng ngắm các ruộng mía như một chủ ruộng đi thăm đồng. Nghe tiếng lá
khô loạt xoạt cọ vào nhau liên hồi, Ngưỡng vững lòng. Nếu có người bò trong đám
mía, có vấp ngã, những tiếng loạt xoạt cũng át đi, khỏi sợ lộ. Ông thầy ngày
xưa lúc rảnh đi ra đồng thăm đất, tìm long mạch khai thác cái chết gây lợi cho
con cháu, ông thầy bao giờ ra đồng, tìm một chỗ ẩn trốn cái chết. Hiện tại đã
gây những tuyệt vọng ở ngay nỗi sống, nói chi đến cái chết với một thế giới
khác bình yên. Người ta hủy hoại tiêu diệt nhau ngay lúc tưởng cần cùng nhau
góp sức, nói chi đến một thương mến con cháu sau này. Mọi hướng về tương lai, mọi
hứa hẹn một thiên đàng sắp có chỉ là một hình thức hợp lý hóa việc tung một
trái lựu đạn vào đám đông, việc đâm ngập lưỡi dao vào gáy kẻ khác.
Ngưỡng trở về nhà trọ, thấy vợ chồng ông cụ già đã lịch kịch ở dưới bếp. Phan
cuốn mền đọc tờ báo của Ty. Huỳnh ngồi phơi nắng ở giàn cây đầu nhà mạng lại
manh áo sơ mi.
"Ăn thua chi không?" Huỳnh hỏi.
"Ăn uống mẹ gì. Lần nào cũng hỏi".
"Người ta hỏi để nếu có gì người ta mừng cho mà cũng khó tính". Huỳnh
cười hềnh hệch. Trong đầu Huỳnh dường như từ trước tới giờ Ngưỡng vẫn đang cố gắng
chiếm đoạt Diệu. Hắn muốn được theo dõi. Ngưỡng úp mở: "Thì cũng phải từ từ,
dễ gì mỗi lúc làm hư được con cái nhà người ta". Huỳnh nhìn Ngưỡng như
toan hỏi han. Ngưỡng bỏ vào nhà. "Như vậy là đủ để cậu có chút hấp dẫn mà
sống rồi. Đừng tò mò nữa."
Ngưỡng rót một ly trà nóng, nhúng cả đôi môi nứt nẻ vào mặt nước rồi đặt ly,
thè lưỡi liếm từng giọt nước có vị chát chát, ngọt ngọt. Phan đặt tờ báo xuống
chiếu, hỏi Ngưỡng: "Mấy giờ rồi anh Ngưỡng?" "Đồng hồ tôi hư rồi".
Phan nhỏm dậy, gấp mền. Hắn vận một tấm áo len không tay nom như gấm gilet nẹp
lấy người, ngắn cũn cỡn. Bàn tay hắn vuốt mấy lượt tấm mền đã gấp trước khi mở
cái rương sắt, bỏ vào. "Bữa nay mới có thì giờ đọc hết tờ báo. Nhiều bài
khá lắm, anh Ngưỡng" - Phan nói. Ngưỡng nhớ tờ báo đó có một bài thơ của
Phan ca tụng vùng này "…Nơi đây trái ngọt cây lành." Ngưỡng hỏi:
"Anh đã được thêm tin gì chưa?". Ngưỡng hỏi không rõ ràng nhưng Phan
hiểu Ngưỡng muốn nói gì. Lúc này chẳng còn chuyện gì khác chuyện ấy.
"Không. Từ sáng tới giờ, tôi không ra khỏi nhà một bước." "Nếu họ
xuống đã ồn lên rồi. Nhưng chắc rồi thế nào họ cũng xuống nay mai" - Ngưỡng
chắc chắn. Phan cười nhợt nhạt: "Chẳng có gì bảo đảm cả. Không khéo mình
ăn tết ở đây mất thôi." "Càng vui. Tôi chưa hề ăn một cái tết ở xa
nhà bao giờ." "Bàn tán chi cho mất công, thêm lo. Chỉ bây giờ tuần
sau, ai ở nhà người nấy rồi" - Tiếng Huỳnh vọng vào và cười to. Phan hết
băn khoăn: "Tôi e ba mươi tết mình vẫn còn ở đây đó chứ."
Bà cụ già từ dưới bếp lên, lôi ở gầm giường ra một khúc gỗ lớn có khoét ba cái
lỗ dùng làm cối giã trầu. Bà cụ lần lượt móc lá trầu, cau tươi… để mỗi thứ một
lỗ. Phan bảo bà cụ: "Bác để tôi đâm cho, bác xuống sửa soạn cho chúng tôi
ăn đi". "Sắp xong rồi. Thầy mặc tôi". "Lâu lâu mới giúp bác
một lần. Kính lão đắc thọ". Phan cúi xuống giữ lấy cái chầy đầu bịt sắt.
Bà cụ vẫn có vẻ ngần ngại, tay chưa chịu buông cái chày. Ngưỡng xen vào:
"Thì bác cứ để anh ấy giã giùm". Bà cụ buông tay ra, đứng lên, áy
náy. Đường giao thông còn như trước kia, chắc có ngày Diệu được vào Sài Gòn làm
tóc. Chỉ một đêm ngủ gà ngủ gật trên xe lửa.
Cơm dọn trên cái bàn tròn, mặt ẩm. Huỳnh lững thững vào ngồi sau cùng. Hắn nhìn
mâm cơm nhăn mặt. Vẫn đĩa trứng thường xuyên, vẫn hai bát rau muống chẻ, một
khúc cá và ba tô canh bầu hạt tổ bự. Phan bảo ông cụ: "Gần tết, bác nên
cho thay đổi món ăn một chút". Ông cụ cười ừ ào như mọi bận. Bà cụ vừa
nhai trầu, vừa nói: "Tháng này đã thay món cá biển bằng cá trầu rồi đó. Tới
cuối tháng, mấy thầy "kiểm thảo", tôi sẽ thay đổi thêm". Ngưỡng
nhớ tới buổi họp trong trường: "Kiểm thảo, kiểm tục chi cho mất công. Có
trái ớt nào, bác cho một trái để át bớt mùi cá tanh?" Huỳnh ăn ngốn ngấu.
Hắn vẫn có thói quen ăn một cách hăm hở để tự đánh lừa. Những hôm học trò mới về
nhà ăn giỗ, hắn vui như trẻ con. Trước kia thỉnh thoảng còn về thị xã, mỗi lần
ra, hắn mua cả một cái giò lụa, cả sáu bảy ký lạp xưởng rồi bắt cả ba phải chịu
tiền. Phan khó chịu, kêu hắn "tự tiện", hắn mặc.
Cơm xong, Phan thay áo, ra khỏi nhà đi thăm hiệu trưởng. Huỳnh bỏm bẻm nhai trầu
nói tiếu lâm với Ngưỡng. Ngưỡng bảo: "Có lẽ từ nay không nên đánh bài với
bọn dân vệ nữa. Tụi nó cay cú". "Không chơi, tụi nó lại kêu kém thân
thiện". "Đấy chỉ là một cái cớ của mình". Huỳnh suy nghĩ, trầm
giọng: "Hết năm nay có lẽ Phan được về gần Ty". "Ai nói vậy?"
"Hiệu trưởng". "Hiệu trưởng nói thì đáng tin lắm". "Hết
niên học này, tám năm mình sống ở miền núi của ba tỉnh. Mỗi lần hoán chuyển
sang tỉnh khác, mình lại lầm thêm một lần. Năm nay, cóc cần xin đi đâu nữa".
Ngưỡng khôi hài: "Giọng nói bắt chước lơ lớ giọng địa phương, mớ tóc che
tai của cậu khiến người ta lầm cậu thích hợp với đời sống rừng núi, than thở
chi, mất công". Huỳnh sững mắt, giận: "Mình mà thèm thở than, cậu đừng
có giỡn". Huỳnh vẫn kỵ những lời phán đoán mình đang ở trong cảnh khổ. Hắn
giận cấp trên nhưng lại cho hoàn cảnh hiện tại do mình tự do định đoạt.
"Mình không chịu, chỉ có Việt Công mới bắt bí được mình". Hắn giận
Ngưỡng kêu hắn than van. Nhưng ngay cả dáng điệu hắn cũng luôn luôn là sự than
thở.
Từ tảng đá ở bên giếng nước nhà trường. Ngưỡng có thể nhìn qua cánh đồng dưới
chân đồi thấy vùng An Bình ở xa xa. Chỉ năm cây số đường chim bay nhưng chuyện
về An Bình có khi đã thành mộng ước của Huỳnh. Ngưỡng vừa tới thị xã đã bị đưa
lên đây ngay nên thị xã không là một hình ảnh để Ngưỡng khao khát quá như Huỳnh.
Cách đây một năm, theo lời Huỳnh, đường từ đây về thị xã đi lại thật dễ dàng.
Những ngày nghỉ, chỉ việc đứng đợi một chuyến xe từ quận chạy qua chân đồi, một
giờ sau đã có mặt ở đại lộ thị xã. Bây giờ, khúc đường từ đây về An Bình đã
hoàn toàn bị đứt. Những người dạy ở An Bình tuy cách xa thị xã cả ba bốn chục
cây số, tuy rất dễ gặp một ổ phục kích, một trận đánh, một trái mìn giữa đường
nhưng đường về thị xã vẫn còn có thể đi lại được. Ở đây thì hoàn toàn cô lập. Hồi
đường từ đây về An Bình bị cắt ít lâu, có người vùng này qua đó đã thấy có những
căn nhà của Việt Cộng dựng vào chân núi, đã thấy những con heo từ các căn nhà
đó ra đường đầm mình trong những vũng đất. Huỳnh, sau mỗi buổi học, ra giếng rửa
tay, thường đứng trên mỏm đá tần ngần nhìn về phía An Bình. Hắn theo Thiên Chúa
giáo, trông tháp chuông nhà thờ An Bình nhô cao trên nền trời vùng biển, hắn
nói An Bình dù sao cũng còn điều ấm cúng. Bây giờ về mùa đông, bầu trời xám và
thấp, tháp nhà thờ thường mờ mờ sau những buổi chiều tan học. Huỳnh kêu đó là
vùng dĩ vãng của hắn. Hắn muốn được một Chủ nhật về ở đó, đứng ở bực tam cấp
nghe lễ và sưởi nắng. Sau đó, lên xe về thị xã rủ một đứa em đi thọc bi da.
Ngưỡng hiểu Huỳnh, thấy hắn thật tội nghiệp. Hắn khao khát về bao nhiêu, lúc ra
tới đây hắn mừng rỡ chừng nấy. Hè vừa rồi, hắn đã ra sau ngày khai giảng một
tháng rưỡi vì không đi được. Lúc đầu, gặp những người bạn trong thị xã, hắn cười
trước vẻ ngạc nhiên khi thấy hắn vẫn dong chơi trên đại lộ như một người an
nhàn nhất: "Dạy xa là thế đó. Mỗi năm trung bình đến lớp ba tháng".
Nhưng sau nhiều ngày xách "sắc" ra ngồi ở một quán nước xiêu vẹo,
ngong ngóng trông vào sân bay quân sự chờ một chuyến máy bay bất ngờ, hắn bắt đầu
sốt ruột. Ngày lại ngày, hắn trèo lên xích lô đi rồi lại trèo lên xích lô về.
Trong quán cơm, bên câu chuyện của các đồng nghiệp, hắn lạc lõng với bộ mặt phờ
phạc vì chờ đợi. Chờ đợi trở lên miền mỗi bữa cơm có một đĩa trứng tráng và đêm
đêm nằm ngoài ruộng trông sao. Ba mươi buổi chầu chực ở cổng sân bay, sáu mươi
lần trèo xuống xích lô đã động tâm Ty. Bây giờ hắn khỏi phải lên phi trường,
sáng sáng xách "sắc" lên Ty, ngồi trên hiên chờ máy bay. Hắn lựa chỗ
cuối hành lang có những cây huỳnh anh dựa vào cột hoa ngủ gà ngủ gật. Bên tai hắn,
mơ màng tiếng gõ máy chữ, tiếng "sạch sạch" của máy quay ronéo, tiếng
giầy sẽ sàng trên đá hoa và những tiếng ho trong lòng bàn tay. Cuối cùng, hắn
theo một đoàn "công voa" chở thực phẩm ra ngoài quận. Hắn luống cuống
trước cái tin bất ngờ đó nhưng còn cố chạy đi mua ba ký lạp xưởng cỡ lớn. Lúc
ra tới nơi hắn lôi trong "sắc" của hắn ra sau cây thuốc Quân tiếp vụ,
một chai xá xị đựng xăng, một ống đá lửa, một tấm khăn để chít đầu trong lúc
chui ra ngoài ruộng, mấy chai thuốc đỏ và vài ống pommade xức các vết xướt, một
chai cồn chín mươi độ để nặn khi sai khớp xương.
Bây giờ, Huỳnh đã quên hết nỗi vất vả, những ngày chầu chực của hắn. Trên tảng
đá nhìn xuống vùng An Bình, tấm thân phục phịch của hắn chơ vơ trong những buổi
chiều tan học mùa đông trông vừa hài hước, vừa bi thảm. Ngưỡng hỏi hắn:
"Đã quên ngày ngồi ngủ gật ở Ty rồi sao?" Hắn ngớ ra một lúc, đưa mu
bàn tay cọ cọ vào hàm râu nham nhở: "Không hẳn quên cũng không hẳn nhớ.
Mình nhớ mình đã vất vả về chuyện chờ đợi nhưng hết còn mường tượng nổi tình cảm
của mình lúc đó. Mọi tình cảm nơi mình lúc này đều dồn vào chuyện về. Sau ngày
hai mươi lăm tháng Chạp, còn ở đây, coi như hết hy vọng. Cậu cứ tưởng tượng,
đêm giao thừa nằm ở đây mà nhớ nhà…" Nghe Huỳnh, Ngưỡng không còn thấy một
chút bình tĩnh, vững chãi ở người đàn ông ba mươi mấy tuổi này nữa. Trong giây
lát Ngưỡng thấy mình già đi nhiều. Ngưỡng bảo hắn: "Trẻ như tụi này có lẽ
đỡ khổ hơn mấy cậu. Phan và cậu, nguyên việc xa vợ xa con cũng đủ thấy oán vùng
núi non này rồi. Nhưng cậu cứ yên tâm. Thế nào chẳng có mấy chiếc trực thăng chở
đồ ăn tết ra cho quận". "Cậu nói như thật. Tháng trước nó vừa tải thực
phẩm ra dùng trong tháng, có điên nó mới ra nữa" - Huỳnh nhăn nhó. Thấy
Ngưỡng cũng ngẩn mặt, hắn vội nói: "Tuy nhiên mình chắc đám biệt kích núi
không chịu ngồi yên từ giờ đến tết đâu. Thể nào họ cũng xuống núi, về thị xã
khuân thực phẩm lên".
Ngưỡng lắc đầu. Chỉ có Huỳnh mới tự an ủi được hắn. Nếu có giấc ngủ làm hắn
sung sướng chắc là giấc ngủ mơ thấy những người lính quàng khăn đỏ ở cổ họng
súng gờm gờm chĩa vào các bụi cây. Nhưng có đêm nào hắn ngủ được trọn giấc. Giấc
mộng của hắn nếu có cũng dở dang. Cách đây mấy hôm, thằng học trò trưởng lớp
Ngưỡng ra đi, Huỳnh lại càng vất vả. Hắn nghiễm nhiên phải thay thế thằng bé,
làm kẻ dẫn đường lẩn trốn trong đêm. Ngưỡng thấy nhớ buổi chiều hôm ấy, nhớ thằng
bé lạ lùng.
Những cây phượng cao hơn tầm tay trụi hết lá, cành cong đầy mắt, trông những
cái đuôi khô nhô đốt xương. Bụi tre xơ vàng óng cuối dãy trường vật vờ phần ngọn
loáng thoáng ánh nắng. Thằng học trò trưởng lớp vẫn co ro trước cửa văn phòng
hiệu trưởng đợi Ngưỡng. Đầu nó chùm hụp một cái mũ nhà binh đã cũ. Ngưỡng không
hiểu nó thiếu khôn ngoan hơn mình hay bạo dạn hơn. Ngưỡng không bao giờ vứt cái
vỏ Quân tiếp vụ ở trường như trước kia vẫn vứt những vỏ Ruby. Chắc thằng bé lại
muốn xin thôi học. Buổi nào Ngưỡng cũng vỗ về chúng như một thông lệ cầu nguyện:
"Các em cứ gắng đi học, cuối năm thầy cho đậu hết". Nhưng sổ điểm
danh ngày nào cũng chạy dọc một cột dấu chữ thập. Có đứa vừa ra khỏi lớp học vừa
mếu máo, luẩn quẩn bên cửa sổ nhìn vào cả buổi, có đứa Ngưỡng nghe tin bị bắt
lên núi cả tháng mới thấy người nhà đến xin lại hồ sơ, có đứa nghỉ hôm trước,
hôm sau gửi cho thầy một lá thư đầy lỗi chính tả hẹn ngày "giải
phóng" cho thầy. Ngưỡng thay vì soạn bài đã lục trí nhớ chép lại những bản
nhạc của Phạm Duy đem dạy học trò. "Ngày trở về có anh thương binh chống nạng
cày bừa…"; "Từ ngày chinh chiến mùa thu…"; "Tôi yêu tiếng
nước tôi từ khi mới ra đời…". Lúc này, chỉ còn Phạm Duy mới dạy được chúng
nó. Nhưng chỉ dạy một bài ca, một câu nói về Phạm Duy, những đứa trẻ lại thấy
mình tách khỏi khối Việt Nam thảm họa, thấy mình một mình lo lắng trên đường về,
một mình thao thức chờ tiếng trống tựu để biết đã qua đêm. Không còn ai để cất
lời than chung với nó, chỉ có từng người hoang mang lẫn trốn.
Những lúc dự đoán đời sống đám học trò Ngưỡng thường đột ngột nhớ tới Sài Gòn.
Nhớ tới nhà hàng Quốc Tế chỉ vài hôm đã tẩy xóa hết vết tích do những trái nổ rạng
ngày 1/11/1963. Mười năm, hai mươi năm sau, những đứa còn sót lại liệu có được
mặc quần áo mới để hát nhạc Phạm Duy hay lại thành những gã cày ruộng đầy những
hoảng hốt, cắm đầu lội trên những luống cày nghêu ngao những bản nhạc của lớp học
xưa, giọng buồn như một giọng Hời mất nước. Tết này ở đâu cũng vậy thôi. Ngưỡng
thấy mình như tự lừa gạt trong tâm trạng chờ đợi ngày về.
"Thưa thầy, thưa thầy…" Thằng trưởng lớp ấp úng. Ngưỡng thấy tội nghiệp
thằng bé. Thằng bé đêm nào cũng ra ngoài bãi mía trốn với bọn Ngưỡng, lủi nhanh
như con sóc. Huỳnh không mấy ưa nó, thấy nó quá sợ thầy. "Những hiệu trưởng
trước kia đều là những thằng trưởng lớp như mày", có lần Huỳnh đã bảo nó.
Ngưỡng thấy thật khó xử mỗi khi bất đắc dĩ phải gọi thằng bé nằm bò bên mình cả
đêm hôm trước đọc bài. Ngưỡng thấy nó là một người bạn xoay xở lanh lẹn trước
những trường hợp nguy hiểm của mình hơn là một đứa học trò. Trong bóng tối,
nhoài người trong ruộng mía mênh mông, không bao giờ nó nhầm phương hướng. Nó
thuộc từ cái bờ có thể nấp lánh đạn, từ cái giếng khô trong bãi. Nhiều bữa nó
xin phép Ngưỡng cho nghỉ học để mò mẫm tới những gò đống bọn Ngưỡng ẩn trốn, bắt
rắn và bò cạp, dọn chỗ cho thầy.
"Thưa thầy, em muốn xin rút lại hồ sơ." "Hồi nãy, ở trong lớp
sao không nói?" - Ngưỡng hỏi. Thằng bé cười gượng: "Em sợ tụi nó ngạo
em. Em muốn xin thôi học, lấy lại hồ sơ để… đi biệt kích". "Đi biệt
kích?" - Ngưỡng lạ lùng: "Nhỏ như em làm sao đi lính?" Thằng bé
tự tin: "Em đã hỏi cẩn thận rồi. Cứ lên gặp họ, nói không có chỗ trốn Việt
Cộng, họ nhận liền". "Sớm mai em nói lại với ông hiệu trưởng".
Hai thầy trò ra khỏi cổng trường. Gió dưới đồng thổi lên hun hút. Mấy luống
lang ở khu học đường viên vừa được tưới nước, ẩm ướt lạnh lẽo.
"Tối nay em đến thầy". Thằng bé nói, nhảy lên sau chiếc xe đạp của một
đứa bạn đứng chờ bên hàng rào. Chiếc xe lao xuống con đường dốc. Chiếc mũ nhà
binh như trôi trên thác nước rồi khuất hẳn. Ngưỡng lững thững về nhà. Những chiếc
lều chợ xiêu vẹo trống trải. Con đường hai bên thoai thoải như lòng sông cạn đầy
phân trâu phân ngựa. Đẩy cửa vào, Ngưỡng nghe tiếng Huỳnh nóng nảy, chua chát:
"Đã ở cảnh khổ này, không thương nhau, ít ra cũng phải biết điều với nhau
một chút". Huỳnh hậm hực nhổ toẹt miếng trầu lúng búng trong miệng. Phan mỉm
cười đứng dậy gài lại chốt cửa. Ngọn lửa trên bàn chập chờn, chập chờn. Người
Phan trông dóc hẳn đi. Hai gò má đậm, bóng tối, lõm sâu. "Mỗi người có lý
của mình. Làm hiệu trưởng mà để giáo viên muốn dạy, muốn nghỉ ngày nào cũng được,
khi Ty quở trách ai gánh chịu đỡ cho đây. Mình phải đặt mình vào địa vị người
ta mình mới thấy được sự công bình". Tiếng Phan yếu ớt như một hơi thở dốc
nhưng luận điệu vững vàng. Huỳnh có nóng nảy cũng không nỡ cắt đứt, át đi tiếng
nói của Phan song yên lặng nghe, thấy Phan mỗi lúc nói một đậm như thể chính
Phan là hiệu trưởng và Huỳnh càng dồn cơn giận mỗi lúc một bừng cao. Huỳnh chờ
Phan dứt hẳn mới nói: "Tôi không đả kích hiệu trưởng như đả kích chức vị của
anh ta, anh đừng nói rộng ra để buộc lỗi tôi. Sự thực, tôi chỉ muốn nói riêng đến
một chuyện đó. Chỉ một chuyện đó thôi. Nếu lính họ đi qua, không về với họ,
đành chờ thanh bình mới về ăn tết sao". "Thì một chuyện đó chớ sao.
Trong bất cứ chuyện nhỏ nhặt, riêng rẽ nào khác, người ta cũng chỉ có một thái
độ. Thái độ của một người có tinh thần trách nhiệm". Huỳnh có vẻ bí, tay
vung lên biểu lộ nỗi ấm ức. Ngưỡng nói: "Hai anh cứ còn có những cuộc
tranh luận thế này, tự động sẽ có anh biến thành cấp trên, một anh thành kẻ phản
kháng, trong lúc cả hai anh đều là những người dưới quyền hiệu trưởng, mong về
với vợ con". "Lẽ phải nhiều khi tách rời những người cùng cảnh ngộ".
Phan thản nhiên. Ngưỡng cười nhạt: "Nhưng nhiều khi lẽ phải cũng là thứ ngụy
trang có thể lợi dụng để dành ưu thế cho mình". Huỳnh trong khi bị hậm hực
mỗi khi cãi nhau với Phan nhưng thấy Ngưỡng gay go, Huỳnh lớn tiếng: "Các
ông làm như thể sắp được về đến nơi, nói hoài về chuyện đó chi cho tốn nước bọt.
Hiệu trưởng có mở rộng cửa trường cho các ông về ngay ngày mai, các ông cũng
đành nước nằm khoèo mà đợi".
Ngưỡng rót một ly nước, Phan bỏ lên giường nằm. Ngưỡng nghĩ tới cái lỗ khoét dưới
chân vách áp giường Phan. Đã bao nhiêu lần cả ba chui qua cái lỗ đó, sao vẫn
khinh nhau. Hắn tham sống và vin mù quáng vào những hình thức mang danh sự ổn định?
Nhưng còn Ngưỡng? Có lần nào hắn chui qua lỗ đó mà thiếu Ngưỡng đâu? Hay tại sự
hèn nhát ghê tởm của hắn trong dĩ vãng và "lẽ phải" của hắn trong hiện
tại. Tới đây, Ngưỡng hết đường trả lời và thắc mắc, Ngưỡng hình dung cảnh Phan
hoảng hốt chỉ vào bụi rậm trong lúc đám dân bị bắt cùng với hắn đứng chết cứng.
Một khẩu tiểu liên hết đạn giơ lên khỏi bụi cây. Những tràng đạn hung nộ xả
vào. Những ngọn cây gẫy gục. Một bàn chân giầy da cao cổ lòi ra. Trở về hắn bị
bắt và được tôn giáo mở cửa ngục, dẫn về cho đi dạy học lại. Ngưỡng chắc
"lẽ phải" của hắn đã có ngay từ khi lọt lòng mẹ, như nỗi hèn nhát và
tội lỗi của hắn. Ngưỡng không nghĩ mình khá hơn hắn nhưng nếu đám dân còn im lặng,
chắc chắn Ngưỡng không phải là kẻ tình nguyện. Ngưỡng châm một điếu thuốc thấy
ngọt miệng lạ thường. "Thằng trưởng lớp lớp tôi nó đi biệt kích cậu ạ"
- Ngưỡng nói. Huỳnh cười buồn: "Càng may cho nó. Sau này nó đỡ phải làm hiệu
trưởng". "Sau này là bao giờ?" "Sau này là sau này".
"Ừ, sau này… Cậu quả đã có thói quen chờ đợi" - Tiếng Huỳnh cười lớn
rồi kìm ngay lại. "Tết về Sài Gòn cậu định làm gì?" "Hơi khó nói
đấy nhé. Phải nghĩ lại coi. Có lẽ rút bất… ờ… ờ".
Chiếc phi cơ dời phi trường. Những ngọn núi sụt chiều cao. Ghế da trong những rạp
có máy lạnh. Cả vùng ruộng bờ biển khô cháy. Những vũng nước thu nhỏ, xanh mắt
mèo. Vẻ đẹp đánh lừa người trên cao. Những luống nước đục đất thó trải thành từng
giải trên mặt biển. Mây phẳng như một biển bông gọi chuyện Tề Thiên, Trư Bát Giới.
Những chiếc thuyền như gấp bằng bìa xoay vần dưới kia đã mất hút. Những đốm lửa
đỏ quạch đốt tha rải rác trên các sườn núi. Đèn trong phi cơ bật sáng. Ngưỡng đột
nhiên thấy dưới kia nhòa hết, chỉ còn mình nhìn bóng mình mỗi lúc mỗi nổi bên cửa
mi ca. Núi non và biển cả đều là vực thẳm mênh mông bóng tối. Một vài đô thị xa
vời dấu vết là mấy chuỗi đèn li ti. Sài Gòn đột ngột hiện ra như một ánh sáng bất
ngờ. Ngưỡng xuống những sườn đồi sao sa. Bến xe buýt phi trường vắng không. Lối
ra chắn ngang cây gỗ cản. Snack bar, con gái, Mỹ, phu xích lô. Tắc xi đòi giá gấp
đôi. Những ngả đường ngoại ô có cảnh binh xét giấy quân dịch. "Tôi ở ngoài
Trung dạy học, máy bay về tối". Những giáo khu cổng kín, những ngôi chùa
trong lòng… 3
… dần, nhỏ dần rồi biến thành một biển mây hồng mây trắng dưới cánh máy bay.
Buổi chiều, Ngưỡng thảo đơn xin hiệu trưởng nghỉ dạy một buổi, lên quận. Ngưỡng
gặp người thiếu úy phụ tá. Anh ta nói mai Diệu sẽ được về, không có chi đáng ngại.
Ngưỡng chào anh ta, về. Ngưỡng gặp một chiếc xe jeep chạy về quận, chở một con
nai bị bắn chết và ít người dân vệ vừa hát vừa reo. Không hiểu Diệu ăn gì trong
thời gian bị giữ. Chắc chắn là không có thịt. Những người trong quận nếu một
tháng đôi lần không săn được nai, có lẽ cũng không bao giờ được ăn thịt.
Về tới nhà, Ngưỡng thấy Huỳnh đã về, vừa huýt sao vừa lau chiếc bàn giữa nhà.
"Phan đâu cậu?" "Ăn giỗ ở nhà hiệu trưởng". Ngưỡng cười:
"Cậu được mời?" "Sao lại không. Cậu cũng được mời song mình đại
diện từ chối. Ăn giỗ, nói chuyện người chết và công văn, chỉ thị, nuốt sao
vô?" "Chuyện cô Diệu sao?" "Mai về. Biết vậy thôi".
"Có nghe tin tức gì không?" Huỳnh vứt cái khăn xuống chậu nước, ngâm
một ngụm rượu, bắt chước ông già chủ nhà, phun xuống mặt bàn. Những con ruồi vừa
đáp xuống bay ùa lên. "Sẽ dành cho cậu một bất ngờ" - Huỳnh nói. Thấy
Huỳnh vui, chịu khó lau bàn, Ngưỡng đoán Huỳnh vừa kiếm được một món nhậu.
"Nhậu phải không?" Huỳnh hít hít mấy cái. "Cậu thính mũi thật.
Gan nai xào có khác". Ngưỡng chắc Huỳnh đã khéo léo điều đình ngầm với mấy
người dân vệ lúc họ săn nai mang về quận. Thấy Ngưỡng không lộ vẻ mừng, Huỳnh bảo:
"Thịt gan đều tươi mà mình lại chỉ dẫn cho bà cụ cách xào nấu, chắc không
đến nỗi dở." "Cậu từ chối ăn giỗ hợp lúc lắm".
Lúc mâm thức ăn bưng lên trời chạng vạng tối. Khi hai cánh cửa đóng lại, tiếng
gió như trở nên lớn hơn. Huỳnh lấy một xị rượu, rót đầy ba chén, bảo ông già và
Ngưỡng:
"Tối nay phải say một chuyến, rồi ngủ ở nhà, mặc súng đạn trời đất. Chiều
nay nhớ nhà quá, chịu hết nổi rồi".
Ngưỡng nghe tin Diệu về, chưa kịp gặp, lại nghe nói Diệu bệnh.
Ngưỡng xin Huỳnh ba viên tifomycine gửi cho Diệu. Những ngày cuối năm qua mau.
Ngưỡng không dám nghĩ đến chuyện chờ đợi nữa. "Em chỉ muốn là em gái
anh". Có lẽ đó là cách gỡ khó cho cả hai trước khi mỗi người trở về đời sống
riêng lẻ của mình. Nếu Ngưỡng thấy mình chẳng thể bao bọc được một người vợ như
Diệu, Ngưỡng cũng không thể đóng vai người anh thầm vụng nhớ thương em gái. Diệu
cũng như những chữ bằng vôi nguệch ngoạc trên vách đá, đành coi như những kỷ niệm
ở ngay hiện tại. Nhưng đời sống Ngưỡng vẫn còn bám lấy miền núi này như một
loài cây leo bám vào các khe đá, liệu bao giờ chuyện xa cách Diệu thoát khỏi được
vòng dự tính để thành sự thật.
Bên Ngưỡng, Huỳnh mỗi ngày một tỏ ra nóng nảy, sốt ruột. Phan cũng sốt ruột
nhưng trước vẻ ồn ào, bực bội của Huỳnh, Phan chỉ còn biết yên lặng băn khoăn.
Có bữa Huỳnh đã toan làm lớn chuyện với viên hiệu trưởng địa phương vì câu nói:
"Ông Ty đã thỉnh ý ông Tỉnh về việc di chuyển của giáo chức ở các trường hạng
C và ông Tỉnh có lời khuyên giáo chức nếu không nhằm ra nhiệm sở được đúng
ngày, không nên về trong các dịp lễ. Tết, các anh giáo về, có gì xảy ra, tôi
hoàn toàn không chịu trách nhiệm". "Tôi đã ba mươi mấy tuổi đầu lại cần
anh chịu trách nhiệm về chuyện tôi về ngủ với vợ tôi sao?" - Huỳnh đã hét
lớn.
Một buổi sáng, Ngưỡng đang dạy học, chợt Huỳnh chạy sang, hân hoan bảo Ngưỡng:
"Về, về đến nơi rồi. Sửa soạn mau lên mới kịp". Ngưỡng còn đang ngơ
ngác, Huỳnh vội chỉ ra ngoài cổng trường và văn phòng hiệu trưởng: "Thấy
chưa? Về đến nơi rồi, về đến nơi rồi. Sửa soạn đi là vừa". Huỳnh nói xong
hối hả quay về lớp. Những người đến văn phòng xin cho con về đứng quây lấy hiệu
trưởng người nào cũng nhớn nhác. Có nhiều người chạy thẳng lên các lớp học. Bọn
trẻ nhốn nháo ngó ra.
"Xin thầy cho chúng tôi về. Đánh lớn tới nơi…" Mấy người đàn ông vây
lấy Ngưỡng, vừa nói vừa ngó vào lớp ra hiệu cho con. Ngưỡng lắng nghe, không hề
có một tiếng súng. Nhưng kinh nghiệm đã cho Ngưỡng biết, dân chúng đánh hơi trận
chiến rất nhanh. Ngưỡng phân vân chờ hiệu trưởng quyết định thì nhiều câu nói
khác đã ồn ồn nổi lên: "Biệt kích đã xuống tới Phú Hiển rồi". 4
Bọn trẻ không cần chờ thầy ra lệnh, nhốn nháo thu sách vở, ùa ra hiên lấy nón
mũ chấp chới chực chạy về. Lớp Huỳnh học trò về trước tiên. Huỳnh sang bảo Ngưỡng:
"Cho về là phải. Tình hình này có vẻ gay lắm đấy". Ngưỡng nhìn Huỳnh.
Hắn chỉ còn thiếu nước ôm Ngưỡng nâng bổng lên.
Trưa hôm đó đánh lớn ở Phú Mỹ. Lúc nghe những tiếng súng rung chuyển bàn ghế
trong nhà, ba người đã sửa soạn xong. Nhưng trái với thông lệ, sau trận đánh,
biệt kích lại trở về núi. Huỳnh nghe ngóng suốt một buổi chiều. Khi biết chắc
biệt kích không về thị xã, hắn lại uống rượu kèm theo câu nói: "Phải uống
say một chuyến rồi ngủ đại ở nhà, mặc tuốt". Vợ chồng ông cụ già đã bắt đầu
cạo khoai lang, xắt từng khoanh ngâm nước sửa soạn làm rim. Các quán chợ ngoài
đường bày thêm ít áo mới con nít và dọn hàng về muộn hơn trước. Người ta lập lại
chuyện mùa xuân có đoàn du kích trên núi kéo xuống ruộng, gác súng, đá banh với
nghĩa quân, hy vọng được vài đêm ngủ yên trong nhà không nghe tiếng súng. Bà cụ
già bảo bọn Ngưỡng: "Tết ở đây cũng vui. Mấy thầy uống rượu nếp, đánh xóc
đĩa rồi đi coi chọi gà…" Huỳnh cắt ngang: "Bác nói, tụi tôi càng sốt
ruột".
Những lúc gần sáng từ ngoài ruộng mò về, nhiều khi Huỳnh và Phan thức nói chuyện
tới lúc đi dạy. Ngưỡng về tới nhà, thấy ấm hẳn lại, để nguyên quần áo rúc vào
ngủ một mạch. Ngưỡng vẫn hay mơ thấy Diệu, thấy máy bay và chiếc lan can gỗ mục
ở nhà. Phan lại bắt đầu có những lời mê hoảng trong giấc ngủ sau mấy tháng êm ả
mà Phan cho là bệnh tim đã trị dứt. Có đêm ở ruộng về vừa đặt mình ngủ Ngưỡng
chợt tỉnh dậy vì tiếng than phiền của Phan. Ngưỡng tưởng Phan và Huỳnh còn thức
nói chuyện. Khi nghe tiếng Huỳnh ngáy lớn đứt đoạn như tắc mũi, Ngưỡng mới biết
Phan nói mê. Lúc đêm về sáng trời thật lạnh, tiếng hắn thật rõ, tự nhiên như
lúc thức. Sau đó, hắn lịch kịch trở dậy, mò mẫm trong bóng tối, lại bàn thắp
đèn, lấy nước nóng trong bình thủy pha một ly trà nhạt ngồi uống. Một hôm nói
chuyện với bà cụ già về ngày cúng ông Táo, hắn bảo bà cụ nửa đùa nửa thật:
"Có lẽ ma quỉ ám ảnh chúng tôi, cản đường không cho chúng tôi về". Hắn
lặp lại câu nói nhiều lần. Càng lúc vẻ khôi hài của câu nói càng bị giảm nhường
cho vẻ tin tưởng của hắn. Lúc đầu Huỳnh bảo Ngưỡng: "Những thằng ưa nói lẽ
phải, trách nhiệm vốn là những thằng sợ ma". Về sau, mỗi ngày thấy Phan một
hốc hác vì thiếu ngủ, vì một nỗi hoang mang mơ hồ, Huỳnh thường thức nói chuyện
với hắn. Nhiều đêm Huỳnh mải miết tâm sự với Phan, hôm sau hắn băn khoăn bảo
Ngưỡng: "Không hiểu sao mình lại nói nhiều với hắn như vậy. Dễ hố bỏ mẹ".
Nhưng Huỳnh cứ tiếp tục băn khoăn và tiếp tục tâm sự. Trong bóng đêm Phan ngồi
bên hắn như một sự quyến rũ ma quái đầy tình chân thật. Nhìn Phan trước mặt, hắn
hết còn hình dung nổi một Phan đáng ghét lúc ban ngày, chỉ có một người bạn
cũng buồn, cũng lo lắng như mình.
Những buổi đến lớp, Huỳnh thường sang nói chuyện với Ngưỡng. Hắn bảo Ngưỡng:
"Bây giờ chỉ nom thấy thằng trưởng lớp của cậu về đây hoặc những người đến
lôi con cái về là làm mình còn yêu đời được một tí". Ngưỡng biết Huỳnh vẫn
còn lòng chờ đợi tuy hắn không còn nhiệt thành như trước nữa. Hắn không hề nhắc
lại những dự tính, như về nhà hớt tóc, cạo râu cho vợ con dễ nhận ra mình.
"Bà cụ nói có lẽ hợp lý. Mình ở lại, sáng mùng một mang một bộ bầu cua ra
hốc núi xốc… (thiếu 8 chữ) có khi lại đỡ sầu" - Hắn nói.
Lá quốc kỳ phất phới trong không khí lạnh lẽo buổi sáng như một
lá bùa hộ mệnh của ngôi trường. Ngưỡng bảo Phan: "Chắc ăn rồi đó. Phi cơ
không thể nào lầm tưởng mình với những trường đã bị chiếm". Phan hỏi:
"Anh đã sửa soạn bài Ý nghĩa ngày tết Nguyên đán rồi chứ?"
"Rồi. Anh có muốn tôi dượt lại trước với anh bài đó không?" - Ngưỡng
cười, nói. Phan hình như sợ Ngưỡng cẩu thả không chuẩn bị sẽ lúng túng trước đại
diện xã, hội trưởng hội phụ huynh.
Trước dãy trường, một chiếc bàn phủ vải trắng nom ra trụ cờ trên đặt một bình
bông vạn thọ bằng giấy. Hai bên, hai dãy dài ra tới trụ cờ. Một chiếc bàn học đặt
ở giữa để những phần thưởng và số kẹo bánh sẽ phát cho học sinh. Những cành phượng
trơ trụi loáng thoáng đủ các loại hoa do học trò tự động buộc vào. Có một số trẻ
vận áo mới cổ tay có nút gài, luẩn quẩn quanh trụ cờ. Huỳnh đứng trên hiên nhìn
xuống, mắt đờ đẫn. Ngưỡng lại trụ cờ ngồi xuống bậc xi măng, châm thuốc hút, vẫy
bọn trẻ lại nói chuyện: "Thầy còn chờ trò trưởng lớp ở núi xuống đưa thầy
về. Thầy về, thầy ra liền, nhớ dành phần rim cho thầy nghe". Ngưỡng nhìn từng
đứa: "Chút nữa, mấy trò gắng hát cho thật nhiều, cho thiệt vui, rồi thầy sẽ
kể chuyện cho tất cả nghe. Khi hát, nhớ vỗ tay đánh nhịp, vỗ thật giòn".
Huỳnh lại xin Ngưỡng một điếu thuốc. Bọn trẻ bấm nhau, cười ồn. Huỳnh trợn mắt:
"Tết đến nơi rồi, bây sắp có thêm một tuổi rồi. Gắng lớn lên mau mau một
chút, đi biệt kích, về đây đưa chúng tao về thị xã". Huỳnh kéo Ngưỡng đứng
lên, xuống sân: "Đạn bom tơi bời còn bày vẽ tất niên". Huỳnh nói lúc
hai người qua phòng hiệu trưởng. Ngưỡng lắc đầu: "Chuyện gì thì trách hắn
chuyện này không nên". Huỳnh chỉ rặng núi trước mặt: "Bom nổ đạn réo
ngay bên tai còn vui thú gì". Ngưỡng yên lặng, vừa bước vừa kéo gót giày
cày từng đường đứt quãng trên cát. Giọng Ngưỡng cất lên đột ngột: "Như vậy
nếu vui được càng nên vui. Nhiều khi quay lưng được vào nỗi khổ mà sống cũng
nên làm. Bọn nhỏ cả năm chỉ trông ngày tết. Chiến tranh bất thường hóa tất cả
nhưng lòng mong đợi ngày tết nơi bọn trẻ vẫn nguyên như tự bao giờ. Mình chẳng
nên làm chúng quá thất vọng". Huỳnh vẫn bứt rứt: "Mình vẫn thấy có sự
trái ngược như mâu thuẫn. Khóc để rồi cười, cười ngay sau tiếng khóc. Ngay bên
tiếng khóc…" "Chiến tranh là bất thường hóa triệu chứng. Mình có sống
mâu thuẫn không có chi lạ. Mình vẫn đề cao tình huynh đệ, lòng đoàn kết trong
khi bom nổ rung cả bảng đen. Mình vẫn nói đến lòng kiêu hùng trong khi không một
đứa trẻ nào không biết đêm đêm mình lần ra nằm ngoài ruộng. Nhưng tôi thấy nếu
nghề mình có ý nghĩa, chính là ở trong lúc này". Ngưỡng dướn người cột
giùm mấy đứa trẻ một bó vạn thọ lên cạnh phượng trơ trụi. Hai người đi dọc theo
bờ rào bàn chải. "Nếu bản chất những điều mình dạy học trò vẫn có thể coi
là tốt, bọn mình chính là những đứa đến cái hốc núi này, sống cực nhục trong những
mâu thuẫn, ngoan cố giữ lại sự tốt đó. Nhưng không giữ lại với nỗi lạc quan máy
móc mà với nỗi đau đớn của mọi người quanh mình có thể, của cả chính mình. Đó
cũng là điều làm mình xa cách bọn Phan, bọn hiệu trưởng". "Mình không
có thói quen nghĩ đến học trò những khi ra khỏi cổng trường" - Huỳnh nói.
Ngưỡng cười: "Tôi không hơn gì cậu. Nhưng ít ra, ngồi trong lớp dàn mặt với
học trò hết ngày này qua ngày khác, chẳng lẽ không có lấy một lần mình nghĩ đến
mối liên hệ giữa mình với chúng, chẳng lẽ không có lấy một lúc cả thầy cả trò
cùng quên những thắc thỏm riêng để cùng cười với nhau. Dù muốn dù không mình
cũng không bỏ được vai trò ông thầy. Có khác chăng, mình đóng không giống người
khác". Huỳnh cười yên lặng như bất cứ lúc nào hắn nén lòng không cãi Ngưỡng.
Hắn hỏi lảng: "Cậu đã gặp lại Diệu chưa? Khỏi rồi thì phải". "Gặp
rồi" - Ngưỡng lững lơ. "Khỏe chưa?" "Còn hơi xanh".
Một ông cụ già quần áo xốc xếch hiện ở trên đầu dốc, lật đật bước vào cổng trường,
ông cụ đứng sững đưa mắt về phía trụ cờ có những chiếc băng trống trải. Ông nhếch
một nụ cười bâng quơ, thăm dò. Ngưỡng vỗ vào mông Huỳnh: "Ban tiếp dân, xếp
chỗ cho khách kìa". Huỳnh chậm chạp bước lại phía ông lão. Hắn cười lúc đã
tới sát ông cụ. Nụ cười có vẻ đột ngột như hắn vừa chợt nhận ra cần phải tiếp
ông cụ. Ngưỡng lại gần mấy đứa học trò con gái nhảy lò cò với nhau ở góc sân,
khôi hài mấy câu. Một hai đứa nhát không dám nói chuyện lảng đi chỗ khác. Ngưỡng
bỏ lên lớp học. Qua cửa sổ lớp Phan, Ngưỡng thấy lớp vắng không, Phan ngồi trên
bục, cầm tì trên hai bàn tay đan nhau, hai mắt sấp xuống mệt mỏi. Ngưỡng vào lớp.
Vài đứa học trò ít nô giỡn ngồi chụm lại nói chuyện ở xó lớp. Ngưỡng lên bục.
Lúc nghe tiếng trống tụ tập học trò, Ngưỡng mới thấy mình cũng tì cằm lên hai
bàn tay đan nhau, mặt mệt mỏi như Phan.
Học trò xếp hàng vây quanh trụ cờ và mấy tấm bàn ghế. Quan khách có ba bốn người
ngồi xa nhau ở hai băng đầu. Hiệu trưởng nói chuyện nho nhỏ với người đại diện
xã. Người giáo viên phụ khuyết áo dài tay, cổ cứng không ủi, hai tay cầm tờ giới
thiệu chương trình đứng sau tấm bàn trải khăn trắng. Huỳnh hai tay chắp sau
lưng qua lại sau đám học trò giữ trật tự.
Bốn chiếc oanh tạc cơ bay thành hình bầu dục trên rặng núi trước cổng trường.
Khi hát quốc ca, tuy cờ đã treo từ trước, học trò ngửng hết mặt lên trời. Ngưỡng
đứng bên đám học trò lớp mình, yên lặng như chúng, thỉnh thoảng lại miết giầy
lên cát vì một âm thanh thật sắc từ phía tấm bàn phủ khăn trắng đập vào tai.
"Em đã nghĩ ra món quà để anh mua tặng. Lúc nào ở Sài Gòn ra qua thị xã
anh mua cho em cũng được". Diệu đã nói lúc thấy Ngưỡng nhìn chiếc nón có bốn
chữ bằng sơn đỏ chói "Đả đảo Cộng sản" Diệu đội trên đầu. "Em đã
định bỏ chiếc nón này ngay hôm ở quận về nhưng người còn mệt quá đầu trần ra nắng
không chịu nổi". "Cứ đội, có sao. Chừng nào có nón Huế ở thị xã mang
về rục đi cũng không muộn". Diệu cười trong nón nom thật yếu. Lúc Diệu chào
Ngưỡng, đi về phía nhà ông thầy thuốc bắc, Ngưỡng còn muốn giữ lại.
Người giáo viên phụ khuyết giới thiệu đến phần của Ngưỡng. Ngưỡng thong thả bước
vào gần trụ cờ, nhìn bọn trẻ và cười. "Thầy sẽ kể cho các em nghe một câu
chuyện thật vui. Một câu chuyện nói rõ ý nghĩa ngày tết Nguyên đán". Tiếng
Ngưỡng chậm rãi, lớn. Những chiếc máy bay sà xuống thật thấp lao vút vào những
cột khói đen sậm ở chân núi. Những trái rocket như những cái chầy bạc lấp lánh
dưới nắng tới tấp phóng xuống trước nền rặng núi xanh đậm. Đất rùng từng đợt dữ
dội. Bọn trẻ nhao nhao hướng về phía đó. Ngưỡng nuốt nước bọt, thấy Phan và Huỳnh
nhìn mình. Ngưỡng gạt đi hình ảnh Diệu đội chiếc nón lấp lánh có bàn tay nhô
gân xanh giữ vành trên đường tới nhà thầy thuốc, vỗ mạnh hai tay vào nhau, lớn
tiếng:
"Yên lặng, tất cả yên lặng, nghe đây. Ngày xưa, có một ông vua…"
Chú thích:
Mất 3 dòng. |
|
Mất 2 dòng. |
|
Mất 4 dòng. |
|
Mất 8 dòng. |
Năm 1966
Y Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét