Linh hồn xứ sở trong Mưa rửa bùn
Trần Thị Huyền Trang là một nhà văn luôn đau đáu nỗi niềm với
quê hương xứ sở. Mưa rửa bùn là một phần của khát vọng “di dưỡng văn
hóa một vùng đất”, Bình Định mến thương của chị. Tập truyện gồm 10 truyện ngắn
được viết trong một khoảng thời gian cầm bút dài, Nxb Văn hóa văn nghệ Tp HCM
xuất bản năm 2017.
Sống động trong từng trang viết, trong văn mạch Mưa rửa bùn là nhịp đập
của trái tim quê hương. Không gian xứ sở đã làm nên không gian nghệ thuật trong
một thế giới truyện mà từ điểm nhìn hiện tại có thế thấy được cái “nghìn xưa”
và cả cái “mai sau” (chữ dùng của Lưu Quang Vũ). Đó là cả một dải văn hóa Sa Huỳnh
trầm tích: Quảng Nghĩa, Phú Yên, Quảng Nam; những tên núi tên sông: sông Kim
Sơn, sông Lại, núi Kim Bồng; những thôn làng Vạn Hội, Thanh Lương, Năng An, Đại
Định, An Lão, Hoài Nhơn, Quy Nhơn, Tuy Viễn, Gò Chàm, Tuy Phước, Bình Khê, Phù
Ly, Truông Mây, Phú Đa, Kiểng Hàng, An Thái, An Vinh… Những tên đất tên làng
thân thuộc gợi lên bao niềm thương mến, mỗi tên đất tên làng là những “nhớ
nhung dằn vặt khôn nguôi” (Bùi Phong Khê). Những địa danh này trong truyện ngắn
Trần Thị Huyền Trang gắn liền với lịch sử hình thành vùng đất, với những cuộc
chiến đấu giữ cõi mà trong đó những con người bình thường thì hóa anh hùng, người
anh hùng thì hóa siêu phàm; nhưng máu của họ đổ xuống không phân biệt; xương cốt
và linh hồn của họ trở thành đất đai và mây trắng quê hương. Ba truyện ngắn Trên
đỉnh rừng thần, Trần Quang Diệu và Biệt lộ khắc họa lại một
thời kỳ đẫm nước mắt và máu chưa xa, thế kỷ XVIII, XIX, XX. Nhưng không phải chỉ
là lát cắt của thời đại, những câu chuyện gọi lên cả một mạch nguồn truyền thống
văn hóa chảy mãi không ngừng từ ngàn xưa tới mai sau, như ca dao Bình Định từng
ca: Khi nào rừng An Lão hết cây/ Sông Lại Giang hết nước thì qua đây mới dứt
tình… Không gian núi sâu rừng thẳm làm nền cho những câu chuyện lịch sử,
là không gian của kiểu nhân vật anh hùng. Rừng thần trong truyện Trên đỉnh
rừng thần là nơi Nguyễn Huệ gặp Bok Kiơm. “Bóng ông in trên vách bên này
nhà sàn như một ngọn núi. […] Bóng Huệ in lên vách bên kia nhà sàn như một ngọn
núi” - cuộc gặp gỡ của những khí phách phi thường. Trong truyện ngắn Trần
Quang Diệu, tầm vóc người anh hùng được đo bằng tầm vóc đại ngàn: “… Mái tóc đẫm
hương rừng núi, dù ông có về kinh thành và đồng bằng bao lâu, hương rừng núi vẫn
không phai” (tr.34). “Trong khi ông hát, bàn tay nhiều vết chai của ông nắm lấy
tay bà. Từ bàn tay ấy, những con đường đã mở ra, những con đường bất tận của
non sông, chẳng con đường nào là không nhuộm mồ hôi và máu, chẳng con đường nào
là không đầy nhớ thương vẫy gọi” (tr.43). Trong Biệt lộ, núi Nảy với những
sườn đá chớn chở sắc lạnh như gươm, rừng cây thâm u rợn ngợp soi bóng xuống bàu
Suốt trong veo là nơi nương náu của tên tướng cướp/ người anh hùng Dư Mãnh, nơi
mây trắng bay trên đầu, bay qua những ngọn cây đẹp lạ lùng, mà trong hang đá lạnh,
“muôn nghìn chiếc rựa sắt dựng thành hàng lớp chỉnh tề, như những hàng quân đã
đứng đợi từ lâu lắm” (tr.63). Ngựa trời, chim đại bàng – K’ring, Bạch hổ cùng với
rất nhiều gió núi ào ạt mà mát lành trong các câu chuyện góp phần tạo nên kiểu
không gian đẹp đẽ mang đậm tính sử thi.
Không gian làng quê là kiểu không gian đặc trưng trong các
câu chuyện Lá thị xanh lâu, Cố hương, Mưa rửa bùn và Một
lứa bên trời; là một kiểu tín hiệu thẩm mĩ về những giá trị văn hóa bền vững của
làng. Đó là làng Thị Dạ ven sông với bến nước, đình làng, gốc bồ đề sát mép nước,
bờ sông với gió sông thổi lên mát rượi; tiếng trống hát bội vang dội cả triền
sông; và có nhánh lá thị giắt lên vách liếp dù đã héo mà không chịu ngả vàng… (Lá
thị xanh lâu). Đó là làng quê cũ kĩ trong Cố hương; làng quê rợp bóng mát
của lũy tre quen thuộc, thân thiết; nơi có những cơn mưa tuổi dại, chị em bì
bõm xách đèn đi soi ếch; nơi bữa ăn mẹ nấu luôn là những bữa ăn ngon nhất trần
đời; nơi có cái gồm chọc gái để bước chân mười tám đôi mươi rậm rịch, rúc rích
đến khuya; nơi chôn nhau cắt rốn, cũng là nơi xương cốt được gởi về; nơi ân
nghĩa quê hương như núi non ngàn đời không trả hết. Đó là làng quê nghèo khó mà
ấm áp tình người trong Mưa rửa bùn. Một làng quê mà “năm nào cũng lụt”,
“tiếng tre hú nhão cả ruột”, “bốn bề trắng xóa, rơm rạ giăng mắc trên cành cây”
(tr.132); nơi mà còn có những bà già mặc yếm, nặn tò he xanh xanh đỏ đỏ; nơi nỗi
nhớ của người con neo về chốn mẹ: “Khi thì thầm gọi từng nhánh lá mau hồi phục,
gương mặt mẹ bừng lên một niềm tin thánh thiện…” (tr.142). Làng quê cũng là nơi
nuôi lớn những giấc mơ tuổi thơ để từ đó dù cho mỗi người ở đâu, trưởng thành
theo cách nào thì cũng luôn giữ trong lòng sự trong trẻo tinh khiết của trời
xanh mây trắng… (Một lứa bên trời).
Qua tập truyện, ta như thấy được một vùng đất đai kỳ vĩ núi
liền núi điệp trùng, lại sông suối nên thơ bát ngát bao bọc ruộng đồng nhà cửa.
Ở đó, cuộc sống đời đời tiếp nối, chảy trôi với muôn màu muôn vẻ buồn vui. Nhà
văn đã nói cho chúng ta nghe điều ấy không chỉ bằng vốn hiểu biết sâu sắc mà
còn bằng niềm tự hào và tình yêu thiết tha với quê hương xứ sở.
Cùng với địa hình tự nhiên khác biệt, làm nên dấu ấn Bình Định
còn là vẻ đẹp con người với những đặc trưng đậm nét trong đời sống văn hóa Việt.
Bình Định từ xưa đã được biết đến là vùng đất võ với lịch sử lâu đời. Trong
công trình nghiên cứu Võ Bình Định nhìn từ tâm thức dân gian, Trần Thị Huyền
Trang đã khẳng định: “Võ đã thành bản sắc, thành linh hồn của người Bình Định”.
Nhân vật trong Mưa rửa bùn phần lớn là những nhân vật lịch sử, những
anh hùng hào kiệt đầy tinh thần thượng võ; hoặc là những dân thường thì cũng
mang trong mình dòng máu nghĩa hiệp đẹp đẽ và cao thượng. Những bậc anh
hùng bước vào không gian truyện ngắn Trần Thị Huyền Trang có thể kể Quang Trung
Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu và phu nhân Bùi Thị Xuân, những cái
tên đã vô cùng quen thuộc trong cả chính sử và dã sử. Có cảm giác ngòi bút của
chị hướng về các nhân vật ấy không chỉ để tái hiện mà là ghi tạc, là yêu mến,
ngưỡng mộ và xiết bao trân trọng. Chị dắt chúng ta về một nơi rất bí mật và
tĩnh lặng, có như thế thì mới chứng kiến được cảnh này người này: “Từ đôi mắt của
Huệ, một thứ ánh sáng kỳ lạ tỏa xuống sàn nhà, lóng lánh, soi rõ từng kẽ nứa.
Giữa vùng sáng do mắt Huệ soi tới, có một con dệt vải cứ nhún lên nhún xuống
trên những cái chân mảnh và gầy”. Cái ảo và cái thực trộn vào nhau khiến nhân vật
hiện lên vừa cao quý vừa gần gũi, sự phi thường ẩn trong vẻ bình thường. Chị
khai thác những phần rất người trong tâm hồn các vị anh hùng, nhìn họ trong những
đường nét hiển lộ và các trạng thái tưởng chừng mơ hồ. Nguyễn Huệ trong truyện Trên
đỉnh rừng thần là một thanh niên mày xếch, mắt sáng, mũi cao nghiêm cẩn,
đôi môi không cười mà như sắp cười (…). Nơi ông vừa tỏa ra sự can đảm, hoạt
bát và dễ mến của người trẻ, vừa có cái quyết liệt, can trường của người từng
trải, đặc biệt là khả năng quan sát sắc bén đến soi thấu tâm can của đối
phương. Hiểu, để tạo nên sự gần gũi mà không khinh nhờn, để chế ngự mà không
đánh mất sự hòa đồng, nói sao làm vậy, vừa mưu lược vừa chân thành, nhờ thế Huệ
lấy được lòng người, mà bắt đầu từ một nhân vật đặc biệt: tù trưởng Bok Kiơm.
Cái nhìn đa diện ấy cũng được nhà văn sử dụng khi khắc họa tướng Trần Quang Diệu.
Quang Diệu là một dũng tướng mà tình nghĩa vua tôi, anh em, bạn bè, vợ chồng…
trong mọi mối quan hệ đều trước sau trọn vẹn. Với Nguyễn Huệ, Diệu vừa là tôi
trung, vừa là tri kỉ, “như sinh ra là để hiểu nhau” (tr.41). Bạch hổ đối với Diệu
đầy oán thù bản năng nhưng Diệu luôn nhân nhượng để bảo vệ sinh mạng cho nó. Với
phu nhân của mình, Diệu yêu thương, chia sẻ, hỗ trợ hết lòng… Những khía cạnh đời
thường này cũng chính là những giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của người
Việt kết tinh. Nhân vật Dư Mãnh (Biệt lộ) cũng xin được xếp vào đây, một tên cướp
trượng nghĩa khiến người ta yêu mến nể phục. Dư Mãnh lấy của người giàu chia
cho kẻ khó, giúp đỡ những người bần hàn. Dư Mãnh giỏi võ nghệ, ngang tàng mà
nhân ái, luôn chừa cho người khác một đường lui. Dư Mãnh có cái cười hào sảng,
“giọng cười ấm như đỡ lấy từng giọt tiếng vang ngân của vợ”. Dư Mãnh là mẫu anh
hùng trong tâm thức dân gian. Kết thúc của nhân vật là cái chết khiến người đọc
nuối tiếc, vừa như nuối tiếc một câu chuyện cổ tích không có hậu, nhưng là sự
nuối tiếc thanh lọc và nâng đỡ con người đứng dậy, buộc người ta có cái nhìn
sâu hơn để nhận chân giá trị và suy nghĩ tiếp về thời cuộc, về trách nhiệm.
Truyện của Trần Thị Huyền Trang đòi hỏi người đọc phải có sự
am hiểu về lịch sử, nếu không sẽ khó cảm nhận hết những vẻ đẹp của nhân vật mà
chị muốn truyền tải. Một cái tên, một câu nói trong truyện cũng có thể gắn liền
với một hoặc nhiều sự kiện tốn nhiều giấy mực xưa nay.
Niềm ưu ái của Trần Thị Huyền Trang còn nghiêng về phía những
người dân thường, có tên hoặc không tên, bao bọc quanh họ là ánh sáng lành của
sự tử tế, thiện lương. Đó là Ông ngoại trong Chiếc áo dạ, một trí thức
nghèo nhưng lại hào phóng tình thương yêu, đã giúp đỡ một gia đình vượt qua biến
cố trong chiến tranh; Đó là người đàn ông trong Cố hương đi đến gần
cuối hành trình của đời vẫn không nguôi thao thức về tình quê, vẫn xốn xang với
một cái tên của mối tình đầu xa lắc, lòng luôn biết ơn những người chị người em
đã giữ gìn cội rễ tổ tiên… Trong Trả gió cho trời, đó là nghệ sĩ Huy, vượt
lên những lo lắng toan tính đời thường, hi sinh quyền lợi cá nhân cho người
khác; là Ninh, ở trong địa hạt cái ác vẫn giữ được tâm tính người. Đó là những
bạn bè thơ ấu trong Một lứa bên trời, vẫn luôn nghĩ về nhau và làm mọi điều
có thể cho nhau. Chân thực và đời thường hơn hết là những nhân vật trong truyện Mưa
rửa bùn. Một ông cằm nhẫy đi làm từ thiện mà chuyên ăn chặn, bị mọi người coi
thường khinh bỉ. Những người làm nghề vớt xác thì nhận được sự trân trọng cảm
phục yêu mến. Bà già buôn trầu, cô gái bán nón, chú tiểu mù, ông áo trắng, em
bé như mụt măng ngồi trong lòng ông nội... có sự khác biệt về thế hệ, giới
tính, công việc, địa vị xã hội, thân phận… nhưng đều gặp gỡ nhau ở sự trong
sáng hiền lành lương thiện chân chính… Họ là những mảnh ghép của nhân dân, những
con người của đời sống quanh ta.
Truyện ngắn Lá thị xanh lâu là một truyện ngắn đặc
biệt trong tập truyện. Câu chuyện mở cho người đọc một con đường đến với nghệ
thuật hát bội, đặc trưng văn hóa Bình Định. Tuồng được khám phá ở góc độ nghệ
thuật diễn xuất, “một kiểu đi mà lột tả được tình cảm, thái độ, tư thế”
(tr.70), miếng đá giáp để che nỗi hổ ngươi của Tạ Ôn Đình (…); ở giá trị nội
dung “…cái xảo trá gian hùng, cái trung tín nhân nghĩa ở đời có bao giờ cũ? ”
(tr. 69); ở hệ thống nhân vật tham gia trong một vở tuồng: kép nhứt, kép vá,
vai đào, người đánh trống chầu...; ở cái vui mừng hiếu kỳ nô nức của dân chúng
khi một ghe hát cập bến. Người đọc được biết về tuồng khá kĩ càng qua lối kể, tả
xen với thuyết minh cẩn thận chi tiết tỉ mỉ của nhà văn. Điều đọng lại sâu sắc
nhất ở chỗ Lá thị xanh lâu là một câu chuyện tình có đủ lãng mạn say
đắm nồng nàn nhớ thương đau đớn ràng rịt, nói cho ta nghe về sức sống của tình
yêu làm nên sức sống nghệ thuật, thứ nghệ thuật có một đời sống mãnh liệt chảy
trong lòng dân gian.
Làng quê và người quê là nguồn gốc của văn hóa Việt. Nhánh
cành của đời sống hiện đại liệu có bám vào cội rễ, có giữ được vẻ đẹp đạo đức
thuần khiết để tốt tươi? Đó là nỗi trăn trở lớn lao của người cầm bút. “Những
nhà thơ có trách nhiệm với cả thế giới, nhưng kẻ nào không gắn bó với một mảnh
đất quê hương thì không thể đại diện cho cả hành tinh này được” (Đaghextan của
tôi - Raxun Gamzatop). Xin mượn lời của Raxun Gamzatop thay cho lời kết
bài viết này. Đồng thời, với niềm yêu mến riêng dành cho vùng đất Bình Định
trong lòng nước Việt, tôi mong được đọc thêm nhiều tác phẩm mới từ Trần Thị Huyền
Trang trong mạch nguồn viết về quê hương yêu dấu.
23/1/2022 Bùi Thị Diệu
23/1/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét