Có loài chim lạ
Vài dòng về tác giả
Y Uyên tên thật là Nguyễn Văn Uy, sinh ngày 6 tháng 8 năm
1943, tại làng Dục Nội, quận Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, Bắc Việt.
Di cư vào Nam, anh theo học trường Sư phạm Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp, ra dạy
tại Tuy Hòa.
Nhập ngũ khoá 27 Trường Võ bị Thủ Đức, mãn khoá, thuyên chuyển đi đóng đồn Nora
tại Phan Thiết. Không bao lâu sau, anh bỏ mình trong một trận phục kích bên một
dòng suối gần chân núi Tà Lơn, ngày 8 tháng 1 năm 1969.
Muốn biết rõ hơn về thân thế cùng văn nghiệp tác giả, xin coi bán nguyệt san
Văn, số 129, ngày 1.5.1969.
Về tác phẩm
Nhân giáp ngày giỗ Y Uyên, chúng tôi cho ấn hành tập truyện
cuối cùng của anh, gọi là thắp nén tâm hương tưởng niệm người đã khuất.
Theo chỗ hiểu biết của nhiều thân hữu của Y Uyên ở Tuy Hòa trước đây, thì ba đoản
thiên in nơi những trang sau, được trích trong một truyện dài viết dở dang,
"truyện mà thuở sinh thời tác giả đã đặt tên là "Có loài chim lạ".
Đoản thiên thứ tư, tác giả đã viết cho số Văn đặc biệt có chủ đề "Hà Nội,
quê hương trong trí nhớ". Nhan đề truyện đó, "Có heo may Hà Nội",
do chúng tôi đặt, và nay xin giữ y nguyên, như một kỷ niệm thâm tình…
Sài Gòn, tháng 12 năm 1971
Trần Phong Giao
Pho tượng đứng đó
Xuống tới bãi trời trống, đám người bước mau hơn. Một thanh
niên hỏi Dần:
"Vụ đó tới đâu rồi?"
Dần chắc anh ta muốn hỏi về Yến, cười gượng:
"Chẳng đi tới đâu".
Người thanh niên nhìn Dần lộ một chút ngạc nhiên để thay thế một câu hỏi khác
chắc Dần sẽ không ưa. Dần ngại phải nhiều lời, nói tiếp:
"Lúc mấy cậu tới tôi đã định giữ lại để cô ấy thấy đông, về cho sớm. Từ tối
hôm đó, cũng không thấy tới nữa".
Trước mặt đám người, vùng nước rộng quanh eo, cuồn cuộn đất màu. Giờ là mùa
khô. Nước nguồn như vậy là hung dữ. Người học trò từ miền ngoài vào thi bàng hoàng
nhìn mặt trời xuống chếch chói mắt, nhảy ùm xuống luồng nước lạ. Dần đứng tần
ngần nhìn mọi người xuống tắm. Nước lạnh lẽo như mang nhiều xác lá mục. Dần hối
đã nhận lời rủ của đám học sinh, chần chờ cởi quần áo. Chân vừa ngập nước, Dần
rùng mình nổi da gà rồi liều lĩnh nhào bừa ra luồng nước bỏ cho thân thể chìm
xuống giữa đà cuốn băng băng… Những đốm vàng loá trước mắt có ánh xanh xanh lạnh
lẽo. Dần thấy giả chết cũng có vẻ ngộ nghĩnh và mơ hồ thấy mình cười với một
khuôn mặt không rõ chìm dưới lớp đất vẩn như phù sa.
"Chịu hết nổi rồi".
Dần nhoái lên nói và ngơ ngác tìm kiếm bọn kia. Họ ở thực xa, nom nhỏ li li. Dần
ngơng theo đà nước, giạt người vào một bờ cỏ bị xói lở. Ngâm mình một lát, Dần
tìm cách lên bờ, nằm dài ra thở. Mặt trời vàng cả những mây sa thấp. Dần nghĩ:
kiếm lấy một vài điều để viết cho Thục. Dần nhớ là Yến đã đến lúc lá thư vừa mới
phóng mấy chữ quen thuộc: "Nhà bà ngoại, ngày… tháng… 1967". "Yến
nó xấu, nó tục đến sốt ruột". Dần nghĩ lúc đưa Yến ra ngõ. "Vậy mà nó
vẫn nói lảng lúc mình đòi cưới". Dần chắc vẫn chưa dứt khoát thoát khỏi những
ngày bị bịnh trở lại, lơ đãng nghe tiếng bọn kia ấm ới và tiếng nước. Trong những
giấc mơ, dường như cũng có lúc Dần đòi cưới một người nào đó. Dần ghê sợ đôi
bàn tay của người y tá mỗi lúc nghĩ vẫn chưa thoát khỏi ông ta. Hai bàn tay thực
run, nhớp nháp mồ hôi tối nào cũng cử động có bấy nhiêu: chích nín thở, nhón của
Dần một điếu thuốc và chìa ra cho Dần bắt. Dần bật cười. Cũng may, nếu mình là
con gái chắc cũng mơ đòi cưới cha ấy. Thục nghĩ sao nếu biết những chuyện Dần ở
đây? Thục thì chẳng bao giờ làm ồn. Bữa mua xổ số, Thục có vẻ không thích nhưng
vẫn không nói. Dần lựa hai tấm, một giữ, một đưa cho Thục: "Nếu hai tấm
cùng trúng, chúng mình không lấy được nhau". Thục yên lặng nghe Dần, đưa tấm
vé số lên trước mặt giả làm gương soi vuốt lại những lọn tóc bỏ trên vai.
Gã học trò tỉnh ngoài đã lên nằm dài bên đống quần áo. Gã là thi sĩ, chiều nay
thi xong môn cuối gã sợ rớt cuống cuồng. Gã đang kêu "con nước",
"hoàng hôn", "ráng chiều" gì đó. Dần che mắt nhìn những tia
chói vàng trong vùng mây như nối liền với khoảng mù ở đầu nguồn. Những âm thanh
ở phía gã học trò thực khó nghe. Lúc để ý, chỉ có cảm tưởng gã nằm ngửa mặt bên
mép nước mồm la không ngớt. Dần nằm nghe ngóng – chẳng hiểu mình nghe ngóng gì
– tới lúc nghe bọn kia lao xao gọi về. Giữa đường, gió nổi lớn, bụi cát quấn
quít đầu tóc chưa khô. Nhưng Dần thấy mình như vậy là đã quá sạch. Vào phố, Dần
chia tay đám học sinh. Thấy chưa tới giờ đi ăn cưới, Dần đi uống một chai
la-de. Mùa nóng, gió ồn ào mà khô nhăn da. Dần kiếm một tiệm có hàng rào cây
xanh ngăn bụi. Đặt chiếc ghế vào sát thân dừa lấy chỗ tựa, dần ngắm xung quanh
thấy mình như ngồi trong một khu vườn. Dần uống chậm cho tiêu thời giờ. Dần nhớ
tới tiếng ve trong những chòm cây bắt đầu tối ở bãi cỏ trước nhà, chiếc bàn kê
dài ra sân ăn bữa cơm muộn, những chiếc ghế thực chắc mẹ Dần sắm riêng cho mấy
đứa con trai lớn ưa ngồi ngả nghiêng. Giờ thì không còn một tên ở nhà. Mẹ Dần đỡ
mệt nhưng chắc buồn. Riêng với Dần, bà vẫn tiếc không được giàu có để ở gần săn
sóc Dần. Bà chỉ còn cách gởi thư khuyên Dần mỗi khi bớt bịnh, nên kiếm la-de uống
trước mỗi bữa ăn.
Dần ghé qua về nhà thay quần áo và rũ lại tóc. Vào ngõ, Dần mới nhớ ra tối nay
có cái hẹn với một người đàn bà có cái tên giả thực khó nhớ. Kiều Bích. Bà ngoại
Dần không có nhà. Hai hàng lài tây dẫn vào trong sân nở đầy bông. Những chiếc vỏ
trứng vịt úp trên các ngọn lá cây dừa lớn làm cảnh ở trước nhà có gió rung chập
chờn. Dần ra đầu nhà chỗ đặt một dãy chum lớn múc nước mưa uống và rửa mặt. Dần
bắt chước một người anh Dần huýt sáo cho bớt vắng vẻ. Thấy con nhỏ nhà bên cạnh
đang ủi đồ trên hiên, Dần băng lối sau vườn sang nhờ nó ủi chiếc khăn tay. Con
bé rực rỡ đẹp trong một thân thể hết lớn thêm. Nó cười cười bỡn cợt Dần về Yến và
tò mò hỏi Dần đi ăn cưới ai. Dần bảo:
"Ủi đi cô. Lúc về tôi lấy trộm cho mớ confettei với vài miếng bánh, gắng
thức mà chờ".
"Tôi chờ thực đó".
Nó nói và cặm cụi ủi, mồ hôi nhỏ giọt. Dần nhìn mớ đồ quen mắt bao lâu nay.
Nhưng chiếc ny-lon hoa lá nhỏ nhắn, mấy cái bandeau đủ màu, hai núm "xú
chiêng" nhỏ bé, tội nghiệp. Dần nhớ tới người anh có tiếng huýt sáo những
lúc chạy rông. Hắn thương nó lâu quá. Ra trường rồi hắn trở về đây không chừng.
Bà ngoại đã bảo: "Thằng Dần-anh bị con bé nó cột chân tay rồi".
"Anh Dần-anh đổi ra đây đó".
Dần nói đùa. Con bé lườm Dần.
"Ảnh ra, ăn nhằm gì tới tôi".
Dần bật cười, cầm khăn về nhà. Con bé vọng theo:
"Tôi chờ thực đó".
Ngôi nhà ngói có hành lang bốn phía nom thấp, tối. Dần bật đèn, soi gương vận
quần áo và nghĩ qua loa về Kiều Bích. Bà ngoại Dần vẫn chưa về. Mấy con chuột
đã quen thói bắt đầu cắn nhau chí chóe trên bàn trang điểm của dì Phong ở phòng
sau nhà. Dần để đèn sáng, đóng cửa, ra sân nói vọng sang nhà con nhỏ:
"Coi nhà giùm tôi. Có ai tới, nói cỡ tám giờ tôi về".
Dần đi như chạy bụi. Phố đông người, nhiều thí sinh chọc ghẹo gái qua đường.
Đám cưới của người bạn thực đơn giản, rất hợp với Dần. Sau khi dùng nước ở nhà,
hơn ba chục người kéo nhau ra tiệm. Con gái chiếm già nửa. Khi được sắp xếp ngồi
đối diện, họ có vẻ ngượng. Bên đàn ông khơi mào ồn ào. Dần xin chỗ để ngồi với
Lan. Tiếng vỗ tay khuyến khích. Lan mắc cỡ nhìn xuống ly Coca tối màu. Dần đã
có mấy hơi Black and white uống lấy được, tự dưng hào hùng. Anh bạn tổ chức mỗi
năm phút lại yêu cầu Dần cho kết quả. Khi Lan đã chịu nói, anh bạn tổ chức cho
riêng hai người vài kiểu hình. Lần lượt những giọng say được Dần mời đứng lên
bày tỏ cảm tưởng về cô dâu chú rể mới. Dần rắc lên phần bánh flan của Lan ít
confetti màu áo cô dâu và mời Lan. Lan cười không từ chối. Dần uống thêm và thấy
cám ơn Lan thực tình. Lan đầu và vai đầy confetti như có vẻ đẹp cô dâu từ khi
chưa biết nghĩ chuyện vợ chồng. Dần cũng lấy cái hồn nhiên của người bạn đang uống
thực vui bên vợ mới cưới, thấy mình cũng có vẻ chú rể. Nhưng không có cô dâu
nào cho Dần. Dù nhiều lần đòi cưới, chưa bao giờ Dần hình dung được một hạnh
phúc chồng vợ quen thuộc với mình. Dần nhớ tới Thắng hôm hắn đột nhiên có mặt ở
đây. Hắn nói đã cưới vợ, có con và lấy làm tiếc. "Tao đang ăn khách",
hắn than thở. Hắn mò về đây cũng không ngoài mục đích để được xa vợ con ít
ngày, kiếm lại một vài tình nhân cũ. Dần mệt cái ồn ào của hắn, nói bịnh để khỏi
đi cặp với hắn lang thang kiếm gái và tìm người bán lại khẩu colt 12. Một buổi
trưa, bà ngoại Dần đi vắng, hắn dẫn Kiều Bích về phòng Dần. Dần bỏ xuống phòng
dì Phong loay hoay kê lại tấm gương bầu dục ở bàn trang điểm cho dì được chừng
mười lăm phút thì thấy hắn ra sau đi tiểu ghé vào bảo Dần: "Em vẫn như
xưa". Sau đó, hắn đi giao súng cho một người bạn cũ, nói nửa giờ sẽ về. Dần
lên thấy Kiều Bích đang nằm quạt, vận bộ đồ đen của Thắng. Kiều Bích nhỏm dậy,
nom hiền thục, khiêm tốn. Nàng nói: "Em là em gái anh Thắng. Nghe anh Thắng
nhắc tới anh đã lâu, giờ mới được gặp, em thực mừng".
Dần ra khỏi tiệm ăn mới thấy nôn nao khó chịu. Dần vừa đi vừa rũ confetti trên
tóc để có những cử động làm quên phần nào cơn say. Về tới nhà, Dần thấy người y
tá hút thuốc chờ ở trên hiên. Ông ta đưa tay bắt lúc Dần bước lên mấy bực thềm.
Dần nắm chặt bàn tay nhớp nháp của ông ta và mửa thốc tháo.
"Nguy quá, rượu say lại đi gió".
Tiếng ông ta kêu vang ngôi nhà vắng. Dần quỳ xuống thềm chống tay vào cột nôn
không còn muốn đứng dậy. Người y tá chặn ngực và lưng cho Dần rồi dìu vào nhà.
Dần nằm thẳng cẳng nghe ông ta loay hoay ở một chỗ đâu đó như tìm kiếm vật gì.
Giá có một trong những người Dần đòi cưới gỡ giùm chiếc cà vạt. Tiếng động do
người y tá gây nên đi xa hơn. Dường như ông ta đang lục lọi cùng mấy con chuột ở
trên bàn trang điểm của dì Phong. Một lát, lòng bàn tay và gan bàn chân Dần được
bôi mát. Dần giựt mình hỏi:
"Ông bôi thứ gì đó?"
"Vôi của bà già đó mà. Vôi cũng như chanh, giải say".
Dần mở rộng hai bàn tay, thở thiêm thiếp. Hai bàn tay, hai chân Dần như thoa đầy
kem thoa mặt của dì Phong.
"Bữa nay nghỉ chích một buổi, ông có thể về. Cám ơn ông".
Dần nói lên khoảng không. Người y tá lại rờ rà trên người Dần, nói khôi hài làm
Dần cười như ngủ mơ rồi chào ra về. Dần nghĩ tới người học trò từ miền ngoài
vào thi bàng hoàng nhìn mặt trời xuống chếch chói mắt nhảy ùm xuống luồng nước
lạ. Buổi chiều thấy xa như ký ức về tiếng gọi nhau ấm ới của bọn đi tắm và tiếng
nước. Dần vẫn nhắm mắt, đưa lòng bàn tay xòe rộng lên mặt ngửi xem có phải mùi
kem trong cái hộp bám bụi trên bàn trang điểm của dì Phong. Hôm dì đi, cuốn tiểu
thuyết của Mai Thảo vẫn còn đánh dấu bằng mụn vải vàng non ở nửa phần cuối, Kiều
Bích ưa đọc Mai Thảo. Dần cho là Kiều Bích nói dối. Nhưng khuôn mặt Kiều Bích
thực vẫn hiền thục, giọng nói vẫn khiêm tốn dễ thương. Dần nhỏm dậy ra khép
cánh cửa phập phành. Sao giờ này Kiều Bích chưa tới? Dần thiu thiu ngủ, mơ gặp
một cái thực bất ngờ: Reita Faria, hoa hậu Ấn Độ. Lúc tỉnh dậy Dần thấy nhức đầu,
thấy có hương thơm và ánh trăng. Một người đàn bà quần áo trắng ngồi băn khoăn ở
chiếc ghế cạnh giường.
"Kiều Bích".
Dần nhỏm dậy buột mồm kêu cái tên giả của cô ta. Dần coi đồng hồ:
"Cũng may tôi mới chợp mắt có một lát".
"Em đã định về".
Kiều Bích nói dịu dàng. Giọng cô ta như giọng con gái. Dần nói vừa đi ăn cưới về,
bảo Kiều Bích ra ngoài chum nước rửa mặt. "Reita Faria", Dần như cầu
một điều lành rồi bật cười như vừa có được một vật dụng mới. Đồng hồ trong nhà
gõ chín giờ. Dần nhớ ra đã quên lời hứa với con bé nhà hàng xóm. Gió bắt đầu lớn.
Dần quay vào thoáng chút ngạc nhiên lúc hai người nhìn nhau. Hồi nãy mặt Kiều
Bích như không thoa kem. Giờ thì nom rõ thực vẻ khờ khờ của những nét tinh
nhanh bị lấp kín. Kiều Bích thành một khối trắng dịu dàng với ít điều che giấu.
"Nhà anh thực lắm chuột".
Kiều Bích nói. Dần nói đùa:
"Có vài con thôi nhưng đêm nào chúng cũng ồn ào trang điểm".
Kiều Bích kéo xích chiếc ghế ngồi lùi ra sau lúc Dần ngồi lại gần. Vẫn dáng
khoan thai, vẫn tấm áo không cổ ba nút gài bằng vải sau lưng và chuỗi hột đen
huyền. Hai tấm áo dài nối đang may vẫn chưa tới ngày lấy. Khuôn mặt trong mớ tóc
ôm kín gáy vẫn mơ hồ gợi chút xúc động. Dần ngồi nói dông dài, không nhắc tới
chuyện đưa Kiều Bích đi thăm người bạn như đã hứa. Dần nghĩ tới Thắng lúc hắn
đi tiểu. Đêm nay Dần lén bà ngoại giấu người đàn bà trong nhà này chắc cũng được.
Cùng lắm, để Kiều Bích trong phòng dì Phong, chẳng bao giờ bà cụ ngờ tới.
"Thứ hai tới em vô lại Sài Gòn".
Kiều Bích nói.
"Tôi không định về. Chờ tôi cùng đi cho vui chịu không?"
"Chừng nào anh về?"
Dần nhiệt thành với một câu mơ hồ:
"Ờ… tôi cố gắng sao để cùng về với Kiều Bích".
Kiều Bích cười một mình. Dần nhìn hai bàn tay đặt trên mép áo thấy già và đen đủi,
khác hẳn khuôn mặt. Người bạn Kiều Bích định tới thăm cho Dần biết hồi trước Kiều
Bích thực khá. Sau ngày đẻ đứa con đầu lòng, đào ngũ, người đàn bà này sa sút hẳn.
Từ đó tuy không bỏ hẳn đây, nhưng rất ít ai hiểu người đàn bà này sống ra sao.
Dần không cần biết những chuyện đó. Trước Dần chỉ có người đàn bà có thể là còn
trẻ, dịu dàng ngấm ngầm thôi thúc Dần bằng một ước muốn lạ. Dần thích thú vẻ
thuần hậu đáng nghi hoặc của người đàn bà. Đêm nay, chắc Dần sẽ nắm lấy bàn tay
đen đủi. Dần sẽ tuốt ống tay áo nàng lên cao để coi lớp da thịt thực tình bên
trong.
Dần lặp lại:
"Chị ấy là vợ người bạn thân của tôi, không có gì phiền".
Đồng hồ trên cổ tay Kiều Bích chỉ gần mười giờ. Dần thả chuỗi hột xuống ngực
người đàn bà, đứng dậy thay quần áo. Kiều Bích tránh thực giỏi. Chuỗi hột vừa
dìu khuôn mặt nàng lại gần mặt Dần, nàng chợt kêu tới tên người bạn gái cũ, cái
hẹn.
Con đường tới nhà người bạn vắng và bụi. Bóng Kiều Bích gãy trên mặt đường đất
nom đẹp như dáng một nữ sinh của nét vẽ Duy Liêm. Hai người đi như một cặp vợ
chồng. Một đám thí sinh lùng đánh giám thị ùa từ ngoài phố vào tản mát chạy trốn.
Dần thấy nhẹ người giữa gió. Dần hỏi người đàn bà đào ngũ có biết những con ve
sầu? Kiều Bích tả sai hết. Dần đành nói về Thắng và tỏ ý tiếc đã không có nàng
chụp hình lúc hắn sắp đi. Khẩu colt 12 của hắn đổi được chiếc canon và hai chục
đôn. Buổi sáng hắn đi, hắn đánh thức Dần dậy thật sớm. Hai người quanh quẩn trước
sân chụp lẫn cho nhau hết cuộn phim vẫn ngờ ngợ không được một tấm ra hồn. Người
đàn bà hỏi:
"Ảnh có nói gì tới em không?"
Dần cười:
"Có. Anh ấy lặp lặp lại những lời Kiều Bích kêu tôi lộn xộn".
"Ảnh bày đặt".
Kiều Bích nói tiếp:
"Ảnh coi em như em gái, đối với em hết sức tự nhiên. Bữa ảnh bắt vận đồ của
ảnh cho khỏi nhàu áo dài, em mắc cỡ muốn chết".
Dần không rõ chủ đích câu nói của người đàn bà. Cô ta luẩn quẩn che đậy một
cách vô ích như một loài gậm nhấm càm lá phủ lên người. Những ngày tháng của cô
ta thì bừa bộn trong trí nhớ nhiều e ngại vì tội đào ngũ. Nhưng cách ăn nói thì
đơn giản như một cố gắng thu gọn trước mắt người khác. Cô ta có một đời sống
bình thường, rõ rệt, có thể nói cho người khác nghe. Cô ta muốn Dần, có khi cả
cô ta, hình dung những lời thêu dệt đó. Cô muốn mượn một đời của người khác để
trở lại với mọi người. Cô như không còn gì, có gì, kể cả những trang tiểu thuyết
của Mai Thảo. Dần cũng chẳng hơn gì. Tấm vé số mua cho Thục, bãi Trời Trống, gã
học trò la bai bải, Yến, Lan, bàn tay người y tá, những cái vỏ trứng úp đầu đám
lá dứa, ước muốn tuốt ống tay áo Kiều Bích… không ăn nhập gì tới nhau nhưng như
có sự hoà hợp liên tục tốt đẹp tạo nên Dần bây giờ với những bước chân chắc chắn
bên một người như vợ mình mới cưới. Buổi chiều như một cuộc chạy đuổi vô cớ. Dần
như không nhập vào đời sống. Dần sống phút này với một bàn tay của người không
ngờ Dần để ý tới, phút khác với vài đốm confetti màu trên một góc bánh flan. Dần
nói chuyện với những vật vô tri như từ trước vẫn sống luẩn quấn bên gian phòng
dì Phong vắng mặt.
"Giá bây giờ tôi xin cưới Kiều Bích có cho là tôi nói giỡn?"
Dần hỏi đột ngột. Kiều Bích né xa dần, lùi lại, kêu nhỏ:
"Anh ăn nói kỳ cục".
Dần bước chậm chờ người đàn bà:
"Đó là tôi thí dụ".
"Thí dụ gì mà nghe nhột nhạt…"
Tiếng cười hai người nhỏ nhưng thực rõ giọng thẹn thùng của người đàn bà. Dần
nghĩ lúc vuốt ngược ống tay áo người đàn bà chẳng còn bao lâu.
"Cùng vô với anh, chị Hiên cười chết".
Kiều Bích nói lúc vào ngõ nhà người bạn, Dần yên lặng đi trước dẫn lối. Ngõ hẹp
và tối. Trăng khuất trên những mái nhà cao cổ kính. Người đàn bà dường như kêu
lên những tiếng nhỏ và chân vẫn bước. Cô ta có vẻ muốn được dỗ dành.
Người bạn Dần đi trực đêm. Hiên còn thức, tỏ vẻ mừng rỡ nhận ra Kiều Bích. Hai
người đàn bà làm ồn mấy đứa nhỏ ngủ trong mùng. Họ phải dỗ cho chúng ngủ lại rồi
nhỏ giọng rủ nhau ra mãi giữa sân, kê ghế ngồi nói chuyện. Dần nằm trên cái
võng dưới hiên, hút thuốc. Khi nào cưới Thục chắc Dần cũng dẫn vợ tới nhà các bạn.
Nhưng Thục chắc ít nói hơn. Trong sân khuất gió không bụi, trăng có vẻ sáng. Dần
lấy trong túi mấy mẫu vải áo dài Thục gởi ra tẩn mẩn coi lại màu. Bữa đó, chở
Thục về tới cổng, Thục bảo: "Anh cho em coi lại cái số của anh". Dần
lục túi, đưa cho Thục. Thục chập hai tấm vé số xé vụn vứt lả tả rồi chạy vào
nhà. Bức thư đầu, gửi về, Dần trách: "Như vậy chẳng bao giờ chúng mình
giàu".
Hai người đàn bà ngồi giữa sân nom nhỏ nhắn. Có lúc chợt để ý, Dần nghe thì cười
như con nít, kẻ thì nói những lời khó hiểu. Họ nhỏ giọng những lúc chợt quay
vào nhà, nơi có Dần và mấy đứa trẻ con ngủ yên. Dần biết họ nói chuyện hồi còn
nhỏ, muốn nghe thử nhưng ít chú ý được lâu. Vào lúc họ đấm nhau thùm thụp và cười
sặc sụa thì phía ngoài đường có tiếng người kêu cháy ở chợ. Phía đó hửng đỏ.
"Cháy ở chợ, anh Dần?"
Một người đàn bà vọng vào:
"Chắc vậy".
Dần nói. Hai người đàn bà nín thinh một lát rồi nhỏ giọng với những tiếng khúc
khích không kìm được. Dần nhớ tới đám cháy có đứa nhỏ bị đốt đen thui cách đây
không lâu. Lúc lửa ở mấy thùng dầu bít lối vào cửa, nó nắm lấy mấy cái chấn
song ở cửa sổ nhảy như choi choi. Nó được xách ra để cạnh bờ giếng, nằm sấp mặt,
chân tay co quắp như chực bơi. Bữa đó, về nhà tắm rửa xong, Dần bệnh trở lại.
Sau này, có đêm Dần chợt mơ thấy nó như chợt mơ thấy tên Reita Faria. Nó đen đủi
và đảo qua đảo lại nhảy nhót sau những chấn song. Nhìn phía trời nín thinh đỏ ửng
thấy lửa có vẻ lớn mạnh, Dần coi đồng hồ, kiên nhẫn để hai người đàn bà nói
chuyện, coi lại mấy mẫu vải và nhớ lại đứa nhỏ. Gần hai giờ đồng hồ, Dần không
hề nghĩ cách để ngủ với Kiều Bích đêm nay. Kiều Bích bên Dần bỗng trở thành một
điều hết sức tự nhiên, không cần phải lo tính. Người này cảm thấy người kia ở
bên cạnh, yên lòng, nghĩ tới những chuyện tận đâu.
Ở nhà người bạn về, trời đã khuya, dọc đường có những chiếc xe ba bánh chở hàng
ở chợ về nhà. Người ta nói thiệt hại lớn. Bọn cướp đồ dữ hơn cả lửa. Có người
chạy hàng ra ngoài gặp cướp lại ôm cả đống vải vứt vào lửa. Những xương cốt lâu
ngày dưới nền chợ đã tới lúc gây tai hoạ. Người đàn bà kêu thấy sợ hãi vẩn vơ.
Hai người đi trong một không khí hư hư thực thực như nhìn từ một con bệnh vừa
khỏi. Tới một bụi tre khuất trăng, Kiều Bích bỗng dừng lại giục Dần đi trước. Dần
hỏi, Kiều Bích chỉ nói:
"Em sợ".
Dần nắm tay Kiều Bích:
"Có tôi, sợ gì".
Kiều Bích vội giật tay lùi lại:
"Anh để em đi tự nhiên".
"Sợ thì chỉ còn nước ngồi thụp xuống, đi làm sao được mà nói tự
nhiên".
Dần nắm chặt hơn cái cổ tay vùng vẫy; trừ mảnh vải trắng của quần áo người đàn
bà, Dần không còn nom rõ chút gì nơi Kiều Bích. Nhưng cái cổ tay cô ta bỗng đột
ngột làm thức các giác quan. Dần như đang giằng co với thằng nhỏ đen đủi nhảy
nhót sau những chấn song sắt. Lòng bàn tay Dần bị thúc lia lịa bằng các đầu
xương khô. Dần thả cổ tay Kiều Bích, thở nhẹ nhõm như bắt chước hơi thở của cô
ta trước mặt. Cô ta kêu:
"Anh thực kỳ".
Dần cười thành tiếng để khỏi phải hút một điếu thuốc.
"Thôi về".
Dần giục và bước đi. Dần muốn nghĩ dông dài chút ít để khỏi dừng lại ý nghĩ
mình chưa được khoẻ sau lúc bôi vôi lòng bàn tay. Nghĩ tiếp chắc lại có cảm
giác lúc nắm lấy bàn tay người thầy chích đứng trên hiên. Dần nghĩ về Thục, về
những mẫu vải. Dần nghĩ về những bàn tay mình không thể đón lấy một cách bình
thường. Dần cũng nghĩ những người con gái, đàn bà Dần đòi cưới như một trò đùa
bậy bạ. Dần chợt nhớ tới người chú họ ăn chay lâu ngày ngửi thấy thịt bò là nôn
ọe. Lần đầu khám phá ra điều này chú ấy ngẩn ngơ nhìn vợ con và mớ thực phẩm hằng
ngày. Không lẽ Dần cũng có chỗ giống chú. Mọi người quanh Dần đâu chỉ có mùi thịt
và xương. Trí nhớ Dần đâu chỉ có thằng nhỏ đó. Giấc ngủ Dần đâu có thể mơ mãi
thấy cái tên Ấn Độ Reita Faria. Nhưng tới giờ, Dần vẫn sống quanh quẩn với mấy
thứ đó. Người đàn bà đào ngũ như không còn xác thịt, chỉ còn những lời nói dối.
Đứa nhỏ vẫn dẫn đường cho mọi liên tưởng. Và Reita Faria với những miếng phù hiệu
bằng kim khí nhọn trên đầu không gợi nhớ tới những binh chủng Mỹ cô ta gặp trên
các vùng đất đổ bộ mà như một điều chắc chắn sẽ gặp lại ở mỗi cái chợp mắt. Dần
sao rồi đây?
"Kiều Bích, Kiều Bích, ra phố uống nước nhân tiện coi chợ cháy một thể?"
"Em sợ".
Tiếng người đàn bà sau lưng thực yếu trong lớp cát gió vừa cuốn ào tới. Dần ra
khỏi rặng tre, quay lại chờ. Giữa những luồng bụi mù mịt, người đàn bà một tay
lấy vạt áo trắng che mặt, một tay như quờ quạng tìm cách lại bên Dần. Dần đứng
im cứng nhắc, cảm giác thực rõ từng lớp đất cát đang bồi quanh da thịt, bít kín
tai, mũi, biến mình thành một pho tượng đất ngắm trăng. Có hồi dì Phong làm
thơ:
Trời đang vào thu
Pho tượng đứng đó
Chờ cơn mưa bụi
Những chiếc lá vàng…
Chợ cháy nên coi như không có giờ giới nghiêm. Các quán ăn, tiệm nước để cửa muộn.
Đường phố đầy người dạo chơi. Vẻ khuya khoắt ở các ngõ ngách không còn lúc hai
người ra tới vùng ánh sáng quanh chợ. Họ vào một tiệm có nhiều nhạc cũ và rải
rác những thí sinh uống-cà-phê-suy-tư. Kiều Bích tự dưng nhận uống
"33" với Dần. Cô ta nói thêm:
"Nhưng uống bằng ly, có nhiều đá chớ không tu chai".
"Ăn chút gì để ngủ cho no bụng?"
Dần hỏi. Thấy đói, Kiều Bích bảo Kiều Bích muốn ăn, sợ nặng bụng, mơ nhiều. Dần
kêu phần ăn riêng mình rồi lơ đãng nghe nhạc, hút thuốc nhìn Kiều Bích vớt đá
trong ly la-de đưa mình chùi mặt. Lúc đứa bồi bàn kéo cánh cửa sắt, hai người mới
trở ra. Phố đã vắng thực sự. Kiều Bích lại kêu sợ lúc qua chợ nghe có tiếng đàn
bà khóc khuya.
Dần đưa tay ra vu vơ, lần này Kiều Bích để yên. Có thể cô ta đã mệt không muốn
kéo dài thêm với Dần ảo tưởng về mình. Có thể trời đã khuya, uống đã ngây ngất,
cô ta lại muốn trở về đời sống hỗn độn cố muốn quên đi của mình. Cô vẫn thực
ngoan lúc Dần ve vuốt, dìu về nhà. Đường rộng thênh thang, hai người đi thực chậm.
Dần thấy cái rùng mình cực nóng của người đàn bà trong vòng tay lúc đột ngột có
tiếng chó sủa. Trước mặt họ, một người lính cao lòng khòng vai đeo súng, ôm cái
mền trước bụng, quay lại đạp chân thình thịch dậm doạ con chó dai dẳng sủa cắn
phía sau. Trăng sáng chênh chếch, Dần muốn nhớ thêm ít câu thơ của dì Phong mà
không được.
Tới lùm cây trước nhà rào rào như chở bão, Dần dừng lại ôm sát lấy người đàn
bà. Người đàn bà lúng túng điều gì, lùi lại yếu ớt. Bóng những cành cây loáng
qua quật qua quật lại, cô ta như nép trong một bóng tối yên ổn. Dần nắm cổ tay
cô ta như giỡn, Dần kéo cao ống áo. Cô ta cười gượng gạo khó hiểu. Dần trỏ về
phía cổng nói nhỏ:
"Cổng khép, bà ngoại chắc đã về ngủ".
Hai người nín lặng lách qua cổng. Dần mở cửa đưa Kiều Bích vào phòng. Phòng tối
mò, Dần kiếm một lát mới ra chỗ bật điện. Dần lấy quần áo mát của mình đưa cho
Kiều Bích bảo thay cho khỏi nhàu áo dài. Kiều Bích ngồi ở mép giường đón lấy mớ
quần áo nhưng không nhúc nhích.
"Sao thế?"
Dần hỏi, thấy mình ngớ ngẩn như ước muốn được vuốt cao ống tay áo người đàn bà.
"Anh tắt đèn, ra ngoài cho em thay đồ".
Kiều Bích nhỏ nhẹ. Dần làm theo, trở ra hiên trước. Hoa lài tây rụng nhiều trên
lối đi. Những chiếc vỏ trứng úp trên cây dứa lăn long lóc trên mặt sân đất. Dần
vòng ra phía những chum nước rửa mặt.
"Dần-em về rồi đó à?"
Tiếng bà ngoại Dần hỏi ở sau nhà. Dần "Dạ" rồi vục đầu vào chiếc
thau. Thấy mát mẻ, Dần sẵn đà vào phòng tắm xối nước ào ào. Lúc trở ra, Dần vòng
về phía sau nhà, miệng huýt sáo bắt chước người bạn. Bà ngoại Dần nằm ở trên
hiên bên những nén hương đuổi muỗi cắm trong cái lon sữa bỏ cát. Dần đẩy xích
cái lon có những đầu than đỏ rung rung, ngồi xuống cạnh bà.
"Đi đâu mà về muộn thế?"
Bà hỏi.
"Cháu lại nhà người bạn".
Hiên sau khuất gió, Dần bỗng thấy khoẻ khoắn dễ chịu.
"Có ghé lại chợ không? Đời bà chưa bao giờ cảm thấy đám cháy lớn như vậy".
"Cháu có đi qua".
Dần nói và nghĩ chắc người đàn bà đã thay xong quần áo và đã nằm nghỉ. Dần cắm
lại mấy que hương đổ nghiêng, bắt gặp bà ngoại đang ngắm nghía những đốm than đỏ.
Bà bảo Dần:
"Bà ao ước được ăn một đám giỗ có đủ mặt mấy anh em con như hồi còn ở
ngoài đó".
Dần bật cười:
"Mẹ cháu vẫn bảo anh em cháu không một ai cắm được nắm hương nên thân".
Bà cụ cũng bật cười:
"Cô ấy đầu đã hai thứ tóc rồi còn ưa nói ngoa".
Dần châm một điếu thuốc, tựa cột nhìn về phía căn phòng dì Phong. "Trời
đang vào thu, pho tượng đứng đó, chờ cơn mưa bụi, những chiếc lá vàng…" Dần
ngâm nga như giọng bà ngoại vẫn ngâm Lục Vân Tiên. Lúc này Dần đã hiểu tại sao
Thắng mau chán người đàn bà. Vẻ đen đủi của cô ta như len đến tận những chân
tóc. Da thịt cô ta quả thực sa sút, tới độ mềm nhẽo, cô ta chẳng còn gì.
"Thôi, cháu đi ngủ trước".
Dần nói, dời khỏi mái hiên, vòng về trước nhà. Những chiếc vỏ trứng vẫn lăn
long lóc trên sân. Căn phòng Dần vẫn tối om. Dần gõ nhẹ cửa như chẳng thể chán
ghét đứa nhỏ đen đủi trong trí nhớ và Reita Faria trong giấc ngủ sắp tới. Dần
nghĩ sẽ ôm người đàn bà trong lòng suốt đêm dù mắt có mở lớn vì những lùm cây
reo ào ào như chở bão quanh nhà.
Giọt nước
Sau ngày Dần-anh chết ít lâu, Dần lại trở ra ở với bà ngoại
ít ngày. Trước khi nhập ngũ Dần tự dưng muốn đi xa một chuyến. Dần nghĩ tới căn
nhà bà ngoại và những năm hai anh em Dần học ở đó. Trong số bảy anh em, ngoài Dần,
Dần-anh cũng có nhiều liên lạc với đám bà con bên ngoại Dần và Dần-anh coi nhà
bà ngoại như một chỗ ở thứ hai. Dần-anh chết, Dần tự dưng hết còn muốn ở nhà. Dần
nói mình ít sức chịu đựng. Nhất là hồi này ở nhà đang mùa mưa, không đi được tới
đâu. Những buổi sáng dậy muộn, mẹ và hai em gái không còn ở nhà, Dần thường bày
cờ giải một mình. Buổi chiều thì bắt đầu mưa và thường thường kéo luôn tới
khuya hoặc sáng hôm sau. Dần tập đánh bài với chú Bách nhưng cũng mau nản. Chú
Bách là cư sĩ, hồi này lại tuyệt ngôn nên Dần rất dễ buồn ngủ khi ngồi với chú.
Dần thường chờ những bữa cơm chiều ngồi uống với mẹ ít ly rượu cẩm trong lúc chờ
con Hài đi học về hay chờ con Tấm choàng áo tơi ra bãi cỏ trước nhà xua đàn ngỗng
loáng quáng chạy về chuồng. Những chiếc ghế thửa trước đây, dành riêng cho mấy
người con trai đã không còn gợi được chuyện họp mặt. Chúng yên lặng như một vài
điều mẹ Dần có thể nhờ nhất định về mỗi người. Những ồn ào làm nên đời sống anh
em Dần đã thực sự tản mát. Những âm thanh Dần-anh mang theo cũng đã tắt ngấm
sau một tiếng nổ. Dần đi sau hôm ông lão thầy tướng tới từ biệt mẹ Dần để xuống
đò về một tỉnh miền ngoài. Mẹ Dần có những câu mờ hồ như gởi gấm những chuyến
đi của Dần sắp tới cho ông. Dần thấy tội cho mẹ, chỉ cười. Ông lão thấy tướng
đã quá già. Đi phải chống gậy và có đứa cháu kèm bên. Hồi sinh Dần-anh và Dần,
mẹ Dần kể lại, có mời ông lão tới. Giờ nghe lặp lại. Ông lão thều thào: "Từ
đó tới giờ, tôi ăn trộm tuổi trời". Ông lão đã thay cho Dần để đặt ra hai
cái tên Dần-anh, Dần-em. Mẹ Dần nói hôm đặt tên, chẳng có gì đãi ông. Chỉ có mấy
miếng đậu nướng và một con chuột cho ông nhắm rượu. Ngay từ hồi đó ông đã già lắm.
Râu ông chạm ngực. Ông khom gập lưng xuống mâm rượu, vén râu, cầm đậu, cầm chuột
bón vào miệng. Từ hôm Dần-anh chết, mấy lần gặp ông, thấy ông ngắm nghía mình,
Dần chắc ông muốn hình dung mặt mũi Dần-anh. Mẹ Dần ở nhà khóc nhiều ngày mắt
sưng đỏ. Ông tới an ủi thường ngồi lại cả buổi. Dần bỏ đi chơi có khi về gần tới
nhà vẫn nghe tiếng mẹ Dần ấm ức lớn tiếng tiếp chuyện khách. Như lời lảm nhảm một
mình. "Dạ, tôi nhớ. Bà ấy độc địa quá quắt. Không có cụ tới cúng, biết bao
giờ trời mới cho bà ấy nhắm mắt". "Một năm mà bốc được hai mươi mốt
ngôi mộ cũng là giỏi lắm rồi. Cụ còn nhớ cái đám ông Hào? Bữa đó đi nhặt xương
về, cụ dựa vào cây cột lim vừa kể cho tôi nghe vừa véo xôi ăn cụ còn nhớ không?
Cụ nói cốt ông ấy thực tốt. Đầy ắp một cái tiểu sành, đỏ đòng đọc". Mẹ Dần
như đang vuốt ve những cái tiểu sành chứa xương cốt liệu bà có thấy được gần gũi
Dần-anh thêm chút nào? Sau hôm ông lão trở ra miền ngoài, Dần dẫn con Hài, em Tấm
đi may mỗi đứa một cái áo soie Thái Lan rồi sửa soạn hành lý. Buổi tối gặp Thục
ở cầu thang lên sân thượng nhà nàng, Dần giải thích:
"Không phải anh ưa lang bang. Xa Thục anh thật buồn".
Đã hết mùa hè, trời ít còn nóng nhưng khu trường Dần đi qua hàng ngày vẫn chưa
có học trò. Dần ra tới nhà bà ngoại thì nhận được thư của Dần-anh. Bức thư để
trong cái hộc tủ của cậu Dư trước kia. Dần mở thư ra thấy Dần-anh nhờ mình chuyển
cho con nhỏ láng giềng bà ngoại mấy tấm hình hắn chụp lúc ra trường. Dần đưa bà
ngoại coi, bà cụ bảo:
"Nhờ có chính phủ đánh dấu nó, bằng không ai mà phân biệt được hai đứa
mày".
Dần vứt mấy tấm hình vào hộc tủ, nghĩ đưa cho con nhỏ lúc này thực vô ích. Hồi
còn sống, còn ở ngoài này, đã nhiều lần hắn xiêu lòng muốn trốn đi với con bé.
Cậu Hiền gọi mắng, hắn cười bảo con nhỏ đó quyến rũ chứ hắn thì không có lòng dạ
nào. Thấy hắn rắc rối, Dần cũng bảo hắn: "Con gái người ta nuôi nấng mười
lăm, mười sáu năm, giờ bỗng chốc chạy tới xúi nó đi trốn, mất dạy hết chỗ".
Dần-anh dở giọng tâm sự: "Tao đâu có ý đó. Chừng nào gặp được người như dì
Phong tao mới phải tính". Hôm nghe tin Dần-anh chết, con bé bỏ đi đâu mất
một hôm. Nó nằng nặc đòi Dần cho theo về đưa đám, Dần nổi giận nó mới chịu im.
Thấy Dần trở ra, nó mừng rỡ không nén nổi. Có con bé xinh xắn như nó ngồi nói
chuyện cho bớt thì giờ, Dần cũng đỡ chán. Dần bảo:
"Đừng nói chuyện Dần-anh nữa".
Nó nói:
"Không nói chuyện ảnh, biết nói chuyện ai bây giờ?"
Dần trỏ mình:
"Nói chuyện tôi đây. Khỏi bịnh rồi, tôi cũng đi lính nữa".
Buổi tối xuống ngồi nhà cậu Hiền ăn bánh bèo, Dần rủ con bé cùng đi, nó từ chối.
Cậu Hiền bảo Dần: "Qua cái tang thằng Dần-anh, mày cũng nên lấy vợ thì vừa.
Đùa dai mãi có hồi ế vợ". Dần cũng trả lời, giọng đùa: "Cháu cũng định
vậy. Nhưng nói ra trước khi cậu nói, sợ cậu nghi". Câu chuyện lấy vợ thành
một điều để mọi người nói vui suốt tối hôm đó trên mảnh sân thượng mốc những tảng
rêu đã khô. Cậu Hiền khoe với bà ngoại có trà Hồng Kông. Dần uống mấy bình liền.
Lúc hai bà cháu mò mẫm bước xuống cái cầu thang tối thui, khuất trăng, Dần mới
thấy nặng bụng. Đã lách ra ngoài cái cửa sắt ở mặt hàng dưới nhà, Dần còn đem
chuyện lấy vợ ra trêu bà ngoại. Về nhà, hai bà cháu vừa lượm những chiếc vỏ trứng
lăn dưới sân phát sinh trở lại các đầu lá cây dứa làm cảnh vừa bàn về một người
con gái Dần mới bày đặt trong trí.
"Lấy vợ đi rồi bà cho cái nhà lấy chỗ mà ở".
Bà cụ nói. Khi đưa bà về phòng, bật đèn cho bà, quay trở ra Dần ngẫm nghĩ rồi bảo:
"Cháu tính đi lính rồi mới cưới vợ".
Dần trở về phòng mình, nghe bà thở dài và tên dì Phong sau lưng. Mỗi lần nghe Dần
có dự tính bà vẫn có thói quen nhắc tới dì Phong. Bà gọi dì và Dần, bọn lười biếng
chúng mày. Dần thực tình không hiểu. Vì dì Phong trước sau vẫn khó hiểu đối với
Dần. Dì sống hiếu thảo và uể oải với riêng mình. Lòng hiếu thảo và tính uể oải
thì không bao giờ để một người con gái như dì phải đột ngột xa nhà, phải bỏ cuốn
tiểu thuyết của Mai Thảo đang đọc dở dang. Trước sau, dì vẫn không là người có
nhiều chuyện đáng nhớ. Những điều giúp dì có dịp để nói nhiều một chút quanh quẩn
là những điều nói về cậu Dư. Cậu ấy chết rồi thì những tin mới nhất về cậu là mấy
cái hộc tủ đầy nhóc thư từ của bạn bè cậu, bỏ xuống bếp để dì Phong mồi lửa và
có cái mà đọc những bữa nấu cơm.
Bà ngoại Dần đã đi ngủ. Con bé láng giềng vẫn ngồi nói chuyện.
"Từ hồi anh Dần-anh chết, tôi muốn được nói chuyện tối ngày. May mà anh ra
chơi… Con bé bỏ lửng nhìn Dần. Dần nhìn thân thể xinh xắn hết lớn thêm của nó
nghĩ không biết đang nghe một người lớn hay một đứa trẻ con. Con bé cười, nói
tiếp. Nó nhắc lại chuyện tình của nó với Dần-anh. Đây là lần đầu nó nói chuyện
đó với Dần. Nó muốn sống lại những kỷ niệm vặt. Dần nhớ những lần nó nôn nả chờ
đi trốn với Dần-anh. Nó con nít khi ngỡ lấy chồng là một cuộc đi chơi xa với ít
nhiều hồi hộp. Nhưng nó thực đàn bà khi liều lĩnh hối thúc Dần-anh bất kể đêm
ngày. Dần-anh vừa thương vừa sợ nó. Đã có hồi hắn không dám quyết mình hay nó,
ai lớn ai trẻ con. Dần bảo hắn: "Cả hai đều con nít hơn". Dần-anh nổi
giận: "Mày không yêu con Thục sao mà dám lên mặt chê tụi tao con
nít?"
"Khuya rồi đó, về đi".
Dần bảo con bé lúc bắt đầu nản.
"Giờ mà đã khuya".
Con bé nói, nhìn Dần, ngạc nhiên.
"Không khuya nhưng nói mãi chuyện Dần-anh nghe nản lắm".
Con bé thực sự im lặng. Người nó thu nhỏ, Dần an ủi:
"Không phải tôi ghét chuyện của hắn…"
"Ai nói anh ghét Dần-anh".
Con bé nói. Và chợt kêu trong hình dạng thu nhỏ của nó.
"Nhưng sao anh không muốn nghe? Anh Dần-anh đâu có vậy".
Dần bực mình:
"Tôi không là Dần-anh".
Con bé đứng dậy, nhìn Dần rồi cúi đầu bước ra cửa:
"Tôi về nghe anh Dần".
Giọng nó nhỏ trở lại, nghe buồn bã.
Dần vận quần áo ra phố. Trời úa, mặt trăng mỏng non choẹt muốn mưa. Những ngày
khô sắp qua. Dần nhớ những cơn mưa nhỏ đầu mùa ở đây. những đêm những ngày gió
nam lốc bụi sắp hết. Ngày tháng thành một thứ trang trí bó buộc vô ích. Dần nhớ
Thục như mọi lần vừa xa thành phố. Kỳ này về, buổi tối đứng ở cầu thang lên sân
thượng nom Thục ốm đi nhưng đẹp ra. Thục cười bảo: "Có nhiều đứa nhỏ mười
sáu, mười bảy đã lấy vợ lấy chồng. Bọn mình thì vớ vẩn mãi, chẳng ai biết
lo". Dần đùa: "Anh thì có hai tên Dần mà vẫn chưa nên cái hình dạng
gì". Thục kêu: "Anh đùa nghe gớm chết. Đừng nhận vơ nữa, để Dần-anh
được yên". Dần-anh đã thực sự không bị quấy rối. Nhưng hắn mất, Dần vẫn thấy
ở đâu đó, trong tiết nào đó, vẫn còn những người mặt mũi hệt mình, Dần nhớ tới
những người anh còn lại. Những người đó chỉ muốn Dần và Thục cưới nhau cho
xong. Dần viết những thư mù mờ trả lời: "Tụi tôi còn yêu nhau thì cưới
nhau thế quái nào được".
Dần vào một tiệm nước, tiệm nước đó, trong đêm gió to hôm nào Dần vào với người
đàn bà mang tên giả. Một quân nhân thấy Dần hỏi lớn:
"Ra đây hồi nào đó?"
Dần đưa tay bắt, ngồi xuống bàn anh ta.
"Uống gì?"
"Soda chanh, về ngủ cho tiêu".
Dần đón điếu thuốc anh ta mời, cười hỏi:
"Giờ đóng ở đâu?"
"Cách quận Biên Xuân ba chục cây".
"Ngán không?"
"Giờ thì quen rồi. Lúc đầu, nghe súng là ỉa đái đầy quần".
Hắn hỏi Dần:
"Lấy vợ chưa?"
"Vợ đâu mà lấy".
"Lông bông hoài vậy sao?"
Dần gật, thấy ngượng như vừa làm dáng. Người lính than phiền vài điều vặt vãnh,
dài dòng. Dần yên lặng nghe, cố nhớ xem đã gặp anh ta ở đâu.
"Đ.m., nhiều lúc chỉ muốn giết hết. Ê, uống thêm băm ba, con trai gì mà yếu
thế?" Dần bảo uống thêm cũng chẳng sao. Người lính đã có vẻ ngất ngư, mỗi
lúc thêm ít nói. Thỉnh thoảng như nhớ có Dần trước mặt, anh ta ngửng lên nhìn
chằm chằm rồi cười vu vơ hoặc đột ngột hỏi Dần một câu tục tĩu về trai gái. Lúc
ra khỏi quán, Dần hỏi:
"Còn ở đây lâu không?"
"Còn tùy".
"Tôi vẫn ở chỗ cũ".
Dần nói mù mờ. Anh ta gật đầu:
"Ờ chỗ cũ… chỗ cũ là chỗ nào?"
Dần tả sơ qua nhà mình. Anh ta cúi đầu nghe nặng nhọc.
"Ờ hiểu rồi. Lúc nào rảnh sẽ ghé chơi".
Anh ta nhảy lên một chiếc xích lô sau cái siết tay thực mạnh…
"Thôi… bai bai…"
Dần ghé vào nhà cậu Hiền kêu bọn nhỏ mở cửa lên sân thượng xin cậu uống trà.
Hai cậu cháu ngồi giữa chiếc ghế bố căng mùng ồn những tiếng ngáy. Dần ngại về
vào lúc có cảm tưởng con nhỏ láng giềng chưa đi ngủ. Đã hai lần nó ở lùm cây
trước cổng chạy ra quấn quít hỏi Dần sao về khuya vậy? Nếu còn Dần-anh để nói về
nó, chắc hắn lại kêu nó quá cô đơn. Mặt trăng như ở cuối con đường rộng vắng
người dưới kia, sau dãy đèn néon trắng xanh, Dần cố nhớ xem đã gặp người lính ở
đâu vẫn không nhớ nổi. Hay anh ta đã lộn Dần với Dần-anh? Có lẽ vậy. Dần phỏng
đoán để khỏi phải nghĩ tiếp. Dù quen anh ta hay không, câu chuyện cũng chỉ có bấy
nhiêu. Ở trong một cửa tiệm, một bến xe, một phòng hội… cùng lúc, có thể có nhiều
người cùng nói tay đôi, tay ba cùng một câu chuyện đó. Dần muốn giờ này ngồi với
Thục trên cái sân thượng cao ngất đó. Dù chỉ im lặng, dù chỉ nói những câu có
thể nói với bất cứ ai như với người lính vừa rồi.
Dần trở về, cậu Hiền tự mình xuống dưới nhà mở cửa. Tới ngõ, Dần tự dưng, nhìn
ngay về phía lùm cây trước cổng. Thấy có bóng con bé nhô ra. Nhưng lần này nó
có vẻ lẩn lút và chạy ngay về nhà nó. Dần không hiểu nổi nó nữa dù vừa nghe những
mẩu chuyện tục tĩu của người lính. Dù có nhớ tới Dần-anh mà nói nó quá cô đơn.
Dần trở ra chỗ để những cái chum múc nước rửa mặt. Trời kín mây. Mờ mờ trước
thêm nhà bên kia, con bé đang ngồi tựa cột nghêu ngao hát. Bóng tối đậm dần
trên mảnh sân nhà nó. Nó hát nhưng mặt hất cao, như nhìn trời, như đang có một
mảnh trời trăng sao trong đầu, như không còn ai để rủ đi trốn.
Dần vục đầu vào thau nước, muốn không có hình ảnh nào về nó. Từ đêm giấu người
đàn bà mang tên giả trong nhà, Dần thực sự thấy trí tưởng mình bỏ không. Đời sống
thường ngày như hết còn khêu gợi hợp lý. Chiến tranh như không còn gợi cảnh bom
đạn, kẻ thù không còn gợi những sắc diện dã man… Dần chỉ còn những hình ảnh dị
kỳ tràn ngập, kết hợp với nhau một cách vô lối. Hôm đó, người đàn bà lấy ngón
tay trỏ đen đủi trỏ vào trang sách dì Phong đánh dấu bằng mụn vải vàng, làm bộ e
thẹn nói: "Em cũng thích tiểu thuyết ông Mai Thảo". Trang sách, mụn vải
giờ đâu có còn gợi riêng dì Phong những lúc ngừng đọc, lại trước gương bầu dục,
cột lại tóc, đi sửa soạn bữa ăn? Khuôn mặt âm thầm, mê mải của dì lúc nằm đọc
giờ hiện cùng lúc với mấy lóng tay trỏ đen đủi ở từng trang sách.
Dần vào nhà, vừa bật đèn đã thấy con nhỏ bước sang.
"Chắc anh phiền tôi lắm?"
Nó hỏi, muốn ẩn bóng vào những hàng cột.
"Xin lỗi anh".
Nó xúc động. Dần lại gần nó thấy nó chỉ bằng con Hài ở nhà.
"Cô rắc rối lắm".
Dần như nói với em mình. Con nhỏ ngồi xuống mép ghế, có dáng e sợ.
"Tôi biết làm phiền anh nhưng cũng không biết cách nào hơn, anh bỏ lỗi
cho. Thương anh Dần-anh thực tình nhưng má tôi, mọi người chẳng ai chịu tin. Má
tôi nói tôi còn nhỏ, nay khác mai, mai khác mốt, chớ có thương liều. Tôi thì biết
tôi thương ảnh như hết còn ai khác để thương. Tôi khôn lớn là vì thương ảnh,
anh tin tôi đi".
Dần ngắt ngang:
"Giờ Dần-anh chết rồi, nói lại làm gì".
Con nhỏ bối rối, giọng cố gắng:
"Anh có nhìn mặt ảnh lúc cuối không?"
"Hắn chết thực rồi".
Dần nói ngô nghê và hoang mang như muốn ói. Dần lấy một điếu thuốc châm hút.
Con nhỏ trước mặt như thực sáng suốt, thực tình như ở một thế giới nào khác. Nó
như một người đồng bóng. Dần ái ngại:
"Dần-anh chết thực rồi, cô tin chứ?"
Nó gật:
"Tin. Có tin tôi mới bỏ đi một ngày. Lúc đó tôi nghĩ anh Dần-anh cũng đi
lính như mọi người. Nhưng từ bữa anh ra, tôi thấy có điều khác. Ở nhà tôi nhìn
sang, thấy anh đi ra đi vô, tôi nghĩ ảnh chưa chết. Tôi buồn như bị phụ tình".
Con nhỏ không có giọng cố tình. Dần có cảm giác nó gần gũi mình. Trang sách của
dì Phong và những lông tay đen đủi bỏ đó. Dần giục nó về.
Lúc này tốt hơn hết là nghĩ đến lời má cô. Cô còn nhỏ, nay khác mai, mai khác…
Nó oà lên khóc. Dần đứng yên vuốt nhẹ trên tóc nó. Ở những bụi cây dưới sân, bụi
cuốn xoay tròn, bốc cao. Hai người như ở một thế giới mộng du.
° ° °
Dần dời xứ này đột ngột như lúc tới. Ở đây Dần-anh không sống,
không chết hẳn, nhưng không ngớt ám ảnh. Con nhỏ hàng xóm làm bực mình như tiếng
than vãn hàng ngày của đám trai gái trong máy thâu thanh. Nhớ lại mấy câu thơ của
dì Phong, trước hôm đi, Dần cười bảo con nhỏ những ngày còn lại của mùa khô này
là mùa thu. Những buổi sáng dậy muộn, trời cao và mát. Đi ăn sáng vào giờ mọi
người đã ở trong sở làm. Gặp một vài người ngờ ngợ như người lính không rõ liên
hệ bữa trước. Gió còn lớn lắm. Những cục đá, thanh sắt buộc lủng lẳng dưới những
tấm màn che nắng trước các cửa tiệm thành những thứ đánh lén người đi trên vỉa
hè. Con đường có nhiều tiệm ăn biến thành một con sông cát, màu vàng nhờ nhờ.
Người cảnh binh chỉ đường trên các bục tròn nhiều lúc khom người, hai bàn tay
bưng mắt. Mấy cậu nhỏ chở từng tảng nước đá, nước ròng ròng phải nhảy khỏi xe đạp
khom lưng đẩy ngược gió. Con nhỏ đưa Dần lên hãng hàng không, nói như với Dần-anh
hồi nào:
"Vô Thủ Đức anh nhớ viết thư về ngay".
Dần bảo nó:
"Nhưng nếu có trễ cũng đừng có trách, đừng chờ mất công".
Dần không muốn nói dối nó. Muốn nó sớm quên được mọi chuyện. Muốn quên nó. Muốn
xa hẳn những người còn nhìn Dần như Dần-anh. Nhưng Dần biết mình không đi xa được.
Dần đã thực sự thua kém dì Phong. Sự vắng mặt của Dần có chăng chỉ để trống
thêm một chiếc ghế thửa trong bữa cơm với mẹ, các em.
Dần về nhà, mẹ Dần mừng như đã lâu không gặp. Bà bảo Dần nói chuyện cho bà
nghe. Dần nói qua loa. Bà ngoại vẫn vậy. Gia đình cậu Hiền vẫn vậy v.v. Dần
nghĩ tới việc gặp Thục, rủ Thục đi sắm vài thứ và nếu buổi sáng không mưa sẽ đi
thăm mộ Dần-anh. Chập tối, trời mưa, uống của mẹ mấy ly rượu cẩm, Dần vào nhà
sau nằm ngủ. Nằm trên giường, Dần thấy mỏi ê ẩm. Gian phòng nhỏ, như của riêng
con Tấm. Từ hồi đi hướng đạo, nó cứng cỏi như con trai. Một tủ thuốc nhỏ treo
trên tường sơn quét vụng về. Một bó cọng sắt để làm sacoche với đôi giầy nom nặng
nề đặt trên một chiếc bàn thấp. Trên cái giá gỗ sát tường, mũ chóp nhọn, dây
da, còi, hộp đồ thêu v.v. để gọn mắt. Một bức hình cỡ lớn treo ngay chỗ đầu giường
có cảnh một đoàn hướng đạo bắc một cây cầu gỗ. Một câu khẩu hiệu ghép bằng các
đoạn dây màu treo dọc theo sợi dây thép giữa phòng "ĐƯỜNG ĐI KHÓ, KHÔNG
KHÓ VÌ NGĂN SÔNG, CÁCH NÚI…". Dần chợp mắt một lát, tỉnh dậy thấy đồng hồ
trên bàn mới hơn tám giờ. Ngọn đèn được vặn nhỏ từ hồi nào. Cơn mưa đã tạnh. Dần
kéo câu khẩu hiệu, sửa cho các chữ cách đều nhau rồi ra nhà ngoài. Mẹ Dần đang
viết biên nhận cho những người chơi hụi. Con Hai đang ủi quần áo, con Tấm đang
cặm cụi sửa chiếc máy ra-dô. Ngồi nói chuyện với mẹ một lúc, Dần thay quần áo,
đến nhà Thục. Ghé vào nhà người bạn mượn chiếc xe, Dần đi thẳng Sài Gòn. Trời tối
thẫm, hơi nước lạnh. Qua vùng ánh sáng những phố lớn, Dần tới vùng xưởng máy tối
thui nhà Thục. Thục xuống lưng chừng cầu thang thì gặp Dần. Hai người đứng đó
nhìn xuống những khu phố phía dưới, nói chuyện. Thục bảo:
"Đừng nói chuyện Dần-anh nữa, anh".
Dần cười trong miệng:
"Thục không nói mau, anh đã rủ Thục đi thăm mộ hắn".
Thục kêu:
"Đi thăm mộ Dần-anh?"
"Có đi ngay bây giờ đâu mà Thục phát hoảng lên thế".
"Ban ngày em cũng không đi. Em sợ thực tình rồi đó".
Dần hỏi ngớ ngẩn:
"Sợ gì?"
Thục quay đầu ra ngoài cầu thang nhìn xuống vùng tối phía dưới, giọng nói như
giọng người mẹ ru con:
"Đừng nói tới Dần-anh nữa. Anh còn đó… thì đừng bao giờ nói tới Dần-anh nữa.
Khói trên mặt nước
Về sáng, lúc đàn ngỗng kêu dáo dác, Dần thấy mẹ và em gái đã
dậy sửa soạn thùng để hứng nước mưa. Giấc ngủ trong gian buồng bừa bộn đồ dùng
con nít của Tấm, yên ổn không mộng mị. Trời đổ mưa. Dần ra ngoài giúp con Tấm đổ
nước vào phuy. Một vài trái sáng cuối đêm nom rõ dù trong cột khói, rải rác, tản
mát. Bóng tối đầy lại thực mau với cơn lạnh nhiều hơi nước trở vào, Dần hình
dung căn nhà về sáng có Thục ướt át chuyển những thùng nước giúp mẹ. Chuông nhà
thờ phía sông đổ hồi gọi con chiên buổi sớm. Dần hỏi mẹ:
"Anh ấy đã có vợ con gì chưa?"
Mẹ Dần bật cười:
"Hỏi ngớ ngẩn như Mán xuống núi. Vợ nó là con Cả Sán chứ ai".
Dần đột ngột thấy trí nhớ rung động trong sự tìm quen mờ mịt. Những cái tên
riêng như lời hướng dẫn nửa chừng. Anh Tốt. Chỉ còn một cái tên đó soi rõ. Con
Tấm ngồi thủ bọc trên giường bảo:
"Có những cái chum của bà ngoại ở đây thì thích quá.
Mẹ Dần hỏi như không định:
"Bà ngoại có hỏi gì về tin tức dì Phong?"
Dần lắc đầu:
"Không thấy bà nhắc tới. Trừ lúc bà bảo "Mày giống dì Phong
mày". Con cũng giấu chuyện mẹ gặp dì ấy".
"Già rồi bà bắt đầu lẫn… Nói nói bữa nay về ăn giỗ Dần-anh mà không biết
có thực không?"
Mẹ Dần cười không rõ rệt. Con Tấm vặn máy thu thanh nho nhỏ nghe buổi đọc truyện
về sáng. Truyện Chung Vô Diệm với tiếng kèn hát bội réo rắt bít kín thông cảm.
Truyện đọc thực hay. Trong cảnh nửa tối nửa sáng, mẹ Dần có vẻ dạn dĩ trong ham
thích nói về họ ngoại. Dần lười biếng để lòng mang về những đời sống không có ở
đây. Giấc ngủ chưa dứt hẳn. Những điều nhớ về anh Tốt, những lời nghe mẹ nói mơ
mơ như thoảng qua. Mẹ Dần tỏ ra ít khe khắt nghe bà ngoại nói Dần giống dì
Phong. Trước giờ bà vẫn giận những ví von kiểu đó. Thực tình, bà không muốn con
cái giống mẹ. Những người đã khuất bên họ ngoại còn được nhớ tới bây giờ thường
có cái chết xanh xao của ý tưởng. Chén độc dược và bài thơ tự thuật trên mặt
thành của một sĩ phu thủ tiết. Phát súng kê vào màng tang của một người Cần
Vương với đám tàn quân không tìm được hướng để vọng bái anh quân trước khi tự kết
liễu. Những bài vè ngạo cợt của một người áo dài khăn đóng dán lén ở cổng đình,
cột chợ và vuông vải trắng trên cành cây vào mùa xuân đám trai gái đánh đu chạy
ùa ra đầu làng đón quan công sứ. Người cậu ồn ào đòi hỏi và kết tội bừa bãi với
cặp mắt mệt mỏi chậm rãi khép lại vĩnh viễn như một nhận thức về liên hệ xã hội
vào phút chót. Giờ thì dì Phong bỏ đi như người cuối cùng của dòng lãng mạn. Những
người đó đã sống và chết theo từng luồng tư tưởng mỗi thời. Họ không ăn nhằm gì
vào buổi sớm nay. Như Chung Vô Diệm với tiếng kèn hát bội réo rắt. Buổi sáng
nay không có chi đặc biệt. Ngoài tiếng ngỗng dáo dác, tiếng mưa và dự tính sẽ gặp
anh Tốt coi xem mặt mũi anh có khác trước chút nào.
Cơn mưa tạnh dần, trời hửng sáng. Mẹ và hai đứa nhỏ đi khỏi. Đàn ngỗng ra khỏi
chuồng dẫn nhau về sân trước coi nhà. Dần thay quần áo đi về mạn bờ sông. Bên
kia sông là khu chợ và vài con phố mới lập. Bà con Dần thực nhiều bên đó. Một
cây cầu gẫy sập ở kế khúc quanh. Mặt trời mới, như nỗi náo nức quanh quẩn. Luồng
nước sáng dần chảy chậm qua những vòm sắt cong queo. Dần nhớ những buổi sáng mấy
anh em đi với mẹ ra đầu cầu sông Cái chờ cha. Một con đò sang ngang chở những
người vận áo vải mới và mấy vòng hoa cho một đám ma bên nhà thờ. Dần nghĩ giá
có Thục cùng đi. Thục vẫn che giấu bớt vẻ một mình lủi thủi của Dần. Những chiếc
thuyền đang dời chỗ đậu mang theo những luồng khói trôi nổi trên mặt nước. Dần
chào mấy người quen vội vã qua sông để vào thành phố làm thêm ngày Chủ nhật. Chủ
nhật. Ngày mai sẽ gặp lại Thục dưới chân pho tượng đồng.
Qua sông và một cánh đồng hẹp, tới khu phố chợ. Những dãy nhà tôn, nhà lá lẫn lộn.
Những con đường ổ gà có bóng mát của hàng cây mới trồng, trên mười năm. Đám bà
con không có gì đổi khác. Vẫn những ồn ào nằm gọn trong lòng cánh đồng phẳng lặng
lại gần mới biết. Cuộc sống lao động không có nổi những nhát cuốc bổ trên mặt đất
tự đánh dấu. Anh Tốt. Tiếng vang không gợi được hình sắt hiện sinh. Anh như một
cái bóng trong truyện, đã lùi thực xa. Mồ côi từ nhỏ, khi hai tay ôm nổi cái chổi
lá cau anh đã sống trên mảnh sân Bát Tràng nhà Dần. Vào những ngày loạn đến gần,
anh bắt đầu vỡ tiếng và khoẻ như cái cối đá. Cha Dần mang mấy người con lớn đi
những chuyến đò dọc lên Thái Nguyên. Còn lại mẹ Dần mang thai con Hài, anh Tốt
và Dần ở nhà. Những buổi chiều rủ Dần ra đóng cổng, anh vỗ bụng tự xưng là cái
hột mít. Tháng tám mưa trên nền nhà trồng rau cải. Ao hồ nước lên cao, bèo non
nở kín dầy mặt nước. Đi trên đường làng đầy những hàng rào chướng ngại, anh Tốt
tít mắt thấy Dần đồng lõa cho uống trộm một ngụm rượu mua về cho mẹ chữa bệnh.
Anh làm bộ ngất ngưởng đá vung những đám lá dừa làm giật mình những con ếch chồm
hỗm trên những cụm bèo dưới ao. Giọng vỡ tiếng nghe lạ như của một người say thực.
Anh hát: "Giờ đây con với u đi tìm thầy, tìm thầy mấy tháng nay mà không
thấy…". Mẹ Dần bảo gở, cấm hát, nhưng anh không chừa. Anh kiếm đâu được chữ
bí mật đem ra doạ Dần: "Tao còn biết nhiều bài bí mật nữa, khi nào thích mới
hát. Nhiều đêm anh xin phép mẹ Dần cho đi công tác. Mờ sáng anh mò về thì thầm
với Dần tối qua anh đi với thực nhiều người, đi thực xa. Dần thì cho là anh bắt
đầu mê gái. Vào một buổi chiều Dần đang ngồi câu cá ở bờ ao, anh Tốt từ đâu về
hớt hải nói giặc tới. Mẹ Dần sắp tới ngày sinh, tính với anh Tốt tìm nơi an
toàn để ở yên một chỗ. Không có nơi nào ngoài quê ngoại của mẹ Dần ở trong vùng
địch. Ba người sửa soạn thực mau. Ra tới đầu ngõ hai mẹ con Dần phải đứng chờ một
hồi lâu anh Tốt mới đóng xong cổng, kiếm được một lối bí mật để ra ngoài. Buổi
chiều mưa. Những đoàn người bỗng tụ bỗng tản mát trên những cánh đồng, những
khu xóm lạ. Những chuyến đò qua hồ, qua mương với những người đàn ông cởi truồng,
những đàn bà váy phùng mặt nước bơi theo. Nơi nào cũng như có súng giặc nổ chặn
đường. Gần tối, đám người chạy những đoạn đường gần đã khuất vào các thôn xóm.
Còn lại ba người. Hai đứa nhỏ rét lạnh và người đàn bà trên bờ đê đứt khúc bỡ
ngỡ định hướng tìm quê ngoại. Khi tới nơi, mẹ con Dần được đón tiếp thực niềm nở.
Anh Tốt và Dần ôm nhau ngủ trong căn buồng chứa khoai chứa củ. Một ngày trên đất
lạ, Dần và anh Tốt làm mẹ Dần cũng nhớ nhà lây. Quê cũ của bà ngoại không làm mẹ
Dần yên lòng. Dần nghe anh Tốt kể chuyện vào buổi sáng hai người rủ nhau ra vườn
lánh những mặt lạ. Đứng rũ dưới cây khế ngọt, những lúc ngơ ngẩn, trí nhớ
loãng, không bắt được một mẩu chuyện để an ủi Dần, anh hát "Giờ đây con với
u đi tìm thầy…". Ba người lại trở về vào buổi chiều. Nhá nhem tối chưa đi
được nửa quãng đường tuy lần này không phải chạy xa tiếng súng. Những cây cầu
cheo leo ngang sông, những vũng nước ngập đầu giữa đường và những xóm nhà xa
không ánh đèn. Anh Tốt trỏ một ngôi chùa bị phá dở dang, nói đã có đêm cùng
đoàn người xuống tận đây dỡ ngói. Anh tả suốt đêm phải khom lưng trên mái chùa
muốn gẫy lưng. Dần chắc anh bịa nhưng thích nghe. Cuộc phiêu lưu của anh đầy những
thế bò và mang mọi người lại gần, làm quen với những cảnh hoang sơ xa lạ. Về tới
khu chợ, trời đã khuya. Những cây đa, cây đề um tùm bóng tối, những gian quán lợp
ngói bỏ không, khúc rẽ của ma lợn, ngôi miễu ma trơi, chiếc võng trong rặng tre
của một bà già mù xõa tóc kẽo kẹt trong đêm. Anh Tốt cắm đầu bước. Im bặt lời bịa
đặt phiêu lưu. Nhà bà ngoại ở ngay đầu làng, mẹ Dần định sẽ vào ở đó chờ sáng sớm
về. Tới cổng làng mới nghe tiếng anh Tốt. Đột ngột tiếng đứa trẻ đập tay vào
cánh gỗ lim cùng tiếng gọi thảng thốt của một giọng khàn khàn vịt đực. Dần nghĩ
ngày mai đón Thục dưới chân pho tượng đồng sẽ có thêm chuyện nói. Vào tới con
đường đất đỏ chạy giữa hai dãy nhà, Dần gặp chị Lý.
"Về hồi nào đó cậu?"
"Được vài hôm".
Chị Lý đang ngồi chơi với đứa con trai dưới giàn hoa giấy. Hai mẹ con bỏ dở cuộc
nô giỡn. Dần cầm bàn tay còn hai ngón của thằng bé dắt vào nhà. Chị Lý theo sau
rối rít hỏi chuyện. Dần hỏi:
"Chủ nhật ăn lương gấp rưỡi sao không đi làm?"
"Làm mãi, chết xác để lấy tiền nuôi béo nó à?"
Dần nhìn khắp nhà chắc chồng chị đi vắng. Dần cười với thằng bé trố mắt ngồi
trên đùi. Nghe Dần nói sang gặp anh Tốt, chị bảo anh chắc quanh quẩn ở một bàn
bạc nào đó. Từ bữa ở chi Chiêu Hồi được về, anh ở mỗi nhà mấy bữa, ăn no lại nằm.
Chỉ có nhà chị là tệ, chị đi làm, chồng chị đi hút cho béo, anh Tốt ghé chơi có
lệ. Dần hỏi:
"Hai vợ chồng chắc đã lộn xộn?"
Chị Lý kêu lớn nguyền rủa. Chị bảo thằng nghiện đó vẫn không ngớt nhắc tới quả
pháo tống hồi tết. Tối qua, thằng chết đâm lại cuốn tóc chị đánh như đánh kẻ
thù. Chị thấp giọng:
"Nó vẫn còn tiếc những lóng ngón tay của thằng bé gói trong giấy bông đỏ vứt
ngoài sông".
Dần hút một điếu Salem trong gói thuốc chị Lý. Căn phòng đầy những đồ Mỹ. Chị
Lý khoe mới lên lương. "Phải giấu, không cho thằng chết đâm biết".
Răng chị nom lạ mắt. Lặp lại chuyện tối qua, chị vẫn muốn la hét với cái mồm mới
cạo răng trắng.
"Bao giờ cô Thục cho chị ăn cỗ?"
Chị hỏi lúc Dần đứng dậy. Dần bảo:
"Tối nay giỗ trăm ngày Dần-anh, hai mẹ con sang chơi".
Ngoài đường mưa rơi nhỏ. Dần đi thẳng tới nhà anh rể. Dưới mái tôn trước nhà,
xe gắn máy để thành hàng. Chắc của đám đánh bạc. Ngày nghỉ không phải trực
trong đồn, anh Kính vẫn mời mấy người làm sở Mỹ tới ăn uống, đánh bài để lấy
xâu. Dần vào nhà, vợ chồng anh Kính có vẻ mừng. Dần chào mấy người ở bàn tổ
tôm, có ý kiếm anh Tốt.
"Nó vừa đi mua phở cho anh Thắng".
Anh Kính nói. Thắng ngồi ở bàn tổ tôm cười bảo Dần:
"Bây giờ nom đồng chí già gấp hai tuổi cậu".
Dần hỏi Thắng:
"Nghe anh sắp nạp đơn vào Quốc hội?"
"Thì cũng mới định vậy. Anh em họ giục dữ quá".
Anh Kính hiền lành nhìn Thắng nói và cười phụ. Dần bảo anh:
"Vợ con binh sĩ, công chức mỗi người được thêm hai trăm tiền gạo, cũng đỡ?"
Anh Kính cười rộng thêm:
"Thì cũng biết mừng vậy".
Cánh cửa đẩy hé cho một người bước vào. Dần gọi:
"Anh Tốt".
Người đàn ông tay xách cái gà mèn bỏ nón, ngạc nhiên nhìn Dần.
"Anh già quá, anh Tốt".
Anh Kính đón cái gà mèn chuyển vào bàn tổ tôm. Tốt cười:
"Anh nom cũng lớn".
Dần bảo lại bàn uống nước nói chuyện, Tốt lấy trong túi áo bà ba một xấp giấy
vuông nom như giấy lau đũa bát ở một tiệm ăn, nhón một tờ lau bộ mặt lởm chởm
râu ướt nước. Anh Kính vứt cho hai người một gói thuốc thơm. Tốt kéo vài điếu
nhô ra, mời Dần:
"Vào tới đây cái gì cũng thấy lạ".
Bộ mặt Tốt vẫn tròn, mắt vẫn híp nhưng hai vai thực gầy. Dần hỏi:
"Ở ngoài ấy có mấy con rồi?"
Tốt cười híp mắt. Tiếng trả lời không rõ. Trong buồng, chị Kính ru con:
"Làng Phù Đổng có một người. Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ. Những
ngờ oan trái bao giờ. Nào hay thần tướng đợi giờ ra quân…".
Dần nhìn ra ngoài trời, bảo Tốt ra kiếm la-de uống chơi. Hai người ra một cái
quán gần cánh đồng. Tốt bắt đầu bỡ ngỡ. Anh cười nói dóc rằng, người đàn bà mặc
váy cầm cái vồ đứng bên cái chuông bằng vỏ bom báo chí trong này đăng hình
chính là vợ anh. Vẻ lù dù của mái tóc rậm và đôi vai so giảm bớt ở cái cười
tinh quái thoáng có. Dần hỏi anh có dự định gì không. Anh bảo chắc Thắng sẽ
giúp việc làm. Giờ tới ngày bầu cử, anh sẽ đi vận động cho Thắng.
"Anh ấy bảo có muốn lấy vợ anh ấy giúp".
Tốt nói. Dần bật cười không tin:
"Hắn lấy vợ cho hắn còn chưa xong, giúp được ai. Ở khu chợ này đám con gái
già không đứa nào không chửi hắn. Hắn ứng cử vì hỏi vợ mãi không ai ưng".
Tốt hỏi:
"Anh không ưa anh ấy?"
"Dần-anh còn sống mấy lần suýt đập lộn với hắn. Dần-anh ghét hàng ria mép
của Thắng".
Dần cười dài nắn nắn cánh tay xâm chằng chịt của Tốt, thấy hai người nói những
chuyện trẻ con lúc nào không hay. Trỏ chữ tím thẫm trên da, Dần hỏi:
"Xâm hồi nào đó?"
Tốt tít mắt:
"Làm ở chi Chiêu Hồi. Họ bảo đó là chữ Sát Cộng. Cái đầu rồng làm thêm ở
ngực mới đẹp".
Dần đùa:
"Nếu còn chỗ nên xâm thêm cái hình vợ anh đánh chuông".
Lúc trở về, mưa tạnh, nắng sáng trong, Dần gặp người chú tuyệt ngôn đội mũ nịt,
để râu ba chòm, vận quần áo sồi mới rảo tới nhà anh Kính chầu rìa tổ tôm. Dần bảo
Tốt:
"Ghé nhà ông Cổn một chút".
Hai người rẽ vào một khu vườn nhỏ có mấy dãy nhà nuôi gà. Ông Cổn đang đứng bên
cái máy ấp trứng. Thấy Dần, ông vỗ cái máy:
"Mười ngàn đó. Cũ nhưng còn tốt".
Ông Cổn không mấy khi tỏ cảm tình lúc đột nhiên có một đứa con, đứa cháu trở về.
Ông bảo tụi nó có mặt hay vắng mặt cũng thế thôi. Nhưng sau khi thằng con thứ
tư - thằng Ơn - đi nốt, ông kêu khu phố chợ này đã hết con trai.
"Tối nay chú sang ăn giỗ".
Dần nói. Ông Cổn nhìn Dần, nghiêm trang nghe ngóng. Ông gật:
"À, một trăm ngày thằng Dần-anh".
Ông lại bàn uống nước. Dần hỏi:
"Thím đâu chú?"
"À, bà ấy vẫn quanh quẩn đâu đó".
Dáng to béo nặng nề của ông xoay trở trên ghế. Ông rót nước vào mấy cái tách,
giọng lửng lơ:
"Đã có đàn gà nuôi đôi vợ chồng già này".
Dần hỏi chuyện chăn nuôi để khỏi nghe những chuyện khác. Ông Cổn ồn ào kể và cười
lớn. Trại gà, cái máy ấp trứng không để ông có chỗ sàm sỡ, thân mật một cách giả
dối. Vẻ cười cười nói nói của ông vẫn bao ngoài nỗi xa cách với gia đình Dần.
Những người ở đây cũng không khác. Từ hồi cha Dần mất, mối liên hệ hàng ngày chỉ
còn với vài ba người quên được mẹ Dần là con quan. "Cái dòng họ dâm loạn
vì giàu sang, chết cuồng vì chữ nghĩa", có lần người ở đây đã chuyền nhau
câu nói đó của ông Cổn. Giờ thì chỉ chị Kính và Dần-anh thực sự được họ hàng
nhìn nhận. Chị Kính vì biết sống cho chồng con. Dần-anh thì không có cái chết
giống mấy người bên họ ngoại. Hắn không kịp quay lại phát súng nổ phía sau.
Ở nhà ông Cổn trở ra, Tốt bảo Dần ghé chơi chỗ ở của anh. Dần bảo trước giờ
chưa vào nhà Thắng, để khi khác. Dần hẹn tối Tốt sang rồi trở về. Qua sông, nắng
loáng trên mặt nước rộng. Dần nhìn bờ cỏ cao chạy trước mặt thấy như vừa chợt
có nỗi cảm tình phí phạm, tào lao. Thục vẫn như ước muốn được tìm đến, gặp mặt
kèm nỗi bâng khuâng hình dung được nơi chốn và nhan sắc.
° ° °
Ông Cổn nói cười nhiều nhất. Ông nói chuyện đám con ông và mỉa
mai Thắng. Thanh niên khu phố chợ đã đi hết. Thắng mà trúng cử chắc không còn
nhận ra họ hàng. Thắng mà được một đứa gái già bỏ phiếu thì chắc hết loạn. Giờ
hắn không cưỡi vespa, rà rà đi tán gái nữa. Mỗi buổi chiều, đám con gái thường
thấy hắn mượn xe của viên Ty trưởng già, tập lái trong khu phố. Hắn để đầu mượt
và ngậm Hav-A-Tampa. Đã có mấy con chó bị cán chết. Ông Cổn kết luận:
"Cũng may, thanh niên đi hết, đường phố vắng vẻ xe cộ".
Trời tối mau. Không thấy dì Phong về. Ông Cổn và mấy người nữa sợ mưa, ăn trước
rồi về. Đám trẻ nhỏ được chị Kính nom cho ăn uống ở đi-văng cười la ồn ồn. Tốt
và anh Kính từ ngoài giàn mướp trước nhà đi vào. Cả hai áo đều bỏ trong quần
nom tươm tất. Anh Kính nói vào Địa phương quân, ở gần nhà cũng đỡ, chỉ kẹt
không biết bao giờ giải ngũ. Tốt nói nếu sang năm phải đi quân dịch, chắc phải
nhờ Thắng xin cho vào Nghĩa quân. Chị Lý đang bày bàn ăn đùa anh Kính:
"Đầu óc mấy người giờ chỉ có một thứ phải gió đó".
Anh Kính đùa lại:
"Còn chị thì hết chết đâm đến phải gió. Hết phải gió đến chết đâm. Tôi mà
là anh ấy, tôi cũng biết khện".
Người chú tuyệt ngôn ngồi trước mấy đĩa ăn chay, theo dõi hai người đối đáp và
cười. Mẹ Dần mệt đã vào nhà trong nằm, anh Kính trở nên vui chuyện. Anh bảo chị
Lý:
"Lâu lắm mới được ngồi ăn với bà chị. Có dám say một bữa không?"
Chị Lý cười lớn:
"Bữa tiễn thằng Ke Nơn về nước, mấy thằng phải gió lén đổ huýt-ky vào
la-de, người ta vẫn cười nói như thường. Chưa biết rồi đứa nào say, đừng có
thách".
Mọi người quây quanh bàn ăn. Người chú tuyệt ngôn ngồi riêng một góc. Dần rót
cho ông một ly la-de:
"Bữa nay chú uống nhiều một chút cho vui".
Chị Lý so đũa cho ông:
"Chú cứ uống cho say. Nếu say quá, cháu trở về gọi thím thuê ghe sang chở
chú về".
Trời bắt đầu mưa. Con Tấm đi lùa ngỗng về vào nhà gọi Hài mang đèn ra cổng lượm
một mớ truyền đơn đả đảo bầu cử mang xuống bếp đốt. Anh Kính, chị Lý không ngớt
thách đố nhau. Tốt, Dần, người chú tuyệt ngôn bị nài, uống theo cũng nhiều. Hai
gò má cao từ hồi người chồng nghiện bắt đầu đỏ óng. Chị Lý cười, nói lớn như đã
thực sự quên có hồi chị thực đẹp. Anh Kính đã dám quát lúc mấy đứa con bu quanh
"Mẹ bảo bố đừng say", "Mẹ bảo bố đừng say". Tốt thầm thì
bên tai Dần: "Không phải người đàn bà nào cũng cầm vồ nện vào vỏ bom báo động".
Giọng Tốt nhỏ, còn tỉnh, như rời xa bộ mặt nạ, gồ ghề và yên tĩnh. Anh ta lấy
ra xấp giấy lau bát đũa ở tiệm ăn đưa mỗi người vài tờ lau miệng, rồi bảo Dần:
"Cứ mưa này, la-de này mãi, bụt cũng phải nhớ vợ nhớ con".
Tốt không say. Những ly la-de chỉ tạo một hứng khởi nửa chừng, chưa đủ làm Tốt
thành ồn ào. Người chú tuyệt ngôn thiêm thiếp giữa những khua động ly chén, bát
đũa và tiếng cười không mỏi. Ngoài Tốt, không ai quen được chất rượu. Những
chai la-de mẹ Dần khuyên uống từ trước tới giờ vẫn như một liều thuốc có chút
ít chếnh choáng. Dần ngả đầu, bỏ tay đũa, ngậm một điếu thuốc dường như đã tắt,
không còn muốn cựa quậy. Dì Phong không về. Mẹ Dần từ nhà trong ra như vừa qua
một lúc chợp mắt. Bà có vẻ lạ, thấy vẫn còn người ăn và tiếng ồn ào dưới ngọn
đèn thu nhỏ ánh sáng ngôi nhà. Bà không lại gần nhưng có ý kiếm Dần xem có còn
ngồi đó? Bà lại phía bàn thờ thổi tắt nốt mẩu nến đã ngả bấc. Bức hình Dần-anh
ngồi vắt chân ngửa cổ hút thuốc trong lòng chiếc ghế sa-lông nhà một người bạn
nào đó bớt vẻ ngỗ nghịch. Bà thắp thêm vài nén nhang. Dần chợt nhớ buổi chiều tắm
bãi Trời Trồng với đám học trò và đêm gió to mang người đàn bà có đôi tay đen đủi
về giấu trong nhà bà ngoại. Thấy khó chịu, Dần ngồi thẳng dậy châm điếu thuốc
đã tắt. Chiếc mũ bịt đầu, mấy chòm râu, tấm áo sồi tươi màu của người chú tuyệt
ngôn khiến Dần chợt bỡ ngỡ như vừa mới chợp mắt. Dần bỏ vào nhà trong nằm.
Trong lúc chập chờn, Dần nghe như mọi người ra về giữa lúc còn mưa lớn. Dần mơ
nằm chung với Thục. Thục cười bảo anh gối đầu ê cả cánh tay em. Em vừa mơ thấy
hai đứa qua sông. Vì anh cấm thoa phấn nên lúc đó mặt em thực tái. Vì anh gối đầu
lên cánh tay nên lúc đó em chỉ thấy còn mỗi một cánh tay. Dần tỉnh dậy mưa đã
im. Dì Phong không về thực. Dần ra ngoài kiếm nước uống. Một ngọn đèn bóng sơn
đỏ thắp ở bàn thờ Dần-anh. Mẹ Dần đã buông mùng đi nằm. Con Tấm kể lại lúc về Tốt
phải cõng người chú tuyệt ngôn. Hai chị em nó chưa ngủ. Hai đứa nói còn sớm, trời
mưa nên tưởng đã khuya. Chúng đang ngồi trên ghế áp mặt lên bàn vặn ra-dô nho
nhỏ nghe với nhau chương trình "Gia đình". Có tiếng một đám trẻ nhỏ
nô giỡn reo cười ở đâu đó như từ trong bầu trời mông lung những làn sóng điện.
Có heo may Hà Nội
Tôi chạy đến thì anh tôi đã bỏ đi. Một đám đông bu trước tiệm
nước. Chiếc khăn bàn anh tôi ngồi rũ xuống một góc được giữ lại bằng một lưỡi
dao ngập trên bàn. Người đàn bà chủ tiệm mặt tái xám, đứng chôn chân trước quầy
hàng, tay nắm chặt mấy tờ giấy trăm thật mới. Mấy người nữ chiêu đãi đang cúi
xuống chân bàn lượm các mảnh vỡ, hót đống bún bò lẫn mùi la-de, lựa những chiếc
nem nhớp nháp như bị mửa lên. Tôi quay trở ra, không có ý đi tìm gặp anh tôi,
nhưng tôi cũng không về nhà. Thầy mẹ tôi chắc sốt ruột lắm. Tôi ghé lại nhà cô
Út tôi. Cô hỏi:
"Anh cháu về chưa?"
Tôi đáp:
"Anh ấy đang ở trên đường về nhà".
Cô tôi lạ lùng:
"Cháu nói gì kỳ thôi, cô không hiểu".
Tôi lại bên chiếc đôn sứ góc nhà vặn nhạc.
"Thấy thầy mẹ cháu, các cô chờ anh ấy hoài, có vẻ quan trọng, cháu cũng
nói vậy cho có vẻ quan trọng".
Cô tôi bật cười bổ cho tôi một trái táo. Chú tôi chưa về. Nhà đã bật điện. Một
đứa tớ gái lên hỏi:
"Mợ dùng cơm bây giờ hay chờ cậu cháu?"
Tôi bảo cô tôi:
"Cô cho cháu ăn cơm tối nay".
"Cháu không gấp chứ?"
"Không".
Cô tôi bảo đứa tớ gái:
"Thôi, chờ cậu mày về cùng ăn".
Hai cô cháu tôi ngồi đối diện nhau. Tôi nói:
"Cho phép cháu doãi chân cho đỡ mỏi".
Tôi dựa lưng vào băng ghế, hai chân doãi dài trên mặt đất. Cô tôi ngồi lọt
trong ghế, nom cô mập và lòng ghế hẹp hẳn đi.
"Đám giỗ hoãn lại một ngày là phải. Anh cháu về kịp".
Cô tôi nói như thầy mẹ tôi. Nhưng tôi không dám cãi. Tôi bảo mẹ tôi anh tôi sẽ
không vui khi biết đám giỗ hoãn lại chờ anh. Mẹ tôi giận: "Anh con nếu có
lởn vởn trong đầu một đám giỗ, là đám giỗ anh ấy".
Cô tôi đoán được tâm trạng tôi, phân giải:
"Anh cháu về đúng ngày giỗ đủ mặt họ hàng, tết đến nếu làm biếng, không đi
thăm bà con cũng được".
"Cô nói có lý".
Tôi nói nhưng thấy cô tôi không đúng. Anh tôi đâu có sợ làm phiền họ hàng bao
giờ. Nguyên đời sống của anh khiến anh ít liên lạc với bà con, huống hồ anh lại
tự biệt lập với tất cả. Một lần đã lâu anh bảo tôi: "Thà vơ vất trong thực
tại này còn hơn dựa vào những ung thối đã qua mà sống với một tình yêu giả tạo".
Tôi không ưa những bất mãn, nổi nóng nhằm làm nổi mình hơn nhằm một biểu lộ cần
thiết, nên tôi rất chịu anh tôi. Nghe anh nói, tôi giữ sự lễ phép của người em
thụ huấn huynh trưởng.
Tối, chú tôi về. Hai chú cháu vừa ăn vừa nói chuyện – đúng hơn, tôi nghe – Tự
tình khúc của Cao Bá Nhạ, mặc cảm dốt của một ông tướng đã thất thế, và Cô gái
Đồ Long. Chú tôi Kim Dung là một thiên tài. Tôi thêm: "Một thiên tài viết
kiếm hiệp". Chú tôi nhỏ hơn, thấp hơn cô tôi. Có lẽ vì vậy chú hay tỏ ra
uy quyền với vợ và bọn học trò mà chú tự hào sống gần được tâm trạng chúng.
"Bọn chúng sinh nhằm cái xã hội này như những con ngựa bứt cương. Phải có
đời sống bứt cương mới trị được".
Thì ra chú tôi là người "bứt cương". Nói chuyện với chú tôi vẫn có ngạc
nhiên những đột ngột vì biết thêm một sự lạ ở chú như thế. Có lần chú nói đến
những kẻ xoay như con thò lò sáu mặt, tôi hết hiểu nổi chú.
"Cháu có thấy bây giờ người ta đọc nhiều kiếm hiệp là để quên đi những cái
đùi giò bò…"
Tôi đáp: "Người ta đọc kiếm hiệp còn nói viết và suy nghĩ về kiếm hiệp".
Tôi cười: "Vừa rồi, chú có viết một bài về Trương Vô Kỵ? Những anh hùng dự
tưởng hay nỗi khát vọng trăng sao?".
Chú tôi lắc đầu. Lắc đầu vì tôi cười, không vì từ chối.
"Bây giờ không ai có quyền sống xa đời sống đông đảo quanh mình".
Tôi xin cô một ly nước lọc uống rồi chào cô chú tôi về. Cô tôi đưa tôi ra cửa,
bảo tôi:
"Sáng sớm mai cô sẽ lên. Tết nhất đến nơi, nghỉ buổi nào thiệt buổi đó
nhưng ngày giỗ ông cha ai mà dám quên, không tư tưởng tới?"
Tôi kêu xe xuống Phú Lâm. Người bạn tôi – tên Thưởng – đang ngồi đờn ở vườn hoa
sau nhà. Tôi bước dọc theo hiên sau xuống con đường nhỏ đá sỏi. Mùi dạ lý hương
sực nức. Thưởng ngồi trong tấm ghế nhựa đặt vào một lối rẽ nhỏ. Thưởng nắm tay
tôi:
"Lâu lắm mới thấy bồ".
"Lâu lắm mới gặp lại anh".
Tôi đỡ cây guitare hawaiienne cho Thưởng vào nhà lấy thêm ghế. Mặt trăng còn một
vành nhọn nhưng đủ sáng những nõn mây trôi ngang trên vườn. Hàng dừa cuối vườn
loà xoà, lấp lánh ánh sáng tinh tú. Thưởng trở ra đặt hai chiếc ghế sát nhau:
"Cùng nhìn vành trăng muộn chịu chứ?"
"Chịu".
Thưởng đưa cho tôi một gói thuốc Mỹ:
"Hút thuốc xem?"
Tôi từ chối:
"Hút thuốc tôi ít hút từng điếu. Mà hút liền một lúc bao thuốc của anh,
đêm ngủ nhức đầu, mơ gớm lắm".
Thưởng cười:
"Mơ gớm cũng bừng mắt dậy một cái là hết. Sự thực còn nhiều cái gớm hơn
nhiều. Nếu không hút thuốc, hết còn gặp những cái gớm ghiếc, cả Việt Nam sẽ từ
thuốc hết. Kể cả những đứa nhỏ đi đêm, đốm than đầu thuốc là là trên mặt đất".
Chúng tôi ngồi hút thuốc. Con đường nhỏ lộ hẳn giữa những thân cây thấp. Tôi bảo
Thưởng cho nghe bản "Đêm tàn bến Ngự". Thưởng vuốt trên phím đàn, hai
gò vai rung và nhấp nhỏm. Tôi nhìn bầu trời cuối năm, thấy bầu trời cao nhưng vẫn
quen thuộc. Trước kia tôi vẫn nghĩ hết tuổi lãng mạn, hết còn ưa trông trời.
Nhưng tôi chỉ có cảm tưởng mình không yên tâm mơ mộng, còn bầu trời mây và
trăng sao tôi vẫn ham. Có lẽ nào tôi như chú tôi, không còn biết nói về điều gì
gần gũi để đến độ phải lục chồng kiếm hiệp của con cái truy nguyên ra ông Kim
Dung thiên tài: "Bây giờ không ai có quyền sống xa đời sống đông đảo quanh
mình". Chú tôi đã quá khôn khéo và thích ứng tự nhiên như thuyết của
Darwin. Thực ra chú tôi không hề "bứt cương". Tôi nghĩ. Chú tôi vẫn
là người tha thiết và nhiệt thành. Ở Hà Nội, tránh đám người làng quấy quả vì
chuyện tị nạn, chú lên làng Bưởi mắc võng đọc Marx, vào Sài Gòn chú tin ông Diệm
như người tạo cơ hội cho những nhân tài tham gia việc nước, những thí dụ trong
khi giảng bài, một nửa số thí dụ về đời ông Ngô. Từ ngày ông Ngô đổ, chú sinh
ra nghi ngờ tất cả chuyện xưa lẫn chuyện nay. Chú bảo chú đã bị anh em nhà Ngô
lường gạt. Chú thôi không tham gia mấy đoàn thể của Bộ Giáo dục. Chú viết báo
văn hoá trình bày nỗi nghi ngờ của mọi tầng lớp, viết về Trương Vô Kỵ với những
danh từ triết học lẫn chịu chơi. Chú vẫn nhiệt thành và vẫn đơn giản dù có muôn
ngàn rắc rối do mình tạo ra. Dù mọi nghi ngờ phong phú, mọi thắc mắc về nhân
sinh của chú đã làm cho một học sinh muốn xin làm một tên đầy tớ để tỏ cái ân
đã có người hiểu được lớp trẻ mình, chú vẫn bị cô tôi nhìn như một người dễ nổi
nóng vì một đôi đũa lau không sạch.
Gió càng về đêm càng mạnh. Trăng đã bị mây che kín. Bầu trời còn sao và hoả
châu. Chúng tôi im lặng trong ánh sáng chao chát hồng rực trên các cành cây
trong vườn. Thưởng đờn lại bản "Đàn chim Việt". Tôi đứng dậy vươn
vai, hít mạnh mùi dạ lý hương. Thấy nhức đầu ngây ngất, tôi bảo Thưởng:
"Mình đi ngủ là vừa".
Thưởng chiều ý tôi mắc màn ra hiên ngủ. Tôi thiếp đi tai vẫn mơ màng tiếng Thưởng.
Lúc tôi tỉnh dậy, đầu tôi vẫn nặng, Thưởng đã ngáy đều. Tôi lại ngửi hương thơm
dạ lý. Chắc anh tôi đã về nhà. Ngày mai có thể lại lắm chuyện lộn xộn. Tôi hình
dung đến bữa cỗ như hình dung đến một thế giới đàn bà. Thế giới ở bên tôi từ
bao giờ. Tôi đã sống, đã vui và cũng đã có lần buồn vì một người đàn bà trong
thế giới đó. Nếu gạt bỏ được ý nghĩ nhớ đến Hà Nội là một trạng thái tinh thần
suy nhược trước hiện tại khô cằn, tôi có thể nói tôi nhớ đến thím Hương như một
người đàn bà đưa tôi ra khỏi thành phố của thời thơ ấu.
Dạo đó Điện Biên Phủ đã tới hồi ngã ngũ. Thầy tôi lúc đầu còn tin năm cửa ô Hà
Nội vững hơn những dãy núi quanh lòng chảo Điện Biên, vẫn còn nuôi ý định mở lại,
với bác sĩ Hoàng Cơ Bình. Về sau, lúc đã nao núng, thầy tôi thấy Hà Nội quá xa
cửa biển quá xa những con tàu vào Nam, gia đình tôi lật đật xuống Hải Phòng.
Đúng ra, gia đình tôi lúc đó đã chia hai. Chuyện di cư chưa nghe ai nói tới.
Ông Ngô có được gia đình tôi nói tới cũng chỉ vì mấy câu khẩu hiệu viết ở Nhà
Thuỷ tạ hồ Hoàn Kiếm: "Cụ Ngô thống nhất sơn hà. Già Hồ chia sẻ nước nhà
làm đôi". Thầy tôi là tộc trưởng, gia đình tôi lại không được khá như mấy
bà cô tôi, nên chuyện chia hai gia đình lúc đó có vẻ hợp lý. Tôi, đứa em trai
út và thầy tôi là những người sẽ vào Nam. Anh tôi với mấy đứa em gái và mẹ tôi
sẽ ở lại về làng phụng dưỡng bà nội tôi. Ba cha con tôi xuống Hải Phòng vào những
ngày Hải Phòng nắng gay gắt nhất. Chúng tôi ở nhờ nhà một bà cô họ chờ nghe
ngóng tình hình rồi mới đi. Suốt ngày thầy tôi đi gặp mấy người bạn nhờ họ giúp
ý kiến. Tôi và đứa em hết ra tiệm sách kế bên rạp Kim Chung mướn truyện về đọc,
lại ra sau bếp nhìn qua hàng kẽm gai đếm những con tàu vào ga. Người cô họ tôi
tuy chiều chúng tôi, ít muốn chúng tôi ở bên mỗi khi cô mở đài Thái Nguyên nằm
trên giường nệm nghe: Chồng cô kháng chiến, cô chờ đón người trong Nam gửi ra
cho cô một giỏ trái cây, cô bổ cho anh em tôi ăn rồi bảo:
"Tao vẫn mong chúng mày về để ăn măng cụt. Nhưng chú mày mà về tới đây,
Nam Bắc thành xa lạ rồi còn gì. Chúng mày vào trong đó mặc sức mà ăn".
"Thầy cháu định vào Nha Trang gặp mấy người bạn rồi mới thuê xe ngựa qua
sa mạc vào Nam.
Tôi nói, cô tôi nghe, có vẻ buồn. Cô hỏi:
"Anh em mày có nhớ mẹ mày không?"
Thằng em tôi khóc. Tôi nói:
"Không nhớ".
"Mày lớn rồi có khác. Ở làng, mày lấy vợ được rồi đó cháu ạ".
Cô tôi tủm tỉm cười. Tôi ngượng đỏ mặt. Những lúc có cô ở nhà, chúng tôi có những
phút khuây khoả như vậy. Cô tôi đi khỏi, cửa nhà ngoài đóng im ỉm, hai anh em
tôi vừa lạc lõng vừa sợ hãi. Những lúc đó nếu ra sau nhà, nhìn những con tàu
thì nhớ nhà thêm, nếu ngồi trong phòng thì bị con ở của cô tôi doạ nạt. Nó thường
trợn mắt hỏi tôi:
"Sao bố con mày dại thế? Hoà bình đến nơi còn kéo đi, Việt gian hả?"
Tôi chửi nó, nó túm lấy gáy tôi tát như trời giáng. Thằng em tôi vừa khóc, vừa
cào cấu nó trợ lực với tôi. Nó đá thằng bé sưng đùi, trầy ngực. Sau mỗi trận
đánh, nó doạ:
"Chúng mày mà mách bố cô chúng mày, tao nhổ đờm vào thức ăn cho chúng mày
ăn".
Lời đe doạ của nó làm chúng tôi sợ, tìm cách nói dối cô tôi, thầy tôi về những
vết tích do con ở gây ra. Một hôm thầy tôi về báo tin sẽ trở về Hà Nội rồi cả
gia đình sẽ có máy bay vào Nam. Tôi chạy xuống bếp bảo con ở:
"Tao lại về Hà Nội đây. Mày có già đời cũng không bước chân được lên cầu
sông Cái".
Con bé hùng hổ toan túm lấy tôi, tôi chạy lùi vào nhà, trỏ mặt nó:
"Hai năm nữa thống nhất, mày chết với tao".
Chúng tôi đi một chiếc Traction về Hà Nội. Qua cây cầu treo, tôi ngoái đầu lại
thấy thù Hải Phòng. Dãy Đông triều trùng điệp xa lạ và thần tiên. Qua Hải
Dương, những làng hai bên đường phất phới những lá cờ đỏ sao vàng. Lúc đó tôi mừng
vì được trở lại nhưng bắt đầu thấy mình đang quay về thành phố buồn, thiệt buồn.
Tôi thoáng nghĩ đến chuyến xe ngựa cha con tôi định thuê băng qua sa mạc. Lúc
đi, tôi không kịp thấy mình xa Hà Nội, lúc về, tôi thấy mình đang mỗi lúc một gần
tháp nước khổng lồ nhiều bóng tối ở đầu Hàng Đậu, đang gần những gầm cầu, những
vườn bông và ga Hàng Cỏ. Xe qua cầu. Tôi nghĩ giá được xuống xe chạy trên đường
dốc dẫn xuống chỗ máy nghiền đá, chắc tôi sẽ có lại cảm tưởng khi về làng bước
vào khu sân gạch Bát Tràng đen như da trâu.
Về Hà Nội, thầy tôi nghĩ ngay đến chuyện nhắn người về làng mang bà tôi ra.
Làng tôi đã bị chiếm. Có vài người trốn ra chờ di cư. Sau một đêm bàn tính với
mẹ và anh tôi, mọi người chọn thím Hương là người sẽ đưa bà tôi ra. Bà tôi vốn
thương thím sẽ khó mà từ chối khi thím ngỏ ý mời bà đi Hà Nội. Thím lại có mấy
người anh bộ đội, chắc chuyện ra khỏi làng cũng đỡ gặp khó khăn. Nhắn người về
rồi, cả gia đình tôi chờ đợi. Riêng tôi, tôi thấy mong gặp lại thím Hương một lần
cuối trước khi vào Nam.
Thím Hương có nước da thật trắng, thông minh và viết được đơn thuốc bằng chữ
Hán cho chồng giắt vào túi dết khi chú tôi hết phép về cưới vợ. Tôi còn nhớ
ngày cưới, chú nhất định mặc đồ quân đội đi rước dâu. Bà tôi đã giận dữ mắng
chú: "Bao giờ hết đánh nhau, vợ chồng mày sống khuất mắt tao, muốn làm gì
thì làm. Bây giờ mày làm thế, người ta chửi vào mặt tao. Người ta lại bảo thời
thế đảo điên, luân thường lộn ngược vì bọn lính tráng chúng bay". Chú
Hương vốn thương bà tôi, thấy mẹ vừa giận vừa chực khóc, đành ậm ừ gượng gạo xỏ
hai ống tay áo màu phân ngựa vào tấm áo the cũn cỡn không che nổi hai ống quần
ka-ki chật ống. Buổi chiều chú Hương đi, thím Hương không đưa tiễn, cặm cụi cầm
cái chổi mo quét từng góc sân gạch. Tôi chưa ra Hà Nội, móc túi lấy từng cục
pháo xiếc tung lên cao cho rớt xuống sân nổ lép bép. Thím Hương chốc chốc lại
ngửng nhìn tôi cười gượng. Thím kêu điếc tai, kêu Hà Nội vui, kêu lá cây bưởi với
cây táo ở ngoài bờ ao bay vào quét mỏi tay vẫn không sạch. Tôi bảo thím:
"Tết này thể nào chú cháu cũng về". Thím lại cười. Nụ cười thím tĩnh
như bóng thím lẩn khuất bên trăng tường hoa trước cổng, bên những trụ gạch gắn
những hình rồng phượng bằng những mảnh bát vỡ. Tôi ra dưới gốc táo, cầm dao
khua lắc cắc lên các cành cây, lấy ít quả đưa cho thím. Thím chùi từng trái táo
vào ống tay áo, bảo tôi: "Lớn lên chắc cháu đỡ khổ hơn chú cháu".
Tôi về Hà Nội ít lâu, thím Hương mang mo và lá dong ra cho gia đình tôi và mấy
người cô gói giò gói bánh. Buổi chiều, thím dẫn tôi đi mua một tấm foulard, một
cuốn truyện Kỳ Phát rồi dẫn tôi vào rạp Bắc Đô coi phim "Về miền Tây"
có Roy Roger … Lúc về, qua gầm cầu hàng Giấy, thím mua mấy khoanh bánh chưng
rán về cho mấy đứa em tôi. Sáng hôm sau thím về từ lúc ngoài phố vẫn còn chập
chờn ánh đèn của người đổ thùng. Tôi chít khăn foulard đạp xe ra đầu phố kêu
xích lô rồi tiễn thím ra bến Nứa.
Hồi chú tôi chết mất xác ở Điện Biên Phủ, đường từ chỗ xe hàng đậu dưới cây gạo
chân đê về làng tôi lúc nào cũng có một bọn com-măng-đô họp với phòng nhì đón
người lột tiền, hãm hiếp, nên chỉ có thầy mẹ tôi và các cô tôi nhờ một người vợ
lính đưa về. Tôi nhớ mẹ tôi đã thuật lại bà tôi chửi chú tôi bất hiếu đến hết cả
nước mắt. Cũng từ đó, làng tôi thành xa xôi. Bà tôi và thím Hương thỉnh thoảng
được một người buôn bán xuôi ngược, gặp thầy mẹ tôi nhắc tới.
Thím Hương mang bà tôi ra vào buổi sáng chủ nhật. Căn nhà gia đình tôi ở tạm lộn
xộn những đồ đạc. Bà tôi bảo thầy tôi nhiều bận:
"Chúng mày cứ an tâm mà đi. Tao ở lại với con Hương. Mẹ con tao ra thăm
chúng mày một lần cuối rồi chiều nay về làng".
Thầy tôi gắt:
"Bà muốn nó sống tới già với bà sao?"
Bà tôi cương quyết:
"Nó như con gái tao. Rồi ra tao gả chồng cho nó".
Khi các cô tôi tới khuyên dỗ, bà tôi xoay chiều:
"Tao vào Nam, con Hương cũng đi với tao".
Thầy tôi giận mặc quần áo bỏ đi. Cô Út tôi nhỏ nhẹ:
"Kể ra mẹ mang chị ấy đi cũng chẳng sao. Nhưng còn thầy mẹ, anh em chị ấy ở
lại, mình cố tình mang chị ấy đi, chị ấy cũng khổ, họ hàng chị ấy cũng buồn mà
mình lúc nào cũng phải nghĩ ngợi".
Các cô tôi mỗi người một điều, bà tôi nghe họ, khóc ròng. Tôi bảo thím Hương:
"Thím ra hồ Ha Le với cháu một lát, xem mẹ cháu có bán được nhiều
chưa".
Thím ngần ngại nhìn tôi:
"Cháu không biết bao giờ mới gặp lại thím, thím cho đi chơi với thím chiều
nay".
Thím lấy nón, lại bảo bà tôi:
"Con ra hồ xem chị Cả bán bàn ghế một lát".
Tôi và thím đi về phía hồ. Bờ hồ ngổn ngang những bàn ghế, giường tủ… Người bán
nhiều hơn người mua, nom vội vã, nhăn nhó. Người ta câu bừa cá ở hồ lên, mặc mấy
người cởi trần từ trong nhà thuỷ tạ đi thuyền ra quát mắng. Đám người coi câu
cá la ó trả lại đến lúc chiếc thuyền quay vào mới thôi. Họ dửng dưng nhìn những
người đứng bán đồ đạc, bàn tán với nhau về cái chết của Đỗ Đình Đạo, về mấy chiếc
G.M.C thi nhau đâm vào khu Khâm Thiên.
Mẹ tôi đã bán gần hết các thứ mang ra, đang ngồi ngơ ngẩn trên mép cái bàn còn
lại. Thím Hương nói với mẹ tôi ít câu rồi giục tôi về.
"Về nhà bây giờ buồn chết, thím cho cháu đi coi chớp bóng một lần cuối".
Thím Hương thở dài. Những con đường từ phía Hàng Cỏ ra bờ Hồ thật vắng. Những
ngôi nhà tây cổng đóng im ỉm. Nom vào sân nhà Đấu Xảo thấy rộng mênh mông. Bờ hồ,
rạp Moderne vắng người. Thím tôi mua vé, tôi ngắm hình Victor Mature mù hai
chân bị xiềng đẩy cái cối xay.
Lúc về, hai thím cháu tôi lên Khâm Thiên, dặn xe hàng sớm mai ghé qua nhà đón.
Thím Hương bảo tôi:
"Lớn lên chắc cháu đỡ khổ hơn chú cháu".
° ° °
Anh tôi đã về nhà. Lúc tôi trở về, mấy người cô tôi đã tới
đông đủ. Bàn thờ đầy hoa quả, bánh trái. Mẹ tôi đang tẩy mực, thấy tôi, mẹ tôi
ngửng lên rồi lại cúi xuống. Tôi bỏ vào nhà, nghe có tiếng mẹ tôi vọng theo:
"Con với cái, hư đốn hết cả".
Tôi lên lầu. Anh tôi đang ngồi đánh bài với mấy đứa nhỏ.
"Anh về hồi nào? Tôi hỏi và thay quần áo".
"12 giờ đêm qua".
Anh tôi ngồi chình ình giữa giường nệm, át hẳn mấy đứa nhỏ. Mắt anh mờ hơn trước,
râu anh lởm chởm khắp má. Tôi rất khó hình dung lại hồi anh còn cắp nách những
cuốn triết hoặc cần cù tô từng nét chữ Hán cho đậm nét.
"Hôm qua chú đến tiệm nước kiếm ta?"
"Không".
Anh tôi đứng dậy, vươn vai, người anh nhún nhảy trên nệm.
"Ta chờ chú về đi ăn sáng".
Bọn trẻ reo lớn:
"Phở Tàu Bay nghe anh?"
Anh tôi quờ chân vào gầm giường kiếm đôi giày:
"Ờ, ờ, phờ Tàu Bay".
"Đi tắc xi cho lẹ nghe anh?"
"Ờ thì đi tắc xi".
Tôi hơi ngượng vì tiếng đáp của mình. Tôi bảo anh:
"Phở Tàu Bay đông lắm, làm sao len nổi".
"Đông thì gắng chờ chớ sao".
Bọn trẻ lại reo. Chúng đun đẩy nhau theo sau anh tôi bước xuống cầu thang. Rửa
mặt xong, anh bảo mẹ tôi:
"Trưa nay con mắc kẹt xuống Thủ Đức thăm một người bạn. Mẹ nhớ để phần xôi
chè cho con".
Mấy người cô tôi cười ồn ào. Cô Út tôi nói:
"Lính gì mà như con nít. Nếu sợ mất phần xôi chè, đi chơi làm gì nữa. Ngồi
canh bên bàn thờ, chắc ăn".
Mẹ tôi như biết chúng tôi ưa sinh chuyện, cãi lý, bao giờ cũng thong thả trả lời.
Vẻ thong thả của bà vừa bắt chúng tôi phải kìm lại nỗi hối hả hoặc nóng nảy vừa
khiến những lời bà nói thành rõ ràng bên tai chúng tôi. Bà cũng muốn tỏ ra
không quá chú trọng đến những quyết định của con cái tuy lúc nào bà cũng ngầm đặt
trong đầu chúng tôi bà là người có những quyết định sau cùng. Những phỏng đoán
này không cần thiết cho tôi. Những việc làm theo ý bà hoặc trái lại, tôi đều
làm trong im lặng, thản nhiên. Tôi vốn sợ những ồn ào co rút lại thành những tiếng
động rời rạc thêm vào đời sống eo xèo của mình. Nhưng anh tôi thì không. Anh ưa
gây gổ với bà như thể đó là một hình thức để biểu lộ mình còn có gia đình, còn
sống giây phút với gia đình. Anh cãi cọ với bà cả những lúc anh muốn trêu chọc
bà. Mẹ tôi, cả những lúc đó cũng dễ giận con. Bà khó lòng bỏ được ý nghĩ mọi
người trong gia đình này đã sinh nhằm vào những ngày giờ xung khắc. Trước kia
tính nghiêm khắc của bà nhằm bao bọc hạnh phúc cho con cái nên ở những roi đòn
của bà chúng tôi cũng nhìn thấy con mắt dịu dàng. Bây giờ, hạnh phúc đó không
thuộc về bà nữa. Cũng không thuộc về chúng tôi như một độc lập được giành giựt.
Tính nghiêm khắc của bà trở thành một cái vỏ ốc rỗng ruột. Chúng tôi nhìn cái vỏ
ốc đó, mường tượng có hồi mình được sung sướng.
"Không đi đâu cả. Mày về ăn giỗ hay mày về để đi thăm bạn?"
Mẹ tôi nói. Anh tôi cười lớn:
"Mấy thứ vặt đó đâu có đáng công xin phép nghỉ".
"Mày kiêu bạc vừa vừa chứ. Con trai mà cãi lại mẹ, mày chưa thành nhân đâu
con ạ".
Anh tôi có vẻ ngượng nhưng vẫn cười:
"Giỗ chạp là phần của mấy bà, ăn nhằm gì tới tụi con trai".
Dứt lời anh tôi quay trở vào. Cơn giận của mẹ tôi tới lúc hết kìm nổi, bà vứt mấy
con mực xuống chậu nước bắn tung tóe, đứng dậy:
"Mày định xấc với cả mẹ mày nữa đấy hả? Mày không sợ người ta chửi vào mặt
mẹ mày sao?"
Anh tôi yên lặng vào nhà châm thuốc hút, chờ mấy đứa nhỏ thay quần áo.
Chúng tôi đi ăn phở rồi sang cà phê Nhân uống. Anh tôi nói:
"Tao chán cái cảnh này lắm rối. Bao nhiêu năm nay vẫn những bộ mặt ấy, vẫn
những câu chuyện ấy quanh đám giỗ ấy. Tao không muốn về nhà cũng vì vậy".
"Đằng nào mọi việc cũng coi như đã xong. Anh nói, mẹ buồn".
Tôi nói gắng gượng. Tôi vốn ít muốn thuyết phục người khác, và không ưa nghe
người khác thuyết phục mình.
"Không ai giận gì mấy người đàn bà…"
Anh tôi lắc đầu với một thằng bé đánh giày. Tôi cười nhớ lại câu chuyện nói với
chú tôi tối qua.
"Nhưng đời sống của những người ghép vào với họ, thật hỏng".
Tôi nóng mặt:
"Anh nói ôm đồm quá".
Anh tôi nhíu mắt. Mắt anh nhìn sấp nhưng tôi vẫn bắt kịp cái quắc sáng của anh
chạm mạnh vào mắt tôi.
"Tao không nói tuyệt đối. Tuyệt đối chỉ có ở giảng đường, ở những thằng cố
chấp, không có trong sinh hoạt. Có lẽ nào chú lại không hiểu tao nói gì, nói đến
những ai".
Anh tôi nói như một người bị ám ảnh, không cần biết câu nói của tôi có ăn nhằm
gì với nỗi thôi thúc ồn ào trong người anh.
"Tao không chịu được những bộ mặt trí thức thất bại lộ ra cả trong việc
theo vợ đi ăn giỗ, nói chuyện thời thế và Hà Nội. Họ khôn khéo ăn nói những thứ
mọi người đang thích ăn thích nói để che lấp nỗi nhớ tiếc vốn là mầm sống của họ.
Họ không nhớ một mình Hà Nội, cũng không nhớ Hà Nội như tình của của một chiến
bại, hoặc cao hơn, một nỗi nhớ cần nhiều cố gắng thực tại để bù đắp sự thất bại
còn dây dưa chưa biết đến bao giờ. Họ còn thương nhớ cả những nếp suy nghĩ của
mình nữa. Trước tình thế này, họ nên khuất mắt, đừng luẩn quẩn bên chân những
người vừa mới lớn lên đã phải nhào vào chống đỡ những sụp đổ do họ gây
ra".
Tôi yên lặng nghe anh tôi nói. Những lời anh nghe thật quen thuộc. Chỉ còn vẻ
nóng nảy dồn dập vẫn là của anh. Không bắt được khối nóng đó, không nhìn anh,
tôi chẳng còn gì để phân biệt mình đang nghe anh hoặc một người bạn nào đó. Những
lúc xa anh, nghĩ đến anh chốc lát, khối nóng đó cũng hiện ra kèm theo. Lúc thoạt
bắt gặp, khói nóng nồng nàn lôi kéo cả những khó chịu đã qua của tôi. Nhưng
trong một lát, khối nóng chỉ còn trong ý niệm, thoát hẳn những mường tượng của
cảm giác, anh tôi cũng tan biến theo. Khối nóng, dù tôi có nghe ngóng, chờ đón
cũng vẫn loãng đi, mặt mũi, hình dạng anh tôi, dù tôi cố tìm một điểm đặc biệt
như cái nốt ruồi ở xế bên mũi, con mắt kéo dài, gãy góc ở gần đuôi để suy ra
toàn thân anh, cũng không hề hiện rõ. Nhưng anh tôi lại là người luôn luôn muốn
xây đắp cá tính. Anh biết chọn chi tiết để tự mô tả. Lưỡi dao ngập trên mặt
bàn, "Mười hai giờ đêm qua"…
"Nếu gạt bỏ phương tiện ưu thế, lúc này không ai có quyền buộc tội ai. Ai
cũng muốn giành giựt tuổi trẻ cho mình, dù tuổi trẻ đó quá bận rộn về nhan sắc
mình chăng nữa".
Tôi nói. Anh tôi nhìn tôi chờ tôi tiếp hay đo lường nhiệt tình của tôi lộ trên
mặt tôi.
"Không phải vì vậy mà thái độ nghi ngờ có chỗ đứng tốt. Nên thành thực để
thấy nhau dễ thương hơn trước phút có người gục ngã".
Anh tôi uống, nhăn mặt. Tôi đẩy cho anh dĩa đường. Anh trút hết vào ly, khuấy mạnh.
Anh uống một hơi, trả tiền rồi kéo chúng tôi ra khỏi tiệm. Trời gay gắt, không
một dấu hiệu tết sắp tới.
"Chú đưa tụi nó về".
Anh tôi nói và ngoắc một chiếc tắc xi.
"Anh không về?"
"Chiều tao về. Tao không muốn nhìn những bộ đồ lớn ngồi chật nhà nói chuyện
bằng cấp và Hà Nội".
Tôi bực mình:
"Anh cố chấp quá. Nói đến Hà Nội không là một cái tội".
"Hà Nội có làm thầy mẹ quên được tao đi lính không?"
Mấy đứa em tôi đã mở cửa, lên xe. Tôi bảo anh tôi:
"Hà Nội có đấy rồi. Nhiều đêm thầy mẹ nhớ anh, nghe súng không ngủ được.
Thầy mẹ dậy nói chuyện Hà Nội".
Một quân nhân cưỡi chiếc Vespa chạy bên kia đường, thấy anh tôi chạy chậm lại.
"Thằng hôm qua gây lộn với tao đó".
Anh tôi nói, giơ tay vẫy, chạy xuống đường. Tôi bước lên xe, thấy anh tôi ngồi
đằng sau người nọ chạy về phía Sài Gòn.Tôi nghĩ tối nay sẽ rủ anh tôi xuống ăn
mì Chợ Lớn. Tôi nhớ tới thím Hương. Nỗi nhớ của tôi không vì một chiều mùa đông
mua bánh chưng rán ở gầm cầu Hàng Giấy, không vì tháp nước sừng sững đầu Hàng đậu,
không vì những chiếc lá táo, lá bưởi rơi đầy sân, rơi suốt buổi chiều chú Hương
ra đi. Tôi nhớ tới thím vì không hiểu có lần nào thím nói với anh tôi: "Lớn
lên chắc cháu đỡ khổ hơn chú cháu"? Những ảo tưởng về tương lai chua xót,
nhưng bao giờ cũng đáng phấn khởi hơn những ảo tưởng về những chuyện đã qua, dù
đẹp nhưng tĩnh và chết như bóng thím Hương trên bức tường hoa, bên những trụ gạch
dát hình rồng phượng bằng các mảnh sành mảnh sứ.
Một câu chuyện tình
Phụ lục
Những trang trên đã thu góp tất cả những bài viết của Y Uyên,
cho tới nay chưa được in thành sách.
Một mớ di cảo, khi tới tay chúng tôi đã không còn giữ nguyên được tình trạng sơ
khởi của một bản thảo, do đó việc giới thiệu trở thành khó khăn, đòi hỏi một sự
sắp xếp lại tốn nhiều thời giờ và công khó.
Để kết thúc tác phẩm (được in) sau cùng của Y Uyên, chúng tôi xin lục đăng
"Một câu chuyện tình", viết bởi Mang Viên Long, một người bạn thân cũ
của người đã khuất. Cái chết của Y Uyên đã kết thúc một chuyện tình, một kiếp
người, và đau đớn hơn cả, một sự nghiệp còn dang dở…
Toà soạn Tân Văn
Mang Viên Long
Một câu chuyện tình
(Viết theo sự đồng ý của chị Trần Thị Ngọc để nhớ Y Uyên)
Thị thắc mắc nhiều nhưng vẫn cố gắng thử coi sự thờ ơ của Sãi sẽ đến bao giờ mới
hết. Thị đã nhiều lần tự xét, tự soi gương ngắm nghía, vẫn có kết luận là mình
cũng không đến nỗi nào. Người con gái không đến nỗi xấu tệ, có lắm kẻ khen có
duyên thầm thì làm sao không thể gây cho Sãi một sự chú ý, dù nhỏ như một lần
đưa mắt nhìn khuôn mặt trang điểm, tà áo dài màu lụa vàng Bangkok. Và Thị vẫn
chờ đợi ngày anh chàng này chịu để mắt, mở miệng.
Đã gần một tháng Sãi về đây dạy, Thị chú ý Sãi rất thường nhưng bận nào cũng thấy
ghét ghét cay đắng. Sãi dửng dưng lên xe ngồi thu mình bên đường đón xe, không
hề quen biết, không muốn bận tâm với sự có mặt của những người ngồi ở đó, trong
số này có Thị. Có Thị nao nao chờ gặp mặt Sãi, nao nao tìm từng ánh mắt liếc
nhìn nàng. Một tháng rồi, một tháng thất vọng, Thị bực tức nghĩ rủa trong bụng,
xì cái anh chàng làm bộ vừa vừa chứ. Thị mỉm cười với ý nghĩ khi mô chịu mở miệng
thì sẽ làm cao. Phải bắt anh chàng năn nỉ, hay ít ra cũng nằng nặc đòi theo mới
bắt đầu tính chuyện. Nhưng cái ngày đó không đến, lâu quá, sốt ruột vô cùng.
Ngày mà Thị hy vọng nhất là lúc Sãi vừa đến, chỉ còn chỗ ngồi cho Sãi bên cạnh
Thị. Sãi ngồi vào chỗ dành cho mình không bận tâm. Xe dời bến, Thị nhìn Sãi
châm tiếp một điếu thuốc, rồi nhìn Diệu cười ra mặt giận. Giận cái anh chàng
làm cao, và thấy ngượng với những lời trêu chọc của bọn Diệu. Hễ vừa ôm cặp vào
đến phòng là cả bọn Diệu, Ngọc, Nga, lao xao hỏi ngày hôm nay có tiến bộ gì khả
quan không. Và tiếp theo đó là sự im lặng chịu trận của Thị, những lời nói ỡm ờ
chọc tức Thị hơn. Khi xe quẹo vào một đường phố để tiến ra quốc lộ, Thị thấy
mình có nhiều thì giờ để chờ đợi và có quá nhiều hy vọng để bắt anh chàng để mắt
mở miệng. Hơi gió từ phía dưới cánh đồng dọc quốc lộ thổi mạnh dạt dào, con đường
rộn ràng xe cộ ra vào thành phố. Thị đoán Sãi đang chú tâm nhìn từng toán người
đi ngủ dưới phố đùm bọc về nhà, từng xe ngựa chở đầy khách ở miệt Hoà Trị, núi
Sầm với gánh mẹt và hoa quả xuống chợ. Càng đoán ra công việc nghĩ ngợi của
Sãi, Thị thấy tức tức sao đó. Lần đầu trong đời nàng, đã chờ đợi quá lâu với một
người con trai. Có khối anh chàng rầy rà, có khối anh trồng cây si ở ngõ, ở sân
từ lúc còn học Sư phạm ở Quy Nhơn, và ở phòng trọ này của bọn Thị nữa. Như một
giống bắt hơi thạo, lúc bọn Thị vừa thuê phòng trọ chưa hết tuần, đã có lũ lượt
anh em ngày đêm túc trực dập dìu thực vui. Nhưng với Sãi, anh chàng này làm bộ
quá đi. Và Thị không biết sao mình yêu cái anh chàng kỳ cục này cho khổ. Để bọn
Diệu có công việc làm lúc rỗi, đỡ buồn.
Xe chạy nối đuôi với đoàn xe GMC Mỹ qua cầu Sông Chùa. Phía sau, những xe chở
nhân công đàn bà con gái làm sở Mỹ bên Phú Hiệp, Đông Tác đầy nhóc. Chú Mỹ hung
hãn rú ga cho xe trờ tới sát xe Lam của Thị, và Thị cố tình tỏ rõ nỗi sợ. Tỏ rõ
nỗi lo với Sãi coi anh chàng này sẽ nói sao, nhưng Sãi chỉ nhìn vội chiếc xe của
chú Mỹ như thể coi thử có đụng vào thực hay chưa, rồi lại đâu vào đó cả. Nghĩa
là Sãi cứ tỉnh bơ, tỉnh bơ đến phát ghét. Diệu đã nhìn Thị cười cười, con khỉ
lúc nào cũng cười cười được.
Mười phút kẹt cầu, chờ tấm đỏ quay đi, Thị nghĩ ra một quyết định, xét ra cũng
kỳ kỳ là mình cứ để vạt áo dài bay đậu lên người Sãi lúc xe qua cầu. Chiếc cầu
dài hai mươi mốt nhịp sẽ bị cấm hút thuốc, Sãi hết việc làm và nghĩ ngợi viển
vông. Lúc đó sẽ nghĩ về tà áo dài mới của mình. Thử coi anh chàng làm gì cho biết.
Cầu dài gió mạnh, chắc chắn tà áo sẽ bay cuốn vào người anh chàng. Thị một lần
nữa lại mỉm cười với cái ý nghĩ kỳ cục này. Khi yêu, người ta có thể làm một
chuyện kỳ cục một chút có sao đâu? Trong khi đó chuyện kỳ cục này lại thành thực
và ngây thơ. Thị bỗng như lần đầu trong đời bắt gặp những ý tưởng trong sáng
khi nghĩ về một người tình, và bối rối trước tình yêu. Điều này làm nàng thấy
vui vui trong thế giới chờ đợi, thấy nao nao trong sự hờn ghét vu vơ, vô cớ.
Người lính gác ở bót đầu thổi còi, quay tấm bảng đỏ, thay tấm bảng sơn trắng.
Xe vội vã nổ máy, nhưng rồi nép sát bên lề, nhường cho xe Mỹ. Xe Mỹ lúc nào
cũng vội vập hung hãn như thể muốn cất cánh bay cao. Có quá nhiều lần Thị đã chứng
kiến cái cảnh tai nạn bên đường của những xe Mỹ gần mấy tháng về dạy ở Phước
Bình. Xe bắt đầu vào nhịp thứ nhất, gió lộng thổi siết không ngờ. Sãi nhìn bâng
quơ ở bãi cát khô nước bày ra một vùng trắng mịn dưới ánh nắng buổi sáng sớm
chói lọi. Sãi nhờ những chuyến xe qua cầu đối diện Thị, nhìn qua bờ vai nàng
khúc sông bên kia cầu, và làng xóm một màu xanh. Lần này có Thị ngồi bên cạnh,
tà áo dài cứ bay phất phới đậu vào mình. Sãi hạ tia nhìn xuống thật lâu trên tà
áo dài còn vướng bên chân, để yên. Như vậy ít ra cũng có nhìn vào tà áo dài, Thị
liếc Diệu cười. Và nàng cũng để yên. Thải ngồi ở cabine ngoái lại hỏi Sãi có thấy
chiếc xe Honda vừa mới trợt cầu không. Sãi trả lời ấm ớ vì Sãi có thấy gì đâu,
ngoài tà áo dài Thị. Và rồi Sãi cười với Thải dễ dàng.
Lần này trước giờ ra chơi, Thị vẫn đứng ở cửa lớp chờ Sãi đi ngang lại coi thử
anh chàng có mở miệng chi không. Lần nào cũng vậy, Sãi lúi cúi bước qua như lớp
học trống, đến nói chuyện với mấy người bạn. Những ông bạn đồng nghiệp già mà
Sãi rất quý và thân tình. Từ bên này hiên lớp, Thị giữ gìn cái nhìn của mình cốt
không cho Sãi biết nàng để mắt, quan sát Sãi. Cái dáng đứng dựa vào vách co ro,
cái dáng hút thuốc chậm rãi, cái dáng bàn chuyện không động tác, cái dáng nào
cũng đáng ghét và tức hết thảy. Thị bỏ vào bàn ngồi tìm mảnh giấy viết loằng
ngoằng những chữ, không ra chữ nào. Mãi cho đến lúc tờ giấy biểu lộ rõ ràng nỗi
tức giận, ghi đậm từng nét chữ quanh co nhì nhằng khó xử, Sãi đi về lớp chờ giờ
đánh trống vào lớp, ghé Thị.
Dù hai người gặp nhau chỉ nói về chuyện học trò, học trò quá kém, học năm nào
trả cho thầy cô năm đó, học trò khổ cực về nhà mổ bò hái củi, học trò chạy giặc
lớp học trống thêm, học trò và học trò. Sau cuộc nói chuyện không tóm tắt được
câu nào, chữ nào, nghĩa là nó cũng y như tờ giấy trước mặt nhưng Thị không thấy
còn nỗi ẩn ức, khó xử nữa. Như được thoả mãn ước vọng bấy lâu, lúc vào lớp Thị
tỏ vui với bọn học trò. Và sai đứa học trò đội trực mang gói thuốc của ông thầy
lớp ba bỏ quên đem trả.
Sự thể chỉ có như vậy đến một tuần sau khi Thị đã bắt đầu nghĩ về những dự đoán
của mình thì đùng một cái lúc tất cả xuống xe về nhà vội vã vì xe kẹt bên kia cầu
quá lâu, Sãi ngỏ ý mời Thị và hết thảy vào quán ăn cho vui. Vị nào có cần gấp
việc gia đình có thể thong thả ra về. Thị đòi về, nhưng nghĩ bụng, sao không mời
riêng một mình mình? Thị có cơ hội làm cao, phải làm cao mới được. Thị bỏ đi dù
Sãi đã tỏ ra mở miệng. Cuối cùng Sãi vào quán nhờ Thải ra nói hộ mình, tất
nhiên là Thị nghe lời. Thải vô tình là một nhân vật có mặt trong cuộc tình của
hai người. Cả hai đều quý Thải còn ở nhiều chuyện. Thị thì quý vì lòng ngay thẳng
chân thật, trong lúc Sãi thường những câu hỏi phân vân. Lúc Thị bước vào quán
nàng có ý dò xét những cô bạn đồng nghiệp hơn là để ý đến Sãi. Sãi, vui vẻ doạ,
giờ này cô về đến nhà thế nào cũng bị đói, đâu có để dành.
Những buổi sáng sau này ra đón xe với Thị là một điều nóng lòng chờ đợi. Nàng
thì nóng lòng còn Sãi thì bước chậm chạp. Từng bước của những suy tưởng mông
lung về nàng mà nàng đâu có biết. Không khí xe qua cầu có vẻ vui vui hơn xưa.
Sãi đã để mắt nhìn Thị, và để tai nghe những âm thanh rập rình của những thanh
gỗ chao đi theo lằn bánh xe. Buổi sáng trong mát hơn lúc xe chạy vào con đường
đất giữa những đám ruộng đến trường. Tiếng động vắng, ít xe, Sãi cũng đã để tai
nghe những câu chuyện ngộ ngộ của Thị với Diệu, với mình. Riêng Sãi thấy có nhiều
an ủi và thư thả trong những ngày chờ vào lính.
Thị viết vào một mảnh giấy nhỏ, đại ý nhờ Sãi kẻ hộ câu khẩu hiệu, rồi sai học
trò mang đến. Nhận giấy đọc xong Sãi bỗng cười phấn khởi. Lại bắt đầu một chiến
dịch viết thư cho tình duyên thêm phần sôi nổi, Sãi xin học trò mảnh giấy viết
hồi âm: Ông thầy lớp ba làm gì kẻ khẩu hiệu được cho bà cô lớp nhất. Nhưng sau
cũng phải y lệnh, nhưng là ông thầy Thải phải đem sức lao động ra mà làm thế.
Thị hiểu được rằng, Sãi đã yêu mình rồi, không nghi vào chỗ nào được: Anh chàng
đã biết nghe lời.
Có thể nói Sãi bước quanh tình yêu thì chậm nhưng đã vào thì có cơ phát triển mạnh.
Cái chậm nó làm nền cho những việc sau này, tiến mau, vững chắc. Sãi đã dẫn xác
tới nhà trọ của Thị mỗi chiều với gói bánh tai voi. Bọn Diệu, Ngọc, Nga… có dịp
cười cười. Thêm cho Thị một ngại ngùng, xa vắng. Thị cũng trở lại nỗi yên ổn sau
đó với Sãi, nàng hát bản Chân trời tím, Căn nhà ngoại ô… trong lúc cả hai chưa
có thể nói với nhau lời nào đã định trước. Sãi không mấy khi nghe loại nhạc
này, nhưng lần này thì Sãi chú ý. Chú ý cái giọng của Thị, Sãi nghĩ, chỉ nghe
cái giọng cũng đủ hay chán.
Một buổi sáng Chủ nhựt, trời đã cuối đông nhưng cái lạnh và sương mù vẫn còn
vây kín thành phố, Sãi dậy sớm muốn gặp Thị để nói chuyện cho ấm. Lúc đến Ngã
Năm, Sãi dừng lại bên chiếc xe bán bánh bao mua bốn cái. Lúc Sãi hỏi bánh bao
làm bằng thịt gì thì bà chủ quảng cáo về cái bánh bao hết mấy phút, và đính
chính các nguồn tin đồn là bánh bao thịt chuột hết mấy phút nữa. Sãi ghé vào
lúc Thị đã thức, ngồi hát Chân trời tím. Sãi ngồi vào ghế nói bây giờ là chân
trời mù sương, cô có thấy? Thị cười huề, hỏi lại anh cầm gói gì thế? Sãi chìa
gói bánh bao cho Thị, bắt ăn. Ăn cái này khỏi đi ăn sáng, ở nhà nói chuyện. Bọn
Diệu cười rúc rích sau tấm màn, Sãi bảo Thị chia bánh, lẽ tất nhiên con gái phải
e thẹn, ai mà ăn. Chỉ có Thị và Sãi ngồi ăn với nhau. Sãi ăn uống tự nhiên như
Thị là người yêu từ muôn đời nào. Và nghĩ cười cho bọn bạn Thị cũng có mỗi người
một người tình sắp đi xa, đang lâng lâng cảm giác. Cuộc tình hai người có vẻ tiến
triển khả quan, không ngờ đã đến hồi nhắc lại chuyện cũ. Chuyện những ngày đầu,
Thị kêu Sãi làm cao, làm bộ khỏi ai bì. Sãi đằm thắm bảo mình thực tư cách? Anh
có tư cách không? Những tiếng cười đem Sãi gần Thị hơn, chẳng hạn như hai tay nắm
vào nhau, những nụ hôn trên tóc.
Thị đưa Sãi ra đường trở về, Sãi hẹn buổi tối đi hóng gió mùa đông một chút, để
cùng ăn hạt dưa chờ Tết. Thị trả lời nửa vời, nhưng ánh mắt Thị cho Sãi niềm hy
vọng. Lúc Sãi vào tới nhà, bà chủ nhà trọ lên tiếng hỏi phải thầy lên nhà bà cô
giáo không. Sãi cười. Nói chuyện quên cả ăn uống vậy cà?
Hai người đi dọc theo con đường Phan Đình Phùng ra đoạn đường ít tiếng ồn và
ánh sáng. Câu chuyện ban đầu vẫn là phần nhập đề, Thị vui miệng hát bản Chân trời
tím. Lúc đến cạnh chùa Bảo Tịnh, Thị chuyển từ nhạc tình cảm người lớn sang nhạc
tình cảm con nít. Món sở trường của bà cô lớp nhất, trong lúc Sãi dốt về vấn đề
này. Má em hừng đông đi cày bừa, tía em hừng đông đi cày bừa… Má em là một người
nông dân, tía em là một người nông dân… Thị ngây thơ níu bờ rào, nhìn qua bên
kia nóc giáo đường, cười nao nao. Sãi nhìn Thị xúc động như vừa viết được đoạn
văn ưng ý, tìm được cảm giác lạ. Thị thôi hát, kiếm chuyện kể trên con đường số
6 dày bóng dương, riêng biệt và mát mẻ. Nàng nói đến chuyện đêm hôm qua tình cờ
thức giấc, nghe Ngọc nằm mơ hát ú ớ A a a ơ kia con ve, suốt mùa hè rè re ré rè
re. Sãi để nàng thong thả kể, mình thong thả nghe; nghe xong mới nói:
"Thị tưởng tượng khéo lắm, ham ngủ như em, sức mấy mà nghe người khác nằm
mơ?
Thị không thấy giận nhưng cũng làm bộ giận. Dễ thường hễ yêu nhau, càng giận
càng thương đó chớ? Thị làm thinh đi từng bước bên Sãi, như tách biệt. Sãi bèn
cho uống thuốc an thần:
"Đâu chỉ riêng gì em ham ngủ, cả thành phố này cũng vậy nữa, đại bác trên
Tháp chĩa vô tai bắn thâu đêm mà cũng ngáy khò khò đó sao?"
Và Sãi cao hứng đọc bốn câu thơ, không nhớ của ai:
Vỡ đôi trái đất một đêm sầu,
Nửa mảnh văng đi hoá nguyệt cầu.
Trên đó người yêu tôi vẫn ngủ,
Mơ màng có biết chuyện chi đâu!
Em có thấy ngủ nghê như thế là lì nhất thế giới rồi còn gì?
Nghe xong, Thị đã tỏ sớm biết điều là không bắt Sãi năn nỉ, nói cười trở lại,
còn Sãi mới nhớ lại gói hạt dưa mua bỏ túi từ chiều. Nhờ Thị cầm gói hạt dưa,
Sãi mò tìm điếu thuốc gắn lên môi. Thị lại nhớ tới ý nghĩ chưa nói với Sãi về
vài cái tật của chàng. Thị cười cười bảo anh viết sách, anh có nhớ tới con đầm
con xì không? Hay là tay viết mà đầu óc cứ nghĩ tới mấy con đó? Sãi mong được
nghe những lời đó, ít ra cũng tỏ ra Thị đã nghĩ lo cho mình, và Sãi biết được
những ý nghĩ của Thị không có giấu giếm. Sãi hút nhẹ một hơi thuốc, giọng nhỏ hẳn:
"Em có nghĩ là con người phải có một thói quen nào đó để trở thành xấu hay
tốt không? Nói rõ hơn, phải có một công việc đeo đuổi để trở thành tốt hay xấu
không? Với anh, được coi như đứng về phía những người sa đoạ, hư hỏng, anh muốn
sống đủ, để được nói đủ cho thế hệ của anh. Ngoài ra, anh vẫn sống với một cuộc
sống có ích, có tư cách và danh dự…"
Thị im lặng như một sự chịu lỗi, nhưng vui với lời giải đáp bấy lâu chưa tìm
ra. Sãi nói tiếp, em hãy nói hết những ý nghĩ về anh, để lũ mình gần nhau hơn.
Bất cứ những việc gì có liên quan tới hai đứa, tới tình yêu… Thị nhớ lại một
chuyện trục trặc trước đây khi Thị cho Sãi một tấm ảnh theo lời đề nghị. Tấm ảnh
đó vô tình được mấy ông bạn đồng nghiệp nhặt được trong tấm veste lúc Sãi đánh
bài bỏ lại nhà người bạn. Tin tức tuy nói là giữ bí mất, nhưng lại loan đi
nhanh hơn bất kỳ tin gì. Bọn bạn Thị nghe được cấp báo cho nàng, nhưng rất may
tấm ảnh vẫn còn giữ lại trong tấm áo của Sãi. Sãi đến, Thị giận. Và nghĩ tầm bậy.
Nghĩ đủ thứ lý do, nhưng không biết tới cái lý do Sãi đã đánh bài, vì con đầm
con già, bỏ quên áo veste. Sãi buồn buồn hỏi:
"Anh có thể nói chuyện với em như trước chứ?"
Thị không giữ được nỗi hờn:
"Ảnh đâu, cho em coi?"
Sãi móc túi sau đưa ngay ra:
"Đây".
Thị lấy cất luôn, Sãi đón được ý, nhưng cũng là ý sai, Sãi bỏ về.
Mấy ngày sau vắng bóng Sãi, Thị hoảng quá, chờ lên trường. Thị tìm cách đến
phòng dạy của Sãi, lời nói ướt mềm nũng nịu:
"Anh cho ai xem ảnh em?"
Sãi mới nghĩ tới cái ý mình nghĩ hôm nọ là không đúng, không ngờ cái lý do những
người bạn đồng nghiệp xem hình trong áo veste lúc bỏ quên có thể đúng bất ngờ,
Sãi nói giọng thực nhỏ:
"Em tưởng anh tầm thường như vậy à?"
Lúc đến gần một cánh đồng trống, Sãi kêu quay lại. Con đường số 6 tràn ngập hơi
gió lạnh, cực lạnh, Thị đi nép bên Sãi. Sãi đưa chân đá những chiếc lon nằm dọc
đường. Âm thanh nghe vui, và ồn trong cái vắng của những cửa hàng sắp đóng cửa.
Sãi chợt nghĩ, có em anh không còn mê con đầm con già nữa.
Sãi được lệnh trình diện đi lính khoá 27, ngày cuối từ giã trường Sãi đã bắt đầu
thấy cái không khí chộn rộn lo Tết của trường, tiếc không được ở bên Thị trọn vẹn
những ngày chộn rộn đó. Nhưng để bù vào, Sãi và Thị đã trốn bạn bè, học trò, ăn
Tết trước với hạt dưa, bánh tai heo, mứt hạt sen và bánh bao thịt chuột ở một
khoảng vườn gần trường. Tết chỉ riêng của hai người, thực khó kiếm. Trong dịp
này, Sãi đã nói với Thị điều đã nghĩ từ lâu: Anh sẽ gắng viết sách in thành tác
phẩm để mua hạt dưa, bánh tai heo và bánh bao thịt chuột cho lũ mình đón Tết.
Nói là từ giã trường, nhưng từ giã Thị, Sãi thấy khó quá. Gặp một nỗi giận bất
ngờ trước những ngày cuối gần kề (như thể tình yêu là chứa toàn giận hờn tiếp nối),
Sãi bỏ vào Nha Trang để có nơi mà đi, để khỏi bận tâm đến Thị, nhưng thấy không
thể chạy trốn. Chạy trốn cái gì còn được, khó lòng chạy trốn tình yêu. Từ trước
Sãi đã giữ cho mình quân bình về mọi mặt, ngay trong những ván bài, nhưng với
hình bóng Thị, những ý nghĩ về nàng khó mà dứt bỏ. Vào Nha Trang không tìm thấy
gì ngoài những bứt rứt không nguôi. Tĩnh tâm, Sãi phải cười về sự kỳ cục lẩm cẩm
của mình. Một trong những gặp gỡ làm Sãi nhớ là lần ghé đến thăm nhà văn Võ Hồng
ở đường Hồng Bàng, cùng đi với một cậu học sinh quen ở Tuy Hoà. Lúc nhận ra
nhau, ông bạn văn luống tuổi này đã nói về sự bề bộn của công việc nhà vì con
sen mới bỏ đi, chưa thuê được người giúp. Sãi bảo, những kẻ độc thân như Sãi chẳng
hạn, lại bê bối về vấn đề nhà cửa gấp bội. Nói chuyện vui vẻ một lúc, lúc ra về
Sãi nhớ mãi tiếng cười và sự an lành của gia đình này. Và có dịp hình dung một
ngôi nhà của mình, có Thị.
Đi đâu rồi cũng trở về, giận hờn chán rồi cũng thắm thiết hơn xưa. Đó như một định
luật. Định luật của những người yêu nhau và ngỡ mối tình của mình là mối tình đầu
tiên trên đời. Lại những cái hôn trước ngõ, Sãi đưa Thị đi một vòng phố lúc phố
thực vắng. Cũng để làm giàu cho kỷ niệm, và để cho bọn bạn Thị có nơi để nghe
những lời từ giã của người tình. Sãi mua bánh bao thịt chuột, và hạt dưa. Hai kẻ
yêu nhau lang thang trên đường phố vắng, thấy thực lãng mạn, nhưng có thực. Sãi
tìm những cái lon giữa đường đá mạnh cho có tiếng vang. Đi lan man nói cười
trong những con đường vắng, nhưng Thị vẫn buồn cho lần ra đi này của Sãi. Sự xa
cách dễ làm cho lòng người yếu đuối. Sãi cũng thấy vậy và bồi hồi thương xót Thị.
Trong cuộc tình này, Sãi vẫn nghĩ mình là người được nhiều an ủi, và mong muốn
Thị được vui trọn vẹn.
"Anh đi sẽ mạnh giỏi nhưng Thị sẽ phải vui nghe không? Cấm không được buồn".
"Làm răng không buồn được?"
Nghe câu nói này với giọng ướt sũng nước mắt, Sãi lại nghĩ chính mình sinh ra để
làm khổ kẻ khác. Sãi thực tình không muốn chút nào Thị sẽ phải cùng chịu những
khó khổ của đời mình. Sãi không muốn những giọt nước mắt tham dự vào những kỷ
niệm của hai đứa, kéo Thị vào quán hỏi mua những cây pháo bông quấn giấy lòe loẹt.
Sãi chia cho Thị, bật đèn đốt sáng. Con đường tối, ánh sáng hắt ra từ hai cây
pháo bông vàng nghệch như nghệ, trông khuôn mặt hai đứa ngô nghê lắm thì phải.
Quả thực Thị ngô nghê và ngây thơ như những đứa học trò. Lúc lên đến sân ga,
gió gắt hơn, và trời tối thui, Thị sợ nép sát vào Sãi, tiếc những cây pháo bông
vừa đốt nếu để dành được vài cái..
Như vậy là Sãi đã dời ngày đi Sài Gòn đến lần thứ hai. Đêm cuối đến từ giã Thị,
Sãi có ý định ngày mai sẽ dời ngày đi lại một lần nữa nhưng thấy không ổn. Rồi
cái ý định lên xích lô để được nói những lời từ giã cuối cùng cũng không ổn nốt.
Sãi ngồi ở kệ đá ngoài hiên với Thị, dành căn nhà cho bọn bạn Thị nói cười. Tiếng
ồn vọng ra với những lời ca trêu ghẹo vu vơ làm Sãi thấy thương Thị quá mức.
Thương cái tội nghiệp ngây thơ, và nỗi buồn của nàng. Ngồi với nhau một hồi, ăn
hết gói hạt dưa, Sãi căn dặn Thị như thể dặn dò một đứa em gái, còn quá nhỏ. Thị
cũng căn dặn Sãi như thể dặn dò một đứa em trai, quá nhỏ. Khi yêu, Sãi nghĩ,
người ta có quyền muốn người yêu nghe theo những lời mình, kỹ lưỡng và bắt buộc.
Có vậy tình yêu mới ra tình yêu, em có cần nói những gì để nhắn nhủ anh nữa
thôi?
Thị vào lấy thêm một tấm hình trông rõ hơn để tặng Sãi trước khi Sãi về. Sãi
nói anh sẽ nhờ người bạn hoạ sĩ vẽ cho em một cái khi vào đến Sài Gòn. Cái hôn
đầu ngõ dài như không bao giờ dứt. Tấm áo len đỏ êm ái trong hơi thở, và những
chiếc vòng bạc nơi tay Thị cũng reo bên tai.
° ° °
Vào đến Sài Gòn trong những ngày chờ vào trại Sãi đã thực sự
nhớ lại tỉ mỉ một mớ ngổn ngang những kỷ niệm, nào bánh tai heo, bánh bao thịt
chuột, vốc hạt dưa, những chiếc lon thiếc, áo len đỏ vòng bạc, những bản tân nhạc
cải lương, và chiếc hôn đêm cuối giã từ quá dài. Từ đó, Sãi nghĩ rằng chỉ có
mùa đông này Sãi đã sống thực trọn vẹn và vội vã. Sãi tiếc những tháng ngày gặp
Thị quá muộn màng, quá nhanh chóng. Cái nhanh ám ảnh Sãi hoài trong những giấc
ngủ trưa từng miếng mộng vá víu với hình dáng Thị ngẩn ngơ, với giọng nói chi
mô nghịch ngợm. Và Sãi cũng thực sự quên hẳn những lần Thị chọc tức mình với những
câu nói úp mở, những con già con đầm, và một mớ những hình ảnh lộn xộn bông
đùa.
Sãi ngồi hẳn dậy nhìn ra khoảng đất trống dày bóng cây bên cạnh nhà thấy nỗi
yên tĩnh này dễ gợi cho nhớ Thị. Và lòng bồn chồn thương nhớ. Có thể nói ký ức
Sãi lúc này hoạt động mạnh, lòng nghĩ thầm, Sãi phải viết tới ít chục lá thư mới
xài hết những kỷ niệm. Sãi thấy hãnh diện. Và tới bàn viết tiếp cho Thị lá thư
thứ tư, trong những lá thư chờ ngày vào lính.
Sài Gòn, ngày 10 tháng 1 năm 1969
Thị,
Định hôm nay đi nhưng bạn bè bắt đầu xuất hiện, gặp mặt đành nấn đá ở lại. Đêm
qua đi coi một phim đầu tiên từ hôm về Sài Gòn. Phim hiếm và hay. Sáng nay ngủ
tới 10 giờ nên hiện giờ hết buồn ngủ trưa, ngồi viết thư số 4 cho Thị (số 4 có
nghĩa là thứ tư 13/12, cũng có nhiều nghĩa khác nữa. Cứ chờ mắt lúc thực sáng,
nghĩ sẽ thấy rõ tức thì). Nghe nói 22/1 khoá mới khai giảng, vì vậy trong khi
chờ đợi, Thị gởi thư theo địa chỉ ngoài bao bì. Mong đến độ nóng ruột. Hãy viết
liền cho anh và nếu có thể viết dài như những vòng "luân hồi" hai đứa
đi mỗi đêm. Hồi sớm nằm trên giường, nghe một giọng nữ trong máy thâu thanh hát
"Tía em, má em…" bỗng nhớ lời Thị hát, cười lúc lũ mình vừa đi đến một
ngôi chùa Cát. Tự dưng có một ý nghĩ thực ngông, có một giấc mộng nghe thực
ham: Từ giờ tới Tết chắc sẽ gặp Thị ở Sài Gòn. Nhảm quá phải không? Nhưng dù
sao cũng có những hình ảnh đó trong đầu: Thị, Thải, bọn Diệu … Như vậy cũng là
một đời sống. Đời sống không thực tế nhưng có thực. Gán ý xấu, đó là ảo tưởng.
Ghép cho nghĩa tốt, đó là tình yêu, phải vậy không? Nói theo… loại sách "học
làm người": Đời, ai không sống bằng tưởng tượng? Nếu không tưởng tượng sao
có ngộ nhận, những lầm lẫn về mình, về người khác? Nếu không có tưởng tượng sao
có được văn hoá, con người văn minh? Thôi, nói chuyện sách vở miết, lại cười ngất
như nói chuyện âm nhạc hôm nào nữa. Những thứ đó bề sâu (chữ của Thị) không bao
giờ vượt quá cái bề dày vật chất của nó, nói đến cái lon đá lăn long lóc trên mặt
đường nghe còn vang nhiều âm điệu tình cảm hơn.
Chiều nay ngồi viết cho Thị và vài người bạn ở Tuy Hoà, nghe tiếng pháo xung
quanh bắt đầu nổ nhiều hơn. Như Tết đã tới. Cái Tết miền Nam khô nóng quá nghĩ
thấy nhàm. Cái Tết miền trung lại có vẻ thu hẹp, đơn chiếc quá. Đó là ý nghĩ thực
chủ quan của anh lúc này. Dường như chỉ có cái Tết ăn hạt dưa, ăn bánh bao của
tụi mình vừa qua mới thực là Tết, thực dân tộc tính (?).
Nhớ viết đều cho anh và gắng nói cho rõ ràng minh bạch, miễn dùng "chi mô
đó" để bắt anh tứ thời phải làm bài tập ngữ vựng tìm lời thích hợp mà điền
vào các chỗ trống cho hợp nghĩa?
Thương Thị.
Anh
Sãi vừa bước vào ngưỡng cửa chị Tẩu đã hỏi sao cậu tính hôm nào mới chịu vận đồ
lính, húi tóc ngắn. Sãi cười nói bạn bè mỗi lúc một xuất hiện, thấy chưa yên
tâm để cởi đồ dân sự. Chị Tẩu đã tỏ theo dõi và thường chìu Sãi mọi việc y như
Sãi còn bé tí. Từ món ăn Sãi ưa thích, cái mặc Sãi nhờ may, và những mẩu tâm sự
khó nói trong lòng cần thố lộ cho nó vơi đi đôi chút. Sãi vẫn thường sống kín
đáo, nhưng cái kín đáo đó được thông đồng một cách rất thông cảm của chị. Do đó,
chiều qua sau khi viết thư xong cho Thị, Sãi đã ra sân ngồi dưới tàn bóng cây
mát nhìn ánh nắng chiều phía ngoài vườn cây, cùng chị Tẩu nói chuyện. Dĩ nhiên
là chuyện về Thị, và hai tấm ảnh. Có mối tình nào giữ kín cho riêng hai kẻ yêu
nhau đâu? Như khi yêu phải được có người tâm sự để càng thấy yêu thêm và hy vọng.
Sãi đã tỏ lắm lời cà kê về thiên tình cảm nồng nàn này của mình. Sãi bắt chị
nghe chuyện những chuyến xe qua cầu Đà Rằng, những buổi sáng tới trường, những
đêm lang thang đốt pháo bông khắp ngả phố, những lời ca Chân trời tím thiết
tha… Nói tóm, Sãi vớ được chị Tẩu để chia sớt nỗi nhớ thương mông lung của
mình. Như chị Tẩu phải dành cho Sãi những buổi chiều vắng bạn, ngồi dưới tàn
bóng cây, nhìn cây hoa trước ngõ, nhìn ánh nắng sau vườn, mà nghe kể chuyện Thị.
Chị Tẩu vẫn thường thích thú trong những lần tham dự những gặp gỡ như thế với
Sãi, để mong em vui, và mình vui với em. Cuộc sống vì thế giản dị và mật thiết
mà mỗi lúc xa nhà quá lâu, Sãi thấy nhớ, nhớ vô cùng.
Cuộc nói chuyện tình đang ở hồi sôi nổi thì Khuê vào với tiếng nói cười ồn ồn.
Có bạn có bè tất có đi rông, dạo phố, Sãi hăm hở sửa soạn đi với Khuê như đã có
hẹn mà ngồi chờ. Sãi nghĩ, mình phải đi thêm để có cái viết cho Thị đọc, và
cũng để chân cẳng được tự do thoả mãn trước hàng kẽm gai buộc đôi chân từ bỏ những
thói quen động đậy lang thang. Những lúc nhớ tới Thị, Sãi thường tìm một công
việc làm. Đi lang thang như thể có dịp gặp Thị bất ngờ ở đâu đó, trong làn sóng
người chen chúc sắm sửa Tết.
Đi và ngủ lại nhà người bạn đến trưa Sãi mới mò về nhà. Ở nhà, Sãi như con chim
quen thói, bay đi xa rồi lại trở về lồng. Chị Tẩu hỏi lại cậu tính bao giờ đi
làm quan, Sãi nói đi làm quan bất đắc dĩ nên cứ nấn ná ở nhà viết thư cho cô
giáo dốt văn phạm. Nhớ lại kỷ niệm cũng là một cách tỏ yêu thương cao độ đó chứ?
Sãi ham viết thư đến nỗi mới giãi áo ra, đã mò cây viết. Chị Tẩu nhìn Sãi cười.
Viết xong thư và bì thư Sãi nghĩ đây mới thực là lá thư cuối cùng trong những
ngày chờ vào lính. Và ngày mai chuyến thư Sài Gòn sẽ đi Tuy Hoà để Thị đọc từng
câu, từng đoạn trước giấc ngủ.
Những ngày vào đến quân trường cái đầu đã húi cao trông kỳ kỳ, bộ đồ rộng dày
mang vào mình, Sãi chưa nghĩ là mình thực sự là lính. Và bắt đầu trông thư Thị
sau những lần đi tập ở bãi về, chạy ào vào phòng tìm thư. Sãi vốn không ưa
thích một nghề gì nên chuyện làm lính không hấp dẫn được Sãi. Do đó, trước ngày
nhập ngũ, Sãi đã nói với Thị là rất ít kể chuyện lính. Tuy Sãi bây giờ trông
vào là biết lính thực: Quần áo xốc xếch, còn mặt mũi cũng sạm đen.
Lúc Sãi đang tìm giấc ngủ vội vàng trước giờ đi tập thì được người bạn cùng
phòng gọi dậy, có thư. Sãi ngồi chồm dậy, tỏ vui xôn xao. Cầm thư mới biết
không phải thư Thị, lại buồn. Đọc nốt lá thư, thư của một độc giả gửi tới, lại
nằm xuống ngủ. Sãi nghĩ từ lúc gặp Thị, yêu Thị, Sãi có những cái kỳ cục buồn
cười hết sức. Như nhỏ lại, và thơ ngây. Giấc ngủ đến thực mau không ngờ.
Nghe tiếng cười nói ồn ào nổi lên trong phòng, ngoài hiên, Sãi thức dậy theo
thói quen cho một giấc ngủ trưa ngắn ngủi. Lại nghe người bạn gọi có thư, Sãi
ngơ ngác phân vân sao một ngày lại có đến hai chuyến thư. Lần này thì thư Thị.
Thư này được người bạn lấy ở tiểu đoàn. Chờ giờ học, Sãi ra sân tìm một bóng
mát vắng đọc thư Thị.
KBC 4100 ngày 1.6.1968
Thị,
Trưa nay ngủ dậy thì nghe gọi có thư Thị, anh phải "hối lộ"cho người
bạn mới được đọc thư Tuy Hoà. Thị có mường tượng được những lá thư để trên đầu
giường đi đâu về bắt gặp bất ngờ, và những lá thư sau một giấc ngủ nặng nhọc buồn
phiền không? Lần này mới có thư nặng trọng lượng một tí và là thư kép. Hồi chiều
cầm chổi đi làm tạp dịch ở ngoài khu nhà tiếp tân (sửa soạn để mai Chủ nhựt,
thân nhân SVSQ tới thăm) quét phòng xong, ra ngồi bãi cỏ đọc thư, lần thứ hai.
Và đang ngồi bên mớ súng ống gác đêm ở trong phòng học, đọc thêm lần nữa để
thương thêm nỗi nhớ xôn xao sửa soạn ra đi của Thị. Thị đi có một mình và trước
khi đi (9 giờ 30 phút sáng) còn gắng viết cho anh. Thương và thương thêm mãi ở
chỗ đó. 9 giờ 30 phút sáng ngày anh đi, đâu có phải lủi thủi như Thị, phải
không? Anh đã viết một thư về Huế cho Thị, và sau đó, hôm 28.5 có người bạn về
Tuy Hoà, dù rất bận, anh đã lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở đó, nhờ Thải mua
giúp một cái ví Bangkok để người bạn này mang ra cho em gọi là một chút kỷ niệm
những ngày anh ở trong này. Anh nhớ Thị có về Huế cũng vào cỡ đầu tháng (chờ
lĩnh lương, chờ máy bay), không ngờ Thị đi sớm thế. Như vậy, chắc người bạn
ngoài đó sẽ gởi ra Huế. Mong là Thị sớm có mặt ngoài đó để biết mặt mũi cái ví
với màu sắc lòe loẹt (màu sắc của chùa chiền xứ Thái) cổ kính đó ra sao? Có tò
mò muốn biết tại sao anh thích chiếc ví Thái Lan? Dễ hiểu, nếu Thị nhớ là những
chiếc áo soie Thái Lan đã có hồi anh ưa thích. Trang vừa rồi là anh… kể chuyện
- một trang phần anh - trang này là trang anh hỏi han - một trang của phần Thị
- Thị có vẻ hơi lúng túng hoặc hơi đắn đo khi nói chuyện về thăm nhà. Và sau đó
lại là những hàng chữ dập xoá. Giọng thư này làm anh không kìm được tính xấu
như mọi khi, tò mò… đọc cho ra những chữ bị bôi xoá đó. Dường như Thị nói
"yếu đuối" sao sao đó (tha lỗi cho anh). Và tự nhiên là anh phải nghĩ
ngợi, mơ hồ thấy có lỗi với Thị. Lỗi đã yêu em chẳng hạn. Điều đó anh có thể
nói được điều Thị nghĩ mà không sợ anh buồn hoặc em cảm thấy bị xâm phạm. Trước
sau anh chắc chắn được điều này: Bao giờ anh cũng yêu, quý Thị. Vì vậy, đừng dồn
nén xúc động làm chi cho tội, cứ viết như Thị rung cảm, như Thị cũng có một điều
tha thiết để theo đuổi như mọi người. Trong lá thư chẳng cần bắt chân cẳng chạy
lung tung từ chuyện nọ tới chuyện kia, như một cô bé vô tư đùa giỡn với nắng, với
hoa cỏ, với trời mây. Nói như vậy, anh chỉ có ý nghĩ bảo Thị nếu có vấn đề gì
lo nghĩ, cứ viết với anh. Ngoài ra, anh vẫn thương những hình ảnh trèo cây hái
quả, ngủ vùi… lộn xộn với nhau trong một thứ quen thuộc nhưng nhiều công đợi chờ.
Thị biết thương cái ngơ ngác của con ngựa cô đơn, lẽ nào anh không thực yêu người
tình ở lại tìm hoa tìm quả đùa chơi một mình?
Có kịp nhận mấy thư dài dài của anh không? Trong đó anh có nói không bao giờ
anh ghen. Anh không ghen với nỗi cô đơn của Thị, thì bây giờ, không lẽ nào Thị
ghen với… một đôi già? Anh phì cười và ngạc nhiên không ít khi nghe Thị kiếm
đâu được "tài liệu" đắt giá đó. Nói cho anh nghe đỡ tò mò? Bao giờ tiện
anh sẽ gởi cho em một cuốn sách có một nhân vật nói câu đó. Như vậy, Thị thêm một
lần nữa hiểu anh, đừng có lộn những cái anh viết với những cái anh sống. Hơn nữa,
"sợ và thêm vào ít bất mãn" làm chi cho mệt? Anh đâu có sinh ra để
đánh bài?
Tới giờ, nghĩa là chỉ còn hai tháng nữa sẽ ra trường, anh cũng chưa biết cái
mùi lang thang chiều thứ bảy trừ vài lần phép hồi Sài Gòn còn yên. Vậy Thị cứ
yên tâm, sẽ có rất nhiều thì giờ để viết cho Thị. Cái khó là ở chỗ nói sao cho
Thị cảm thấy nhớ Thị mà thôi. Thị vẫn im lìm mặc dù hầu như thư nào anh cũng hỏi
thăm về các bạn cũ của bọn mình? Nói cho anh theo dõi một chút chớ.
Ra Quy Nhơn nhớ chụp hình và gởi vào cho anh. Lần nữa anh lặp lại: Chúng mình
nghĩ về nhau như một điều tự nhiên thì những lo lắng cho nhau cũng là tự nhiên.
Đừng chờ có thư anh rồi mới viết, đừng chờ có hình anh rồi mới chụp gởi vào. Có
chuyện gì vui vui lạ lạ kể anh nghe. Ồn quá, anh ngừng. Thương buổi sáng sửa soạn
và những dòng viết hối hả cho anh trước khi ra Quy Nhơn.
Hôn em.
Anh.
Những ngày gần cuối khoá Sãi được phép về Sài Gòn đều và những cái phép đặc biệt
để lo báo. Đi phép như là một ước muốn thói quen, nhiều lúc được ra giữa đường,
không biết là mình sẽ làm gì cho hết thì giờ. Vậy mà cũng vẫn đi phép. Sãi nghĩ
giá có Thị ở đâu đây thì những lần dời quân trường sẽ có mùi vị. Nhiều bận xuống
đến Sài Gòn, đi lơ ngơ, gặp toàn những bè bạn mặc ka-ki, rủ vào quán, rủ chui
vào xi-nê, rủ đi lông bông. Sãi cũng thường tìm về nhà dưới Gò Vấp vào những
lúc mỏi chân cẳng, và muốn được nằm hưởng cái không khí gia đình cho đỡ nhớ. Về
nhà, sờ tới những bộ đồ lúc còn đi dạy, Sãi thấy chúng lạ lạ sao đó, như một loại
hàng mới nhập cảng. Phần trang điểm dân sự đặc biệt ở khoá này, coi như khó có.
Và Sãi thấy chịu lời người bạn: Mình không mặc được loại áo quần nào mà trông đẹp
trai như bộ ka-ki. Sãi nghĩ thêm, lười biếng như mình, mặc thứ này cũng tiện.
Đi, đứng, nằm, lết… đều được cả. Trái với những lần đi phép trước, lần này, lần
cuối, Sãi trở về với những nỗi lo bồn chồn, không rõ nét. Từ trước, Sãi vẫn
mong có một cuộc sống nhiều nhiều thay đổi một chút, để có thêm cái lạ để viết,
nên thấy không nên bị lôi cuốn bởi nỗi lo lắng của bạn bè về vấn đề đi đâu,
ngành gì. Nhưng dù sao nỗi chờ đợi quá quắt đó cũng làm Sãi ít thấy yên. Điều
quyết định làm Sãi vui là sẽ trở về với Thị ở Tuy Hoà trong vài ngày trước khi
đến đơn vị. Và Sãi chờ đợi ngày ra đi với những dự tưởng phong phú trong đầu:
Áo len đỏ, vòng bạc, bánh bao thịt chuột, Chân trời tím, nụ hôn đêm từ biệt.
° ° °
Chị Tẩu chuẩn bị cho lần ra đi này của Sãi với nỗi hoang mang
ngùi ngùi. Sãi được về Phan Thiết, lính con rùa. May xong bốn chiếc quần cộc,
hai chiếc đỏ hai chiếc rằn, chị Tẩu nhắc lại, màu đỏ là màu máu, cậu có nghe
anh Thung nói không? Sãi cười cười, tôi ưa màu đỏ áo len. Chị Tẩu chỉ biết chìu
Sãi, nhưng chị vẫn không ngớt hoang mang sao đó về chuyến ra đi của em. Khác với
những lần trở về, ra đi trước lúc còn dạy học ở Tuy Hoà, chuyến ra đi với cuộc
sống nhiều đổi thay bất ổn dành sẵn cho Sãi ở một miền núi rừng nào đó ám ảnh
chị, rồi chị không vui mấy. Sãi bảo nhỏ với chị, tôi đi sống đời lính thú cho
biết rồi chắc cũng được trở về với con nít, với cô giáo áo đỏ, vòng bạc, chị đừng
có lo.
Con chim bắt đầu dời khỏi lồng, Sãi đi Nha Trang với một người bạn trước khi đến
Tuy Hoà. Vừa bị xúc động bởi quá nhiều chuyến ra đi, ở lại của bạn bè, Sãi thấy
mình cũng yếu đuối, cần có Thị bên cạnh để được trở lại cái mức độ bình thường.
Vô số hình ảnh lộn xộn trong đầu, âm thanh của tiếng reo vòng bạc bên tai đêm từ
biệt, tiếng hát tân nhạc cải lương Căn nhà ngoại ô cũng lao xao trong trí nhớ.
Dường như, từ ngày vào lính Sãi cũng chỉ sống nhiều cho ký ức thôi. Sãi cố tình
để cho sự tưởng tượng hoạt động nhanh. Nào Thị áo đỏ nơi phòng trọ cũ, buổi chiều
ở con đường số 6, đêm đêm lang thang ở các ngõ vắng… Tưởng tượng làm Sãi vui và
nghĩ, lần này chắc sẽ có nhiều chuyện kỳ kỳ hơn.
Thị từ Huế vào Tuy Hoà một tuần trước ngày khai giảng, Sãi đến Tuy Hoà trong
lúc Thị còn hưởng một tuần còn sót cho mùa hạ. Như vậy sẽ tha hồ mà nói chuyện
cho bù lại những ngày mỗi đứa bị đày mỗi ngả. Sãi hăm hở, hấp tấp tìm tới Thị
trước buổi chiều xuống thấp. Thị gặp Sãi kêu:
"Anh Sãi, anh Sãi mới về?"
Thị cười tíu mắt, nghịch ngợm một chút trong vẻ ngây thơ dành cho một người
lính đi xa về:
"Răng anh ốm rứa? Anh viết thư nói với em mập lắm mà?"
Sãi muốn nói bằng một cái hôn, cái hôn nói được tất. Và Sãi tưởng tượng ra cái
hôn chắc phải dài hơn đêm hôm ra đi, nhưng cười nói:
"Anh đã nói cái mập đời lính sớm nở tối tàn, bây giờ anh đang ở vào cái
lúc tàn. Mập một hồi, rồi đâu cũng vào đó cả".
Sãi nhìn kỹ gương mặt như có lần tẩn mẩn ngồi lục tấm ảnh ra xem, Sãi giọng buồn:
"Sao em có vẻ hao gầy nhiều thế?"
"Có răng không?"
"Anh lại thương hơn cái vẻ hao gầy đó của Thị…"
Vẫn mớ tóc biếng chải một chút, gương mặt ngây ngô có chút hốt hoảng chưa tỉnh,
dáng điệu hao gầy ngờ nghệch, Sãi thương quá cái xót xa của Thị trong những
ngày đợi chờ. Sãi kêu Thị đã không nghe lời dặn hãy ăn ngủ cho thật nhiều vào.
"Thị…"
Sãi nôn nao được sống trở lại cái không khí cũ, cùng Thị ra đường, cùng Thị đi
lan man như những ngày mùa đông năm ngoái. Thành phố gió cát nên đã vắng thêm nỗi
xác xơ thật đáng thương. Những con đường đêm tối cùng đi, cùng ăn hạt dưa, bánh
bao thịt chuột còn đó với sự mong chờ kiên nhẫn như Thị. Sãi bảo, anh chỉ có
hai hôm để cùng em sống lại cho những kỷ niệm và dự định.
Buổi tối trở về thân mật trong con ngõ vắng sực nức hoa sầu đông. Sãi đưa Thị
ghé thăm nhà trọ cũ, Sãi giới thiệu Thị với bà chủ nhà:
"Má, cô giáo của con đây này…"
Thị cười thẹn bên Sãi, chiu chắt. Thị ngồi cạnh Sãi trước hiên nhà, quá vắng.
Căn nhà trước đây là nơi ồn ào của bọn Sãi với những hôm tụ nhau lại đánh bài,
nói dóc và bàn chuyện chống Ty. Sãi thấy có chút ngậm ngùi cho sự có mặt, trở lại
của mình, trong lúc Điều, Khuê, Ẩn… đã làm lính đi xa. Đã một đời xuôi ngược.
Tự dưng Sãi ngồi cười cười một mình, Sãi cười cười cái vồ vập ít tìm ra nơi
mình xưa nay. Sãi nghĩ, lúc này người có nghị lực mấy cũng ít giữ được cái bình
tĩnh trước cuộc sống. Không sống vội không xong. Cuộc sống chỉ có hai ngày. Hai
ngày là hai đêm. Lúc nghe tiếng còi thúc giục ngoài phố, Sãi đưa Thị về, giới
nghiêm. Những tham lam mong đợi làm gì có thể yên với những người yêu nhau, như
Sãi, như Thị trong một buổi chiều buổi tối. Sãi vẫn thấy là mình chưa nói được
một phần những gì mình nghĩ, cho Thị. Cho người yêu nuôi dưỡng bấy lâu trong những
giấc mơ. Con ngõ tối mù, Sãi hẹn sáng sớm mai lên đón, Thị gật đầu cười.
Ròng rã hai ngày Sãi và Thị ngồi giữ góc bàn ở nhà trọ cũ nói chuyện đến nỗi
quên cả cơm nước. Ngồi bên người yêu, không ăn cũng no, Sãi thấy quả có đúng phần
nào. Những bữa ăn không giờ giấc qua loa chuẩn bị cho một cuộc tiếp tục nói
chuyện dài hơn, giúp Sãi tìm thấy nỗi an ủi cho ngày ra đi. Những ly nước cam
Sãi tự tay ra quán mua về, để đó đến lạt rồi đổ. Kỷ niệm ghi thêm cái góc
phòng, những ly nước cam, gói mứt hạt sen… Thành phố này quá quen với Sãi, với
Thị. Sãi muốn có một sự im vắng của cái góc phòng để sống với Thị cho thực nhiều
"năm phút đứng đắn" trong một ngày.
"Thị, bây giờ lũ mình không phải chỉ sống với những kỷ niệm rực rỡ, mà cả
với những thực tế của anh, của em…"
Tình yêu mà có vài lần xa cách sẽ làm đậm nét tình yêu hơn, đó là một cách nói
mà Sãi nhắn nhủ Thị. Sãi đã dành cả buổi sáng ở công viên chờ giờ xe chạy, để
nói với Thị những câu dặn dò hơn yêu thương. Chứng tỏ đã có nhiều nỗi lo trong
lòng cả hai. Và cũng bắt đầu cho những chua xót phải có trong những cuộc tình.
Sãi thấy lòng mình lại nao nao như lần trở về, như vừa gặp Thị. Sãi nhìn vu vơ
lên đầu đường Trần Hưng Đạo từng cơn gió cát bốc mù. Gió khô và gay gắt nóng.
Lúc xe trờ tới trình giấy tờ xong, Sãi mới chịu dời Thị, nhảy lên.
"Anh đi sẽ mạnh giỏi nhưng em phải đừng buồn…"
Có cuộc tiễn đưa nào mà không buồn đâu, có chuyến ra đi nào mà không xuôi cho
lòng yếu đuối trong cuộc sống vây phủ yêu thương? Thị khóc, Sãi bùi ngùi.
Thương và lo cho nỗi xốc xếch lôi thôi hao gầy của Thị với dáng dấp bé bỏng của
cô em gái nhiều tình nghĩa phải sống với những ngày kế tiếp cô đơn.
Sãi đến trình diện trễ trong lúc nhiều người đã được đưa đi các đại đội thực tập
nên sáng chiều hai buổi phải có mặt vài phút rồi trở về qua sông ngồi uống
café. Con sông chia đôi thành phố, làm thành phố có vẻ tách biệt dễ thương. Chiều
hôm mới tới Phan Thiết, nhìn thành phố rộng rãi, và có vẻ ngơ ngác của một tỉnh
lẻ, Sãi thấy mến thành phố này. Rồi lại đi coi máy bay thả bom ngoài tỉnh, Sãi nhận
ra tình hình ở đây chắc không được yên lắm. Thành phố khép nép, sợ sệt, cửa
đóng như một buổi chiều nhàn hạ cuối năm. Sãi không thấy buồn gì về những nguy
hiểm đang chờ đợi, có nghĩ chỉ thêm mệt xác. Và thoáng có ý ngông ngông là mong
có súng để được đi đánh nhau cho biết. Trở về, qua sông mua tờ báo đọc Tiếu ngạo
giang hồ, và nghĩ tiếp đến Thị, cười cười một mình.
Ở bên này và bên kia sông, Sãi đều có nơi để ghé lại, vui vẻ và thân tình. Nhà
bà bác rất thương Sãi, và nhà người bạn có khi yên ổn của cuộc sống công chức.
Và hai cô gái để bàn chuyện lúc buồn. Sãi nghĩ, với cái đà bắt bạn nhanh này
Sãi sẽ thấy đỡ cô quạnh, tìm lại cái không khí rộn rã tiếng cười lúc ở nhà. Sãi
thấy lo cho Thị với những ý nghĩ ra đi biền biệt về mình của nàng, nhưng rồi yên
tâm trở lại khi tính biết lá thư nặng trọng lượng 15 trang vừa gởi, chắc đã tới
Thị vào chiều nay.
Sãi nhận được lệnh đến đóng tại đồn Nora, cách Phan Thiết chừng 30km, sát quốc
lộ 1 về phía bắc. Đồn ở trên một ngọn đồi gồm nhiều căn "nhà" bằng
bao cát, rộng và chắc. Sãi hôm mới đến đã thấy thích cái đồn này khi từ trên đồn
nhìn xuống quan sát xóm nhà nằm kề quốc lộ. Chung quanh có đồi thấp, rừng thưa.
Một người lính nhìn Sãi cười, chuẩn uý lên đây tha hồ bắn chim, ăn thịt chim,
và đọc chưởng…
Sau một ngày hành quân vượt qua nhiều đồi, suối và làng xóm, Sãi và đại đội mò
xuống quốc lộ, ngồi chờ xe tới chở về phố. Sãi mới nhớ, ngày mai là ngày Chủ nhật.
Thêm một ngày nghỉ cuối tuần, một nỗi vui trở về sau một cuộc hành quân không sứt
mẻ. Sãi được gợi lên nhiều ý nghĩ chia xa nhiều nhất. Và ngay cái thành phố Sãi
và bạn bè vừa từ giã lúc sáng, có ai tin chắc được là họ sẽ trở về vào buổi chiều
với bữa cơm chờ sẵn? Với tách café, và tờ báo khi qua bên kia sông? Do đó, Sãi
mong được sống yên bên những giãi bày yêu thương với Thị, và dự định trở về bên
nàng nếu cuộc chiến chỉ dợt mình như trò chơi, rồi trả Sãi về với dự ước riêng.
Sãi nao nao khi hình dung đến một cuốn truyện mình định viết, tha thiết từng
ngày như tình yêu Thị. Ngay cả lúc dừng quân, nằm lơ vơ trên một ngọn đồi lạ,
úp nón sắt lên mặt. Sãi thèm quá hơi gió mát trên đồi, sắc nước trong dưới suối,
và những cánh đồng hoang nhiều cỏ may. Sãi định bụng sẽ viết cho Thị những ý tưởng
đó, và chỉ có bấy nhiêu thôi.
Xe dừng lại đổ lính xuống, Sãi đi tìm ngay một ly café, cho buổi chiều, không
nghĩ tới buổi cơm. Bữa ăn lúc trưa với thịt con chim so đũa, với lít rượu đế, vẫn
còn nồng đầy trong bụng. Tự dưng Sãi lại cười, khi ăn hết con chim so đũa và uống
hết nửa chai rượu, ông Trung uý đại đội trưởng mới nhớ là mình phải ăn chay,
kiêng rượu và thịt.
Trở về nhà người bạn với Sãi để được hưởng lại cái không khí đầm ấm, với bà già
vui chuyện, người bạn nhiều tâm sự, hai cô gái có người tình vừa đi xa, và những
lá thư của Thị, của bạn bè nằm chờ sẵn. Trong những ngày ở đó, Thị đã là đề tài
nhiều hấp dẫn cho Sãi nói đến, nghĩ ngợi và vui vui với những tưởng tượng quay
quần trong đầu. Sãi dần dần nhớ lại hết thảy, nhất là hình dáng hao gầy, lôi
thôi của Thị trong hai ngày về thăm lại. Cuộc sống một tháng đôi lần được trở về
phố yên lành, giúp Sãi tin hơn ở những dự tính đã nghĩ, đã bàn với Thị.
Nora, ngày 1.2.1968
Thị,
Tháng này coi như em không có thư cho anh. Nhiều buổi chiều có người từ Phan
Thiết mang sách báo và thư lên, không thấy có tuồng chữ em, buồn. Hồi hôm,
trăng sáng đến độ không ngủ được, hết ngồi trên xe GMC coi đánh bài (chớ không
đánh bài) lại trèo lên "lốc" nằm, bốn giờ sáng mơ thấy em với nhiều
chuyện lộn xộn không mạch lạc, tỉnh dậy nhớ quá, uống trà rồi viết được ít hàng
lại xé bỏ. Anh chợt thấy một "câu hỏi" có thể giải thích tại sao em
không viết cho anh: Có phải vì anh quá thành thực (nói đủ mọi chuyện) nên anh bị
nghi ngờ và làm em nản? Nếu đúng vậy, cũng chẳng có gì đáng trách về phần em.
Còn phần anh có lẽ cũng… không đáng trách nốt. Cái tính vốn dễ gây xa cách vì
ngộ nhận, quen thói rồi, thây kệ. Còn nhớ số 13/12 anh bảo em ghi sau tấm hình
đầu tiên đưa anh? Khi nhận thư này, biết đâu cũng là ngày tháng đó. Khác chăng,
mùa lạnh năm nay mỗi đứa một nơi. Riêng anh, thì núi đồi này, chim chóc và rừng
cây khô lá này làm anh viển vông thêm và không ngớt mơ mộng. Trong nỗi mơ mộng
dông dài đó, chuyện tình chúng mình vẫn là thứ dễ hồi tưởng và có rất nhiều ngậm
ngùi (như thể tình yêu là những tội nghiệp và dễ thương) tuy cũng rất nhiều dịu
dàng xao xuyến: Mấy hôm rồi, đầu tuần trăng, anh xuống xóm uống tới tối mới
lên, tới giữa dốc anh nằm dài và muốn nằm dài thế mãi. Những lời muốn đi xa, muốn
quên hết của em, những cách xa giữa anh và những thân tình ở chỗ này, chốn nọ,
đã tạo cho anh những đêm như vậy. Nằm dài trên dốc bất kể bạn bè và lính chờ,
anh vui thích nghĩ là đang sống những phút quên thôi, cho anh, cho em. Những gì
em ao ước nhưng không thể thực hiện thì anh đang sống thế cho em, đừng có ham
và cũng đừng có đòi nữa.
Nói như vậy cũng chưa hết cái lạ trong mùa này đâu (lạ ở đây có nghĩa: Những gì
anh sống khác hồi này năm ngoái). Những buổi ngồi trên cái xe xọc xạch chạy về
Phan Thiết, ào vào nhà quen tìm lại chút thân thuộc gia đình rồi lại dời thành
phố cùng những mớ hàng hoá vợ lính cười giỡn ồn ào, anh cho đó là những buổi
chiều tự thấy mình xa xôi, biền biệt nhất. Bình thường thì sau những lúc đó phải
viết cho em. Nhưng hồi này, dường như em cứ bướng bỉnh cố tự tạo một không khí
riêng mà buồn, anh "bất khả" can thiệp, khiến anh đã nghĩ em hết còn
muốn anh phiền hà để riêng em, em sống? Nếu đúng vậy, em không nói ra, em dở hết
cỡ. Mình vốn "tôn trọng luật pháp công minh, 2 + 2 = 4" mà. Còn nhớ
câu danh ngôn: "Sự học như con thuyền trên dòng nước ngược, không tiến thì
lùi"? Tình yêu là một sự học không? Trả lời thử coi, đừng làm biếng. Không
đâu. Những cái học được trong tình yêu đắt giá quá, học chi cho mệt. Nhưng nó
giống sự học ở chỗ không tiến thì lùi phải không?
Anh vừa viết xong khúc đầu một cuốn sách. Em được mô tả một cách hết sức kỳ cục.
Chừng nào có báo Xuân anh gửi cho coi sẽ rõ. Giờ thì anh viết một cuốn khác.
Còn cuốn kia, định chừng nào về gặp lại em, hỏi ý em rồi viết tiếp. Em có muốn
cái nhân vật giống em đó có… một đứa con để dẫn đi phố cho vui vào cuối cuốn
sách?
Em vẫn còn ở chỗ cũ? Nói rõ em sống lúc này ra sao? Bạn bè đi lính vừa rồi có
ghé về Tuy Hòa? Chắc bây giờ họ chịu đời lính hơn đời dạy học. Tâm trạng chung
mà. Sống thì sống đời lính mới là tuổi trẻ và bay bướm. Trừ anh, anh chỉ cần một
chỗ ngồi tán dóc với bè bạn, một xó xỉnh để ngồi một mình mà viết, nên rất mong
về dạy lại. Mỗi ngày một buổi qua cầu, về làng dạy học, còn lại là của mình. Em
chịu đựng được lối sống đó?
Bắt đầu nói chuyện về quê ăn Tết và… lấy chồng chưa? Tết năm nay chắc không phải
chạy mỏi chân và sợ máy bay như Tết năm rồi đâu. Sống ở Tuy Hòa thì dường như
chẳng có gì, nhưng đi xa mới thấy có nhiều thứ lẩm cẩm đáng nhớ. Sao Tết này
chính phủ không phát động một chiến dịch các cô giáo đi thăm các tiền đồn để
chúng mình gặp nhau trong hoàn cảnh lắt léo, ly kỳ?
Nhớ là phải viết ngay cho anh sau khi nhận được thư này. Em bắt đầu phải mặc áo
ấm mùa lạnh năm ngoái chưa?
Anh. 1.
Chiều ngày thứ bảy 10 tháng 1 năm 1969, Thị rủ Nga cùng xuống
phố để nhận thư và sắm ít đồ trước ngày về nghỉ Tết, Mai đưa cho Thị tấm điện
tín: Sãi tử trận tại Phan Thiết, ngày 8 tháng 1 năm 1969. Nguyễn Hiếu Học. Thị
bàng hoàng, se sắt. Hình dáng Sãi lúi hủi bước tới, giọng nói trầm ấm bông đùa,
trở lại như vừa mới gặp Sãi lúc sáng ở trường. Thị phân vân, nghĩ bụng, có lẽ lại
là một sự thử thách?
Đúng như Thị đã nghĩ, quả đó là một thử thách nhưng lớn lao hơn cho nàng vì Sãi
đã chết thực. Chúng ta không ngờ đoạn kết của câu chuyện tình giữa Sãi và Thị
như thế. Sãi đến với Thị và ra đi mãi mãi đúng một năm "một năm tròn cho một
mối tình giữa thời ly loạn, phải chăng đã là quá dài? Tình yêu, tuổi trẻ…,
trong ngọn lửa hung tàn, phi nhân, dễ bén cháy và tàn mục còn hơn những xác lá
vật vờ cuốn theo chiều gió.
Sãi đã ra đi, có thể về miền cao nhất. Còn lại Thị, Thị và những kỷ niệm lây lất
buồn rầu, trên cõi trần gian đầy hệ lụy - chỗ dung thân thấp nhất của kiếp người
cô đơn, bé bỏng…
Tuy Hòa, ngày 10.3.1969
Mang Viên Long
Chú thích:
1 |
Ba bức thư trích dẫn trong bài là do chính Y Uyên viết. |
Năm 1971
Y Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét