Chợ ở khúc quẹo của con đường dẫn từ ngoài lộ vào giữa làng. Ở
chợ nhìn ra, mặt lộ cao bằng những mái tranh lụp xụp dưới chân lộ. Con đường chạy
lên lộ mấy năm trước lụt bị nước phá bây giờ lổn ngổn những cục đá xanh. Những
chiếc xích lô đón lính Mỹ lắc qua lắc lại vất vả mới vào tới chợ. Buổi sáng họp
chợ lấn ra cả ngoài đường, trên lộ nhìn xuống thấy một hàng dài những người quần
áo đen nón lá san sát lấp lánh. Trưa đến, trên đường thỉnh thoảng mới có một
chiếc xe xích lô buông mui dập dình hoặc một chiếc xe nhà binh sao trắng ầm ì
chở nước xuống bãi cát bên kia con đường làng.
Trời cao nắng bóng mặt đá đường ra lộ, mặt cát đường trong làng. Bụi cuốn từng
cơn đột ngột xoay tròn trên đường, tan vào bụi tre rậm. Chợ trống trơn, mái tôn
mới sáng lòa. Mấy con chó luẩn quẩn trong chợ, lưỡi thè ra thở. Trước mặt chợ,
sát bên đường, một dãy lều tranh mái lốm đốm hoa sầu đông màu tím nhạt. Có vài
người đàn bà ngồi bán những mẹt mận, ổi choắt choeo, bán bánh, đồ uống. Mấy chiếc
xe xích lô quay đít ra chiều gió, đậu rải rác dưới những bóng cây. Những người
phu xe nằm trong lòng xe vấn thuốc hút hoặc ngủ lơ mơ. Đối diện với dãy lều,
bên kia đường, tấm bảng gỗ hình mũi tên chỉ vào một mái nhà lợp rạ sau bụi tre
với mấy chữ nguệch ngoạc "Laundry number one" chốc chốc lại khua lúc
lắc lưng chừng một thân gòn cụt ngọn. Đường làng bên hông chợ mất hút sau những
rặng cây trùng điệp. Bên kia đường, dưới sâu là bãi cát với làn nước cuối dòng
sông tù hãm lấp lánh, với những chiếc xe sao trắng bên những chiếc lều màu cỏ
thấp sát mặt đất bên những ruộng mía xanh non mới mọc. Một chiếc xe ba bánh bán
giải khát có mui viền tua vàng rực rỡ, thùng xe kẻ đầy những chữ Refreshment
nép khuất vào một bụi tre trên con dốc xẻ xuống bãi cát. Gió thổi từ bờ bể xa về
lâu lâu ào lên như một hơi thở hắt.
Từ một lối rẽ sau rặng cây trùng điệp, một bọn học trò con trai con gái hiện
trên đường làng. Chúng đeo trên vai, xách trên tay những gà mèn, những mo cơm,
vừa đi thơ thẩn, vừa đọc cho nhau nghe những lời sấm truyền về tai họa sắp xảy
ra ở vùng này. "Ngày hai mươi tháng Ba năm Bính Ngọ tới đây kể từ lúc
trăng lên khỏi đám mây ngũ sắc ngoài mặt biển, trời đất không còn ngày đêm. Bốn
phương mờ mịt âm u, ngang trời có khói màu đen bay tới đâu nghe có tiếng than
khóc tới đó, núi phía tây tinh tú sa xuống tận mặt đất bốc cháy thành lửa. Cây
gai lưỡi long thảy thảy lớn lên gấp năm gấp sáu mọc chật đường, chật ngõ, bông
gai thảy thảy nở, thành bông lan, người tu hành mới hửi được hương thơm. Gà
không còn gáy, chó không còn sủa, ngoài đường đầy beo cọp yêu tinh. Kẻ ăn chay
làm lành thì biết đóng cửa ở trong nhà, kẻ không tin thần tin quỷ thì chẳng đặng
ngồi yên, lòng như có than hồng lửa đỏ, ra đứng trước nhà mà chịu chết thảm.
Như kẻ nào mà đọc được lời dạy này biết sao thành ba bốn đưa cho người khác thì
cũng đỡ phần tai họa".
Bọn trẻ kéo nhau ra tới chợ, vào những túp lều bỏ trống giở cơm ra ăn. Mấy con
chó lại gần chúng ngồi thè lưỡi chầu chực. Ăn xong chúng xúm lại bên đứa trẻ có
tờ sấm ngồi bệt xuống đất vây quanh một cái phản bán hàng lâm râm đọc và cặm cụi
chép. Những cơn gió ào lên đứt quãng bị bờ tre bên kia đường cản lại nhưng vẫn
thổi rạt được mấy ngọn sầu đông bên này. Những tờ sấm trên mặt phản gỗ trong lều
rắc đầy những hoa tím nhạt. Vài đứa chép xong ép giấy sấm vào sách vở lại mấy
gian lều bán hàng phát cho mấy người phu xe choàng tỉnh, đưa sấm cho họ. Chỉ
còn người bán giải khát bên cái xe ép vào bụi tre trên dốc cát. Chúng ùa chạy tới,
đứa nọ sợ đứa kia giành mất. Người bán nước bỏ đi đâu, chiếc xe thì đầy bụi, lớp
tua vàng viền bên mui thì đập phần phật. Thấy một thằng bé ôm một mẹt hành đứng
vơ vẩn nhìn xuống trại lính dưới bãi cát, bọn trẻ nhào tới. Thằng bé giật mình
quay lại hai tay vòng chặt quanh mẹt hành. Một đứa con trai gỡ bàn tay nó ra
nhét tờ giấy vào, một đứa con gái sẽ sàng đặt tờ giấy trải rộng lên mặt cái mẹt.
Thằng bé hốt hoảng vứt mấy tờ giấy xuống mặt dốc:
"Tôi không biết chữ, không đọc được truyền đơn".
Đứa học trò con trai chạy lượm tờ giấy chìa trước mặt thằng bé.
"Mầy không đọc được thì mang về cho cha mầy đọc, lời thần dạy mà
mày".
"Tôi không có cha".
"Mày nói láo. Bộ gà vịt chúng đẻ ra mầy chắc?"
"Tôi cũng có cha mà cha tôi chết rồi".
Thằng bé vừa nói vừa ôm mẹt hành đi. Đứa học trò chạy theo nhét vào túi áo nó.
Thằng bé đứng lại nhìn mấy đứa học trò, có vẻ không hiểu. Bộ mặt cháy nắng của
nó ửng lên. Nó móc túi vứt tờ giấy xuống đường:
"Má tôi cấm không được lượm giấy lạ về nhà".
Mấy đứa học trò nhao nhao bảo nhau:
"Thằng bán hành phách lối".
Đứa học trò lượm tờ giấy rồi chỉ vào mặt thằng bán hành.
"Có thiệt mầy không cầm?"
Thằng bé bán hành nhìn bọn trẻ, giọng bối rối:
"Má tôi cấm không được lượm giấy lạ về nhà".
Đứa học trò bật lên một tiếng chửi, cả hai bàn tay móc vào mẹt hành giật xuống.
Những củ hành vỏ tía, những trái ớt, trái chanh rơi vung vãi bắn vào bụi tre,
lăn xuống dốc cát. Mắt thằng bé bán hành mở lớn, môi cắn chặt. Nó nhào sang bên
kia vệ đường, lượm một cục đá. Lúc ngửng lên, nó thấy bọn trẻ bên này đứng rải
rác bên những bó hành. Đứa học trò gây với nó đá vào cái mẹt trỏ sang:
"Mầy mà chọi đá, tụi tao bẻ gãy cẳng, giậm nát cái đống hành này. Chọi thử
coi".
Thằng bé bán hành lưỡng lự trông sang, tay vẫn nắm chặt cục đá. Bên này bọn trẻ
nhìn nhau cười. Một đứa vạch quần tiểu trên những bó hành. Thằng bên kia nhìn
ngược nhìn xuôi. Thấy từ phía đầu đường có một người đi lại, nó cầm cục đá chạy
sang húc đầu vào bụng thằng học trò cầm đầu. Đứa học trò bất ngờ lộn nhào xuống
dốc nhưng những đứa kia đã xúm lại. Thằng bé bán hành bị đè xuống đất, cục đá
nơi tay bị đánh văng đi. Những quả đấm đập tới tấp trên mặt nó. Đứa học trò từ
dưới dốc nhảy lên lượm lấy cục đá nhào vào:
"Đập nát ống chân nó ra nó mới sợ".
"Để tao tiểu hẳn lên mặt nó coi nó làm gì tao".
Một đứa khác kêu. Người mà thằng bé bán hành thấy ở đầu đường đã đi tới. Đó là
một người lính râu lởm chởm, lệch vai. Bọn trẻ thấy có người vội vàng ùn ùn bỏ
chạy. Thằng bé bán hành chống tay ngồi dậy nấc lên khóc. Người lính dừng lại hỏi:
"Chuyện gì đó?"
"Tụi nó muốn bẻ gãy cẳng tôi".
"Người lính cúi xuống nhìn những vết sưng trên mặt thằng bé. Anh ta dùng
hai tay mở nút áo nó, nhìn vào trong xem xét rồi rờ nhẹ nhẹ trên hai cẳng nó:
"Có nhức không?"
"Không".
"Vậy thì chưa hề gì".
Người lính kéo ống quần lên, rút trong ống quần một lưỡi dao trắng lóa, một tay
đỡ lấy ót thằng bé, một tay cầm dao lấy sống giập giập trên những vết sưng nơi
mặt nó. Thằng bé nhắm mắt lim dim. Thỉnh thoảng lại nhăn mặt, rên nho nhỏ. Nó
thuật lại câu chuyện cho người lính nghe. Lát sau, người lính nhét dao vào ống
giầy, cúi xuống ôm lấy hai bên nách nó đưa người nó đứng lên. Nó khập khiễng xuống
dốc lượm lần những quả chanh, quả ớt, bó hành.
"Không hề gì mà".
Người linh nói và đứng sát vào bóng tre.
"Mày ở làng này?"
"Tôi ở làng Hòa Mỹ".
Người lính nhìn xuống những túp lều dưới bãi cát như tìm kiếm.
"Mầy tới đây chi?"
"Đổi hành cho lính Đại Hàn lấy đồ hộp, thuốc hút rồi bán lại cho mấy người
trong chợ. Bữa nay cấm không được tới hàng rào tới giờ vẫn không có người đổi".
Người lính trỏ xuống bãi:
"Dưới này cũng có Đại Hàn?"
"Đại Hàn ở đồn ngoài lộ".
Người lính thè lưỡi liếm hai bên ria mép, bật nút áo ngực kéo cổ áo ra sau gáy,
ngoắt tay ra gãi. Dáng người lệch vai của anh ta nhích mãi xuống bờ dốc cát,
bóng anh ta nhích dần ra khỏi bóng tre. Thằng bé bán hành ngửng lên tò mò nhìn
anh ta. Dường như anh ta vừa cất tiếng chửi tục. Anh ta móc túi lấy một điếu
thuốc ngậm miệng, vừa quẹt lửa vừa lùng bùng hỏi:
"Nghe nói ở đây có chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ mà sao không thấy?"
"Bữa nay chưa thấy tới".
Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt.
"Mầy có biết người con gái bán trong xe đó không?"
Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những
vệt bánh xe.
"Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống".
"Con đĩ".
Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi về phía chợ. Bọn học trò ngồi
chép sấm trong lều thấy anh ta, tản mát đi chỗ khác. Trời nắng gay gắt. Anh ta
toan vào cái quán đầu dãy, thấy có người đàn bà chít khăn tang ngồi đó, lại bỏ
sang căn lều có mấy người ngồi nhậu với bánh tráng. Điếu thuốc trên miệng anh
ta bốc khói hỗn loạn. Tay anh ta luôn luôn ngoắt ra sau gáy gãi sồn sột. Anh
kêu cà phê phin. Người đàn bà áo dài đen bán quán cười nói không có. Anh ta lắc
đầu chán nản, kêu la de, mặt hếch lên nhìn một gã lính Mỹ da đen cao lớn bụi bậm
ngồi phơi nắng trên bực gạch cửa chợ cúi đọc những chữ số trên những tờ giấy bạc
Việt Nam, đếm tiền. Người đàn bà đặt ly la de trước mặt, anh ta cầm lên lắc lắc
rồi cau mặt hỏi:
"Sao không có đá?"
Người đàn bà cười xoa hai tay:
"Dạ, hồi này đá hiếm lắm, không có mua được, anh vui lòng uống đỡ".
"Không có cà phê, không có đá, không có chi ráo cũng bày đặt bán giải
khát".
Người lính cầu nhầu rồi chỉ chai rượu đế:
"Cho một xị pha uống đỡ vậy. Ai mà uống la de không đá. Tôi đâu phải là
người không rành chuyện ăn xài. Thằng này đã từng uống huýt ky Mỹ rồi mà".
Một ông già trong mấy người ngồi ăn bánh tráng cười bả lả đặt một miếng bánh
trước mặt người lính:
"Ăn miếng bánh, chú. Chú từ miệt trên xuống đây có nghe gì về vụ mìn nổ
hôm trước ở bờ sông. Nghe nói có người mất chân, mất tay, mò hoài không thấy?"
Tiếng ông già nói lớn làm người đàn bà chít khăn tang ở quán đầu dãy nhìn sang.
Người lính vươn cổ gãi không đáp. Từ phía dốc cát, một người lính Mỹ da cổ đỏ vằng,
quần áo dầy cộm rộng thùng thình dắt thằng bé bán hành vào quán có người đàn bà
chít khăn tang. Người lính kéo hai chiếc ghết dưới gầm bàn, ngồi đối diện với
thằng bé. Ở bên này, ông già vẫn cười bả lả với người lính lệch vai. Ông nói với
anh ta những thiếu sót của một quán giải khát miền quê, nói mình muốn cất một
cái quán đàng hoàng ở đây mà quận không cho phép.
"Từ ngày quân đội đồng minh tới đây thiếu gì người muốn cất quán mà không
được. Chỉ có chiếc xe đò Vạn Hưng là tự do hốt bạc. Thiệt là một thứ phòng ngủ
lưu động. Giang hồ lãng mạn quá mà".
Người lính chằm chằm ngó ông già nghe ông nói. Anh ta hỏi:
"Sao bữa nay chưa thấy tới?"
"Có khi chiều mới được phép xuống, chiều mới thấy tới".
Người lính co chân lên gãi rồi cầm ly la de pha rượu đế uống một hơi lớn. Anh
ta bắt đầu nói nhiều với ông già. Giọng người Mỹ ở bên kia kêu "giời
ơi" vọng sang. Thằng bé bán hành mặt nhô khỏi mặt bàn ngồi ngước người Mỹ
yên lặng nhai bánh. Trước mặt nó là một đống lá với một ly cam tươi. Trước mặt
người Mỹ là một ly la de lớn và vòng tay lông lá của anh ta. Anh ta nếu không đột
ngột kêu "giời ơi" với nó thì yên lặng dựa vào lưng chiếc ghế mây,
vòng tay nhìn nó ăn. Có lúc thằng bé cười rồi ngước nhìn thấy anh ta không hưởng
ứng. Mặt anh ta lúc đó tĩnh như một người ngủ mở mắt.
Người lính lệch vai càng uống càng ồn ào, yếu đuối. Vẻ gây gổ của anh lúc mới tới
mất dần khi thấy mấy người trong quán chú ý nghe chuyện của mình. Anh nói vợ
anh ở trên chiếc xe đò có che màn màu đỏ đó. Anh tới đây để đâm nó chết. Hồi mới
cưới vợ anh không bao giờ làm mẹ con anh phiền lòng. Trong nhà không chuyện gì
nó không biết, không lo. Nó thuộc cả từng sợi tóc sâu trên đầu má anh, lấy than
viết lên tường ghi cả ngày gà khởi ấp. Nhưng lần lần những săn sóc, chăm lo của
nó thành những lời thôi thúc âm thầm muốn anh phải thế này, thế nọ. "Nó
luôn luôn muốn hơn thế nữa". Những ngày anh đồn trú ở ngoài quận địa đầu tỉnh,
anh nghe nó thường theo những người đi lấy lúa ở vùng địch. Mấy bữa vừa rồi, về
tới nhà anh nghe nó chỉ mượn cớ đó để đi cho thỏa tính hoang. Có người nói chắc
nó vẫn theo chiếc xe đò Vạn Hưng đi bán giải khát. Nó giấu mặt trong những tấm
màn đỏ nhưng ai cũng biết đến. Anh tìm tới đây, giết nó rồi đi ở tù. Nó luôn
luôn muốn hơn thế nữa thì lúc này xa anh nó cũng chẳng sung sướng chi. Lưỡi dao
anh mang theo đây sẽ giúp anh khỏi buồn vì nó và cho nó khỏi buồn vì cả đời
không đầy được nỗi khát khao tự mình bày đặt cho mình.
Buổi trưa như một giấc ngủ trằn trọc nực nội. Người lính lệch vai vừa hung dữ vừa
yếu đuối mặt mũi bơ phờ cuối cùng cũng im lặng uể oải. Còn tiếng gió lùng bùng
thổi từng chập trên ngọn cây làm rụng từng lớp hoa sầu đông xuống hai bên dãy lều.
Từ ngoài lộ, có hai ông thầy tu đạp xe vào chợ. Chân họ đạp thoăn thoắt nhưng
chiếc xe lăn nhấp nhổm, chậm chạp. Hai người đều đã có tuổi, tóc búi sau lưng,
vận hai tấm áo dài xanh màu da trời óng ả, cổ đeo xâu chuỗi đen. Nơi tay lái
xe, đeo lủng lẳng cái khăn gói. Họ mang dép đế dầy và cong của những người miền
núi. Ở giữa quán đầu dãy, người đàn bà chít khăn tang, đội nón bước ra đường.
Chị ta đi xuống phía làn nước cuối dòng sông dưới bãi cát. Người lính lệch vai
đã banh hết nút áo, mồm ngậm ướt điếu thuốc đứng dậy ngó lên phía mặt lộ. Ông
già và mấy người ngồi cùng với anh ta nhỏ to bàn tán về hai ông thầy tu áo xanh
vừa vào một cái lều trống nghỉ chân. Người ta nói màu áo nom lạ mắt. Có người
nói chắc họ ở Bình Định đi thuyền men theo bờ biển vô đây. "Phải là người
gan dạ, võ nghệ cao cường mới dám xem thường nguy hiểm". Người khác lại
nói họ là bạn ông thầy pháp chín vợ ở thôn trên, hồi mở hội bắt thăm người vợ
út của ông dường như cũng có mặt hai người này. Cũng có thể là hai anh em họ Trần
dong thuyền đánh cá ra khơi mất tích cả chục năm ít lâu nay lại nghe nói trở về
hốt thuốc cứu độ cho những người dân miền bờ biển. Cũng có thể là người ở trong
bọn chuyên môn đổi đô la và buôn lậu bò sang bán ở bên kia đèo cải trang. Nhưng
dù sao, mọi người cũng nhìn hai người lạ với sự e dè, kiêng nể. Những lời sấm của
bọn học trò truyền nhau chép và họ như có một liên lạc vu vơ.
Người lính lệch vai mỗi lúc như mỗi thêm nóng ruột. Anh ta bỏ ra giữa đường,
dáng điệu bứt rứt. Những điếu thuốc trên mồm anh ta không bao giờ cháy đều,
không lần nào khô đầu ngậm. Lẽ nào đứa vợ hoang giấu mặt hổ thẹn trong những tầm
màn đỏ biết được anh đang ở đây chờ nó. Nó vẫn chưa bao giờ nghĩ nó đáng chết
sao. Từ lúc da thịt nó mang một mùi đàn ông khác với mùi da thịt anh, nó chết rồi
đó. Thân xác nó lúc này đâu còn tươi mát như trước nữa. Nó mãi mãi không còn
cái nhan sắc hồi cầm than viết trên tường ghi ngày gà khởi ấp. Nó chỉ còn vẻ
tươi của vòng môi song tô vụng về và những tia máu phun có vòi lúc lưỡi dao của
anh ngập trong da thịt.
Anh ta ngoắt tay ra dấu cho thằng bé bán hành ra đường. Thằng bé lắc đầu. Nó cười
với vẻ giận dữ của anh rồi lại ngồi yên. Trước mặt nó vẫn là đống lá bánh, ly
bia và người lính Mỹ. Lúc này người lính Mỹ ngủ thiệt sự. Hai tay khoanh trước
ngực, lưng tựa vào thành ghế, mũ úp xuống tới mũi. Thằng bé bán hành chỉ nom thấy
cái mồm môi nhỏ và hồng khô, cái cổ ngửa lên đỏ vằn. Nó nhìn hoài cái thứ có
trước mắt và chưa dám bỏ đi. Người Mỹ đã nhặt được nó ngồi lê lượm những bó
hành ở dốc cát giữa lúc anh ta có vẻ buồn. Bây giờ nó phải ngồi yên canh chừng
nỗi buồn của anh ta. Nó mong anh ta ra khỏi quán để ôm mẹt hành trở lại đồn Đại
Hàn xem có đổi đỡ được ít bó nào không. Tay nó vẫn xua những con ruồi bay qua
bay lại trên mặt bàn.
Người lính lệch vai ra đầu đường làng gây với người chủ xe giải khát về tội
không có đá cục. Người chủ xe cười và xin lỗi luôn mồm. Chán ngán, anh ta đứng
trên dốc cát ngắm những vết xe hỗn loạn thằng bé bán hành chỉ anh lúc mới tới.
Phía những làn nước lấp lánh cuối dòng sông, người đàn bà khăn tang tay giữ nón
đang bước lò dò như một con chim kiếm mồi. Thấy một đám học trò ngồi dưới bóng
bụi tre bên đường, người lính nạt một tiếng lớn rút dao cầm tay múa một vòng. Bọn
trẻ hè nhau ùng ùng chạy trốn. Người lính cúi xuống cắm dao vào ống giầy và ngửa
mặt cười.
Trời chiều dần dần, gió không còn đứt quãng, thổi ào ào liên tiếp. Bụi cát bay
hỗn loạn vào lều vào lòng chợ mù mịt trên đường. Một vài tấm liếp dựng ngang
mái lều che nắng được hạ xuống. Cơn buồn ngủ ráo khô trên những bộ mặt ngồi ở
chợ không còn vẻ uể oải nhưng tỉnh táo đến thảng thốt. Mấy người ngồi trong lều
với người linh đã đi vào đường làng. Người lính trở vào ngồi sau tấm liếp che với
mặt đường. Một vài chiếc xe ầm ì kéo rờ moọc chở nước chạy qua đều làm anh ta
giật mình. Chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn chưa tới. Anh ta kêu thêm xá xị và rượu đế.
Người đàn bà bán quán tóc búi, áo dài đen chân đất quen dần với vẻ bất thường của
người khách độc nhất còn lại. Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên,
hai gấu quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán:
"Chồng chết?"
"Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe Lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi
mấy người".
"Kiếm gì đưới đó?"
"Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại lúc khôn,
biết sao mà tin".
Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi:
"Chồng chết lấy chồng khác, mắc mớ gì mà điên".
Anh ta dùng cùi chỏ đẩy mạnh tấm liếp ngó lên mặt lộ rồi lấy lưỡi dao lầm lì
bào những lớp bụi trên tay, trên ngực. Người đàn bà nhỏ giọng:
"Giờ chưa thấy tới, chắc bữa nay xe đi bán nơi khác".
"Tôi chờ tới tối".
Người lính nói và đưa tay chặn ngực "ợ" một tiếng lớn. Hai người tu
sĩ áo xanh ở căn lều bỏ trống lên xe dướn người đạp vào đường làng. Người đàn
bà khăn tang đến đứng dưới trước lều có người lình, nền mắt đỏ, mặt ngơ ngẩn.
"Tới đây từ hồi sớm, mấy mươi lần xuống bãi cát rồi đó".
Người đàn bà bán quán nói rồi lớn tiếng hỏi:
"Có thấy gì không?"
Không có tiếng trả lời. Người đàn bà có tang vào quán, mặt nhìn thẳng, ngồi xuống
tấm băng, tay mân mê vành nón. Người lính nhìn, mắt ngó chằm chằm. Người đàn bà
bán quán nhìn trước nhìn sau, mặt thoáng bối rối.
"Chết ở trển, kiếm dưới này làm sao thấy?"
Người lính hỏi. Người đàn bà có tang vẫn ngẩn mặt, giọng thì thầm như nói một
mình:
"Đây cũng không có biết kiếm đâu giờ".
Người lính "ợ" một tiếng, nhăn mặt:
"Người chết nhiều vậy, thịt xương nát hết, cánh tay cũng ở đống đó chớ
đâu".
"Không có, không có" - Giọng người đàn bà nho nhỏ như một tiếng cánh
chim run. Người đàn bà bán quán lắc đầu.
"Chết vậy mà chỉ tét bụng, đứt chân, mất đầu chớ không nát bấy như hồi ở Đốc
Đá. Mấy xác người vô thừa nhận có một người đàn bà đầu văng xuống sông tới hồi
vớt lên mớ tóc dài vẫn còn như cũ.
Người lính cau mặt, nhấc ly rượu uống ừng ực.
"Chết là hết rồi nói qua nói lại chỉ cho mất công".
Anh ta vịn vào cọc lều đứng dậy, lảo đảo ra đường, nhìn lên phía mặt lộ. Bụi
kéo thành đám phủ xuống người anh. Anh đưa hai tay lên chụm mặt, quay lưng về
hướng gió. Sao chiếc xe vẫn chưa tới? Sao nó chết cũng cũng bắt anh chờ đợi nôn
nao như hồi sắp cưới nhau. Người đàn bà nào chết ở trển mà vô thừa nhận? Cũng
có đứa đàn bà trốn mẹ, giấu chồng đi lấy lúa như nó hồi trước sao. Người lính
không muốn trở vào quán nữa nhưng anh cũng biết mình không thể đi đâu lúc này.
Sống lưng lạnh khô và như có cát bám từ gáy trở xuống. Mắt anh nhức nhối, hai
màng tang máu đập dồn dập. Nắng vẫn chói lòa nhức nhối. Như có những đốm hoa sầu
đông bằng bạc hỗn loạn trên không.
Len vào bên tấm liếp, người lính buông người trên mặt ghế. Hai tay ôm mặt, anh
ta gục xuống mặt bàn. Rồi một bàn tay đập nhẹ trên vai anh. Giọng người đàn bà
bán quán:
"Có nước chanh. Uống chút cho tỉnh".
Người lính mở mắt ngửng cổ uống một hơi rồi đột ngột hỏi người đàn bà có tang:
"Người đàn bà vô thừa nhận đó ra sao? Chết mà không nát mặt sao chớ?"
Người đàn bà hai tay thủ bọc, giọng buồn:
"Tay ảnh có mang cà rá mà. Vàng thau lẫn lộn tùy thời; triều đình suy, thịnh
tùy người nịnh, trung".
Người lính lắc mạnh đầu. Người anh chấp chới. Người đàn bà khăn trắng đó cũng
chấp chới theo. Người lính đột nhiên hoảng hốt. Anh cầm miếng vỏ chanh chà lên
mặt, cố tĩnh trí. Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Đột ngột như cái rùng mình
của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn
bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong chiếc xe đò Vạn
Hưng đó. Miếng chanh vứt đi đầy cáu ghét và cát. Người lính vẫn không ngồi thẳng
lên được. Đầu anh vẫn nặng nề nhức nhối. Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn
trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch lên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người
đàn bà xuôi ngược gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi
về vợ anh, từ trước tới giờ lời cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ
anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng cùng
mơ hồ nhưng có lý như nhau.
"Ngư… ờ… đàn… bà đó… ó…"
Mồm người lính mở lớn, nước mép chảy ứa. Anh muốn hỏi nhưng lưỡi líu lại và những
giọt mồ hôi lạnh vẫn nhỉ trên trán. Anh kê mặt trên cánh tay vòng trên bàn, mắt
nháy hoài. Nước mắt vẫn ứa ra và bộ mặt người đàn bà khăn tang thì mơ hồ.
"Vàng thau lẫn lộn tùy thời; triều định suy, thịnh tùy người nịnh,
trung". Nó là bầy tôi nịnh hay bầy tôi trung của anh đây? "Nó muốn
hơn thế nữa", ước muốn ấy bây giờ cũng vẫn là cánh tay vạch lên tường những
chữ bằng than ghi ngày gà khởi ấp. Nó giấu mặt sau những tấm màn đỏ trên chiếc
xe đò chiều nay không tới bãi cát. Nó văng đầu xuống sông, mớ tóc còn nguyên.
Người lính say thiệt sự rồi. Anh ta nhắm mắt thở khò khè với hai cái chết người
vợ mình về tìm gặp.
Người đàn bà có tang vẫn ngồi nhìn thẳng, hai tay thủ bọc. Người chủ quán nhìn
người lính rồi nhìn chị ta, môi mấp máy như muốn nói. Bà ta lăng quăng chạy
quanh lều, khép lại cánh phên, hớt những bông hoa sầu đông ra khỏi thùng nước,
rồi lại nhìn từng người khách.
Một đám lính Mỹ từ dưới bãi cát, quần áo xốc xếch, đi lên ồn ào cười nói. Những
người phu xích lô nhảy vội xuống đất, hờm lòng xe trước lối đi của đám lính. Những
tiếng trao đổi với chân tay làm điệu bộ. Những tiếng hô hối hả của một chiếc
xích lô đã có khách dẹp đường. Thằng bé bán hành ở lều bên kia đang dẹp mớ lá
bánh trước mặt người lính Mỹ vừa tỉnh dậy. Nó tò mò nom sang người đàn bà có
tang ngồi bên người lính say rượu. Người lính bỗng cất đầu khỏi mặt bàn vươn cổ
mửa thốc tháo xuống mặt đất. Người đàn bà có tang ngơ ngác nhìn anh ta. Những
con chó lang thang trong chợ chạy ra xúm trước mặt người lính. Người đàn bà có
tang lấy nón đội đầu đứng dậy ra khỏi quán. Bằng những bước dài và nhẹ, chị ta
khom người tiến từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều,
ngồi cúi đầu gặm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt
bàn, người như chúi về một phía.
Ở lều bên kia, thằng bé bán hành ôm cái mẹt bước ra đường. Bóng nó tần ngần đổ
dài trên mặt cát bụi bậm. Nó nhìn những đốm hoa sầu đông rơi lả tả trên mái rạ,
nhìn người lính gục trong lều.
"Coi kìa".
Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó
nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà
có khăn tang đang nhảy qua nhảy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mõm một
khúc xương. Cái cối xay dưới đồng bằng "Cha mầy vẫn chưa về sao?"
Má anh Kiều Con hỏi:
"Chưa má".
Hà ngồi thẳng lưng thở một hơi dài. Tay Hà múc từng lon nước đổ đều lên lớp gạo
trong lòng cối. Bà già lẩm bẩm điều gì không rõ. Tiếng cối đá xoay tròn rít rít
quen tai. Bà đứng doãi chân ở cuối tay cối, hay tay bấu chặt cái then ngang, đẩy
lên kéo xuống lầm lì. Hà loay hoay trên cái đầu kê sát cối, chốc chốc lại quay
ra sau nhìn bà già. Hai mắt bà khép kín, khuôn mặt nom phẳng lặng.
"Để tôi xay, coi má muốn mệt rồi".
"Ngồi đó còn trông bếp, còn ra vô lo chuyện này chuyện khác. Mới xay làm
sao mệt".
Má anh Kiều Con nếu đều đặn.
"Tôi muốn nói với má cho tôi đi thăm anh Hai một chuyến".
"Chờ cha mày về hỏi ổng coi".
Hà yên lặng gạt lớp gạo trồi viền quanh cối vào giữa. Bột nhão chảy đều quanh
thớt cối dưới. Hai bàn tay Hà ẩm, trắng. Người Hà như cũng nặn bằng bột với
trái tim dư máu nhiều lúc đè nặng ngực đột ngột. Chiếc cối đá xoay đều đều sao
không nghiền được Hà thành nước. Tiếng rít rít như tiếng động trong nhà, của
riêng hai má con. Anh Kiều Con nghĩ sao mà nói đá làm bạn được với người?
"Chờ cha mày về…" Ông già quyền thiệt. Chuyện gì cũng cần tới ông.
Hai mươi mấy năm ông vắng mặt ở nhà này, quyền hành của ông vẫn không giảm sút.
"Ổng có về, cũng nhờ má nói giúp".
"Mày đi e thiếu người làm".
"Mười một tháng Chín ta đi bầu mà cho đông…" Ngoài đường làng một
chiếc xe thông tin cổ động bầu cử chạy dập dình. Cùng với tiếng hát trong máy
phóng thanh có tiếng trống thì thùng, xe dừng ở chỗ lò gạch để một giọng nữ lên
tiếng hô hào… Chiếc cối xoay đều, Hà lại nghĩ về người con gái bằng bột có trái
tim dư máu đè nặng ngực đột ngột. Những lần Hà đứng doãi chân hăm hở xay bột,
nhiều lúc xây xẩm mặt mũi Hà tưởng mình đang vồ vập khối đá trước mặt. Đá mà
làm bạn được với người. Anh Kiều Con nghĩ sao mà nói đá là bạn với người? Anh
cũng có lúc khó hiểu như ông già. Ông già quyền thiệt. Từ ngày ông về nhà tới
giờ Hà vẫn chưa quen được ông. Sự có mặt của ông như chỉ giúp cho má anh Kiều
Con mỗi cuối tháng khỏi phải lên trụ sở xã trình diện hoặc về mùa mưa khỏi đi
canh cầu và có chuyện để lẩm bẩm trong miệng những lúc xay bột. Lòng tội nghiệp
lúc mới nghe tin ông về không còn. Nói sao cho ông chịu nghe? Nói sao cho ông
chịu thương người con trai ông chưa một lần gặp mặt? Lại mang thư của anh Kiều
Con ra đọc như mọi lần? Anh Kiều Con hiền… [1]
… đại bác của anh, phải coi ông già như một người vắng hẳn tuổi thơ, vắng hẳn
tuổi trưởng thành.
Bữa cơm dọn ra giữa những người uể oải. Ông già vừa ăn vừa gãi, máu nhỏ ròng
trên cánh tay. Má anh Kiều Con hít hít đánh hơi, bỏ bát đũa quờ lấy tay chồng.
Ông già nói thật mạnh: "Bỏ ra!".
Má anh Kiều Con như không nghe, hai bàn tay vẫn chờn vờn trên mâm cơm toan nắm
lại cánh tay ông già. Ông thu tay lại, nhấp nhỏm cố dằn cơn ngứa. Bà già la:
"Tay gì mà máu những máu vậy na?"
"Ngứa gãi hoài hoài thì máu ra có gì mà la như cháy nhà vậy".
Giọng ông già bực bội. Bà già đưa tay lên ngửi, lẩm bẩm rồi cầm đũa bát lên ăn.
Ông già bỏ ra ngoài giếng nước, vừa đi vừa gãi. Hà bảo bà già:
"Máu độc không hà. Hết gãi máu hết ra liền có chỉ mà má hãi".
Hà gắng dàn xếp, mong thầm bà đừng làm ông bực mình thêm. Nội tối nay phải tạo
nhịp gần ông, nói nhiều với ông, câu chuyện mới dễ đưa đẩy. Hà lau những vệt
máu quanh chỗ ông già ngồi, đặt lại đôi đũa của ông ngay ngắn bên thành mâm.
Ông già trở vào lầm lì nhai cơm. Những câu hỏi của vợ không được ông đáp. Được
hai chén ông đứng dậy ra ngoài hiên ngồi trên chõng vấn thuốc lá, người có vẻ bồn
chồn. Những mụn ngứa đã thành mề đay khó trị.
Mỗi lúc nhớ tới cơ thể chân tay lại không yên, muốn cắn chặt môi mà cho cào cấu.
Câu chuyện tổ tiên dắt dao đeo gùi chống gậy vô núi kiếm trầm, kiếm kỳ nam lúc
về hóa cọp như có điều gần gũi. Bóng cọp ngồi chầu suốt đêm bên kia khe nước gà
gáy cào cấu da thịt vừa bò vừa dựng hai chân khom người chạy vô núi đâu chỉ là
một nỗi khổ không di truyền. Sau những năm tháng không hoàn thành mình như mẫu
người dự muốn, không trở về được hình dạng cũ nữa thì sao. Có còn cánh đồng nào
thấp hơn đồng bằng này một bực? Bữa cơm đã xong. Bà già kiếm guốc rửa chân,
mang bông trái lần theo những bực đá xuống ngôi chùa dưới cánh đồng sau nhà. Hà
rửa bát đũa rồi ra hàng rào ngoài đuổi đàn chim sẻ sà xuống mổ những phên bánh
tráng. Bầu trời dịu màu. Hà ngồi xuống bờ đá nhìn ra phía lò gạch hai tay vuốt
ngực. Hơi thở lại đầy lại nặng. Hà thở từng hơi dài. Trăng chưa lên nhưng bầu
trời sáng xanh. Hà lại muốn ưỡn người vùng vẫy, muốn bật miệng rên. Hàng tre lả
ngọn bên kia lò gạch, phía sau mất hẳn nền núi thường màu đá xanh. Tảng đá có
bài thơ của nhà vua Nam tiến không còn dấu tích.
Những con chim sẻ nhào xuống vội vã mổ những tấm bánh tráng phơi trên mặt phên
dựng ngoài hàng rào. Nắng tắt, tiếng bánh khô tách dần khỏi mặt phên vẫn lắc rắc
đều đều mọi chỗ. Hà vỗ mạnh tay xua đàn chim, mồm kêu "ui da, ui da".
Lò gạch vẫn còn khói trắng đùn lên cao. Một người thợ quần áo đen trèo thang
lên miệng lò, khom lưng luẩn quẩn trong lớp khói. Một chiếc xe ngựa chạy muộn dừng
lại trước một cái quán bên kia lò gạch. Một đứa bé gái đầu lắc lư cái mũ vải
cong vành màu xanh đậm tò mò nhìn vào nhà Hà. Hà vỗ tay thành nhịp đều,
"ui da, ui da". Những con chim vẫn lấp ló trên mái tranh, phía ngoài
bờ rào. Con ngựa tiểu trên mặt đường, nước bắn như bụi. Trong quán, có hai người
lật đật bước ra chiếc xe dập dình, cái mũ xanh của con bé lắc lư rồi chiếc xe
chạy. Hà xếp những tấm phên thành từng chồng ôm vào nhà. Tối nay nếu má anh Kiều
Con về sớm, chắc phải thắp đèn xay hai chục ký gạo để có bánh kịp ngày kỵ của
nhà họ Đặng. Hà đứng dậy, nhìn trời kêu bâng quơ:
"Lại có rồi đó".
Ở trong nhà, ông già nằm chèo khoeo trên chõng, mặt nghiêng ra sân. Hà tần ngần
trông theo trái sáng le lói đung đưa trên nền trời chưa tối phía thôn Lâm. Một
cái dù trái sáng lúc này bán cả hai trăm đồng bạc. Đêm qua, cả nhà cùng thức vớt
được một chiếc rơi xuống ngoài khe. Hà ôm từng xấp phên bánh vào nhà chốc chốc
lại kêu "Lại có rồi đó". Ngoài lò gạch khói loãng dần trên miệng lò.
Những người làm ở đó đã về. Chiếc xe thông tin đã quay lại một lần nữa. Máy xe
nổ tuôn khói mù mù. Giọng người con gái vội vã lập lại. "Dậy sớm thu
xếp cửa nhà. Mười một tháng Chín thời ta đi bầu". Tiếng trống khua rộng
cùng chiếc xe rồ máy chạy. Ông già gọi Hà lấy một cái chậu nhôm đã móp để sẵn
ngoài hiên để rạng sáng khua theo lệnh ấp. Hà nhìn ông già, ngập ngừng rồi lại
quay vào nhà thắp đèn. "Nội tối nay phải nói cho xong". Căn nhà rạng
sáng theo ngọn đèn được vặn cao lần lần. Người con gái màu xanh ôm bó lúa trong
tranh nghiêm mặt. Những bông lúa xác xơ. Hà ngắt một hạt cắn cho đỡ buồn miệng,
bước ra sân.
"Tối nay có xay bột sửa soạn đi. Để tao xuống chùa hối má mày về".
Ông già nhỏm dậy khỏi chõng, kéo ống quần xuống, quơ guốc vào nhà. Hà ngạc
nhiên nhìn theo. Có bao giờ ông săn sóc ai đâu. Hà nói:
"Tối nay xay bột tráng bánh cho nhà họ Đặng".
"Ờ, thì sửa soạn đi. Họ Đặng lo kỵ bao giờ cũng lớn".
"Tráng hai chục ký bánh".
"Ờ, sửa soạn đi. Sớm mai còn đi bầu cử… làm gấp mới kịp".
Giọng ông già như giọng một người biết lo chuyện nhà. Hà quay vào ôn tồn:
"Có đèn bấm trên bàn thờ cha nhớ mang đi. Bực đá thứ tư có chỗ lở…"
"Từ ngày về nhà tới giờ mới gặp thầy dưới đó một lần. Bữa nay xuống thăm
thầy một thể".
Ông già thay quần áo, lại bàn rót nước uống, giọng kể lể:
"Thầy dưới đó hồi chưa tu hành nổi tiếng gan dạ không ai sánh kịp. Trước
kia mấy thôn Lâm, thôn Ngọc Hoài đâu có thuộc xã mình. Nhờ thầy mà có đó. Hồi
đó từ trên núi Ông có một xác người chết đã thúi rữa trôi về. Tới thôn Lâm thì
dạt vô bờ. Người xã bên đó không ai dám lại gần. Xã bên này cũng hãi, có một
mình thầy dám lội qua sông mang xác chết về chôn ở Gò Hồ. Quan huyện hồi đó là
ông Ngô Cứ thấy vậy gọi thầy lên khen, rồi cho nhập vùng đất thôn Lâm, Ngọc
Hoài về xã bên này để thưởng công cho cả xã. Sau này có nhiều vùng được thêm dất
cũng vì biết thương kẻ xấu số. Vớt được xác chết ở đâu là đất mình ở đó.
"Truyện hồi đó giờ không nghe ai nói".
"Ờ, thầy đã tu hành rồi, còn nhắc lại làm chi".
Hà muốn nói thêm để giữ ông già lại nhưng ông đã lấy đèn bấm đi ra ngoài. Hà lại
đầu nhà nằm xuống tấm võng hai đầu treo cao. Người Hà gần như dựng đứng. Thầy
thuốc đã dạy treo võng cách đó nằm cho đỡ nặng ngực. Chân Hà đưa đẩy trên nền
xi măng thấy mát. Phút nghỉ ngơi tạm bợ mang ít nhiều thảnh thơi. Câu chuyên vừa
rồi nghe như cổ tích. Hà nhăn mặt vuốt ngực dưới người vì một cơn đau bất chợt,
mồm kêu "ui da, ui da". Cơn đau thoảng qua. Hà cười một mình. Tiếng
"ui da" nghe như của Hà hồi nhỏ.
Lúc ông già, bà già về, trăng vẫn chưa lên. Hà đã bắt đầu xay bột. Bà già từ
trong nhà ra mắt nhắm nghiền, tay cầm cây đèn ánh sáng chao chao. Bóng Hà xô
lên xô xuống, lúc xa lúc gần cối đá, vồ vập. Ông già lẩn quẩn bên hai người, vẫn
với vẻ săn sóc khó hiểu. Khi ông đã ôm mùng ra mắc ngoài chõng, Hà nghe tiếng
ông trở mình luôn. Trăng hạ tuần lên chênh chếch phía ngoài lò gạch, hai người
nghỉ tay. Hà lại gần chõng nhìn vào, thấy phía trong trống trơn. Ông vừa ở
trong nói vọng ra dông dài chuyện bầu cử, giờ đã đâu mất. Hà thở dài, chợt nhớ
ra. Ông sợ ngày mai bầu cử, đêm nay có những chuyện không hay xảy ra.
Chắc ông lại ngủ nhờ nhà một người quen nào hoặc chui vào một bụi rậm, chờ gà
gáy lần về ngủ yên trong mùng như hồi trước kia.
Hà đóng cửa, nằm ngủ, thấy hơi thở lại nặng nhưng không dám xuống võng nằm sợ
bà già lại mất công gọi lên giường. Về sáng Hà chợt thức giấc thấy lạnh. Ngoài
nhà như có tiếng mưa rào rào, Hà loay hoay không ru được đầu óc ấm áp như lúc bắt
đầu nằm để ngủ lại. Tiếng gió nghe thiệt dữ, như bão. Hà nhỏm dậy xuống giường.
Qua khe cửa, ngoài sân trăng thiệt sáng. Hà ra hiên thấy ông già đã về. Chiếc
mùng gió bạt vào tường. Ông già nằm co, bụng chặn mền, hai cánh tay có những đường
máu đọng. Gió nam từ ngọn núi trước lò gạch ào ào thổi. Những thân dừa ngoài gò
đất lá đập dồn dập như mưa. Sau nhà, ngoài khe nước, đâu đâu cũng dậy tiến động
mưa xối nước đó.
"Sáng rồi còn gì".
Tiếng ông già nói tỉnh táo. Sau lò gạch, mơ hồ những tiếng gà gáy tạt gió. Hà
ngồi bệt xuống bực cửa, không ngờ giấc ngủ đã dài thế.
"Kêu má mày dậy vừa rồi".
"Để ngủ thêm chút nữa. Tôi lo sửa soạn trước".
Hà ra giếng sau nhà với cần kín nước, bưng gạo ra cối, tra lại cái cần xay. Tiếng
trống mõ bắt đầu nổi lên từ trụ sở ấp vọng về. Trong chốc lát khắp nơi đều vang
tiếng đập, gõ. Tiếng ông già gọi Hà vào hiên. Ông đang vấn một điếu thuốc.
"Hồi hôm định nói với má mày để tao đi thăm thằng Hai, một chuyến mà e má
mày lại kêu tốn tiền".
Hà đứng bên cái chậu nhôm đã móp. Giọng ông già như giọng nói chơi. Mặt trăng
lên cao vàng đậm. Hà lại thấy ngực nặng, muốn ưỡn người vùng vẫy. Ông già nói
chơi thiệt. Nhưng rồi ông sẽ đi. Ông nào biết anh Kiều Con ra sao mà nói nhớ.
Ông muốn mượn cớ để đi mà thôi. Đối với ông, anh Kiều Con có khi chỉ là một người
con trai như bất cứ người con trai nào khác.
"Sáng thật rồi còn gì".
Ông không tìm đến người con trai đó đâu. Ông muốn mượn cớ. Ông muốn đi để kiếm
một cánh đồng bằng nào khác đó thôi.
"Bả không kêu đâu. Bả nhớ anh Hai nhiều đến không ngủ".
Ông nhìn Hà rồi bập bập từng hơi thuốc. Ông cứ đi đi, đi hoài tới bao giờ ông
kiếm được một vùng đất thấp hơn những nơi ông đã đặt chân, ông đã hình dung từ
trước tới giờ. Hà nhường ông mà không oán trách. Hà còn có những ngày chờ anh
Kiều Con về.
"Để sáng tôi nói với má".
Hà cúi xuống cầm cái chậu tôn ra gần khe nước. Trăng cuối mà sáng tỏ như ban
ngày. Hà cúi xuống cầm một thanh tre gõ vào thành chậu. Giờ đây Hà mong anh Kiều
Con về lắm. Những lúc về sáng anh vẫn ưa gọi Hà dậy nói chuyện về đứa con sau
này. Hà mong anh về như không lẽ bắt chước giọng người con gái trong vắt của một
đài phát thanh bí mật trên núi trên rừng, ngày đêm đơn chiếc gọi xuống đồng bằng,
kêu giết thiệt nhiều? Hà không kêu được thế. Hà chỉ muốn anh mau về. Muốn anh đừng
để chiếc cối đá ăn ở với Hà. Đừng để Hà hoài hoài treo võng dựng đứng, chặn ngực,
mơ cõng một đứa con của đá cắm đầu chạy vào ngọn núi có vua Nam tiến đề thơ. Kiểm diện Trước khi ra khỏi nhà Kiểm nói với bà Sâm:
"Bác gắng dỗ dành chắc nó chịu. Lên ở với bác trên đó, nó đỡ buồn và cũng
tiện cho chúng cháu dưới này".
Bà Sâm yên lặng gật đầu, lại cầu thang xó nhà đi lên gác. Kiểm cầm manh áo
veste vắt trên thành ghế ra khỏi nhà. Những chiếc móc sắt để treo đèn từ hồi
trước vẫn còn lủng lẳng trên hiên. Kiểm quơ tay, hất từng chiếc lên không, mặc
cho chao chát rồi bước trên những tảng đá xếp thành bậc ở đầu hiên, xuống ngõ.
Từ ngoài đầu ngõ, một chiếc xích lô đẩy trên cát đi vào. Nguyệt ngồi trong xe hỏi:
"Anh đi đâu đó?"
Kiểm trỏ lên trên nhà:
"Có bác Sâm trong đó. Tôi lại nhà hiệu trưởng của Dần có chút việc gấp".
Nguyệt nheo mắt nhìn Kiểm rồi cười. Kiểm trề môi, lách qua bên hông xe ra đầu
ngõ. Kiểm thấy những thói quen nơi mình thật vô bổ. Cái quơ tay lên những móc sắt
ngoài hàng hiên mỗi khi ra khỏi nhà cũng như cái trề môi, nhăn mũi mỗi khi gặp
Nguyệt đâu có cần thiết. Thiếu mấy cái đó, đời sống đâu có hẹp thêm, có trống
trải thêm. Kiểm hề thực chứ không sai.
Những đường phố dẫn tới nhà hiệu trưởng của Dần đã có điện sáng. Kiểm đi, gắng
nghĩ về mình, về Nguyệt, về màu trời nhưng Dần vẫn lảng vảng đâu đó. Lúc nào hiện
ra nom cũng hơ hải, buồn bã. Mới lúc sáng, Dần còn đứng lại ở ngã năm cười cong
môi xem Kiểm ngồi xổm trên hè đường, xốc cao ống áo veste, khum lòng bàn tay biễu
diễn tài bật diêm trên xi măng. "Thôi tốp đi cậu, chịu cậu rồi
đó", lời nói vội vã lúc chiếc xe Lam ba bánh trờ tới đó bao giờ không rõ.
Tới nhà hiệu trưởng của Dần, Kiểm thấy đông đủ bọn người đã hơ hải rẽ vào nhà
báo tin Dần bị bắt trước khi xuống trình diện Ty. Trông họ đã lấy được thần sắc.
Họ ngồi thành hai dãy bên một cái bàn dài dưới một bàn thờ Phật khói nhang nghi
ngút. Kiểm được niềm nở mời chào. Vẻ săn sóc của mọi người khiến Kiểm thấy dù
muốn dù không, từ giờ này, mình được nhìn như một người đi kèm với một Dần ở
xa. Kiểm hỏi:
"Các anh trình Ty là Dần bị bắt hay bị thất lạc?"
Người hiệu trưởng vừa đặt cái đĩa đựng con gà luộc ngậm bông trang lên bàn thờ
vừa trả lời:
"Chúng tôi còn hy vọng anh Dần được thả về nay mai, nên chỉ trình là bị
thất lạc. Trình là bị bắt, mai mốt được về, lôi thôi lắm."
"Cả tỉnh này ai cũng rõ Dần bị bắt rồi. Bộ giữ được mắt công an, cảnh sát
chắc?"
Một người ngồi tựa lưng vào cây cột gỗ hút thuốc nói. Kiểm gật đầu:
"Chỉ có chúng tôi là biết sau cùng".
"Nhưng dù sao, anh Dần được thả về vẫn là điều đáng mong nhất".
"Chắc chắn là được về. Chỉ sớm muộn. Anh Kiểm chắc biết vụ Lê Văn Ngôn trường
Uyển Thành?"
"Cha mẹ bọn học sinh cũng vẫn là họ chớ là ai?"
"Ờ, phụ huynh nào mà không quí ông thầy?"
Kiểm yên lặng để nghe tất cả. Tất cả đều muốn nói với Kiểm. Và Kiểm cũng mong
sao mình được đôi chút an lòng. Những tiết lộ về Dần bao giờ thành quí báu. Dần
nói gì lúc chạy ra cổng trường. Dần khôi hài ra sao khi nghe phát súng nổ đầu
tiên. Dân chạy trên con đường?... "Thôi tốp đi cậu, chịu cậu rồi
đó". Cái chết và nỗi chia xa đâu chỉ là những đánh đổi lấy những lưu giữ lặt
vặt cuối cùng? Kiểm mong gặp lại Dần cho mau để nhăn mũi vào mặt hắn.
Ở nhà người hiệu trưởng về, Kiểm thấy cửa đóng kín. Bà Sâm đã dỗ được Hiền đi.
Con bé thật cứng đầu. Nó một mực đòi ở lại đây, hứa sẽ không khóc anh Dần,
không làm phiền lòng ai. Kiểm tựa lưng vào cột hiên châm một điếu thuốc rồi
nhìn vào cửa thổi khói phù phù. Ngõ chạy sát dưới bờ hiên nom thật sâu. Những
chiếc cột gỗ đen bóng thành một hàng chạy dài trên hiên hẹp. Kiểm vứt điếu thuốc,
đi dọc trên hiên khua động những cái móc sắt, ngẫm nghĩ một lát rồi lại lững thững
xuống dưới ngõ. Đi loanh quanh một hồi, Kiểm thấy mình đứng trước nhà bà Sâm.
Kiểm quay trở lại, vào một tiệm ăn thì trời mưa. Kiểm kêu la de uống. Mưa nhỏ
nhưng nếu về tới nhà, áo ngoài cũng thấm ướt. Hồi sớm, Dần mặc áo len mà không
mang áo mưa. Trời này, phải đi đêm chỉ có nước chết. Trong nỗi choáng váng của
những ly la de tự hâm nóng, Dần thấp thoáng ẩn hiện với vẻ mặt lạnh lẽo. Sớm
mai, trời mưa thế này, chắc Kiểm không đi dạy. Nhưng không lẽ nằm nhà. Kiểm
kéo fermature lên tận cổ, đứng dậy. Một chiếc xích lô nghe kêu ghé
sát mái hiên. Kiểm lật đật chui vào trong tấm bạt che phía trước. Chiếc xe rần
rần chạy trên đường đã vắng, vào một khu nhà lá có nhiều bóng cây. Kiểm bảo xe
đợi, chạy vào nhà một người giáo viên chuyên thổi cơm tháng, mua lương và gá bạc.
Cửa trước đóng. Kiểm lần theo cửa sau vào nhà. Có một bàn xì lát và một bàn xì
tố đang họp. Có nhiều lời hỏi thăm Dần. Kiểm ngó quanh quất hỏi:
"Chỉnh có đây không quí vị?"
"Vừa về xong".
Một người ngồi coi bên bàn xì tố trả lời. Kiểm lại gần, đưa cho hắn gói thuốc,
cười hỏi:
"Hào hoa sao không nhập cuộc?"
"Hết muốn chơi rồi. Dần bị bắt, tội quá".
Giọng hắn nho nhỏ, trầm trầm.
"Về ngủ với mình cho vui?"
"Thôi, để tối mai đi".
"Cầm cả lấy gói thuốc mà hút. Về đây".
Kiểm lật đật quay trở ra, bảo xe chạy về nhà. Tới đầu ngõ, xe kêu khó vào, Kiểm
nhảy xuống trả tiền, lùi lũi bước vào. Hiên có ánh đèn từ trong nhà hắt ra. Chỉnh
ngồi thành một cái bóng nhỏ bé, ốm o với đốm lửa đỏ đầu điếu thuốc bên những
chiếc cột sừng sững. Giọng hắn nhè nhè vừa ướt vừa dính:
"Tưởng anh không về, tôi đã toan đi. Về nhà buồn quá".
Kiểm nhăn mũi, tròn môi bước lên mấy bực đá. Chỉnh cười, hai mắt nhỏ tí như nhắm
lại. Kiểm bảo hắn:
"Ở nhà kể chuyện đàn bà cho mà nghe".
Mặt Chỉnh nhăn nhíu cười:
"Đàn bà thứ thiệt cũng thua con xì, con già".
"Ờ thì thua, nhưng cũng ở nhà chứ? Giới nghiêm tới nơi rồi".
"Giới nghiêm gì mà chín giờ đã giới nghiêm, loạn lớn rồi chắc".
Chỉnh ngồi bệt xuống hiên, dựa vào cột nhìn ra ngoài trời, cằn nhằn. Mưa nhỏ giọt
đều ngoài mái hiên. Ngõ tối có dãy hiên cao nổi bật sáng đèn. Kiểm ngồi xuống
bên Chỉnh và từ chối điếu thuốc hắn mời. Kiểm nói giễu luôn mồm. Chỉnh cười nhè
nhè thích thú. Còi giới nghiêm và tiếng kẻng, tiếng mõ báo động giả bắt đầu.
Căn nhà sau miếng sân rậm bóng cây bên kia ngõ tắt điện, đóng cửa. Những chiếc
xe tuần tiễu chạy mau dội tiếng vang vào một bức tường nào ngoài đầu ngõ.
"Vô nhà không lại rắc rối".
Chỉnh đứng dậy nói. Kiểm vẫn thấy hơi rượu nóng hừng hực trong người, vừa vào vừa
hát nghêu ngao. Ngôi nhà có ba gian nhưng nom hẹp.
"Tối mai kêu bọn nó đánh bài cho vui".
"Còn gì hơn nữa".
Chỉnh vừa nói vừa đóng cửa.
"Cậu nhát bỏ mẹ".
Kiểm cởi áo, đi lăng quăng dưới những dây phơi, những sợi dây màn. Chỉnh nhào
vào một tấm mùng buông sẵn trên nền nhà nói vọng ra:
"Cả ngày mới được nằm, tấm nệm rách này coi cũng êm ả dễ chịu".
Kiểm ngẫm nghĩ một lát, lại cầu thang lên lầu. Cửa sổ không đóng nom như một
khung sáng. Kiểm quờ tay tìm nút bật đèn chân giẫm trên những tờ giấy vung vãi
khắp mặt sàn. Gió lùa vào làm Kiểm ôm ngực nôn nao. Bên khung cửa mờ mờ, cái tủ
bằng vải nhựa của Dần lửng lơ như một cái hòm treo ngược. Kiểm bật đèn, Ánh
néon nhấp nháp trước khi sáng rõ. Giấy đầy sàn gác. Những cuốn vở của bọn học
trò Dần xô lệch trên mặt bàn, mở rộng. Kiểm ngồi xuống sàn, lê la lượm giấy,
người vẫn nôn nao khó chịu. Tiếng còi đang u u kéo dài bỗng hụt lại nhỏ hẳn. Chỉ
còn những tiếng kẻng liên hồi truyền đi trên các chòi gác ngoài ngõ. Tay Kiểm
có lúc quờ phải những miếng giấy có nước mưa. Kiểm đứng dậy đặt xấp giấy lên
bàn, lấy mấy cuốn sách lớn chặn lại rồi đóng chặt cửa sổ. Tiếng gió như chạy dưới
mái tôn thấp phía ngoài. Nhìn tấm hình Dần cười trên vách, Kiểm tắt đèn bước vội
xuống cầu thang.
Hai người nói chuyện bậy bạ tới khuya, người nọ sợ người kia ngủ trước mình. Chỉnh
nằm sát lại gần mùng của Kiểm, châm thuốc hút liên miên. Hắn như một đứa trẻ sợ
bóng tối. Khi hắn đã ngáy, Kiểm thấy mình cũng không hơn gì hắn. Dần hơ hải và
buồn bã như một xua đuổi vô ích. Những buổi tối Dần vặn chốt cửa nhẹ nhàng lên
cầu thang, những đêm tiếng Dần rì rầm tập bài cho em gái trên lầu, những lần Dần
tươi cười tiễn bà má nuôi ra ngõ không còn thành những hình ảnh tuy có thực.
Nhưng khuôn mặt lạnh lẽo những chòm khóm mưa mùa đã nát trong đêm như ở trong từng
lần chợp mắt. Nửa đêm, Chỉnh đang ngủ bỗng ú ớ kêu thét. Kiểm vùng dậy bật đèn
thấy một cẳng hắn thò ra ngoài mùng trắng nhợt. Hắn vỗ bạch bạch vào đùi cho đỡ
tê rồi nhổm dậy ngồi chồm hổm trong mùng kêu thấy Dần về đứng dưới cầu thang. Những ngày kế tiếp là những buổi sáng ngồi bên bà Sâm, bên
Nguyệt, bên Chỉnh trên những chuyến xe chạy dò dẫm về ngôi trường ngày càng
thưa bóng học trò, những buổi chiều theo bà Sâm với Hiền ra ven tỉnh dò hỏi vô
vọng, những đêm đánh bài trên hai tấm nệm sát mặt đất tránh những ám ảnh đều
như nếp sống hàng ngày. Ngoài thành phố vẫn là mưa mù và cảnh tàn phá, Kiểm gia
nhập theo giờ một công chức đi làm buổi sáng. Bà Sâm mặc bao nhiêu lớp áo nom vẫn
gầy óm. Những buổi chiều trên những khúc đường dò hỏi tin Dần thần sắc bà chỉ
còn ở cặp môi đậm son rét tái. Bà chạy đây, chạy đó nhưng vẫn không thể an lòng
với những nguồn tin chỉ trong ít bữa Dần về, vẫn có những lúc ngồi lẻo bẻo tự
an ủi mình, bà đã khóc như có sự lầm lẫn khi gắng dàn xếp cho những ngày góa bụa
còn lại một liên hệ mẫu tử có nhiều bất trắc. Và Hiền, những lúc về căn gác, đã
khóc "anh ơi, anh ơi" như những tiếng kêu thật rõ trong một giấc ngủ.
Kiểm nhiều lúc ngụy biện bảo nó: "Nếu anh Dần ở nhà, sang năm anh ấy cũng
đi quân dịch. Hiền cứ coi như vừa phải xa anh vì chuyện đó". Kiểm còn nói
giễu, còn nhăn mũi pha trò. Và Chỉnh cũng còn lim dim mắt nhè nhè: "Có gì
mà buồn, ít bữa anh Dần về". Nhưng Hiền vẫn khóc "anh ơi, anh
ơi".
Dần cùng bị bắt với một người lái xe Lam và một người lái heo. Người xe Lam ở
quận, nên bà Sâm chỉ liên lạc được với vợ người lái heo. Lúc đầu, nghe nói Dần
còn bị giữ trong một làng vừa bị chiếm, bà Sâm muốn nhờ chị ta tiếp tế cho Dần.
Sau nhiều lần đi mà không gặp được chồng, một bữa chị nổi giận bảo bà Sam:
"Liều bom, liều đạn đi kiếm cũng không thấy mặt, xin xâm thì Ông nói bổn mạng
dữ. Thôi bỏ, đành bắt heo nuôi con chớ ngóng hoài có khi đám con mình chết trước".
Ít lâu sau, nghe nói người chạy xe Lam đã về, bà Sâm vội vàng cùng Hiền xuống
quận hỏi thăm. Người này nói chỉ ở với Dần một đêm rồi trốn. Dần quen đi giầy,
tối đến trên đường ruộng té hoài. Khi về quận, ông ta đã khai tốt cho Dần và
người lái heo. "Ông thầy Dần hiền ai cũng thương. Không bị giữ lâu
đâu".
Chiều nay, Kiểm đang đứng ngoài hiên giỡn với mấy cái móc sắt thì bà Sâm và Hiền
đi xe tất tả tới.
"Người lái heo về rồi. Ra ngoài đó hỏi thăm, anh Kiểm!"
Kiểm vào nhà xỏ giầy, khóa cửa, ra ngoài ngõ lên chiếc xe bà Sâm đã gọi sẵn.
Nhà người lái heo ở bên một con đường nhỏ, mảnh đất thịt trước cửa trơn ướt những
phân và vết chân heo. Gian nhà hẹp, nền đất lổn ngổn. Bà Sâm được mời ngồi trên
chiếc đẩu độc nhất, Kiểm ngồi ở mép giường với người lái heo. Mấy người tới hỏi
thăm và vợ anh ta đứng dọc theo vách tường. Bà Sâm vừa trông thấy người lái heo
đã khóc. Hiền kêu theo "anh ơi, anh ơi". Kiểm bảo:
"Thôi bác và Hiền đừng khóc nữa, để nghe chuyện chớ!"
Người lái heo dáng to lớn vận quần dài, áo bà ba đen vắn cao. Mình mẩy anh tím
nhiều vết xước. Anh nói là người tản cư, sợ bị giữ luôn nên phải liều mà trốn.
Ông thầy Dần thì cũng như lời người lái xe Lam, sớm muộn cũng được về, tội gì
mà phải mạo hiểm. Suốt hôm đầu bị bắt, bị dẫn đi nơi này, chốn nọ, Dần không
nói một lời, không sợ, không buồn. Không đi kịp mấy người cùng bị bắt thì chạy.
Vấp tứ thì nhỏm dậy, gạt bùn trên quần áo mà đi.
"Nếu ổng đã dạy lâu năm ở trường đó, chắc đã được mấy người học trò du
kích thả về như mấy ông thầy khác".
Người lái heo lập đi lập lại, Dần và người lái heo cùng một số nữa được đưa lên
một làng ở gần chân núi. Người nào có tiền thì nhờ dân mua gạo mua mắm, người
không có, được nẫu cho mượn, khi được về, cứ tính mỗi ngày bảy đồng
mà gửi trả.
"Dần nó được về, trả một trăm một ngày tôi cũng trả".
Bà Sâm nói. Người lái heo cười:
"Thầy Dần còn mấy trăm… ba trăm hai chục đồng thì phải. Lúc đi đường, tôi
với ổng hùn nhau mua của đồng bào được mười ký gạo với một chai mắm. Lên trển,
ghiền thuốc mà ông không dám mua. Có bữa tôi mua được gói Ruby, phát cho chắp
cùng. Còn ổng chỉ hút thứ thuốc rê, đồng mười điếu".
"Nó có nhớ nhà lắm không?"
"Trong tờ khai mỗi buổi tối đều có thấy ổng khai tên má nuôi và em gái ở
hàng đầu. Bác khỏi có lo, ổng vô tội, chỉ phải học tập ở cấp xã, mười tới mười
lăm ngày là nhiều.
"Mười hai ngày rồi".
"Đó là thời gian bị bắt. Thời gian học tập khác. Phải chờ có đủ người để học
một lớp".
Bà Sâm buồn so:
"Biết bao giờ thì đủ?"
"Thiếu gì người cầu trời khấn Phật cho mau có thêm người bị bắt để sớm được
về. Thầy Dần không có vẻ nôn nóng nhưng có lần hứa cho tôi cái xe đạp mới nếu
đem được ổng trốn theo. Chân ổng như vậy làm sao chạy? Tôi trốn một mình mà còn
bốn ngày mới về tới đây. Ngày chui và bụi cỏ mà ngủ, tối đi, quen đường mà có
khi còn lộn trở lại".
"Trên đó chắc lạnh lẽo lắm?"
"Lạnh sao không lạnh? Đêm đến, thầy Dần phải đắp nhờ mền một ông già. Ai
mà đầy đủ ở đó. Mỗi người thương nhau một chút mới êm".
Câu chuyện mang Dần linh hoạt lại gần sau những ngày yên lặng xa xôi. Bà Sâm và
Hiền như không muốn rời người lái heo đầy những vết xước. Dần còn sống là qua
người này. Bỏ về, là xa dần những lời đoan kết nóng hổi, nhích gần lại vẻ bất động
buồn bã của hình người gạt bùn trên quần áo, giữa một cánh đồng vũng nước về
đêm.
"Thể nào thầy Dần cũng được về trước tết".
Người lái heo lập lại lúc tiễn khách ra cửa. Kiểm nhìn bầu trời xám ướt, hối hả
gọi xe để tránh cơn mưa sắp tới. Nếu Dần chưa về kịp, những lời của người lái
heo chiều nay nuôi dưỡng được bà Sâm, được Hiền bao nhiêu ngày tháng? ° ° ° Kiểm đập mạnh vào lưng Nguyệt:
"Nham nhở vừa thôi chứ. Hiền nó còn trẻ con, tội nó".
Nguyệt bĩu môi:
"Nói nó trẻ con nhưng nhìn trộm nó mấy lần rồi?"
Mặt Nguyệt trở nên nghiêm, nom bóng những đường xương.
"Nghĩ thật tội cho nó. Vừa mới biết yêu thì yêu phải cái thằng lè nhè, lèm
nhèm. Mà cũng tội cho thằng Chỉnh, ấp ủ mãi mới có dịp lại nhằm đúng dịp bạn
mình bị bắt mới dám ngỏ tình. Chắc nó bị cắn rứt, hoảng sợ lắm".
Kiểm cau mặt khó chịu:
"Bọn nó cóc là nhân vật tiểu thuyết như cô, phân tích phân tiếc mãi mệt
quá. Dần nó biết dạy em. Còn Hiền cũng biết thương anh nữa".
Nguyệt gật gật theo thói quen rồi đột ngột:
"Rồi, tôi chịu điều đó có thực. Nhưng chuyện thằng Chỉnh kè kè bên con bé
tối ngày cũng thực chứ sao?"
Kiểm yếu ớt:
"Chúng nó mới chỉ tạo nên trường hợp đáng nghi".
Rồi cười nhìn Nguyệt chằm chằm:
"Còn riêng cô, cô muốn tưởng thế nào cho hả thì tưởng".
"Đồ đểu!"
Nguyệt đẩy mạh vào vai Kiểm, xô Kiểm ngả ra phía sau. Kiểm cười hề hề: "Sức
mấy mà đàn áp đàn ông". Nguyệt thu mình vào lòng ghế tủm tỉm cười, nom nhỏ
và mỏng manh đến độ Kiểm nghĩ có thể bưng cả ghế lẫn người chạy về nhà cũng
không mệt.
Kiểm đứng dậy cầm áo mưa giọng úp mở:
"Giỡn mãi, mệt rồi. Về để bảo tồn tiềm lực".
Nguyệt đưa Kiểm ra cửa thở dài:
"Tội cho Dần. Theo nguyên tắc, tới tuổi phải kiếm một ông chồng, mình đã
nghĩ tới nó".
Ra khỏi nhà Nguyệt, đi bên những người vận áo mưa, Kiểm tự nhiên thấy nhớ Dần.
Vào mùa lụt, nước chảy trong ngõ như thác, hai người vận quần đùi áo may ô
choàng áo mưa phùng phình bơi ra lộ đi ghe lên nhà bà Sâm xin thức ăn. Buổi tối
Dần phải bỏ kính ở nhà, cầm đèn bấm bì bõm trên những con đường nước, vào những
vườn chỉ trông thấy ngọn cây, soi bắt chim bị bão đánh bạt xuống các hàng rào.
Hiển và Chỉnh nhút nhát ở nhà, bật đèn sáng, ngồi dựa cột hiên, buông chân xuống
dòng nước chờ cửa. Dần bắt đầu đi dạy thêm từ hồi đó. Mỗi tháng Dần gửi tiền bà
Sâm một lần, nói khi nào đi quân dịch, nhờ bà đùm bọc con Hiền. Dần bị bắt, tâm
trạng sửa soạn một lần tiễn đưa của bà Sam bị bãi bỏ. Gạt nước mắt giờ mang
hình ảnh của người ở bên kia.
Về tới ngõ, Kiểm thấy Chỉnh đang đưa Hiền xuống mấy bực đá đầu hiên, tay hắn vẫn
cầm cuốn L’Anglais sans peine như mỗi khi không ngồi đánh bài. Kiểm hết
muốn nói giễu với hắn. Nhưng cũng không giận hắn, dù có tin theo những lờ vu vơ
của Nguyệt. Từ lâu, Chỉnh không có bình đẳng bạn bè. Với cả Nguyệt, sau những lần
lúng túng, hắn tìm được tiếng "em" để chui vào đó an toàn mỗi lúc tự
xưng.
"Hiền ở lại đi ăn cơm chiều nay với mấy anh đi?"
Chỉnh vừa chớp mắt vừa nói. Giọng hắn lần đầu tiên nghe thoải mái. Dường như hắn
vừa tìm thấy mình là người lớn. Kiểm phụ họa:
"Anh Chỉnh nói phải đó. Vào nhà chơi, chốc nữa đi ăn".
Kiểm ra dấu cho Hiền quay trở lên.
"Anh đi đâu về đó?" Hiền hỏi.
"Lại nhà cô Nguyệt".
Chỉnh và Hiền cùng bật cười. Kiểm nhìn trời, vui vô cớ. Dang rộng hai tay như
muốn quơ lùi hai người vào nhà, Kiểm bật cười theo:
"Vào nhà mau rồi nghe kể chuyện cô Nguyệt suýt nữa làm vợ anh Dần". Chỉnh đã nghỉ, ra sau nhà đánh răng xoẹt xoẹt. Kiểm và
"Hào Hoa" vẫn còn ngồi rút bài với hai người khác nằm ngả trên nệm.
Những giờ về sáng, trời lạnh buốt. Lúc mở cửa ra ngoài đi tiểu, nỗi tỉnh táo tạm
bợ có cùng lúc với cái đột ngột rùng mình. Chỉnh thay quần áo, nói đi trước kiếm
mua ít viên thuốc ngừa cảm. Kiểm chạy hẳn tới nhà bà Sâm đón Hiền đi học rủ đi
ăn. Đã nhiều đêm thức trọn, "Hào Hoa" vẫn có vẻ tỉnh. Chỉ có cặp môi
nhỏ đỏ tươi khô đi đôi chút và cằm thì lởm chởm những râu trên khuôn mặt mới lớn.
Hắn ngồi thẳng lưng, hai chân mang vớ màu nhã gác lên nhau, trước lòng đầy giấy
bạc, hai tay cầm hai cây bài ép vào nhau đưa thẳng lên không, ngửa cổ mà nặn.
Kiểm châm một điếu thuốc để trước mặt hắn:
"Tên này vừa mua suốt vừa kiếm đồng hoa, năm tờ rẻ mà".
"Bể rồi".
"Hào Hoa" nói giọng khô, vứt cây cẩu cơ xuống mấy cây bài trước mặt,
Xứng vẫn nằm, hơi nhoài người lên vơ tiền. Cẩn đang nằm mơ màng, mở bừng mắt
nhìn như cưỡng lại giấc ngủ rồi lại từ từ nhắm mắt thiu thiu. Hắn đã hết tiền,
đã vay Kiểm như mọi đêm khác. Trong những người đánh bài ở đây, Cẩn chưa bao giờ
đứng dậy ra về mà không phải xin tiền đi xe. Nhưng không bao giờ hắn vắng mặt,
không lần nào nghỉ trước mọi người. Ngày hắn khám lại sức khỏe đã gần kề.
"Nghỉ thôi, còn đi dạy".
Kiểm nói. Cẩn giơ tay coi đồng hồ:
"Gần tới giờ rồi, đi sao kịp?"
"Lộn xộn thế này, dạy được lúc nào hay lúc ấy cần gì đúng giờ".
Xứng nhỏm dậy:
"Tình hình nguy hiểm bỏ mẹ, muốn theo thằng Dần sao mà đi?"
Kiểm đứng lên lắc đầu:
"Ngày nào cũng ở nhà được sao. Đi đại cho có mặt, không hiệu trưởng nó
kêu".
Xứng lăn xuống nằm bảo "Hào Hoa":
"Ở lại đây ngủ cho nó khỏe, trời rét mướt về làm gì".
Cẩn với chiếc pardessus sau lưng đứng dậy mặc, xin "Hào
Hoa" mấy chục, cầm dù mở cửa ra về. Kiểm từ nhà sau vào sờ tấm áo veste trên
mắc thấy ẩm ướt, lấy áo mưa khoác, nói:
"Lúc nào về, nhớ đóng cửa".
Ra tới hiên, Kiểm mới thấy lạnh. Dần không ở nhà không còn những buổi dậy sớm đốt réchaud đun
nước pha cà phê. Thời gian chậm và uể oải trên đường sát những bức tường khuất
gió, chân như bước trên không. Thấy một người bạn làm trong tỉnh đi bên kia đường,
Kiểm chạy sang.
"Không đi dạy sao giờ còn thất thểu ở đây?"
"Cho mượn manh áo. Trong tỉnh chắc không lạnh bằng ngoài ruộng".
"Nom như mất hồn; đêm qua lại thức đánh bài?"
Người bạn vừa hỏi vừa cởi áo đưa cho Kiểm. Kiểm mặc áo, đập vào vai người bạn,
qua một bãi đất trống bên chợ vào một quán ăn. Quán xây như một kiosque, bốn
phía vách gỗ đóng lưng chừng. Kiểm kêu cà phê sữa và bánh cuốn. Gió lùa sau hai
vai áo ấm thổi bay những sợi ruốc trên đĩa bánh. Lớp da hở giữa gấu quần và vớ
bị mơn man vừa nhợt vừa lạnh. Bầu trời buổi sáng tĩnh nhưng ướt. Những cửa tiệm
cửa mở nửa chừng trên những bờ hè sạch trơn. "Thôi tốp đi cậu,
xin cậu rồi đó". Kiểm đứng bên một tàng cây thấp xơ xác nhưng nom gần bầu
trời. Một chiếc xe Lam trờ tới. Kiểm nhảy lên. Xe chật những người buôn bán
trên những quãng đường ngắn, Kiểm choàng thêm áo mưa vẫn thấy lạnh. Dựa lưng
vào thành xe, Kiểm gục đầu muốn ngủ.
Khỏi tỉnh được hai cây số, Kiểm thấy đám người dạy cùng trường ngồi la liệt
trên một bờ ruộng. Kiểm kêu lớn cho xe ngừng. Nhảy xuống xe, tiếng kêu đó nghe
vẫn rõ. Nhìn chiếc xe chạy, đám người ở phía bờ ruộng và nghe tiếng mình kêu.
Kiểm đột ngột hoảng sợ. Những đêm thức trắng và nỗi rã rời cơ thể khiếm Kiểm mất
bình tĩnh. Những bụi tre ở một chòm nhà giữa đồng thêm đỏ đòng đọc, ngọn xơ xác
vật yếu quá lắm rồi. Sao Kiểm lại ở đây? Sao lại đứng giữa cánh đồng với cái chết
âm thầm chờ trước mặt? Sao không chạy trở lại?
Có tiếng cười nói ồn ào vọng lại. Nguyệt đứng hướng về phía Kiểm cất tiếng gọi.
Lúc này, hơn bao giờ, Kiểm muốn nói yêu Nguyệt. Nói chân thành và khổ sở như một
gã lãng mạn cầu xin tình yêu. Dần đã đi rồi, Nguyệt có khác chi những lời giễu
bỡn cợt của Kiểm. Những lời đó chỉ làm quên khoảnh khắc như không là những vuốt
ve. Nguyệt đâu phải là người dịu dàng mỗi người đàn ông đều có lúc tìm kiếm. Với
bạn bè, Nguyệt sỗ sàng, tục tĩu như một hối hả khua rộn đời sống mới lớn một
mình nhỏ bé buồn tênh. Với những đứa học trò nhỏ xíu lọ lem, Nguyệt là một bà
cô nghèo lại ưa làm dáng. Một chiếc guốc cao gót gãy giữa đường, bà cô cũng nghỉ
ở nhà mấy bữa không dám đến lớp sợ mắc cỡ với học trò.
"Lại đây mà nghe mẹ quở, anh Kiểm".
Nguyệt gọi Kiểm lại ngồi xuống bên bà Sâm co ro:
"Sao chưa đi?"
"Lính chưa lên, đại diện xã chưa lên, làm sao đi?"
Chỉnh ngồi gật gù, đầu gục xuống hai cánh tay ôm gối. Bà Sâm đưa cho Kiểm gói
thuốc hút, Kiểm nhón lấy một điếu, quay lưng về hướng gió bật diêm châm rồi đưa
lại cho bà.
"Không hút một điếu cho ấm?"
Bà hỏi. Kiểm lắc đầu, đưa mắt nhìn mấy người có xe đạp, xe gắn máy, dựa lưng
vào xe đứng chơ vơ ngóng về phía trường.
"Tình thế này còn thức đêm thức hôm đánh bài, lỡ có chuyện gì lấy sức đâu
mà chạy?"
Bà nói với Kiểm. Nguyệt cười khúc khích nhìn người hiệu trưởng phờ phạc đăm
chiêu, nháy Kiểm. Kiểm trải rộng chiếc áo mưa trên cỏ, nằm xuống nhắm mắt lim
dim.
"Nếu nẫu ở trong chòm nhà kia, tôi vẫn chạy. Hồi còn ở trường Ngọc
Hồ, súng nổ cách chỗ tôi bốn năm cái mả chớ mấy. Cứ chạy liều là thoát".
Giọng một người đồng nghiệp có xe đạp nói. Họ đang nói đến những cách tẩu thoát
nếu gặp biến. Bà Sâm mọi bữa nói luôn mồm, giờ chốc chốc mới cất tiếng gắt Nguyệt
trêu chọc "dai như giẻ rách".
"Ờ, cái cậu bé này chưa ngủ đã mơ "Hiền, Hiền" rối rít".
Nguyệt cười lớn. Kiểm mở mắt, thấy Chỉnh bị Nguyệt xô ngã, lồm cồm ngồi dậy, mặt
nhăn nhó cầu nhầu. Hắn đưa tay ra sau nhét lớp áo xổ vào quần, đứng dậy xin bà
Sâm một điếu thuốc rồi tiến về phía chòm nhà.
"Đi đâu đó?"
Bà Sâm hỏi. Giọng Chỉnh rầu rầu sau một cái ngáp:
"Vô trỏng kiếm chỗ ngủ chớ. Chừng nào đi bác kêu con nghe bác".
Tiếng Nguyệt nói với bà Sâm:
"Tôi như nó, tôi ở đại trại lính cho xong. Cứ nay trình diện, mốt được về
hoài hoài, mệt tổ nội. Con trai gì mà nhát như thỏ. Sáng sáng ra đây mà ngồi dễ
không ớn xương sống chắc?"
Có tiếng xôn xao "lính lên, lính lên". "Cả xe thông tin nữa".
"Chắc lại có biểu tình ở trển". Kiểm ngồi dậy nhìn ra đường.
"Biểu tình trên đó rồi. Về đi?"
Kiểm nói. Người hiệu trưởng cười, lắc đầu, ra dấu gọi mấy đứa học trò đi xe đạp
ngồi ngoài vệ đường.
"Cho phép bay lên trển coi. Đứng xa mà ngó thôi nghe. Coi rồi, đạp xe về
đây báo tin cho mấy thầy".
Mấy đứa nhỏ "dạ" lớn, nhảy lên xe đạp như đua lên mạn trên. Nguyệt
nói trống không:
"Còn chờ gì nữa mà chưa cho về?"
"Hễ có biểu tình là về, đóng quách cửa trường cho xong. Tuần lễ có biết
bao nhiêu vụ, quan trọng hóa chi cho mất công".
"Người hiệu trưởng cứ bắt tụi tôi theo anh, lỡ chết bỏ mạng, ai chịu trách
nhiệm đây? Hay là lại một bức điện tín hai chục bạc của Ty gởi về cho cha mẹ?"
Kiểm nhìn Nguyệt thấy rõ vẻ gây gổ. Ở phía cánh đồng này, Nguyệt vẫn còn muốn vớt
vát, muốn tìm một người để quy tội sao? Kẻ thù dễ gì nom rõ mặt mũi như những
xác chết phơi bày thường nhật. Lời nguyền rủa đâu có hướng rõ đích như lời trối
trăng. Nơi kẻ sát nhân núp mặt chẳng lẽ ở trong từng mảnh guốc cao gót bỏ chơ
chỏng giữa đường?
Mặt trời chói dần trong màu mây mù mù. Những giọt sương trên lá có nổi dần sắc
tròn óng ánh. Kiểm vọng vào chòm nhà lớn tiếng gọi Chỉnh. Mấy đứa học trò về ồn
ào khoe truyện. Một số bị tình nghi xách động đã bị bắt. Mấy đứa học trò ở
trong đoàn bị bợp tai. Những khẩu hiệu trên đó đã được thay tức thì bằng khẩu
hiệu dưới này. Đoàn người đã quay trở lên với những người bị đả đảo và những
đòi hỏi nguyện vọng mới.
"Sửa soạn đi là vừa. Yên rồi bà con".
Người hiệu trưởng nói. Mấy người có xe ngập ngừng nhìn lên phía trên. Nguyệt
nói:
"Yêu cầu ông hiệu trưởng đi trước mở đường. Chúng tôi theo liền tức
thì".
Người hiệu trưởng cười lặng lẽ quay xe, đạp thong thả lên phía trường, chốc chốc
lại ngó trở lại. Vài người ngần ngừ rồi đạp xe theo sau. Bọn người ở lại đứng cả
dậy trước một thửa ruộng ngập nước.
"Chờ họ lên xem sao đã".
Một người nói. Bà Sâm buộc lại khăn, giọng buồn.
"Hai mươi sáu ngày rồi. Chẳng còn mấy ngày nữa thì tết".
Chỉnh lấy trong túi một tấm vé máy bay đưa cho Nguyệt coi:
"Cứ tình trạng này, biết có được hưởng cái vé này hay không?"
Nguyệt bỗng cất một tiếng kêu nhỏ. Một con rắn từ bờ ruộng phóng ra trên mặt nước.
Bọn con trai mỗi người chạy lượm một vốc đá bao quanh ruộng vừa ném vừa la cười.
"Ngày rằm cấm sát sinh".
Bà Sâm nói. Bọn con trai vẫn ném vẫn la. Con rắn lặn mình chạy trốn, chốc chốc
lại nhô đầu đột ngột trên mặt nước sáng chói. Một cục đá giáng trúng đầu, bụng
nó phơi lên trắng xanh uốn qua uốn lại. Những cục đã liên tiếp táp xuống. Con rắn
chìm mất tăm, máu long trên nước. Kiểm mở bàn tay xương xẩu se khô quơ quơ
trong nắng nói lớn.
"Bạn này đã chọi trúng con rắn, cho tôi bắt tay?" ° ° ° Kiểm lắc mạnh đầu, chống tay nhỏm dậy. Chắc Kiểm không mơ
nhưng cũng không nhớ rõ những điều "Hào Hoa" nói. Có tiếng chị bán
hàng đậu hũ rao ngoài ngõ như những buổi chiều khác. Chiều rồi thật. Dường như
không có bữa ăn nào. Bữa trưa và Kiểm như vậy cũng không có. Kiểm đã mê man
ngay từ lúc đi dạy về. Chỉnh đâu? Chỉ có "Hào Hoa" đứng ở ngoài nhìn
qua mùng hỏi vào thì phải:
"Kiểm ngủ đó hả?"
Lúc đó Kiểm như muốn giữ hắn lại với mình mà mắt nặng đầu váng không nói được.
Chắc hắn vừa ra khỏi nhà vì Kiểm mơ màng thấy hắn luẩn quẩn mãi trong mùng. Kiểm
ra mở bung cửa, mắt nhắm mắt mở, tựa vào cột hiên đột ngột gọi hắn lại:
"Trang, Trang ơi".
Tiếng gọi như cố sức, ê ẩm cả miệng. Nắng đã ra đầu ngõ và rút trên những mái
nhà, vách tường, sao vẫn nom chói mắt. Kiểm chớp chớp, cúi xuống cài lại nút
áo, dời cái cột, khua động một cái móc sắt, bước vào nhà nằm lăn trên nệm. Kiểm
lại thiếp dần với cảm giác da thịt khô quắt lại dần bốc nóng, với hồi ức chập
chờn hồi Dần còn ở nhà, Kiểm nóng nổi ban khắp mình mẩy nhiều lúc chỉ muốn la
hét lảm nhảm, ban đêm nhỏm dậy bật đèn ngồi chồm hổm tự canh chừng mình. Trong
cơn nóng sốt chập chờn, dường như Chỉnh trở về hay Trang quay lại lẩm bẩm nói
gì rồi lại đi, dường như có một đứa học trò cũ của Dần chụp mũ tới tai đứng ở cửa
sổ hỏi vào: "Thầy em có còn ở đây không? Thầy em có còn ở đây
không?".
Lúc không thể tỉnh dậy, thấy Hiền đặt ghế ngồi ở cửa mùng từ hồi nào.
"Anh sốt hồi nào mà mê sảng dữ quá?"
Kiểm cười thành tiếng gắng tạo vẻ bình thường.
"Có nghe anh kêu tên chị Nguyệt không?"
Khuôn mặt và mớ tóc Hiền rung rung ngoài mùng quả quyết:
"Có, anh".
Kiểm nằm nghiêng nhìn ra cười dài nhẹ nhõm. Những điều bắt gặp trong giấc ngủ,
những khoảnh khắc nửa mê nửa tỉnh mở mắt nhìn căn nhà vắng vẻ hoặc gặp một hai
bóng người vào ra, không lúc nào dễ chịu bằng lúc này. Kiểm muốn vuốt tóc Hiền
như trước vẫn vuốt trước mặt Dần mỗi khi muốn làm Dần dịu một cơn giận dễ sinh
những bứt rứt liền sau. Nhưng Chỉnh đã khiến Hiền thành người lớn. Hắn đã không
chịu Hiền nhỏ bé với tình anh cúi xuống đứa em. Bằng cái liều của nỗi khổ chẳng
thể kéo dài, hắn bắt những tình cảm nhỏ nhắn ẩn trong những mặc nhận nổi tròn,
nở lớn cho vừa vòng tay. Lầu đầu biết rõ chuyện Chỉnh, sao Kiểm còn phụ họa rủ
Hiền đi ăn? Vì hôm đó lần đầu Hiền cười sau ngày Dần bị bắt? Nỗi vui của những
người còn lại chỉ có được ở bữa cơm hôm đó, những ly rượu tự hâm nóng và những
buổi chụm nhau lại nặn bài.
Chiều hôm qua, Chỉnh có chuyện với bà Sâm, mãi khuya mới ngủ, sáng nay lại bỏ
đi thật sớm. Kiểm không đợi tuy biết chuyện đó sớm muộn cũng đến. Cũng như Kiểm
sau những lúc đánh bài để quên, bà Sâm sau những ngày bồn chồn trông tin Dần,
bây giờ đã nghĩ tới việc của Hiền. Nguyệt đến thăm, nói bà Sâm thật khéo léo
trong việc bảo Chỉnh chấm dứt những lôi thôi với Hiền. Nguyệt bảo tội cả hai
người. Trong thời gian chờ đợi vô lính, hắn sống phập phồng vì những buổi đến
trường không hẹn trở về. Nhìn đâu hắn cũng hoảng hốt. Hắn cố nghĩ ra những việc
phụ giúp hắn khuây khỏa. Học L’Anglais sans peine, đánh bài kiếm tiền gíp
dần gửi về cho mẹ chuộc lại ngôi nhà, và sáng sáng đón Hiền đi điểm tâm. Hắn như
mê Hiền từ lâu nhưng sợ tội nên không dám nói. Mãi tới lúc Dần bị bắt, nửa vì mỗi
lúc thấy thêm bị đe dọa, nửa không chịu nổi những tiếng "anh ơi, anh
ơi" của Hiền, hắn thử liều một chuyến coi sao. Bây giờ, hắn bị bà Sâm ngăn
cản. Hắn nhát nên ngoan ngoãn nghe theo. Lần này không những nỗi sợ hãi còn
nguyên, hắn còn thêm nỗi nhớ thói quen được bên Hiền từ trước tới giờ. Hắn nói
khóa tới dù có được trả về, hắn cũng xin ở lại cho xong. Còn bà Sâm vừa nói với
hắn vừa khóc. Bà bảo anh em Dần đâu có do bà sinh ra… Kiểm nhớ lúc thuật chuyện,
Nguyệt nói thật gọn gàng, thật tự nhiên. Lúc đó hai người ngồi gần nhau đến độ
Kiểm đã nghĩ giá có tình ý gì, từng vân đỏ tía hiện trên má Nguyệt, Kiểm cũng
nom rõ. Nhưng không có được chuyện đó. Đã bao nhiêu lần Kiểm muốn được săn sóc
nhưng vẫn không lại gần được người con gái táo tợn nhưng lại hay mắc cỡ dưới mắt
bọn học trò. Sự cợt nhả đã làm chai dạn Nguyệt và làm Kiểm trần trụi. Những suồng
sã với chính mình rút lại là một nhọc công tìm kiếm hoài một hạnh phúc đứng đắn.
Cái quơ tay khua động những chiếc móc sắt trên hàng hiên thực chẳng cần thiết
gì.
Có tiếng guốc gỗ ở ngoài những bực đá. Kiểm mở cửa thấy bà Sâm xách một giỏ cam
còn tươi. Kiểm cười:
"Cháu khỏe rồi".
"Khoẻ như có dám chê cam không chứ?"
Kiểm đỡ giỏ cam đặt lên bàn, lắc đầu:
"Chê sợ lần sau bác lại mua nhiều hơn".
Bà Sâm ngồi xuống ghế lấy thuốc hút. Buổi sáng trời nắng, khuôn mặt dài, hai má
xị xuống của bà trắng bệt phấn. Đường lông mày kẻ run tay và màu môi hồng sậm hợp
với lớp phấn dầy khiến bà nom ngô nghê. Chỉ còn đôi con mắt là của bà. Mặt bà
đã hoàn toàn ẩn sau một cái mặt nạ lơ láo không tuổi. Kiểm thấy thương cái mặt
nạ đó cùng với nỗi lâng lâng không phiền, không muộn, sơ khai. Bà Sâm nói Dần kể
từ đó coi như biệt vô âm tín. Chiều qua, đến nhà người lái heo hỏi thăm nghe lại
những lời tả về Dần, lúc về nhà bà ghé vô miễu Ông bắt chước vợ người lái heo
xin quẻ. Quẻ dạy bổn mạng Dần tốt. Mùa xuân hoa nở chim hót con về.
"Tết này anh có về không?"
Bà hỏi. Kiểm nói: "Chắc không". Không hiểu bà có liên tưởng tới giao
thừa năm ngoái, anh em Dần, Kiểm và bà thứcc suốt đêm giao thừa, quanh quẩn bên
chiếc bàn thờ đặt ngoài hiên, đứng trên này vọng xuống nói cười với những người
dưới ngõ và nhà bên kia. Chắc bà muốn bảo Kiểm ở lại. Kiểm còn chỗ nào để đi tới
như đi tới một hạnh phúc đứng đắn, bình thường nào khác?
Ngồi nói chuyện một lát, bà Sâm đứng dậy:
"Tôi phải tới chùa xin lại một quẻ coi sao?"
Kiểm bảo bà:
"Cho cháu đi với. Ở nhà mãi tù cẳng hết chịu nổi".
Vừa nói Kiểm vừa lấy quần áo ra sau thay. Một lát sau, hai người bước ra ngoài
hiên. Kiểm hốc hác khua động những chiếc móc sắt bên bà Sâm mặt trắng không tuổi. Mùa xuân qua đèo Hồ về tới phi trường tỉnh, trời đã quá trưa. Hai người Mỹ
trên chiếc trực thăng lại ngồi xuống trên cát phơi nắng uống Coca như lúc ở sân
bay của lực lượng đặc biệt. Hồ và người đồng hành vừa kịp làm quen chia tay
nhau ở cổng phi trường. Quận lỵ cách đây không đầy bốn chục cây số sau mười
phút bay đã thành một vùng đất dĩ vãng có những này cuối năm ra sân bay ngóng một
chuyến về vô vọng. Nỗi vui mừng lúc được chui vào máy bay và điều lo ngại sẽ phải
ăn tết ở tỉnh đã đẩy lùi thiệt mau những điều thuộc về mấy ngày hôm trước.
Hồ giục người phu xe đạp mau về bến xe. Giờ này làm gì còn một chuyến xe khởi
hành để băng qua hơn trăm cây số đường núi. Nhưng biết đâu. Chuyến phi cơ vừa rồi
đã là một sự bất ngờ. Biết đâu… Hồ móc sẵn tiền xe cầm tay. Tới bến. Hồ nhảy xuống
xách sắc lại gần hai chiếc xe hơi không người. Hồ nhìn quanh tìm chủ
xe. Không có ai. Bàn bán giấy có người đàn bà đặt một thúng nem, giở khăn bịt lại
đầu. Trời nắng vàng thoảng những hơi gió lạnh.
"Có còn chuyến xe nào chạy về… nữa không bà?"
Hồ hai lần hỏi người đàn bà. Người đàn bà tò mò nhìn Hồ, giọng chểnh mảng:
"Giờ này đâu còn xe…"
Hồ châm một điếu thuốc hút một hơi dài. Trên con đường vòng ngoài thị xã, những
chiếc xe Lam-bét-ta ba bánh đầy người và hàng hóa ì ò chạy về các làng lân cận.
Chỉ những người về ăn tết muộn cách tỉnh một vài đoạn đường ngắn còn có xe đi.
Hồ sang đường kiếm một tiệm nước ngồi uống. Chiếc sắc được đặt dưới
chân Hồ không còn là một sự thôi thúc như trong những ngày gần đây. Hồ uống nước
chậm rãi, hút từng hơi thuốc dài. Một phòng ngủ ở bên kia đường, sau tấm cửa xếp
đóng nửa chừng, có những chậu thược dược đầy bông đặt trên nền gạch bông. Một
đám người bao quanh một đống dưa hấu ở gần lối vào bến xe. Những người đi trên
đường đều có vẻ vội vã.
Hồ đi sâu vào trung tâm thị xã. Những chiếc xe vụt qua, những người đi rảo bước
chỉ gợi được những giờ cuối cùng trong năm đang trôi màu, không lấp được nỗi vắng
vẻ. Thị xã thường ngày nhộn nhịp được là nhờ những công chức đã về ăn tết. Họ
chiếm số đông, đa số còn trẻ. Hồ không muốn gặp mặt một vài đồng nghiệp địa
phương lúc này. Hồ với họ không có những điểm chung nào để họ có thể hiểu việc
biểu lộ lòng ái ngại của họ là vô lý.
Hồ vẫy một chiếc xích lô về nhà một bà chủ nhà hồi Hồ còn ở thị xã. Con đường
nhỏ nhiều ổ gà và đám trẻ nít nô giỡn hoảng hốt nhảy rạt sang hai bên tránh xe
vẫn không thay đổi. Hồ nghĩ mình sẽ về nhà trong chuyến xe đầu tiên năm mới.
Lúc đó, những đồng nghiệp Hồ có thể đã lục tục tính chuyện trở về nhiệm sở. Tâm
trạng Hồ lúc bước lên chiếc trực thăng Hồ vẫn chưa quên. "Thoát". Hồ
như sẽ không có ngày phải trở lại nơi đó nữa. Nếu không ở trong tuổi quân dịch,
Hồ có thể bỏ ra ba, bốn… nếu cần nửa năm lương để không bao giờ còn bận tâm tới
vùng đó. Gần trọn một tháng nay Hồ mong có máy bay về. Quần áo đã sửa soạn đầy
đủ. Những câu tiếng Mỹ để xin được lên phi cơ đã nằm lòng. Một tuần lễ chầu chực
ở sân quận với gia đình những viên chức hành chính, với vợ con quân đội, với một
hy vọng mong manh mình sẽ có ưu tiên. Những bộ mặt hoan hỉ sau cái gật đầu của
người Mỹ có thể đếm trên ngón tay và in đậm trong đầu người ở lại. Những vẻ lo
lắng, mệt mỏi mỗi ngày một tăng. Người chờ máy bay một ngày một nhiều. Hồ thấy
một bà mẹ đứng sau đoàn người đổ xô lại gần viên phi công bấm móng tay sơn đỏ
vào mông đứa con gái sáu tháng để thay cho tiếng nói quá nhỏ một quân nhân đã đứng
nghiêm, thuật lại chín trận đánh có mình tham dự với quận trưởng, mắt lét thường
trực về chiếc trực thăng và đám đông. Hai thiếu nữ áo dài màu hường, màu trắng
hờn dỗi với người Mỹ ngơ ngác. Một đứa trẻ đã bị cả đám đông nguyền rủa đòi tát
tai vì đã lén trèo lên phi cơ làm người Mỹ nổi giận. Số người ngày ngày ngong
ngóng chờ đợi tăng dần, lòng hy vọng vào sự may rủi giảm sụt sau những lần bụng
đói, uể oải khoác sắc đứng lên về nhà trọ trả thêm bốn chục đồng tiền
cơm để sáng mai lại đeo sắc, lại nghe lời chúc may của chủ nhà. Trước những
người dân ở đây, Hồ bị ám ảnh mình là người giàu có. Mua một con gà giò, hai
trăm và một chục tiền "mượn trẻ nhỏ đi bắt". Gà chưa bắt được, lối
xóm chạy tới bao lấy Hồ khen gà mập, thịt ngon, giá "bán cho người
quen". Đến nhà quen được mời ăn tu-ma, Hồ phải gặng hỏi trả tiền chủ nhà mới
chịu nói rõ năm đồng một trái. Có người từ xa tới vào một căn nhà xin nước uống,
chủ nhà đem gáo giấu một chỗ. Đồng tiền thành một liên lạc duy nhất giữa họ với
người khác. Đời sống đương nhiên trở thành đơn giản. Nhưng với những người ở
trong quận lại không thế. Nhiều lần Hồ đã ân hận vì quen biết họ. Một người dân
vệ một đêm bỗng bỏ trốn để mấy hôm sau thành một "kháng chiến quân"
thường xuyên đón xe ở cái dốc cách quận cỡ mười cây số. Trong quận không ai
không biết có lần Hồ đã mời hắn uống la de ăn bún bò. Những lần có việc phải
vào quận, Hồ thấy có nhiều con mắt nhìn mình khác thường, những con mắt của mấy
viên chức đã được Hồ mời cùng một bận với hắn. Và hắn cùng đồng chí chắc chắn sẽ
có những con mắt tương tự và một phát súng thích hợp nếu Hồ gặp vào những hôm
phải qua con đường dốc. Ban đêm, nằm ở những chỗ ngủ không nhất định, Hồ nghe
chó sủa và lập lại dự đoán của mình.
Chiếc xe dừng trước một đầu ngõ nhiều bóng dừa. Hồ trả tiền, xách sắc bước
vào. Hồ đẩy một cánh cổng chằng kẽm gai. Hà – con gái út bà chủ nhà – đang phơi
mẹt mứt bí ở ngoài sân, quay ra kêu kinh ngạc: "Anh Hồ". Hồ hỏi:
"Má đâu? Anh Tước đâu em?"
"Má ra dọn hàng cho chị Hòa. Anh Tước đi chơi. Anh không về nhà ăn tết?"
"Ở lại ăn tết với bà má với mấy em cho vui".
Hà dàn những miếng mứt đậm đường trắng thô lớn, cười:
"Anh chỉ ưa nói láo. Về nhà ăn tết với chị, anh buồn chắc?"
Hồ vừa vào trong nhà vừa nói:
"Anh nói lộn. Ăn tết ở đây cho nó lạ".
Căn phòng Hồ bước vào là một khúc nối của ngôi nhà trên. Một ngôi bàn thờ lư đồng
sáng loáng, bánh xếp chồng, hoa huệ trắng muốt và một chiếc bàn phủ khăn sặc sỡ
sau một chậu thược dược bông lớn chiếm hết căn phòng. Hồ vén tấm ri đô nhạt màu
nhìn xuống cái chái kế bên thấy có một góc trống. Chắc hàng của Hòa sẽ để đó. Mỗi
năm Hòa dọn hàng về nhà hai lần. Vụ lụt và những ngày nghỉ tết. Ngày thường,
Hòa về chợ như một nữ công chức về sở. Hàng trong gầm sạp khóa kỹ có cảnh binh
coi ban đêm.
Hồ rót một ly nước, ra hiên ngồi sưởi sáng. Một hàng trụ gạch vuông mới quét
vôi chạy tới đầu nhà trên.
"Mấy người thuê nhà về hết rồi sao em?" Hồ hỏi.
"Mấy anh đó về từ hôm hai lăm. Năm bữa nay rồi".
Hà nhón một miếng mứt mang đưa cho Hồ:
"Mời lén anh một miếng. Anh ăn lẹ, coi chừng bà má về la em".
Hồ bẻ đôi miếng mứt đưa cho Hà một nửa:
"Mỗi anh em một miếng cho công bình".
Hà ngồi tựa vào trụ gạch vừa cắn từng miếng nhỏ vừa nhìn Hồ tủm tỉm cười. Nước
da Hà nom thật mát. Còn kéo dài tình thế này, hai ba năm sau, về nhà này, Hồ sẽ
ăn tết với một thiếu nữ có duyên. Hồ hỏi Hà chuyện học hành, chuyện bà má. Hà
nói luyên thuyên, cười luôn miệng. Khi bà má về, thấy Hồ bà la từ ngoài cổng:
"Lỡ xe rồi ông? Lỡ xe rồi ông?". Bà gánh hai bó hàng quết đất, chân
bước rầm rập, mồ hôi tháo đầy sống áo. Bà vào nhà nói Hồ năm trước ở đây,
"có tết nào mà ông ở lại với mẹ con tôi đâu. Bây giờ xa xôi lại về đây ăn
tết bất tử. Muốn chuộc lỗi đó sao ông?". Bà cụ thật ồn ào, Hồ chỉ cười gật
đầu. Ngày còn ở đây mỗi khi muốn vui, Hồ chỉ việc gợi chuyện cho bà cụ để thấy
vui, không ai bị thất vọng. Nói chuyện một lát, Hồ lấy quần áo ra giếng tắm sợ
hết nắng, trời lạnh.
Lúc bà má mổ gà cúng giao thừa, Hà xách nước tưới những chậu bông trước sân. Hồ
nói với bà mình ra phố có chút việc, không ăn tối. Trong các ngõ, trẻ con như
đông hơn. Một vài đứa mặc áo mới nắm dây bong bóng bay. Ngoài phố, có nhiều cửa
tiệm lục đục đóng cửa. Hồ mua một hộp bánh biếu bà cụ rồi ghé tiệm hớt tóc. Tiệm
vắng, không được quét dọn sạch sẽ. Ông già chủ tiệm đang ngồi trước gương vắt
chân đọc một tờ báo xuân. Thấy Hồ, ông già lật đật tụt xuống, tươi cười nhường
chỗ. Hồ cầm tờ báo kiếm một truyện ma đọc. Ông gia yên lặng làm việc, không có
vẻ vội vàng. Tóc Hồ hớt xuống cả đống trên khăn choàng. Hồ cười nhớ hồi còn nhỏ
hớt tóc để ăn tết. Vợ Hồ chắc sẽ lại có chuyện để nhạo Hồ. Hồ nhớ lần về trước
cũng hớt tóc ở đây và phải lấy báo che mặt sợ đồng nghiệp nhận ra. Lần đó Hồ về
ở nhà nửa tháng. Buổi sáng, hôm ra đây, vợ Hồ dậy từ bốn giờ sửa soạn hành lý
cho chồng. Hồ tỉnh giấc không thấy vợ bên cạnh tự nhiên thấy thất vọng. Lúc vợ
Hồ ở ngoài lên tiếng đánh thức, Hồ làm bộ ngủ. Vợ Hồ phải vào giường lay gọi. Hồ
ngập ngừng kéo vợ nằm xuống giường. Vợ Hồ vùng vẫy gắt: "…Gì mà dữ vậy?".
Hai tay Hồ ôm vòng lưng vợ kéo xuống. Người vợ hai chân vẫn đứng dưới đất, một
tay cố gỡ, một tay đẩy mạnh xống ngực Hồ. Hồ bỏ lỏng vòng tay cho vợ thoát ra
ngoài mùng, thấy đau ngực và giận nghẹn ngào. Lần đó ra tới đây, chờ xin máy
bay về quận, Hồ bị gọi lên Ty vì tội bỏ nhiệm sở cả tháng trời. Trước mặt ông
Ty, Hồ nói, cặp mắt trũng sâu ngơ ngẩn: "Xa vợ cả năm trời, nhớ quá không
chịu nổi. Khổ quá hóa liều, xin bác thương". Bây giờ, thời gian đó đã xa đằng
đẵng. Vợ Hồ, đêm nay biết đâu chẳng khóc.
Hồ ra khỏi tiệm hớt tóc, ông già bắt đầu đóng cửa tiệm. Mái tóc hớt cao, những
chân tóc vừa cạo bắt lạnh. Hồ cầm hộp bánh băng ngang đường, sang một phố khác.
Buổi chiều cuối năm có những giờ nắng chói, vàng rực. Bây giờ, đã dịu. Hơi lạnh
bắt đầu trở nên đậm. Hồ bước mau qua những khu phố vừa đóng cửa có những chậu
cúc, thược dược bày trước nhà. Ở công viên cuối thị xã có người đông. Người và
xe hai bánh chật trên các lối sỏi. Một chiếc xe bán bong bóng bay đậu ngay lối
ra vào. Hồ để hộp bánh sau lưng, len vào vòng người nhìn xác chết. Có phải hắn
đó không? Hắn nằm ngửa trên sỏi, đầu vẹo, hai tay úp lên rốn, hai chân dạng hai
bên. Bộ mặt xanh khô hai đường xương gò má nhô cao. Hai mắt trũng như nứt phơi
một phần con ngươi nhợt. Chiếc mồm nhô hàm răng hô. Kẽ mép do một kẻ tinh nghịch
nhét một mẩu thuốc lá chỉ còn vòng giấy cháy đen và lớp tàn dính vào lợi. Tấm
áo vải bô hai vạt nằm sang hai bên sườn để lộ cái bụng căng. Nơi thắt lưng một
đầu ruột phòi tím bầm bên một đầu máu khô và đất. Hai bên có những ô vuông tím.
Hồ ra khỏi vòng người, cảm thấy buồn mửa. Mùi hắn thật nặng nề đến nhức đầu.
Người ta nói hắn và hai tên nữa võ trang súng "côn" chặn xe
Lam-bét-ta ở cây số bảy. Trong xe, có một quân nhân mang trung liên. Hắn là
trung đội trưởng. Để đó cho đồng bào coi.
Hồ bước mau ra cửa công viên, dừng lại bên xe bong bóng cúi xuống hông xe châm
một điếu thuốc. Hồ lên một chiếc xe bảo chạy tiếp con đường Hồ đi dở dang. Hồ
xuống chỗ đầu xóm, đi bộ vào nhà ông lão có hai cây dừa. "Thầy uống la
de?", ông lão hỏi. Hồ lắc đầu, kéo ghế ngồi. Ông lão xách nón ra ngoài
ngõ. Căn phòng lợp lá, tường đất mới quét vôi có một tấm màn gió chia đôi. Những
ngày chầu chực chờ máy bay không phải chỉ để về đây bồn chồn nhớ vợ. Hồ nghĩ và
thấy nhớ vợ nhiều hơn. Những ngày gần đây, vợ Hồ đã làm gì với số thì giờ nghĩ
về Hồ và đi ra đi vào trông đợi. Đêm nay có đám tam cúc nào để một chân cho vợ
Hồ không.
Ông lão trở về có hai người đàn bà áo ngắn theo sau. Người đàn bà mặc áo chửa lại
gần Hồ, cúi xuống hôn má Hồ và cầm tay đặt lên bụng mình. Hồ xoa tay lên lớp áo
mỏng hỏi:
"Bầu mấy tháng rồi?"
"Ba tháng… đang mọc tóc".
Hồ kéo ghế cho người đàn bà ngồi. Ông lão hỏi:
"Thầy chịu cô này?"
Hồ quay lại nhìn người đàn bà đứng ở ngoài cửa, hai tay chắp sau lưng, chân dún
đẩy, nhìn bâng quơ.
"Chịu".
Hồ nói nhỏ giọng, Ông già và người đàn bà kia đi ra. Người đàn bà có bầu vạch tấm
màn gió nhìn vào rồi ra khóa cửa. Hồ cản lại:
"Có ra ngoài lấy… gì thì lấy đi. Ở đây tới tối được chứ?"
Người đàn bà ra gọi ông già vào. Ông già nói, Hồ gật liên tiếp. Lúc ông già ra,
người đàn bà đã sửa soạn xong, ra khóa cửa. Hồ dìu người đàn bà vào sau tấm màn
gió. Bên người đàn bà, Hồ thấy mình quên được nhiều thứ. Tới khi người đàn bà đẩy
tấm cửa nhỏ trên vách kêu "sắp tối". Hồ ngủ lơ mơ và không buồn mở mắt.
Người đàn bà lưng quay vào vách chống tay tò mò nhìn Hồ. Môi Hồ hé mở, mặt Hồ
nom dài, gầy guộc. Chiếc gối của Hồ đầy phấn và tóc vụn.
Lúc Hồ trở dậy, trời tối thui. Người đàn bà đã thắp một cây đèn bóng dài để ở
giữa bàn. Hồ đưa tiền và chìa môi cho người đàn bà hôn rồi lại gần ánh đèn,
tháo mấy sợi thung bao lại hộp bánh.
Hồ bước ra đường mới thấy rùng mình vì lạnh. Hai bên ngõ, qua những hàng rào
bóng cây tối thui. Hồ thấy những trang thờ ở ngoài trời, trong vườn, trước sân
có ánh đèn, mùi nhang và hương hoa cúc. Giờ này vợ Hồ hết còn mong Hồ về. Có một
sự yên lặng lạ thường. Người đàn bà có bầu vừa rồi hay ý nghĩ vợ hết còn trông
đợi bồn chồn đã tạo trong lòng Hồ nỗi bình thản vắng ngắt đó. Ý nghĩ chua xót
nào, cảm tình đau đớn nào rồi ra cũng có lúc mệt mỏi ngã quỵ như một người đàn
bà khóc chồng, mắt ướt khép dần theo giấc ngủ. Đã bao lâu nay Hồ dự tưởng một
cái tết xa vợ và sau những ngày rượt đón những chuyến xe muộn, dự tưởng đó trở
về nhập với hiện tại. Tâm trạng Hồ lúc tưởng tượng mình xa lạ với niềm vui ấm
cúng của mọi người trong đêm giao thừa đầy chua xót và sợ hãi. Bây giờ nỗi chua
xót mỗi lúc lắng dần, lắng dần, chỉ còn khiến Hồ lờ mờ thấy bước chân mình có
những bước chân ngậm ngùi. Hồ mệt mỏi thấy mình không thể nghĩ tới ai được một
lúc lâu như ngày thường. Trong nỗi bình thản vắng ngắt, mơ hồ những bước chân
ngậm ngùi đó, Hồ thấy mình hiền khô như nhiều người vẫn nói và phải đợi đến đêm
nay Hồ mới biết một đời mình chỉ là người lỡ đường tuy chẳng rõ về đâu. Cơn giận
nghẹn ngào vì bị vợ từ khước chuyện ân ái lần cuối có phải đã bắt nguồn từ một
khao khát tưởng tượng như vợ Hồ là người có thể thỏa mãn? Hồ thoáng rung động,
thương vợ đột ngột.
Hồ băng qua những phố vắng người. Mọi nhà đều đóng cửa. Mặt đường trở nên rộng.
Những dãy nhà hai bên phố nhỏ thấp. Ánh điện trắng xanh đường ngang đường dọc.
Hồ tưởng như mình là một gã khổng lồ đi giữa những nguồn suối ánh sáng lúc nghe
tiếng giầy nện quá rõ trên mặt nhựa. Hồ kẹp gói đồ vào nách, đứng giữa đường
châm một điếu thuốc. Một mùi trầm từ nhà nào gần đó thoảng trong không khí.
Hồ về tới nhà bà má lúc mọi người đã ăn cơm xong. Bà má đang sửa soạn bàn thờ.
Hòa và Hà ngồi giữa những lọ, những mẹt mứt để trên mấy tờ báo trải dưới đất.
"Ngỡ anh mải đánh bài ở nhà mấy người bạn mai mới về chớ".
Hà chiều diễu. Hòa phủi tay, kéo ghế cho Hồ:
"Anh về hồi chiều? Ăn tất niên vui không anh?"
Hồ cười thấy đói:
"Lỡ hẹn với người ta. Nếu không tôi đã ở nhà ăn cơm cuối năm với bà má và
các cô".
Hồ lột tờ giấy báo, đặt hộp bánh lên bàn thờ:
"Biếu bà má để cúng các bác".
Bà má đập vào vai Hồ nói lớn:
"Mua bánh lúc này khác chi cho tiền nẫu. Mệt quá".
Mọi người cười ồn ào. Hòa rót cho Hồ một ly nước nói chuyện thằng Tước kêu hãi ở
nhà dọn đĩa chén bỏ đi đánh cua cá. Mặt Hòa như thoa phấn, lúc cười mơ hồ có nếp
nhăn trên trán. Bà má gạt ngang câu khôi hài của Hồ, chỉ tay trên nhà trên:
"Đêm nay ông ngủ trên đó. Hồi này ổng về, tôi đã giao ước mở cửa trên đó
ngày mồng một".
"Chưa tới giao thừa bà má đã nói chuyện ngủ kỳ quá".
Hà kêu. Bà má nạt Hà im, bảo Hồ:
"Ông lên trên đó mà thay quần áo. Đồ của ông tôi bỏ trên đó. Nhớ chỗ cái
công tắc chớ?"
"Lúc nào ngủ con thay cũng được. Để con nói chuyện với cô Hòa đã".
Nghe Hồ, Hòa cười, mặt hơi cúi. Ở Hòa lúc nào cũng có sự khéo léo. Hòa lấy chồng
năm mười sáu, năm Hòa hăm ba, chồng Hòa chết. Hòa chia cho cha mẹ chồng nửa số
lương tử tuất để nuôi đứa con trai rồi về ở với mẹ. Những năm con lấy chồng xa,
nghe nói con bị chồng và mẹ chồng hành hạ, bà má chỉ biết chửi thề. Thấy con về,
bà mới yên tâm, mới đỡ kêu khổ. Những người ở đây đều là những người xa gia
đình, gọi bà cụ chủ nhà là bà má và tùy theo tuổi tác gọi Hòa là chị hay cô.
Nhưng ai cũng đối với Hòa bằng sự thận trọng, vì nể. Họ kêu Hòa thông cảm được
sự bê bối của tuổi trẻ, không gay gắt như bà má mỗi lần họ đem gái về nhà. Hòa
thành một người khéo léo và rộng lượng. Nụ cười Hòa sau một lớp người tới, sau
một lớp người đi, lại trầm thêm một lớp.
Tới mười giờ đêm, Tước huýt sáo trở về. Nó ồn ào kể chuyện việc bị ông tỉnh bắt
hụt. Ông bận đồ xi vin một mình dạo phố. Gặp những người đốt pháo ông
túm cổ bạt tai liền.
"Sao anh trốn được?"
Hà hỏi. Tước cười lớn, giơ hai tay xoay người một vòng.
"Tao mà thèm trốn, nói giỡn. Tao có mật báo, vẫn theo sau ổng, vẫn khơi
khơi coi mấy người bạn bị bạt tai, đâu có sao".
Hà bĩu môi:
"Sao anh nói bị bắt hụt?"
Tước rút một điếu thuốc của Hồ để trên bàn:
"Tao nói cho bà má giật gân… mà ủa, tao nói sai một lần không được
sao?"
Tới gần giao thừa, mọi người ra cả ngoài sân. Hỏa châu bắn rực trời để soi rõ
bóng người ngoài ngõ. Mọi người ồn ào trong một không khí bình minh, lạnh buốt.
Ở các căn cứ quân sự súng nổ liên hồi như giặc nhập thành phố. Ngoài đường người
đi lại rầm rập. Chuông chùa, chuông nhà thờ đổ dồn, ngân nga, Hòa chạy vào
trong nhà khoác thêm một manh áo ấm.
Suốt ngày mồng một tết, Hồ hết ngồi ở bàn bên này cắn hạt dưa, ăn mứt lang, mứt
me, mứt bí nói chuyện với Hòa, lại lên nhà trên chơi các tê với đám thằng Tước.
Bà má đi chúc tết mọi người, kéo Hà đi theo. Chặp tối, sau bữa cơm chiều mỗi
người đều uống ly rượu nếp, gia đình bà má đi lễ chùa, Hồ đóng cửa phòng dưới,
lên nhà trên bật đèn nằm đọc cuốn Kiều đã cũ, Hồ mang về trả vợ. Sáng ngày mùng
hai, Hồ định về chuyến xe đầu nhưng Hòa cản, sợ mìn. Tám giờ sáng Hồ từ biệt mọi
người sau khi đã điểm tâm bằng bánh chưng. Hồ lên xe, Hòa bảo:
"Có chiếc bánh chưng gửi anh đem về biếu chị để trong sắc anh
đó".
Hồ lật đật ngoái lại, thấy Hòa đã kéo em vào nhà với những tiếng cười hỗn độn:
"bánh chưng Trung kỳ". Hồ chắc bà má và Hòa sợ Hồ bị kẹt xe giữa đường
không có thức ăn, thác cớ biếu vợ Hồ bánh, báo cho Hồ biết vào phút cuối. Những
hạt mưa trái mùa ướt láng đường. Phố xá vắng vẻ như một giấc ngủ muộn. Vài người
đi chơi tết đi dưới những mái hiên rải rác vỏ bong bóng, hạt dưa, xác pháo. Tới
bến xe, Hồ mới biết hôm qua đã có chuyến xe chạy mở hàng. "Ngày lẻ mà coi
lành. Hai bên gặp nhau không thèm bắn, ngó lơ chỗ khác". Một người lơ xe
nói.
Lúc Hồ lên xe, xe đã chật chỗ. Hồ ngồi giữa một ông già và một người đàn bà ăn
mặt nửa như người buôn bán, nửa như người chơi bời. Một người lên xe muộn, hỏi
lơ xe:
"Lúc này đường đi chắc lộn xộn dữ?"
Giọng người đó như đùa song không giấu được vẻ lo âu. Gã lơ xe nói:
"Hai chuyến gần đây nhứt không có gì".
Ra khỏi thị xã, mọi người bắt đầu yên lặng. Chiếc xe chạy như tìm tốc độ. Tài xế
và lơ xe đều châm thuốc hút. Những sườn núi như những đồng cỏ trên cao thuộc miền
có ánh nắng. Hồ giở cuốn Kiều đọc mong tìm giấc ngủ. Xe càng chạy càng ít thấy
những đồn binh và những chiếc GMC xả ga chạy ngược chiều. Biển có lúc chỉ còn
thấp thoáng ở xa như một mặt hồ xanh thẫm sau những hàng cây và vách đá. Những
làng mạc xanh lá cây, im ả dưới miền ruộng sâu. Những cánh đồng hẹp cỏ cháy và
những cồn cát chạy dài như di tích thủa nước Việt có Đàng Trong, Đàng Ngoài.
Chiếc xe như xa dần cuộc sống. Dấu vết con người và sinh hoạt như không hề có nếu
không có những ngôi mộ mới rải rác trên những mảnh đất hoang. Một vài chòm khóm
ở hai bên đường chỉ có những bờ tre nắng đốt khô trắng rợn mắt, không bóng sinh
vật. Vài lò vôi rải rác, không mái, vách đất nền mốc với những đầu củi cháy dở,
những đống san hô trắng toát.
Hồ "ợ" một tiếng gấp sách, loay hoay châm một điếu thuốc. Gió như dồn
trên cao xuống. Người đàn bà bên tay trái Hồ cúi xuống cái giỏ ni lông dưới
chân lấy ra một tấm voan màu hoa đào buộc đầu. Vợ Hồ cũng có một tấm voan màu
đó. Lần trước, khi ra ngoài này, lúc hai người chở nhau trên xe Solex ra bến xe,
vợ Hồ cũng bịt tấm voan, trời cũng lất phất mưa. Những hạt mưa không đủ ướt bãi
cát nhưng đủ làm mờ hồ những chồng đá quây quần ở ngoài biển xa.
"Chị cũng về…?" Hồ hỏi người đàn bà.
"Dạ".
Người đàn bà đáp không nhìn Hồ. Hồ nói:
"Đường bây giờ chỉ có những người liều mới dám đi".
Người đàn bà vẫn nhìn thẳng về phía trước, hai tay thủ bọc. Ông già bên tay phải
Hồ đã ngửa đầu vào lưng ghế, há mồm ngủ sau khi uống nửa xị rượu mang theo. Hồ
thấy dường như chỉ có mình mới xa lạ và thắc thỏm. Hồ nhớ lại ngõ tối có nhiều
trang thờ tối hôm giao thừa.
Xe qua một dốc núi, vào một cánh đồng nhỏ. Con đường không hề có bóng một chiếc
xe khác. Hồ nói với người đàn bà:
"Con đường này chắc có lẽ dành riêng cho mấy chiếc xe này".
Người đàn bà không lên tiếng.
Chiếc xe đột ngột dừng trước một cây cầu gãy gập. Thành cầu bằng sắt luồn trong
các cột xi măng, một đầu rớt xuống dòng nước cạn như một chiếc thang để
nghiêng. Hành khách ồn ào thò đầu ra ngoài xe bàn tán. Người lơ xe nhảy xuống
chạy lại gần cầu. Tiếng người tài xế la lớn:
"Muốn giỡn với mìn sao đó mầy?"
Ông già cạnh Hồ mở choảng mắt hỏi:
"Chi vậy?"
Mặt ông đầy vẻ lo lắng. Một vẻ mặt lo lắng để dành bây giờ mới lộ ra. Người lơ
xe đi rảo theo bờ con sông cạn, loay hoay tìm kiếm.
Một lát, hắn trở lại, hai ống quần lầm cát và ướt.
"Sao?"
Nhiều tiếng bật lên một lượt.
"Không phải trở lại đâu, bà con đừng lo".
Hắn nói, giọng hớn hở.
"Bây giờ cảm phiền bà con xuống xe cho bớt nặng, qua sông được dễ
dàng".
Mọi người ồn ào lục tục xuống xe. Người đàn bà bên cạnh Hồ xách cả chiếc giỏ ni
lông xuống theo.
"Hên thiệt, đang mùa khô".
Người đàn bà nói. Người lơ xe nhảy xuống lòng sông nhô cát và cỏ trước tiên. Hắn
dang hai tay và đi giật lùi, vết chân hắn trên cát. Chiếc xe ì ạch vượt lên
trên bờ cỏ rồi chúc mũi xuống. Hành khách lôi thôi theo sau. Hồ chống tay vào
cái thang sắt sau xe bước từng bước dài. Nắng sáng cả bãi cát. Người đàn bà
khăn màu hoa đào gọt một cái củ đậu, vừa đi vừa ăn. Suốt lòng sông những bãi
cát nổi lên chạy dài. Nước hết còn luân lưu, đọng lại trong những vũng rải rác
trông suốt đáy.
Hồ hỏi ông già:
"Thưa bác, xe sẽ dừng lại ở bên này hay bên kia đèo?"
"Chân đèo bên này".
"Sao họ không sang tới bên kia? Đi bộ trên ba bốn cây số đường đèo cũng mệt
lắm chớ?"
"Nẫu cấm".
Sang tới bên này sông, mọi người vội vã lên xe. Chiếc xe từ từ xa cây cầu sập
và lòng sông phơi nắng, chạy song song với rặng núi dài quá tầm mắt. Hồ lấy cuốn
Kiều, tìm giấc ngủ. Nhưng thói quen ngủ trên xe ngày nay không còn. Ý định tìm
lại sự bình thường thành bất lực. Có lúc Hồ nhắm mắt, tựa đầu vào thành ghế như
ông già bên cạnh nhưng chỉ để thấy mình rất tỉnh táo trước nỗi lo âu của mình.
Nỗi chết dường như không đáng sợ. Người chết tĩnh, yên lặng vô cùng. Nhưng cảnh
chạy trốn hoặc chờ đợi cái chết là một náo loạn và tuyệt vọng. Mùi bánh chưng
ngầy ngậy chốc chốc lại dồn lên một tiếng "ợ" thiếu hơi. Tâm trạng Hồ
lúc này biết đâu sau này sẽ lặp lại theo mùi bánh. Mấy con bồ câu của ông già
chốc chốc lại vỗ cánh phành phạch trong chiếc giỏ tre để dưới gầm băng xe. Hồ mở
mắt nhìn ra cửa xe và luôn luôn bắt gặp những sợi tóc vượt khỏi khăn voan của
người đàn bà phất vào má. Vẻ đẹp của người đàn bà vừa buồn vừa gợi dục tình. Hồ
ngượng ngập có lúc chợt thấy mình nhìn má người đàn bà chăm chú trong khi người
đàn bà vẫn ngồi bất động, nhìn thẳng phía trước hai tay thủ bọc.
"Đồng bào có giấy tờ chi giấu đi. Rủi mà bị xét, nẫu xé uổng".
Người lơ nói lúc chiếc xe lượn vào chân núi. Có nhiều người sờ lại túi, lục lại sắc.
Hồ bắt gặp một bộ mặt đen sạm má phị ở băng đằng trước quay xuống nhớn nhác.
Đôi mắt đuôi nhiều nếp nhăn mở lớn nhìn khắp cả mà như không nhìn rõ ai. Đó là
người đàn ông đứng tuổi, dềnh dàng ngồi bên cạnh vợ, lòng ôm một đứa con. Người
đàn bà khăn hoa đào cười yên lặng. Hồ ngơ ngác. Trước mặt quãng đường mất hút ở
đầu dốc rậm rì bóng cây. Chỉ có tiếng xe nặng nề lên dốc. Trong xe có một tiếng
"tách" nhẹ khô khan. Người ngồi trên mấy băng trước quay cả xuống.
Người lơ xe ngửa mặt kéo một hơi thuốc nhả khói ra mũi, thong thả đóng cái nắp
máy lửa. Hồ thấy cặp mắt mở lớn của người đàn ông ôm con thoáng vẻ phẫn nộ. Ông
già bên Hồ cất tiếng ho và cúi xuống chân ngó giỏ chim. Ông cụ luôn luôn tỉnh
ngủ đúng lúc. Có tiếng khóc ré của đứa con trong lòng người đàn ông vì cái bong
bóng bay khỏi cửa xe. Người đàn ông ngoái cổ ra trông theo rồi cúi xuống dỗ
dành đứa nhỏ. Người vợ đứng dậy chao người với cái sắc trên giá để
hành lý. Người chồng đỡ cái sắc cho vợ ngồi xuống, lấy ra một cái kèn
đồng sáng loáng đút vào cái miệng đang khóc của con. Đứa nhỏ mắt ráo hoảnh,
phùng má thổi. Nhiều cặp mắt đổ dồn vào cha con người đàn ông.
"Kỳ vậy. Bộ muốn chết sao chớ".
Một ông già vận áo len, mang kính ngồi phía dưới cầu nhầu. Người đàn ông lúng
túng quay xuống, cười gượng như muốn phân trần. Thấy đôi mắt ông già giận dữ,
cau có, người đàn ông vội quay lên cúi xuống nói gì với con. Bàn tay thô lớn
sau ống áo veste cũ nhàu khum khum trước miệng kèn. Xe như ở giữa một
rừng cây có nhiều vách núi cao sừng sững quây tròn. Có những cành cây động đậy.
Có người quần áo đen ngồi ôm súng trên mấy cái gióng bắc ngang lên mấy cành
cây, mắt nhìn xuống đường. Có người cởi trần lưng khoác lá dừa đứng trên một mỏm
đá che mắt hướng về phía xe. Có chặng cây cao vút chằng chịt dây leo để lộ cái
cẳng người đứng im, mang chiếc vớ thủng. Mọi người ngồi ngay ngắn, nom thẳng.
Chiếc xe chạy thong thả nhiều lúc như chực ngừng. Cái bong bóng màu hồng thoát
khỏi những ngọn cây, vật vờ bay lên một vách núi thẳng đứng nhuộm nắng. Chiếc
xe ì ạch lượn vào sát những gốc cây tránh khúc đường đầy hố có một chiếc xe
jeep bẹp dụm lật ngửa bánh cháy đen thui. Người lơ bật lửa châm thuốc nghêu
ngao nho nhỏ. Ông già mang mắt kiếng cau trán quay nhìn rồi lại ngồi ngay ngắn,
yên lặng. Hồ muốn đập vào cái mặt xấc xược của gã lơ xe. Hắn muốn lợi dụng nỗi
sợ hãi của hành khách để được chú ý tới. Nhưng Hồ hiểu ngay không bao giờ mình
làm được chuyện đó. Những điều Hồ làm được, ít khi do một ước muốn thôi thúc.
Lòng nhát sợ như bắt nguồn từ chỗ không còn tình yêu để thấy công phẫn nhưng là
sự cố gắng bám lấy đời sống thiếu những tha thiết với người khác.
Qua khỏi vùng cây, Hồ nom thấy hai chiếc xe nối đuôi nhau trở về. Người tài xế
xe Hồ dừng lại, chặn hai chiếc xe ngược chiều.
"Có chi trên đó không?"
"Đánh lớn bên kia đèo".
"Còn không?"
"Hồi nãy về súng còn nỗ dữ. Đường chân đèo bên này hư rồi".
"Dài ngắn?"
"Từ cầu Ông Luông".
"Chết cha… Khách đâu mà chạy?"
"Không có. Bà con ngồi đây là mấy người khách quay trở về".
Hành khách trong xe nhốn nháo, thi nhau quay sang xe bên kia hỏi. Ông già mang
mắt kiếng nói lớn:
"Cho tôi quay trở lại".
Người tài xế bên kia vọng sang:
"Bà con chớ hãi. Mình là dân mà. Khách của tôi xuống đi bộ gần hết".
Người lơ xe nhìn ông già cười:
"Năm mới quay về xui xẻo thấy cha".
"Không lộn lại, theo mấy người bộ hên sao chớ? Lấy giùm mấy cành mai trên
nóc xe cho tôi sang xe không mất công người ta chờ".
Ông già lật đật xách giỏ bánh nhào ra cửa. Có tiếng người khôi hài:
"Qua tết còn tiếc chi ba cái cành mai đó. Cho tụi tôi mang lên tặng nẫu".
Ông già sang bên kia. Người tài xế càu nhàu cho xe chạy. Người đàn bà khăn hoa
đào bảo Hồ:
"Đã nhát sao còn đi đường này".
"Những người trong xe không chắc đều là người bạo gan. Kẹt thì phải đi vậy".
Người đàn bà cười nhẹ yên lặng. Hồ khó chịu châm một điếu thuốc. Chị ta có vẻ
quen con đường này. Chị coi thường nguy hiểm nhưng không có quyền cười nhạo người
khác nhát sợ. Muốn những người có mặt ở đây coi những họng súng trong lùm cây,
con đường đứt khúc, những trái nổ trước mặt không là gì cả sao? Muốn tất cả coi
những người như những bộ máy bắn giết không là gì cả sao? Trong cuộc chiến
tranh này đã không có lòng phẫn nộ, người dân lẽ nào còn phải bưng bít cả nỗi
hoảng hốt tuyệt vọng của mình. Tôi có thể bò lết như một con chó què chân ở trước
mọi người mà không đỏ mặt. Điều sỉ nhục lúc này đâu có phải vì mình bị đơn giản
vào một con vật hôi thối, bản năng. Con chó chỉ thật là con vật khốn nạn khi
nào nó có óc suy nghĩ để thấy mình không thoát được hình dạng cầm thú. Có một
cuộc vui nào đủ chỗ cho bấy nhiêu người tham dự để được là những kẻ trụy lạc
quên đời. Thành phố xin hãy rọi về đây ít nhiều ánh sáng để chúng tôi từ những
hầm hố, những bờ bụi nhảy ra, cào mặt mình bật máu tạo mê cuồng nhảy múa quên
thôi. Chiếc xe dừng lại trước một dòng sông rộng, tắt máy. Hành
khách lao nhao hỏi nhau. Tiếng kèn "toe tóe" của đứa con người đàn
ông mặc veste nổi lên. Người tài xế tươi cười nói lớn:
"Bà con chớ hãi. Mình là dân, phi cơ nó ở trên mây nó cũng biết. Qua bên
kia đèo, có xe Lam-bét-ta, xe ngựa, bà con khỏi lo".
"Qua đèo cả năm sáu cây số, chết cha nó rồi còn đâu mà đi xe".
"Đây tới chân đèo mấy cây? Chân đèo bên này sang chân đèo bên kia mấy
cây?"
"Đường đèo ba cây số là nhiều. Xuống dốc đi lẹ lắm bà con. Đây tới chân
đèo… bà con coi, nom gần chút xíu".
"Gần gì, núi nào nom không gần".
Tiếng người ồn ào bàn cãi. Người tài xế hết biết nói sao, cười vơ vẩn, ngồi gác
chân lên bánh lái châm thuốc hút. Trước nỗi xôn xao của mọi người, hắn không
còn dịp để biểu lộ nỗi thất vọng của mình. Đường từ đây tới chân đèo lại bị
phá, khách nào còn dám băng từ chân đèo bên kia, đi bộ cả mười cây số tới đây
đi xe... Trước kia chờ dưới chân đèo, máy bay tới còn có chỗ ẩn. Bây giờ, chơ
vơ giữa cánh đồng, chẳng lẽ trương cờ trên mui xe. Làm sao trương một lúc hai cờ.
Có người quả quyết xách đồ đạc xuống. Có người xuống tay không, nhìn về dòng
sông trước mặt. Vợ chồng người đàn ông mặc veste đã lấy đồ để dưới
chân nhưng vẫn ngồi bàn tính. Hồ chờ ông lão uống xong phần rượu còn lại, hỏi:
"Giờ mình xuống chớ bác?"
"Xuống chớ sao không xuống. Bụng mà ấm rồi, qua sông, qua đèo, bất kể".
Ông lão cúi xuống lôi cái giỏ chim nhét cái chai vào. Mấy hộp sữa trong đó dính
đầy phân chim. Hồ cúi mình, xách sắc bước xuống xe. Ở mạn sông, hồi nãy
vắng im. Thấy xe hơi tới, từ trong những vòm cây rậm, có mấy người đẩy ghe ra
chèo lại gần. Người đàn bà chít khăn màu hoa đào xuống trước tiên.
Vợ chồng người đàn ông mặc veste xuống xe sau cùng. Lúc thấy ông ta đặt
con xuống mặt đường nhớp nước, đưa áo veste cho vợ, đỡ cái xe Push từ
trên mui xe, Hồ dự đoán hai vợ chồng hồi nãy có vẻ ngần ngại vì quá nhiều đồ đạc.
Thấy Hồ tò mò nhìn, người vợ lắc đầu than:
"Năm mới gì mà xui xẻo hết chỗ".
Người đàn bà mặt nhọn, da xanh, tay cầm cái áo của chồng một cách vụng về. Thấy
ông già đã chạy lật đật tới bờ sông, Hồ đứng chờ vợ chồng người đàn bà. Vóc người
cao lớn, khuôn mặt sạm đen có đôi má phị nhăn nhúm của người đàn ông làm Hồ chú
ý ngay lúc ở trên xe. Thân xác nặng nề đó như có điều giống Hồ. Lúc nào cũng
loay hoay, lật đật. Hồ lại gần người đàn ông ôn tồn.
"Ông mang đồ hơi nhiều. Tôi có thể xách giùm ông cái va li".
Người đàn ông vừa mặc áo veste, vừa nhìn Hồ dò hỏi. Có lúc ông ta như lạ
lùng, có lúc như muốn cười gượng gạo. Người vợ mau miệng:
"Nhờ ông giúp cho một tay, may mắn cho chúng tôi quá. Xin cám ơn".
Người đàn ông như mở to mắt nhìn vợ. Ông ta cười hai đuôi mắt dúm lại:
"Phiền ông quá… dạ, phiền ông quá…"
Hồ đưa cái sắc của mình cho người đàn bà:
"Bà xách hai cái sắc… chắc cái sắc của bà cũng nhẹ".
"Dạ không nặng lắm".
Hồ cúi xuống nhấc thử cái va ly. Đúng như Hồ dự đoán, chiếc va ly khá nặng. Người
đàn ông dắt xe đi trước, Hồ và người đàn bà vai đeo sắc tay dắt đứa
nhỏ đi sau. Trời mưa lất phất giống như lúc ở bến xe. Người tài xế đứng ở bậc
lên xuông vẫy tay chúc mọi người may mắn.
"Nếu khúc đường này không hư, đỡ cực được một phần".
Người đàn bà nói. Hồ an ủi:
"Có người có ta, cũng không có gì đáng ngại lắm".
Ở bờ sông, nơi chân cầu gãy, người đàn ông dựng xe, lấy chiếc khăn tay buộc đầu
che mưa. Chiếc cầu đứt gọn một khúc giữa.
Thành sắt và xi măng còn nhô trên mặt sông cản nước xoáy. Một người đàn ông ở
trần lực lưỡng, một mắt, chèo ghe đậu sát trước mặt ông ta.
"Thầy qua sông?"
Gã đàn ông một chân trên bờ, một chân trên mạn ghe hỏi. Người đàn ông nhìn chiếc
ghe nhỏ bé, còn đang phân vân thì gã chèo ghe đã nhấc chiếc xe mang xuống. Người
đàn ông giơ tay ra hiệu cản lại, lúng túng:
"Tôi chờ chiếc ghe lớn bên kia sông. Tôi còn vợ, con tôi phía sau".
Gã chèo ghe như không nghe thấy đặt chiếc xe nằm vào mạn ghe chao chát.
"Đứt dây côn của tôi rồi. Chiếc ghe nhỏ xíu này làm sao chở hết bấy nhiêu
người?" Người đàn ông hớt hải la. Gã chèo ghe nhìn lên người đàn ông bằng
con mắt độc nhất:
"Ghe này nhỏ vậy mà chưa khẳm lần nào. Nhiều người thì chở hai lượt có
sao. Thầy sang trước đi rồi tôi lộn lại chở mấy người kia. Vừa nói gã vừa giơ
tay ra dấu cho người đàn ông bám lấy để gã kéo xuống. Người đàn ông lúng túng
quay lại nhìn vợ rồi lật đật nắm lấy tay gã chèo ghe bước xuống. Gã chèo ghe ngồi
phệt xuống ghe, cầm mái chèo quơ nước ra giữa dòng. Người đàn ông tay giữ đầu sợ
cái khăn tuột, tay nắm cái "ghi đông" xe, chốc chốc lại quay nhìn
phía sau. Lúc thấy vợ con và Hồ xuống một chiếc ghe vừa chèo sang, ông ta vẫn
có những lúc nhìn trở lại áy náy. Ngồi sát mặt nước đục lờ lờ, Hồ nhìn lên chiếc
cầu đứt khúc càng thấy vẻ chơ vơ của nó. Người phá hoại mỗi lần hoàn thành công
trình của mình có dựng lại giây phút chiêm ngưỡng công trình đó không. Nếu
không có những ly rượu để trên những bàn cắm bông, bên một giàn nhạc, nếu không
có muôn vàn cánh tay cầm cờ vẫy hai bên đường có khải hoàn môn, nếu không có những
vòng hoa quàng cổ, theo nghi thức chiến tranh, ít ra họ cũng có một cái vỗ vai
của cấp trên, một lời khen lẫn nhau của những người cùng dự cuộc. Không nỗi
ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh, phía sau có lửa, phía trước
có máu của mình.
Sang tới bên này sông, Hồ chuyển đồ đạc cho người đàn bà đứng trên bờ, rồi lấy
tiền trả ông già chèo ghe.
"Nhiêu đó bác".
"Cho nhiêu thì cho. Anh em mà".
"Bác cứ nói rõ giá. Mấy người kia lấy bao nhiêu?"
"Tôi đâu có biết. Tôi sống về nghề đánh cá đâu có sống nghề chở mướn. Ngồi
nhà, thấy bà con kẹt lấy ghe ra chở bà con cho vui, tính chi giá cả".
Người đàn ông đứng trên bờ nói:
"Hồi nãy tôi trả ba chục. Hai chục xe, một chục người. Ông để tôi trả…"
Hồ đưa cho ông già ba chục, ông già lắc đầu nhón lấy tờ giấy mười đồng:
"Đủ rồi".
Hồ nhìn ông già, cám ơn rồi nhảy lên bờ.
Trên con đường từ bờ sông tới chân đèo, không có khúc nào bị đứt nhưng bị xẻ dọc
hai bên. Người đàn ông nhìn con đường, cúi xuống chiếc xe càu nhàu:
"Côn đứt, làm sao mà chạy. Người chi mà dữ tợn hơn ăn cướp".
Ông ta nói vợ mắc hai cái sắc vào tay lai để bế đứa nhỏ kêu mỏi luôn
mồm rồi lững thững dắt xe đi trước. Hồ vừa bước vừa lắng tai nghe những tiếng
súng rời rạc ở phía đèo. Qua được quãng đường đèo mới đi được nửa đường nhưng
coi như đã bớt nguy hiểm. Bên kia, đồng ruộng, xe nhiều trở ngại. Trước mặt Hồ
người ta đi rải rác như một đoàn hành hương trong mưa xuân. Có những người đàn
ông, những đứa nhỏ mười lăm mười sáu, quần sà lỏn, áo đen xuất hiện chở những
người con gái. Đàn bà áo dài sặc sỡ. Người đàn ông nhờ hai chiếc xe đạp chở vợ
con đi trước. Hồ nói:
"Côn đứt, ông cho máy nổ, đẩy cho có trớn, sang số hai có thể chạy được".
"Đường này chạy mau nguy hiểm. Lỡ xe nhào xuống hố… Nghe nẫu nói, mấy cái
hố trên đèo đều có mìn… mìn pin".
"Đường còn rộng thế này, chẳng hề chi. Lên tới đèo, đường hẹp, dắt xe cũng
không muộn".
Người đàn ông yên lặng dắt xe, bước những bước dài. Hai vạt áo veste gió
thổi bạt ra phía sau. Chiếc khăn trên đầu người đàn ông đập lất phất. Hồ định
mướn một chiếc xe đạp chở va ly nhưng ngại người đàn ông sợ mất đồ. Mặt Hồ ướt
nước, càng đi càng thấy hai thái dương bốc nóng. Có lúc Hồ muốn châm một điếu
thuốc lại sợ gợi sự chú ý của những người quần áo đen. Họ như những sinh vật
còn tồn tại được, thích hợp với không khí bom đạn. Họ như số ở những chỗ Hồ
không thể đoán, buồn thảm. Nhìn cảnh vật quanh mình, Hồ thấy khó hình dung lại
cảnh căn nhà, khu phố vợ mình đang sống những ngày đầu năm.
Lúc Hồ và người đàn ông, hai người sau cùng, tới chân đèo, trời đã gần trưa.
Trên mạn dốc, những người đi trước đang đứng dưới một vách đá có những khẩu hiệu
sơn đỏ đả đảo Mỹ nghe một cán bộ tuyên truyền. Hồ nghe có tiếng cười quen thuộc
ở trên cao, trước mặt. Hồ ngạc nhiên thấy người đàn bà khăn hoa đào ngồi trên một
khúc cây ở sườn núi, ăn củ đậu bên mấy người đàn ông cắm cúi kẻ khẩu hiệu.
Hồ thoáng chạm cặp mắt chị ta và bước mau lại vòng người như mất hồn. Những người
quần áo đen và những chiếc xe đạp mất dạng. Đứa con trai người đàn ông tay níu
mẹ, tay cầm kèn mắt mở lớn nhìn người cán bộ làm điệu bộ. Thấy mình bị nhiều cặp
mắt lạ quan sát, Hồ đứng sát lại sau mấy người đàn bà. Cả chuyến xe chỉ có Hồ
là thanh niên, lạc lõng xa lạ. Người cán bộ đang nói về một chiến công đầu năm ở
địa phương. Từ trên đầu dốc, có hai người kéo một chiếc xe ngựa chạy xuống.
Trong xe ngựa có một xác chết thò cẳng ra sau. Không thấy đầu, bụng đầy ruột và
tóc. Ở trên sườn núi có tiếng người xôn xao. Người đàn bà khăn hoa đào cầm củ đậu,
mấy người đàn ông cầm chổi sơn đỏ đứng nhìn xuống. Người cán bộ giở cái mũ nan
đưa mắt nhìn khắp mặt mọi người. Có nhiều bộ mặt ngơ ngác, có vài người bắt chước,
quay ra nom theo chiếc xe ngựa, giở nón. Vợ người đàn ông mặc áo veste vội
dằng cái kèn khỏi miệng đứa con. Nó ngồi bệt xuống, đạp chân khóc lớn. Người
đàn bà lật đật ngồi xuống làm bộ vắt mũi cho con, tay bịt mồm cho nó khỏi la.
Lúc trời nắng gắt, mọi người bắt đầu qua đèo. Người đàn ông nói với Hồ:
"Tôi đi trước với mấy người kia coi tình hình. Nhờ ông coi giúp cháu nhỏ".
Dốc đèo càng lên càng cao. Đường đèo từng khúc ngắn lại mất hút sau vách đá,
phía trước luôn luôn thấy khoảng trống của vực sâu. Người đàn bà luôn luôn đổi
bên đứa nhỏ. Nhiều lúc bà ta hốt hoảng ôm chặt lấy con khi nó cựa cẳng ngả người
chỉ trỏ. Hồ luôn luôn để ý đến những người đi trước mình tuy ít khi nom thấy họ.
Họ mau chân bỏ những người đi sau một đoạn khá xa. Ở bên này đường đèo nhìn qua
bên kia, Hồ thấy người đàn ông dắt xe, ông già xách giỏ chim như đang dò dẫm
trên bờ vực. Càng đi tiếng máy bay, tiếng bom từng chuỗi nghe càng vang vách
đá. Người đàn bà bảo Hồ:
"Nhà tôi không biết có nghe ngóng hay cứ đi liều mạng".
Hồ cười nhếch nhác.
"Ông nhà cẩn thận lắm, không có chi đáng ngại".
Vượt được hơn hai cây số đường đèo đám người đi sau đồng ý ngồi nghỉ một lát.
Người đàn bà ngồi dựa lựng vào vách đá thở dốc hai tay vòng lấy bụng con. Hồ lấy
khăn lau mặt, lấy chiếc bánh Hòa cho bóc đưa mỗi người một miếng. Những bụi
tranh sắc như lá mía ở hai bên đường gió thổi rạt từng hồi.
Người đàn bà ăn không hết miếng bánh đã kêu no đứng dậy đi xin nước uống. Hồ nằm
dựa vào vách châm một điếu thuốc. Đoàn người đi trước có người trở lại nói phía
trước đang bỏ bom không đi thêm được. Sau một hồi bàn tán mọi người quyết định
vừa đi vừa dò đường. Hồ nhổm dậy xách va ly uể oải bước sau cùng. Nếu Hồ cứ ở lại
ăn tết với bà má. Hồ không muốn hình dung lại cảnh mọi người đứng ngoài sân lúc
giao thừa, cảnh những đường phố thị xã như một giấc mơ ngủ muộn. Sống ở đó để mỏi
mệt vì những ý nghĩ thì thà cứ đi như thế này. Hồ về không phải vì tình yêu vợ
nhưng do những ước muốn đã giúp Hồ sống được những ngày ở xa. Ước muốn đó có
khi sẽ không là gì khi đã được bàn tay người ngưỡng vọng đặt lên. Nhưng nó đã
khiến Hồ quay về mà không như người chạy trốn tuyệt vọng. Hồ mong lần này về sẽ
có với vợ một đứa con.
Đám người đi trước đã ở quá gần chỗ dội bom. Những tiếng nổ rung chuyển chạy
dài. Có vài chiếc máy bay lao qua lao lại trên không. Ông già xách lồng chim chạy
ra đón đám người mới tới xin nước uống.
"Đường đèo hiện có dội bom không bác?" Hồ hỏi.
Ông già lắc đầu:
"Chắc không. Êm êm một chút qua cây số nữa xuống tới chân đèo là nom thấy
đường về. Về nhà còn kịp ăn tết mà".
"Không dội bom mình đi đại có sao".
"Đâu có được. Bom bỏ trên núi, qua chân núi không sợ chết sao".
Một giờ qua nhiều người đã sốt ruột sửa soạn hành lý để băng nốt quãng đèo. Có
một số người lại tình nguyện đi trước dò đường. Hồ nói với người đàn ông.
"Ông ở lại đi sau với bà nhà. Tôi đi trước một chuyến coi sao".
Người đàn ông cười gượng lắc đầu.
"Tôi có xe rủi có điều chi mau hơn".
Dứt lời người đàn ông dắt xe bước mau theo mấy người đang đi rải trước mặt. Bọn
người đó đi khuất sau những góc núi được một lát, một người chợt nghe có tiếng súng
liên hồi thật gần. Ba bốn chiếc máy bay ầm ầm từ đâu tới lao bổ xuống. Hồ vội
kéo người đàn bà nằm sấp xuống chân núi. Có tiếng hoảng sợ vừa vứt chiếc va ly
rớt xuống vực. Tiếng kêu hoảng hốt là tiếng một bà già lúc thấy chị ta bổ ra bờ
đường ngó xuống dưới sâu. Mấy chiếc máy bay vừa vụt đi, mọi người kéo nhau ùng
ùng chạy về phía trước. Phía trước cũng vậy thôi nhưng không lẽ nằm yên ở chỗ bị
đe dọa. Đi được một quãng quay lại Hồ vẫn thấy người đàn bà đánh rớt va ly tần
ngần bên lề đường ngó đăm đăm khoảng không.
Người đàn ông đã quay trở lại với mấy người khác.
"Mấy người kia chạy nhào đi trước rồi. Tôi nằm tránh đạn, mấy người đó vẫn
chạy, lúc nhổm dậy, không thấy họ đâu, chắc họ đã thoát".
Đoàn người do dự một lát rồi lại tiếp tục đi. Họ như đã quen với mọi đe dọa.
Lúc qua chỗ máy bay đang dội bom người ta chạy ùa theo sườn núi. Hồ ngạc nhiên
dừng lại nhìn quanh quất ngơ ngác. Bên vệ đường cái giỏ của ông già ngồi cạnh Hồ
trên xe bỏ lăn lóc. Mấy con bồ câu đập cánh nhảy trên những hộp sữa tìm lối ra.
Một nỗi hoảng sợ đến kinh dị chiếm lấy Hồ, Hồ cắm đầu chạy nhào đuổi theo đoàn
người trước mặt. Lúc đã tới chân dốc, Hồ mới nhận ra vẻ hớt hải của mình. Hồ vừa
thở vừa rảo bước xuống dưới ruộng có những chiếc xe đậu với hy vọng nom thấy mặt
ông già. Từ chân dốc đó cách hơn một cây số người ta bắt đầu đi thong thả, ồn
ào nói chuyện. Phía sau tiếng nổ vẫn nghe thật gần, vẫn vang vách núi. Những
người lái xe Lam-bét-ta đón khách đang ngồi trên mui xe coi máy bay. Hồ ngồi bệt
xuống sau một chiếc xe lấy thuốc lá ra hút. Cánh đồng nom thật rộng, nhiều nắng.
Người đàn ông đi bên vợ con dắt xe thong thả đi tới. Đứa bé chạy trên đường mồm
thổi kèn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét