Hoa vẫn nở và chim vẫn hót
Đoàn quyết định mang con chòe than đến cho Vũ. Con than này
Đoàn được một người quen ở quê cho, nhưng nuôi một thời gian, nó chả lớn gì cả,
lại dát, thấy người là cứ rúm lại ở góc lồng, anh chán, xách lồng đến nhà Vũ.
Vũ ở một mình trong căn hộ nhỏ, có khoảnh sân hẹp. Vũ đặt ở
khoảnh sân chừng chục chậu cây cảnh. Cũng chả tươi tốt gì. Toàn người ta mang đến
cho, sẵn khoảnh sân thì xếp vào chứ Vũ cũng không phải là người có thú chơi
bonsai. Đoàn cũng góp vào góc sân ấy một bụi tầm xuân. Chậu tầm xuân cũng như
con than này, Đoàn được tặng, nhưng để trên ban công tầng hai mãi chả thấy lớn,
hoa ra một lần duy nhất rồi tàn, anh chán, cũng bê cả chậu đến nhà Vũ.
Đoàn chơi với Vũ từ hồi sinh viên, dù học khác khoa. Ra trường,
Đoàn làm việc ở ngành ngân hàng, còn Vũ là biên tập viên ở một nhà xuất bản.
Đoàn là dân kinh tế nên quan tâm đến những con số, còn Vũ làm sách nên quan tâm
đến các vấn đề văn học nghệ thuật.
Mấy hôm nay Đoàn đến ở nhà Vũ. Vũ tháp tùng sếp đi dự hội chợ
sách ở nước ngoài, nhờ Đoàn ghé qua trông nhà và cho chim ăn. Con chòe than của
Đoàn vào tay Vũ một thời gian trông khả dĩ hơn nhưng vẫn dát, chưa chịu hót một
lần nào. Chích chòe là loại chim khó gần gũi với người, vì thế Vũ phải lấy áo
che khoảng hai phần ba lồng. Vũ bảo: “Nuôi con chim của ông vất vả quá. Tôi phải
mua bột làm sẵn đóng gói hiệu A-vầy cho nó ăn cùng với sâu tươi và cào cào, đến
khi thay lông thì lại cho ăn bột phượng hoàng với trứng kiến. Con chòe than này
tham ăn lắm, hy vọng một thời gian nữa nó sẽ quen dần, bớt dát, mau thuần. Tôi
đi nửa tháng ông đừng để nó đói đấy nhé”.
Đoàn chỉ định ghé qua nhà Vũ một lát, tưới cây và cho chim ăn
xong rồi về ngay. Nhưng vào ngày nghỉ cuối tuần, lại đang bực mình với ông bà
bô về chuyện mấy đám “mối lái” bất thành nên ngủ luôn lại, không về nữa. Sáng
hôm sau, Đoàn thức dậy bởi tiếng gõ cửa gấp gáp. Một phụ nữ trạc ngoài bốn chục
tuổi thò đầu vào.
“Ô, chú Vũ đâu rồi?”.
Đoàn đang ngái ngủ, nhìn người phụ nữ lạ với ánh mắt không mấy
thiện cảm. Chị ta trông nhàu nhĩ, răng vổ trầy vổ trật, ngón tay ngón chân dài
ngoằng, gầy guộc. “Nó đi công tác rồi”, Đoàn đáp. “Thế hử. Tôi mua xôi sáng cho
chú ấy đây. Mọi khi chú ấy vẫn nhờ tôi mà. Thôi, chú ấy không có nhà thì chú ăn
vậy”. Đoàn cầm nắm xôi bọc trong túi ni-lông rồi nhanh chóng khép cửa lại.
Định lên giường ngủ tiếp nhưng đầu óc đã tỉnh hẳn, Đoàn đành
gấp chăn chiếu lại, ra nhà sau làm vệ sinh. Đồng hồ chỉ hơn tám giờ, Đoàn dắt
xe khỏi nhà, định ra phố làm bát phở, nhấm nháp ly cà phê rồi ghé qua nhà tí
cho ông bà bô thấy mặt. Vừa mở cửa ra, Đoàn lại gặp người phụ nữ lúc nãy. Chị
ta đang dắt một bà lão khoảng hơn bảy chục tuổi đi ngang qua cửa nhà Vũ. Bà lão
mặt mũi nhăn nhúm, tóc bạc trắng, đi lại rất vất vả. Toàn thân bà lão rung
rung, hai chân run run dò dẫm bước, hai bàn chân nhích đi từng tí một. Chị phụ
nữ nhìn Đoàn cười rất tươi, bảo: “Chú lại đi hở? Trưa nay có ăn cơm không, tôi
nấu cho?”. Đoàn lắc đầu: “Cám ơn chị, tôi đi không biết khi nào về”. Nói xong
Đoàn lên xe, rú ga, vọt khỏi con ngõ nhỏ.
Mãi chiều Đoàn mới quay lại nhà Vũ. Đã muốn làm lành nhưng
ông bà bô chỉ càng làm Đoàn bực mình thêm. Thế thì đi luôn mấy ngày liền cho
hai cụ khốt biết mặt. Đoàn lấy thêm vài cái quần áo cho vào cốp xe, khoác cặp đựng
laptop vào người rồi phóng đến nhà Vũ. Đoàn dừng xe ở quán nước đầu ngõ. Vào
làm chén trà chát, hút điếu thuốc đã.
Quán vắng khách. Bà chủ quán đã quen mặt Đoàn, hỏi: “Chú Vũ lại
đi công tác hả?”. Đoàn gật đầu. “Tôi bảo thật nhá, hai chú rủ nhau lấy vợ đi,
ngoài ba mươi cả rồi, sau này cha già con cọc là khổ lắm”. Đoàn ngó lơ chỗ
khác. Rõ chán. Đã không muốn nói chuyện này, bỏ nhà đến đây cho đỡ nhức đầu lại
gặp ngay phải bà già lắm chuyện.
Ánh mắt của Đoàn lại bắt gặp người phụ nữ lúc sáng. Chị ta
đang dìu bà lão tóc bạc lê từng bước vào trong ngõ. Đoàn nhìn theo cho đến khi
hai người bước vào trong nhà. Hóa ra họ ở ngay cạnh nhà Vũ. Thấy Đoàn cứ nhìn
theo hai người phụ nữ hàng xóm, bà hàng nước bảo: “Khổ, bị xuất huyết não đấy,
mười năm nay rồi, tưởng chết mà chả chết cho. Bây giờ lẫn lắm, cứ mơ mơ màng
màng toàn những chuyện không đâu”. Đoàn hỏi: “Cái chị đi cùng là con gái bà ấy
à?”. “Không phải, đó là con ô-sin đấy. Bà cụ có mấy đứa con khá giả lắm, sống ở
trên phố cả. Chúng nó thuê con ô-sin này cũng gần chục năm rồi. Hơi dở người một
tí nhưng tốt tính lắm”.
Ra thế. Không ngờ Vũ có một bà hàng xóm xuất huyết não sống dựa
vào cô ô-sin dở hơi. “Cô ấy không chồng con gì à?”. Đoàn hỏi. “Nó quê mãi miền
trong, cũng có chồng, nhưng chồng bỏ đi lấy vợ hai rồi. Nó có một đứa con gái,
mười ba mười bốn tuổi gì đấy, bị câm, ở với bà ngoại. Nó làm thế này được nuôi
ăn rồi mà lương vẫn một triệu một tháng đấy chú ạ. Tiền ấy nó gửi về cho bà cụ
nuôi con. Xấu xí thế mà mấy ông xích lô đầu phố kia thích lắm. Có người theo đuổi
mấy năm rồi mà nó vẫn không đồng ý đấy”. Chà! Lại thế nữa. Sao mà lắm người khổ
thế? So với những người như chị ô-sin này thì sự ủ dột của Vũ chả phải là vô
nghĩa quá ư?
Đêm hôm đó, Đoàn đang ngồi xem trận bóng tranh cúp C1 châu u
thì lại có tiếng đập cửa. Chị ô-sin nhà bên hớt ha hớt hải: “Chú ơi, chú sang
xem hộ tôi với, bà bị làm sao ấy”. Đoàn hỏi: “Chị gọi cho các con của bà cụ
chưa?”. “Rồi, dưng mà cả mấy gia đình các cô chú ấy đang đi nghỉ mát. Ôi, tôi
run quá, bà cấp cứu nhiều lần rồi, dưng mà lần này tôi thấy bà lạ lắm”. Đoàn
khoác thêm cái áo rồi chạy vội sang nhà hàng xóm. Bà cụ đang co giật trên giường.
Đoàn bảo với chị ô-sin: “Tôi gọi xe cấp cứu đưa bà cụ vào bệnh viện nhé?”. Chị
ô-sin luống cuống: “Mọi khi tôi chỉ báo với anh con trai bà, sau đó anh ấy gọi
cho bác sĩ, nhưng hôm nay anh ấy đi xa, tôi chả biết đâu mà lần”. Đoàn chưa biết
tính thế nào thì chị ô-sin bỗng hô lên: “Ô, bà tỉnh rồi…”. Đoàn cùng chị ô-sin
chạy bổ lại giường. Đúng là bà cụ đã ngừng co giật, ánh mắt mở ra he hé nhìn
Đoàn. “Tôi lại sống rồi à?”, giọng bà cụ thoát ra như từ cõi hư vô vọng về. “Bà
làm con sợ quá. Bà có làm sao không, con gọi xe cấp cứu đưa bà vào viện nhé?” -
chị ô-sin nói như súng liên thanh. “Ông ấy nhà tôi đâu rồi?”. “Ông đang đi làm
chưa về. Bà cứ nằm nghỉ đi, lát nữa ông về con sẽ gọi bà”.
Đoàn nghe đối đáp giữa hai người mà không hiểu họ đang nói
gì? “Bây giờ chị định thế nào?”, Đoàn hỏi chị ô-sin, nóng lòng muốn về xem nốt
trận bóng đang gay cấn. “Cảm ơn chú. Thế này là bà ổn rồi, không sao đâu, tôi
chăm bà lâu tôi biết. Chú về nhé”.
Đoàn nhìn hai người phụ nữ với ánh mắt ái ngại rồi quay lưng
ra cửa, không quên nói một câu lấy lệ: “Có gì chị cứ gọi tôi nhé”. Xem hết trận
bóng, Đoàn định đi ngủ thì mấy người bạn cùng chơi chứng khoán gọi đi nhậu.
Đoàn lập tức dắt xe ra khỏi nhà. Đến gần hai giờ sáng mới về, đánh một giấc tới
gần trưa.
Loanh quanh một hồi Đoàn chợt nhớ ra công việc của mình, vội
lấy túi thức ăn mua sẵn mang ra chỗ lồng chim. Con than có vẻ đói, sau một hồi
dè dặt thì sà đến bên cóng đựng cám mổ lấy mổ để. Nhìn con than say mồi Đoàn
cũng thấy vui vui. Nuôi chim cũng có cái thú của nó, chỉ có điều Đoàn không phải
là người kiên nhẫn. Còn đám cây cằn cỗi ở góc sân kia nữa. Đất trong các chậu
khô nứt hết cả rồi. Đoàn lấy xô nước vãi một loạt lên mấy chậu cảnh. Thế là
xong. Vũ chắc cũng lười thế thôi. Đàn ông ở một mình, cái thân còn lo chả xong
nói gì đến những của nợ như chim muông với hoa lá vớ vẩn này.
Đang định mặc đồ vào rồi ra quán cơm bụi kiếm cái gì ăn thì
chị ô-sin nhà hàng xóm le te bê một cái khay sang. “Tôi chờ mãi mới thấy chú mở
cửa. Sáng nay tôi dậy sớm, ra chợ mua con gà nấu cháo cho bà, để dành cho chú một
cặp lồng. Chú xơi đi”.
Đoàn ái ngại nhìn vào cái khay i-nox. Một cặp lồng bọc sứ in
hoa văn mảnh và nét, một đĩa nhỏ đựng muối tiêu - ớt - chanh, một đĩa vừa đựng
hành sống cắt đều và mấy cọng rau thơm, một chiếc bát, một đôi đũa và một chiếc
thìa. Sự sạch sẽ của những thứ đặt trong chiếc khay đánh bạt đi cảm giác rờn rợn
trong Đoàn. Lần trước, Đoàn đã không dám ăn gói xôi của chị hàng xóm. Lần này
thì Đoàn sẽ xử sự khác. Đoàn đưa tay bê khay đồ ăn, miệng cảm ơn người hàng xóm
tốt bụng.
Vào trong nhà, Đoàn mở cặp lồng ra. Cháo nóng hổi, đặc sánh,
tỏa mùi thơm ngầy ngậy. Một cái đùi gà đặt ngay giữa cặp lồng. Đoàn cầm thìa
lên múc cháo đưa vào miệng. Vị nêm rất vừa. Hôm qua uống nhiều rượu, giờ mới thấy
khô miệng, háo ruột, cháo quả là thứ dễ nuốt hơn hết.
Nhoằng một cái, Đoàn đã xơi hết cái đùi gà và cặp lồng cháo.
Rồi Đoàn ớ người ra nghĩ ngợi. Sao người hàng xóm lại dành cho mình phần hậu
hĩnh thế? Cả một cái đùi gà to tổ bố. Còn bà cụ ăn gì? Còn ông cụ thì sao? Mà
nhà bên ấy có mấy người? Thế này thì phải mua trả cho người ta một con gà mới
được.
Đoàn định bê khay ra sau nhà rửa thì chị ô-sin lại đẩy cửa bước
vào. “Chú ăn có vừa mồm không? Để tôi rửa cho. Tôi làm quen rồi, nhoáy một cái
là xong”.
Chị ô-sin giằng lấy chiếc khay trong tay Đoàn, le te đi ra
nhà sau. Có vẻ chị vẫn thường xuyên sang đây đỡ đần Vũ nên mọi thứ trong nhà chị
đều thuộc. Đoàn lân la hỏi chuyện:
- Bà cụ đỡ chưa chị?
- Đỡ rồi. Sáng tôi đã đưa bà đi một vòng quanh xóm tập thể dục
rồi đấy.
- Thế ông cụ có khỏe không ạ?
- Ông cụ nào? À, ông bên nhà chết rồi. Chết lâu rồi.
Đoàn nhíu mày:
- Tối hôm qua tôi thấy chị và bà cụ nói về ông cụ mà.
Chị ô-sin đã rửa xong khay bát đũa, đặt lên thành bếp, quay
ra nói:
- Bà bị lẫn chú ạ. Tôi nghe kể, ngày xưa khi còn sống, ông vẫn
bảo bà là ông chỉ hợp với bà thôi, cho nên bà không được chết trước, bà mà chết
trước thì không ai chăm cho ông cả. Thế rồi bà bị xuất huyết não. Đã tưởng đi rồi,
hôn mê mấy ngày không tỉnh. Thế mà bà sống lại. Bà bảo bà mơ một giấc mơ lạ lắm.
Vì thế nên bà không chết được.
- Mơ gì?
- Cái này tôi nghe chính miệng bà kể. Bà bảo bà đứng trước một
cái hang. Trong hang có mùi trầm, có ánh sáng như đom đóm, lại có mấy bà bạn cũ
từ thuở nhỏ đứng đợi. Lại có nhạc vui tai lắm. Bà định bước vào hang thì ông chạy
đến giữ tay bà lại. Bà cứ đòi đi. Ông nói vào tai bà: “Vào đấy là chết đấy,
không ra được đâu. Bà đi thế này rồi ai chăm tôi?”. Lúc ấy mấy bà bạn kia chạy
lại, nhất quyết lôi bà vào hang. Bà lấy hết sức chống lại. Chính nhờ thế mà bà
mở mắt ra và sống lại đấy.
- Lâu chưa? - Đoàn hỏi.
- Lâu rồi. Ngày ấy ông còn sống. Bà ở lại là vì ông. Nhưng rồi
được vài năm thì ông lại bỏ bà mà đi. Sau ngày ông đi, tôi mới về làm cho bà.
Nhiều lần bà nguy kịch. Giấc mơ về chiếc hang đá kia lại xuất hiện. Và bà lại
quyết sống vì nghĩ ông vẫn còn nên chưa được phép chết. Mỗi khi tỉnh lại, bao
giờ bà cũng hỏi: Tôi lại sống rồi à?
Đoàn thấy gai gai ở sống lưng. Ánh mắt he hé của bà cụ
đêm qua nhìn Đoàn như đang lẩn khuất đâu đây. Sức sống của con người kể cũng lạ.
Nếu một ngày kia, bà cụ tỉnh lại, biết là chồng mình đã chết, chắc bà sẽ thanh
thản nhắm mắt xuôi tay? Còn bây giờ bà sống bằng sự nhầm lẫn. Sống như thế phỏng
có ích gì? Mấy đứa con bà chắc cũng mệt mỏi về một người mẹ bệnh tật, già nua,
lú lẫn, liệu có thực sự cần sự có mặt của bà trên cõi đời này? Cả chị ô-sin
đáng thương kia nữa. Chăm sóc một người như bà, với đồng lương ấy, liệu chị ta
có buồn chán trong sự chịu đựng nghiệt ngã suốt bao năm qua?
Đoàn bỗng nghĩ đến anh bạn cô đơn của mình. Liệu cuộc sống của
hai người hàng xóm này có tác động đến quan niệm sống của Vũ không mà sao giọng
điệu của cậu ta lúc nào cũng u ám? Đoàn lựa lời hỏi thăm chị ô-sin:
- Con gái chị có bao giờ ra đây chơi với mẹ không?
- Có chứ, chú. Cháu ngoan lắm, biết làm nhiều việc lắm, bà cụ
quý con bé lắm. Mọi người bảo tôi gửi cháu vào trường trẻ em câm điếc gì đấy,
dưng mà mỗi tháng phải đóng những hơn triệu cơ. Tôi chả kiếm đâu ra tiền. Lại
cho cháu về quê ở với bà thôi.
Đoàn chợt nhớ ra ngân hàng nơi Đoàn làm việc có tài trợ cho một
trường trẻ em câm điếc. Đoàn có quen với hiệu trưởng và biết rằng có những trường
hợp được nhận vào đây mà không phải đóng khoản tiền nào. Đoàn chỉ cần nói một
tiếng là nhà trường sẵn sàng nhận…
- Thôi, tôi về đây chú ạ. Đi lâu bà cần lại không có người.
Chị ô-sin bê khay bát đũa đã rửa sạch đi ra cửa. Đoàn nói với
theo: “Chị nấu ăn ngon lắm. Cảm ơn chị rất nhiều!”. Chị ô-sin quay lại, cười rất
tươi: “Ôi, thế mà chú Vũ cứ chê tôi nấu dở đấy”.
Ngay chiều hôm đó, bà bô không chịu được nữa, gọi điện bắt
Đoàn về. “Có nhà có cửa, lại không chịu ở là sao? Có muốn tao tự tử chết cho
xong không, hả? Thây kệ mày. Tao chả xắn tay áo lên lo cho cái thân mày nữa. Muốn
lấy ai thì lấy, không lấy thì cứ ở vậy mà chết già”. Bà xả ra một tràng thế rồi
rấm rứt khóc. Đoàn đành phải thu dọn chút đồ đạc ít ỏi rồi rời khỏi nhà Vũ. Trước
khi đi, Đoàn không quên để sẵn cám A-vầy và xô nước ngoài sân rồi qua gửi chị
ô-sin chìa khóa cổng, nhờ chị thay Đoàn cho chim ăn và tưới cây.
Mấy ngày sau, Đoàn đảo qua, thấy cóng vẫn đầy cám, đất trong
các chậu cảnh vẫn đẫm nước thì yên tâm, không vào nhà nữa.
Trước ngày Vũ về, Đoàn lại đến kiểm tra. Lần này thì không đứng
ngoài ngó qua cổng mà mở cửa vào nhà. Đoàn thực sự kinh ngạc khi thấy mấy chậu
hoa ở góc sân đồng loạt hé nụ. Riêng bụi tầm xuân của Đoàn nở đến cả chục bông.
Và kỳ lạ hơn nữa là con chòe than bỗng cất tiếng hót.
Nhìn bộ lông căng lửa của nó Đoàn không thể tưởng tượng được
nó là con chòe than xấu xí do chính tay mình mang đến đây hơn một tháng trước.
Đoàn đang ngẩn người ra nghe tiếng hót thanh tao của nó thì có chuông điện thoại.
Vũ gọi về. Vũ hỏi tình hình ở nhà thế nào? Đoàn muốn nói rất nhiều nhưng chả biết
bắt đầu từ đâu. Chả lẽ lại kể dông dài những chuyện vặt vãnh xảy ra trong mấy
ngày vừa rồi? Cuối cùng Đoàn bảo:
- Ông yên tâm đi. Mọi thứ đều ổn. Hoa vẫn nở và chim vẫn hót…
Kết thúc cuộc điện thoại, Đoàn nhìn ra cửa và lại thấy chị
ô-sin đang dìu bà cụ đi dạo quanh ngõ. Thôi chết! Đoàn quên khuấy là cần phải
nói chuyện với hiệu trưởng trường trẻ em câm điếc. Đoàn vội rút điện thoại di động
ra tìm số và gọi.
Trong khi chờ phía đầu kia bắt máy, Đoàn nghe tiếng con chòe
than hót say sưa, và thoảng trong không gian, có thứ hương gì đó rất lạ bay ra
từ đám cây ở góc sân nhà Vũ.
6/3/2021Nguyễn Đình Tú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét