Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023
Mười ngày ở Huế
Phần I
Ngày 12 là ngày Hoàng Thượng ngự giá ra Trai cung. Từ sáng sớm
trong thành phố đã tấp nập những người đi xem, giời nắng ráo sáng sủa
trông thực là vui vẻ. Tám giờ sáng ở cửa Ngọ môn nổi chín tiếng súng. Ngự giá từ
cửa Đông nam trong thành ra, tiền hô hậu ủng, nghi vệ rất nghiêm mà rất thịnh.
Thực là một cảnh tượng mắt tôi chưa từng được trông bao giờ. Đám nhiều đến
hơn nghìn người, dài đến ngót một cây lô mét. Cờ quạt, tán lọng, gươm giáo, voi
ngựa, đồ nghi trượng, đồ lộ bộ, trống chuông, các phường nhạc, cho đến những
đồ ngự dụng, ngự liễn, ngọc kỷ, xe ngựa, xe tay, không thiếu tí gì. Hoàng
Thượng thì ngồi trong loan giá, mặc áo vàng, chít khăn vàng; các hoàng thân
vương công cùng các quan văn võ mặc triều phục đi theo sau. Đương khi đi chỉ
đánh trống, còn quân nhạc, đại nhạc, nhã nhạc, có đem mà không cử. Gần cuối đám
lại có mang một cái tượng bằng đồng gọi là đồng
nhân. Tượng hình người, hai tay cầm cái biển khắc hai chữ
Trai giới. Hỏi ra thì là do một tích cũ bên Tàu ngày xưa, có người trông thấy ở
dưới bể hiện lên một pho tượng đồng, sắc xanh xanh, sáng như ngọc, trong bụng
đựng toàn nước trong. Từ đấy dùng tượng đồng để biểu sự thanh tịnh trai giới. Tượng
mang đi đây là để đặt trong Trai cung trước mặt Hoàng Thượng để ngài nhìn mà
tâm niệm về sự trai giới trước khi hành lễ. Ngự giá tự cửa Đông nam ra, đi qua
cầu Thành Thái, phố Tràng Tiền, cầu Phủ Cam, rồi đi thẳng vào đường Nam
Giao. Nhất khi chẩy qua cầu Thành Thái, đứng bên bờ sông trông rất là ngoạn mục;
cờ tán phấp phới, trống đánh rập rình, như con rồng dài lượn trên mặt nước vậy.
Cạnh các hương án đặt hai bên đường, những kỷ lão đã quì sẵn, đợi khi ngự giá
đi qua thì cúi lạy. Người dân đứng xem bên bờ đường cũng bỏ nón ngồi thụp xuống. Khi giá đến Trai cung, thì những hoàng thân
vương công, cùng quan văn tự ngũ phẩm, quan võ tự tứ phẩm giở lên đều
mặc triều phục quì đón ở trước sân Trai cung. Còn quan văn tự lục phẩm,
quan võ tự ngũ phẩm giở xuống thì quì đón ở ngoài cửa bắc Giao Đàn. Phụng Hoàng
Thượng vào Trai cung nghỉ ngơi rồi, bách quan mới lui về. Trưa hôm ấy tôi nhận
được giấy tòa Khâm sứ cho phép vào Giao Đàn xem diễn nghi từ 4 giờ đến 6 giờ
chiều. Khi ấy thì được lên tận viên đàn xem, chớ
đến khi tế có Hoàng Thượng ngự thì nghiêm cấm không ai được vào.
Nên buổi chiều hôm ấy các quan tây các bà đầm đến xem đông lắm. Diễn nghi tức
là tế thử, vì lễ thức phiền phức, phải tập trước cho đến khi hành lễ các quan
cùng viên chức dự tế khỏi nhầm nhật. Nghi tiết cũng y như khi tế thực, chỉ khác
không thắp hương lửa, không đọc chúc văn mà thôi; các quan bồi tự cũng bấy
nhiêu ông, chỉ trừ chủ tế là một ngài Khâm mạnh thay
Hoàng Thượng. Vậy hình thức thì đủ cả, duy kém có cái vẻ chân hoạt, nên xin để dưới này sẽ thuật.
Đêm hôm ấy trên Giao Đàn đèn thắp như sao sa. Bấy giờ mặt giăng đã lặn, trông lại
càng sáng lắm. Nhưng trong cái vẻ rực rỡ ấy có cái ý nghiêm túc ở đấy. Tưởng
như lúc ấy đứng trên ngọn núi cao nào mà nhìn xuống, thì ngờ là một cõi Thiên
quốc ở chốn nhân gian vậy. Ngoài đàn thì kẻ đi người lại tấp nập, trong đàn thì lặng lẽ như không.
Hai giờ sáng tôi tới Giao Đàn. Vẫn biết rằng
hôm nay nghiêm cấm không mấy người được vào, vả tòa sứ cho giấy
vào xem diễn nghi hôm trước, tức là có ý để hôm sau khỏi đến nữa. Song đã mang
cái tư cách nhà báo, không có nhẽ đến hồi trọng yếu nhất
trong bài kịch mà mình lại vắng mặt ở nơi diễn đàn. Nhưng làm thế nào cho các
thầy lính canh cửa (vừa lính ta vừa lính tây) hiểu được cái nghĩa vụ của nhà báo
như thế? Khó lắm thay! Vậy tôi cứ đường đột vào. Đến chặng canh thứ nhất mấy thầy
lính ta hỏi: “Ông đi đâu? ” Tôi nói: “Tôi vào có việc, đã có giấy quan Khâm
đây”. Tôi đưa cho xem cái giấy phép chiều hôm trước, chắc rằng các thầy chẳng
hiểu chữ chi chi. Quả nhiên soi vào đèn thấy chữ tây cả, giả lại tôi, rồi cứ để
cho vào. Cách mấy thước lại gặp thầy lính tây bồng súng đứng đấy. Thấy tôi vào
nói: “Không được vào!”. Tôi nói: “Đã có phép đây”. Tôi lại chìa cái giấy kia
ra. Chỗ ấy bóng cây tối, thầy nhìn mãi không đọc ra chữ gì, sau nhận sắc giấy
nói: “Phải có giấy đỏ mới được vào, giấy trắng không được”. Tôi nghĩ ngay
một kế nói liền: “Tôi đi theo quan Toàn quyền ngài sắp tới, đây là giấy phép
riêng, phải để tôi vào mới được”. Thầy ngần ngại một lúc, rồi trao lại tôi
cái giấy, cứ để cho vào. Thế là thoát nạn! Vào đến đệ nhị thành gặp cụ Thượng
Công, bữa trước tôi đã vào hầu ở bộ. Cụ giữ nói chuyện một hồi lâu, rồi cho
phép đứng ngay đấy xem. Bấy giờ nhìn trước nhìn sau, trừ những người có phần việc
ở Giao Đàn, không thấy ai là người ngoài được vào xem cả, mới biết rằng buổi đó
thực là một sự hạnh ngộ cho mình vậy. Đến sau bên mình đứng chỉ thấy thêm có
vài ba ông tây nữa, còn bên kia thì có quan Toàn quyền, quan Nguyên súy, quan
Khâm sứ với mấy quí quan đi theo. Các ngài thì được lên tận viên đàn xem,
còn mình thì cứ đứng ở đệ nhị đàn đó cũng đủ thu được cái chân tướng
đêm hôm ấy. Lúc bấy giờ trong Giao Đàn có cái vẻ nghiêm tĩnh vô cùng, như trước
khi sắp sẩy ra một sự gì rất quan trọng, ai nấy đều ngóng trông. Không có tiếng
người nói, không có tiếng dế kêu. Chỉ chốc chốc nghe tiếng lung linh như những miếng đồng nhỏ đập vào
nhau: ngoảnh lại thì là một ông quan mặc triều phục, đeo ngọc bội làm bằng những miếng
đồng buộc với nhau (vua thì bằng ngọc thật), lúc đi dập vào chân mà thành tiếng.
Người ấy, cảnh ấy, thời khắc ấy, khí vị ấy, lại thêm bốn bề đuốc đốt rực giời,
ngoài xa rừng thông mù mịt, bút nào mà tả cho được cái ảnh tượng mơ màng
như trong thơ trong mộng đời cổ xưa vậy?
Vào trong là Cần chánh điện hiện đương chữa,hai bên là
Văn Minh Điện và Võ Hiển Điện. Những khi thường triều thì hay đặt ở điện Văn
Minh. Vào trong nữa là Kiền thành điện, nhưng đến đấy thì thôi, trong là Tử Cấm
Thành, người ngoài không được phép vào.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch
Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét