Bình Định vương Lê Lợi:
Thời kỳ khởi nghĩa 1418 - 1427 (2)
Tháng
giêng năm Bình Định vương thứ 9 [8/2-8/3/1426] (Minh, Tuyên Đức năm thứ
nhất), nhà Minh ra lệnh mở khoa thi Hương; nhưng vì tình hình an ninh,
nên Tam ty Giao Chỉ xin tạm ngừng; lại xin miễn cho các quan về kinh đô
chầu hầu:
“ Mùa xuân,
tháng giêng, Lễ bộ nhà Minh hạ lệnh mở khoa thi hương để chọn học trò. Tổng
binh và hai ty Bố chính và Án sát xin tạm ngừng. Lại xin miễn lễ chầu hầu sang
năm vì địa phương chưa yên.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10, trang 18b.
Vua Tuyên Tông sau khi lên ngôi,
tìm hiểu kỹ nguyên nhân thất bại trong việc đương đầu với cuộc khởi
nghĩa của Bình định vương Lê Lợi, từ buồi khởi đầu tại Thanh Hoá,
cho đến Nghệ An; đành ngậm ngùi trách móc nặng nề bọn Trần Trí,
Phương Chính, Sơn Thọ:
“Ngày 5 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/4/1426]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Vinh
xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính đánh dẹp bọn giặc Lê Lợi; tiến quân đến
châu Trà Long, bị thua. Nguyên nhân Chính dõng, Trí khiếp nhược, vốn không hòa
thuận với nhau; Nội quan Sơn Thọ lại chủ trương chiêu dụ nên đóng binh một
chỗ không cứu, đến nỗi bị bại. Thượng thư Trần Hiệp tâu cho biết, Thiên tử
nghiêm thiết trách Trí và Chính rằng:
“ Giặc Lê Lợi vốn chỉ là tên
nhãi con, nếu sớm tận tâm đánh bắt, thì dễ như nhặt một cọng lá; rồi các ngươi
ngồi yên không lo tính, dưỡng giặc nên trở thành mối hoạn. Nay nghe tin mang
binh tới ải Khả Lưu và châu Trà Lung [Long], cả
hai nơi đều nhục vì tổn thất. Do bọn ngươi ngày thường dựa vào ý riêng tranh
hơn thua, không ai chịu nhường; lúc đụng việc thì kẻ dõng, tiến quân một mình
nhưng vô mưu; người khiếp nhược thì sợ co lại không cứu; như vậy thì làm sao
thành công được? Luận tội há có thể tha được ư! Nay tạm khoan dung, các ngươi
ngày đêm hãy đồng tâm hiệp lực, luyện tập sĩ tốt tinh nhuệ, lo diệt giặc này để
chuộc lỗi trước.”
Trách Thọ rằng:
“ Giặc Lê Lợi vốn đã cùng khốn,
nếu sớm để tâm đánh bắt, thì dễ như thò tay bắt ổ chim con, các ngươi lại sai lầm
dựa vào ý kiến riêng, ba bốn lần xin chiêu phủ để đến nỗi dưỡng họa, gây mối
lo. Đến lúc Phương Chính mang quân đánh dẹp, ngươi giữ hơn một ngàn quan quân tại
thành Nghệ An, không chịu đến tiếp cứu, nên hỏng việc; tội của ngươi có thể
dung thứ được ư! Ngươi nên suy nghĩ kỹ, lo cải hối, tận tâm gắng sức trợ giúp bọn
Chính cùng lo việc về sau hữu hiệu hơn.”
Sắc dụ Trần
Hiệp rằng:
“ Trần Trí và Phương Chính
tài trí tầm thường, Trí khiếp nhược hay đố kỵ, Chính dõng nhưng ít mưu; lại
theo ý riêng cạnh tranh nhau, không hòa thuận nên lại bị bại. Nay tạm khoan
dung, lo mưu đồ hữu hiệu hơn, để chuộc lại lỗi trước. Ngươi nên tận lực giúp
cho bọn chúng đồng tâm bình định bọn giặc này; ngạn ngữ nói ‘ Lâm
nguy mà không kiên trì, không dùng được’ các ngươi hãy cố gắng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 134)
Vua Tuyên Tông nghe lời tâu
sàm, ân cần ban sắc tế Tri châu Trà Long Cầm Bành “trung
kiên giữ tiết bề tôi; lương hết, cứu viện dứt, nhưng bất khuất mà chết”; bởi
không biết rõ sự thực rằng Cầm Bành biết là viện binh không đến, mở cửa
thành ra hàng, Bình định vương Lê Lợi đã dẹp yên châu Trà Lân vào tháng
chạp năm Bình Định vương thứ 7 [21/12/1424-19/12/1425]:
“Ngày 5
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/4/1426].
Truy tặng Tri phủ Nghệ An Cầm
Bành chức Tả Bố chánh sứ ty Bố chánh Giao Chỉ. Sai quan ban sắc văn, tế Giao Chỉ
Bố chánh Sứ ty rằng:
“ Cố Tri phủ Cầm Bành cung
kính triều mệnh, kiên trì giữ tiết tháo kẻ bề tôi, dốc sức đánh giặc, đến chết
không rời chí; tấm lòng thành trung nghĩa sáng như ban ngày; Trẫm thương nhớ,
sáng tối không quên; sắc mệnh đặc cách ban tặng chức Tả Bố Chánh sứ Giao Chỉ Bố
chánh sứ ty. Sắc đến nơi, lập tức ưu đãi thưởng tuất cả nhà; đưa một người con
đến kinh đô ban quan chức. Bành người đất Giao Chỉ, được thăng chức Tri phủ Nghệ
An, trấn nhậm châu Trà Lung [Long] dân
đều nhớ ơn huệ. Lúc giặc đến đánh thành, ngày đêm chống cự, trung kiên giữ tiết
bề tôi; lương hết, cứu viện dứt, nhưng bất khuất mà chết. Sự việc được tâu lên,
nên ban mệnh này.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 135)
Tình hình lúc bấy giờ tại
miền tây bắc, có nhiều nhóm nỗi dậy kết hợp với nghĩa quân của
Bình định vương, hoạt động tại các tỉnh Lai Châu, Vĩnh Phúc, Phú
Thọ, Yên Bái, Lao Cai. Vua Tuyên Tông thúc dục Mộc Thạnh sai Đèo Cát Hãn
đánh dẹp tại châu Ninh Viễn tức Lai Châu; còn Trần Trí đảm trách các
vùng còn lại:
“Ngày 3 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ
nhất [10/4/1426]
Mệnh quan Tổng binh Thái truyền
Kiềm quốc công Mộc Thạnh đôn đốc thổ quan châu Ninh Viễn Tri châu Đèo Cát Hãn bắt
giặc tại châu Ninh Viễn. Tham tướng Vinh xương bá Trần Trí chiêu hàng và bắt bọn
giặc tại các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên thuộc Giao Chỉ. Lúc bấy giờ Đô đốc Trần
Tuấn giữ chức Đô ty Giao Chỉ tâu rằng:
‘Bọn
giặc tại các phủ Tuyên Hóa [Vĩnh Phúc], Gia Hưng [Phú
Thọ], đầu đảng là bọn Chu Trang cấu kết với giặc Áo Đỏ bọn Trương Kình
tại Vân Nam và châu Ninh Viễn; chúng cướp giết nhân dân, thiêu hủy châu huyện
nhà cửa. Tại châu Qui Hóa [Yên Bái, Lao Kai], bọn giặc
Hoàng Am tụ họp đám đông trộm cướp; lại thêm tại huyện Phù Lưu [thuộc
châu Phúc Yên, phủ Giao Châu; nay thuộc vùng huyện Thường Tín, Hà Tây], giặc Phan
Khả Lợi theo tên đầu đảng Lê Lợi cướp phá. Vì hai phủ Thái nguyên, Tuyên Hóa có
những châu huyện lân cận với Vân Nam; riêng tại châu Ninh Viễn có bọn giặc mặc
áo đỏ bụng đen, nên gọi là giặc áo đỏ; thổ quan Tri châu Đèo Cát Hãn để chúng lộng
hành cướp phá, quan quân mang quân thảo phạt thì trốn sâu vào trong rừng, khi
quân rút lại xuất hiện cướp phá; xin mang quân đánh dẹp.” Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang133.
Bị tấn công nhiều nơi, bộ
máy cai trị của nhà Minh trở nên suy nhược; vua Tuyên Tông đành phải
cho những người có tội sang Giao Chỉ lập công chuộc tội; cùng gửi
sang 1.000 đạo khám hợp (1) sẵn sàng ban chức quan cho người được chiêu
hồi gắng sức lập công:
“Ngày 12 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [19/4/1426]
Trực tiếp dụ bộ Binh rằng, võ
quan bị tội đáng sung quân lập công nhưng chưa đi, cùng những người
bị pháp quan hỏi tội, đều được lệnh đến Giao Chỉ lập công để chuộc tội.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 136)
“Ngày 17
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [24/4/1426]
Thiên tử trực tiếp dụ Lại bộ
Thượng thư Kiển Nghĩa rằng bọn giặc Lê Lợi, Phan Liêu tại Giao Chỉ giết hại
những người trung lương, chiếm các châu, trại. Phàm quan lại dân chúng bị bách
hiếp, bất đắc dĩ phải theo giặc cùng những người từng đồng mưu với Lê Lợi, nhận
sự ủy nhiệm của giặc, nay biết hối tội trở sang đường thiện, hoặc mang bộ hạ đến
qui phụ, hoặc đích thân trở về đều được tha tội, trả lại quan chức. Sau đó nếu
tận tâm vì triều đình mà ra sức báo đáp, cùng những dân bản xứ Giao Chỉ lập
thành tích đều được xét theo công lao mà giao chức quan. Hãy biên 1000 đạo khám
hợp giao cho quan Tổng binh và Thượng thư Trần Hiệp để xét thành tích mà ban chức.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang137 )
Vào tháng 3, nhà Minh điều
động quân sang cứu Giao Chỉ. Về bộ binh sử dụng lực lượng từ sông
Dương Tử xuống phía nam, gồm các vệ thuộc Phúc Kiến, Quảng Đông, Vân
Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Lưỡng Hồ; dùng kỵ binh Trực Lệ tức Bắc Kinh, và
thổ binh Quảng Tây làm xạ thủ và chỉ đường:
“Ngày 13
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [
20/4/1426 ]
Sắc dụ Sở vương, Thục vương mỗi
người điều lính bộ binh hộ vệ 1000 người; các Đô chỉ huy ty Phúc Kiến, Quảng
Đông, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Quảng; cùng các vệ tại Nam Trực
Lệ tuyển điều quân kỵ cộng 15.000 người đến Giao Chỉ đánh giặc. Tại các phủ Tư
Minh, Điền Châu tỉnh Quảng Tây tuyển điều Thổ binh bắn cung hơn 3000 tên đợi lệnh
và làm hướng đạo. Lại sắc Lão Qua không được dung nạp bọn phản tặc.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang137)
Mệnh Thành sơn hầu Vương Thông
giữ chức tổng chỉ huy, Đô đốc Mã Ánh làm Tham tướng, Thượng thư Trần
Hiệp lãnh chức tham mưu:
“Ngày 2
tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/5/1826]
Mệnh Thái tử Thái bảo Thành
sơn hầu Vương Thông mang ấn Chinh Di Tướng quân sung chức Tổng binh, Đô đốc Mã
Ánh sung Tham tướng, đến Giao Chỉ chinh tiễu giặc, trị an phủ dụ quân dân; vẫn
ra lệnh Thượng thư Trần Hiệp làm Tham tán quân vụ.”
( Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang139)
Lệnh cho Vương Thông khi đến
nơi, được Tam ty Giao Chỉ tuyển sẵn 3 vạn người bản xứ, để tăng
cường:
“Ngày 2
tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/5/1426]
Sắc dụ Tam ty tại Giao Chỉ rằng:
‘ Nay mệnh bọn Thành sơn
hầu Vương Thông mang quân dẹp giặc. Khi Thông đến, hãy tuyển dân bản xứ 3 vạn
người theo sự điều động của Thông, nhắm diệt giặc này để yên một phương. Các
quan lại quân dân dưới quyền lấy việc cung ứng quân lữ làm trọng; tất cả các việc
nhỏ mọn khác đều phải đình chỉ không được làm nhọc dân thêm nữa.”( Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang139)
Thành sơn hầu Vương Thông đích
thân xin thêm đơn vị thiện chiến thuộc doanh Thần cơ, để làm quân hộ
vệ:
“Ngày 3
tháng 4 năm Tuyên đức thứ nhất [9/5/1426]
Sắc mệnh các doanh Thần cơ
đưa bọn Đô Chỉ huy Tạ Vinh cùng 510 tên theo Thành sơn hầu Vương Thông chinh phạt
Giao Chỉ; thể theo lời tâu của Thông.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang141 )
Riêng đối với các tướng lãnh
có lỗi tại Giao Chỉ như Trần Trí, Phương Chính, đều bị giáng xuống
làm Sự quan; tức quan có lỗi phải lập công chuộc tội, dưới quyền
tiết chế của Vương Thông:
“Ngày 3
tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [9/5/1426].
Cách chức Vinh xương bá Trần
Trí, Đô đốc Phương Chính quan tước; giáng xuống sung vào Sự quan (2), tuân
theo sự điều động của quan Tổng binh Vương Thông, làm tiên phong lập công chuộc
tội. Những sắc dụ cùng ấn Chinh Di Phó tướng trước kia được lãnh, hãy giao cho
Thông để nạp lên. Sắc dụ bọn Trí rằng:
“ Triều
đình mệnh ngươi thống suất quân lính trấn đóng Giao Chỉ để dẹp tan giặc cướp,
yên ổn dân chúng; bọn ngươi ôm lòng riêng trục lợi, không hòa mục, để đến nỗi
giặc hoành hành, quan quân thua chết, tàn ngược dân lương thiện; xét về tội các
ngươi đáng vạn lần chết, không chuộc được. Nay tạm khoan hồng, cách chức tước,
theo bọn Thành sơn hầu Vương Thông lập công để chuộc tội. Thái Phúc ngu đần,
làm hỏng việc, cũng được tha tội chết để lập công, nếu giáp trận không biểu hiện
vũ dõng, sẽ bị tru lục không tha thứ.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang140)
Trước khi sai Vương Thông xuất
sư, Vua Tuyên Tông gặp các đại thần thuộc hai phe chủ hòa và chủ
chiến. Vua nói rằng từ khi chiếm Giao Chỉ đến nay, không có năm nào không
dùng binh; người Trung Quốc phải chạy vạy cũng bị mệt mõi quá lắm; ý Vua nên
theo thời Hồng Vũ , cho nơi này tự trị, hàng năm triều cống. Phe chủ chiến
có Kiển Nghĩa và Hạ Nguyên Cát phản đối; nhưng phe chủ hòa Dương Sĩ Kỳ,
Dương Vinh ủng hộ:
“Ngày 3
tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [9/5/1426]
Thiên tử thị triều xong ngự tại
điện Văn Hoa, bọn Kiển Nghĩa, Hạ Nguyên Cát, Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh hầu cận.
Thiên tử phán:
“ Thái Tổ
Hoàng đế dạy rằng các nước di địch bốn phương cùng các man nhỏ bé tại phương
nam; giới hạn bởi núi cao, góc biển, hoang tịch tại một phương; được đất này
không đủ để cung cấp, được dân này không đủ để dùng; nên ra lệnh rằng ngoại trừ
bọn chúng không biết cân nhắc, đến quấy nhiễu biên cương của ta làm chuyện
không lành; trường hợp chúng không gây mối lo cho Trung Quốc, ta lại mang binh
đánh thì cũng chính ta làm việc không lành vậy! Ta lo con cháu về sau ỷ Trung
Quốc giàu mạnh, tham công nhất thời, vô cớ hưng binh tổn thương nhân mạng, phải
ghi nhớ là không thể làm như vậy.
“ Sau này họ Lê [Quí Ly] giết
vua, độc hại người trong nước, Thái Tông Hoàng đế bất đắc dĩ mang quân điếu phạt.
Ý lúc khởi đầu là đợi sau khi bình định xong giặc họ Lê, tìm con cháu vua trước
lập lên, với thịnh tình phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt. Nhưng con cháu
vua trước bị giặc họ Lê giết hết, nên thể theo lời của dân bản xứ xin lập quận
huyện, đặt quan cai trị, việc này không phải là bản tâm của Thái Tông Hoàng đế.
“ Từ đó đến nay tại Giao Chỉ
không có năm nào không dùng binh; dân chúng một phương bị giết đã nhiều, người
Trung Quốc phải chạy vạy cũng bị mệt mõi quá lắm! Vua cha [Nhân
Tông] thường nghĩ đến điều này, nặng lòng trắc ẩn, nên lúc lên
ngôi ban chiếu thi ân cho xứ này rất hậu.
“Hôm qua sai tướng xuất sư,
Trẫm suốt đêm không yên lòng, không nỡ phạm đến sinh linh dân vô tội. Đào sâu
suy nghĩ chỉ muốn như thời Hồng Vũ và những năm đầu Vĩnh Lạc, cho nơi này tự lập
một nước, hàng năm triều cống, bảo toàn sinh mệnh dân một phương, mà cũng để
người Trung Quốc được nghĩ ngơi nữa. Ý các ngươi như thế nào?”
Bọn Kiển Nghĩa chưa kịp tâu,
Thiên tử lại nói thêm:
“Việc này vốn
không phản bội lòng của tổ tông.”
Kiển Nghĩa và Nguyên Cát tâu:
“Thái Tông
Hoàng đế bình định đất này lao phí rất nhiều, nay chỉ vì một tên tiểu xú tác
quái, sao lại lo không dẹp được. Hơn hai mươi năm cần lao, lại bỏ đi trong một
buổi sáng, há lại không nghĩ đến sự tổn thương đến uy vọng, xin suy nghĩ thêm nữa!”
Thiên tử quay về phía Sĩ Kỳ
và Dương Vinh hỏi:
“ Bọn khanh
hai người, ý kiến thế nào?”
Tâu rằng:
“Tấm lòng của Bệ hạ
cùng chung tấm lòng với trời đất và tổ tiên. Từ thời Đường,
Ngu, Tam Đại; Giao Chỉ là đất hoang dã bên ngoài; bấy giờ tuy không có đất này
nhưng các vua Nghiêu, Thuấn, Võ Thang, Văn, Vũ không mất tiếng khen là bậc
thánh quân. Thái Tông Hoàng đế buổi đầu muốn lập họ Trần, nên đáng gọi là bậc
thánh. Từ nhà Hán, Đường trở về sau, Giao Chỉ được đặt làm quận huyện; nhưng có
lúc phản lại có lúc lúc phục tòng, bất thường, chết quân, phí của không thể kể
xiết; nhưng về đường thực dụng thì không đáng một đồng tiền, không được một tên
lính. Thời Hán Nguyên Ðế, Chu Nhai phản, mang binh đánh, suốt năm không bình định
được, các quan ty bàn nên đưa đại binh, Nguyên Ðế dùng lời bàn của Giả Thôi bỏ
quận Chu Nhai, được sử đời trước khen. Nguyên Ðế là vua hạng thường còn ban bố
lòng nhân, thi hành điều nghĩa như vậy; huống Bệ hạ là cha mẹ của thiên hạ há lại
dùng cách bàn bạc được mất của những kẻ bụng dạ sài lang ư!”
Nguyên Cát xin cho bốn người
suy nghĩ thẩm xét lại rồi tâu sau. Thiên tử nói:
“Được, nhưng
ý Trẫm vốn như vậy, không kể đến hậu quả việc dụng binh ra sao.”
Ngày hôm sau tại triều, sau
khi Sĩ Kỳ và Dương Vinh tâu xong, Thiên tử nói:
“Ngày hôm qua bàn về việc
Giao Chỉ, ý của Trẫm giống với ý của các khanh, không còn có gì phải
nói thêm nữa.” ( Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang141)
Chuẩn bị cho Vương Thông xuất
sư, nhà Minh sai lính chính qui đến đóng tại phủ Lạng Sơn; nhắm tăng
cưởng an ninh biên giới:
“Ngày 6 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/5/1426].
Thiết lập tại Ải Lưu và trạm
Đổng, phủ Lạng Sơn hai ty tuần kiểm. Tại Ải Lưu trước đây lập đồn cho quan ải
nhỏ; trạm Đổng cũng có một đồn cho trạm, cả hai đều do lính bản xứ trấn đóng.
Nhân phủ Lạng Sơn tâu chốn này núi non hiểm yếu, xin bỏ đồn lập hai ty tuần kiểm,
thay lính bản xứ bằng lính chính qui. Bởi vậy chấp thuận cho đặt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang143 )
Kết hợp với biện pháp quân
sự, Vua Tuyên Tông làm công tác địch vận, hứa cho tất cả mọi thành
phần chống đối, một khi buông vũ khí, đều được tha, không kết tội:
“Ngày 3
tháng 5 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/6/1426].
Xuống chiếu tha những người
có tội tại Giao Chỉ.Chiếu rằng:
“Đạo trị nước của Trẫm nhắm
thương dân; thể hiện lòng nhân từ xót xa, khoan tuất sự lầm lỗi. Giao Chỉ kể từ
ngày sáp nhập vào bản đồ đến nay đã đến hai mươi năm; mấy lần gây phản nghịch,
làm bận đến vương sư. Nhưng ghét chết thích sống, lòng người không ai nghĩ
khác; đâm xuống vực, nhảy vào lửa không phải là bản tâm của con người. Tìm hỏi
nguyên nhân đều do quan lại cai trị không đúng, không ngừng cướp đọat; cảnh
tình kẻ dưới không đào đạt được lên, người trên lại không ân trạch ban xuống.
Dân chúng lâm cảnh khốn khổ, đâm ra nghi ngờ, bèn trốn vào rừng núi, hô nhau
làm lọan, tình cảnh thực bất đắc dĩ. Xét về tội cũng có chổ đáng thương, nên
ban ân mưa móc để đều được thấm nhuần.
Phàm quân dân Giao Chỉ phạm
vào tội phản nghịch, bị phát giác hoặc chưa phát giác, bị kết án hoặc chưa kết
án; khi chiếu thư đến, tội không kể lớn nhỏ, đều được tha. Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ
Văn Luật, vốn đã qui phụ triều đình, từng được bổ nhiệm sử dụng, rồi suy nghĩ lệch
lạc, để đến nỗi sai trái như vậy. Nay đặc biệt mở con đường đổi mới, nếu thành
thực hối cải, trở lại theo điều thiện, giữ tiết bề tôi thì được tha tội,
vẫn được trao quan chức. Những kẻ bị Lê Lợi bức hiếp theo nghịch, cùng những dư
đảng của Trịnh Công Chứng trốn tránh chưa xuất hiện, nay có thể đích thân ra
qui thuận, hoặc đến quan sở tại đầu thú cũng đều được tha, quan sẽ trở lại
nguyên chức, quân trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ. Sau khi chiếu
thư ban ra, như bọn Lê Lợi cùng những kẻ bị cưỡng bách, chấp mê không hối tội,
vẫn chống mệnh như cũ, thì quân Thiên tử gia tăng thảo phạt, hối cũng không kịp
nữa.
Từ nay trở về sau tại đất
Giao Chỉ, ngoài việc nạp thuế lương thực, những việc trưng điều khai mỏ vàng, bạc,
muối, sắt, hương liệu, cá, hoa quả đều đình chỉ; vàng, bạc, đồng, tiền, muối,
cá ướp được lưu hành trong lãnh thổ, quan phủ không cấm, để tỏ lòng thể tuất của
Trẫm đối với dân chúng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang145)
Tình hình tại Giao Chỉ lúc
bấy giờ, thành Nghệ An bị uy hiếp nặng, ngay viên tướng hiếu chiến
như Phương Chính cũng đành thụ động bó tay; khiến Đô ty và Án sát
phải tâu về triều:
“ Ngày 27 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [2/6/1426].
Ty Đô Chỉ huy và ty Án sát
Giao Chỉ tâu:
‘ Sự quan Phương Chính giữ phủ
Nghệ An, giặc mang binh đến tận thành, Chính án binh bất động. Đô Chỉ huy sứ
Vương Diễn lo thế giặc càng ngày càng tăng, đích thân mang lính kỵ binh tinh
nhuệ ra đánh, chém hơn 170 thủ cấp, giặc sợ nên bỏ trốn.’
Thiên tử trực
tiếp dụ Thượng thư bộ Binh Trương Bản rằng:
‘Phương Chính không chịu
đánh, hoặc cẩn thận đợi thời cơ cũng chưa biết được; nhưng giặc từ xa đến, dùng
quân tinh nhuệ đánh để làm nhụt tinh thần giặc, Diễn thực có công, không thể
trì hoãn tưởng thưởng, hãy sai người ruỗi ngựa mang bạc tiền ủy lạo.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang144.)
Trước đây Đô đốc Phương Chính
thách Bình định vương mang quân về đồng bằng giao chiến, bấy giờ
nghĩa quân đến tận thành Nghệ An, Chính vẫn án binh bất động, nên
gửi thư thách thức:
“Lại thư cho Phương Chính.
(Tháng 5 năm Bính ngọ [6/6-4/7/1426], quân
ta đến thành Nghệ An, giặc không ra đánh, ta mới viết thư cho).
Bảo cho mày ngược tặc Phương
Chính: Ta nghe nói người danh tướng trọng nhân nghĩa, khinh quyền mưu. Bọn mày
gửi thư cho ta, cứ cười ta núp náu ở nơi rừng núi, thập thò như chuột, không
dám ra nơi đồng bằng đất phẳng để đánh nhau. Nay ta đã đến đây, ngoài thành Nghệ An
đó đều là chiến trường cả, mày cho đấy là rừng núi chăng? Là đồng bằng chăng?
Thế mà mày cứ đóng thành bền giữ như mụ già là làm sao? Ta e bọn mày không khỏi
cái nhục khăn yếm (3).” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a7.)
Đô đốc Phương Chính lại gửi
thư, bấy giờ tại triều đình nhà Minh, chỉ trong vòng một năm, hai Vua
Thái Tông, Nhân Tông lần lượt mất. Nên phía ta đem lời cảnh cáo chớ
dùng quân xâm lược lúc này, do mối họa có thể xãy ra từ trong nội
bộ:
“Lại thư trả lời Phương Chính.
Phàm mưu việc lớn phải lấy
nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải dấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ nhân nghĩa có
gồm đủ thì công việc mới xong xuôi. Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng
điếu dân phạt tội (4), kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước
ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng
không được sống yên. Nhân nghĩa mà lại thế ư? Nay ở nước mày, dân oán thần giận,
kế tiếp đại tang (5), thế mà đã không biết tự xét lỗi mình, lại còn
cùng binh độc vũ (6), cam lòng xâm lược phương xa, khiến cho sĩ tốt
phơi thây, nhân dân lầm than. Ta e mối lo của họ Quý không phải ở nước
Chuyên Du, mà ở trong tiêu tường (7) vậy.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a8.)
Sự quan Trần Trí tâu về
triều tình hình an ninh suy yếu, miền trung tại Nghệ An, Diễn Châu, Thanh
Hóa; miền bắc tại Tuyên Hóa, Thái Nguyên đều cần tăng thêm quân; xin
chuyển lính làm đồn điền sang chiến đấu:
“Ngày 24
tháng 5 năm Tuyên Đức thứ nhất [29/6/1426]. Sự quan
Giao Chỉ Trần Trí tâu rằng:
‘ Thủ lãnh giặc Lê Lợi tụ
tập đám đông chiếm cứ châu Trà Lung [Long], quan
quân đánh nhưng chưa bắt được. Tại Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa cũng cần dùng
quan quân để tuần tiễu phòng bị, nhưng các vệ lính không đủ; nên đã hội bàn cho
triệt thoái hết quân giữ đồn điền trong 14 vệ, gồm hơn 2600 tên, tại phần đất
phía trái Giao chỉ. Nay tại cửa biển Điển Canh, châu Cửu Chân, có thuyền giặc
cướp bóc dân ta; tại châu này lại có bọn giặc tụ tập làng xã để chiêu mộ đồ đảng.
Tại châu, huyện thuộc các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên có bọn giặc Áo Đỏ quấy nhiễu.
Để lo việc chính tiễu tuần phòng xin trích ra 5000 tên trong số tổng cộng hơn
8900 tên từ các vệ Tả, Hữu, Trung, Tiền, Hậu tại Giao Châu; cùng 9 vệ tại Xương
Giang, Trấn Di, Tam Giang, Thị Cầu; các vệ này đang phụ trách về đồn điền. Những
người lấy ra được miễn phải trưng thu gạo hàng năm, chờ khi bình xong giặc, lại
trở về với đồn điền như cũ.’ Lời tâu được
chấp thuận.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang147)
Tháng 4, An bình bá Lý An
được giữ chức Đô ty Giao Chỉ, chỉ dưới quyền tiết chế của Tổng binh
Vương Thông:
“Ngày 2
tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/5/1426].
Sắc dụ An Bình bá Lý An giữ
chức Đô ty Giao Chỉ; theo sự tiết chế của quan Tổng binh.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang139)
Nhưng chỉ 3 tháng sau, có lời
tâu rằng An hèn nhát, đụng trận lùi trước, nên bị phạt làm Sự quan:
“Ngày 9
tháng 7 năm Tuyên Đức thứ nhất [ 11/8/1426 ].
Bộ Binh nơi hành tại tâu rằng:
‘ Bọn Sự quan Giao Chỉ Phương
Chính đánh Lê Lợi; nhưng bọn An bình bá Lý An; Đô chỉ huy Vu Tán, Tạ Phượng, Tiết
Tụ, Chu Quảng, Trần Phong đụng trận thì lui trước; Chính có thành tích dũng cảm.’
Thiên tử mệnh tạm tha. Sắc dụ
Thành sơn hầu Vương Thông lệnh An, cùng bọn Tán, Phượng, Tụ, Quảng, Phong được
đái tội làm Sự quan, cùng bọn Trần Trí dẫn đầu lập công; nếu không có công bị
trừng trị theo quân pháp.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang148)
Tháng 8, Bình định vương đánh
thành Nghệ An, nhưng bị đánh lui:
“Ngày 28
tháng 8 Tuyên Ðức thứ nhất [29/9/1426 ]
Người cầm đầu ty Bố chánh, Án
sát Giao Chỉ Thượng thư Trần Hiệp sai người tâu rằng: đầu sỏ giặc Lê Lợi, đến
thành Nghệ An khí thế rất mạnh, ngày đêm đánh thành. Bị Sự quan Lý An, Phương
Chính hợp quân đánh bại.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang149)
Sử Việt chép vào thời gian
này, Bình định vương sai 3 đạo quân đi tuần các lộ xung quanh thành
Đông Đô, tức Hà Nội. Đạo thứ nhất, theo hướng nam bắc, tuần
hành phía tây Đông Đô, nhắm tiêu diệt viện binh từ Vân Nam sang, cùng uy
hiếp vùng Hà Tây. Đạo thứ hai, cũng theo hướng nam bắc, đi tuần phía
đông thành Đông Đô, nhắm đánh quân Minh từ Lưỡng Quảng xuống. Đạo quân
thứ ba thọc vào thành Đông Đô, tùy cơ đánh phá:
“Tháng 8,
mùa thu. Bình Định vương sai các tướng chia nhau đi tuần các lộ ở Đông Đô [Hà
Nội]. Vương cho rằng quân tinh nhuệ của nhà Minh ở cả Nghệ An, Đông Đô
trở thành yếu ớt trống rỗng bèn sai: Bọn Thái úy Lý Triện, Xu mật Phạm Văn Xảo,
thái giám Trịnh Khả và Đỗ Bí ra từ Thiên Quan [Ninh
Bình], đi tuần vùng Quốc Oai [Hà Tây], Quảng Oai [Hà
Tây], Gia Hưng [Phú Thọ, Hoà Bình], Quy Hóa [Yên
Bái, Lào Kai], Đà Giang, Tam Đái [Vĩnh Phú] và Tuyên
Quang để diệt đạo viện binh nhà Minh từ Vân Nam kéo xuống.
Bọn Thiếu úy Lưu Nhân
Chú và Bùi Bị ra từ Thiên Quan, đi tuần vùng Thiên Trường [Nam
Định], Kiến Xương [Thái Bình], Tân
Hưng [Hải Dương], Thượng Hồng, Hạ Hồng [Hải
Dương], Bắc Giang và Lạng Sơn để diệt đạo viện binh từ Lưỡng Quảng kéo xuống.
Bọn Tư đồ
Đinh Lễ và Lê Xí thống suất toán quân tinh nhuệ kế tiếp xuất phát, thọc ngay
vào Đông Quan để phô trương thanh thế, rồi sau mới thừa cơ mà tiến thủ. Các tướng
trẩy đến đâu cũng giữ quân luật nghiêm túc, không tơ hào xâm phạm đến của nhân
dân. Bấy giờ các lộ ở Đông Đô và các thổ tù ở ven biên giới chẳng ai là không
vui vẻ hả hê.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 13.
Bấy giờ cánh quân Lý Triện
từ mạn bắc tỉnh Hà Tây gây sức ép; Trần Trí phải mang quân từ thành
Đông Quan tức Hà Nội, đến huyện Chương Mỹ chống cự, nhưng bị
đánh thua; quân Triện tiến đóng phía tây bờ sông Đáy. Được tin quân
địch từ Vân Nam tới, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo đi đánh, thắng
địch tại cầu Xa Lộc (8), huyện Lâm Thao, Phú Thọ. Riêng Triện cùng
quân Lê Xí làm cuộc truy kìch bọn Trần Trí, đến tận chân thành Đông
Đô, giết viên Đô ty Vy Lượng tại Nhân Mục (9) thuộc quận Thanh Xuân, Hà
Nội ngày nay:
Cánh quân của các tướng
Lý Triện từ mạn Quốc Oai [bắc Hà Tây] và
Tam Đái [Vĩnh Phúc] đe dọa bức bách thành
Đông Quan. Tham tướng Minh, Trần Trí dốc hết quân ra mạn Ninh Kiều (10)
[Chương Mỹ, Hà Tây] và Ứng Thiên [Ứng
Hoà, Hà Tây] để chống cự. Triện cùng bọn Xảo, Khả và Bí hợp sức đánh
hăng, quân của Trí phải thua chạy. Bọn Triện tiến đóng ở bờ phía tây sông Ninh
Giang [sông Đáy].
Chợt được tin hơn vạn quân cứu
viện của nhà Minh sang từ Vân Nam, sắp đến thành Tam Giang [Phú
Thọ], mà đạo quân do Lễ và Xí chỉ huy chưa kịp đến, bọn Triện e rằng hai
đạo quân của địch nếu phối hợp được với nhau thì mình khó chế trị được. Triện
bèn chia cho Xảo và Khả hơn nghìn quân, đi thẳng lên trước và đón đường chặn
đánh địch; còn mình và bọn Xí đem vài nghìn quân tinh nhuệ, thừa thắng đuổi
theo cánh quân của Trí. Khi đến Nhân Mục [quận Thanh Xuân,
Hà Nội], bắt sống được đô ti Minh, Vi Lượng, và chém được hơn nghìn thủ cấp
địch, rồi lại quay về Ninh Giang, làm thanh thế tiếp ứng cho bọn Xảo. Còn cánh
quân của bọn Xảo, khi đến cầu Xa Lộc [huyện Lâm Thao, Phú Thọ], gặp đạo
quân của Vương An Lão, đô ti Vân Nam của Minh: quân ta đón đánh, cả phá được địch,
chém và bắt được không biết bao nhiêu mà kể. Số quân còn sót lại của địch phải
rút vào giữ thành Tam Giang Phú Thọ.” Cương Mục,
Chính Biên, quyển 13.
Tháng 9 Bình định vương để các
tướng Lê Ngân và Lê Văn An ở lại vây thành Nghệ An, tự mình đem quân đi tuần
Tây Đô, Thanh Hóa:
“Trần Trí nhà Minh thấy thành
Đông Quan bị cô lập và nguy khốn, vội sai người gấp rút đem thư vào Nghệ An cáo
cấp với bọn Phương Chính, để bọn này quay về cứu lấy chỗ căn bản. Bọn Trí bèn để
Thái Phúc ở lại giữ Nghệ An, còn Chính thì vượt biển trở ra Đông
Quan. Vương liền cho các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận và Lê Văn
Linh lưu lại, góp sức với nhau vây thành Nghệ An, còn Vương chính mình thống suất
đại quân, cả thủy lẫn bộ cùng tiến, đuổi theo Phương Chính. Đến Thanh Hóa,
Phương Chính phóng thuyền ra khơi, lẩn trốn tận ra xa. Vương bèn đi tuần Tây
Đô. Tri châu La Thông đóng chặt cửa thành, không chịu đầu hàng. Vương đóng quân
ở Lỗi Giang [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], úy lạo
các tướng sĩ, ban thưởng cho các bà con và những người cố cựu ở quê nhà. Nhân
sĩ và dân chúng ở Thanh Hóa đều tình nguyện tòng quân.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 13.
Về phía quân Minh, khi quân
Thành sơn hầu Vương Thông đến Quảng Tây, tỉnh này được lệnh trích
5.000 quân tăng phái cho Vương Thông:
“Ngày 3 tháng 9 năm Tuyên Đức thứ nhất [13/10/1426]
Sắc dụ quan Tổng binh Quảng
Tây Trấn viễn hầu Cố Hưng Tổ rằng: Hãy trích ra 5000 tên trong số quân ngươi quản
lãnh, điều đến Giao chỉ, dưới quyền tiết chế của Thành Sơn hầu Vương Thông.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang149)
Cuối tháng 9, Thành sơn hầu
Vương Thông đến thành Đông Quan; sau khi tìm hiểu, y tâu về triều trận
đánh với Lý Triện, Đô chỉ huy Vi Lượng bị bắt; còn cho biết
thêm các viên Chỉ huy Đào Sâm, Tiền Phụ, Thiên hộ Triệu Trinh đều tử
trận:
“Ngày 29
tháng 9 năm Tuyên Đức thứ nhất [29/10/1426
]
Ngày hôm nay quân của bọn
Chinh Di Tướng quân Thành sơn hầu Vương Thông đến Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang150)
“Ngày 13 tháng 10 năm Tuyên đức thứ nhất [12/11/1426]
Quan Tổng binh Thành sơn hầu
Vương Thông tấu rằng Đô Chỉ huy Vi Lượng hành quân tại Giao Chỉ bị thất lợi.
Lúc bấy giờ đồ đảng của Lê Lợi là Lê Thiện chiếm cứ châu Quảng Oai; Sự quan Trần
Trí sai Lượng cùng các Chỉ huy Vương Miễn, Tư Quảng mang quân chống cự. Khi
quân đến đất này, Lượng muốn vượt sông, nhưng viên quan Thổ quan là Chỉ huy Hà
Kháng nói:
“ Chắc bọn chúng
đặt phục binh, phải cẩn thận đừng coi thường mà tiến.”
Lượng không nghe, sai Chỉ huy
Đào Sâm, Tiền Phụ vượt sông đánh, giặc đặt phục binh và mang quân chặn đoạn hậu;
giết Sâm, Phụ, Thiên hộ Triệu Trinh cùng hơn 500 quân, Lượng cũng bị bắt.
Thông, cùng Tuần, Án, Ngự sử đem việc này tâu lên. Thiên tử cho rằng Vương Miễn
và Tư Quảng không cứu viện, sắc mệnh Thông phạt Miễn, Quảng sung quân lập công
chuộc tội; vẫn ra lệnh Thông tiến binh dẹp giặc.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang150)
Tháng 10, các tướng Đinh Lễ, Lê
Xí và Lý Triện đại phá quân Vương Thông nhà Minh tại Tốt Động, thuộc huyện
Chương Mỹ, Hà Tây; giết Thượng thư Trần Hiệp, Vương Thông bị thương,
bèn rút chạy vào thành. Vua Lê Lợi từ Thanh Hóa tiến quân đến
Thanh Đàm Thanh Trì, Hà Nội, chuẩn bị đánh thành Đông Quan:
“ Bấy giờ nhà Minh sai
Thành Sơn hầu Vương Thông làm chinh di tướng quân, và đô đốc Mã Anh làm tham tướng,
đem năm vạn quân sang cứu Đông Quan [Hà Nội], bóc hết
chức tước của bọn Trần Trí và Phương Chính, cho sung làm sự quan, lệ thuộc
trong quân để lập công chuộc tội; còn Trần Hiệp thì vẫn cho làm tham tán quân vụ.
Tất cả đều ở dưới quyền chỉ huy của Thông. Thông mới đến, tinh thần rất hăng,
điều động tất cả mười vạn quân, cùng bọn Hiệp chia làm ba đường, đồng thời xuất
phát. Thông đóng ở bến Cổ Sở (11) [huyện Hoài Đức, Hà
Tây]; Phương Chính đóng ở Sa Đôi (12) [huyện
Từ Liêm , Hà Nội]; Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai [Hà Tây]. Doanh trại
của chúng đằng dăng đến vài mươi dặm, cờ xí rợp cả đồng nội. Chúng tự cho rằng
chỉ một chuyến này có thể dẹp yên được. Các tướng Triện và Bí từ Ninh Kiều tiến
đến Sốm (13)[huyện Thanh Oai, Hà Tây] ,
chia quân và voi cho mai phục sẵn để đợi giặc. Họ cho toán du binh (14) xông
xáo đến sát trại Mã Kỳ, khiêu chiến, giả cách thua chạy. Mã Kỳ lùa hết quân đuổi
theo. Khi chúng đến cầu Ba La (15) [thị xã Hà Đông, tỉnh Hà
Tây] : quân phục của ta nổi dậy, đánh cắt ngang trận địch. Quân
Minh tan vỡ, chạy bừa, sa lầy, bị chém hơn nghìn thủ cấp. Quân ta ruổi dài đến
cống Mọc [quận Thanh Xuân, Hà Nội], bắt
được hơn năm trăm địch. Thây giặc rải rác đến vài mươi dặm. Mã Kỳ chỉ kịp một
người một ngựa trốn về. Các tướng Lý Triện thừa thắng, muốn chẹn phía sau
Phương Chính, nhưng Phương Chính đã rút quân lui rồi. Bấy giờ trời đã chiều
hôm, các tướng bên ta phải đem quân quay về. Bọn Kỳ và Chính nhân lúc ban đêm,
lén đem quân đến hội với Vương Thông.
Ngày hôm sau, các tướng Lý
Triện đến bến Cổ Sở, bổ vây quân Thông. Trước đó, Thông đã đặt quân mai phục,
và đã đan tre làm cái khiên, phía trong khiên có cài chông sắt. Khi thoạt giao
chiến, quân của Thông đã quăng bỏ khiên, giả vờ chạy. Bọn Triện đuổi theo: voi
giẫm phải chông, không lợi. Bọn Triện bèn thu quân vào giữ Cao Bộ (16)
[xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây].
Nghe nói các tướng Đinh Lễ và
Lê Xí đang đóng quân ở Thanh Đàm [Thanh Trì, Hà Nội], Triện liền
sai báo gấp cho họ đến tiếp ứng. Bọn Lễ và Xí lựa lấy ba nghìn quân tinh nhuệ
và hai thớt voi, tức tốc ngay ban đêm, đến hội quân ở Cao Bộ. Họ chia quân đặt
phục ở Tốt Động và Chúc Động [Chúc Sơn, xã Ngọc Sơn,
huyện Chương Mỹ, Hà Tây]. Bắt được gián điệp của địch, ta biết rằng Thông đã
tiến đóng ở Ninh Kiều, ngầm cho kỳ binh (17) đi rảo
đến phía sau quân Triện, còn chính binh (18) của Thông
thì sẽ qua sông tiến lên phía trước. Chúng hẹn nhau rằng hễ nghe nổ pháo thì
các đạo quân địch đồng thời đánh khép lại. Hồi trống canh năm đêm ấy, bọn Lễ
sai quân nổ pháo ở nơi yếu hại để đánh lừa địch. Địch nghe tiếng pháo, mọi đứa
đều đổ xô đi chiếm lấy thuận lợi. Chúng lùa quân đi tắt vào. Bấy giờ trời mưa,
đường lầy lội. Chúng kéo đến Tốt Động, bị quân phục của ta bốn bề nổi dậy. Quân
ta hợp sức lại, hăng hái chiến đấu, cả phá được địch: chém thượng thư Trần Hiệp
và nội quan Lý Lượng. Ta lại đuổi kẻ chạy, dượt kẻ thua, hoặc giết chết, hoặc bắt
sống. Quân Minh cùng giày đạp chồng chất lên nhau, chết đến hơn năm vạn. Số
quân địch chết đuối cũng rất nhiều, làm nghẽn cả khúc sông Ninh Giang. Ta bắt sống
được hơn một vạn địch, tước được quân nhu và khí giới vô kể. Bọn Chính và Kỳ chạy
trốn. Thông bị thương, chạy về Đông Quan, đóng chặt cửa thành, cố giữ..” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 13.
Chiến thắng lớn quá, ngoài
sức tưởng tượng của các quan soạn sử nhà Nguyễn, khiến họ không tin
nỗi, nên viểt lời “Cẩn án” như
sau:
“Lời cẩn án - Chiến
dịch Tốt Động, bọn Vương Thông thống suất hàng mười vạn quân, tinh thần sắc bén
gấp hàng trăm lần. Các tướng Lý Triện chỉ có vài nghìn người. Một đám cô quân
vào sâu trong trận địch, thế mà nhiều lần thừa thắng, đánh được giặc một cách độc
nhất. Như vậy không khỏi có điều đáng ngờ. Bọn Lưu Nhân Chú và Bùi Bị được phân
phối đi tuần đường khác, không kịp tiếp ứng: nói thế cũng còn xuôi xuôi. Đến
như Đinh Lễ, Lê Xí vâng lệnh cầm quân, thực tế là phải đương đầu với cả phía
chính diện của thành Đông Quan. Bấy lâu đang đóng ở Thanh Đàm, vốn không có sự
cách trở vì thành lũy cao hay mặt trận vững của địch, thế mà lần đầu thì thắng ở
Ninh Kiều và Xa Lộc, lần thứ hai lại thắng ở Ba La, trước sau không hề được một
tên quân nào đến tiếp ứng cả. Kịp khi bọn Triện
đánh giặc không lợi, sai người cấp báo, bấy giờ mới có cuộc hội quân ở Cao Bộ.
Tình hình đương thời ra sao, thực có điều không thể hiểu được. Chỉ vì sử sách
thiếu sót, không thể chất chính vào đâu cả. Nay xin kính cẩn chép theo Sử cũ,
còn thì xin để khuyết nghi.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 13 .
Điều mà Sử thần nhà Nguyễn
nghi ngờ, thì sử đối phương lại công nhận. Chỉ khác về thời gian
đúng 1 tháng; Minh
Thực Lục ghi ngày ngày 6 tháng 11 năm Bính Ngọ;
riêng Toàn Thư ghi
ngày 6 tháng 10 năm Bính Ngọ; có thể chép lầm, hoặc giả lịch Đại
Việt trước đó có ghi tháng nhuần, nên lùi 1 tháng? Minh Thực Lục chép
quân Minh đã thua to, Thượng thư Trần Hiệp, Đô chỉ huy Lý Đằng tử
trận, Vương Thông bị thương; Vua Lê Lợi từ Thanh Hóa mang quân đến đóng
tại Thanh Trì, sát nách thành Đông Quan, chuẩn bị đánh thành:
“Ngày 6 tháng 11 năm Tuyên Đức thứ nhất [4/12/1426]
Ngày hôm nay quan Tổng binh
Thành sơn hầu Vương Thông tiến binh đánh giặc, bị thua to, giặc bèn vây
thành Đông Quan. Trước đó tướng giặc Lê Thiện chia quân làm 3 đạo, tới đánh
thành Giao Chỉ. Một đạo từ cửa phía tây đánh vào thành đất Thanh Oai, một đạo từ
Giáo Trường đánh Hạ Quan; bị Đô đốc Trần Tuấn dùng súng lửa, hỏa tiễn đánh lui;
một đạo đánh vào cửa nhỏ tại ven sông gặp Sự quan Lý An mang quân tinh nhuệ
giao chiến, giặc bị chết rất nhiều, nửa đêm bèn rút lui.
Lúc này Thông điều quân chia
đường mà tiến. Tham tướng Đô đốc Mã Ánh mang quân đến Thanh Oai gặp giặc, đánh
bại chúng. Rồi đến huyện Thạch Thất họp quân với Thông, cả hai mang quân đến
huyện Ứng Bình [ huyện Chương Mỹ, Hà Tây] trú quân tại
Ninh Kiều. Các tướng nói đất này hiểm trở nên lập trại để xem tình hình, không
nên coi thường mà tiến. Thông không nghe, cho điều quân qua cầu, đường sá lầy
trơn, người ngựa lặn lội, phục binh nỗi lên, quan quân bị bại; Thượng thư Trần
Hiệp chết, Đô Chỉ huy Lý Đằng bị chết vào tay giặc, Thông trúng thương nên quay
về. Lê Lợi tại Nghệ An nghe tin bèn mang đại quân tới Thanh Đàm, đánh các xứ tại
Bắc Giang, rồi vây thành Đông Quan. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang150.
Về sự thực, được sứ hai
nước trân trọng chép, nhưng Sử quan triều Tự Đức tỏ vẻ nghi ngờ; có
thể hiểu được như sau. Dưới triều Tự Đức, vua quan nhà Nguyễn xa lìa
dân chúng, đất nước loạn lạc liên miên; đa số dân chống đối, hoặc
lạnh nhạt với triều đình. Đối phó với thực dân Pháp bấy giờ, nhà
nước không vận dụng được sức mạnh của nhân dân, rốt cuộc thua hết
trận này đến trận khác; bàn đến điểm yếu về quân sự, họ chỉ biết
tin vào thuyết khả năng, quân nhiều thắng quân ít, “ưu thắng liệt
bại”; những bộ óc đó khó có thể hiểu được sức mạnh nhân dân. Đạo
quân được dân ủng hộ, dân làm tai mắt, lớn nhanh như cậu bé Phù
Đổng, có sức dời non lấp bể, làm nên chiến thắng lẫy lừng. Như dưới
đời Trần:
“Cửa Hàm Tử
giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh
trưng.” Bình Ngô Đại Cáo.
Hoặc đời Lê:
“Gươm mài
đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch
không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô,
tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để
ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu
trôi đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật
nguệt phải mờ.” Bình
Ngô Đại Cáo.
Chú thích:
1.Khám hợp: Văn bản xét thành
tích xem có đủ tiêu chuẩn để làm quan hay không.
2.Sự quan: quan lại bị tội, được
tạm thời làm việc để lập công chuộc tội.
3.Khăn
yếm: dịch chữ “cân quắc”. Cân quắc là đồ trang sức trên đầu của đàn bà. Xưa
Gia Cát Lượng đi đánh Ngụy, đem quân đến đồng bằng phía nam sông Vị Thủy,
khiêu chiến mãi, Tư Mã Ý không dám ra đánh. Lượng sai đưa cho Ý những khăn
của đàn bà để làm nhục (Tấn Thư). 4.Điếu
dân phạt tội nghĩa là thương dân sống khổ mà đánh kẻ có tội để cứu dân. Mượn
tiếng điếu dân phạt tội ý chỉ nhà Minh giả danh đánh kẻ thoán nghịch là họ
Hồ, phù lập họ Trần, rồi đem quân sang chiếm nước ta. 5. Đại
tang, theo tục là chỉ tang cha mẹ, nhưng lời chú ở sách Chu lễ thì đại tang
là tang nhà vua, hoàng hậu và thế tử. “Kế tiếp đại tang” ở đây là nói tang
vua Minh; tháng 8 năm 1424 Minh Thành Tổ chết, thái tử là Cao Xý lên nối ngôi
tức vua Minh Nhân Tông; tháng 7 năm 1425 Minh Nhân tông lại chết, thái tử là
Chiêm Cơ lên nối ngôi tức vua Minh Tuyên Tông. 6.Cùng
binh độc vũ: sính dùng vũ lục, đánh nhau không thôi. 7.Tiêu
tường: tiêu là nghiêm kính, tường là cái bình phong xây ở bên trong cổng.
Theo lễ xưa, vua tôi tiếp kiến nhau, đến chỗ bình phòng thì càng nghiêm kính,
vì thế mới gọi là tiêu tường. Thường dùng tiêu tường chỉ bên trong.
Sách Luận Ngữ,
Khổng tử có nói: “Ngô khủng Quý tôn chi ưu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu
tường chi nội dã” (Ta e mối lo của họ Quý tôn không ở nước Chuyên Du, mà ở
nơi tiêu tường vậy). Ý nói mối lo không ở bên ngoài, mà lại ở bên trong. |
|
|
8.Cầu Xa Lộc: tục gọi là
cầu Ròng Rọc ở gần làng Tứ Xã, huyện Lâm Thao, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
9. Nhân Mục: Tức làng Mọc, nay
là phường Nhân Chính quận Thanh Xuân, Hà Nội.
10.Ninh Kiều: là vùng Ninh Sơn,
xã Ngọc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay. Đây là một vị trí trọng yếu
và hiểm trở nằm trên đường thượng đạo từ Đông Quan vào Thiên Quan và Thanh Hóa.
11.Bến Cổ Sở: tức bến Giá ở xã
Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay.
12.Cầu Sa Đôi: cầu bắc ngang sông
Nhuệ còn gọi là cầu Đôi ở phía tây xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm , Hà Nội.
13. Sốm: Cổ Lãm, tức tổng Thắng
Lãm, tên nôm là Sốm, nay gồm các xã Phú Lâm, Phú Cường, Văn Khê, huyện Thanh
Oai, tỉnh Hà Tây.
14.Du binh: quân lưu động, tiền
thám.
15.Ba La: Nguyên văn là "Tam
La kiều". Cái cầu chỗ giáp giới ba làng La, tức là La Khê, La Cả và La
Nội, nay thuộc xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.
16.Cao Bộ: tên nôm là làng Bụa,
thuộc xã Trung Hòa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.
17.Kỳ binh: Toán quân xuất kỳ
bất ý, ập đánh đối phương khi không phòng bị hoặc không lường tính được trước.
18.Chính binh: Toán quân đường
đường chính chính ra trận đánh nhau với đối phương.
Tin thắng
trận tại Tốt Động báo đến hành doanh Lỗi Giang, Thanh Hóa; Bình định
vương cấp tốc mang đại quân ra Bắc; khi đến huyện Chương Mỹ [Hà Tây],
các tướng đều ra đón mừng. Bấy giờ quân Minh thiếu vũ khí, bèn cho phá
hủy chuông, vạc của ta làm súng đạn; cùng cử người thay thế Thượng
thư Trần Hiệp đã tử trận:
“Tin thắng
trận báo về hành dinh ở Lỗi Giang. Bấy giờ, vua đương đóng quân ở Thanh Hóa, hội
các quân ở Hải Tây, nhận được thư báo thắng trận của bọn Lê Lễ, bèn đích thân dẫn
đại quân và 20 thớt voi chia hai đường thủy, lục, ngày đêm đi gấp. Ngày 11 [10/11/1426], tới sông
Lũng Giang [sông Đáy] đóng dinh, các tướng tới đón
mừng…. Bọn Vương Thông nhà Minh vì bị thua ở Tốt Động, quân khí cơ hồ mất sạch,
bèn phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh (1) để
làm súng đạn, hỏa khí. Sau khi Trần Hiệp chết, Hữu bố chính sứ Dặc Khiêm giữ ấn
của Bố chính ty, án sát sứ Dương Thì Tập giữ ấn của Án sát ty, Đô đốc thiêm sự
Trần Duệ giữ ấn của Đô ty. Từ đó, lịch chính sóc (2) của nhà
Minh không được thi hành ở các quận huyện nước ta nữa. Ngày 22, vua tiền quân đến
Tây Phù Liệt [tây Thanh Trì, Hà Nội],” Toàn Thư, Bản
Kỷ quyển 10, trang 22b.
Bình định vương tự làm tướng,
chỉ huy đạo quân chủ lực, tiến đánh thành Đông Quan, giết nhiều quân địch,
tịch thu hàng trăm chiến thuyền:
“Ngày
23 [22/11/1426], vua sai bọn Trần Hãn, Lê Bị đem hơn trăm chiếc
thuyền thủy quân, ngược dòng sông Đại Lũng [sông
Đáy] ra cửa sông Hát, rồi thuận dòng xuôi đến bến Đông Bộ Đầu [hàng
Than, Hà Nội] sông Lô [sông Hồng] , bọn Lê Lễ đem hơn 1 vạn quân
bộ bí mật tiến đến cầu Tây Dương. Vua đích thân dẫn binh tượng đến cửa Nam
ngoài thành Đại La để đánh thành Đông Quan. Đến đêm, hồi canh ba, quân bốn mặt
đánh ập vào, phóng lửa đốt các nhà ở ngoài thành, khói lửa mù mịt đầy trời. Các
doanh quân đóng ngoài thành của Phương Chính tranh nhau chạy vào cửa thành xác
chết gối lên nhau. Ta bắt hết những người trong nước buộc phải theo giặc và hơn
trăm chiến thuyền cùng rất nhiều khí giới, nghi trượng. Giặc biết là quân dân
các vùng gần đó đều theo về ta cả, thế là mỗi ngày một cùng quẫn, lại đắp thêm
tường lũy, liều chết cố thủ, để đợi viện binh. Vua dời ra đóng dinh ở Đông Phù
Liệt [đông Thanh Trì, Hà Nội].” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 22b
Tại dinh ở phía đông Thanh
Trì, các hào kiệt, nhân dân tấp nập đến yết kiến, nguyện liều chết
đánh giặc. Bình định vương ân cần phủ dụ, rồi tùy tài năng giao chức
vụ. Bình định vương chia các lộ vùng Đông Đô thành 4 đạo; sách Lịch triều hiến chương của
Phan Huy Chú, chép như sau: Các trấn Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa và Gia
Hưng thuộc Tây Đạo; các lộ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách Thượng, Nam Sách Hạ
và trấn An Bang đều thuộc Đông Đạo; các lộ, trấn Bắc Giang, Thái Nguyên đều
thuộc Bắc Đạo; các lộ Khoái Châu, Lý Nhân , Tân Hưng, Kiến Xương và Thiên
Trường đều thuộc Nam Đạo:
“Khi vua mới
tới thành Đông Đô, những hào kiệt ở kinh lộ và nhân dân các phủ huyện cùng các
tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập kéo đến cửa quân, xin hết sức liều chết đánh
thành giặc ở các xứ. Vua biểu dương lòng thành của họ, phủ dụ, úy lạo, báo cho
họ biết lẽ bỏ nghịch theo thuận. Từ kẻ sĩ tới dân chúng, hễ ai đến quân doanh,
vua đều dùng lời lẽ khiêm tốn, dùng nghi lễ trang trọng để tiếp đãi, rồi tùy
theo tài năng hơn hay kém của từng người để bố trí các chức vụ khác nhau. Lấy
ban thưởng để khích lệ khiến người người đều hăng hái, dùng hình phạt mà răn
đe, nên ai ai cũng giữ gìn. Vì vậy, mọi người đều cảm kích mong được dốc trọn sức
mình, quân đi đến đâu là thành công đến đấy. Vua chia các lộ trấn ở Đông Đô
thành bốn đạo. Đặt quan lại văn võ trong ngoài và tuần kiểm ở các xứ cửa biển để
khám xét những người qua lại và bắt bọn nguỵ quan, bọn phản bội, bọn ngang ngạnh
không chịu cải hóa, bọn ăn ở hai lòng, bọn mang thư chạy về phương Bắc. Lại dụ
những người có tài văn chương mà chưa được nhận chức, nếu ai viết thư dụ được
người thành Đông Quan, khiến họ mở cửa thành ra hàng và giảng hòa về nước, thì
sẽ được thăng chức vượt cấp. Lại ra lệnh tịch thu vợ con, nô tỳ sản nghiệp của
bọn ngụy quan nộp lên, còn thóc lúa của chúng thì vẫn để ở bản xứ để đợi cung cấp
cho quân đội.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 23b.
Bấy giờ Vương Thông nhà Minh
nhiều lần thua trận, muốn bãi chiến, rút quân về; y bèn vin vào lời Vua Tuyên
Tông bàn với các cận thần vào ngày 3 tháng 4 năm Tuyên Đức thứ nhất
[9/5/1426] rằng “ Cho nơi này tự lập một nước, hàng năm triều cống, bảo toàn sinh mệnh
dân một phương, mà cũng để người Trung Quốc được nghĩ ngơi nữa.” Rồi
sai Sứ giả ngầm khuyên Vua Lê Lợi vin vào danh nghĩa lập con cháu họ Trần ấy
để xin bãi binh; nhà Vua cũng muốn dân được nghỉ ngơi, nên ưng thuận:
“Mùa đông,
tháng 11 [29/11/28/12/1426], vua tìm được Trần Cảo lập
làm vua. Trước đó, có người tên là Hồ Ông, là con một người ăn xin, trốn theo Cầm
Quý, giả xưng Trần Cảo con cháu họ Trần. Bấy giờ người
trong nước khổ về chính lệnh hà khắc của giặc, mong có người làm chủ, mà vua
thì gấp việc diệt giặc cứu dân, nên sai người đón lập Cảo cho xong việc quyền
nghi nhất thời, mà cũng muốn mượn cớ để trả lời nhà Minh để họ tin. Đặt niên hiệu
là Thiên Khánh, sai Tả bộc xạ Lê Quốc Hưng dạy cho, nhưng thực ra là để coi giữ.
Cảo trước đóng ở núi Không Lộ [huyện Thạch Thất, Hà
Tây] , sau dời về Võ Ninh [huyện Quế Võ, Bắc
Ninh]. Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 24b.
Sau khi có thỏa thuận về
việc lập Vua bù nhìn Trần Cảo; Bình định vương gửi thư cho bọn Vương
Thông yêu cầu đem quan quân tại các thành trong nước về thành Đông Đô,
rồi chuẩn bị sửa sang cầu đường để đem đại quân nhà Minh trở về
nước:
“THƯ TRẢ LỜI
BỌN TỔNG BINH VƯƠNG THÔNG THÁI GIÁM SƠN THỌ.
Tôi nghe, trời đất đối với
muôn vật, nổi sấm sét mà ý hiếu sinh vẫn có ở trong; cha mẹ đối với các con,
đánh roi vọt mà ơn cức dục vẫn có ở đây. Nay vâng được thư của ngài cho tôi được
tự tân, hân hạnh khôn xiết, thật không khác đức lớn của trời đất cha mẹ, dẫu có
tan xương, nát thịt, cũng không đủ báo đền. Song nếu ngài thực có lòng thương
xót dân chúng, thì nên sai đầu mục đến các thành Diễn Châu, Nghệ An,
Tân Bình [Quảng Bình], ra lệnh cho họ đem quân
về. Tôi sẽ lập tức sắm đủ phương vật tiến công, cúi xin ngài sai quan cùng đi với
tử đệ thân tín của tôi để đến đầu hàng phục tội. Cầu cống đường sá thì tôi xin
nhận sửa đắp, không phải phiền đến quan quân. Giá được người nhận lời, không những
sinh linh nước tôi được khỏi lầm than, mà binh sĩ Trung Quốc cũng khỏi nỗi
khổ gươm giáo vậy.” Quân
Trung Từ Mệnh Tập, a9.
Tư liệu trên cho biết bọn Vương
Thông đánh nhau với quân ta, nhiều lần bị thua, tình thế ngày một cùng quẫn;
bèn sai người đem thư đến xin hòa, mong được toàn quân rút về nước. Bình
định vương ưng thuận, hẹn ngày cho Thông điều động tất cả người và ngựa ở các
thành phải đến họp ở Đông Đô, sẽ cho về nước hết cả. Bấy giờ bọn thổ quan như
Lương Nhữ Hốt vốn làm tay sai cho người Minh, sợ rằng sau khi quân Minh rút
lui, sẽ bị tru diệt; bèn đem truyện trước kia Ô Mã Nhi đầu hàng nhà Trần, bị
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lập mưu giết chết ra khuyên. Nên bọn Thông đâm
ra nghi ngờ, ngầm bày mưu tính kế, bí mật sai người mang thư bọc sáp xin viện
binh. Bình định vương ghét chúng tráo trở, bèn tuyệt giao; rồi cho mang
quân đi các nơi đánh thành:
“Tháng 12, cấm
chặt phá hoa quả, cây cối và cướp bóc của dân. Vua thân đốc suất tướng sĩ ngày
đêm đánh Đông Đô. Bọn Vương Thông, Sơn Thọ nhà Minh hễ đánh là thua, chán nản
lo sợ, mưu kế đã cùng, viện binh không có, tình thế ngày một khốn quẫn, bèn sai
người đưa thư xin hòa, mong được toàn quân trở về nước. Vua nói:
‘Câu đó đúng hợp ý ta. Vả lại,
binh pháp không đánh mà khuất phục được quân của người là kế hay hơn cả.’
Bèn bằng lòng cho giảng
hòa, hẹn ngày kíp gọi quân sĩ ở các thành cùng một lúc về tập hợp ở thành Đông
Quan để cho về nước cả. Sai cận thần trao đổi với quân Minh, cho phép họ được
đi lại, mua bán không khác gì dân thường.
Bấy giờ, bọn nguỵ Đô ty Trần
Phong (3) , Tham chính Lương Nhữ Hốt (4) Đô chỉ
huy Trần An Vinh, đã bán nước làm quan to cho giăc, sợ sau khi giặc rút về,
chúng sẽ hết đường sống sót, bèn ngấm ngầm làm kế phản gián, bảo [người
Minh] rằng:
‘Trước kia Ô
Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, đem quân về hàng. Hưng Đạo Đại Vương cho hàng,
nhưng dùng mưu lấy thuyền lớn cho đưa họ về nước, rồi cho người giỏi bơi lặn
sung làm phu thuyền. Ra đến ngoài biển, lừa lúc ban đêm mọi người ngủ say, bọn
phu thuyền lặn xuống nước, dùi lủng đáy thuyền, những người đầu hàng đều bị chết
đuối hết, không một ai sống sót trở về được’.
Bọn Thông tin lời, đem lòng
ngờ vực, lại nảy ý khác, đắp thêm tầng lũy kép hào, thả chông để làm kế tạm bợ,
ngoài mặt nói hoà hiếu, nhưng ngấm ngầm bày mưu tính kế. Chúng bí mật sai mấy
chục bọn mang thư bọc sáp đi lối tắt về xin viện binh. Vua bắt được người
mang thư, ghét bọn chúng tráo trở, bèn bí mật phục quân ở bốn phía quanh thành
Đông Quan, đón giặc ra vào, bắt được hơn 3 nghìn tên dò thám, hơn 5 trăm con ngựa.
Từ đấy, quân Minh đóng chặt cửa thành không ra, sứ qua lại cũng dứt. Vua sai
các tướng chia quân đi đánh các thành: Quốc Hưng đánh hai thành Điêu Diêu [huyện
Gia Lâm, Hà Nội], và Thị Cầu [thị xã Bắc Ninh]; Lê Khả và
Lê Khuyển đánh thành Tam Giang [huyện Lâm Thao, tỉnh Phú
Thọ] ; Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý, Lê Lãnh và Lê Triện đánh thành Xương Giang [thị
xã Bắc Giang]; Lê Lựu và Lê Bôi đánh thành Khâu Ôn [tỉnh
lỵ Lạng Sơn] .”Toàn Thư,
Bản Kỷ quyển 10, trang 24b.
Bọn Vương Thông gửi thư trách
Bình định vương bội ước, như giết người đi lấy cỏ, nên có thư đáp
lại:
“ LẠI THƯ TRẢ
LỜI VƯƠNG THÔNG.
Tôi nghe: Người Việt (5) kiêu
bạc, người Tề trí trá, ấy là bởi khí đất sinh ra, tính người bẩm thụ, đó là lẽ
thường xưa nay, nên chỉ trong đó dẫu có trung tín thành thực mà cũng bị mang tiếng
lây. Nay các hạ (6) bảo là “trước sau bất
nhất”, đó là tại sứ nhân đi lại, không hiểu sự thế, đến nỗi hai quân ngờ vực
nhau, chứ tôi nào dám có bụng gì khác đâu. Cúi mong các ngài xét rõ mà thứ cho.
Như bảo “quân lính đi lấy cỏ cứ thấy bị giết”, thì đó vì những quân thượng du,
lũ Xa Tham, bọn Hồng y (7), hoặc
có tính tham của mà thích giết người nên đến nỗi thế chăng? Tôi vốn không hề
nghe thấy. Nhưng cũng đã răn bảo, lâu nay chúng đã yên thuần. Như bảo “quân
nhân các vệ (8) chưa thấy đưa đến”, đó là vì đường xá lối hiểm, quân lính
khó đi; song sẽ lục tục đến nơi, có thể bấm đốt ngón tay mà đợi, không phải là
dám quên đâu. Như bảo “sứ nhân mang biểu cũng chưa thực đã đến Khâu Ôn (9
)”, đó là vì người đưa sứ giả (10) lười
nhác không chịu đi, lại về phao những điều không căn cứ để thêm sinh chuyện. Bọn
tôi thực không có ý gì khác cả. Nếu các hạ không tin thì xin lại sai một vài
người thân tín cùng đi với hai ba người đầu mục của tôi đến ngay Khâu Ôn,
xét hỏi thực hư để rõ thật dối, như thế cũng được. Như bảo “thuyền ghe, cầu đường
chưa thấy sửa sang”, thì đó là vì hòa hảo chưa định, nên mới khiên diên. Như việc
hòa hảo đã thành, thì việc sửa lại cũng chưa muộn. Từ đây về sau, giá ngài bỏ
cái lòng nghi hoặc, dốc lòng hòa hảo, thì dưới sẽ làm cho An Nam thoát khổ
lầm than, trên sẽ khiến Trung Quốc khỏi nỗi nhọc mệt, thực là phúc cho
thiên hạ lắm.” (Quân
Trung Từ Mệnh Tập, a14.)
Trong thư này, Bình định
vương tố cáo âm mưu đen tối và thái độ lật lọng của Vương Thông như đắp thêm
hào lũy, phá chuông chùa đúc súng:
“LẠI THƯ CHO
VƯƠNG THÔNG SƠN THỌ.
Tôi nghe nói: “Tín giả quốc
chi bảo, Nhân nhi vô tín, kỳ hà dĩ hành chi tai?” [Điều tín
là vật báu của nước. Người ta mà không có điều tín, thì liệu lấy cái gì mà làm
việc?]. Mới đây được ngài gửi thư và sai người đến ước hòa, tôi đã
nhất nhất nghe theo. Nay thấy ở trong thành vẫn còn đào hào cắm chông, dựng rào
đắp lũy, phá đồ cổ, để đúc ống phun lửa (11) và đồ
binh khí, thế là các ngài định đem quân về nước chăng? Hay giữ bền thành trì
chăng? Tôi đều không thể rõ được. Sách Truyện (12) có
câu: “Bất thành vô vật” [Không có thành thực thì sự vật
gì cũng không có được], là bởi lòng mà không thực thì việc gì cũng là
giả dối cả. Các ngài nếu thực không bỏ lời ước cũ thì phàm làm gì cũng nên lợi
hại rõ ràng. Muốn rút quân thì cứ rút quân, muốn cố giữ thì cứ cố giữ, hà tất
ngoài thì nói giảng hòa mà trong thì mưu tính khác? Đừng nên trước sau trái
nhau, trong ngoài bất nhất như thế; kể ra tiểu dân dẫu ngu dốt nhưng rất sáng
suốt. Tôi đây tuy hôn ngu không biết gì, nhưng tất như lời Khổng tử nói “Thị kỳ
sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an” (13), thế thì
nhân tình thực dối thế nào, mảy may cũng không thể che giấu được. Thư nói không
hết.” (Quân
Trung Từ Mệnh Tập, a15.)
Thư tiếp Nguyễn Trãi viết
thay Bình định vương Lê Lợi, nhấn mạnh sự bất nhất trong nội bộ quân
Minh, với hai phe chủ hòa, chủ chiến:
“LẠI THƯ CHO
VƯƠNG THÔNG.
Trước đây được thư của ngài
cùng bản thảo tâu nói “nên tha tội cho nước An Nam, lại lập con cháu họ Trần”(14), tôi cùng
bọn đầu mục quân nhân, ai cũng hân hoan cổ võ, cùng bảo nhau rằng: “Nếu quả được
như thế, thì từ nay về sau Bắc Nam sẽ vô sự”. Song trời thì cao mà hoàng đế thì
xa, ngài thì quyền hành không qui nhất, chính sự do nhiều người, lời nói trái với
việc làm, mỗi người một bụng (15). Phàm
các điều ngài nói, các việc ngài làm ngày trước, tôi đã thấy rõ cả rồi. Không
biết công việc ngày nay sẽ ra thế nào? Vì thế tôi cứ giữ khư khư cái kiến thức
hẹp hòi, mà nằm chẳng yên giường, ăn không ngon miệng, canh cánh bên lòng, muốn
thôi không được. Huống chi sự thế ngày trước với sự thế ngày nay, thực cùng một
mối, thế mà một người bảo phải, mười người lại bảo trái, một người làm việc, mười
người lại phá việc. Người ta nói: “Làm nhà bên đường, ba năm không xong” là thế
đấy. Xét vì việc làm như thế, cho nên chúng tôi đến nay vẫn khôn xiết nỗi khổ sở.
Ngài nếu thiết tha đến chúng tôi, thì đừng làm như ngày trước nữa, mà nên để
tâm muôn nghìn phần, thế là may mắn lớn cho tôi. Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a16.)
Trước đây Vương Thông thỏa
thuận hễ khi nào Bình định vương sai sứ đem biểu cầu phong sang triều đình
nhà Minh xin lập con cháu nhà Trần lên làm vua, thì lập tức quân Minh sẽ rút về
nước. Hiện nay sứ đã đi rồi, bèn gửi thư vặn hỏi Thông có giữ lời
hứa hay không:
“LẠI THƯ CHO
VƯƠNG THÔNG.
Trước đây vâng biểu tiếp thư
của ngài cùng lời sứ giả, điều nói là “Chỉ theo lời ước trước, không có điều gì
khác”; lại nói “sáng mà tiến biểu, tối sẽ rút quân”, bức thư mực chưa khô, lời
nói bên tai còn vẳng. Nay sứ đã đi rồi, mà người tiễn sứ cũng đã về rồi, không
rõ ngài có quả theo lời nói trước không? hay lại có điều gì khác chăng? Nếu quả
theo lời nói trước, thì báo cho rõ ràng, khiến tôi được sửa sang cầu đường, chuẩn
bị lương thực để đời ngày đi. Nếu có điều khác, thực sự điều tín không bỏ được
đâu. Cổ nhân có câu: “Khử thực khử binh, tín bất khả khử” (Lương ăn và quân có
thể bỏ được, điều tín không thể bỏ được), cho nên Văn công không tham lợi đánh
nước Nguyên (16), Thương quân không bỏ thưởng dời cây gỗ (17). Nay ngài
là bực tướng có đọc thi thư, lại không bằng Văn công Thương quân hay sao? Định
bỏ điều tín hay sao? Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a17.)
Về việc Bình định vương sai
quân đi đánh các nơi; sử Trung Quốc đề cập đến trường hợp thành nhà
Hồ Thanh Hóa. Trước đó Tổng binh Vương Thông ra lệnh rút quân về thành
Đông Quan, nhưng viên Tri châu coi thành này không tuân ; rồi bị nghĩa
quân tấn công, nhưng không hạ được; cuối cùng đến lúc nghị hòa cho
quân Minh rút , thì đám quân này cũng được về nước:
“Ngày 5
tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [2/1/1427]
Ngày hôm nay giặc họ Lê đánh
châu Thanh Hóa không hạ được, bèn rút đi.
Trước đó, từ khi thất bại
tại Ninh Kiều, Thành sơn hầu Vương Thông không còn vững lòng như trước, tự tiện
cho Lê Lợi cai quản từ Thanh Hóa trở vào nam, truyền hịch cho quan quân tại nơi
này rút về thành Đông Quan. Riêng châu Thanh Hóa không chịu nghe lệnh. Trước
kia Lê Lợi đánh Thanh Hóa, Tri châu La Thông, Chỉ huy Đả Trung đốc suất quân
dân kiên thủ, có lúc mang quân đánh núi đất (18), sát
thương giặc nhiều, thế giặc bớt căng thẳng. Lúc này hịch tới, người trong thành
kinh sợ. Thông nói với Trung rằng:
‘ Bọn chúng
ta chống cự, mấy lần đánh bại giặc, ra khỏi thành thì không sống được; nay tại
đây thành cao, hào sâu, lương nhiều, dân đông; so với việc chịu trói, chi bằng
tận trung mà chết, mà chưa chắc đã chết đâu! Bọn [Vương] Thông
bán thành cho giặc, lệnh này không thể theo được’
Rồi cùng với
Trung tưởng lệ quân sĩ, giữ thành vững thêm; giặc đánh không hạ được, bèn bỏ
đi. Khi Vương Thông bỏ Giao Chỉ, bọn La Thông cũng trở về kinh đô.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 155)
Sau khi Vương Thông truyền hịch
cho quan quân các nơi rút về thành Đông Quan, Bình định vương gửi thư cho
bọn Hình nội quan La Thông khuyên chuẩn bị, để cùng rút quân một lúc
với các thành Nghệ An, Diễn Châu tại phía nam:
“Thư cho
Hình nội quan cùng bọn Đả Trung và Lương Nhữ Hốt.
Thư tỏ cùng Hình đại nhân và
Đả, Lương chư công: Hiện nay hòa hảo đã thành, các ngài nên mau chóng thu xếp
hành trang đợi Thái công tự Nghệ An đến và quân Diễn Châu qua đây thì cùng
đi một thể. Hiện nay cầu sàn trên đường đều đã sửa chữa, lương thực cung cấp
cũng đã chuẩn bị, nếu các ngài không đi, chỉ sợ Thái công đi rồi thì không ai
đi cùng, lương thực e hoặc thiếu thốn, cầu sàn e hoặc đổ sụt, sau này thật là
khó khăn. Vì thế xin báo các ngài biết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a12.)
Phía nghĩa quân nhận thấy
bọn quan quân nhà Minh tại thành nhà Hồ, Thanh Hóa; vẫn còn ngoan cố
cố thủ, nên gửi thư hăm dọa:
“Lại thư
cho Đả Trung và Lương Nhữ Hốt.
Thư tỏ cùng Đả lão quan,
Lương tướng công cùng các vị. Nếu muốn cả nhà lớn bé đều được bình yên vô sự,
các ngài nên nghe lời tôi, mau chóng thu xếp hành trang, ra ở ngoài thành, đợi
quan quân ở Nghệ An Diễn Châu để cùng đi. Nếu không thế thì sau này hối
không kịp đâu! Các ngài há chẳng thấy quân nhân các thành Diễn Châu, Nghệ An,
Thuận Hóa, hiện nay vợ con đều được an toàn, vui vui vẻ vẻ, không có việc
gì. Sao các ngài lại không nghĩ tới điều đó, mà cứ muốn tự khổ như thế? Nếu tôi
quả có bụng muốn hại các ngài, thì không có cách nào thoát đâu. Hiện nay Thánh
thượng [Vua Minh] rộng ân cho sắc chỉ cho
quan Tổng binh [Vương Thông] được tiện nghi hành sự (19), cho lập họ
Trần rồi đem quân về Kinh, để hai nước khỏi nỗi khổ can qua. Tôi cũng lấy đạo
nhân nghĩa, hết lòng kính thờ Triều đình, phàm quan quân của Triều đình đều được
đưa về hết. Các nơi đi qua, cầu đường sửa sang hết, lương thực cung cấp đầy đủ,
thế là tôi muốn để tiếng mãi nghìn đời về sau, nên không muốn cùng các ngài
tranh giành được thua một lúc. Hoặc nếu không làm như thế, thì chỉ trong khoảng
một tháng, các ngài dẫu có thành đồng hào nóng (20) cũng phải bỏ
thôi! Đến lúc bấy giờ thì không làm sao được nữa. Trộm nghĩ kế cho các ngài, chẳng
gì bằng mau mau lên đường. Xin chớ hồ nghi mà hỏng việc. Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a13.)
Quân Minh trong thành nhà Hồ
(tức thành Thanh Hóa), đứng đầu là đô chỉ huy Đả Trung và Tham chính Lương Nhữ
Hốt vẫn ngoan cố chống lại việc giảng hòa rút quân. Đây là lần thứ ba và
cũng là lần cuối gửi thư dụ hàng và cảnh cáo quân địch:
“Thư cho Đả
Trung và Lương Nhữ Hốt.
Kính thư gửi các túc hạ Đả
công đô chỉ huy, Lương công đại tham chính, trấn thủ thành Tây Đô.
Tôi cùng các ngài ngày trước
đã có lời giao ước với nhau, trên có trời đất quỷ thần tưởng đã chứng giám. Nào
ngờ ngày nay lại thành sai trái. Nay xét việc đã làm, đều là vì nước quên mình,
không có duyên cớ riêng tây gì cả. Song điều đáng quý ở người quân tử là hiểu
thời thông hiếu mà thôi. Vả lại vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại. Từ xưa đến
nay, bao giờ cũng thế. Nước An Nam xưa bị Trung Quốc xâm chiếm là từ
Tần Hán trở đi. Phương chi trời đã phân cách Nam Bắc, có núi cao sông lớn, bờ
cõi rành rành; dẫu mạnh như Tần, giàu như Tùy, nào có thể cậy lực được
đâu! Vả đem sự thế ngày nay mà bàn, thì như các thành Tân Bình, Thuận Hóa,
Nghệ An, Diễn Châu cùng Tam Giang, Chí Linh, Thị Cầu,
Xương Giang, Khâu Ôn, Tiền Vệ Điêu Diêu, trong các nơi ấy, những
tướng trí dũng, những quan mưu lược, nào phải không có ai, mà thành không phải
là không cao, hào không phải là không sâu, lương chứa không phải là không nhiều,
quân giữ không phải là không vững, song họ cũng đều đã mở thành cởi giáp, dắt
díu vợ con, đến hội với ta, ước định hẹn ngày kéo quân về nước. Sao mà các ngài
lại cứ nệ giữ thói thường, không thông sự biến, định lấy thành cao vài nhận [1 nhận
khoảng 7 thước ta] mà giam hãm những người đi lâu muốn về, cho thế là khả dĩ
vui sướng qua ngày, mà không đoái đến mấy nghìn tính mệnh. Người nhân giả lại
làm thế ư? Nay ta nếu chọn quân sĩ ở Thanh Hóa, Diễn Châu và
Tây Đô, chỉ 3, 4 vạn người, kéo đến thừa tiếp ở dưới thành, thì trong khoảng
giờ phút, thành sẽ tan tựa tro bay, vỡ như trúc chẻ. Đến lúc bấy giờ, các ngài
hối không kịp nữa, muốn bảo toàn tính mệnh vợ con, thật khó lắm thay! Nay cái kế
hay hơn cả cho các ngài, chẳng gì sớm bỏ giáp binh, ra ngoài thành cùng quân của
Thái đô đốc [Thái Phúc] lục túc kéo về, để trả
lại cho ta cảnh thổ nước An Nam, khiến cho hai bên đều tiện, như thế chẳng
lại hay ư? Nếu mà không thế thì chẳng làm thế nào được nữa.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a27.)
Tại vùng biên thùy Lạng Sơn,
nghĩa quân và dân địa phương đánh Ải Lưu, viên quan giữ thành bị giết;
nhưng rồi viên Bách hộ dưới quyền cầm cự được:
“Ngày 18
tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [15/1/1427].
Đêm hôm nay, giặc hơn một vạn
người địa phương Giao Chỉ, đến bao vây và tấn công Ải Lưu [Lạng
Sơn], bọn Bách hộ Hoàng Bưu giữ thành bị hại. Bách hộ Vạn Tông bí
mật trèo lên thành hô lớn, cầm đao cùng quân cảm tử từ cửa nam ra đánh; giặc
rút chạy.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
156; )
Tại Phú Thọ, quân Minh trong
đó có viên Huyện thừa huyện Thanh Ba, tuân lệnh nghĩa quân đến khuyên
Đồng tri phủ Tuyên Hóa ra hàng, nhưng viên này chống lại:
“Ngày 24
tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [21/1/1427]
Ngày hôm nay viên Đồng tri phủ
Tuyên Hóa [Vĩnh Phúc] Đào Quí Dung giữ thành
Bắc Nhàn sai bọn dân binh Nguyễn Chấp Tiên đuổi giặc họ Lê đến huyện Thanh Ba [Phú
Thọ], bị giặc bắt. Rồi giặc sai tên này trở về, cùng Huyện thừa Hoàng
Linh Châu chiêu dụ Quí Dung hàng. Quí Dung chửi rằng:
‘Ta trước đây là Thổ quan, được
triều đình giao chức phụ tá, từng được ban sắc dụ khen thưởng và cho giữ đất
này, phụ ân bội đức không phải là đạo bề tôi, ta thề không theo phản nghịch.’
Bọn Linh
Châu dùng binh bức hiếp, nhưng Quí Dung vẫn vững lòng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 156)
Vào cuối năm Tuyên Đức thứ
nhất [1/1427], Vua Tuyên Tông nhận được thư bọc sáp của Vương Thông xin
cứu viện; bèn sai Liễu Thăng, Mộc Thạnh mang 2 đạo quân từ Quảng Tây,
Vân Nam sang Giao Chỉ:
“Ngày 26
tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427]
Do bọn Thành sơn hầu Vương
Thông tâu giặc Giao Chỉ trở nên càn dữ, mệnh Thái tử Thái truyền An viễn
hầu Liễu Thăng mang ấn Chinh Lỗ Phó Tướng quân giữ chức Tổng binh, Bảo định Bá
Lương Minh sung Phó Tổng binh, Đô đốc Thôi Tụ sung Hữu Tham tướng, mang quan
quân đến Giao Chỉ phối hợp với bọn quan Tổng binh Kiềm quốc công Mộc Thạnh đánh
bắt man khấu. Các quan quân lãnh đi, cùng các vệ quan quân, thổ quân, thổ dân tại
Giao Chỉ đều dưới quyền điều động tiết chế.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 157)
Cánh quân Vân Nam do Mộc Thạnh
làm Tổng binh, Từ Hanh giữ chức Tả phó tổng binh, Đàm Trung Hữu
phó tổng binh:
“Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427]
Mệnh Thái truyền Kiềm quốc
công Mộc Thạnh mang ấn Chinh Di Tướng quân sung chức Tổng binh, Hưng an bá Từ
Hanh sung chức Tả Phó Tổng binh, Tân ninh bá Đàm Trung sung chức Hữu Phó Tổng
binh; mang quan quân đến Giao Chỉ phối hợp với quan Tổng binh An viễn hầu Liễu
Thăng đánh bắt man khấu.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
157)
Vua Minh sai Thượng thư Lý
Khánh làm tham mưu cho 2 cánh quân, được toàn quyền chọn phụ tá tháp
tùng:
“Ngày 26 tháng 12
năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427]
Sắc Thái tử Thiếu bảo Thượng
thư bộ Binh Lý Khánh rằng:
“ Nay mệnh quan Tổng binh An
viễn hầu Liễu Thăng mang quân từ Quảng Tây, Thái truyền Kiềm quốc công Mộc Thạnh
mang quân từ Vân Nam; hai đạo quân cùng tiến để chinh tiễu bọn phản tặc tại
Giao Chỉ. Khanh là bậc lão thành có kinh nghiệm, đặc mệnh tham mưu việc binh,
phàm công việc nên đồng lòng mưu với nhau, thỏa đáng thì cho thi hành; lại lo
chiêu phủ quân dân, xứng với sự ủy nhiệm quan trọng . Đợi Liễu Thăng đến Nam
Kinh, thì cùng khởi hành. Cần dùng những tay văn học, cùng những người có tài
liệu biện; có thể lựa chọn trong các nha môn tại Nam Kinh để đi cùng; chỉ cần
trình cho biết tên họ và chức vụ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 158)
Riêng đối với Thượng thư
Hoàng Phúc, trước đó Vua cha Nhân Tông đã cho gọi về nước, nay muốn
dùng lại để giúp gỡ rối tại Giao Chỉ; Vua Tuyên Tông bèn ân cần mời
đến kinh đô gặp riêng bàn bạc:
“Ngày 2 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [30/12/1426]
Ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ
tâu rằng:
“ Nhiều dân Giao Chỉ bị
Lê Lợi bức hiếp làm phản. Thượng thư Hoàng Phúc trước kia ở Giao Chỉ lâu năm, nội
tình dân xứ này không có việc gì mà không biết; khi nhận được chiếu về triều,
lòng dân nhớ mong hơn là cha mẹ, xin được trở lại làm quan xứ này, để đáp ứng
nguyện vọng của dân.”
Bèn ban sắc triệu Phúc từ Nam
Kinh, sắc rằng:
“Nay Lê Lợi phản nghịch cũng
là do quan ty cai trị thất sách mới đến nỗi như vậy; người Giao Chỉ trông mong
khanh trở lại như con thơ trông nhớ mẹ. Sắc đến nơi, khanh hãy đến kinh khuyết
ngay để cùng bàn bạc.” ( Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
154)
Sau đó bèn sai Thượng thư
Hoàng Phúc trở lại Giao Chỉ tiếp tục nắm hai ty Bố chánh và Án sát:
“Ngày 26
tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/1/1427]
Sắc dụ Thượng thư bộ Công,
kiêm Chiêm sự tại phủ Chiêm sự Hoàng Phúc:
‘ Khanh
trước kia nhậm chức tại Giao Chỉ thành tín cần mẫn, ban ân huệ một phương. Tiên
Hoàng đế khen, nghĩ đến bậc lão thành nơi vạn dặm, bèn triệu về để giúp Trẫm.
Nay dân Giao Chỉ quyến luyến khanh khôn xiết; Trẫm vốn không muốn khanh bỏ đi,
nhưng cũng không muốn trái ý nguyện của dân. Nay hãy vì Trẫm trấn nhậm thêm một
lần nữa. Phàm vua tôi tương đắc với nhau, không kể xa hay gần; khanh vốn đem hết
tâm lực, thì dân chúng sẽ được yên chỗ, ngõ hầu xứng với lòng của Trẫm. Khanh
hãy chỉ huy mọi việc tại hai ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ. Khâm tai!”( Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 158)
Vua Minh ra sắc mệnh điều các
vệ thuộc lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà giao cho Liễu Thăng; riêng Mộc
Thạnh thống suất các vệ thuộc vùng Tứ Xuyên, Vân Nam; quan và binh
lính viễn chinh đều có tiền thưởng:
“Ngày 26
tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/1/1427].
Sắc mệnh điều các vệ tại hai
kinh Nam, Bắc;Trung đô Lưu thủ ty, Vũ xương Hộ vệ; các Đô ty Hồ Quảng, Giang
Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang, Sơn Đông, Hà Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu;
Phúc Kiến Hành Đô ty, cùng các vệ quan quân phía nam Trực Lệ do An viễn hầu Liễu
Thăng thống lãnh. Thành Đô Hộ vệ, các Đô ty Tứ Xuyên, Vân Nam; Tứ Xuyên Hành Đô
ty do Kiềm Quốc công Mộc Thạnh thống lãnh; tổng cộng gồm 7 vạn tên, để sang
đánh dẹp tại Giao Chỉ. Cần khí giới tinh nhuệ, y giáp tốt mới, dọc đường gia
tăng ước thúc, không được nhiễu hại. Lương bổng quân dân tính từ ngày khởi
hành; tất theo lệ kỳ đánh Giao Chỉ lần trước chi cấp. Tại Nam kinh cùng các Đô
ty, vệ sở; tiền thưởng lúc khởi trình do quan sở tại chi cấp, nếu tiền không đủ
có thể dùng vải bố, quyên để chiết khấu ra tiền. Thưởng tiền giấy cho Đô Chỉ
huy 500 quan, Chỉ huy 400 quan, Thiên hộ Trưởng quan vệ, trấn 300 quan; Bách hộ
Trấn phủ sở 200 quan, Tổng kỳ 150 quan, Tiểu kỳ 120 quan; quân lính, thổ quân
100 quan.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
159)
Vua Minh lại tìm cách liên
lạc với Vương Thông báo tin về quân tăng viện; căn dặn cố thủ thành
trì, tìm cách phối hợp tiến binh:
“Ngày 26 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [23/1/1427].
Sắc dụ quan Tổng binh Giao Chỉ
Thành sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Đô đốc Mã Ánh. Nay mệnh An Viễn hầu Liễu
Thăng, Kiềm Quốc công Mộc Thạnh xuất sư do hai đường Quảng Tây, Vân Nam cùng tiến;
để hợp với bọn ngươi diệt giặc này. Các ngươi nên cố thủ thành trì, thao luyện
quân mã, đợi bọn Thăng đến thì tiến binh.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 159)
Tổng binh Liễu Thăng tâu cần
dùng lệnh kỳ bài; Vua sai bộ Công ban cho:
“Ngày 28
tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [25/1/1427]
Bọn quan Tổng binh An viễn hầu
Liễu Thăng tâu rằng nay sang đánh Giao Chỉ, cần dùng lệnh kỳ bài. Thiên tử trực
tiếp ra lệnh bộ Công chế tạo để ban cho.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 160)
Lại điều thêm đạo quân Bắc
Kinh, quân này được ban tiền thưởng hơn gấp đôi 7 vạn quân đã điều
động trước đó:
“Ngày 6
tháng giêng năm Tuyên đức thứ 2 [2/2/1427]
Thưởng quan quân tai Bắc Kinh
tòng chinh Giao Chỉ: Đô đốc thưởng tiền giấy 2000 quan, Đô Chỉ huy 1000 quan ,
Chỉ huy 900 quan, Thiên hộ Vệ Trấn phủ 800 quan, Bách hộ Sở Trấn phủ 700 quan,
Kỳ Quân nhân 600 quan Cấp thêm 80 bộ y phục tơ lụa, giao cho quan Tổng
binh An viễn hầu Liễu Thăng giữ trong quân để thưởng.”
( Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 160)
Sau khi ra lệnh điều quân xong,
Vua Tuyên Tông lại gặp 2 viên cận thần chủ hòa Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh;
cho biết ý định nhà Vua muốn nhờ Thượng thư Hoàng Phúc, sắp
xếp trên danh nghĩa, lập người họ Trần nối dõi tại Giao Chỉ:
“Ngày 16 tháng giêng năm Tuyên Đức thứ 2 [
12/2/1427 ].
Sau khi ngự triều xong, Thiên tử tại
điện Văn Hoa, triệu Thiếu truyền
Dương Sĩ Kỳ, Thái tử Thiếu truyền Dương Vinh đến dụ rằng:
“ Về vấn đề Giao Chỉ; Kiển
Nghĩa, Hạ Nguyên Cát bị ràng buộc bởi ý kiến thông thường (21), nếu
theo họ thì Trung Quốc lao phí không bao giờ hết. Trẫm xem sử Xuân Thu (22) , Hạ
Trưng Thư giết Trần Linh Công; Sở Tử đánh giết Hạ Trưng Thư, định chia đất Trần
Linh Công thành quận huyện. Thân Thúc can không nên, Sở Tử bèn phong đất cho Trần;
người xưa thực biết theo điều phải! Vua Thái Tông Hoàng đế ta, bắt giặc họ Lê,
bình định Giao Chỉ, cũng muốn lập họ Trần, nhưng bấy giờ người dưới không đồng
lòng. Nay Trẫm muốn hoàn thành chí của người xưa, để cho người Trung Quốc được
yên ỗn vô sự. Trước đây đã bảo các khanh suy nghĩ lại về việc này; kết quả như
thế nào rồi?”
Sĩ Kỳ và Vinh tâu rằng:
“Đây là đức lớn, chỉ có Bệ hạ
mới quyết định được. Tự thời các bậc Thánh cổ xưa đều cho dân hoang dã theo thời
đến triều cống; Cao Tông nhà Thương đánh nước Kinh, Sở; khắc phục xong cho đến
triều cống như thường. Bệ hạ phục hưng nước bị diệt, nối dòng họ bị đứt, cho
con cháu họ Trần lại được triều cống, Trung Hoa và dân Di được an cư lạc
nghiệp, các vị thánh nhân thời Đường, Ngu cũng không hơn được.”
Thiên tử phán:
“Ý Trẫm đã quyết, không
còn nghi ngại gì nữa. Nhưng trong buổi can qua, chưa rảnh để tìm [ con
cháu họ Trần] ra được. Đợi đến khi tạm yên, lệnh Hoàng Phúc chuyên tâm lo
việc này, cũng không muộn.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
161)
Chú thích:
1.Chuông Quy Điền: tương truyền
được đúc từ đời nhà Lý, chuông để ở chùa Một Cột. Vạc Phổ Minh: là chiếc vạc
lớn ở chùa Phổ Minh gần thành phố Nam Định, tỉnh Nam Hà; chùa này làm vào năm
Thiệu Long năm thứ 5 (1262).
2.Lịch chính sóc: chính sóc
là ngày mồng một tháng giêng Âm lịch. Ở đây chỉ Âm lịch tính theo tuần trăng
của nhà Minh.
3.Trần Phong: người huyện Chí
Linh, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, theo giặc Minh làm đến Đô ty.
4. Lương Nhữ Hốt: theo giặc Minh
làm đến Tham chính. Bọn Trần Phong, Nhữ Hốt sau được Vua Lê Lợi tha chết, nhưng
rồi lại mưu phản, cuối cùng đều bị giết.
5. Người Việt ở đây chỉ
người Việt thời Xuân Thu ở đất tỉnh Chiết Giang, Giang Tô của Trung Quốc ngày
nay.
6.Các hạ: cách xưng hô đối với
các quan Tam công, hay Hầu bá, Quận thú.
7.Quận thượng du ở đây là chỉ
nghĩa quân miền núi. Xa Tham hay Xa Khả Tham một tù trưởng Thái ở Mường
Muổi, Mộc Châu theo Lê Lợi, được phong đến chức Nhập nội tư không đồng bình
chương sự, tri Đà Giang trấn thượng bạn. Bốn con trai của ông là Lộc, Khát,
Bàn, Điểm đều được phong làm thượng tướng quân, đại tướng quân. Hồng y nghĩa là
“áo đỏ” tên gọi một phong trào đấu tranh rộng lớn chống quân Minh của các dân
tộc miền núi phía bắc và tây bắc lúc bấy giờ. Nghĩa binh “áo đỏ” về sau cũng
theo Lê Lợi. Trong thư này, Nguyễn Trãi coi việc bắt giết quân Minh đi ra khỏi
thành, như hành động tự phát của một số nghĩa binh; nói như vậy để bớt khỏi
căng thẳng với Vương Thông.
8.Vệ và Sở là những đơn vị trong
phiên chế quân Minh. “Quân nhân các vệ” ở đây là số quân Minh trong các thành
phía nam và số tù binh nghĩa quân bắt được.
9.Khâu Ôn là một thành lũy của
quân Minh ở Lạng Sơn, nằm trên con đường từ Đông Quan [Hà Nội] lên cửa ải Pha
Lũy [Nam quan], ở khoảng tỉnh lỵ Lạng Sơn ngày nay. Theo điều kiện giảng hòa đã
thỏa thuận thì Bình định vương Lê Lợi nhận cử sứ giả mang biểu cầu phong sang
nhà Minh xin phong và triều cống.
10.Sứ giả: Người của Vương
Thông cử đi theo sứ giả của Lê Lợi sang nhà Minh.
11.Ống phun lửa dịch chữ
“hỏa đồng”, là một thứ vũ khí thời đó gồm một ống tròn bằng kim khí để đốt
thuốc súng phun về phía đối phương.
12.Truyện ở đây là
sách Trung Dung trong
bộ Tứ Thư.
13.Theo
sách Luận Ngữ,
Khổng tử có nói: “”Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhân yên sưu tai!
Nhân yên sưu tai!”, nghĩa là: xem việc làm như thế nào, xét lý do tại sao mà
làm, nhận thấy có vui vẻ mà làm hay không, thì có ai giấu giếm đâu được ta! Có
ai giấu giếm đâu được ta! Ở đây ý cho rằng dùng phương pháp xem người như thế
thì giặc dầu quỷ quyệt, cũng không lừa dối nổi.
14.Dẫn lại một đoạn trong bản
thảo tờ tâu của Vương Thông lên triều đình nhà Minh.
15.Ý nói trong số quan và tướng
nhà Minh lúc bấy giờ có nhiều người kịch liệt phản đối giảng hòa, tiêu biểu là
Phương Chính, Mã Kỳ.
16.Thời Xuân thu, Tấn văn công
đánh nước Nguyên, cho đem lương ăn ba ngày, hẹn ba ngày không đánh được thì về.
Hễ ba ngày không hạ được thành, quân xin ở lại để đánh. Văn công nói: “Tín là
vật báu của nước, và là cái để cho dân dựa. Được Nguyên mà mất tín, thì dân dựa
vào đâu”. Liền cho lui quân một xá (30 dặm) để tỏ sự tín (Tả truyện).
17.Thời
Chiến quốc, Thương Ưởng làm tướng nhà Tần. Ông chôn cây gỗ dài ba trượng ở nam
quốc đô, truyền lệnh hễ ai dời cây gỗ sang cửa bắc được, thì thưởng cho 10 lạng
vạng. Dân lấy làm lạ, không ai dám dời. Sau ông lại nói: “Ai dời được thì
thưởng cho 50 lạng vàng”. Có người dời được cây gỗ ấy, ông liền thưởng cho 50
lạng vàng để tỏ là không nói dối (Sử
ký).
18. Núi đất: tức Thổ sơn, quân
đánh thành thường đắp ụ đất cao gọi là thổ sơn, để quan sát trong thành, cùng
đặt súng lớn bắn vào.
19.Tiện nghi hành sự: được tùy
tiện làm việc không phải tâu lên đợi lệnh.
20.Thành đồng hào nóng: Hán Thư có
câu: “Giai vi kim thành thang trì, bất khả công dã” (đều là thành bằng đồng,
hào nước sôi, không thể đánh được).
21.Xin xem văn bản 691 trong bản
dịch Minh Thực
Lục ngày 9/5/1426, về lời tâu của Kiển Nghĩa.
22.Xuân Thu: tên bộ sử
Khổng Tử viết cho thời đại từ Chu Bình Vương thứ 49 [ -723 ] đến Chu Kính Vương
[ -481 ] gồm 242 năm; nên thời đại này được gọi là Xuân Thu
Vào tháng giêng năm Bình
Định vương thứ 10
[28/1-25/2/
1247]
(Minh, Tuyên Đức năm thứ 2), Bình định vương Lê Lợi dời đại bản đoanh
từ huyện Thanh Trì [Hà Nội], sang dinh Bồ Đề tại huyện Gia Lâm, Bắc
Ninh; đối lũy với thành Đông Quan. Nơi đây cho xây lầu cao, từ đó Vương
và vị đại thần phụ tá Thượng thư bộ Lại Nguyễn Trãi, có thể
quan sát động tỉnh; điều binh bao vây chung quanh thành:
“Năm Đinh
Mùi, mùa xuân, tháng giêng [28/1-25/2/1247], vua tiến
quân sang bờ bắc sông Lô, đối lũy với thành Đông Quan. Bọn Thiếu úy Lê Khả giữ
cửa Đông, Tư đồ Lê Lễ giữ cửa Nam, Thái giám Lê Chửng đem hai vệ Thiết đột là
bọn Nghi Phúc giữ cửa Tây, Thiếu úy Lê Triện đem quân hai vệ giữ cửa Bắc, vây
đánh thành Đông Quan….”
“Lấy Hàn lâm viện thừa
chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ
thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. Bấy giờ, vua dựng lầu nhiều tầng ở dinh
Bồ Đề [khi ấy, có hai cây bồ đề ở trong dinh, nên gọi là dinh Bồ Đề] trên
bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hằng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào thành
để quan sát mọi hành vi của giặc, cho Trãi ngồi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn
thảo thư từ qua lại….” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang
26a, 27a.
Nhân dựng đại doanh Bồ
Đề bên kia sông Hồng; Bình định vương bèn báo cho Vương Thông hay:
“Lại thư cho Vương
Thông.
Trước vì trại đóng hơi xa,
thực khiến đi lại vất vả. Nay tôi muốn dời đến ở bên thành Bắc Giang (1), đối
ngạn gần nhau, đi lại cho tiện. Kính bẩm để ngài biết ý, xin đợi tôn mệnh. Nếu
có sự xử trí khác, xin ngài chỉ bảo cho, tôi lấy làm cảm ơn. Thư nói không hết.”
(Quân Trung Từ Mệnh Tập, a18.)
Đến cuối tháng, lại
điều chỉnh các cánh quân bao vây thành Đông Quan như sau:
“Hạ lệnh cho thiếu úy Lê
Vấn đóng ở cửa Đông thành Đông Quan; Tư không Lê Lễ, Thiếu úy Lê Sát, Lê Lý,
Lê Lỗi, Lê Chích đóng ở cửa Nam; Thiếu úy Lê Bị, Thái giám Lê Nguyễn, Chấp lệnh
Lê Chửng đem ba vệ Thiết đột đóng ở cửa Tây; thiếu úy Lê Triện, Lê Văn An đem
14 vệ quân đóng ở cửa Bắc…”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 27b.
Bấy giờ Sơn Thọ tại
thành Đông Quan sai người đem thư tiếp xúc với Bình định vương:
“Sơn Thọ nhà Minh sai
bọn thông sự Nguyễn Nhậm gồm 3 người sang thông tin tức.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 26a.
Vương bèn sai Hà Vượng là
Bách hộ Minh, đi dụ hàng Vương Thông:
“ Thông đóng chặt
cửa thành, liều chết cố giữ. Bấy giờ nhân Hà Vượng đầu hàng quân ta, Bình Định
vương sai Vượng đem thư vào thành Đông Quan chiêu dụ Thông.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 14.
Thư Bình định vương gửi
cho Vương Thông như sau:
“Lại thư cho Vương
Thông..
Kính đạt ngài Tổng binh.
Tôi nghe nói trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai, mặt trời mặt
trăng không soi riêng ai. Cho nên đấng vương giả lấy bốn biển làm nhà, vốn
không phân biệt kẻ xa người gần. nay được tôn thư, hứa sẽ thỉnh mệnh rút quân,
muốn lấy tờ tâu của hai ngài Thái giám [Sơn Thọ, Mã Kỳ] để
xin lập con cháu họ Trần. thế thật là các ngài đã vì nước hết trung, tôn vua
theo nghĩa, so với việc năm trước cầu công tâu bậy rằng con cháu họ Trần không
còn ai (2) thật khác hẳn vậy. Được như lời ấy thì không những
là may cho một nước Giao Chỉ, mà cũng là may lớn cho vạn bang trong thiên hạ
vậy. Ân đức của Triều đình đã như trời đất che chở, nhật nguyệt chiếu soi, thì
ngài có ra mệnh lệnh gì, tệ ấp nào dám sai trái. Ngay ngáy khôn
xiết sợ lọ, đợi chờ mệnh lệnh.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a19.)
Cũng nhân dịp liên lạc
với Nội quan Sơn Thọ, Bình định vương đem việc cũ, hồi mới khởi
nghĩa bị quân Minh tấn công gắt, một số người nhà bị bắt, xin
nhờ can thiệp thả về:
“ Lại thư cho
Sơn Thọ.
Đạt Sơn lão đại nhân rõ:
Trước đây kính gửi thư, chưa được ưng chuẩn. Nay muốn lại đánh liều thất lễ,
chỉ sợ phiền nhảm. Song người đau ốm thì kêu trời đất cha mẹ, đó cũng là thường
tình phải thế. Mới rồi đã nhiều lần đem việc người sách Khả Lam [Lam Sơn] bị
quan quân bắt, kêu xin tha về, không biết thế nào lại không thấy một người nào
được về cả. Về những thổ quan cùng thổ nhân khác, tôi đã không dám lại làm
phiền ngài, còn như người Khả Lam, họ đều là cố cựu, thân thích, nô tỳ của
tôi lẽ nào tôi lại thản nhiên được. Vì thế, bất đắc dĩ tôi phải lỗ mãng phạm uy
mà lại kêu nài làm phiền ngài vậy. Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ
Mệnh Tập, a20.)
Về tình hình quân Minh
tại các thành quan trọng như Nghệ An, Khâu Ôn,Điêu Diêu, Cổ Lộng trong
tháng giêng, như sau:
-Bấy giờ thành Nghệ An
và Diễn Châu đều xin hàng. Sau đó lúc nghị hòa thành tựu, quân
Minh được trở về Tàu; khi đến kinh đô, Đô đốc Thái Phúc chỉ huy thành
Nghệ An, Đô chỉ huy Chu Quảng phụ tá; Đô chỉ huy Tiết Tụ chỉ huy
thành Diễn Châu đều bị xử tử. Thái Phúc còn bị hài thêm tội sai
người tố cáo việc hàng vạn quân Minh ra hàng, chuẩn bị nỗi loạn;
khiến bọn chúng đều bị giết; và đích thân đi kêu gọi các thành ra
hàng:
“Tháng giêng [28/1-25/2/1427]. Quân
Minh ở Nghệ An và Diễn Châu ra hàng.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 26b
“Ngày 30 tháng 5 năm
Tuyên Đức thứ 3 [ 12/7/1428 ].
Thái Phúc, Chu Quảng, Tiết
Tụ, Vu Tán, Lỗ Quý, Lý Trung bị xử tử. Phúc là Đô đốc; Quảng, Tụ, Tán đều giữ
chức Đô Chỉ huy, Quý là Chỉ huy, Trung là Thiên hộ. Bọn Phúc trước đây tại Giao
Chỉ trấn thủ Nghệ An, bị giặc vây, Phúc không đánh, lại đem bọn Quảng hàng
giặc, lại chỉ cho giặc tạo chiến cụ để đánh thành Đông Quan. Lúc bấy giờ hơn
9000 [hàng] quân định đốt trại giặc, bọn Phúc lệnh Bách hộ Mưu
Anh tố cáo giặc; giặc giết sạch 9500 người, rồi đánh các thành như Xương Giang.
Phúc đi thuyết dụ những người trong các thành ra hàng….”(Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 203).
Sau khi Thái Phúc bỏ
thành Nghệ An trên đường ra bắc, Bình định vương gửi thư thăm hỏi y:
“Thư cho Thái
Công (3).
Thư gửi hiền huynh Thái
công. Đệ ngụ ở Đông Quan nghe tin hiền huynh ra cửa thành bái yết Trần
chúa (4) chúng tôi, đáng mừng lắm lắm. Từ đây giải binh, khiến
nước Nam được thoát cái khổ can qua, thật may lắm sao! Có thể gọi là bực quân
tử biết thời cơ vậy! Ân tình rất hậu, trăm năm không thể quên được. Nay sai
người đem 15 chiếc thuyền đến đón, ngài cùng các quan và quý quyến có thể tùy
tiện thu xếp hành trang lên đường. Còn quân nhân thì có thể đi đường bộ được.
Hiện nay cầu cống các nơi đã sửa sang, trên đương không gì quản ngại. Xin báo
ngài biết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a11.)
-Thành Khâu Ôn vị trí
tại thị xã Lạng Sơn, nằm trên con đường chiến lược từ Trung Quốc sang
xâm lăng nước ta. Nhà Minh chuẩn bị di chuyển lương thực tại Lưỡng
Quảng đến thành này, để cung cấp cho quân Liễu Thăng:
“Ngày 23 tháng giêng
năm Tuyên Đức thứ 2 [19/2/1427].
Giám sát Ngự sử Tuần án
Giao Chỉ Trần Nhuế tâu rằng:
‘ Bộ chỉ huy vệ Khâu
Ôn đặt trong phủ thành Lạng Sơn, vị trí nơi này nằm trên con đường quan trọng
của Giao Chỉ. Nhưng kho lương thực đặt tại Lưỡng Quảng, phụ cận với Lạng Sơn.
Cần vận chuyển số lương thực lớn đến phủ thành Lạng Sơn để cấp cho đại quân,
ngõ hầu khỏi lỡ việc.’
Thiên tử chấp thuận, trực
tiếp ra lệnh bộ Hộ sai quan lo việc chuyển vận.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 162)
Phía Đại Việt cũng có
tầm nhìn tương tự, nên giao cho Thiếu bảo Lê Lựu quyền lớn, chế ngự
vùng này:
“Hạ lệnh cho viên
Tổng tri coi việc quân dân Lạng Sơn và An Bang [Quảng Ninh] là Nhập nội
thiếu bảo Lê Lựu đem quân đi đánh giặc, cho quyền tiền trảm hậu tấu.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 26b
Nhà Minh chưa kịp thực
hiện kế hoạch vận lương đến thành, thì ngày 13 tháng giêng [9/2/1427]
bọn Lê Lựu chiếm thành:
“Ngày 13, bọn Lê Lựu, Lê
Bôi ngày đêm đánh gấp thành Khâu Ôn. Quân Minh tự lượng chống đỡ không nổi,
đang đêm bỏ thành chạy trốn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 27a.
Nhờ vậy vào tháng 6,
lúc Quảng Tây Chinh man tướng quân Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ đem quân sang, bị
chặn đánh tại ải Nam Quan:
“Mùa hạ, tháng 6, ngày
mồng 10 [4/7/1427], trấn thủ Quảng Tây Chinh man tướng quân Trấn
Viễn hầu Cố Hưng Tổ của Nhà Minh đem 5 vạn quân, 5 nghìn cổ ngựa, từ Quảng Tây
sang cứu viện các thành. Đến cửa ải Pha Lũy [ải Nam Quan] bị
tướng giữ ải Lê Lựu, Lê Bôi đón đánh ngay tại cửa ải, phá tan quân giặc, chém
hơn 3.000 thủ cấp, bắt được 500 ngựa. Hưng Tổ thua to chạy về.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 36a.
Vì những lỗi này,
Trấn viễn hầu Cố Hưng Tổ bị Vua Minh cho bắt để điều tra:
“Ngày 13 tháng 7 năm
Tuyên Đức thứ 13 [5/8/1427]
Chiếu mệnh bắt Trấn viễn
hầu Cố Hưng Tổ. Lúc bấy giờ giặc Giao Chỉ phá Ải Lưu, tấn công Khâu Ôn; Hưng Tổ
đặt quân tại Nam Ninh (5), Thái Bình (6) không
cứu viện, để cho giặc chiếm được thành. Hưng Tổ trước kia tâu rằng đã chém được
giặc Vi Vạn Hoàng, bêu đầu thị chúng; nhưng Vạn Hoàng vẫn ra vào cướp phá như
xưa! Hưng Tổ lại sai bọn Chỉ huy Trương Ban giả mạo việc quân đoạt của quan,
dân hơn 2500 lượng bạc, 100 con ngựa; lại cưỡng bách dân ép cưới con gái; bị
Tuần Án Ngự sử hặc tâu.
Thiên tử thấy tội ác không
chừa, mệnh hành tại Đô sát viện bắt và điều tra, sai công hầu Đại thần cử tướng
giỏi thay thế.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 170).
-Sau khi thành Khâu Ôn
hàng vào ngày 13 tháng giêng [9/2/1427], kế đến vào cuối tháng quân
Minh tại thành Điêu Diêu, thuộc huyện Gia Lâm cũng ra hàng:
“Bọn Chỉ huy Trương Lân
và Tri phủ Trần Vân ở thành Điêu Diêu [Gia Lâm, Hà Nội] ra
hàng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 28a.
Điêu Diêu là thành trì
quan trọng bảo vệ phía bắc thành Đông Quan; trong thành ngoài quân Minh
còn có nhiều quân người bản xứ; nên trước đó trong thư dụ hàng nhấn
mạnh việc khuyên bảo con em dân Việt hãy trở về với tổ quốc, và đã
thu được kết quả, khiến cả thành ra hàng:
“Thư dụ thổ quan
thành Điêu Diêu (7).
‘Quạ đi
lại trở về quê cũ, cáo chết quay đầu về núi’. Cầm thú còn thế, huống
nữa là người? Các ngươi vốn đều là người dân Tây Việt [chỉ dân
Việt], dòng dõi văn minh. Trước nhân họ Hồ thất đức, giặc Ngô lăng
loàn, có người thì thân bị hãm ở tặc đình [triều đình giặc], có
người thì danh bị buộc ở ngụy chức, đó là thế không đừng được, nào phải do ở
bản tâm đâu. Đấng thượng đế nghĩ thương dân ta, đã mượn tay ta Đại thiên hành
hóa Thái sư vệ quốc công [Toàn Thư chép: năm Đinh vị
(1427) chư tướng suy tôn vua là “Đại thiên hành hóa”. Tự đó những văn thư tờ dụ
phần nhiều dùng những chữ ấy để xưng], mà cứu dân đánh kẻ có tội để khôi
phục cơ đồ. Quân đi đến đâu, nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương cõng
địu nhau mà kéo đến theo ta. Bọn các người nếu biết rửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch
theo thuận, hoặc ở làm nội ứng, hoặc ra để đầu hàng, thì không những rửa mối hổ
thẹn ngày trước, mà cũng được phần soi xét về sau. Ta không nói lời rồi lại ăn
lời. Nếu các người lại còn tiếc tham ngụy chức, chống cự vương sư thì khi hãm
thành, tội ác các ngươi tất nặng hơn giặc Ngô đấy.” (Quân Trung Từ
Mệnh Tập, a30.)
-Tháng giêng
[28/1-25/2/1427]. Bình định vương sai tướng đánh thành
Cổ Lộng (8) thuộc huyện Ý Yên, Nam Định; nhưng không hạ được:
“ Vương sai Tư mã
Cao Ngự đánh thành Cổ Lộng. Người Minh đóng chặt cửa thành, liều chết cố giữ Cổ
Lộng; quân ta bao vây, đánh mãi không hạ được.” Cương Mục,
Chính Biên, quyển 14.
Quân Trung Từ Mệnh Tập có
bức thư thứ 10 gửi cho Hoa đại nhân vào cuối năm Bính Ngọ 1426; nội
dung thư bảo Hoa đại nhân đợi Thái Phúc tại Nghệ An và Đả Trung tại
Thanh Hóa, rồi cùng đi đến thành Đông Quan một thể. Như vậy xét về
địa dư, thành do Hoa đại nhân coi, có thể là thành Cổ Lộng đề cập ở
trên. Vì thành này tọa lạc tại huyện Ý Yên, Nam Định, nằm giữa con
đường từ Thanh Hóa đến thành Đông Quan:
“Thư gửi bọn Hoa
đại nhân.
Gửi Hoa đại nhân cùng các
ngài biết: Hiện nay việc giảng hòa đã xong, biểu cầu phong cùng sứ nhân sắp qua
Mai quan để cùng với quân các xứ Lưỡng Quảng và Phúc kiến đến
mồng 2 tháng giêng sang năm [Đinh Vị 29/1/1427] khởi
hành về kinh. Duy tổng binh Vương đại nhân và thái giám Sơn đại nhân còn tạm
đóng lại, đợi quan quân ở các thành Diễn Châu, Nghệ An, Thanh Hóa đều đến Đông
Quan, rồi cùng đi một thể. Các ngài nên mau chóng thu xếp hành trang, ra đóng ở
ngoài thành, để đợi Thái công [Thái Phúc] cùng Hình nội
quan, Đả chỉ huy [Đả Trung] đến đấy thì cùng đi, xin chớ trì
hoãn. Hiện nay đường sá cầu cống đã sửa sang, lương thực đều đã biện sẵn, các
ngài nếu lại trì hoãn, e Thái công đi rồi, đi một mình sẽ có khó khăn. Bởi vậy
báo cho ngài biết, nên sớm đi với Thái công thì hơn.” (Quân Trung Từ
Mệnh Tập, a10.)
Nhắm hoàn thành việc đánh
đuổi quân Minh, nhu cầu về nhân tài, vật lực rất lớn. Về lương thực,
hô hào đân chúng cung cấp thóc lúa, chứa sẵn trong các kho tại Bắc
Giang, Phú Thọ. Hạ lệnh nạp gỗ, tre, luồng, vầu, dây gai; để chế
cung, tên, làm hàng rào, xây thành vv…:
-“Hạ lệnh cho nhân dân
dâng thóc cung cấp cho quân sĩ. Ai tiến thóc được thưởng tước tùy theo mức độ
khác nhau.”
-“Hạ lệnh cho các lộ,
trấn chứa lương ở các thành Xương Giang [Bắc Giang] và Tam
Giang [Phú Thọ] để cấp cho quân.”
-“Hạ lệnh cho lộ An Bang [Quảng
Ninh] nộp gỗ cọc và tên tre.”
-“Hạ lệnh cho Thái
Nguyên và Lạng Sơn nộp vỏ gai.”
-“Hạ lệnh cho các lộ Tam
Giang, Tam Đái [Vĩnh Phú], Tuyên Quang, Quy Hóa [Yên
Bái, Lào Cai] nộp luồng, vầu, làm thành dưới nước, dựa vào
bờ bắc sông Nhị, cao ngang với thành Đông Quan.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 28a.
Về quân cụ vũ khí,
Bình định vương ra lệnh chế đài quan sát, xe đánh thành; đóng chiến
thuyền; chế súng Cổn Dương, mở lò rèn đúc vũ khí:
-“Vũ Cự Luyện người
huyện Đường An [huyện Bình Giang, Hải Dương] và Đoàn Lộ
người huyện Cổ Phí [huyện Kim Thành, Hải Dương] dâng kế
sách đánh thành và các kiểu chiến bằng (9), xe phần ôn, xe phi
mã . Sai các tướng theo các kiểu ấy mà làm.”
-“Sai bọn Tuyên Quang Tư
mã Lương Thế Vĩnh và Đề đốc phụ đạo Ma Tông Kế đóng thuyền chiến.”
-“Hạ lệnh cho
huyện Tân Phúc [huyện Phúc Yên, Vĩnh Phúc] mở lò rèn
đồ sắt.”
-“Chế súng Cổn dương, ra
lệnh cho các tướng theo kiểu đó mà làm.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 27a- 28a.
Về nhân lực, ban chức
Hỏa thủ cho các quân, bổ nhiệm quan lại thuộc 4 đạo xung quanh thành
Đông Quan; sai các tướng lãnh lưu ý đề bạt nhân tài; và phong cho Phụ
đạo các dân tộc thiểu số chức Thủ ngự, Đoàn luyện:
-“Ban chức Hỏa thủ cho
quân các lộ theo thứ bậc khác nhau.”
-“Bổ thuộc lại Hàn lâm
viện và bốn đạo gồm 515 người.”
-“Hạ lệnh cho các tướng
hiệu, các quan lộ tìm hỏi những người có tài lược, trí dũng, làm nổi các chức
quan trọng như Tư mã, Thượng tướng, mỗi viên tiến cử lấy một người.”
- “Ra lệnh cho phụ đạo
các xứ nhận các chức Thủ ngự, Đoàn luyện, tước trung phẩm.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 26b- 28a.
Vương lưu ý tuyên dương
các anh hùng xưa, cho người tu sửa đền thờ Hưng Đạo vương, hạ lệnh
thờ phượng các công thần:
- “Sai Dương Thái Nhất
sửa lại đền thờ Hưng Đạo Đại Vương, cấm không được chặt cây cối ở các đền miếu.”
-“Hạ lệnh cho các xứ thờ
cúng đền miếu các công thần.”
Bình định vương tỏ ra
nghiêm khắc, nhưng thận trọng việc chấp pháp. Trong tháng giêng xử
chém bọn bán trộm thực phẩm cho địch; phạt tội quân binh làm mất vũ
khí; các quan xử tội xong, cho kiểm lại kỹ, rồi mới thi hành; hạ
lệnh cho người có thân nhân làm việc với địch ở trong thành, phải
khai báo trước khi thành phá:
.- “Chém Thiên hộ Lý Vân và tòng nhân Bùi Vĩnh vì chở trộm mắm
muối vào thành Chí Linh [Hải Dương].”
- “Hạ lệnh kiểm kê quân khí, người nào để thiếu thì xử tội theo
quân pháp.”
-“Cho phép xử tội phải tâu trước rồi sau mới được trị tội.”
-“Hạ lệnh cho người
trong nước, ai có cha mẹ, vợ con, anh em, nô tì, thân thích theo giặc ở trong
thành cho tự nguyện lên thành [khai báo](10) , khi phá được
thành sẽ cho nhận đem về. Nếu không tự nguyện lên thành mà tranh nhau nhận về
đoàn tụ thì phải xử theo quân luật.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 26b- 28a.
Sau khi lập dinh Bồ Đề
bờ phía bắc sông Hồng đối lũy với thành Đông Quan, Vương Thông và Sơn Thọ
lại cho người đưa thư. Bình định vương phúc đáp, nhắc lại lời hứa
của Vương Thông hãy đem quân trong thành Đông Quan về trước, còn quân các vệ
ở ngoài sẽ theo về sau. Nay quân Minh tại các vệ thuộc các địa phương đã
tề tựu, mà quân trong thành chưa chịu về; việc thất hứa của Thông
khiến mọi người đều căm giận:
“Thư cho Vương Thông.
Kính thư gửi trước Tổng
binh đại nhân. Tôi nghe nói: “Lấy thành thực đãi người thì người cũng lấy thành
thực đáp lại”. Cái đạo chí thành có thể động đến trời đất, cảm được quỷ thân,
huống chi là người? Nay ngài vâng lệnh ra ngoài cửa khổn [ngoài
nước], nhẽ ra phải lấy thành thực đối đãi với người ta, thế mà lại đem
lòng dối trá lừa người, tự cho là mưu cao, xem tôi là không biết gì. Việc binh
gian trá, ngoài nói giảng hòa, trong tính kế khác; trước nói hễ dâng biểu thì
rút quân ngay, sau lại dựng rào đắp lũy, xây thành đào hào. Việc làm như thế,
làm thành thực chăng? Là trá ngụy chăng? Ngày xưa quan đại phu ra ngoài biên
cương, việc gì cũng được tự quyết. Huống chi ngài là bậc tướng súy đã đọc thi
thư, khi vâng mệnh sang đây lại đã được phép tiện nghi hành sự, thế thì phàm
công việc ở ngoai cửa khổn, há lại nhất nhất chờ mệnh lệnh của Triều đình sao?
Vả lại binh quí mau chóng, máy then mở đóng, như xe chuyển, như mây bay, trong
khoảng chốc lát, chợt nóng, chợt lại rét, ngài há lại không biết thế sao
mà lại nghe kế bọn tôi gian Mã Kỳ, quân tàn Phương Chính, mà hồ nghi do dự,
không dám quả quyết. Trước ngài đã có văn thư thu binh mã ở các vệ sở, lại bảo
rằng vì trong thành đất hẹp, hãy trước đem quân nhân ở thành về, còn quân các
vệ ở ngoài sẽ theo về sau. Đến nay quân các thành Diễn Nghệ đã lục tục kéo đến,
mà lời nói khác lại hình như bắt gió bắt bóng, là chuyện hão huyền. Thế là ngài
không những lừa dối một mình tôi, lại còn lừa dối cả hơn sáu bảy nghìn người ở
vệ sở các thành. Tôi lấy lòng tôn kính triều đình, thương hại tính mệnh
hơn sáu bảy nghìn con người, nên nghiêm cấm quân sĩ không được phạm chút tơ
hào. Thế mà ngài nghe kế của bọn tiểu nhân, định lấy lòng hại tôi để lây hại cho
kẻ khác. Kể ra, ngựa Hồ hý gió bắc, chim Việt đậu cành nam [chỉ hai
con vật nhớ cố hương], thường tình người ta, ai khỏi tưởng nhớ quê
hương! Nay kế của ngài đã hỏng, hơn sáu bảy nghìn quân các vệ sợ căm hờn oán
giận, sâu đến cốt tủy, chẳng ai là không nghiến răng nắm tay, thề không còn
trông thấy mặt ngài. Họ đều xin tôi quyết một phen tử chiến. Ngài nếu quả
y lời ước cũ, thì nên rút quân về để trọn điều tử tế ngày trước. Tôi cũng
xin đem quân nhân các thành cùng binh mã bắt được trả về đủ số. Nếu không
như thế, thì tôi xin đem số quân các thành ngậm oán chứa giận cùng ba mươi vạn
quân của tôi để thừa tiếp ở dưới thành. Tùy ngài xử trí thế nào, tôi xiết bao
run sợ, đợi chờ mệnh lệnh. Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ Mệnh
Tập, a23.)
Thư này và thư số 25 tiếp
theo, gửi cho Sơn Thọ nhằm vạch rõ sự dối trá của quân Minh không chịu rút
quân về nước và thả những người bị giam giữ trong thành:
“Thư cho Thái giám
Sơn Thọ.
Kính thư gửi trước Thái
giám Sơn lão đại nhân. Tôi đối với ngài như đối với cha mẹ, từ trước đến nay
không hề có chút niềm bạc bẽo. Ngày trước, tiếp được thư của ngài gửi cho, ước
việc hòa giải, có nói: “Sau khi dâng biểu thì rút quân về ngay”. Nay mang
biểu đã đi rồi, người tiễn sứ nhân cũng đã trở về, thế mà việc rút quân hay
không vẫn chưa thấy quyết định. Trong thư lại nói “sẽ thả hết thổ nhân” [chỉ
người Việt được thả ra khỏi thành], thế mà mấy tháng rồi vẫn chưa thấy
một ai được thả về cả. Chẳng hay làm cha mẹ lại như thế ư? Sách Truyện có câu
rằng: “Tự cổ giai hữu tử, vô tín bất lập” [từ xưa đến nay ai mà không
chết; duy người mà không giữ tín, thì không thể đứng vững được]. Vì thế
đấng Vương giả không lừa dối bốn biển, đấng Bá gia không lừa
dối láng giềng. Nay ngài là cha mẹ lừa dối con ư? Kính xin ngài lấy bụng nhân
từ, rủ lòng soi xét. Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a24.)
“Lại thư cho Sơn
Thọ.
Tôi nghe trời có bốn mùa,
phải nhờ hành thổ mới vượng; người có bốn đức [hiếu,
để, trung tín], phải nhờ điều tín để làm. Nếu hành thổ không thịnh, điều
tín không có, thì đạo trời tất hỏng, việc người tất hư. Cho nên hoàng cực lấy
thổ ở giữa, dân lấy tín làm thực, mà sau công việc của trời của người mới thỏa
đáng. Tôi tuy ngu chậm, nhưng sở dĩ kính thờ ngài thủy chung như nhất là vì
thế. Cớ sao ngài trước đã nói rõ ước định hòa giải bảo rằng “sau khi dâng
biểu thì rút quân ngay”, thế mà nay sứ mang biểu đã đi rồi, người tiễn sứ nhân
cũng đã trở về, mà việc rút quân hay không vẫn chưa thấy quyết định. Lại nói
“sẽ thả hết thổ nhân cho ra thành”, thế mà mấy tháng rồi vẫn chưa thấy một ai
được thả về cả. Chẳng hay bụng ngài ra thế nào? Sách Truyện có
câu “Người mà không giữ tín, thì không thể đứng vững được; đấng
vương giả không lừa dối bốn biển, đấng bá giả không lừa dối láng giềng”, là cốt
giữ điều tín như vậy. Ngài nghe điều ấy ở tai, chứa điều ấy ở bụng, suy điều ấy
ra việc làm, thì đi đâu mà không trôi chảy, lại có thể lừa dối dân mà bỏ điều
tín được ư? Thư này tới nơi, xin ngài lấy bụng nhân từ, rủ lòng soi xét.
Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a 25.)
Bình định vương lại gửi
thư cho Vương Thông, trách y lời nói không đi đôi với việc làm:
“Lại thư cho Vương
Thông.
Tôi nghe có người đem chim
chắt chó săn vào rừng, bủa lưới chài xuống chằm, mà bảo người ta rằng: tôi
không phải là người đi săn, là người đánh cá. Như thế thì dẫu dài mồm ba thước
mà nói cũng không thể tự biện giải được. Chẳng bằng thả chim chó, vứt lưới
chài, thì người ta tin ngay. Trước đây tôi nhiều lần tiếp thư của ngài nói muốn
theo những lời trong chiếu thư của đức Thái tông khi mới đánh
Giao Chỉ về việc cho lập con cháu họ Trần và nói rằng nếu tôi dâng biểu
cầu phong thì sẽ rút quân về Kinh, tha tội cho nước An Nam. Lúc đầu ai ai
cũng đều vui vẻ tin nhau. Sau mấy tháng ở trong thành cứ dựng thêm rào lũy, sửa
sang đồ binh, thì mọi người lại nghi lại sợ. Dẫu tôi là người được đội ơn ngài
như trời che đất chở mà cũng còn có phần ân hận, huống là người khác? Ngài nói
không phải là người đi săn, là người đánh cá, nhưng ngài chưa thả chim chó, vứt
lưới chài, để khiến người ta tin lời. Trước đó người ở Khâu Ôn vì uất ức
tìm ra được tờ tâu mà ngày mồng 10 tháng chạp năm thứ 1 niên hiệu
Tuyên Đức [7/1/1427] ngài sai thổ quan Vũ Nhàn dâng đệ, cùng bức thư
mà ngày 16 [13/1/1427] tháng ấy ngài tiếp tục sai
thổ quan Từ Thành dâng đệ về triều. Tôi xem ý trong hai bản ấy mới biết
ân đức của ngài như trời đất đối với muôn vật, phát dục tràn trề, sinh ý ngầm
thì mà muôn vật không biết. Thư trước ngài trách tôi “không hay kính thờ trời
đất cha mẹ”. Tôi không tự biết mang tội rất nặng, chỉ những lo sợ, nhưng tin
rằng ngài tất rủ lòng dung thứ, không trách bị đâu. Tôi lại thấy trong các văn
bản ấy có nói “Không vì một góc đất mà làm nhọc thiên hạ”. Lời bàn ấy thật là
xác đáng. Ví khiến ai ai cũng cùng lòng như thế thì thiên hạ tất vô sự rồi. Thế
mà các quan trấn thủ, các nội quan cùng các quan Tam ty dẳng dai hội nghị,
không đồng ý nhau, không biết các vị đại thần ở triều đình lại nhùng nhằng kéo
dài bàn định như thế nào nữa? Nếu ngài quả mở lòng thành, như thư trước đã nói
khi phụng mệnh sang đây được tiện nghi hành sự và được về trước không phải đợi
mệnh, thì ngài nên quyết định chí về, vừa để giải binh tiêu oán, làm phúc
cho sinh linh thiên hạ, vừa để đưa dẫn đời sau, hà tất lại xin vài vạn
quan quân để hộ viện. Ngài nên nghĩ lại, chẳng gì bằng thả chim chó, vứt
lưới chài là hơn. Nếu may mà không nuốt mất lời trước, thì tôi xin mở đường về,
phàm sửa chữa cầu đường, cung cấp lương thực, đều xin chuẩn bị sẵn sàng, để
đợi quân ở các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình và Tiền vệ,
không phạm mảy may. Chỉ xin tuân theo mệnh lệnh của ngài. Sự hiềm nghi của đôi
bên đều tiêu tan hết. Có trời, có đất, xin chứng giám cho nếu trái ước này,
thần minh tru diệt. Kính xin ngài rủ lòng xét định.” (Quân Trung Từ
Mệnh Tập, a 26.)
Tiếp theo, Bình định
vương gửi thư cho Vương Thông bác bỏ lời yêu cầu của y đòi đưa Đô đốc
Thái Phúc đã hàng nghĩa quân, đến gặp:
“Lại thư cho Vương
Thông.
Thư kính gửi Tổng binh quan
đại nhân.
Tôi nghe: Thành thực yêu
vật là lòng trời đất; thành thực yêu con là lòng cha mẹ. Nếu yêu vật không
thành thực, thì cơ sinh hóa có lúc đình; yêu con không thành thực, thì niềm từ
ái có khi thiếu. Vì thế nên trời đất đối với muôn vật, cha mẹ đối với con cái,
chẳng qua chỉ một chữ “thành” mà thôi. Hôm trước tôi phụng tiếp thư ngài
trách tôi “không biết kính thờ trời đất cha mẹ”. Song đem những việc ngài làm
ngày trước, đều không phải là đạo trời đất cha mẹ; trong cách đối xử với
người, tự xử với mình, sao lại như thế? Tất phải như Trương Tử (11) lấy
lòng trách người mà trách mình, thế mới gọi là hết đạo. Trước ngài nói: Thành
Đông Quan chật hẹp, cho quân nhân ở thành về trước và quân ở
Thanh Hóa các nơi lục tục kéo về sau”. Nay ngài lại muốn Thái đô đốc qua
sông tương hội mà trách tôi là “bất tín”, há chẳng làm lầm ư? Mình làm không
phải mà đổ lỗi cho người, bụng dạ người quân tử không ưa làm thế. Cuối thư ngài
lại lấy việc họ Hồ bị thân táng quốc vong để ví. Họ Hồ bất đạo thì cố nhiên quân
điếu phạt không thể trì hoãn. Song không làm cho nước đã diệt được phục
hưng, dòng đã tuyệt có thừa kế, mà lại muốn cùng binh độc vũ, khiến những dân
vô tội. luôn năm thiệt mạng ở trước gươm đao; những dân kính phục, luôn
năm trát gan ở nơi đồng cỏ, có lẽ nào bụng dạ người nhân nhân quân tử lại như
thế ư? Người ta bảo: “Lấy Yên đánh Yên, lấy Tần đánh Tần”(12) là thế đấy.
Song ngày trước đã qua; từ nay về sau, xin ngài hé mở lòng thực, quyết định chí
về, cho ngay quân nhân trong thành về trước, Thái công liền theo cùng về.
Ngài nếu chưa đi, Thái công sao dám cất chân đi trước? Còn như phần tôi dọn mở
lối về, cùng là sửa chữa cầu đường, dự bị lương cỏ, thì việc đó có khó gì đâu.
Tôi nào có ý nguyện gì khác đâu? Thư nói không hết.” (Quân Trung Từ
Mệnh Tập, a 28.)
Bình định vương lại
thuyết phục Sơn Thọ chớ nghe theo bọn chủ chiến Đô đốc Phương Chính,
Thái Giám Mã Kỳ; hãy dốc lòng thành hòa nghị, để rút quân về
nước:
“Lại thư cho
Thái giám Sơn Thọ.
Kính thư gửi Thái giám Sơn
lão đại nhân. Trộm nghĩ cái ơn ngày trước ngài đối với tôi hơn núi biển, mà tôi
báo đáp không được mảy may, cảm đội ơn ấy, sâu lắm. Trước đây kính viết thư
cho ngài, tôi đã tự nói rõ ý. Tôi biết rằng ngài cùng quan Tổng binh
vốn muốn giảng hòa, để hai nước thoát khỏi cái khổ binh đao. Khốn nỗi vì lời
bọn tiểu nhân họ Phương họ Mã [Phương Chính, Mã Kỳ],
vì thế mà bỗng hỏng việc nước. Cho nên bọn đầu mục trong quân của tôi có kẻ quy
oán cho tôi, không nghe tôi răn bảo nữa. Cái việc ngày trước ấy tôi vốn không
biết. Tôi nào dám vội quên lời trước mà định hại ngài đâu? Vả lại những điều
phải trái ngay cong thực không thể trốn được sự xét đoán sáng suốt của lòng
người. Ngạn ngữ có câu: “Như người uống nước, nóng lạnh biết ngay”. Ngày nay
hòa nghị thành hay không thành, tín nghĩa mất hay không mất, không phải là lỗi
tôi vậy. Ba trăm cỗ ngựa và một nghìn người quân tôi bắt được ngày trước, đều
không bị thương tổn một mảy nào. Còn như những người bị giết, là do lâm thời
đối địch, xuất ư bất đắc dĩ mà thôi. Nếu ngài lại theo ước cũ, như lời quan
Tổng binh đã nói là “Không đợi mệnh mà về ngay”, thì những binh mã bắt được
ngày trước, cùng quân nhân các vệ sở khác, hiện đều còn ở đây, chỉ đợi
lệnh ngài là tôi thi hành. Chưa rõ ngài định xử trí thế nào? Nếu không như thế,
mà cứ còn mê hoặc ở mưu kế của bọn họ Phương họ Mã, thì tuy ngài có cái ân như
cha mẹ, tất không thể yên nuôi con được, đến nỗi tôi không được phụng sự ngài
để hết đạo làm con. Xin ngài tha thứ đừng trách là may. Thư nói không hết.”
(Quân Trung Từ Mệnh Tập, a 29.)
Bình định vương sai
người đến gặp, nhưng Vương Thông không cho về; bèn gửi lời khuyên và
đề nghị nếu cho người thân tín cùng Sơn Thọ qua sông hội nghị giảng hòa
xong, thì nghĩa quân lập tức rút lui, để Vương Thông mang quân về nước:
“ Thư gửi cho
Vương Thông.
Thư gửi đến trước quan tổng
binh Thành sơn hầu. Trước tôi có thư, chưa được chỉ bảo; sai người
sang hầu, lại không cho về. Thế thì ngày trước ngài nói “lời nói việc làm không
trái nhau”, lời ấy ở đâu rồi thế? Tôi nghĩ cái đạo nước nhỏ phụng sự nước lớn,
nên phải kính sợ. Vả lại theo lời ngài nói trước, nghĩa không nỡ dứt, nên mới
luôn luôn gởi thư, không ngại tần phiền. Song rút lại vẫn không được như
nguyện. Không biết có phải là tình thế khiến như thế chăng? Tôi trộm tính kế
cho ngài, chẳng gì bằng rút quân khải hoàn, để cho hai nước khỏi cái khổ
can qua không ngớt, để cho nước nhà khỏi cái họa độc vũ cùng binh, để nên
cái nghĩa phục lại nước diệt, nối lại dòng tuyệt, để tỏ lòng nhân xem dân như
một, không bụng riêng tây, trên không phụ lòng triều đình ủy nhiệm, dưới không
sai nghĩa tướng thần xuất khổn, khiến cho tên nêu sử sách, thế lại không tốt
đẹp sao! Nếu lại theo cái tệ Hán Đường tham việc lớn thích công to, thì chi
bằng dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ đánh kẻ có tội! Nay lại bỏ
điều ấy mà không tính, chỉ xăm xăm đào hào đắp lũy, hàng ngày cứ lấm lét chỗ
cửa thành, cướp trộm củi cỏ [mang quân ra cắt cỏ kiếm củi],
sao mà tự khổ đến thế. Ngài nếu cho là thành hào hiểm vững có thể cậy
được, thì tôi e nước xa không cứu được lửa gần. Nếu bảo những quân dũng cảm
trong thành còn nhiều, muốn quyết một trận sống mái, thì ngày trước tôi còn ở
Khả Lam, Trà Lân, bọn các ông Phương Chính hàng vạn quân đều mạnh
giỏi, mà tôi chỉ có vài trăm quân một dạ cha con còn có thể đánh đâu
tan đấy, thế tựa chẻ tre; phương chi nay lấy các lộ Diễn, Nghệ,
Thanh Hóa, Tân [Tân Bình], Thuận [Thuận Hóa], Đông Đô,
chọn quân tinh nhuệ, không dưới vài mươi vạn, thì cái thế được thua có thể ngồi
mà tính được. Song nước thịnh hay suy, quan hệ ở trời, binh mạnh hay yếu, không
cứ ở nhiều, thế mà ngài lại cứ lấy việc họ Hồ ngày trước mà ví. Tôi cho việc
ngày nay với việc ngày trước khác nhau. Họ Hồ thì dối trời hại dân, mà tôi thì
kính trời thuận dân, lẽ thuận nghịch không giống nhau là một. Quân của họ Hồ
trăm vạn người trăm vạn lòng, mà quân của tôi bất quá vài mươi vạn, nhưng ai
cũng một lòng, cái đó không giống nhau là hai. Nay ngài nếu không vì người ngu mà
bỏ lời phải, quyết định chí về, sai người thân tín cùng Sơn đại nhân
qua sông hội nghị, thì tôi lập tức rút quân về Thạch Thất [Sơn
Tây], Thanh Đàm [Hà Nội], KhoáiChâu [Hưng
Yên] để dành lối ra. Nếu không thế thì chẳng làm thế nào
được.” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a 33.)
Bấy giờ Vương Thông vẫn
khăng khăng đòi quân các thành như Nghệ An, Diễn Châu vv… rút về trước;
sau đó đại quân tại thành Đông Quan mới rút. Bình định vương lại gửi
thư bác bỏ:
“Lại thư dụ Vương
Thông.
Tôi từng xem Kinh
Dịch 384 hào [Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ 6 hào; tổng
cộng 384 hào], mà cốt yếu là ở chữ “thời”, cho nên người quân tử theo thời
thông biến, nghĩa chữ “thời” to tát sao! Ngày trước, khi mới sang đánh
Giao Chỉ, tướng thần vâng mệnh đi đánh kẻ có tội, bấy giờ lại một thời
vậy. Ngay nay vận thời tuần hoàn, đi rồi lại lại, khi ngài phụng mệnh sang đây
được tiện nghi làm việc, nếu ngài quả biết theo chiếu thư của Thái tông mà
cho lập con cháu họ Trần để khôi phục nước tôi, thì bây giờ lại là một thời
vậy.Thời! Thời! thực không nên lỡ. Kinh Thư có câu: “Ai trước
thời giết không tha, ai sau thời giết không tha”(13). Vì thế mà
người quân tử lấy tùy thời xử trung làm quý. Song từ xưa đến nay, tục sĩ không
hiểu thời vụ; hiểu thời vụ họa chăng chỉ có bực tuấn kiệt mà thôi. Như ngài thì
có thể bảo là bực tuấn kiệt hiểu thời vụ đấy. Trước phụng tiếp thư ngài bảo tôi
nên hối hận điều lỗi trước, lại thu xếp việc hòa xưa. Thực như lời người ta
bảo: “Người quân tử không giữ oán cũ, ví như mưa to gió dữ, hốt lại tạnh
quang”. Thực là đáng mừng. Song một đoạn trong thư có nói xem quân sĩ ở đây cho
về trước thì xét lý có phần trở ngại. Sao thế? Ngài cầm hoàng việt, thống đốc
vương sư, chư tướng tuy có tài hơn đời, có sức tột bực, ai là chẳng phải bôn
tẩu theo mệnh lệnh ngài? Ngài chưa đi mà muốn các quân Diễn, Nghệ về trước thì
không thuận lẽ. Đó là điều trở ngại thứ nhất. Vả nay đã lấy các quân Diễn, Nghệ
ra, theo lời nghị trước thì cho quân nhân trong thành về trước, nhưng
vì bọn tiểu nhân làm lỡ việc mà việc tốt trở thành khấp khểnh, các quân
Diễn, Nghệ vốn có lòng oán giận, cho là ngài đã bán họ, nay ngài chưa đi thì
Thái đô đốc tất không dám đi trước một bước. Đó là điều trở ngại thứ hai. Hiện
nay khí trời ôn hòa, chính là lúc đem quân về rất tốt. Nếu ngài bỏ lỡ thời ấy
không đi, mà cứ chờ đợi, đến lúc nước xuân mới sinh, khí trời nóng bức dần, mà
bảo là ung dung khải hoàn thì tôi e những quân sĩ đi lâu nhớ nhà, giữa đường ta
oán, đến bấy giờ dẫu muốn ung dung vị tất đã được ung dung. Trước có bảo là tùy
thời xét biến, chính nên liệu sớm ngay đi. Ngài quả không cho lời tôi là vu
khoát, mà mở rộng lòng thành, thì xin cho người thân tín cùng Sơn đại quân qua
sông cùng hội, giết ngựa uống máu ăn thề, nguyện có quỷ thần, định rõ nhật kỳ,
sẽ đưa trả Nguyễn nội quan và Hà tri châu về Đông Quan (14).
Tôi cũng sai ngay người dâng biểu nộp cống và rút quân về các xứ
Thạch Thất, Khoái Châu, để ngài được ung dung lên đường. Các quân lục
tục kéo về, mà Sơn đại nhân ở sau thu vén. Như thế thì đôi bên hiềm nghi tiêu
tán, mà lòng ngài như trời đất cha mẹ, mới trọn vẹn thủy chung. Tôi dẫu kết cỏ
ngậm vành (15), sao đủ báo đáp?” (Quân Trung Từ Mệnh Tập,
a 34.)
Chú thích
1.Phủ Bắc Giang lúc đó gồm cả đất Gia Lâm ở phía bắc sông Nhị,
đối ngạn với thành Đông Quan. 2.Không còn ai:Trước đây, nhà Minh nêu chiêu bài “phù Trần diệt
Hồ” để che đậy dã tâm xâm lược, nhưng sau khi chiếm được nước ta, lại lấy cớ
con cháu nhà Trần không còn ai để đặt làm quận huyện. Nay trước nguy cơ thất
bại, nhà Minh lại đòi Lê Lợi lập con cháu nhà Trần lên làm vua vừa để biện hộ
cho cuộc xâm lược nước ta, vừa để mở đường rút lui, giữ thể diện triều đình
nhà Minh. 3. Thái công là Thái Phúc, viên tướng Minh trấn thủ thành Nghệ
An. Thành này bị bao vây từ tháng 2 năm 1425. Ngày 17-10-1426 (ngày 17 tháng
9 năm Bính ngọ), Phương Chính, Lý An rút quân về thành Đông Quan, giao thành
Nghệ An lại cho Thái Phúc cố thủ. 4.Trần Chúa đây là Trần Cảo do Lê Lợi mới lập nên. |
||||
|
||||
|
||||
|
5.Nam Ninh: hiện nay Nam
Ninh là thủ phủ tỉnh Quảng Tây, vị trí cách ngả ba các sông Tả Giang, Hữu Giang
khoảng trên 10 km.
6.Phủ Thái bình đời Minh vị
trí tại sông Tả Giang, gần biên giới Việt Nam; Bằng Tường, Long Châu nằm trong
phủ này.
7. Thành Điêu Diêu ở bờ bắc
sông Nhị, là một đồn lũy quan trong bảo vệ mặt bắc thành Đông Quan. Có thể
thành Điêu Diêu là thành Tiền vệ của Đông Quan. Di tích của thành hiện nay đang
còn ở xã Gia Thượng, Gia Lâm, Hà Nội.
8. Thành Cổ Lộng: Nhà Minh
đắp, nay ở xã Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nền cũ hãy còn, tục gọi là
thành Cách.
9. Chiến bằng: là đài cao
bằng gỗ dùng để đánh thành. Xe phần ôn: là loại xe để đánh thành, có 4 bánh,
căng dây làm khung, che bằng da trâu, dưới có thể nấp được mười người, sắt,
lửa, gỗ, đá không thể phá được. Xe phi mã: cũng là loại xe để đánh thành.
10.Chú thích của người
dịch Toàn Thư: Nguyên văn là "tự nguyện đăng thành" (tự
nguyện lên thành), chúng tôi ngờ có lầm lẫn từ chữ "đăng tải" (khai
báo) ra chữ "đăng thành" (lên thành).
11. Trương tử tức là Trương
Tái, hiệu là Hoành Cừ, là một bậc đại nho đời Tống.
12.Hai câu này chữ Hán là
“Dĩ Yên phạt Yên, dĩ Tần công Tần” (lấy Yên đánh Yên, lấy Tần đánh Tần), ý nói
là Yên và Tần là những nước bạo ngược vô đạo, nay đánh những nước ấy mà lại làm
bạo ngược vô đạo thì có khác gì lấy Yên đánh Yên, lấy Tần đánh Tần không?
|
13.Thiên “Dận Chinh” Kinh Thư có dẫn câu: “Tiên thời
giả sát vô xá, hậu thời giả sát vô xá” 先時者殺無赦,後時者殺無赦. Tức “ ai trước giết không tha,
ai sau giết không tha”; hàm ý phải đúng thời điểm; có thời điểm xuất hiện
trước bị giết; có thời điểm xuất hiện sau bị giết. 14.Nguyễn nội quan (chưa rõ tên) và Hà tri châu (tri châu Hà
Trung) là những viên quan nhà Minh bị nghĩa quân bắt vào cuối năm 1426. 15. Kết cỏ ngậm vành do chữ 結草銜環 (kết thảo hàm hoàn). Xưa Ngụy Thù nước Tấn có người thiếp đẹp không có con. Thù ốm, bảo con là Khỏa rằng: “Phải gả chồng cho người ấy”. Sau ốm nặng, Thù lại bảo Khỏa rằng: “phải chôn người ấy theo ta”. Đến khi Ngụy Thù chết, thì Ngụy Khỏa đem gả chồng cho người thiếp ấy. Sau Khỏa làm
tướng nước Tần, đánh nhau với quân Tần ở Phụ Thị, Khỏa thấy có ông già ngồi
buộc cỏ lại. Đỗ Hồi là tay vũ lực giỏi của Tần vướng cỏ ngã bị Khảo bắt được.
Đêm ấy Khỏa nắm mơ thấy một ông già đến nói rằng: “Tôi là cha người đàn bà mà
ông đem gả chồng. Ông không chôn sống con tôi nên tôi làm thế để báo ơn”. (Tả
truyện). Xưa Dương Bảo ở đời Hán khi lên 9 tuổi, bắt được con chím sẻ
vàng bị chim cắt bắt đánh rơi bị thương, đem về nuôi cho khỏi rồi thả ra. Đêm
có người đồng tử mặc áo vàng ngậm bốn vành ngọc trắng đến nói cám ơn (truyện
Dương Chấn ở Hậu Hán thư). Vì thế người đời sau dùng hai điển đó để tả sự báo
ơn. Riêng điển tích thứ hai còn được gọi là 黃雀銜環 “hoàng tước hàm hoàn”. |
|
Vào
khoảng tháng 2 năm Bình Định vương thứ 10 [26/2-27/3/1247] (Minh, Tuyên
Đức năm thứ 2); Vương Thông lo củng cố phòng thủ thành Đông Quan, ý
chờ viện binh tới. Bình định vương sai Nguyễn Trãi soạn thư, xét tình
hình hai nước, phân tích lợi hại, chỉ cho y biết con đường sống duy
nhất, là giảng hòa, rút quân về:
“ Lại thư dụ Vương Thông.
Kính thư gửi quan Tổng
binh cùng liệt vị đại nhân. Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời
thế mà thôi. Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời
không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy; sự thay đổi ấy chỉ trong
khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời
dối trá, thế chẳng phải bọn thất phu hèn kém ư? Sao đủ để cùng nói việc binh
được? Trước đây lòng mưu giả trá, mặt thác giảng hòa, rồi cứ đào hào đắp lũy,
ngồi đợi viện binh, tâm tích không rõ, trong ngoài khác nhau, sao đủ khiến ta
chắc tin mà không ngờ được? Cổ nhân có nói: “Tha nhân hữu tâm, dư thổn đạc
chi” [Bụng dạ người khác, ta lường đoán biết], nghĩa là thế đó. Xưa kia Tần thôn
tính sáu nước, chuyên chế bốn biển, đức chính không sửa, thân mất nước tan.
Ngay Ngô [chỉ nhà Minh, thời khởi nghĩa Vua Thái Tổ
gọi là Ngô vương] mạnh
không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy một năm tất nối nhau mà chết, ấy
là mệnh trời, không phải sức người vậy. Hiện nay phương Bắc có kẻ địch
Thiên Nguyên [niên hiệu hậu chúa nhà Nguyên], trong nước có mối lo các xứ
Tầm Châu [dân thiểu số vùng Tầm Châu, Quảng Tây], một khu Giang Tả [chỉ
Giang Tô] không tự giữ
xong, huống còn mưu toan cướp nước khác ư! Các ông không hiểu sự thế, bị người
đánh thua, lại còn chực dựa uy Trương Phụ, thế là đại trượng phu chăng? Hay
cũng chỉ là đàn bà thôi? Sự thế ngày hay, dẫu cho thượng vị [chỉ
Vua Minh] có đem quân
đến nữa, cũng chỉ chóng chết mà thôi, huống là Trương Phụ chỉ tự đến nộp mạng thì
sang! Xưa Hán Chiêu Liệt [Lưu Bị] chỉ là di phái họ Lưu, mà Khổng Minh làm cho đại
nghiệp phục hưng được, huống hồ con cháu hoàng Trần, mệnh trời đã cho,
lòng người đã theo, thì Ngô sao có thể cướp được! Và kẻ hào kiệt ngày xưa, chưa
gặp thời thì ẩn, đã thấy cơ thì dậy, cho nên Y Doãn (1) là kẻ cày ruộng ở đồng Sằn, Thái
công (2) là
kẻ câu cá ở sông Vỵ, một người thì làm vương tá, một người thì làm đế sư, đấy
là người hào quý chăng? Là người bần tiện chặng? Còn như Mộ Dung nước Yên (3), Thạch Lặc (4) nước Triệu đó là người
Trung Quốc chăng? Là người Man Mạch (5) chăng? Ngẫm kỹ lời các ông nói,
thật là lời nói của tiểu nhân Man Lão, không phải là lời nói của người Trung
Quốc vậy. Nay sức hết kế cùng, quân sĩ nhọc mệt, trong thiếu lương thực, ngoài
không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành chơ vơ, há chẳng phải là
như thịt trên thớt, cá trong nồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, dụ điều
phi nghĩa. Kìa những kẻ trung thần nghĩa sĩ, dầu thời cùng vận ách, nếm mật nằm
gai, cũng chẳng chịu mưu đồ kia khác, lẽ nào ngày nay lại chịu tin nghe lời bất
nghĩa của bọn các ông? Chỉ e người Nam trong thành nhớ mến chủ cũ, người Ngô ở
đây khốn khổ không kham, thì những người chống các ông sẽ kế nhau ra hàng;
lại như Trương Phi, Lữ Bố (6), các ông lại bị chính bộ hạ giết
hại, đó là lẽ tất nhiên. Nay ở các thành, từ Đô ty trở xuống đều căm giận bọn
các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ trèo lũy trốn ra, tố cáo
cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn sẽ giết lẫn nhau,
hà tất phải quân sĩ của ta nữa. Nay tính hộ các ông thì có sáu điều phải thua:
- Nước lụt chảy tràn,
tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó là điều phải thua
thứ nhất.
-Xưa Đường Thái bắt
Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng (7). Nay những nơi quan ải hiểm yếu,
đều có quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã
thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.
- Ở nước các ông quân mạnh
ngựa tốt nay đã đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến
miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.
- Luôn động can qua, liên
tiếp đánh dẹp, người sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua
thứ tư.
- Gian thần chuyên chính,
chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau (8), gia đình sinh biến. Đó là phải
thua thứ năm.
- Nay ta dấy nghĩa binh,
trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh,
vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt, tự chuốc
diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sáu.
Nay giữ cái thành cỏn con
để chờ sáu điều thất bại, ta lấy làm tiếc cho các ông lắm! Cổ ngữ có câu: “Nước
xa không thể cứu lửa gần”. Giá viện binh có đến, cũng không có ích gì cho sự
bại vong? Trước Phương Chính, Mã Kỳ chuyên làm hà ngược, sinh linh lầm than, thiên
hạ ta oán, đào phần mộ ở ấp ta, bắt vợ con của dân ta, người sống bị hại, người
chết ngậm oan. Nếu các ông xét kỹ sự cơ, nhận rõ thời vụ, nên chém lấy đầu
Phương Chính, Mã Kỳ đưa nộp ở quân môn, thì sẽ tránh khỏi giết hại cho người
trong thành, hàn gắn vết thương cho người trong nước, hòa hảo lại thông,
can qua nghỉ mãi. Như muốn kéo quân về nước, thì cầu đường sửa xong, thuyền ghe
sắm đủ, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn, đưa quân về cõi, yên ổn muôn phần.
Ta chỉ giữ phận bề tôi, không thiếu chức cống. Nếu không nghe thế, thì nên
chỉnh quân bày trận, giao chiến ở chốn bình nguyên, quyết một trận được thua,
để xem khéo vụng, chứ không nên ở chúi trong xó hang cùng và bắt chước thái độ
mụ già như thế!” (Quân Trung Từ Mệnh Tập, a 35.)
Vào tháng hai và tháng ba
[26/2-26/4/1427] quân Minh từ thành Đông Quan, rán nỗ lực phản công.
Trong tháng hai, 2 lần tấn công huyện Từ Liêm; tại trận đầu, phía ta
danh tướng Lê Triện tử trận. Vào tháng ba, Vương Thông mang quân đánh
phá huyện Thanh Trì, quân ta truy kích đến quận Hoàng Mai, bị quân Minh
đánh kẹp, Lê Lễ tử trận. Lễ là tướng bách chiến bách thắng, Bình
định vương rất thương tiếc; Triện nguyên họ Đinh được ban quốc tính họ
Lê:
“Tháng 2, ngày mồng
7 [4/3/1427],
Phương Chính ngầm đem quân đánh úp Cảo Động [phía tây Hồ
Tây] , huyện Từ Liêm,
Triện có sức đánh lại, bị tử trận, Bí bị giặc bắt sống. Sau giặc về nước, lấy
lễ trả Bí về.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 28a.
“Ngày 19 [16/3/1427], quân Minh đánh vào Bài Sa Đôi, huyện
Từ Liêm. Quân ta cố thủ quyết chiến, binh khí hết sạch, dùng mảnh nồi chõ, chum
vại ném vào giặc. Giặc không tiến vào được, liền phá nhà cửa của dân để đánh
hỏa công. Hôm ấy, gió rét lửa nóng, quân ta tránh lửa vượt sang sông, có nhiều
người bị chết đuối. Chỉ có những quân lính ở Thiên Quan không biết bơi, ở lại
tử chiến với giặc, giặc lại thua chạy.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 28a.
“Trước đó, ngày mồng 9 [6/3/1427], Tư không Lê Lễ, thượng tướng
quân Lê Xí đánh nhau với quân Minh ở My Động [quận Hoàng Mai,
Hà Nội] . Lễ tử trận.
Hôm ấy, Vương Thông
đem quân tinh nhuệ trong thành ra đánh Thái giám Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt [phía
tây huyện Thanh Trì]. Nguyễn
giữ vững thành lũy chống lại. Vua vội sai Lê Lễ, Lê Xí đem hơn 500 quân Thiết
đột đến đánh, đuổi giặc tới My Động. Vương Thông thấy Lễ ít quân, mới đánh kẹp
vào. Lễ và Xí cưỡi voi cố sức đánh, voi sa lầy, bị quân Minh bắt sống đem vào
thành Đông Quan. Lễ không chịu khuất phục, bị giết chết. Xí về sau nhân đêm mưa gió, dùng
mẹo đánh lừa tên canh giữ, chạy thoát về, ra mắt vua ở dinh Bồ Đề. Vua kêu lên:
"Sống lại": Trước kia, mỗi lần Lễ ra trận, vua thường răn chớ nên
khinh địch. Đến khi thắng trận ở Tốt Động, mọi người đều khen Lễ là giỏi. Vua
nói: " Trăm trận đánh được cả trăm không phải là điều hay cả đâu. Hắn cậy
quân tinh quen mùi được luôn, thất bại có thể đứng mà chờ đó!". Đến đây
quả nhiên như vậy.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 29b.
Sử Trung Quốc chép gộp các
sự kiện nêu trên, mô tả Vương Thông vừa đánh vừa run; sau đó chỉ lo
đào hào, tu sửa hàng rào phòng thủ, không dám ra đánh nữa:
“Ngày 7 tháng 2 năm Tuyên Đức thứ 2 [4/3/1427]
Ngày hôm nay giặc Lê Lợi
tại Giao Chỉ, đánh thành Giao Chỉ [Đông Quan]. Bọn Thành sơn hầu Vương Thông mang
binh đánh bại, chém bọn ngụy Tư đồ Lê Trỉ, Tư không Đinh Lễ, Thái giám Lê
Bí, và bọn Thái úy, Thiếu úy, Chánh đốc, Đồng đốc Trần Chửng; giặc bị
giết có đến vạn tên, số còn lại bỏ chạy, Lê Lợi hoảng sợ đến vở mật. Trên đường,
các tướng, cùng quan lại tại tam ty nói với Thông rằng:
- ‘Giặc bại tẩu,
không phòng bị; nên thừa thế vượt sông đánh bất thình lình, có thể bắt giặc
được; nếu trì hoãn, giặc chiêu tập được tàn dư tất sẽ liều chết chống lại quân
ta.’
Thông do dự không
quyết, trả lời :
- ‘Đợi xem xét .’
Qua 3 ngày không chịu ra
quân, giặc dò xét biết Thông sợ, bèn tập trung dư đảng xây đồn trại, đào hào,
tu sửa khí giới, tiến công bốn phía.” ( Minh Thực Lục v.
17, tr. 654-655; Tuyên Tông q. 25, tr. 3b-4a )
Sau khi Tư không Lê Lễ và
Thượng tướng Lê Xí đánh nhau với quân Minh tại My Động bị thua; Bình
định vương gửi thư cho Vương Thông phân tích sự thất bại là nhỏ; so
với đại cuộc nhà Minh trên đường suy sụp, và quân tình tại thành Đông
Quan hết sức bi đát:
“Thư cho Vương Thông.
Tôi nghe: Múc một gáo
nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà
đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy sự thắng nhỏ mà mừng, không lấy sự
thua to mà sợ. Nay các ông lấy tàn tốt vài nghìn, giữ một thành trơ trọi, lương
sắp hết mà viện không thấy đến, chúng lìa lòng mà quân ngày ít đi, cái thế mạnh
yếu được thua, có thể ngồi mà tính được. Huống hồ nước An Nam binh tướng thì
nhiều, tâm lực đều nhau, chiến khí càng tinh, sĩ khí càng mạnh, kẽ sĩ trí mưu,
các tướng vũ dũng, chẳng khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau vậy. Các
ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh, mà ta dẫu có thua một trận
nhỏ cũng không thấy là yếu. Vừa rồi mấy người tỳ tướng của ta, tuổi trẻ tính
ngông, không theo ước thúc, khinh chiến lỡ cơ, các ông lấy thế làm đắc chí. Nay
đem những tướng hiện ở các nơi Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn, Nghệ cùng các sở Tiền
Vệ, Tam Giang, Xương Giang, Trấn Di và Thái đô đốc cùng các quan Tam ty,
chỉ huy, thiên bách hộ, ước hơn vài trăm người, quân nhân một vạn vài nghìn
người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người bị các ông làm lầm lỡ, mà so với vài
người tỳ tướng, thì ai hơn ai kém, ai được ai thua? Thế mà ông không hề lấy thế
làm lo, lại còn dương vây nói mẽ, có khác gì nhà đương cháy mà chim én còn nhơn
nhơn vui vẻ cùng nhau, há chẳng đáng cười lắm sao! Vả lại nay ở miền
Lưỡng Quảng nghe tin quân ta thừa thắng ruổi dài, bọn đạo tặc đã nhân dịp mà
trỗi dậy. Tích lịch đại
vương đã giữ đất xưng đế, mà binh tượng của ta ngày đêm tiến
đánh; Bằng Tường Long Châu ta đều lấy được. Nay ông
vẫn còn ngày ngày mong đợi viện binh mà nói phao là viện binh sắp đến, thì có
khác gì trong mộng nói chuyện mộng không? Lại càng đáng cười lắm! Ngày trước
Thái đô đốc [Thái Phúc] và
các chỉ huy thiên vạn hộ cùng các quan phủ huyện châu có bảo tôi đem sự lý
trong tờ chiếu của Thái tông hoàng đế cho lập họ Trần, vào
Kinh mà tâu bày và tố cáo việc quan Tổng binh không biết, trấn thủ phương Nam lại theo kế của người
khác, tự gửi văn thư đi thu binh mã của các vệ giả làm giảng hòa, rồi thì
bội ước để đến nỗi bọn ấy nhao nhao kêu la thất sở. Song tôi cứ tờ tâu ngày
trước bắt được thì thấy Tổng binh đại nhân thực có lòng thành, chỉ vì bọn
họ Phương họ Mã [Phương Chính, Mã Kỳ] làm mê muội mới đến nỗi thế. Bởi
vậy lời bàn ấy chưa quyết. Nếu ngài nay lại biết theo lời ước cũ, thì nên cho
quân về ngay, cùng hòa giải với Thái đô đốc, vừa để thoát khổ can qua cho hai
nước, vừa để giải mối oán bị bán rẻ của Thái công. Như thế thì trọn
quân, mà khỏi họa, há chẳng hay sao! Nhược bằng cứ chấp mê mà giữ đến chết
không biết biến thông thì cũng như câu Đường Thái tôn bảo “tận trung vô
ích” (trung hết lòng không ích gì) vậy. Vả kẻ đại trượng phu làm
việc nên phải lỗi lạc đàng hoàng. Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến
thuyền ở cửa sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra
đồng ruộng để quyết sống mái trong một hai ngày, không nên chui ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy
củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phải
là việc làm của bực đại trượng phu!” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a 36.)
Ngày 19 tháng 2 [16/3/1427],
người Minh giữ thành Thị Cầu là Đường Bảo Trinh ra hàng:
“Trước kia, Vương vời Lê Chích ở Nghệ An ra, cho làm tổng
tri Hồng Châu [Hải Dương] và
Tân Hưng lộ [Thái Bình] ,
dồn lực lượng đánh Thị Cầu [thị xã Bắc Ninh]; đến đây, thành này đầu hàng.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 14.
Trước khi thành Thị Cầu đầu
hàng, Bình định vương đã ân cần gửi thư dụ dỗ; thành này lúc bấy
giờ là thủ phủ Bắc Giang, nên còn gọi là thành Bắc Giang:
“Thư dụ
thành Bắc Giang.
Thư bảo cho tướng hiệu
quan viên cùng quân nhân trong thành Bắc Giang. Ta nghe nói: Người có
Bắc Nam, đạo không kia khác. Nhân nhân quân tử, không đâu là không có. Nước
An Nam ta tuy xa ở ngoài Ngũ Lĩnh [5 đèo tại phía
nam Trung Quốc] mà
tiếng là nước thi thư, những bực trí mưu tài thức đời nào cũng có. Vi thế phàm
những việc ta làm đều là đúng theo lễ nghĩa, hợp trời thuận người. Trước đây
quan tổng binh [Thành sơn hầuVương Thông], sau khi thua trận ở Ninh Kiều,
sai người đưa thư đến ta ước hẹn hòa giải. Ta vì trên được hết lòng kính thuận
với Triều đình, dưới được thoát khổ binh qua cho hai nước, nên nói gì ta cũng
nhất nhất nghe theo. Sau lại bảo ta sai người dâng biểu cầu phong, mà nói
rằng “sau khi dâng biểu lập tức rút quân”. Đến lúc biểu đã đi mà quân chưa thấy
rút lại còn dựng thêm rào lũy, sắm sửa đồ binh, tự cho là đắc sách lắm. Bội ước
thất tín đến thế là cùng! Hiện nay vệ quân các xứ Thanh Hóa, Diễn Châu
đến đã nhất tề đến đây rồi, phàm vợ con tài sản của quân nhân, mảy may không bị
xâm phạm. Nay cái kế tốt của các ngươi không gì bằng ra ở ngoài thành,
cùng Thái đốc quân [Thái Phúc] quyết định việc về, để cứu vớt mấy nghìn tính mệnh
ở thành. Chúng ta đã xét những việc đắc thất của cổ nhân, như Bạch Khởi nước
trong Tần [9],
Hạng Võ nước Sở [10] giết
kẻ đầu hàng, trái lời đã ước, chúng ta không không làm như thế đâu. Các người
hãy cứ thư lòng, đừng nên ngờ vực mà thành hỏng việc. Các ngươi nếu cho là
thành cao hào sâu, lương
thực lại nhiều, thì thử xem như ở các xứ Thanh Hóa,
Nghệ, Diễn, thành không
phải là không cao, hào không phải là không sâu, lương thực không phải là không
nhiều, quân không phải là không mạnh; lại Thái đô đốc thì chức cũng to, binh
cũng giỏi, trí cũng sáng, mà còn theo thời thông biến để bảo toàn tính mệnh cho
mấy vạn con người. Thế mà các ngươi lại còn muốn cố chấp lời bàn suông, để mang
tai vạ thực, há chẳng lầm lắm ư? Vả lại ta xem ở nước các ngươi, hiện nay bên
trong có họa tiêu tường [mối họa trong cung], bên ngoài có giặc Bắc biên [phương
bắc]; mà đại thần lấn
vị, người dưới chuyên quyền; hạn hán hoàng trùng, luôn năm tai họa; bốn phương
đạo tặc, nổi dậy như ong. Cái
cơ tán loạn, há không biết trước rồi sao? Người trí giả thấy việc từ lúc việc
chưa phát, sao các người lại thấy sự cơ muộn thế, mà muốn tự khổ như thế? Các
ngươi nếu biết kéo quân ra thành, cùng ta hòa hảo thân tình, thì ta coi các
ngươi nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mệnh vợ con mà
thôi đâu? Nếu không thế, tùy ý các người. Trong khoảng sớm tối, sẽ thấy khác
nhau. Đến lúc bấy giờ, hối cũng không kịp. Các người hãy nên nghĩ đi.”
(Quân Trung Từ Mệnh Tập, a31.)
Cũng vào tháng 2, Quân sư
Nguyễn Trãi đưa viên Chỉ huy đầu hàng họ Tăng đi chiêu dụ thành Tam
Giang:
“Sai viên chỉ huy họ Tăng đã đầu hàng, theo Nguyễn Trãi đi
chiêu dụ thành Tam Giang [Phú Thọ].” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 28b.
Thành này nằm trên đường quân
Minh tiếp viện từ Vân Nam đến thành Đông Quan. Quân sư Nguyễn Trãi gửi
thư chiêu dụ, phân tích điều họa phúc, có tình có lý, nên sớm có
hiệu quả:
“Thư dụ thành Tam Giang.
Thư bảo cho tướng hiệu
quan viên cùng quân nhân trong thành Tam Giang. Cái điều đáng quý ở người
quân tử là biết thời thông tiết, lượng sức xử mình. Bây giờ giá có người
đem quả trứng chim đỡ núi Thái, lấy càng bọ ngựa ngăn cản bánh xe, mà lại tự
cho là sức có thừa, thì thật là ngu quá vậy. Lũ người có vài trăm quân, giữ
thành trơ trọi mà lại muốn kháng cự với ta, thì có khác gì thế không? Thành trì
của các người không cao sâu bằng ở Nghệ An, lương thực của các người
không súc tích bằng ở Diễn Châu, mà quân vũ dũng cảm tử của các ngươi lại
không đông bằng quân nhân ở Diễn, Nghệ, quan tước của các ngươi lại không to
bằng Thái đô đốc. Thế mà vệ quân ở các xứ Diễn, Nghệ, Thuận Hóa,
Tân Bình, Thanh Hóa, Tiền Vệ, Thị Cầu, Xương Giang,
Trấn Giang (tức Trấn Di) đều đã mở thành ra hàng (11). Nay dưới cây Bồ đề (12), Thái đô đốc đã định nhật kỳ kéo
quân về Kinh. Phàm quân nhân cùng vợ con tài sản không bị xâm phạm mảy may. Thế
mà các ngươi chỉ cứ theo mê giữ lầm, không biết lo xa, sao mà thấy biết sự cơ
muộn thế! Tất cả những tướng sĩ của ta, không ai là không hăm hở muốn vác khí
giới lên phá thành ngay. Nhưng ta còn nghĩ thương những kẻ vô tội ở trong
thành đã bị các ngươi lừa dối, một khi tiếng trống nổi lên, thì ngọc đá (13) chẳng phân biệt gì, đều tan nát
cả. Vậy viết mấy chữ gửi các ngươi hay.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a 32.)
Nhờ vậy vào tháng sau, viên
Chỉ huy sứ Lưu Thanh mang bộ hạ ra hàng. Viên này tuy là người Minh,
nhưng có lòng ngưỡng mộ Bình định vương Lê Lợi; bấy giờ trong quân có
tên lính người Việt nói lời khinh mạn Vua; Thanh bèn quở trách. Sau
đó quân đầu hàng âm mưu làm phản, bị giết; riêng quân thành Tam Giang
vô sự:
“Ngày 16 [12/4/1427], bọn Chỉ huy sứ Lưu Thanh ở thành
Tam Giang ra hàng. Trước đây, quân lính ở thành Tam Giang theo sự điều động
của quan Tổng binh nhà Minh đi đánh vua ở Thanh Hóa, bị thua trở về, có tên
ngụy binh buông lời khinh mạn vua. Thanh mắng nó:
‘Thằng man vô lễ, ông ấy
sẽ là hoàng đế của chúng mày đấy.’ Đến đây thì ra hàng.
Hơn 1 vạn quân Minh đầu
hàng trong các thành âm mưu làm phản bị giết. Thành Tam Giang không nằm trong
số đó.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 29a.
Đức độ Bình định vương Lê
Lợi khiến kẻ thù phải nể sợ; sự kiện này, Sử thần Ngô Sĩ Liên có
lời bình sau đây:
“Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua nổi dậy, nghĩa binh đi đến
đâu, quân Minh đều thua chạy, có phải vì ta nhiều địch ít, ta mạnh địch
yếu mà chúng không chống nổi đâu? Là vì đức của vua hợp với lẽ trời, nên trời
giúp cho; làm đẹp lòng người nên người theo về; không những là người
nước ta vui vẻ thuận phục, mà cả đến bọn phản nghịch cũng tôn kính như vậy, nên
chúng không còn chí chiến
đấu và đều ra hàng là phải lắm! Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 29a.
Lại một lần nữa Bình định
vương chiêu dụ Vương Thông rằng tuy nghĩa quân chưa đánh thành, nhưng thế
lực mạnh như ngàn cân đè lên quả trứng mỏng; nếu không lo giảng hòa,
thành ắt sẽ bị tiêu diệt:
“Thư cho
Vương Thông.
Thư bảo cho tổng binh
ngươi biết. Cổ nhân có nói: “Giặc đến lúc cùng, chớ nên đuổi bức” (14). Nay ta định đem ba bốn mươi vạn quân
vây bốn cửa thành của ngươi, chỉ e chim cùng thì mổ, thú cùng thì
vồ, nên ta không đem quân toàn thắng, đọ với kẻ cùng quân tất tử, như tranh hơn thắng với lũ trẻ
con vậy. Tuy nhiên, dù tiểu địch giữ vững, vẫn bị đại địch bắt được (15). Hể lấy sức nặng ngàn cân đè lên
trứng chim, thì chưa hề có trứng nào không vỡ nát. Cái chuyện đánh thành hãy
gác một bên. Hoặc giả buông lỏng cho bè lũ ngươi, không để ý đến, ta hãy cởi
giáp nghỉ binh, vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, sửa sang khí
giới, luyện tập binh tượng, dạy cho những phương pháp ngồi, dậy, tiến, lui, lại
lấy nhân nghĩa mà hun đúc, khiến ai ai cũng hết lòng thành, thân với kẻ trên,
chết cho người trưởng, lấy đấy mà ứng phó với địch, kẻ nào theo ta sẽ sống, kẻ
nào trái ta sẽ chết, phàm ta trông cậy là thế mà thôi. Hoặc một ngày kia
việc nước ngươi hơi thư, lòng tham lại mống, hoặc lại đem ba bốn vạn quân sang,
thì ta đối phó thực ung dung lắm. Đến như bọn các ngươi, không đánh mà bị
bắt thì chẳng phải nói nữa! Trong hai chước đó, ý ta chưa quyết chước nào!
Không biết các ông có cho việc ta không để ý đến là thượng sách chẳng? Xin các
ông lui mà chỉ giáo cho, thực là may lắm.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a 39.)
Nhân việc quân đầu hàng tập
trung đông, âm mưu làm phản; nên có lệnh di tản đến các tỉnh miền
Trung:
“Chia bọn quan lại nhà Minh đã đầu hàng cho ở các xứ Thanh
Hóa, Nghệ An, Lam Ấp [Lam Sơn, Thanh Hóa] , Tân Bình [Quảng
Bình].” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 29b.
Ngoài ra trong tháng 2 năm
Bình Định vương thứ 10 [26/2-27/3/1427] còn có các sự kiện đáng lưu ý
như: Lần đầu tiên Sứ thần Chiêm Thành đến triều cống; ấn định việc
thưởng phạt các tướng; và lệnh trùng tu, coi giữ các lăng miếu
triều trước:
“Sứ Chiêm Thành sang cống. Ban yến, cho ngựa và lụa bảo
về. Sai Thiêm tri khu mật Hà Luật cùng đi với họ.”
“ Hạ lệnh thưởng công cho
các tướng hiệu bắt đầu từ việc lập công mới: đại thần đến thiếu úy có công lao
lớn, được thưởng phù vàng thì được ăn lộc một quận; chức chấp lệnh mà có công
thì được ăn lộc một ấp; các đốc tướng, quân nhân có công cũng được ăn lộc một
quận hay một ấp theo thứ bậc khác nhau. Người nào không có công, không được
thưởng gì đều phải giáng làm dân thường.”
“Xuống chiếu rằng: Các
lăng miếu của triều trước, nơi nào bị giặc phá hoại thì làm lại, cấp cho số
người giữ việc thờ cúng theo thứ bậc khác nhau.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 29a.
Tháng 3 [28/3-26/4/1427], Vua
cho duyệt bộ binh và thủy binh:
“Tháng 3, vua duyệt binh ở Vĩnh Động [huyện
Kim Thi, Hưng Yên]. Chánh
đốc Nguyễn Liên để hàng ngũ trống thiếu, vũ khí không đủ, bị chém để rao trong
quân.”
“Diễn tập thủy trận.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 31b.
Giao cho Bùi Ư Đài, Lê Nhân
Chú chức vụ quan trọng:
“ Lấy Bùi Ư Đài là Lễ bộ thượng thư kiêm
tri Đông đạo quân dân tịch bạ.”
“Lấy thông hầu Lê Nhân Chú làm Hành quân đốc quản nhập nội
đại tư mã, lĩnh Tiền, Hậu, Tả, Hữu tứ vệ, kiêm tri Tân vệ quân sự.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 30b.
Lệnh tuyển chọn những người
tinh thông võ nghệ, khỏe mạnh dũng cảm, vào làm thị vệ nội phủ; cùng
tiến cử người hiền tài để cất nhắc sử dụng:
“Hạ lệnh cho ba quân, người nào có thể liều mình vì nước,
tinh thông võ nghệ, khỏe mạnh dũng cảm, không kể sống chết, đều được cấp văn
bằng và tuyển vào làm thị vệ ở nội phủ.”
“Sai các viên Thiếu úy tuyển chọn con em những nhà giàu có
trong dân, vóc người cường tráng to lớn, võ nghệ tinh thông, khỏe mạnh dũng
cảm, mỗi viên chọn lấy 200 người, bổ làm quân thị vệ, kẻ nào hèn nhát thì không
lấy.”
“Hạ lệnh cho các lộ tiến cử những người hiền tài, chính
trực, trí dũng anh kiệt, cho gọi tới trả lời các câu hỏi, rồi cất nhắc sử dụng.
Ai che dấu thì bị xử tội truất giáng.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 31a.
Hạ lệnh cấm thượng cấp không
không được giết quân lính bừa bãi; cùng cấm mê tín, đồng cốt quàng
xiên:
“Hạ lệnh cho bọn Thiếu úy, Chấp lệnh,
Tổng giám rằng: Ngày thường quân nhân phạm pháp thì không được tự ý giết chết.
Khi ra trận mà kẻ nào trái lệnh thì cho phép chém trước tâu sau.”
“Cấm những kẻ xưng là đồng cốt, tà đạo, mượn tiếng ma quỷ,
thần thánh, gieo rắc hoang mang, bịa đặt mê hoặc lòng người.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 31a.
Ngoài ra còn có lệnh giúp
dân phiêu bạt trở về quê, yên ỗn nghề nghiệp; và sai người Minh đầu
hàng mang ngựa đem vào Hóa châu nuôi:
“Hạ lệnh cho dân phiêu bạt trở về quê
quán cày cấy. Người nào không có điền sản thì cho phép buôn bán. Kẻ nào bỏ nghề
nghiệp thì bị xử tội nặng.”
“Sai Chu Sài là người Minh đầu hàng đem
340 con ngựa đến châu Hóa [Thừa Thiên] để chăn nuôi.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 31b.
Về phía nhà Minh, vào tháng
chạp năm Tuyên Ðức thứ nhất [23/1/1427] ra lệnh An Viễn hầu Liễu Thăng và
Kiềm Quốc công Mộc Thạnh mang 7 vạn quân sang cứu Vương Thông; nay lại
tuyển thêm quân binh thuộc loại tinh nhuệ làm quân hộ vệ:
“Ngày 2
tháng 3 năm Tuyên Ðức thứ 2 [ 30/3/1427 ].
Sắc dụ điều thêm quan quân
hộ vệ Vũ Xương 1.000 người, hộ vệ Thành Ðô 1.200 người. quan quân tinh nhuệ tại
Nam Kinh, Nguyên Hạ, Tây Dương 10.000 người; Trung đô lưu thủ ty, Ðô ty Hồ
Quảng, Chiết Giang, Hà Nam, Sơn Ðông, Quảng Ðông, Phúc Kiến, Giang Tây, Vân
Nam, Tứ Xuyên; cùng Tứ Xuyên hành Ðô ty 33.000 người; theo An viễn hầu Liễu
Thăng, Kiềm quốc công Mộc Thạnh sang đánh Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 164 )
Lại sai các viên trọng thần
đến Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Quảng, lo điều lương cấp cho quân lính:
“ Ngày 2 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ
2 [29/3/1427 ]
Mệnh hành tại Thị lang bộ
Hình Phàn Kính đến Quảng Tây; Đô sát viện Phó Đô Ngự sử Hồ Dị đến Quảng Đông,
Đô sát viện Phó Đô Ngự sử Lý Tố đến Hồ Quảng đôn đốc quân lương mang đến Giao
Chỉ cấp cho quân.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2,
trang 163)
Bấy giờ có những viên võ
quan nhà Minh, sợ đánh nhau, chần chờ không muốn tiến; bị Giám sát
ngự sử đàn hạch:
“Ngày 18 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 2 [14/4/1427].
Tuần án Quảng Tây Giám sát
Ngự sử Uông Cảnh Minh hặc tấu việc lầm lỗi của bọn Đô Chỉ huy Hồ Quảng
Trương Quí, Lỗ Tăng, trên đường mang binh đến Giao Chỉ. Quí đến Quảng Tây
dừng lại cưới hầu thiếp, kéo dài hơn 40 ngày không chịu đi; rồi giả bộ
mượn cớ thúc dục thêm quân để trở về Hồ Quảng. Tăng mang quân đi, dọc đường
chần chừ không tiến. Làm bầy tôi đáng liều mình vì nước, bọn Quí cẩu thả tham
sống, không có tinh thần dũng cảm chống địch, vậy xin trị tội. Thiên tử nói
trực tiếp cho Đô sát viện biết, đợi khi bọn chúng mang quân trở về sẽ luận tội.”
( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2,
trang 165)
Chú thích
1.Y Doãn trước đi cày ở đồng họ
Hữu Sằn. Vua Thang ba lần cho đem đồ lễ vật đến đón mới ra; ông giúp vua Thang
đánh chúa Kiệt, làm vua thiên hạ. Vua Thang tôn ông làm chức A hành.
2.Thái công Vọng tức Lữ Thượng.
Trước đi câu ở sông Vị, Văn vương đi săn, gặp ông, nói chuyện thích lắm. Văn
Vương đem ông về, lập làm thầy. Rồi ông giúp Vũ vương đánh Ân, lấy được thiên
hạ.
3.Mộ dung: Họ Mộ dung là chủng
tộc Tiên Ty ở thời Đông Tấn. Mộ dung Ngỗi làm vua khai quốc nướcTiền Yên ; Mộ
dung Thùy làm vua khai quốc nước Hậu Yên ; Mộ dung Đức làm vua khai quốc nước
Nam Yên; đều là người Hồ, trước sau cát cứ Trung Quốc.
4.Thạch Lặc: người thuộc chủng
tộc Yết. Thạch Lặc đem quân xâm lược Trung nguyên, đánh lấy châu quận rất
nhiều. Sau phản Tiền Triệu xưng vương rồi xưng đế, dựng nhà Hậu Triệu. Trong 16
nước thuộc ngũ Hồ, Thạch Lặc là cường thịnh nhất.
5.Man Mạch: người không phải tộc
Hán ở phương Nam gọi là “Man” ở phương bắc gọi là “Mạch”. Đó là tên gọi khinh
miệt của phong kiến Trung Quốc đối với các dân tộc thiểu số.
6.Lữ Bố dũng tướng của Hậu Hán,
Trương Phi dũng tướng của Thục Hán, hai người đều bị bộ hạ giết.
7.Đường Thái Tông vây đánh Thế
Sung. Đậu Kiến Đức đem quân đến cứu Sung. Thái Tông đánh bắt được Kiến Đức, vì
thế Sung phải hàng.
8.Sau khi Minh Thái Tổ chết, cháu
là Doãn Văn lên ngôi, thì Yên Vương Lệ [Con Thái Tổ] liền đem quân đánh đuổi
Doãn Văn mà cướp ngôi tức Minh Thành Tổ. Thành Tổ chết, truyền ngôi đến cháu là
Tuyên Tông, thì Cao Hú, con Thành Tổ, dấy quân làm phản. Tuyên Tông thân hành
đi đánh, bắt được Cao Hú. Sau Cao Hú và con cháu đều bị Tuyên Tông giết.
9.Tần: Thời Chiến quốc, Bạch
Khởi là tướng tướng Tần, đem quân đi đánh Triệu, đã chôn 40 vạn quân Triệu ra
hàng.
10.Sở: Hạng Vũ đánh vỡ quân
nhà Tần, đem quân chư hầu vào cửa quan; sau lại giết Tần vương Tử Anh là người
đã hàng.
11. Thực ra lúc bấy giờ quân địch
trong thành Xương Giang không chịu đầu hàng và quân ta cũng chưa hạ được thành.
Nguyễn Trãi nói như vậy để uy hiếp thêm tinh thần quân địch.
12.Dưới cây bồ đề ở đây là chỉ
dinh Bồ Đề ở Gia Lâm, nơi đóng quân của Lê Lợi.
13.Thiên “Dận chinh” Kinh Thư có
câu “Hỏa viêm Côn Cương, ngọc thạch câu phần” (火炎昆岗,玉石俱焚 lửa bốc cháy núi Côn Cương, ngọc đá đều bị đốt cháy hết cả). Ngọc đá không phân là ý nói bất cứ ai cũng đều bị hại cả.
14. Sách Tôn tử có câu “Cùng khấu
vật truy” (窮寇勿追 giặc đã đến lúc cùng, thì chớ nên đuổi theo). Ý nói, e chúng quay lại đánh liều.
15.Câu này ở thiên “Mưu công” của
Tôn tử là “Tiểu địch chi kiên, đại địch chi cầm”, 小敵之堅,大敵之擒 ý nói kẻ yếu nhỏ không lượng sức mà địch với kẻ mạnh lớn, dù cố giữ vững thế nào,
kết cục sau vẫn bị kẻ mạnh hơn đánh bắt được.
Toàn Thư chép
Bình định vương Lê Lợi sai Nguyễn Trãi soạn thư cầu phong, dùng tên
Trần Cảo dâng biểu lên Vua nhà Minh, xin lập dòng dõi nhà Trần; vua
Minh lấy lý do yên dân, chấp thuận. Sau đó sai bọn La Nhữ Kính mang
chiếu sang phong Trần Cảo làm An Nam Quốc vương, và cho rút quân về:
“Trước đó vua sai Nguyễn
Trãi soạn thư cầu phong, sai người dâng biểu của Cảo xin lập làm dòng dõi
họ Trần, chuyển tới Quảng Tây và Vân Nam nhà Minh mỗi nơi một bản. Kiềm quốc
công Mộc Thạnh nhận được thư, lập tức chạy tâu về kinh, vua Minh nhận được
biểu, ra dụ cho các quan văn võ rằng: "Những người bàn không hiểu ý nghĩa
của việc ngừng can qua, hẳn cho rằng làm thế là không có uy vũ (1) .
Nhưng nếu dân được yên thì trẫm có kể gì lời bàn của người khác.
Rồi sai bọn Công bộ thượng
thư La Nhữ Kính, Từ Vĩnh Đạt mang chiếu sắc phong Trần Cảo làm An Nam Quốc
Vương, bãi quân nam chinh. Sắc thư viết: "Gần đây các quan biên ải đem thư
từ tâu lên, thấy trình bày rất khẩn thiết, có điều hợp ý với
trẫm, đáng được đại xá, không kể là tội lớn hay tội nhỏ, đều cho được sửa đổi
duy tân". Và bảo vua kể rõ tên các con cháu nhà Trần hiện còn sống, tâu
lên để sai sứ sang sách phong. Triều cống thì vẫn theo lệ cũ năm Hồng Vũ.
" Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 44b.
Sử Trung Quốc công nhận
các sự kiện nêu trên qua 3 văn bản có tính cách lịch sử, gồm:
-Văn bản thứ nhất đề
ngày 29 tháng 10 năm Tuyên Đức thứ 2 [17/11/1427]; chép lại nguyên văn
tờ biểu của Trần Cảo, cùng trình bày những lý do Vua Tuyên Tông chấp
thuận biểu văn này.
-Văn bản thứ hai
đề ngày 1 tháng 11 năm Tuyên Đức thứ 2 [19/11/1427] là nguyên văn tờ chiếu
phủ dụ An Nam. Có chút khác biết với sử liệu Toàn Thư nêu
trên; Toàn Thư ghi Công bộ thượng thư La Nhữ Kính,
nhưng Minh Thực Lục ghi chức vụ La Nhữ Kính là Hữu Thị
lang bộ Công.
- Văn bản thứ 3 đề cùng
ngày 1 tháng 11 năm Tuyên Đức với văn bản thứ 2; là chỉ dụ Vua Tuyên Tông
gửi riêng Vua Lê Lợi. Bản dịch 3 văn bản lần lượt như sau:
-“Ngày 29 tháng 10 năm
Tuyên Đức thứ 2 [17/11/1427]. Giặc Lê Lợi tại
Giao Chỉ sai người dâng biểu cùng sản vật địa phương.
Trước đó quan Tổng binh
Thành sơn hầu Vương Thông hòa với giặc, bèn sai Chỉ huy Hám Trung cùng người
của Lợi sai đi dâng biểu cùng phương vật, đến nay tới kinh. Biểu rằng:
‘ Cháu ba đời dòng
đích Quốc vương cũ Trần Hiệt thuộc nước An Nam, thần là Trần Cảo kinh hoàng sợ
hãi, dập đầu cúi đầu dâng lời như sau:
Trước đây bị tặc thần
cha con Lê Quí Ly soán đoạt ngôi vua, giết hại dòng họ đến gần hết, thần Cảo
chạy trốn sang Lão Qua, mong kéo dài hơi tàn, đến nay đã 20 năm. Mới đây người
trong nước được tin thần còn sống, bèn ép thần trở về, bọn chúng đều nói rằng:
“Trước đây khi Thiên binh
mới dẹp xong giặc họ Lê, có chiếu chỉ tìm hỏi con cháu nhà Trần để lập làm vua,
lúc đó tìm chưa được bèn đặt quận huyện. Nay muốn thần trần tình sự việc, để
xin mệnh được lập.”
Thần tự biết tội đáng chết
vạn lần, nhưng nghĩ đến ơn sinh thành của trời đất bèn kính cẩn dâng biểu lên.
Thần Cảo nghĩ rằng Nam Giao
vốn là đất hải ngoại, thời Thiên triều Thái Tổ mới mở vận nước, tổ phụ thần là
nước đầu tiên đến triều, hàng năm nạp cống, mấy đời được phong tước vương. Mới
đây giặc họ Lê [Lê Quí Ly] chất chứa tội ác, khiến mệt nhọc Thiên binh
từ xa đến thảo phạt, rồi tìm hỏi con cháu họ Trần để kế tục; lúc này họ hàng
bôn ba phiêu tán tại làng mạc nên không tìm ra được; vì nhu cầu cai trị nhân
dân, nên đặt ra châu huyện.
Nay dân địa phương
vẫn nghĩ đến việc kế tục sự nghiệp tổ phụ thần, may mắn chiếu chỉ của Thiên
triều cũng thường nhắc đến việc “phục hưng nước bị diệt, nối lại dòng bị
đứt”; Thần lọc máu viết lời trần tình, cầu Thiên triều xin thỉnh mệnh. Duy
Hoàng đế Bệ hạ rộng lòng che chở như trời đất, chiếu rọi tựa mặt trời mặt
trăng, như mùa xuân ban khắp bốn biển, mây bay mưa móc đượm nhuần; nghĩ đến tổ
phụ thần chết không trọn kiếp, riêng thần linh đinh cô khổ, cho thần có được
nước cũ, thần Cảo há dám không khắc vào xương, ghi vào lòng, trung thành qui
thuận, mãi mãi kính mệnh trời, chăm chăm với lòng thành thờ nước lớn. Bọn thần
Cảo trong lòng sợ hãi ngưỡng cầu ơn Trời, Thánh.’
Thiên tử đọc xong tờ biểu,
bèn dụ quần thần văn võ như sau :
‘Trước đây khi Thái Tổ
Hoàng đế mới định thiên hạ, An Nam đến triều cống trước tiên. Đến lúc tặc thần
soán ngôi chúa, độc hại người trong nước, Thái Tông Văn Hoàng đế vì cớ đó phát
binh diệt, rồi hỏi tìm con cháu họ Trần để lập; tìm không được nên phải đặt
quận huyện; sau này vua cha ta than tiếc khi nghĩ đến việc họ Trần không có
người nối dõi. Mấy năm nay nước này không yên, vương sư bị mệt nhọc, Trẫm há
lại vui vì việc dùng binh ư! Nay họ Trần có người nối dõi, lời cầu xin nên chấp
nhận, hay không nên?’
Quần thần đều tâu:
‘ Lòng của Bệ hạ
cũng giống như lòng của tổ tiên, vả lại xếp việc binh để yên dân, trên hợp với
lòng trời, nay chấp nhận cho họ là đúng.’
Vua bảo:
“ Có
người không hiểu được ý nghĩa từ “chỉ qua” cho rằng không dùng vũ
lực không ngừng được can qua, nhưng nếu dân được yên thì Trẫm sá kể gì lời bàn
đó (1)!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 178
).
“Ngày 1
tháng 11 năm Tuyên Đức thứ 2 [19/11/1427]. Mệnh Tả
Thị lang bộ Lễ Lý Kỳ, Hữu Thị lang bộ Công La Nhữ Kính làm Chánh sứ, Hữu Thông
chính thuộc ty Thông chính Hoàng Ký, Hồng lô Tự khanh Từ Vĩnh Đạt làm Phó sứ
mang chiếu phủ dụ An Nam. Chiếu thư như sau:
“Đạo trời chí nhân, dựa
theo sự mong muốn của con người; vua cũng thể theo lòng trời để cai trị. Trước
đây khi Thái Tổ Cao Hoàng đế mới nhận mệnh trời thống ngự Trung Hoa và các Di
Địch, Quốc vương An Nam Trần Nhật Khuê đầu tiên cung thuận xưng thần, đời sau
con cháu nối tiếp một lòng theo. Rồi bị tặc thần Lê Quí Ly thí vua soán đoạt
ngôi vị, giết họ hàng nhà Trần, độc hại người trong nước, không có chổ tố cáo.
Bấy giờ vua Thái Tổ Văn Hoàng đế ta, mệnh tướng xuất sư thay trời thảo phạt,
trừ kẻ tàn bạo, nối dòng bị đứt, bản chất thực là bực thánh nhân. Cha con
Lê Quí Ly bị bắt sống, hỏi han trong nước về con cháu nhà Trần nhưng không
có tin tức; bèn ra lệnh đặt quận huyện để cai trị. Trải qua năm tháng, quan
lại cai trị thất sách khiến dân không yên, phải mệt nhọc quân lính. Trẫm là
chúa thiên hạ, há nỡ để một phương chịu cảnh tệ hại, nên ngày đêm lo nghĩ làm
cách nào thu xếp để được an ninh.
Nay viên Tổng binh cho
người mang thư của bọn Lê Lợi đến bảo rằng con cháu nhà Trần hiện còn sót lại,
lòng người nghĩ đến triều trước, vậy xin ân mệnh được thừa kế, vĩnh viễn phụng
chức cống. Xem lời lẽ khẩn thiết, làm đẹp lòng Trẫm, nên ban ân mệnh để được
đổi mới. Phàm các quan lại lớn nhỏ, quân dân tại Giao Chỉ, phạm tội không kể
lớn nhỏ đều được tha. Về việc cháu của Vương An Nam họ Trần xưa, lệnh đầu mục
kỳ lão trình bày đầy đủ sự thực, rồi sai sứ sách phong; triều cống thì vẫn theo
chế độ cũ thời Hồng Vũ. Bọn quan Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông hãy điều
động quan quân trở về nguyên vệ sở. Các quan lại văn võ, quân nhân các hiệu cờ,
thuộc Giao Chỉ Đô ty, Bố chánh ty, Án sát ty, vệ, sở, phủ, châu, huyện được
mang gia thuộc trở về. Trấn phủ, công sai, nội quan, nội sứ đều trở về kinh.
Y Hy! Hưng diệt kế tuyệt
thể theo lòng của tổ tiên, xếp võ yên dân thuận đức chở che của trời đất.
Nay chiếu chỉ đặc cách, biểu thị tấm lòng! Bọn Hành nhân Lý Kỳ được ban tiền
giấy 5000 quan.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 180)
-Ngày 1 tháng 11 năm
Tuyên Đức thứ 2 [19/11/1427]. Sắc dụ bọn Đầu mục Giao Chỉ
Lê Lợi:
“Trước đây tại thời vua
Thái Tổ Cao Hoàng đế nước ta mới thống ngự xã tắc, An Nam là nước đầu tiên đến
qui thuận, kính cẩn giữ tiết bề tôi, trước sau không trái. Đến lúc tặc thần cha
con Lê Quí Ly soán thí chúa, giết cả họ Trần, tàn độc với người trong nước, xâm
hại lân cảnh; vua Thái Tông Văn Hoàng đế nước ta thể theo lòng trời mang quân
điếu phạt, vì muốn trừ tàn bạo, nối dòng bị đứt để yên ổn một phương. Tội nhân
đã bắt được, nhưng bỏ thời gian lâu tìm kiếm con cháu họ Trần thì không gặp,
bèn ra lệnh chia đất này thành quận huyện, đặt quan lại để cai trị. Ngày tháng
lâu dài, quan lại cai trị hiền ác không đều, nên dân chúng không yên, lại phải
mệt nhọc đến quân lính, trãi qua năm này đến năm khác, việc binh giáp không
chấm dứt được.
Trẫm cho rằng dân trong bốn
biển đều là con đỏ của ta, làm cha mẹ há để một phương bị chìm đắm, nên ngày
đêm lo tính sự yên ổn. Nay viên Tổng binh tâu thư từ của ngươi trình rằng con
cháu họ Trần An Nam xưa vẫn còn, xin thể theo mệnh của Thái Tông Văn Hoàng đế “
nối dòng bị đứt”; lời lẽ khẩn khoản, hợp với lòng Trẫm. Phàm đạo của bậc Đế
Vương thuận theo dân để trị, lời nói có lợi cho dân tất nghe theo; đã hạ chiếu
đại xá Giao Chỉ, mọi việc đều được đổi mới. Lệnh Đầu mục, kỳ lão tâu trình đầy
đủ rõ ràng việc con cháu nhà Trần vẫn còn, để sai sứ sang sách phong. Nay sai
bọn Thị lang Lý Kỳ mang sắc dụ ngươi, từ nay trở đi nên yên dân, giữ gìn biên
cảnh, thể theo lòng kính trời thương người của Trẫm. Khâm tai!” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 182)
Cần lưu ý về tư
liệu Toàn Thư trích dẫn nêu trên “Trước đó vua sai
Nguyễn Trãi soạn thư cầu phong, sai người dâng biểu của Cảo xin lập làm
dòng dõi họ Trần, chuyển tới Quảng Tây và Vân Nam nhà Minh mỗi nơi một bản.” Bản
gửi qua Quảng Tây do viên Chỉ huy Hám Trung và người của Bình định
vương gửi đến được Minh Thực Lục ghi trong văn bản ngày
29 tháng 10 năm Tuyên Đức thứ 2 [17/11/1427]. Riêng Quân Trung Từ
Mệnh Tập còn có bản thứ hai, e rằng bản này gửi
qua Kiềm quốc công Mộc Thạnh tại Vân Nam; xin sao lục như sau:
“Tờ tấu cầu phong.
Cháu ba đời của tiên Trần
chúa là Trần Cảo cùng đại đầu mục là Lê Lợi ở nước An Nam, kính cẩn tâu về
việc cầu phong.
Thần trộm nghĩ: Nước thần ở
lánh tại miền xa vắng, xa cách phong hóa Trung Hoa. Khi Thái tổ Cao hoàng
đế [Minh Hồng Vũ] mới lên ngôi, trước các nước tổ tiên thần
đã vào cống. Đặc ân khen ngợi, phong cho tước vương. Từ đấy đời đời giữ cõi bờ,
thường không thiếu triều cống. Mới rồi họ Hồ cướp nước, lật đổ tòng tự nhà
thần; trên dối triều đình, dưới khổ dân chúng; trời giáng tai vạ, quan dân lìa
lòng. Thái tôn hoàng đế [Minh Vĩnh Lạc] không nỡ để dân một
phương khổ sở, liền dấy quân hỏi tội. Sau khi dẹp yên, lại xuống chiếu tìm con
cháu họ Trần. Bảo rằng con cháu họ Trần đều đã chết hết, không còn ai có thể kế
tập, bèn lại xin đặt quận huyện, rồi đem con cháu họ Trần là bọn Trần Nguyên
Hy, Trần Sư Tích, Trần Quang Chỉ, vài chục người đưa về Kinh sư để an trí.
Lại mở đặt ba ty Đô, Bố, Án, cùng các nha môn phủ huyện vệ sở,
và đặt quan cai trị. Song các quan đặt ra không thể theo ý của Triều đình yên
vỗ người xa, lại chỉ chăm bóc lột dân để sung sướng một mình. Người giữ trách
nhiệm địa phương thì không biết đại thể, tối đường thừa tuyên [tối
tăm con đường tuyên truyền giáo hóa]; kẻ ở đài Ngự sử thì ngậm miệng làm
thinh, ngồi nhìn dân khổ; quan chăm dân thì không lo nuôi nấng, chỉ
vụ vét vơ; tôi làm tướng thì không để lòng vệ dân, hoành hành tàn ngược.
Còn như bọn hoạn quan thì chuyên mặt thu lượm, bóc lột lương dân, bắt kiếm ngọc
tìm vàng, kiệt chằm trơ núi, đòi hỏi nhặt nhạnh, không còn sót gì. Muốn tiền
của có nhiều, thì đục khoét của dân mà lấp hố dục; muốn nhà cao cửa đẹp, thì
cướp việc mùa màng mà bắt dựng xây. Thuế công thu vào một phần, giám
lâm ăn ngoài quá nửa. Quan lại thương dân chúng thì tuyệt không có ai, mà
xem dân như cừu thù, thì đều như thế cả. Càng ngày càng tệ, dân sống không yên,
như đắm nước sâu, như thui lửa nóng. Khốn nỗi trời thì cao, mà Triều đình xa,
tình dưới không kêu thấu được.
Song đói rét thiết thân thì
không còn đoái gì lễ nghĩa, bèn đem nhau để giết quan lại, đó là thế bất đắc dĩ
trong nhất thời, để mong bớt chút khổ cực ở trong nước lửa mà thôi.
Thần lánh mình ở nước
Lão Qua hơn mười năm, đến giờ người cả nước không bảo nhau mà cùng một lời
tự ý mời xin nài ép. Trong lúc thảng thốt, thần không kịp kén chọn, đã phải
thuận lòng dân chủ để chờ mệnh Triều đình. Ngày 11tháng
11 năm Tuyên Đức thứ 1 [9/12/1426], thần về đến bản quốc, thấy
người trong nước đã thu phục được hết bờ cõi đất đai của tổ phụ thần. Các thành
trì Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu,
Thanh Hóa, Tiền Vệ, Xương Giang, Trấn Di, Thị Cầu,
Tam Giang đều đã mở cửa cởi giáp để giảng hòa. Các quan vệ sở châu huyện
cùng tất cả quan quân, thần đều thu nuôi hết cả, không xâm phạm mảy may. Còn
bọn Tổng binh Vương Thông, cùng Trần Trí, Lý An, Mã Anh, Phương Chính, nội quan
Sơn Thọ, Mã Kỳ cũng đã cùng thần hòa giải. Thần đã xin bọn Vương Thông sai
người đem thư về tâu. Nhưng bọn ấy vừa sợ tội, vừa hoài nghi, nên không dám
sai đi. Bọn thần tự biết mang tội rất nặng, không biết tiến hoái đường nào.
Song thần trộm nghĩ từ xưa thánh nhân như Thang Võ đánh kẻ có tội mà cứu dân,
hết thảy đều xuất tự lẽ trời chí công, không thể có chút tư ý ở trong. Vì thế
nên nhà Hạ, nhà Thương tuy đã mất, mà con cháu còn được phong ở nước Kỷ nước
Tống. Việc đánh việc phong, chưa từng không theo ý trời. Đến sau như nhà Hán,
nhà Đường thích lớn ham công, mà cũng chỉ ky my nước thần mà không để ý. Huống
chi điều chương của Thái Tổ Cao hoàng đế để lại đời sau rành rành ở đó,
chiếu lập con cháu họ Trần của Thái Tôn Văn hoàng đế mực vẫn chưa khô. Cúi
nghĩ Hoàng đế bệ hạ là bực thánh thần văn võ, trí tuệ thông minh, đức hiếu sinh [tiếc
mạng sống] đây đó thấm đều, lòng nhất thị [coi như một] xa
gần không khác. Tất như Hán Võ hạ chiếu bỏ Luân Đài, tất như Đường Thái
rút quân ở Tân Thị, tất tuân theo điều chương của Thái Tổ, tất thi
hành chiếu thư của Thái Tôn, tất xá cho thần tội lỗi như núi gò, tất tha
cho thần hình phạt bằng phủ việt, khiến thần được giữ đất cõi Nam, nộp cống cửa
khuyết. Nếu thế thì không những may mắn cho một mình thần mà dân cả nước thần,
không ai là chẳng vui mừng nhảy nhót, cảm đội ơn đức Triều đình, không khác gì
khí xuân làm tươi cỏ héo, gió ấm làm tan nước đông vậy. Thần xin ghi dạ khắc
xương, hết lòng trung thận, tâu biểu xưng thần, tiến cống không thiếu. Ngoài ra
việc sai người dâng tiến cống thì thần chưa dám tự chuyên. Vậy kính cẩn tâu
bày, cúi chờ sắc chỉ.” Quân Trung Từ Mệnh Tập, a
44.
Đúng theo bài bản ghi
trong các chỉ dụ nêu trên; phải chờ khi phái đoàn Lý Kỳ, La Nhữ Kinh
đến tuyên bố Chiếu phủ dụ An Nam, Vương Thông mới được mang quân rút về. Nhưng
bị nghĩa quân bức bách, nên Vương Thông không kịp đợi lệnh Bắc triều,
phải mang quân về nước gấp; đây là điều điếm nhục quốc thể, nên khi
trở về nước Thông bi đàn hạch nặng nề, suýt bị tử hình. Lúc đoàn
quân Vương Thông về nước; quan quân và những người hợp tác với nhà
Minh được chọn lựa, hoặc đi hoặc ở lại; nhưng phần lớn xin ở lại quê
hương:
“Thành Sơn hầu
Vương Thông không đợi lệnh mà đem quân về trước, vì bị vua đánh gấp, còn
thư từ qua lại lời lẽ rất thành khẩn, đều là do Trãi vâng lệnh soạn thảo cả.
Bọn hương hộ (2) người
địa phương là Vương Manh đem vợ con 39 người tới dâng đoạn tấm và hương quý.
Bấy giờ đối với nguỵ quan, thổ quân và các hộ đãi vàng, tìm hương liệu trong
thành, Vương Thông cho họ được tự nguyện về phương Bắc hay ở lại nước Nam theo
ý của mình. Nhưng người muốn ở lại thì nhiều, muốn xin đi thì ít.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 45b.
Lúc này Bình định vương
Lê Lợi cử một phái đoàn gồm 4 đầu mục, 4 tòng nhân, cùng tướng hiệu
của Vương Thông tháp tùng; dâng biểu lên Vua Minh, mang nhiều vật quí
sang cống, cùng danh sách quan lại quân lính được trở về:
“Ngày 29 [tháng
mười một, 17/12/1427], sai sứ sang trình bày với nhà Minh. Trước đó,
vua đã lập Trần Cảo. Hồi tháng 8, đã sai sứ sang cầu phong. Đến đây, lấy
Hàn lâm đãi chế Lê Thiếu Dĩnh người làng Khả Mộ, nay là Mộ Trạch, huyện Đường
An, Chủ thư sứ Lê Cảnh Quang đều làm Thẩm hình viện sứ. Quốc tử bác sĩ Lê Đức
Huy, Kim ngô vị tướng quân Đặng Hiếu Lộc làm Thẩm hình viện phó sứ; bốn người
này đều là đầu mục. Nội lệnh sử Đặng Lục và Lê Trạc, Vũ vệ tướng quân Đỗ Lãnh
và Trần Nghiễm đều làm An phủ sứ; bốn người này đều là tòng nhân. Đem tờ
biểu và phương vật:
Hai pho tượng người bằng
vàng thay cho mình,
Một chiếc lư
hương bạc,
Một đôi bình hoa
bạc,
300 tấm lụa thổ,
14 đôi ngà voi,
20 lọ xông hương áo,
2 vạn nén hương,
24 khối trầm hương và
tốc hương.
Cùng với bọn chỉ huy do
Vương Thông sai về, đều lên đường đưa về Yên Kinh. Đồng thời, đưa cả chiếc song
hổ phù và quả ấn bạc hai tầng của Quan tổng binh An Viễn hầu, nguyên lĩnh Chinh
lỗ phó tướng quân, 13.578 quân nhân, 280 viên sĩ quan, 2.137 viên quan lại,
13.180 tên quân cờ, 1.200 con ngựa tốt, lập bản danh sách đầy đủ, đưa
sang Yên Kinh để trần tình và xin phong Trần Cảo là Quốc vương. Sau khi sai bọn
Lê Thiếu Dĩnh sang cầu phong, tất cả bọn ngụy quan và lương dân bị cưỡng bức đi
theo ở trong thành Đông Quan, vua đều sai đưa về cả.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 45b.
Bài Biểu Tiến
Cống do bọn Lê Thiếu Dĩnh đưa sang nhà Minh, Quân Trung
Từ Mệnh Tập chép như sau:
“Bài biểu tiến
cống, tâu trình tạ tội.
Đại đầu mục nước
An Nam, thần là Trần Cảo, thực rất sợ hãi rạp đầu dâng lên mấy lời:
Thần kính thấy năm Vĩnh lạc
thứ 4 (1406) sau khi đại quân dẹp yên cõi Giao Chỉ, người
trong nước lại sinh ra nhiễu loạn. Thần lánh mình sang nước Lão Qua để kéo
dài hơi thở tàn. Không ngờ người trong nước lại bức bách thần về nước, cho đến
nỗi này. Thần tự biết tội thần đáng chết muôn phần, kính xin dâng biểu trân
tình tạ tội.
Kính nghĩ: đánh kẻ có tội
cứu vớt nhân dân, là thánh nhân làm việc đại nghĩa, dấy nước đã diệt, nối dòng
đã tuyệt, là vương giả có lòng chí nhân. Xét từ đời xưa, vẫn có thường điển (
lề lối thương). Thần trộm nghĩ, đất cõi Giao Nam thực là nơi ở
bên ngoài biển (Trung Quốc). Nhà Hán, nhà Đường tuy đặt làm
quận huyện, mà thực ra chỉ ràng buộc qua loa; đời Tống, đời Nguyên cũng có đem
quân dẹp yên, mà sau lại ban phong tước mệnh. Đến khi Thái tổ Cao hoàng đế ta
mở vận, cha ông thần, trước cả các nước (cho người) đến chầu.
Hàng năm tiến cống đế đình, liền đời nối phong vương tước.
Mời rồi, vì Hồ Quí Ly
không có đức để đến nỗi làm mệt quân thiên triều đi đánh xa, Triều đình khoan
nhân, xuống chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ việc thờ cúng;
biên thần tâu bậy xin đặt (Giao Chỉ) làm quận huyện mà bổ quan
cai trị. Tuy lòng Thiên triều chăm việc dạy dỗ tác thành, nhưng tục mọi rợ chưa
thể biến đổi được hết. Rủ nhau trái lời dạy bảo, cùng nhau thường vẫn làm càn.
Nhân dân lưu li liền năm chết hại không sao xiết kể; quân lính đánh dẹp nhiều
hồi khốn khổ rất là đáng thương. Thần ban đầu cũng vì trong lúc vội vàng, mà
chiều theo lòng chúng; đến sau bởi tự nghĩ ngu xuẩn mà can phạm phép trời. Tự
biết tội lỗi do mình làm ra, thường nghĩ náu mình không nơi ẩn trốn, có đau đớn
mới biết thét gào, là lẽ thường tình tất nhiên; thấy tội lỗi tự biết đổi thay,
chắc được thánh nhân dung thứ, hết lòng thành sự tình bày tỏ; kêu nhà vua mệnh
lệnh rộng ban.
Kính nghĩ, Hoàng đế bệ hạ,
như thiên địa chở che; như nhật nguyệt soi sáng. Như mùa xuân nuôi sống, như
đáy biển thênh thang, tỏ ra lượng cả bao dung; như áng mây kéo phủ, như hạt mưa
thấm nhuần, rày khắp ơn trên đào tạo. Cho là tổ tiên của thần hết lòng trung
nghĩa, mà trèo non vượt biển không ngại xa xội; thương đến nhân dân của thần,
không mắc tội tình mà khốn khổ lầm than, không may đụng độ. Xá lỗi, tha tội,
rộng suy hiếu sinh đức tốt; nghĩ bình yên dân, dùng đến chỉ qua (3) vũ
thuật. Thần dám chẳng ghi lòng tạc dạ, theo thuận dâng trung. Dâng biểu xưng là
thần chức phiên bang từ nay xinh kính giữ; kính trời, thờ nước lớn, lòng nước
nhỏ xin hết tiết chân thành. Thần, lòng dưới trông trời thành, khôn xiết vui
mừng, kính dâng tờ biểu, bày tỏ tạ tội, tâu lên ngự lãm.
Danh sách các cống phẩm gửi
theo:
- Hai pho tượng người vàng
người bạc thay cho bản thân để thân để tạ tội, cộng nặng 200 lạng. (1
pho vàng nặng 100 lạng; 1 pho tượng bạc nặng 100 lạng)
- Sản vật địa phương:
Lương hương bạc 1 cỗ,
Bình cắm hoa bạc một đôi, cộng nặng 300 cân,
Lụa thổ sản 300 tấm,
Ngà voi 10 chiếc (4)
Hương xông áo 20 bánh, cộng 130 cân.
Hương nén 20.000 nén.
Trầm hương, tốc hương 24 khối.
- Số người đầu mục tiến
kinh:
Đầu mục 4 người là: Lê Dĩnh, Lê Cảnh Quang Lê Đức Huy, Đặng Hậu Lộc. Người
giúp việc 4 người là: Đỗ Thế Lãnh, Lê Trạch, Đặng Lục, Trình Nghiễm.
- Các hạng trả về:
Hai đài Song hổ phù của tổng binh quan An viễn hầu lĩnh chinh lỗ phó tướng
quân.
Một quả ấn bạc.
Các quan và quân nhân: 13.587 viên danh,
Quan coi quân: 280 viên,
Quan coi dân và điển lại: 137 viên,
Kỳ quân: 13.170 viên danh (4).
Ngựa: 1.200 con.” Quân Trung Từ Mệnh Tập, b
22.
Ngày 12 tháng 12
[29/12/1427] cho quân Minh về nước, người trong nước giận chúng muốn
giết đi, nhưng nhà Vua mong dập tắt mối họa chiến tranh, nên không chấp
thuận; bèn cho quân bộ về trước, kế đó thủy quân theo sau:
“Tháng 12, ngày 12, Vương
Thông nhà Minh sai quân bộ qua sông Lô đi trước, quân thủy theo sau.
Bấy giờ các tướng sĩ và
người nước ta rất căm thù quân Minh đã giết hại cha con, thân thích họ, liền rủ
nhau tới khuyên vua giết bọn chúng đi. Vua dụ rằng:
‘Trả thù báo oán là thường
tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức.
Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng.
Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ
đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến
tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?’
Bèn hạ lệnh: Cánh
đường thủy, cấp 500 chiếc thuyền, cho Phương Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Cánh đường
bộ, cấp lương thảo, cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Còn hơn 2 vạn người bị
bắt hoặc đầu hàng và 2 vạn con ngựa thì do Mã Anh lãnh nhận. Chinh man tướng
quân Trần Tuấn đem quân trấn thủ đi theo. Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà
về. Bọn Phương Chính vừa xúc động vừa hổ thẹn đến rơi nước mắt.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 46b.
Riêng trong đám tướng
giặc có Đô đốc Thái Phúc tỏ ra thành khẩn hợp tác với ta, nên không
được nhà Minh tin dùng; lúc đại quân trở về, Bình định vương
cảm khích, khuyên y ở lại sẽ trọng dụng. Nhưng Thái Phúc trở về
nước, rồi bị xử tử:
“Thư cho Thái Đô
đốc.
Đệ ở Lam Sơn kính thư
gửi lão huynh Thái Công. Kể ra kẻ sĩ quý ở gặp thời, đạo quý ở thực hành.
Song đạo có thực hành được hay không là quan hệ ở thời có gặp hay không
gặp. Vì thế anh hùng hào kiệt đời xưa, bình nhật ôm ấp điều gì, ai mà chẳng
muốn dốc ra thi thố để cho đạo sáng tỏ ở đời. Song thời có gặp hay không phải
là ở tự trời vậy. Ngày xưa Bách Lý Hề (5) ở Ngu
thì Ngu mất nước, mà sang Tần thì Tần nên nghiệp bá, Lý Tả Xa (6) ở
Triệu thì Triệu bị diệt, mà theo Hán thì Hán dấy nghiệp vương, nào phải là ở
nơi này thì ngu mà ở nơi kia thì trí đâu. Chỉ là tại gặp thời hay không gặp
thời mà nên thế. Lão huynh là bực tướng cũ của tiên triều, buổi đầu sang đánh
Giao Chỉ, phá thành Đa Bang thì ông bắc thang mây lên thành
trước, công to bực nhất. Rồi sau mỗi năm chinh phạt, cũng đều lập được
chiến công. Song không may cho ông là không được đời biết, cho nên không được
vượt lên trên người; gia dĩ lại bị khiển trách luôn, chí không được thỏa, đạo
không được hành, rốt cuộc ngày nay lại bị Vương Thông lừa bán, thế lại là điều
không may cho ông, cũng là điều rất không may cho Trung Quốc vậy. So với
xưa Bách Lý Hề ở Ngu, Lý Tả Xa ở Triệu thì có khác gì. Nay quốc chúa (
chỉ Trần Cảo) tôi vốn biết ông là hiền, muốn đặt ông vào địa vị đại
thần để được nghe dạy bảo, không biết ý ông thế nào? Như Hàn Tín (7) bỏ Sở
mà theo Hán chăng? Thì quốc chúa tôi sẽ sẻ cơm nhường áo, hẳn không kém gì Hán
Cao Tổ; hay như Cơ Tử (8) không chịu làm tôi Chu chăng? Thì
quốc chúa tôi sẽ xuống xe hỏi đạo, hẳn không kém gì Chu Vũ vương. Trong hai kế
ấy, ông định kế nào? Vả nước dấy hay mất, thịnh hay suy, do ở vận trời, sức
người không thể làm được. Nay ông lại về mà dùng cho Trung Quốc, thì hiện
nay ở Trung Quốc, bên trong có cái vạ tiêu tường, bên ngoài có cái lo Bắc
khấu, nắng lụt tiếp nhau, yêu nghiệt đến mãi, đại thần lấn át, cả nước chia
lìa, trời làm táng vong chẳng sớm thì muộn. Kẻ sĩ minh triết nên sớm biết cơ
mầu. Khi các ông, không may mà gặp cái thời không thể làm được, lại không may
mà không được thỏa cái chí có thể làm được, chính như Đường Thái Tôn bảo
“Hết trung không ích gì” vậy. Nay kế hay của ông chẳng gì bằng thuận theo sở
ngộ, nghe theo mệnh trời, nhân thời cơ này dựng nên công nghiệp, khiến cho dân
ta may được thoát khổ lầm than, mà công trạng lớn lao của ông được rạng rỡ
trong sử xanh (9), há chẳng tốt đẹp ư? Nếu cứ khư khư giữ cái tiểu
tiết, thì thực không phải là bực hào kiệt biết thời vậy. Kính xin xét định. Thư
nói không hết.” Quân Trung Từ Mệnh Tập, a 38.
Rồi vào ngày 17
[3/1/1428], Vương Thông đem đám quân bộ cuối cùng trở về, từ đó việc
binh đao chấm dứt:
“Ngày 17, Vương
Thông nhà Minh dẫn quân bộ đi sau. Thông cùng vua nói chuyện từ biệt suốt đêm
rồi đi. Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất
hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục
tục rút tiếp. Từ đây, việc binh đao dập tắt, khắp thiên hạ thái bình.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 47a.
Sau khi dẹp yên giặc Minh,
vua sai ông Nguyễn Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết gọi là Bình
Ngô Đại Cáo. Đại Cáo này làm bằng Hán Văn, là một tác phẩm văn
chương rất có giá trị, bản dịch của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim
trong Việt Nam Sử Lược như sau:
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo [trừ kẻ tàn bạo].
Như nước Việt từ trước, vốn
xưng văn hiến đã lâu.
Sơn hà cương vực đã chia,
phong tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý,
Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương.
Dẫu cường nhược có
lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên: Lưu Cung [Vua
Nam Hán] sợ uy mất vía, Triệu Tiết [tướng Tống] nghe
tiếng giật mình.
Cửa Hàm Tử giết tươi
Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã.
Xét xem cổ tích, đã có minh
trưng [bằng chứng rõ ràng].
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà,
để trong nước nhân dân oán bạn.
Quân cuồng Minh đã
thừa cơ tứ ngược [ngang ngược], bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên
ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chước dối đủ muôn
nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa, nát
cả càn khôn [trời đất], nặng khoa liễm [thu thuế
má] vét không sơn trạch [ruộng vườn sông núi] .
Nào lên rừng đào mỏ, nào
xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả.
Tàn hại cả côn trùng thảo
mộc; nheo nhóc thay quan [đàn ông chết vợ] quả [đàn
bà mất chồng] điên liên [không nhà ở].
Kẻ há miệng, đứa nhe răng,
máu mỡ bấy no nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp đất,
chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề về những nỗi phu
phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Độc ác thay! trúc rừng
không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất tha cho, ai
bảo thần nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy
nghĩa, chốn hoang dã nương mình.
Ngắm non sông căm nỗi
thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc.
Đau lòng nhức óc,
chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách
lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong
cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi [mưu đồ
khôi phục].
Vừa khi cờ nghĩa dấy
lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ
đần, nơi duy ác (10) hiếm người bàn bạc.
Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm
đăm con mắt dục đông (11); mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả (12).
Thế mà trông
người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương (13). thế mà tự ta,
ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch (14).
Phần thì giận hung
đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn.
Khi Linh Sơn lương hết mấy
tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ.
Có lẽ trời muốn trao
cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma [hàng
trăm lần thất bại, hàng ngàn lượt quyết chí dùi mài]; cho nên ta
cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử [trăm phần chết, một
phần sống.]
Múa đầu gậy, ngọn cờ
phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào,
khắp tướng sĩ một lòng phụ tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta
địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung
tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang sét
dậy, miền Trà Lân trúc phá tro baỵ
Sĩ khí đã hăng, quân thanh
càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ mất
vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh.
Đánh Tây Kinh phá tan
thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa.
Dưới Ninh Kiều máu
chảy thành sông; bến Tốt Động xác đầy ngoại nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý
Lượng lại phơi thây.
Vương Thông hết cấp
lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ.
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó
tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu
khuất.
Tưởng nó phải thay lòng đổi
dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ
quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc.
Đến nỗi đứa trẻ ranh
như Tuyên Đức (15), nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như
Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
Năm Đinh Mùi
tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh
tự Vân Nam kéo đến.
Ta đã điều binh giữ hiểm để
ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo.
Mười tám, Liễu Thăng
thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh
trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn.
Lưỡi dao ta đang sắc,
ngọn giáo giặc phải lùi.
Lại thêm quân bốn mặt
vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ tốt ra oai tì hổ,
thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá
núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch
không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá
khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quì
mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn thây
chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Gớm ghê thay ! sắc
phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân Nam nghẽn ở
Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh nghe tan Cần Trạm, chạy để
thoát thân.
Suối máu Lãnh Câu,
nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa.
Hai mặt cứu binh, cắm đầu
trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang
về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu
sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính,
cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực.
Vương Thông,
Mã Ánh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ
lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới là mưu kế
thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang san từ đây mở mặt, xã
tắc từ đầy vững nền.
Nhật nguyệt hối mà lại
minh, càn khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên chăn
chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu.
Thế là nhờ trời đất tổ tông
khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi! Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.
Chú thích:
1. Câu này lấy từ điển
Chỉ qua vi vũ 止 戈 爲 武 ” Hán Thư giảng như sau: Thánh nhân dùng vũ lực bằng cách cấm bạo
loạn, ngừng can qua; do đó chữ vũ 武 được cấu tạo theo
phép hội ý gồm chữ chỉ 止 và qua 戈 gộp lại.
2. Hương hộ: là những hộ
tìm kiếm hương liệu.
3. Chỉ qua: Xem chú thích
thứ nhất.
4. Toàn Thư ghi
trên, chép: ngà voi 14 chiếc; kỳ quân 13.180 người.
5. Bách Lý Hề là người thời
Xuân thu, trước làm đại phu nước Ngu, 7 năm không thi thố gì. Khi Tấn diệt nước
Ngu, bắt Hề, đem làm người thần bộc đi đưa dâu vợ Mục công nước Tần. Hề lấy làm
hổ, bỏ đi, bị người Sở bắt được. Tần Mục công nghe biết Hề là người hiền, lấy
da 5 con dê đem chuộc Hề về, rồi dùng làm tướng. Hề giúp Tần làm nên nghiệp bá.
6. Lý Tả Xa người thời Hán,
trước làm quan ở nước Triệu. Khi Hán đánh Triệu, Triệu vương Thành an quân Trần
Dư không theo kế của Tả Xa, sau Triệu bị quân Hán đánh thua, Hán Tín bên Hán
mời được Tả Xa đem về làm quân sư, giúp Hán Cao tổ được nên cơ nghiệp.
7. Hàn Tín người thời Hán, trước theo Hạng Vũ, Vũ không biết dùng. Sau Tín bỏ Sở theo về Hán. Bái công trọng dụng, nhường áo sẻ cơm cho Tín rồi trao cho chức Đại tướng’
8. Cơ Tử là tôi nhà Ân, khi Ân bị diệt, ông không chịu là tôi nhà Chu. Vũ vương nhà Chu thường lún mình hỏi kế của ông. Sau phong cho ông ở Triều Tiên.
9. Ngày xưa chưa chế được giấy, phải chép sách và mảnh tre cật xanh, vì thế gọi là “thanh sử” (sử xanh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét