Bình Định vương Lê Lợi:
Thời kỳ khởi nghĩa 1418 - 1427 (1)
Vua họ
Lê, tên húy là Lợi, người đất Lam Sơn, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa. Vua
khởi nghĩa trong vòng 10 năm, tự xưng là Bình Định vương; lên ngôi 6
năm, niên hiệu là Thuận Thiên, thọ 51 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng.
Trước kia, tổ ba đời của vua tên
là Hối, một hôm đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay lượn quanh chân núi, như
hình ảnh nhiều người tụ họp, bèn nói: "Đây chắc hẳn là chỗ đất tốt",
rồi dời nhà đến ở. Sau 3 năm thì thành cơ nghiệp; từ đó đời đời làm chủ một
phương. Hối sinh ra Đinh, nối được nghiệp nhà, có tới hơn 1 ngàn tôi tớ, lấy
vợ là Nguyễn Thị Quách, sinh được hai người con trai, con cả là Tòng, con thứ
là Khoáng. Khoáng lấy vợ người Thủy Chú là Trịnh Thị Thương, ngày mồng 6 tháng
8 năm Ất Sửu [10/9/1385] sinh ra Vua tại hương Thủy Chủ, huyện Lôi Dương;
nay thuộc xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Vua sinh ra, thiên tư tuấn
tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên
vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, bước đi như hồ, kẻ thức giả đều biết
là bậc phi thường.
Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư chép về vua Lê Lợi, giai đọan trước lúc khởi nghĩa như sau:
“ Bấy giờ, họ Hồ cướp ngôi
nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược nước Nam, chia cắt nước ta thành quận huyện, bắt
dân ta làm tôi tớ, luật pháp phiền hà khắc nghiệt, thuế má lao dịch nặng nề. Đối
với những người hào kiệt trong nước, chúng phần nhiều vờ trao quan tước rồi đem
về an trí ở phương Bắc. Vua hiểu biết hơn hẳn mọi người, sáng suốt và cương quyết,
không bị quan tước dụ dỗ, không bị uy thế khuất phục. Người Minh đã dùng trăm
phương ngàn kế xảo trá, vẫn không dụ được vua.
Trước đó bọn Đặng Tất, Nguyễn
Súy ở châu Hóa cùng lập con cháu nhà Trần là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua.
Nhưng vua thấy họ yếu hèn, lại say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới
ẩn náu nơi núi rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu
trí, chiêu tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy binh, mong trừ hoạn lớn.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 1b.
Sử Trung Quốc chép về tiểu sử của
Vua trước lúc khởi nghĩa có vài điểm khác với Toàn Thư. Minh Thực Lục chép
rằng trước khi nổi dậy, Lê Lợi từng giữ chức Kim Ngô Tướng Quân cho Trần Quí
Khoáng, sau đó đầu hàng nhà Minh giữ chức Tuần kiểm; sự việc được ghi lại qua
văn bản dưới đây:
“NGÀY 3
THÁNG GIÊNG NĂM VĨNH LẠC THỨ 16 [8/2/1418]
Viên Thổ quan Tuần kiểm Lê Lợi
tại huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hóa làm phản; quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành
hầu Lý Bân sai bọn Đô đốc Chu Quảng chinh tiễu. Trước đây Trần Quí
Khoáng làm phản, Lợi sung chức Kim Ngô Tướng quân ngụy; rồi bó thân xin
hàng, được ban chức Tuần kiểm, nhưng vẫn ôm lòng phản trắc. Nay tiếm xưng là
Bình định vương, cho em Lê Thạch làm Tướng quốc ngụy, Đoàn Mãng làm Đô đốc; tụ
tập bọn giặc là Phạm Liễu, Phạm Yến mang binh cướp phá. Quân Quảng tới chém hơn
60 thủ cấp, bắt sống bọn giặc Phạm Yến hơn 100 người, bọn Lợi bỏ trốn. Nay Bân
tâu xin đem bọn Yến tru lục tại Giao Chỉ để răn đe dân chúng. Thiên tử chấp thuận.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 48)
Vương Thế Trinh, một danh thần
nhà Minh đời Gia Tĩnh, chép sự việc tương tự trong An Nam Truyện:
“ Vào năm Vĩnh Lạc thứ
16 [1418] Phong thành hầu Lý Bân tấu Tuần kiểm Lê Lợi làm phản. Lợi vốn
là bề tôi của cố Vương Trần Quí Khoáng, thiện chiến, được thăng mấy lần đến chức
Kim Ngô Tướng quân. Xin hàng, lãnh chức Tuần kiểm; nhưng vì không được cư xử tốt bởi
người có đức nên làm phản, đánh phá các quận ấp, tự xưng là Bình định vương.”(1)
Qua những sử liệu tương phản, câu
hỏi cần đặt ra là: Trước khi khởi nghĩa vua Lê Lợi có hợp tác với nhà hậu Trần
và nhà Minh hay không?
Nhắm tìm hiểu rộng thêm, hãy tham
khảo Lam Sơn Thực
Lục; có đoạn chép:
“ … Tuy giặc có khéo léo, khôn
ngoan nhiều cách, mà tráng chí của nhà vua , trước sau chẳng chịu chùng. Thế
nhưng trong lúc thế giặc còn mạnh, chưa dễ đánh được nào. Nhà vua thường hậu lễ
nhún lời, đem nhiều vàng bạc đút lót cho các tướng giặc là bọn Trương Phụ, Trần
Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong thư bớt lòng hãm hại nhà vua, để nhà vua đợi thời lừa
dịp.
Đảng của giặc là Lương Nhữ Hốt
bàn với bọn giặc, nói rằng :
-Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp
bạn, đãi quân lính rất hậu, chí nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây
mưa, thì tất không phải là vật ở trong ao đâu. Nên sớm trừ đi, để sau sinh vạ.
Năm Mậu Tuất (1418) khi ấy
nhà vua khởi quân tại Lam Sơn [huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa].”
(2)
Lam Sơn
Thực Lục do khai quốc công thần Nguyễn Trãi soạn, vua Lê Lợi trực
tiếp đề tựa; đây là tư liệu gốc trước mọi bộ sử nước ta. Căn cứ vào Lam Sơn Thực Lục,
người đọc sử có thể có những nghi vấn như sau:
- Nếu là một thường dân, như Đại Việt Toàn Thư chép,
làm sao vua Lê Lợi có đủ tư cách để liên lạc với các quan lại cao cấp của nhà
Minh như bọn Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ để đút lót?
-Hơn nữa chỉ là thường dân thôi,
làm sao có thể “ chiêu vong, nạp bạn [dung
nạp người làm phản], đãi quân lính rất hậu” như lời
Lương Nhữ Hốt tố cáo với bọn giặc.
Nghi vấn này không còn là nghi
nữa; trong văn bản Chiếu
tha những người có tội tại Giao Chỉ của Vua Tuyên Tông
ban hành ngày 3 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ nhất [8/6/1426]; xác nhận Vua
Lê Lợi từng làm việc cho nhà Minh. Chiếu tha những người có tội tại Giao Chỉ có
ghi trong Minh
Thực Lục và cũng được chép trong Toàn Thư tại
phần Bản Kỷ, quyển 10 trang 18b. Tuy nhiên chúng tôi dò lại Toàn Thư, cả phần nguyên
văn chữ Nho và bản dịch thấy thiếu một đoạn quan trọng. Đoạn văn này xác nhận
Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật đã từng làm việc cho nhà Minh; chắc Sử thần Ngô
Sĩ Liên soạn giả Toàn
Thư, muốn giấu việc này nên cố tình lược bỏ đi. Nhắm làm sáng
tỏ vấn đề, xin trích phần bị lược bỏ cả nguyên văn, phiên âm, và dịch
nghĩa để dễ bề tham khảo:
“Những kẻ như Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật, vốn đã qui phụ
triều đình, từng được bổ nhiệm sử dụng, rồi suy nghĩ lệch lạc, để đến nỗi sai
trái như vậy. Nay đặc biệt mở con đường đổi mới, nếu thành thực hối cải, trở lại
theo điều thiện, giữ tiết bề tôi thì được khoan thứ, vẫn được trao quan chức.
Những kẻ bị Lê Lợi bức hiếp theo nghịch, cùng những dư đảng của Trịnh Công Chứng
trốn tránh chưa xuất hiện, nay có thể đích thân ra quy thuận, hoặc đến quan sở
tại đầu thú cũng đều được tha, quan sẽ trở lại nguyên chức, quân trở lại nguyên
đơn vị, dân trở lại với nghề cũ. Sau khi chiếu thư ban ra, như bọn Lê Lợi cùng
những kẻ bị cưỡng bách, chấp mê không hối tội, vẫn chống mệnh như cũ, thì quân
Thiên triều gia tăng thảo phạt, hối cũng không kịp nữa.”
(Kỳ Lê
Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật đẳng, bản giai qui tâm triều đình, tằng kinh nhiệm
dụng, ngẩu quai nhất niệm, thất ngộ chí thử. Kim đặc khai kỳ tự tân chi lộ,
thành năng hối quá tòng thiện, phục thủ thần tiết, tất hựu kỳ tội, nhưng thụ dĩ
quan. Cập hữu bị Lê Lợi đẳng bách hiếp tòng nghịch, tịnh Trịnh Công Chứng đẳng
dư đảng đào tỵ vị xuất giả, kim năng đình thân lai qui, hoặc phó sở tại quan ty
tự thú, quan phục nguyên chức, quân phục
nguyên ngũ, dân phục nguyên nghiệp. Chiếu thư đáo hậu như Lê Lợi đẳng cập hiếp
tòng chi đồ, chấp mê bất thuân, nhưng tiền cự mệnh, thiên thảo tất gia, hậu hối
vô cập.
其 黎 利 潘 僚 路 文 律 等, 本 皆 歸 心 朝 廷, 曾 經 任 用, 偶 乖 一 念, 失 誤 至 此. 今 特 開 其 自 新 之 路, 誠 能 悔 過 從 善, 復 守 臣 節, 悉 宥 其 罪, 仍 授 以 官. 及 有 被 黎 利 等 迫 脅 從 逆 并 鄭 公 證 等 餘 黨 逃 避 未 出 者, 今 能 挺 身 來 歸, 或 赴 所 在 官 司 自 首 一 體 赦 宥, 官 復 原 職, 軍 復 原 伍, 民 復 原 業. 詔 書 到 後 如 黎 利 等, 及 脅 從 之 徒 執 迷 不 悛, 仍 前 拒 命, 天 討 必 加 後 悔 無 及.)
Hãy ôn lại thời gian vào đầu
năm Trùng Quang thứ 5 [1413], thế lực nhà hậu Trần gần như sụp đổ, Trần Quí
Khoáng phải chạy vào Quảng Trị; giao Nghệ An cho Phan Quí Hựu giữ; rồi cha con
Phan Quí Hựu, Phan Liêu đầu hàng giặc. Trong hoàn cảnh đó, nếu Lê Lợi tại Thanh
Hóa có làm quan cho Trần Quí Khoáng thì cũng bị đứt liên lạc và ông ta cũng
biết rằng lực lượng Trần Quí Khoáng không thể cứu vãn được tình hình.
Được biết trong 10 năm kháng
chiến, Bình định vương Lê Lợi mấy lần tạm hòa với giặc, còn sử nhà Minh thì
chép là “hàng”. Bởi vậy nếu từng là Kim Ngô Tướng Quân của Trần Quí Khoáng, ở
vào hoàn cảnh nhà hậu Trần trên đường sụp đổ; một người quyền biến như Lê Lợi
tất không chịu bất lực buông tay, đành tạm hàng với quân Minh để giữ gìn thực
lực. Hơn nữa với chức Tuần kiểm, trông coi một tổ chức bán quân sự, dưới quyền
phần lớn là bộ hạ cũ, ít bị kiểm sóat, Lê Lợi có cớ chiêu dụ người lưu vong,
dung nạp kẻ phản loạn như Lam
Sơn Thực Lục chép.
Lịch sử 10 năm khởi nghĩa
của Vua Lê Lợi, bắt đầu vào tháng giêng năm Bình Định vương thứ nhất
[2/1418]; bấy giờ nhà Vua phát động khởi nghĩa tại Lam Sơn [huyện Thọ
Xuân, Thanh Hóa]. Hoạn quan Mã Kỳ mang đại quân đến đánh, Vua cho đặt
phục binh giết mấy ngàn tên; sau đó có kẻ nội phản, mang quân Minh
đến đánh úp; gia thuộc của nhà Vua và quan quân bị bắt rất nhiều:
“Ngày mồng 9
tháng ấy, bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem đại binh tới uy hiếp vua ở Lam
Sơn. Vua bèn lui quân đến đóng ở Lạc Thủy [huyện Cẩm Thủy,
Thanh Hóa], đặt quân mai phục để chờ giặc. Ngày 13, bọn Kỳ quả nhiên đến. Vua
tung hết quân mai phục xông ra đánh giặc. Cháu vua là Lê Thạch cùng các
tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý... dẫn đầu xông vào trận giặc, chém được hơn
3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới, rồi dời quân đến núi Chí
Linh [huyện Lang Chánh, Thanh Hóa]. Ngày 16,
tên phản bội Ái (không rõ họ) dẫn đường cho giặc đi lối tắt,
đánh úp đằng sau vua, bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân dân.
Quân sĩ dần dần chán nản bỏ đi. Vua cùng bọn Lê Lễ, Lê Náo, Lê Bí, Lê Xí, Lê Đạp
bí mật nương náu ở trên núi Chí Linh . Tháng 2, vua hết lương, không
còn gì nổi lửa. Gặp khi giặc lui quân, bèn về đắp thành đất ở Lam Sơn. Tháng 3,
đánh ra Mường Yên [xã Yên Nhân, Lang Chánh], thu được
hơn trăm người. Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 2b
Việc Mã Kỳ đánh úp bắt gia
thuộc nhà Vua, được Minh
Thực Lục xác nhận qua chiếu dụ của Vua Tuyên Tông
gửi Vua Lê Lợi cho biết con gái Vua 9 tuổi, bị Mã Kỳ bắt, đưa về kinh
đô; nhưng không may đã mất:
“Ngày 28 tháng 3
năm Tuyên Đức thứ 4 [ 1/5/1429 ]
…Riêng dụ ngươi về việc ngươi
tâu rằng có con 9 tuổi bị Mã Kỳ thu dưỡng đem về kinh sư, muốn được đoàn tụ.
Nghe việc này động lòng trắc ẩn, Trẫm là cha mẹ của thiên hạ lai nỡ để cho một
trẻ nhỏ không được gần người thân ư! Nên đã ra lệnh tìm hỏi ngay việc này.
Nhưng con gái ngươi vì không hợp thủy thổ, nên bị bênh mất đã lâu. Tình thương
yêu cha con người người giống nhau, nhưng phần số mỗi người thì đã định; bảo
riêng để ngươi biết…. Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 210.
Quân Minh dưới quyền Lý Bân
tiếp tục càn quét, bị phục kích tại huyện Thường Xuân, phía tây Lam
Sơn:
“Tháng 9,
viên Tổng binh nhà Minh là Lý Bân đem quân tới sùng lục. Vua đặt quân mai
phục ở Mường Một [xã Bất Một, huyện Thường Xuân], dùng tên
thuốc độc bắn giặc chết và bị thương quá nửa. Bân thua rút quân về.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 3b.
Lý Bân tỏ ra ươn hèn, không
xông xáo lập công như Trương Phụ trước kia; nên Minh Thái Tông phải đem
lời răn dạy:
“Ngày 9
tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [ 12/7/1418 ].
Thiên tử ban mệnh cho Phong
thành hầu Lý Bân, Tổng binh Giao Chỉ như sau :
‘Một vị Đại
tướng cần có 5 tính tốt: dõng, trí, nhân, tín, trung.
Dõng cảm thì không bị xâm phạm,
mưu trí thì không bị gạt, nhân từ thì lòng người hưởng ứng, tín thì
không lừa dối, trung thành thi tâm không chia lìa. Đó là 5 đức tính của một tướng
giỏi. Ta vừa ban mệnh cho ngươi bình định đất Di xa xôi, và thi hành luật;
ngươi cần theo đường lối của vị tướng giỏi. Khâm thử!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 55
)
Về phương diện kinh tế, nhà
Minh tìm mọi cách vơ vét; trên rừng thì sai săn bắt thú vật, khai mỏ;
chốn đồng bằng bắt trồng hồ tiêu; vùng biển sai mò ngọc trai, khai
thác muối:
“Mùa hạ,
tháng 4, trước nhà Minh ra lệnh cho các phủ, huyện, châu nước ta trồng hồ tiêu,
nay đã lên tốt, sai nội quan Lý Lượng sang thu về dùng. Từ đấy, quan lại đốc
thúc bắt trồng, mỗi cây giống giá tới 5 quan tiền.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 3a.
“Mùa thu,
tháng 7,…. Nhà Minh mở công trường mò ngọc trai, kiếm hương liệu, săn bắt chồn
trắng, hươu trắng, voi trắng, tìm lùng rùa chín đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc
má, trăn, rắn... để dâng nộp.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 3b.
Về khai thác muối, nhà Minh
lập 7 sở xét nghiệm phân phát muối tại vùng duyên hải miền Bắc và
các tỉnh phía bắc Trung Phần:
“NGÀY 28
THÁNG GIÊNG NĂM VĨNH LẠC THỨ 16 [ 5/3/1418 ].
Lập 7 cơ sở xét nghiệm
phân phát muối tại Giao Chỉ gồm cầu Thái Bình thuộc phủ Tân An; sông Hải
Triều (3) phủ Trấn Man; cửa biển Đại
An phủ Kiến Bình ;Ba Lễ, Tam Giang phủ Thanh Hóa; Thiên
Đông phủ Diễn Châu; Minh Thị, Kỳ La thuộc phủ Nghệ An. Mỗi nơi đặt một
viên Đại sứ.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 51)
Ngoài việc trưng thu thuế má,
khai hầm mỏ; còn có lệ cống hàng năm; quan, dân cùng gánh vác:
“Ngày 12
tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [ 9/11/1418 ].
Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong
thành hầu Lý Bân cống 1 voi trắng, 17 voi đen.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 60
)
“Tháng 12
năm Vĩnh Lạc thứ 16 [12-1/1419 ]
Giao Chỉ dâng lên 1288 tấm
quyên, 50 cân tô mộc (4 ) , 2000 thúy vũ, 1 vạn quạt, 2400 cân sơn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 61)
Bước sang năm Bình Định vương
thứ 2, vào tháng 4 [5/1419] nhà Vua đánh đồn Nga Lạc tại huyện Nga Sơn,
Thanh Hóa; bắt được chỉ huy Nguyễn Sao. Rồi Vua lại lui giữ núi Chí Linh
[huyện Lang Chánh, Thanh Hóa]. Quân Minh kéo đến bức bách. Đô tổng quản Lê
Lai liều mình chịu chết thay Vua:
“Vương tấn
công đồn Nga Lạc, bắt được chỉ huy Minh, Nguyễn Sao, đem chém. Nhưng bấy giờ thế
lực của giặc còn đang mạnh; về phía Vương, tướng còn hiếm, quân còn ít, lại
đánh nữa, không thắng được địch. Vương chạy vào Trịnh Cao, rồi lui giữ núi Chí
Linh. Quân Minh thường đến đánh úp: tình hình phía Vương khốn quẫn quá! Vương
phải nhóm họp các tướng, dụ bảo họ rằng:
‘Bây giờ ai có thể làm như Kỷ
Tín (5) xưa, để ta ẩn náu trong rừng núi, mưu tính cử sự về
sau?". Trong các tướng chẳng ai dám đáp ứng cả. Riêng có Lê Lai khảng khái
xin vâng, tình nguyện trao đổi đồ mặc với Vương để đi chết thay. Lê Lai liền
cho sắp xếp nghi trượng chỉnh tề, chính mình đem quân và voi, hướng ra phía địch,
chỉ huy các tướng chia đường khiêu chiến. Tướng Minh lấy thêm quân bao vây Lê Lai.
Lai chiến đấu kiệt sức, bị người Minh bắt và giết chết. Địch bèn rút quân về
Tây Đô.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 13.
Sau đó cho đóng quân tại sách
Đà Sơn, quân Minh tiến đánh, Vua bèn phục binh tại huyện Lang Chánh
phía tây bắc, rồi chuyển quân đến biên giới Ai Lao:
“Tháng 5,
vua đóng ở sách Đà Sơn [gần Lam Sơn] ,
quân Minh tiến đánh. Vua phục kích ở Mường Chánh [huyện
Lang Chánh] , cả phá quân giặc, rồi dời đến đóng quân ở sách Lư Sơn [huyện
Quan Hóa] , ít lâu sau, dời sang Mường Thôi [giáp
Ai Lao], rồi lại về đóng bản doanh ở Vu Sơn.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 4a.
Sử Trung Quốc ghi nhận thời
gian này, Vua Lê đóng quân tại vùng Lam Sơn, Lý Bân sai mang quân đến
đánh, Vua lui binh phía Ai Lao, rồi mang quân về đánh giết 2 tên Tuần
kiểm; quân Minh đuổi theo, Vua lại tiếp tục lui binh:
“Ngày mồng 2
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 26/5/ 1419 ]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong
thành hầu Lý Bân tâu rằng đầu sỏ giặc Lê Lợi trú tại sách Khả Lam [Lam
Sơn]. Sai Đô đốc đồng tri Phương Chính, Đô Chỉ huy Sư Hữu mang
quân đánh; bắt được bọn ngụy Cấm vệ tướng quân Nguyễn Cá Lập. Số còn lại chạy
trốn sang Lão Qua; bèn lưu Đô Chỉ huy Hoàng Thành, Chu Quảng giữ đồn Khả Lam, bọn
Chính trở về Giao Chỉ. Lê Lợi lại xuất hiện đánh phá, giết Tuần kiểm Vương Cục,
Lương Hướng rồi đi. Thành mang quân truy kích, giặc thua chạy. Gặp mưa nắng nước
dâng, lam chướng mới nỗi lên, xin đợi mùa thu tiến binh. Được chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 64)
Ba tháng sau; Vua mang quân về
đánh phá Lỗi Giang, tại huyện Cẩm Thủy; bị quân Minh đánh thua, phải
rút sang Ai Lao:
“Ngày 10
tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 17
[30/8/1419]
Lê Lợi đầu đảng giặc tại
Thanh Hóa, Giao Chỉ mang quân đánh phá Lỗi Giang [huyện
Cẩm Thủy, Thanh Hóa], bị bọn Đô chỉ huy Hoàng Thành đánh thua, lại
chạy sang trốn tại Lão Qua.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 66)
Bấy giờ tại Nghệ An, viên Tri
phủ Phan Liêu trước kia đầu hàng nhà Minh, bị Hoạn quan Mã Kỳ đàn áp
bóc lột, bèn nỗi dậy chống lại; có viên Chỉ huy Lộ Văn Luật,
từng giữ chức Tiên phong cũng theo.Tổng binh Lý Bân đích thân mang quân
đánh đuổi, đến tận phủ Trấn Định, Ai Lao:
“Mùa thu,
tháng 7, viên thổ quan Tri phủ Nghệ An là Phan Liêu vì bị bọn nội quan nhà
Minh bức bách lấy vàng bạc, bèn dẫn quân bắt giết các quan do nhà Minh
phái đến, rồi đem quân vây thành Nghệ An, sắp hạ được thành thì Lý Bân chợt đem
quân đến. Liêu trốn sang Ai Lao. Bân đuổi tới châu Ngọc Ma [phủ
Trấn Định, Ai Lao] không kịp, lại quay về Nghệ An, sửa sang thành trì, vỗ yên
dân chúng. Khi Bân đi đánh Liêu, có sai viên chỉ huy Lộ Văn Luật làm tiên
phong. Văn Luật đã đi, lại bị giữ lại bàn tính mưu kế, trong lòng hoài nghi, lo
sợ, nên bỏ trốn đi. Bân bắt mẹ già, gia thuộc và anh em của Luật như Đồng tri
châu châu Tam Đái là Văn Phỉ. Đồng tri châu phủ Trấn Man Phan Kiệt là anh họ của
Liêu, nghe tin Liêu trốn đi, cũng đem cả nhà đi theo, nhưng chưa ra khỏi cõi đã
bị thắt cổ chết cùng với vợ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 4a.
Sử Trung Quốc cũng chép tương
tự:
“Ngày 11 tháng 8 năm Vĩnh Lạc
thứ 17 [31/8/1419]
Viên Thổ quan Giao Chỉ giữ chức
Tri phủ Nghệ An Phan Liêu là con Quí Hữu. Trước đây Quí Hữu theo Trần Quí Khoáng làm
Thiếu bảo ngụy. Bị đại quân đánh, thế cùng Quí Hữu bèn sai Liêu đến cửa quân
xin hàng. Quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ theo chế độ ban cho Quí Hữu
chức Phó sứ ty Án Sát coi phủ Nghệ An, lại ban cho Liêu chức quan. Quí Hựu chết,
cho Liêu thừa kế cha nhậm chức này. Nhân Mã Kỳ bạo ngược phi lý, Liêu bèn làm
phản tại huyện Nha Nghi [Nghi Xuân, Hà Tĩnh], cùng
viên thổ quan Thiên hộ Trần Đài tụ tập đám đông đốt phá châu huyện giết quan lại;
viên thổ quan chỉ huy vệ Nghệ An Lộ Văn Luật cũng đi theo. Quan Tổng binh Phong
thành hầu Lý Bân mang quân đến đánh, bọn giặc tan, Liêu chạy đến châu Ngọc Ma
nương dựa viên thổ quan Tri châu Cầm Trách, Bân sai người truy bắt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 66)
Minh Thái Tông cho rằng bọn
Phan Liêu, Lộ Văn Luật làm phản là việc quan trọng; nên buộc Lý Bân
phải tiêu diệt tận
gốc:
“Ngày 16
tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 3/11/1419 ].
Thiên tử ban mệnh cho Tổng binh
Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân:
‘ Mặc dù giặc Phan Liêu
tại Nghệ An đã bị đánh tan , nhưng chúng vẫn còn tồn tại. Trong một thời gian
ngắn, ngươi cần chỉnh đốn quân ngũ tiêu diệt chúng như nhổ gốc, không để sót mối
lo trong dân.”( Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 71)
Lý Bân đành phải tuân lệnh,
mang đại quân sang Ngọc Ma càn quét một lần nữa, nhưng cũng không diệt
xong bọn Phan Liêu và Lộ Văn Luật. Trong khi đó lại phải sai phái
thuộc hạ đánh dẹp bọn võ quan như Thiên hộ Trần Thuận Khánh, Bách hộ Trần
Trực Thành nỗi dậy tại Nghệ tĩnh, và đầu đảng Trịnh Công Chứng
tại Hải Dương:
“Ngày 6
tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [
23/11/1419 ].
Ngày hôm nay quan Tổng binh
Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân đến châu Ngọc Ma dẹp giặc; đầu đảng giặc
bọn Phan Liêu cùng giặc Áo Đỏ hơn 1000 tên chống cự bị quan quân đánh bại. Bắt
sống Tù trưởng giặc Áo Đỏ là bọn Nửu Môn, Diệp Để; bọn Liêu, Lộ Văn Luật, Trần
Văn, Trần Tử Trực và quân còn lại bỏ trốn. Quan quân tiến đến Mường Cự Đàm, núi
Bồ Đàm thuộc châu Ngọc Ma; giặc cậy hiểm đóng trại phòng thủ, bèn đánh phá. Bọn
Liêu chạy sang Lão Qua; bèn sai Đô chỉ huy Tiết Tụ tiến đánh bắt được đồng đảng
giặc là bọn Hồ Tử Kính cùng giặc Áo Đỏ là Thượng Bì, Thượng Tướng hơn 300 người.
Trước đó sai Bố chánh ty sứ
Giao Chỉ Nguyễn Huân, Chỉ huy Trần Nguyên Khôi giữ sông Ác [Ngàn
Sâu, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh] bắt được tên phản loạn
Thiên hộ châu Nam Linh Trần Thuận Khánh, Bách hộ vệ Nghệ An Trần Trực
Thành đem chém. Đô đốc Phương Chính, Tham chính Mã Ánh cũng bắt và giết đầu đảng
giặc Trịnh Công Chứng tại Đồng Lợi, đồng đảng giặc là Lê Điệt bỏ trốn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 72)
Tỉnh Thanh Hóa, ngoài cuộc
khởi nghĩa của Bình Định vương Lê Lợi; tại huyện Nga Lạc có Phạm
Nhuyễn nỗi lên, bị viên Đô chỉ huy Từ Chính đánh bắt, đem chém:
“NGÀY 1
THÁNG 10 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [19/10/1419].
Bọn phản loạn Giao Chỉ Phạm
Nhuyễn tụ tập tại sách Cự Lặc, huyện Nga Lạc. Ngày hôm nay quan Tổng binh Phong
thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Từ Nguyên mang quân bắt được, bèn chém bọn Nhuyễn
để thị chúng.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 71)
Đô chỉ huy Giao Châu tâu về
triều có hàng chục cuộc nỗi dậy xãy ra khắp nơi; suốt từ tỉnh Lạng
Sơn cho đến vùng Nghệ Tĩnh:
“NGÀY 1
THÁNG 11 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [17/11/1419].
Ty Đô Chỉ huy Giao Chỉ tâu rằng
tại huyện Kệ Giang [Thanh Chương, Nghệ An], phủ
Nghệ An có tên thổ quan Bách hộ Trần Trực Thành, cùng em là Trực Ngụy tự xưng
Kim Ngô Tướng quân; cùng bọn Lãm Bàn giặc Áo Đỏ cướp phá xã Dương Biến giết tuần
kiểm Trương Tú. Vũ Cống người trong hộ đãi vàng liên kết với kỳ lão Hoàng Nhữ
Điển tụ tập dân chúng đốt phá huyện Phù Lưu [Quỳnh
Lưu, Nghệ An]. Các nhóm nỗi dậy tại huyện Khâu Ôn [Lạng
Sơn] có Nông Văn Lịch, châu Vũ Ninh [Bắc
Ninh] có Trần Đại Quả, châu Khoái [Hưng
Yên] [th1] có Nguyễn Đặc,
huyện Thiện Thệ [Bắc Ninh] có Ngô Cự Lai tiếp tục
trước sau làm loạn giết hại quan binh. Tại huyện Đồng Lợi, châu Hạ Hồng [Hải
Dương], phủ Tân An, viên Xã chính coi việc đãi vàng là Trịnh Công Chứng
tụ tập đám đông hơn 1000 người đốt phá bắt giết quan lại tại các ty tuần kiểm
thuộc các huyện Đa Dực, Đồng Lợi, châu Hạ Hồng và cửa biển sông Đản. Đô đốc
Phương Chính mang quân đánh dẹp đánh bại giặc tại Đồng Lợi. Thám thính cho biết
trước đó bọn chúng đến châu Nam Sách, bèn truy kích kịp thời đánh dẹp tại ty tuần
kiểm A Côi [Thái Bình] chém hơn 400 thủ cấp, số giặc chết trôi tính
không hết; Công Chứng bèn chạy trốn. Sắc dụ quan Tổng binh Phong thành hầu Lý
Bân mang quân đánh bắt.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 71)
Sử Đại Việt cũng xác nhận
rằng Lý Bân mang quân đi đánh xa, thành Đông Đô yếu nhược, do đó hào
kiệt bốn phương mang quân uy hiếp, hầu như chỗ nào cũng có rối
loạn:
“Mùa đông, tháng 11, Trịnh Công Chứng và Lê Hanh ở Hạ Hồng [Hải
Dương], Phạm Thiện ở Tân Minh [Tiên Lãng, Hải
Phòng] , Nguyễn Đặc ở Khoái Châu [Hưng Yên], Nguyễn
Đa Cấu và Trần Nhuế ở Hoàng Giang thấy thành Đông Quan chỉ còn những quân lính ốm
yếu, liền dấy quân tiến đánh. Quân đến Lô Giang, đánh phá được cầu phao, nhưng
ít lâu sau, bị Lý Bân đánh bại, tan tác chạy dài. Bấy giờ, chỗ nào cũng rối loạn,
chỉ còn các xứ Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa là yên tĩnh như cũ.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 4b.
Ngoài những đạo quân nêu trên
uy hiếp thành Đông Đô; vào cuối tháng 11 Đào Cường tại Gia Lâm, Bắc
Ninh nỗi dậy, sắp vượt sông Hồng đánh thành; Tổng binh Lý Bân phải
điều kỵ binh đánh lui:
“Ngày 28
tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 17
[14/12/1419]
Tại huyện Thiện Tài, châu Gia
Lâm [Bắc Ninh], Giao Chỉ, Đào Cường làm phản.
Đô Chỉ huy Lưu Chấn, Vu Tán, Ngô Hưng mang quân đánh dẹp. Bọn Chấn không nghiêm
cấm, nên quân sĩ buông thả cướp phá. Giặc giả bộ vứt đồ vật bỏ chạy, rồi đặt phục
binh đón đợi. Quan quân bi bại, giặc đuổi tới sông Phú Lương, định vượt sông.
Đô Chỉ huy Trần Tuấn ra sức đánh, nên ngăn được. Nhưng thế giặc mạnh thêm, quan
Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân sai ngay bọn Đô Chỉ huy Cảnh Vinh mang kỵ binh
đi đánh, giặc bèn rút lui.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 73)
Một cuộc nỗi dậy khác do Lê
Điệt cầm đầu tại tỉnh Thái Bình; quân Minh tiếp tục truy kích đến
tỉnh Nam Định, nhưng cũng chưa dẹp được:
“Ngày 3
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17
[19/12/1419]
Bọn Đô Chỉ huy Trần Trung tại
Giao Chỉ đánh bại đảng giặc Lê Điệt tại sông Tiểu Hoàng huyện Kiến Xương [tỉnh
Thái Bình] bắt sống 350 tên, đốt cháy trên 160 chiếc thuyền. Tiếp tục truy
kích đến xã Cổ Lôi, huyện Tây Chân, phủ Phụng Hóa [Nam
Định] đánh bại bọn giặc Trần Dĩ Luật chém hơn 600 tên, đốt hơn 250
chiếc thuyền. (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 74)
Ngay tại tỉnh Nam Định cũng
có cuộc nỗi dậy của Đinh Tông Lão; Phương Chính ra quân đánh dẹp,
nhưng vẫn chưa diệt được chủ tướng:
“Ngày 8
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [
24/12/1419]
Ngày hôm nay các huyện như Đại
Loan thuộc phủ Kiến Bình [huyện Nghĩa Hưng, Nam Định], Giao Chỉ;
có bọn giặc Đinh Tông Lão làm loạn. Quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân sai
Chỉ huy Giao Châu hậu vệ Phương Chính suất quân đánh dẹp. Giặc thua chạy, chém
hơn 400 tên, đều bị bêu đầu để làm răn.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 74)
Tổng binh Lý Bân đích thân
mang quân truy kích Lê Điệt một lần nữa; nhưng vẫn chưa bắt được chủ
tướng:
“Ngày 11
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [
27/12/1419 ].
Ngày hôm nay quan Tổng binh
Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân truy đánh bọn Lê Điệt tại huyện Đình Hà phủ Trấn
Man [Thái Bình], đánh bại giặc mấy lần; chém
hơn 500 tên, bắt sống bọn ngụy Kim ngô tướng quân Vũ Lộ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 75)
Một cuộc nỗi dậy lớn, do sư
cụ Phạm Ngọc trụ trì chùa Đồ Sơn, Hải Phòng cầm đầu; Tổng binh Lý
Bân mang quân đi đánh dẹp, truy kích đến tận Đông Triều, Quảng Ninh. Tuy
giết được phụ tá là Phạm Thiện, nhưng chưa bắt được Phạm Ngọc:
“Ngày 15
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [31/12/1419]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong
thành hầu Lý Bân bắt được Tù trưởng giặc Phạm Thiện tại châu Đông Triều [Quảng
Ninh] . Trước đây tên yêu tăng Phạm Ngọc tại chùa Đồ Sơn, huyện An Lão [Hải
Phòng] phao rằng trời giáng ấn kiếm, lệnh làm chúa; bèn tiếm xưng
La bình vương, kỷ nguyên Vĩnh Ninh, tụ tập đám đông làm loạn. Bọn Thiện và Đào
Thừa đến theo. Ngọc cho Thiện làm Nhập Nội Kiểm Hiệu Tả Tướng quốc Bình Chương
Quân Quốc Trọng Sự, Ngô Trung làm Nhập Nội Hành khiển Hữu Thượng thư Tri Quân
Quốc Trọng Sự, Đào Thừa làm Xa Kỵ Đại Tướng quân, Lê Hành làm Tư không, tụ tập
đám đông chiếm cứ đường thủy và bộ. Lúc đại quân đến đánh, Thiện dàn quân hai
bên bờ, lại bày thuyền giữa sông, thủy bộ cùng chống cự. Bân xua quân đánh gấp,
chém 1200 thủ cấp, bắt sống Thiện cùng bọn Trung gồm 780 người, tịch thu hơn
200 chiếc thuyền lớn nhỏ, Ngọc tẩu thóat; lại bắt quân giặc hơn 260 tên, bèn xử
chém để răn.Thiện, Trung, cùng bọn Vũ Lộ đều bị giải về kinh sư.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 75)
Tháng trước Đào Cường lăm le
vượt sông đánh thành Đông Đô Hà Nội; nay được tin tụ tập tại Cẩm
Giàng, Hải Dương; Lý Bân bèn mang quân đi đánh:
“Ngày 26
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [11/1/1420].
Ngày hôm nay quan Tổng binh
Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân mang quân tới phủ Lạng Giang. Tin điệp báo cho
biết Tù trưởng giặc Tư không Lê Hành, ngụy Kim Ngô Đại Tướng quân Đào Cường tụ
tập lực lượng hơn 8000 tên lập trại tại xã Ma Lãng, huyện Đa Cẩm [huyện
Cẩm Giàng, Hải Dương]; bèn tiến binh tiễu trừ.”
( Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 76)
Vào cuối năm Bình Định vương
thứ hai [1/1920] Lý Bân tiếp tục truy kích; giết chủ tướng Đào Cường
tại Bắc
Ninh:
“Ngày 28
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [13/1/1420].
Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong
thành hầu Lý Bân mang quân tới huyện Thiện Tài [Lang
Tài, Bắc Ninh], gặp toán du binh của giặc hơn 1000 tên, đánh bại chúng rồi
đuổi đến xã Ma Lãng. Giặc bỏ trống trại ra giao chiến, quan quân
đánh bại; bắt giết Đào Cường, cùng tướng sĩ của chúng hơn 3.500 tên. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 75
)
Về việc dùng văn hóa kèm
với trấn áp để cai trị nước ta, vào năm Vĩnh Lạc thứ 14 [1416] cho
lập 93 ty nho học, 46 ty Âm dương, 49 ty Y học, tại các phủ, châu,
huyện. Nhà Minh cho phương lược này là đắc sách, nên lại cho lập thêm
28 ty Nho học tại các phủ, châu, huyện; cùng các ty phụ trách về
Phật, Đạo, Âm Dương:
“Ngày 29
tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 23/4/1419 ].
Thiết lập tại Giao Chỉ:
Phủ Nho học tại Lạng
Sơn. 10 châu Nho học tại Thất Nguyên, Quảng Nguyên, Thượng Văn, Hạ Văn, Vạn
Nhai, Thượng Tư Lang, Hạ Tư Lang, Cửu Chân, Gia Hưng, Quảng Oai. 17 huyện
Nho học tại Ða Dị, Cổ Lan, Khâu Ôn, Trấn Di, Ðan Ba, Thoát, Uyên, Ðại Man,
Tuyên Hoá, Phú Lương, Lộng Thạch, Ðại Từ, Cảm Hoá, Vĩnh Ninh, Tống Giang, Nga
Lai, An Lạc.
Âm Dương học, ty Tăng Cang tại
phủ Tuyên Hóa.
Âm Dương học, Y học, ty Ðạo
Chính tại châu Quảng Oai; ty Tăng Chính tại Vạn Nhai.
Âm Dương học tại hai huyện
Thái Bình, Trấn Di.
Y học, ty Tăng Hội, ty Ðạo Hội,
tại huyện Thái Nguyên. Y học, ty Ðạo Hội tại huyện Cổ Lan. Âm Dương học, y học,
ty Ðạo Hội tại huyện Ða Dị, Ðồng Hỷ.
Kho Thường Phong tại phủ Nghệ
An, kho Thường Bình tại phủ Tân Bình. Kho Quảng Bình tại phủ Kiền Xương.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 62)
Nhà Minh sai người mang những
sách giáo khoa sang nước ta, dùng để truyền bá nguồn văn hóa tư tưởng
nêu trên. Đồng thời, Lý Bân xin cho lập một loại hộ khẩu gọi là hộ
thiếp; cùng sắp đặt các viên chức hạ từng cơ sở như Lý trưởng, Giáp
thủ, để quản lý kềm kẹp dân chùng:
“Năm Kỷ
Hợi, [1419], (Minh Vĩnh Lạc năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, nhà Minh sai
giám sinh Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh (6), Tứ thư (7), Tính lý
đại toàn (8), Vi thiện âm chất, Hiếu
thuận sự thực, cho nho học các phủ, châu, huyện. Sai tăng học
truyền giảng kinh Phật tại Tăng đạo ty.
Lý Bân nhà Minh tâu xin Hộ bộ
ban cấp hộ thiếp (9) cho Giao Chỉ, bắt châu
huyện làm sổ thuế khóa phu dịch (10) và
lên danh sách lý trưởng và giáp thủ (11) từng
năm . Đại để, cứ 110 hộ là một lý, mỗi năm cử 1 lý trưởng, 10 giáp thủ, để nhận
các việc lao dịch, hết lược lại cử từ đầu. Người làm lý trưởng, giáp thủ bị roi
vọt đánh đập khổ sở khôn xiết.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 3b.
Ngoài việc đòi hỏi dân ta
phải thay đổi y phục, quan lại nhà Minh còn can thiệp vào tập tục
tang chế. Như tập tục dân ta chịu tang, mặc áo trắng chứ không mặc áo
đen; người thọ tang không cần phải nghỉ việc lâu dài để chịu tang;
những tập tục đó đều bị cấm:
“NGÀY 4
THÁNG 7 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [26/7/1419].
Ty Bố chánh Giao Chỉ Phó lý
Lô văn Chính, tâu rằng :
‘Người Giao
Chỉ tập quen phong tục man di, cha mẹ chết để tang cấm mặc áo đen; Thổ quan,
Sinh viên, Thư lại cha mẹ chết cũng không xin nghỉ việc cư tang . Xin dùng quốc
triều [Trung Quốc] đã định về tang lễ, ban hành dân gian để tuân
hành. Các Thổ quan, Sinh viên, Thư lại có cha mẹ chết, phải bỏ chức dịch chịu
tang; ngõ hầu dần dần từ bỏ tâp tục man di.’
Thiên tử
xem lời tâu trực diện dụ bộ Lễ rằng:
‘Ba năm cư
tang là thông lệ xưa nay, thiên hạ ai mà không có cha mẹ, cho theo lời thỉnh cầu.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 65
)
Về lãnh vực kinh tế, tại
vùng biển Quảng Ninh, lập cục khai mỏ ngọc trai; vùng núi Lạng Sơn,
Phú Thọ, Tuyên Quang lập các cục khai mỏ vàng:
“NGÀY 3
THÁNG 8 NĂM VĨNH LẠC THỨ 17 [23/8/ 1419].
Lập cục khai mỏ ngọc trai tại
châu Tĩnh An Quảng Ninh, Giao Chỉ; đặt một viên Đại sứ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang
66)
“Ngày 22
tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 7 [11/9/1419]
Lập các cục mỏ vàng tại Giao
Chỉ; thuộc trấn Thất Nguyên phủ Lạng Sơn, trấn Qui Hóa phủ Tam Giang, trấn
Tuyên Quang phủ Tuyên Hóa. Đặt 2 viên Đại sứ, 4 viên Phó sứ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 67
)
Ngoài nguồn lợi thuế má,
khai mỏ; theo thông lệ hàng năm, các chức sắc tại tam ty, phủ, huyện,
đem quí vật về triều tiến cống:
“Ngày 20
tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 14/5/1419 ]
Thổ quan thuộc các phủ như Kiến
Bình, bọn Tri phủ Phan Sĩ Văn 84 người; cống vàng, bạc, khí mãnh cùng sản vật địa
phương. Ban cho tiền giấy, y phục lụa ỷ, lụa bạch, có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 64)
“Ngày 3
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 27/5/1419 ]
Thổ quan ty Tham chính Giao
Chỉ, bọn Tả Tham chính Lương Nhữ Hốt đốc suất các Thổ quan quận, huyện dưới quyền;
cống vàng, bạc, khí cụ, sản vật địa phương. Ban cho tiền giấy cùng y phục lụa
sa dệt kim có sai biệt.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 65)
“Ngày 20
tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [ 9/9/1419]
Giao Chỉ tiến cống ngựa trắng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 67)
“Ngày 29
tháng 12 năm Vĩnh lạc thứ 17 [14/1/1420].
Giao Chỉ dâng 1320 tấm quyên, 5000 cân tô mộc, 2000 chim thúy vũ, 10000 chiếc quạt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 78)
Chú thích:
1. An Nam
Truyện, Vương Thế Trinh, Kỷ
Lục Vựng Biên, quyển 49, trang 3.
2. Lam Sơn
Thực Lục. Nguyên tác: Nguyễn Trãi. Vua Lê Lợi đề tựa. Nhà Xuất Bản Tân
Việt in lần thứ 3 (1958), quyển 1, trang 9.
3. Sông Hải Triều: khúc đầu sông
Luộc nằm giữa huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên và huyện Hưng Nhân thuộc tỉnh Thái
Bình.
4. Tô mộc: Cây dùng làm thuốc Bắc.
5. Kỷ Tín: Trung thần của Hán
Cao Tổ. Khi Cao Tổ bị Hạng Vũ vây ở núi Huỳnh Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc), tình hình nguy ngập quá, Tín phải ăn mặc giả làm Cao Tổ, thay Cao
Tổ ra đầu hàng: bị Hạng Vũ đốt chết. Còn Cao Tổ nhờ đó trốn thoát.
6. Ngũ Kinh: Năm kinh của nhà Nho: Dịch,
Thi, Thư, Lễ và Xuân Thu.
7. Tứ Thư: Bốn sách của nhà Nho: Đại học,
Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử.
8. Tính Lý Đại Toàn: Bộ sách do bọn Hồ
Quảng, vâng lệnh vua Minh, soạn ra. Nội dung dựa vào học thuyết của các Tống
nho, chia làm 13 mục, gồm 70 cuốn.
9. Hộ thiếp: như sổ hộ tịch, mỗi
tấm hộ thiếp có ghi rõ họ tên, quê quán và số đinh trong mỗi hộ, có đánh số chữ
ký hiệu và đóng một nửa phần dấu kiềm đề phòng khi khám nghiệm. Sổ hộ khẩu thì
để ở Hộ bộ, còn hộ thiếp thì phát cho các hộ (theo Đại Minh hội điển).
10. Nguyên văn: Phú dịch hoàng sách,
tức là quyển sách bìa vàng kê khai thuế khóa phu dịch. Theo Thông giám tập lãm,
thì năm Hồng Vũ thứ 14 (1381) nhà Minh hạ chiếu bắt cả nước làm sổ "hoàng
sách".
11. Giáp thủ: là người đứng đầu một giáp, gồm 10 hộ; Lý trưởng: người đứng đầu 1 lý, gồm 110 hộ.
Tình
hình nước ta lúc bấy giờ, các cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm
lược nỗi lên khắp nơi từ bắc Trung Phần cho đến Lạng Sơn. Vào đầu năm
Bình Định vương thứ 3 [1420], nhận thấy đạo quân dưới quyền Lý Bân
không đương đầu nỗi; Vua Minh Thái Tông bèn điều quân từ Tứ Xuyên, Vân
Nam đến tăng viện:
“Ngày 18
tháng giêng nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 18 [4/3/1420]
Sắc dụ quan Tổng binh Giao
Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân rằng :
‘ Trẫm ra lệnh
người cai trị một phương, muốn cho quân dân được yên chỗ; nay để cho giặc giã
nỗi lên rầm rộ, làm sao ngươi từ chối trách nhiệm được. Nay điều quân từ các xứ
Vân Nam, Tứ Xuyên; quan quân nhiều ngươi phải hết sức trù tính sớm diệt bọn
giặc. Nếu lần lữa ngày tháng, khiến bọn giặc ngày một lớn, thì căn cứ vào quốc
điển khó mà khoan thứ được.”( Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 79)
Ngoài ra còn điều Vinh dương
bá Trần Trí đến, giữ chức phụ tá cho Lý Bân:
“Ngày 21
tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 3/5/1420 ].
Mệnh Vinh dương bá Trần
Trí giữ chức Tả tham tướng phụ tá Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân trong
việc đánh dẹp man di phản loạn.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 79)
Đối với những võ quan bại
trận, lệnh nghiêm khắc trừng phạt; bắt cùm chân áp giải về kinh đô:
“Ngày 22
tháng giêng nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 6/3/1420]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong thành hầu Lý Bân tấu trình Đô Chỉ huy Lưu Chấn, Vu Toản, Ngô Hưng bị bại
trận trước đây; cùng kẻ có lỗi Đô Chỉ huy Trần Tuấn lập được thành tích ngự
giặc. Thiên tử mệnh cùm bọn Chấn 3 người giải về kinh; riêng tha cho Tuấn tội,
được phục chức.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 79)
Sau khi đã tăng cường binh lực
và tướng lãnh; mệnh Lý Bân đánh bắt cho được 4 đầu đảng Phan Liêu, Lê
Lợi, Xa Tam, Nông Văn Lịch:
“Ngày 10
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [20/6/1420].
Sắc dụ quan Tổng binh
Phong thành hầu Lý Bân rằng bọn phản loạn Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nông Văn
Lịch đến nay vẫn chưa bắt được, không biết việc binh đến khi nào mới hết, dân
đến lúc nào mới được yên; nên ngày đêm hết lòng trù hoạch phương lược, sớm diệt
bọn giặc này, để khỏi phụ sự ủy nhiệm của Trẫm.”
( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 79)
Về cuộc khởi nghĩa của Vua
Lê Lợi, sử Trung Quốc chép vào tháng giêng, Đô chỉ huy Từ Nguyên đánh
đuổi quân khởi nghĩa tại huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoá:
“Ngày 4
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 18/1/1420 ]
…Giặc Lê Lợi tại Thanh Hóa
tụ tập quân đóng trại tại Lỗi Giang [huyện Cẩm Thủy, Thanh
Hóa], bị Đô chỉ huy Từ
Nguyên mang quân công phá, Lợi chạy trốn.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 78)
Tuy nhiên thế lực nghĩa quân
lớn mạnh, hoạt động ra đến miền bắc, giết những tên quan lại đắc
lực của nhà Minh như Hữu Tham chính Hầu Bảo. Trong văn bản này còn ghi Tả
Tham chính Phùng Quí cũng đánh giặc tử trận, nhưng không chép lúc nào
và tử trận bởi quân Lê Lợi trong trường hợp nào. Riêng sử Việt ghi
Phùng Quí tử trận trong trận giao tranh tại sách Khôi, Thanh Hóa, vào
tháng chạp năm Bình Định vương thứ 5:
“Ngày 23
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [3/7/1420].
Giao chỉ Hữu Tham chính
Hầu Bảo, suất dân binh chống giặc tử trận. Tả Tham chính Phùng Quí cũng đánh
giặc tử trận.
Bảo người đất Tán Hoàng,
Chân Định; từ Sinh viên Quốc Tử bổ dụng làm Tri huyện 3 huyện Cổn Thành, Cống
Du, Đôn Hưng; rành việc hành chính. Lúc mới lập Giao Chỉ, chọn người cai trị
phủ huyện, bèn thăng Bảo làm Tri phủ Giao Châu, rồi được thăng chức Hữu Tham
chính Giao Chỉ. Bấy giờ giặc Lê Lợi cướp phá các quận, huyện tại vùng Hoàng
Giang [Nam Định], Bảo
đôn đốc dân binh xây đồn tại các nơi quan trọng để chống cự. Giặc đến đánh, bọn
Bảo đánh không thắng, bị chết.
Quí người đất Vũ Lăng, Hồ
Quảng; trúng Tiến sĩ giữ chức Binh khoa Cấp sĩ. Lúc Anh quốc công Trương Phụ
giữ chức Tổng binh chinh phạt Giao Chỉ, Quí đôn đốc lương thực, cần lao gắng
sức. Được tâu công việc hoàn thành xứng chức, chiếu chỉ thăng chức Giao Chỉ Hữu
Tham nghị; rồi giữ chức Đề đốc các hầm mỏ vàng bạc, thăng chức Tả Tham chính.
Biết cách chiêu tập dân lưu vong qui phụ, có một đội thổ binh hơn 2000 người,
đều dõng cảm chịu chiến đấu; mỗi lần ra quân đánh nhau đều lập công. Sau bị
Trung quan Mã kỳ ghen tỵ, đoạt hết thổ binh; đến lúc Lê Lợi làm phản quân mạnh,
Quí chỉ có vài trăm lính đến đánh. Binh ít gặp quân giặc đông, Quí ra sức đánh
rồi tử trận. Bảo tham chính thanh liêm khoan thứ, Quí có tài, tử trận mọi người
đều tiếc.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 82)
Sự kiện xãy ra vào tháng 10,
sử Trung Quốc chép Phương Chính đánh bại quân Vua Lê Lợi tại sông
Mường Tâm, Ai
Lao:
“Ngày 25
tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [30/11/1420]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong Thành hầu Lý Bân sai Hậu vệ Giao Châu Chỉ huy sứ Phương Chính truy kích
Lê Lợi, đánh bại giặc tại sông Mường Tâm, Lão Qua; Lợi bỏ trốn.”
( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 84)
Tuy nhiên cũng vào thời điểm
này, sử Việt chép Vua Lê phục kích tại vùng Mường Thôi giáp Ai Lao;
bọn Lý Bân, Phương Chính thua to, chỉ thoát được lấy thân. Đến tháng
chạp quân nhà Vua lại chiến thắng tại huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoá:
“Mùa đông, tháng 10, vua nghe tin quân Minh sắp đến, đặt
mai phục ở bến Bổng (1) chờ
giặc, chém giết quân giặc nhiều vô kể, bắt được hơn trăm con ngựa. Vua cho nghỉ
quân ở Mường Nanh (2), rồi
lại dời đến đóng quân ở Mường Thôi [giáp Ai Lao]. Tên Đồng tri châu Quỳ Châu là Cầm Lạn
dẫn bọn Lý Bân, Phương Chính đem hơn 10 vạn quân, theo đường Quỳ Châu đến thẳng
Mường Thôi. Vua phục kích chúng ở Thi Lang . Bân và Chính chỉ chạy thoát được
thân mình.
Tháng 12, vua tiến
quân đóng ở sách Ba Lẫm (3) thuộc
huyện Lỗi Giang [Cẩm Thủy, Thanh Hóa], khiêu khích cho giặc ra đánh. Tướng
giặc là bọn Đô ty Tạ Phương, Hoành Thành bỏ đồn Nga Lạc, về giữ trại Quan Du [huyện
Quan Hóa, Thanh Hóa] để
phòng bị cho thành Tây Đô, cố giữ không ra đánh. Vua ngày đêm dùng nhiều cách
tiến công uy hiếp để giặc mỏi mệt, rối loạn. Lại sai Lê Sát, Lê Hào chia nhau
tiến đánh, cả phá bọn giặc, chém được hơn nghìn thủ cấp, thu được rất nhiều
chiến cụ, từ đó thế giặc ngày một suy. Vua bèn chiêu tập nhân dân các xứ. Các
huyện bên cạnh đều sôi nổi hưởng ứng, cùng nhau tiến đánh và uy hiếp các
đồn giặc.”Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10,
trang 6b.
Ngoài Vua Lê Lợi, bấy giờ có
Cấn Sư Lỗ, Phạm Công Trịch, Trịnh Công Chứng hoạt động tại các tỉnh
Sơn Tây, Vĩnh Phú; Lý Bân bèn sai thuộc hạ đánh dẹp:
“Ngày 4
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 18/1/1420 ]
Giặc Giao Chỉ Cấn Sư Lỗ,
Phạm Công Trịch tụ dân làm loạn. Quan Tổng binh Lý Bân sai người đến huyện
Thạch Thất [Sơn Tây] giao
chiến. Sư Lỗ thua chạy, chém được bọn Dực vệ tướng quân Cấn Hoạch hơn 150
người. Lúc bấy giờ Công Chứng tại châu Oai Man [Vĩnh
Phú] nghe tin đưa quân
về Khoái Châu [Hưng Yên]. Nhưng
bị Đô chỉ huy Giao Chỉ Tôn Lâm đánh tại huyện Thiện Tài, châu Gia Lâm [Bắc
Ninh], giết bọn tướng
giặc Phạm Trầm, bắt sống đầu đảng giặc Lê Hành.” ( Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 78)
Lý Bân đích thân mang quân truy
kích Lê Điệt tại vùng Thái Bình, Nam Định; bắt sống, áp giải về kinh:
“Ngày 4
tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [16/5/1420]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Trương Quý đánh giặc Lê Điệt tại huyện
Đình Hà, phủ Trấn Man [Thái Bình, Nam Định], bắt sống ngụy Long Hổ Đại Tướng quân
Đinh Thung, riêng tên Điệt mang dư đảng trốn. Bân tự suất binh đánh bắt, do đó
ngụy Long Hổ Tướng quân Phan Dương, Phạm Canh đều hàng. Quân của Bân truy kích
đến cùng, bắt sống Điệt, vợ y, cùng tướng giặc Nguyễn Thừ, Đỗ Đức Lăng, Nguyễn
Như Lôi, giết trên 600 người, cùm giải bọn Điệt về kinh sư.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 80)
Năm ngoái [1419], Lý Bân
mang quân đánh dẹp cuộc nỗi dậy của sư cụ Phạm Ngọc trụ trì chùa
Đồ Sơn; nhưng chưa diệt xong tận gốc; nay đánh bắt được Phạm Ngọc tại
Đông Triều [Quảng Ninh], áp giải về kinh:
“Ngày 20
tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [1/6/1420]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong Thành hầu Lý Bân bắt cựu thủ lãnh giặc ngụy La Bình vương Phạm Ngọc.
Trước đây Ngọc thua bỏ chạy, lại trở về châu Đông Triều tụ tập đám đông cướp
phá; cuối cùng bị bắt, cùm giải về kinh sư.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 80)
Lộ Văn Luật. từng theo Phan
Liêu, mang quân đến Thạch Thất [Sơn Tây]; bị đánh thua phải chạy sang Ai
Lao:
“Mùa, hạ, tháng 4, Lộ Văn Luật dấy binh ở Thạch Thất, Lý
Bân đánh phá được. Lộ Văn Luật chạy sang Ai Lao, dân chúng thì trốn vào hang
núi Phật Tích và An Sầm Thạch Thất [Sơn Tây]. Quân Minh dỡ nhà hun động, người
trong động bị khói lửa hun đều chết, người nào ra hàng cũng bị giết cả, vợ con
bị bắt làm nô tỳ.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 5a.
Vào tháng 5, Lý Bân sai Đô
chỉ huy Chu Quảng đánh bắt các lãnh tụ nỗi dậy gồm Khai thánh vương
Nguyễn Đa, Chiêu Tín hầu Bình chương Quân quốc trọng sự Đàm Dữ Bang, Nhập
Nội Kiểm hiệu Bình chương Tư đồ Nguyễn Gia, Thái sư Trung liệt công Vi Ngũ; áp
giải tất cả về kinh sư:
“Ngày 15
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 18 [25/6/1420]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Chu Quảng đánh bắt được bọn ngụy Khai
thánh vương Nguyễn Đa, ngụy Chiêu Tín hầu Bình chương Quân quốc trọng sự Đàm Dữ
Bang, ngụy Nhập Nội Kiểm hiệu Bình chương Tư đồ Nguyễn Gia, ngụy Thái sư Trung liệt
công Vi Ngũ; lại bắt vợ con, cùng ấn ngụy; đem tất cả đến kinh sư.”
( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 81)
Lê Ngã, nỗi dậy tại điạ bàn
3 tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, từng mang quân đánh phá thành
Xương Giang; Lý Bân mang đại quân đánh, Ngã bị thua:
“Tháng 6, người làng Tràng Kênh, huyện Thủy
Đường [huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng] là Lê Ngã đổi họ tên thành Dương
Cung, tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đăt niên hiệu là Vĩnh Thiên. Ngã vốn là
gia nô của Trần Thiên Lại, tướng mạo rất đẹp, đã từng đi khắp bốn phương, đến
đâu cũng được mọi người cung dưỡng. Ngã lại trá xưng là lính hầu của Mã Kỳ, đi
doạ nạt các châu huyện làm kế nuôi thân. Thấy Công Chứng, Phạm Ngọc, Phạm Thiện
đua nhau nổi dậy, Ngã bảo những người quen biết:
‘Các anh có muốn giàu sang không? Ai muốn thì hãy theo
ta!’.
Đến huyện Đan Ba [huyện
Đình Lập, Lạng Sơn], Ngã
trá xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ Tông, từ nước Lão Qua trở về. Phụ đạo Đan
Bá là Bế Thuấn đem con gái gả cho và lập làm vua. Trong khoảng mấy tuần một
tháng, đã có vài vạn quân, hắn ra An Bang [Quảng Ninh] chiếm trại Hồng Doanh. Sau khi
Công Chứng, Phạm Ngọc bị thất bại, thì dư đảng của họ theo về với Ngã, số quân
được đến mấy vạn người. Ngã tiếm xưng tôn hiệu, dựng niên hiệu, đặt quan
chức, đúc tiền, đốt thành Xương Giang [Bắc Giang], cướp trại Bình Than. Có người
biết hắn là Ngã cũng không dám nói. Thiên Lại đi gặp hắn, trở ra nói rằng:
‘Nó là gia nô của ta, việc
gì phải lạy nó’.
Rồi dời thuyền trốn
đi. Ngã đuổi theo nhưng không kịp. Thiên Lại gởi hịch cho các huyện gần đó, tự
xưng là Hưng Vận quốc thượng hầu, đem quân đánh nhau với Ngã, bị Ngã giết chết,
Lý Bân đem đại quân thủy bộ đến đánh. Ngã và Thuấn đang đêm bỏ trốn cả,
không biết là đi đâu.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 6a.
Theo thông lệ hàng năm, vào
tháng chạp Giao Chỉ phải nạp đồ tiến cống cho triều Minh:
“Tháng 12
năm Vĩnh Lạc thứ 18 [ 2/1421]
Giao Chỉ dâng lên
triều đình 2.265 tấm lụa quyên (4) , 5000 cân tô mộc (5) , 3000 chim thúy vũ, 1 vạn quạt.”
(Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 85)
Thời Bình Định vương năm thứ
4, tức năm Vĩnh Lạc thứ 19 [1421], Vua Lê Lợi rút quân sang Lão Qua; Lý
Bân định mang quân sang đánh, nhưng Lão Qua xin đừng sang, hứa sẽ lục
soát đánh đuổi:
“Ngày 11
tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [7/10/1421]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong Thành hầu Lý Bân tâu:
‘Phản tặc Lê Lợi chạy trốn sang Lão Qua, ra lệnh cho quân
truy bắt. Nhưng Lão Qua sai Đầu mục Lãm Kỳ Tức Cốc xin quan quân đừng vào biên
cảnh, sẽ cho quân lính đi lục soát, nếu có Lê Lợi sẽ đem đến cửa quân. Từ đó
đến nay đã lâu, không thấy tung tích Lê Lợi.’
Thiên tử xem tấu, nghi Lão Qua dấu giặc nên sắc dụ Bân
đưa bọn Lãm Kỳ Tức Cốc đến Bắc Kinh để cật vấn.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 87)
Việc Sứ giả Lão Qua sang
Trung Quốc gây ảnh hưởng rất lớn, sau đó Lão Qua hùa theo nhà Minh,
mang quân tập kích Vua Lê Lợi:
“Mùa đông, tháng 11, ngày 20, tham tướng nhà Minh là Trần
Trí đem quân các vệ Giao Châu cùng ngụy binh, gồm hơn 10 vạn tên đánh sát đến
ải Kính Lộng [huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa], sách Ba Lẫm. Vua họp các tướng
bàn rằng:
‘Quân giặc nhiều, quân ta
ít, nhưng quân giặc mệt, quân ta nhàn. Binh pháp có nói được hay thua là ở
tướng chứ không phải ở quân nhiều hay ít, nay quân giặc tuy nhiều, nhưng ta đem
quân nhàn đợi đánh quân mệt mỏi, chắc chắn sẽ đánh bại chúng’.
Đến đêm, vua chia
quân đánh úp doanh trại giặc. Quân ta đánh trống reo hò xông tới, phá được bốn
doanh trại giặc, chém được hơn ngàn thủ cấp. Sau Trí khinh vua ít quân, lại phá
núi mở đường để tiến đánh. Vua ngầm phục kích ở đèo Ống [huyện
Cẩm Thủy] để đợi
giặc. Đến trưa, Trí quả nhiên đem quân đi theo đường núi đến. Quân phục hai bên
xông ra, đánh bại giặc. Quân Trí phải rút.
Nhưng đúng lúc ấy.
Ai Lao đem 3 vạn quân và 100 thớt voi thình lình tới doanh trại của vua phao
tin là cùng hợp sức với vua để đánh giặc. Vua tin lời họ, không phòng bị. Đến
nửa đêm, bị họ đánh úp. Vua phải đích thân đốc chiến, suốt từ giờ Tý đến giờ
Mão, đánh tan bọn Ai Lao, chém hơn 1 vạn thủ cấp, bắt được 14 con voi,
thừa thắng truy kích liền 4 ngày đêm, đuổi đến tận sào huyệt của bọn chúng
rồi về. Tháng 12, vua tiến ra đóng quân ở Sách Thủy. Tù trưởng Ai Lao Là Mãn
Sát đã cùng quẫn, muốn vua hoãn đánh để đợi viện binh, mới giả vờ xin hòa. Vua
biềt đó là mưu kế xảo quyệt, không cho. Các tướng cố xin cho hoà, nói là quân
lính khó nhọc đã lâu, nên cho nghỉ ngơi môt chút. Chỉ có Bình chương Lê Thạch cho là không thể cho giặc
giải hòa, liền tự mình hăng hái xông lên trước, chẳng may trúng phải
chông ngầm mà chết. Thạch là con người anh của Vua; thuở ấu thơ, được vua
nuôi nấng nên ngài yêu Thạch hơn cả con mình. Thạch tính người nhân ái, ham đọc
sách, khoẻ mạnh, dũng cảm, yêu mến quân sĩ, vua từng sai chỉ huy quân tiên
phong, đánh đâu thắng đấy. Đáng tiếc Thạch dũng cảm nhưng kém mưu. Đến
đây chết, vua rất thương xót.
Trước đây, vua vốn hòa
hiếu với Ai Lao, chưa từng có hấn khích gì. Khi vua cầm cự với giặc tại sách Lư
Sơn, Ai Lao từng cho quân sang cứu viện. Đến khi tên ngụy quan Lộ Văn Luật trốn
giặc sang Ai Lao, sợ uy danh vua, thêu dệt gây nên hiềm khích, nên mới đến nỗi
thế.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 8b.
Sử nước ta không nêu được
bằng chứng việc Lộ Văn Luật nói xấu nhà Vua với Ai Lao gây nên hiềm
khích; nhưng sử Trung Quốc, Minh Thực Lục, chép
việc Lão Qua tức Ai Lao sai sứ sang cống, và việc Đầu Mục Lãm Kỳ Tức
Cốc đến Bắc Kinh ; chứng tỏ Trung Quốc và Lão Qua có nhiều dịp thương
lượng ngầm với nhau:
“Ngày 27
tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [28/5/1421].
Tuyên ủy sứ Lão Qua Đao
Tuyến Phản sai bọn Đầu mục Côn Điển 15 người, cống vàng, bạc; ban cho tiền
giấy, lụa màu có phân biệt.” ( Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 85)
Ngoài việc giao tranh với Vua
Lê Lợi, Lý Bân còn sai Đô chỉ huy Sư Hữu mang quân sang Lão Qua truy
kích bọn Phan Liêu, nhưng không diệt được đầu đảng:
“Ngày 6
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 19 [ 7/2/1421]
Tháng này quan Tổng binh
Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Sư Hữu truy kích bọn giặc
Phan Liêu, Cầm Trách. Khi đến Ngọc Ma [phủ Trấn Định, Ai Lao] thì Liêu đến Lão Qua xin viện
binh; riêng Trách dùng voi xung kích đánh trả tại rừng Nông Ba. Bọn Chỉ huy
Trương Minh, Thiên Hộ Trương Bản xông vào trận giặc bắn lính cữi voi, lại dùng
hỏa khí bắn vào khiến voi phải chạy lùi; giặc tan rã. Chém hơn 100 tên, bắt
sống hơn 30 tên. Em Trách là Kết mang 200 quân dưới quyền đầu hàng.
(Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 85)
Trước đây Lê Ngã đổi tên thành
Dương Cung, tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đánh phá tại các tỉnh Bắc
Giang, Hải Dương; Lý Bân ra lệnh ráo riết truy lùng. Nay Bân sai Đô chỉ
huy Vương Trung bắt được Dương Cung tại huyện Giáp Sơn, bèn cho giải về
kinh:
“Ngày 19
tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [15/10/1421]
Quan Tổng binh Giao Chỉ
Phong thành hầu Lý Bân sai Đô Chỉ huy Vương Trung bắt được đầu đảng giặc Dương
Cung. Trước đây Cung tiếm xưng Vương, tụ tập đám đông làm loạn, quan quân truy
đánh, Cung chạy trốn không bắt được. Đến nay bắt người cậu là Đỗ Cô, sai chỉ
đường truy tới huyện Giáp Sơn [huyện Kinh Môn, Hải Dương], phủ Tân An thì bắt được; bèn cùm
giải đến Bắc Kinh.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
88)
Sử Việt bác bỏ chuyện Dương
Cung bị bắt. Căn cứ lời xác nhận của Tri huyện Dặc Khiêm rằng Lý Bân
muốn vừa lòng chiếu thư đòi hỏi bắt cho kỳ được Dương Cung; bèn gian
dối bắt Sinh viên Phạm Luận, buộc nhận là Dương Cung, rồi tống giải
về
kinh:
“Tổng binh Lý Bân và nội
quan Lý Lượng của nhà Minh bắt Phạm Luận là sinh viên huyện Giáp Sơn [phủ
Kinh Môn, Hải Dương], buộc
Luận mạo nhận là Dương Cung để cho qua chiếu lệnh lùng bắt, bắt đến cả gia
thuộc Luận là bọn Phạm Xã giải về Yên Kinh. Tri huyện Dặc Khiêm nhận thực không
phải là tên Cung. Bân không nghe. Khiêm lấy bao vàng dâng đại cáo, tâu thẳng về
Yên Kinh. Bân sai người chặn đường bắt về. Hoàng Phúc khuyên Khiêm rằng:
‘Mọi người đều cho là
đúng, chỉ riêng ngươi bảo không phải là làm sao?’.
Khiêm nói:
‘Ai ra ngoài mà chẳng phải
ra cửa ngõ?"(6) .
Bân cho giải cả
Khiêm và Luận về Yên Kinh, giao xuống cho pháp ty xét hỏi. Khiêm suýt nữa bị
tội, vì có người anh đánh trống đăng văn (7) khiếu oan nên được miễn tội. Sau
thăng dần đến chức Hữu bố chính sứ nước ta. Gia thuộc của Luận cuối cùng bị
chết trong
ngục.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 7b.
Về vấn đề kinh tế, với chủ
trương dùng tài nguyên thuộc địa nuôi quan quân cai trị; Lý Bân tâu xin
lập đồn điền cung cấp lương thực; y lưu ý lính bản xứ phần lớn
lưỡng lự hai lòng, nên bắt làm đồn điền ít tham gia chiến đấu:
“Ngày 29
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [28/6/1421].
Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân tâu rằng đất nội phụ Giao chỉ xa xôi, không dễ dàng vận chuyển lương thực; xin cho các ty, vệ, sở chia lính lập đồn điền để cung cấp. Hoạch định một phần căn cứ vào đất đai hiểm hay dễ, tình thế gấp hay hoãn để dùng quân đồn điền hoặc chinh điều nhiều hay ít. Quân lính người bản xứ tuy được liệt vào sổ binh, nhưng lúc đánh nhau còn lưỡng lự hai lòng, thường không liều chết; nay bàn định tỷ số đồn điền phần nhiều là lính bản xứ, quan quân ít.
Trong 7 vệ gồm Giao Châu
tả, Hữu, trung, tiền, cùng Trấn Di, Xương Giang, Thanh Hóa; hoạch định quan
quân 1 phần đồn điền, 9 phần chinh thủ; quân lính người bản xứ 7 phần đồn điền,
3 phần chinh điều. Hậu vệ Giao Châu, vệ Tam Giang, Thiên hộ sở Thị Cầu;
quan quân 2 phần đồn điền, 8 phần chinh thủ; lính bản xứ 8 phần đồn điền, 2
phần chinh điều. Mỗi người làm đồn điền hàng năm trưng thu 35 thạch lúa.
Ba vệ Nghệ An, Tân Bình,
Thuận Hóa quan quân đồn điền 3 phần, 7 phần chinh thủ; lính bản xứ 6 phần đồn
điền , 4 phần bị chinh điều. 3 Thiên Hộ sở tại Diễn Châu, Nam Tĩnh, Tân An; tất
cả quan quân không phụ trách đồn điền, quân bản xứ 3 phần đồn điền, 7 phần
chinh điều. Quân đồn điền hằng năm trưng thu 18 thạch lúa mỗi người. Lời tâu
được chấp nhận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 86)
Ty Bố chánh Giao Chỉ còn xin
triệu tập thương gia đổi muối lấy gạo; với mức đổi chác, tại miền
Bắc cao hơn miền Trung:
“Ngày 13
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [6/1/1422]
Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu
rằng lương thực dự trử không đủ, xin chuẩn cho quan phụ trách kho muối triệu
thương gia đến, đổi muối lấy thực phẩm. Theo thường lệ đổi muối lấy vàng, nay
tạm cho đổi lấy thực phẩm, chờ đến lúc có đủ lương thực thì đình chỉ. Bọn
Thượng thư Quách Tư bàn định như sau: Tại 4 phủ Giao Châu, Bắc Giang,
Lạng Giang, Tân An đổi 1 dẫn (8) muối lấy 4 đấu (9) gạo, hoặc 1 thạch (10) thóc. Tại 2 phủ Kiến Bình, Thanh
Hóa đổi 1 dẫn lấy 3 đấu 5 thăng gạo, hoặc 8 đấu 7 thăng lúa. Tại 2 phủ
Tân Bình và Nghệ An đổi 1 dẫn lấy 3 đấu gạo, hoặc 7 đấu 5 thăng thóc. Tại phủ
Thuận Hóa đổi mỗi dẫn 2 đấu 5 thăng gạo, qui ra lúa là 6 đấu 2 thăng. Được trên
chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
88)
Vẫn theo thông lệ hàng năm,
vào cuối năm Bình Định vương thứ 4, tức Vĩnh Lạc thứ 19 1921; Giao
Chỉ phải dâng nạp lụa quyên, sơn, cây thuốc tô mộc, chim thúy vũ,
quạt:
“Tháng 12
năm Vĩnh Lạc thứ 19 [1- 2/ 1422 ].
Giao Chỉ dâng lên triều
đình 1535 tấm lụa quyên, 2500 cân sơn, 4520 cân tô mộc , 2725 chim thúy vũ,
7535 quạt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
89)
Chú thích:
1. Bến Bổng: có lẽ nằm trên thượng
lưu sông Chu.
2. Mường Nanh: nay còn địa danh
Mường Nang, tức là xã Thịnh Nang, huyện Lang Chánh. Mường Nanh có lẽ là đất ấy.
3. Ba Lẫm: tên sách, có lẽ là
vùng Chiềng Lâm ở xã Điền Lư, thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
4. Quyên: Lụa mộc, lụa sống.
5. Tô mộc: Cây dùng làm thuốc Bắc
6. Ý chỉ mọi người đều bị
ngăn tại cửa ngõ, không cho tin tức lan ra.
7. Trống đăng văn: trống để ở
điện đình, ai có việc oan khuất thì đánh lên, trình bày nỗi oan để được xét
lại.
8. Dẫn: quy định đo lường của
Trung Quốc, dẫn không có trọng lượng nhất định, thông thường 1 dẫn bằng 200
cân; 1 cân Khố Bình bằng 0.596kg;
9. Ðấu: bằng 10 thăng.
10. Thạch: tức 10 đấu, hoặc 100
thăng, tương đương 103.55 lít.
Phong
thành hầu Lý Bân thay Anh quốc công Trương Phụ giữ chức Tổng binh Giao Chỉ
được 5 năm thì mất [1417-1422]; Vinh dương bá Trần Trí thay thế:
“Ngày 14
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 20 [5/2/1422].
Phong thành hầu Lý Bân
mất. Bân người châu Phượng Dương, cha là Tín lập quân công, quan đến Chỉ huy
Thiêm sự vệ Tế Châu. Khi Tín già, Bân thay chức.
Bân là người có trí lược,
khi Thiên tử bình nội nạn nhiều lần lập công, được thăng đến Hữu Quân Ðô đốc
Ðồng tri Phong thành hầu. Lúc đầu trấn thủ Giang Tây, chiến dịch Giao Chỉ làm
Tả Tham tướng, Khi Giao Chỉ bình, trở về nước đánh dẹp giặc Nụy, giữ Cam Túc có
công; sau đó trấn thủ Giao Chỉ, lo đánh dẹp bọn giặc làm loạn. Nay bị tật mất,
được ban tế; truy phong Mậu quốc công thụy Cương Nghị, cấp phương tiện đưa linh
cửu về tống tang.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 89)
Sử Việt chép rằng Bân bị ung
nhọt chết:
“Tháng 2 [21/2-22/3/1422], viên Tổng binh nhà Minh là Phong Thành hầu Lý Bân bị
bệnh nhọt chết.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 9a.
Nhắm ràng buộc dân ta bằng
văn hóa tư tưởng, năm Vĩnh Lạc thứ 14 [11/6/1416] cho lập hơn
200 ty Nho học, Đạo học, Phật học, tại các phủ, châu, huyện. Hàng năm
tiếp tục tăng đặt các ty, và cho người mang sách giáo khoa sang cung
cấp; năm nay lại cho thầy trò đến kinh đô tiến cống, và xin thêm các
sách như Ngũ Kinh, Tứ Thư, Tính Lý Đại Toàn, Vi Thiện Âm Chất:
“Ngày 4
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [24/5/1422]. Các thầy trò tại Giao Chỉ gồm các phủ
Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Trấn Man, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Tân An, cùng các châu
huyện trực thuộc đến kinh khuyết cống phương vật và xin ban các sách Ngũ Kinh, Tứ
Thư, Tính Lý Đại Toàn, Vi Thiện Âm Chất. Hoàng
Thái tử lệnh bộ Lễ ban cho.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 90)
Về lương thực, dù đã lập
đồn điền, bắt lính sản xuất lúa nuôi quân, nhưng vẫn không đủ cho nhu
cầu, nên Tham tướng Trần Trí xin cung cấp thêm gạo từ kho Quảng Đông. Y
tiết lộ rằng quan quân mỗi tháng dùng 57.700 thạch; mỗi thạch là 103
lít gạo, đủ nuôi 5 người; như vậy có thể ước tính số quan quân lúc
đó vào khoảng 300 ngàn tên [57.700 . 5 = 288.500]:
“Ngày 13
tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [29/8/1422]. Tham
tướng Giao Chỉ Vinh dương bá Trần Trí tâu lương tháng của quan quân lớn nhỏ tại
Đô ty Giao Chỉ, cùng bổng của các quan ty mỗi tháng gồm 57.700 thạch gạo; mỗi
năm tính ra hơn 692.400 thạch. Nay các phủ tại Giao Châu tồn kho không đủ; mà
lượng trử tại châu Khâm, Quảng Đông có đến hơn100.940 thạch, xin lệnh chuyển
vận cấp cho. Hoàng Thái tử chấp thuận.” ( Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 91)
Góp phần giải quyềt khó khăn
về lương thực, Thượng thư Hoàng Phúc đề nghị giảm lương quân lính yếu
đuối; cho các tội nhân nặng nhẹ nạp gạo chuộc tội, để cấp lương thực cho quân
lính:
“Ngày 14
tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [30/8/1422]. Ngày hôm
nay người nắm chức trông coi ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ, Thương thư Hoàng
Phúc tâu rằng:
‘ Giao Chỉ cách xa
vạn lý, lương thực phải tích trử rộng rãi an toàn mới mong vững yên, lại tuyển
luyện thêm sĩ tốt để làm mạnh uy vũ. Nay trong các vệ, không phân biệt kẻ khỏe
người yếu, đều chi lương bổng đồng đều; không những phí phạm mà lại còn không làm
phấn khởi sĩ khí. Nên giảm chi phí cho người già yếu, để tăng thêm cho người
khỏe mạnh.’
Lại tâu rằng:
‘Ðiều lệ mới ban ra những
người bị tội phạt roi, tội đồ, tội đày , hoặc phạm tạp tội bị xử tử cho đưa về
kinh đô công tác. Giao Chỉ đến kinh đô đường sá xa xôi hiểm trở; nếu tuân theo
lệ mới giải đi, sẽ bị chết dọc đường nhiều; xin cho các tội nặng nhẹ nạp gạo
chuộc tội, để tư cấp lương thực cho quân đội; công tư cả hai đều tiện.’
Hoàng Thái tử chấp thuận.”
( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2,
trang 91)
Những viên quan lại người bản
xứ như Đỗ Duy Trung, Trần Phong, đang tâm bóc lột đồng bào, vơ vét
vàng bạc đem triều cống; Tam Ty Giao Chi cũng không quên tiến cống
những sản phẩm quí hàng năm:
“Ngày 18
tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [3/9/1422]. Các Thổ
quan Giao Chỉ Hữu Tham chính Ðỗ Duy Trung coi giữ phủ Tam Giang, Tri phủ Phụng
Hóa Trần Thùy, con cố Tri phủ Giao Châu Ðỗ Hy Vọng tên Cự, Tri huyện Ðương Ðạo
Lương Quốc Phụ thuộc phủ Tuyên Hóa; tất cả gồm 27 người đến triều cống vàng,
bạc, khí mãnh, cùng sản vật địa phương. Hoàng Thái tử mệnh bộ Lễ ban yến ủy lạo.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 92)
“Ngày 27
tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 20 [10/12/1422]. Bọn Hữu
Tham chính phủ Giao Châu, Giao Chỉ, Ðô Chỉ huy Trần Phong cùng 83 người đến
triều đình tiến cống các vật như vàng, bạc, khí mãnh. Ban cho y phục trữ, lụa
là dệt kim, cùng tiền giấy, gấm, lụa nõn trong ngoài có phân biệt.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 93)
“Tháng 12
năm Vĩnh Lạc thứ 20 [14/12/1422-12/1/1423]. Giao Chỉ
dâng lên triều đình 1390 tấm lụa quyên (1) , 2800 cân sơn, 4800 cân tô
mộc (2), 2800
chim thúy vũ, 8430 quạt.” ( Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 94.
Giai đoạn này nghĩa quân Vua
Lê Lợi phải đương đầu với quân Minh và Ai Lao. Hai đạo quân đánh 2 mặt
trước sau; tuy nhiên nhà đã Vua thoát hiểm, lui về giữ sách Khôi. Rồi
bị đại binh quân Minh bao vây 4 mặt; nhưng nhờ tướng sĩ dốc lòng chiến
đấu, nên quân ta chiến thắng. Sau đó vào đầu năm Bình Định Vương thứ 6
[1423] Vua đem quân về đóng tại Chí Linh [huyện Lang Chánh, Thanh Hóa];
gặp lúc lương thực cạn kiệt, đành tạm hòa với địch:
“Ngày 21 tháng 12 [3/1/1423], Ai Lao đem quân đến Kiệt Mang dựng
trại kết trận, Thiếu úy là Lê Chích đánh lui.” Đại Việt
Thông Sử, Lê Quí Đôn, Đế Kỷ Đệ Nhất, trang 16a.
“ Mùa đông, tháng
12 [14/12/1422-12/1/1423],
vua tiến quân đóng ở Quan Da. Ai Lao lại ước hẹn với quân Minh
đánh vào trước mặt và sau lưng quân ta, nhiều người chết và bị thương. Vua bèn
bí mật lui về sách Khôi . Mới được 7 ngày, giặc Minh lại đem đại binh đến vây.
Vua bảo các tướng sĩ:
‘Giặc vây ta bốn mặt, có
muốn chạy cũng không có lối nào. Đây chính là "tử địa" mà binh pháp
đã nói, đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết’.
Vua nói xong chảy nước
mắt. Các tướng sĩ đều xúc động, tranh nhau liều chết quyết chiến. Bọn Lê Lĩnh,
Lê Vấn, Lê Hào, Lê Triện xông lên trước phá trận, chém được tham tướng Minh là
Phùng Quý và hơn nghìn thủ cấp giặc, bắt được trăm con ngựa. Mã Kỳ và Trần Trí
chỉ thoát được thân mình chạy về Đông Quan, quân Ai Lao cũng bỏ trốn. Vua đem
quân về đóng ở núi Chi Linh. Quân lính hết lương, hơn hai tháng, chỉ ăn rau củ
và măng tre mà thôi. Vua giết 4 con voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân
sĩ. Song thỉnh thoảng vẫn có kẻ bỏ trốn. Vua bèn cấm giữ nghiêm ngặt, bắt được
kẻ nào bỏ trốn thì chém, để rao cho mọi người biết. Quân lính lại nghiêm túc
như trước.
Bấy giờ, do trải nhiều
phen hoạn nạn, quân lính đã mỏi mệt, muốn được nghỉ ngơi, đều khuyên vua giảng
hòa với giặc. Vua bắt đắc dĩ phải vờ hòa hiếu với bọn tướng giặc Sơn Thọ, Mã
Kỳ, Trần Trí, để yên lòng quân. Sai bề tôi thân thích là bọn Lê Vận, Lê Trăn đi
giảng hòa.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 9b.
Quân Trung Từ Mệnh Tập (3) chép những văn kiện do danh thần Nguyễn Trãi soạn thay Vua Lê Lợi; trong đó có Thư xin hàng gửi cho bọn Trần Trí, Sơn Thọ, Phương Chính; do Lê Vận, Lê Trăn mang đi. Nội dung thư nhà Vua với thái độ hòa hoãn, viện cớ bị viên Tri huyện Đỗ Phú bức bách, bắt giết cả nhà, cả họ, nên dùng binh để trả thù riêng, chứ không muốn chống đối nhà Minh; nay xin mở đường đổi mới:
Thư xin hàng.
“Tôi nghe nói: “Sinh đời thái bình, ai chẳng được ở yên;
gặp đời thánh minh, ai chẳng được thỏa sống”. Nay tôi sinh đời bình, gặp thời
thịnh, mà lại thường phải than là mất chỗ ở yên là cớ làm sao? Trước vì tri
huyện Đỗ Phú (4) là
người đồng hương, cùng tôi có hiềm khích, nó đút lót Tham chính Lương
Nhữ Hốt, nói vu cho tôi khinh mạn quan trên, cậy mạnh mà chống lại mệnh trên,
nếu không trị trước, tất có lo sau. Nhữ Hốt báo với quan quản binh
cùng Nội quan Mã Kỳ nhân đó cho quan quân đến đánh úp bộ chúng tôi,
không kể trẻ già, đều bị chém giết bắt bớ; họ hàng tôi đều tan tác, vợ con tôi
đều chia lìa. Lại khai quật mồ mả tổ phụ tôi phơi bày hài cốt (sách Lam sơn kí chép: Năm
Mậu tuất (1418) vua khởi binh ở Lam Sơn, bọn Mã Kỳ nhà Minh đến bức, nhà vua
lui về đóng đồn ở Lạc Thủy, Đỗ Phú đưa bọn giặc đến đào hài cốt của đức Hoàng
khảo ở xứ Phật Hoàng; lại đi lén theo đường tắt để đánh úp phía sau nhà vua,
bắt gia thuộc nhà vua cùng vợ con của quân dân rất nhiều). Tôi không biết kêu đâu, tiến thoái đều
khó, bèn sai thân nhân đến Tam ty tạ tội, thì hai ba lần sứ đi đều bị giết, không ai được
về. Tôi không biết tính sao, đành phải chạy đi núp náu cho qua năm tháng, để
đợi quan trên xét soi. Sống tạm nơi rừng núi đã sáu năm trời, ngày cơm hai bữa,
chưa từng có bữa nào no. Song chim tinh vệ (5) lấp biển, há quản gian lao; kẻ
oan ức trả thù, cũng liều sống thác; nên tôi đem bộ chúng đến vây quê nhà Đỗ
Phú, bắt họ hàng làng xóm nó để hả lòng căm giận mà thôi, đâu dám có chí khác.
Nay nghe quan tổng binh [Tham tướng Trần Trí] là bực đức lớn ân rộng, tâm như
Đặng Vũ (6) dụ
địch, chính như Hoàng Bá (7) dạy
dân, thực là dịp cho tôi được đổi lỗi sửa mình. Vậy xin kính sai bọn anh họ là
Lê Vận dâng
thư đến viên môn [cửa quân],
giãi bày oan khổ, cúi xin đại nhân tha cho lỗi đã qua, mở cho đường đổi mới.
Nếu được rủ lòng khoan thứ, thật là ơn tạo hóa của trời đất vậy.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a1)
Ngoài Thư xin hàng nêu trên, còn gửi riêng 3 bức thư gửi cho 3 giới chức quan trọng trực tiếp đương đầu với nghĩa quân; đó là Vinh dương bá Trần Trí, Hoạn quan Sơn Thọ, Đô đốc Phương Chính. Thư gửi cho Tổng binh Trần Trí cùng quan phủ vệ Thanh Hóa nội dung xin dẹp bỏ binh đao, sẽ dốc lòng thành tín quy hàng:
“Thư cho Tổng binh [Tham tướng Trần Trí] cùng quan phủ vệ Thanh Hóa.
Phàm vật hễ mất cân bằng
thì kêu, cho nên làm cho người ta phải chịu oan khốc là bởi thiện ác không rõ
ràng, thực dối không phân biệt. Nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Triều
đình, chăn nuôi dân chúng, ví như cha mẹ nuôi con, ai cũng hết lòng thương yêu.
Nay tôi mang tội vô cô [oan, vô tội], ngậm tình oan khổ, đã không được
lượng trên thương xét, lại còn đem quân đến đánh, khiến nhân dân một phương
không được ở yên, đó tuy là tội của tôi, nhưng cũng do quan trên vỗ yên không
phải đạo vậy. Vả lại ghét chết thích sống, tránh nhọc tìm nhàn là thường tình
người ta. Nay tôi lìa quê hương mà trốn tránh, bỏ vườn ruộng mà không nhìn, kể
nông nỗi ấy, thực đáng xót thương! Thế mà Triều đình to lớn, thú mục hiền hành,
sao nỡ để tôi phải đến thế? Nay tôi chỉ trời xin thề, cùng chúng định ước, đem
lòng thành tín mà quy hàng, xin đấng quân phụ cho tái tạo. May ra nỗi oan được
rõ, lỗi trước được tha, cho tôi được hết lòng trung mà phụng sự Triều
đình, đó thực là điều tôi sở nguyện vậy. Ngày xưa Kê Khang (8) vô tội mà sau hết trung với Tấn,
Quan Vũ khỏi chết (9) mà
sau trả nghĩa cho Tào; tôi dẫu kém cỏi, dám đâu quên nghĩa ấy, xin hoặc cho đi
đánh Bắc để lập công, hoặc cho theo dẹp Tây để chuộc tội, dù chết cũng không
từ. Cuối xin soi xét tấc thành, khoan tha tội lỗi, thực may cho tôi lắm.”
(Quân Trung Từ Mệnh Tập, a2)
Trong đám quan lại nhà Minh
trực tiếp đối đầu với nghĩa quân, Thái giám Sơn Thọ tương đối hoà
hoãn; nên nhà Vua tỏ ra nhủn nhặn, xin chỉ bảo cho con đường sống còn, dân
chúng già trẻ sẽ vui mừng không xiết:
“Thư cho Thái giám Sơn Thọ.
Kể đạo trong thiên hạ,
trong không gì bằng trung nghĩa, quý không gì bằng danh tiết. Ghét chết thích
sống, tránh nhục tìm vinh, đó là thường tình của người ta. Tôi từ sinh ra,
thích danh tiết mà trọng trung nghĩa, ghét kẻ tiểu nhân mà dấn mình hoạn nạn, tuy
ở trong cảnh gian nan nguy hiểm, mà không nhụt chí bình sinh. Ngày đêm than
thở, trông vào hai trời [ tôn Sơn Thọ như trời, nên
gọi là hai trời] mà
kêu van. Nay nghe ngài mới ở Kinh sang, đã xét rõ duyên cớ mang tội, chỉ
bảo con đường sống còn, bộ chúng của tôi nghe ngóng, già trẻ vui mừng không
xiết. Cúi xin đem dân cả sách làm gia nô để khỏi bị huyện quan làm khổ. Vả cổ
nhân có nói: “Lấy thù trả thù, tai vạ không thôi!”. Nay Đỗ Phú vốn có cừu thù
với tôi, lại làm quan ở huyện tôi, vì thế mà tôi phải ly tán đào vong vậy. Nay
ngài đức kịp côn trùng, ân khắp thảo mộc, thu nạp những thứ nhơ nhớp, chiêu dụ
những kẻ bạn vong, có thể cho tôi được sửa lỗi tự tân, rửa lòng đổi dạ, để làm
dân đời thái bình, chính như chết mà sống lại, xương mà sinh thịt vậy.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a3)
Đô đốc Phương Chính vốn là viên tướng ham danh hiếu chiến. Thư cho y, nhà Vua phân tích lợi hại, việc binh thắng bại khôn lường; tốt hơn hết là cởi giáp nghỉ binh, an nhàn mà nhận hàng:
“Thư cho Phương Chính.
Tôi trộm nghĩ cái nỏ nặng
nghìn cân không vì con chuột nhắt mà nẩy máy. Nay ngài là bực danh tướng hiện
thời, lại đem quân hai nước (10) mà tranh thắng với kẻ thất phu,
có được chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ phong hầu; vạn nhất ngã thua, thì bốn
phương nhân thế mà chinh chiến không thôi, dẫu người cơ trí mà không giỏi lo
tính về sau, hối làm sao kịp? Chỉ e mua cười với đương thế, để chê cho đời sau,
tôi rất vì người lo ngại. Vì ngài tính kế ngay nay, không gì bằng cởi giáp nghỉ
binh, ngồi nhàn mà nhận hàng, đó là thượng sách. Thế tuy là may cho bọn tôi
cùng ngài, mà cũng là may lớn cho vạn dân thiên hạ vậy.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a4)
Bọn Trần Trí đánh lâu mà
không thắng, đã ngầm hưu chiến; nhưng Vua Thái Tông giáng trách nặng
nề, nên đành phải tuân lệnh, làm một hai cuộc hành quân cho có lệ:
“Ngày 8
tháng 12 năm Vĩnh lạc thứ 20 [ 21/12/1422 ].
Bọn giặc Lê Lợi làm loạn
tại Giao Chỉ đã lâu, nhưng chưa bắt được. Giáng sắc trách nặng nề bọn Vinh
dương bá Trần Trí.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2,
trang 93 )
Vào đầu năm Bình Định vương
thứ 6 [1423] Minh, Vĩnh Lạc thứ 21, nghĩa quân giao chiến với quân Minh
tại vùng Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, phía bắc Thanh Hóa:
“Ngày 21
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 21 [ 3/3/1423].
Tham tướng Giao Chỉ Vinh
dương bá Trần Trí đánh phản tặc Lê Lợi tại huyện Đông Lai [huyện
Lạc Sơn, Hòa Bình], châu
Ninh Hóa. Lợi thua bỏ trốn.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 94)
Đến tháng 4 Vua mang quân về
Lam Sơn; bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường đưa lương thực, nông cụ đến giao
hảo, Vua cũng tặng vàng bạc đáp lễ; nhưng sau đó quân địch bắt Sứ
giả Lê Trăn không cho về, nên Vua nỗi giận tuyệt giao:
“Mùa hạ, tháng 4, ngày 14 [23/5/1423], vua lại đem quân về Lam
Sơn [huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa]. Bọn tham tướng Trần Trí, nội quan Sơn Thọ nhà Minh đưa
biếu vua nhiều trâu ngựa, cá muối cùng thóc giống và nông cụ để dụ dỗ. Vua cũng
sai bọn Trăn đưa tặng vàng bạc để đáp lễ, nhưng vẫn bí mật phòng bị. Bọn Trí
biết ý định của vua bề ngoài giả cách thân thiện, nhưng bên trong thì ngầm mưu
đánh úp, liền bắt giữ bọn Trăn không cho về. Vua nổi giận, cắt đứt giảng hòa.
Các tướng sĩ cũng sôi sục căm thù, đều thề xin liều chết quyết chiến.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 10a.
Về lễ cống hàng năm tại Giao
Chỉ, bắt đầu từ năm Vĩnh Lạc thứ 14, ròng rã 8 năm trời, vào mỗi
tháng chạp đều đem cống; năm nay dâng lễ hậu hơn trước:
“Tháng 12
năm Vĩnh Lạc thứ 21 [ 2/1-31/1//1424 ].
Giao Chỉ dâng lên triều
đình 1747 tấm quyên, 3000 cân sơn, 5000 cân tô mộc, 3000 chim thúy vũ, 1 vạn
chiếc quạt. Sản vật được dâng lên từ năm Vĩnh Lạc thứ 14; hàng năm lúc thêm lúc
bớt, nhưng năm nay tăng nhiều hơn.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 96)
Vào tháng 7 năm Bình Định
vương thứ 7 Minh, (Vĩnh Lạc năm thứ 22) [26/7-23/8/1424], Vua Minh Thái
Tông mang quân lên phía bắc đánh tàn dư Mông Thát, trên đường về bị ốm
nặng rồi mất trong quân; đến đời Gia Tĩnh tôn xưng miếu hiệu là Thành
Tổ. Thái tử lên ngôi, niên hiệu Hồng Hy, miếu hiệu Nhân Tông; hứa đình
chỉ khai mỏ vàng, bạc tại An Nam:
“Mùa thu, tháng 7, vua Minh thân hành đi đánh giặc Hồ [Mông
Thát] , đem quân về
đến sông Du Mộc [Nội Mông] thì
ốm nặng, để di mệnh truyền ngôi cho hoàng thái tử. Ngày Tân Mão 18 [12/8/1424], vua Minh băng, nhưng giữ kín,
đưa về đến Yên Kinh mới phát tang, thọ 65 tuổi, táng ở Trường Lăng, miếu
hiệu Thành Tổ, tên thuỵ là Văn Hoàng Đế. Mùa thu, tháng 8, ngày 15 [7/9/1424], thái tử nhà Minh Cao Xí lên
ngôi, đổi niên hiệu là Hồng Hy, đại xá. Tờ chiếu viết:
‘….. Cho nên, ta trên tuân
lệnh theo di mệnh, dưới thể lòng mọi người, ngày 15 tháng 8 [7/9/1424] đã kính cáo trời đất, tông miếu,
xã tắc, lên ngôi hoàng đế, để đón phúc lớn của tông miếu, để nhờ mưu xa của
thánh thần. Nay nhân buổi mới lên ngôi, ban mệnh đổi mới, lấy sang năm làm năm
Hồng Hy thứ nhất, còn các việc nên làm, nêu rõ như sau: ‘Những việc như
lấy vàng bạc, tìm hương liệu ở Giao Chỉ đều đình chỉ hết. Các quan viên trong
ngoài sai đi trông coi, hạn trong 10 ngày phải lên đường về kinh, không được
kiếm cớ ở chậm lại mà ngược hại nhân dân. Ôi! vua tôi cùng một dạ, thương dân
cốt ở khoan hồng, thưởng phạt có phép thường, trị nước trước phải minh tín.
Những mong các hiền tài giúp việc văn võ, các quan chức giỏi giang trong ngoài
hết lòng trung trinh, giúp chỗ thiếu sót để nối nghiệp lớn. Cho nền quốc gia
hưng thịnh mãi mãi, để ban ân huệ tới khắp dân đen, để mở rộng phúc trị bình
cho mọi nơi trong cõi". Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 10b.
Khác với Vua cha; Nhân Tông
chủ trương hòa hoãn, muốn dùng chính sách xá tội, phong chức để
thuyết phục. Khi Trần Trí tâu vẫn còn dằng co giao tranh với Vua Lê Lợi;
ý Vua Nhân Tông muốn tìm các hoà hoãn, ban chiếu thư để chiêu dụ:
“Ngày 1
tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [23/9/1424]. Giao
Chỉ Tham tướng Vinh xương bá Trần Trí tâu rằng :
‘Giặc Lê Lợi chạy trốn sang Lão Qua; bị Lão Qua đuổi bèn
quay về huyện Côi, châu Ninh Hóa [tỉnh Hòa Bình]. Quan quân tiến đánh, viên Đầu
mục ngụy là bọn Phạm Ngưỡng đem trai, gái 1600 người ra hàng. Lê Lợi tuy nói
rằng sẽ đưa hơn 480 nam nữ ra hàng, nhưng rồi dừng lại tại huyện Nga Lạc, phủ
Thanh Hóa; lại nghe rằng vẫn không ngừng tiếp tục tạo khí giới; dối trá như
vậy, đáng mang quân đánh dẹp.’
Thiên tử sai mang sắc dụ
bọn Trí rằng:
‘Ngươi hãy ước tính mưu kế
giặc, trù hoạch đúng nên tiến hay chưa? Nhưng ta nghe rằng nguyên nhân gây ra
bọn giặc này, do quan ty nhũng nhiễu áp bức, bọn chúng cùng quẫn bất đắc dĩ gây
ra như vậy. Nay dùng phép đại xá để thiên hạ cùng đổi mới, đối với Giao Chỉ lại
càng tăng thêm sự khoan tuất. Nếu trong muôn một, lương tâm bọn giặc này chưa
mất hết, chúng có thể suy nghĩ sửa đổi. Nay nếu quan quân chưa tiến, thì mang
thư đến chiêu dụ, sẽ không hỏi đến lỗi xưa, lệnh cho về đất cũ an cư lạc
nghiệp. Nếu bọn này chấp mê không chịu ra, vẫn tiếp tục hành động như trước, thì hãy tâu đầy đủ sự thực, để có cách
khu xử khác.Nếu quan quân đã tiến, thế không thể dừng lại, phải hết sức cẩn
thận. Giặc âm mưu quỷ quyệt, dựa vào chổ hiểm đặt phục binh, hãy sử dụng thám
thính đằng xa để không lầm vào kế giặc. Lúc hành quân, phải ước thúc quân lính,
đừng nhiễu hại nhân dân.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 100 )
Gần nữa tháng sau, Vua Nhân
Tông sai Hoạn quan Sơn Thọ mang chiếu thư đến phủ dụ nhà Vua, hứa ban
chức Tri phủ Thanh Hóa. Sơn Thọ đoan chắc có thể phủ dụ được, vì năm
trước Vua Lê Lợi từng đích thân gửi thư cho Thọ xin giảng hòa:
“Ngày 13
tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [5/10/1424]. Sai trấn thủ Giao Chỉ Trung quan Sơn Thọ mang sắc
dụ Đầu mục Giao Chỉ Lê Lợi. Sắc rằng:
“Ngươi vốn là kẻ lương thiện, từ lâu có
lòng thành qui phụ. Nhưng quan ty cai trị không đúng cách, sinh ra nghi sợ; rồi
ẩn trốn nơi núi rừng, không toại chí nguyện. Nay sau khi đại xá, bỏ hết sai lầm
quá khứ, hàm chứa sự canh tân. Đặc cách sai người mang sắc dụ ban cho
ngươi chức Tri phủ Thanh Hóa, cai trị dân một quận. Hãy đến nhận chức ngay, để
đáp lại sự cứu xét đến lòng thành và bao dung đãi người của Trẫm.”
Sở dĩ có sắc dụ này, vì
Thọ tâu trước mặt Thiên tử rằng Lê Lợi và y hợp ý nhau, nay đến dụ sẽ trở về.
Thiên tử nói:
-Bọn giặc gian trá, ngươi không biết được; nếu bị lừa, đây
là dịp giúp cho thế giặc ngày một lớn, khó mà chế ngự.
Thọ khấu đầu tâu rằng:
- Nếu như thần dụ mà nó không quay về, thì tội thần đáng
vạn lần chết.
Bèn giáng sắc này.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 102)
Sau khi sai Sơn Thọ ban sắc cho
Vua Lê Lợi, Vua Minh ra lệnh bọn Trần Trí theo dõi tình hình rồi tâu
về:
“Ngày 4
tháng 11 năm Vĩnh lạc thứ 22 [ 24/11/1424 ]
Tham tướng Bảo định hầu
Mãnh Anh, Vinh dương bá Trần Trí tại Giao Chỉ tâu sự việc về Lê Lợi. Ban sắc
báo rằng:
“Đã ban sắc xá tội cho Lê Lợi, mệnh cho làm Tri phủ phủ
Thanh Hóa, lệnh Nội quan Sơn Thọ đến nơi hiểu dụ. Ý ta muốn đợi Sơn Thọ đến đó,
bọn ngươi xem tình hình tại chỗ như thế nào, cùng Sơn Thọ bàn bạc chu tất rồi
tâu về.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 105.
Bấy giờ Vua quan nhà Minh chú
tâm chờ đợi kết quả về giải pháp chiêu dụ, tỏ ra thụ động tiêu cực.
Ngược lại phía nghĩa quân, lợi dụng thời cơ vị Vua hiếu chiến Minh
Thái Tông mới mất, Vua kế vị lúng túng, bèn tích cực hoạt
động. Theo lời khuyên của Thiếu úy (11) Lê Chích, Bình định vương
chuyển quân sang Nghệ An; cùng lúc vào ngày 20 tháng 9 [12/10/1424] một
cánh quân hạ được đồn Đa Căng (12):
“ Vương đóng quân ở Lư sơn, nhóm họp các
tướng hỏi về sách lược tiến thủ, nên đánh thành nào trước. Thiếu úy Lê Chích
thưa:
‘Nghệ An là nơi hiểm yếu:
đất rộng, người đông, tôi đã từng qua lại Nghệ An, nên rất thông thuộc đường
đất. Nay ta nên trước hãy nên đánh lấy Trà Long, chiếm giữ bình định cho được
Nghệ An để làm chổ đất đứng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức lực, sau
sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ’
Vương khen là phải.
Liền đó kéo quân ra phía nam, đánh úp đồn Đa Căng: Lương Như Hốt, tham chính
bên Minh, thua chạy. Ta chém chết địch và bắt được của địch vô kể.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 13.
Cùng thời kỳ, Vua tiến quân
sang Nghệ An, chiến thắng tại Bồ Lạp (13) giết viên Đô chỉ huy Trần
Trung. Sử Trung Quốc công nhận Trần Trung tử trận vào ngày 15 tháng 9
[ 7/10/1424] tại Thanh Hóa, sự sai lầm về tên đất do bởi huyện Quì
Châu giáp Thanh Hóa, nhưng thực sự thuộc Nghệ An. Sau đó nhà Vua tiến
quân đến Trịnh Sơn thuộc huyện Con Cuông, phía nam châu Trà Lân do Tri
phủ Cầm Bành quản lãnh; cắt đứt tiếp viện từ thành Nghệ An với
châu này:
“Vua chọn đinh tráng, sửa khí giới, rèn bộ ngũ, chứa sẵn
lương khô, tiến thẳng vào Nghệ An. Khi qua núi Bồ Lạp thuộc châu Quỳ, thì gặp tên Chỉ huy
đồng tri nhà Minh là Sư Hựu cùng viên thổ quan là Tri phủ châu Trà Lân Cầm Bành
đem 5.000 quân đón ở phía trước, lại có các tướng Minh Trần Trí, Lý An, Phương
Chính, Thái Phúc đem quân tiếp đến uy hiếp mặt sau. Trời sắp tối, vua bèn phục
sẵn binh tướng trong rừng. Bọn Phương Chính đến, vua tung quân ra đánh. Quân
Minh tan vỡ lớn. Ta chém được Đô ty Trần Trung và hơn hai nghìn thủ cấp quân
giặc, bắt được hơn một trăm cổ ngựa. Quân Minh tháo chạy. Hôm sau, quân ta tiến
đến trang Trịnh Sơn (14) ,
châuTrà Lân (15),
gặp Sư Hựu ở đó, lại cả phá chúng, chém được thiên hộ Trương Bản và hơn nghìn
quân giặc. Hựu chỉ chạy thoát thân mình. Vua dẫn quân đến sách Mộc. Bọn Trần
Trí đuổi theo đến núi Trạm Hoàng, nhưng vì đã nhiều phen bị thua đau, không dám
tiến sâu, lui về giữ thành Nghệ An.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 13a.
Minh Thực
Lục chép trong trận giao tranh vào ngày 15 tháng 9, Đô chỉ
huy Trần Trung tử trận:
“Ngày 15 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 7/10/1424].
Ngày hôm nay Đô chỉ huy
Đồng tri Trần Trung tại Giao Chỉ, đánh giặc bị thiệt mạng.
Trung người đất Lâm Hoài,
xuất thân từ Phó Thiên hộ vệ Khoan Hà; thời Tĩnh Nạn có công được thăng chức
Chỉ huy Đồng tri vệ Tuy Đức. Rồi có tội bị đày làm lính tại Quảng Tây, bèn theo
quan Tổng binh đánh Giao Chỉ. Tại chợ Cá Chiêu , khiêng thuyền nhỏ vào sông,
đánh úp thủy trại của Lê Quý Ly, lại theo Hoành hải Tướng quân đánh thành Đa
Bang, liều thân leo lên thành, nên được phục chức Chỉ huy Đồng tri Tả vệ Giao
Châu. Trung cùng quan quân lập thành tích trong các trận tại ải Hàm Tử, các cửa
biển, những trận thủy chiến tại Yên Mô, Hải Dương, chém và bắt được rất nhiều.
Lại theo đại quân lập công đánh bại giặc tại Kỳ La, cửa biển Hà Hoa, núi Côn
Truyền; nơi mà bọn cha con giặc họ Lê, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Súy bị bắt, nên
được thăng chức Chỉ huy Đồng tri Giao Chỉ. Tiếp tục đánh tại châu Ðông Hồ bắt
được Đại tướng quân ngụy Ngô Trung. Đến nay bọn giặc Lê Lợi đánh phá Thanh Hóa,
Trung giao chiến bị trúng đạn tử trận. Được tin triều đình sai bộ Lễ chiếu theo
điển lệ cấp tuất rất hậu.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 103 )
Tháng 11 [21/11-20/12/1424], Vua
sai người chiêu dụ Cầm Bành tại thành Trà Lân, huyện Tương Dương, Nghệ
An; nhưng Bành không theo, bèn mang quân bao vây:
“Mùa đông, tháng 11, vua sai người
chiêu dụ Cầm Bành. Bành cự tuyệt không theo, mình hắn cùng với hơn ngàn quân
lên dựng rào lũy trên đỉnh núi để đón quân cứu viện. Vua đem quân tới bao vây.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13b.
Tháng chạp, Sơn Thọ đưa trả
lại Sứ giả Lê Trăn bị bắt năm ngoái, để cầu hòa. Tương kế tựu kế,
nhà Vua hồi đáp rằng muốn theo lời yêu cầu trở về Thanh Hóa nhận chức,
nhưng bị Cầm Bành chặn đường không về được. Phía Minh cho người sai
Cầm Bành giảng hòa; Cầm Bành thấy quân Minh không chịu yểm trợ, nên
đành ra hàng. Sau khi quân ta chiếm thành Trà Lân, Vua Lê Lợi vẫn không
chịu trở về Thanh Hóa; phía Minh viết rằng mắc mưu, bèn mang đại quân
ngược dòng sông Lam rửa hận. Quân Minh bị phục kích thua to tại Bồ
Ải, huyện Anh Sơn; bèn tháo chạy trở về thành Nghệ An:
“Tháng 12 [21/12/1424-19/1/1425], Sơn Thọ nhà Minh sai Nguyễn Sĩ đưa
trả Lê Trăn để cầu hòa. Bọn Phương Chính, Sơn Thọ đến Nghệ An, muốn cứu Cầm
Bành nhưng không dám tiến quân, bèn sai người đem thư xin vua giải vây cho
Bành. Bấy giờ, Cầm Bành cố thủ, vây đã hơn một tháng chưa lấy được, lại nghe
tin quân cứu viện tới. Vua gọi các tướng lên bảo rằng:
‘Cầm Bành đang nguy khốn, bọn Chính đáng lẽ phải cấp tốc
cứu viện, nay lại dùng dằng, hẳn là có ý lo sợ. Chi bằng ta giả cách cho hòa để
xem tình thế ra sao, tin đi tin lại mất hàng tuần hàng tháng, thì Cầm Bành lúc
ấy chắc đã bị bắt rồi’.
Vua bèn viết thư để trên bè cho thuận dòng trôi xuống.
Trong thư vua nói thác là vẫn muốn theo lời thỉnh cầu của họ, trở về Thanh Hóa.
Nhưng lại bị Cầm Bành chặn đường, nếu có lòng thương thì xin cho một người tạm
đến hòa giải để thông đường về. Bọn Chính nhận được thư, sai Trần Đức Nhị chạy
đến bảo Cầm Bành hòa giải, Cầm Bành biết là viện binh không đến, mở cửa thành
ra hàng, Châu Trà Lân đã dẹp yên. Vua ra lệnh cho quân rằng:
‘Cầm Bành đã đầu hàng, chớ
có mảy may xâm phạm, tha tội cho tất cả, không được giết một người nào’.
(Sau Cầm Bành mưu phản,
vua giết chết). Vua vỗ về an ủi các bộ lạc, khao thưởng các tù trưởng. Tuyển
chọn đinh tráng bổ sung quân ngũ được 5 nghìn người, thế quân càng mạnh.
Quân Minh nghe tin Cầm Bành đã hàng, liền quay lại đánh trại Trà Lân.
Vua lại đánh phá được. Vua muốn đánh thành Nghệ An, nhưng chưa biết tình
thế ra sao. Gặp khi vua Minh mới lên ngôi, sai nội quan Sơn Thọ dùng lời lẽ quỷ
quyệt để dụ dỗ vua. Vua biết dụng ý của chúng liền nói:
‘Giặc sai ngươi đến lừa
ta, ta nhân chỗ sơ hở của chúng mà lừa lại, chính là dịp này đây’.
Rồi lại trao đổi đi
lại với giặc, trinh sát tình hình của chúng để mưu đánh úp thành Nghệ An. Bọn
Thọ biết là mưu kế của chúng không đánh lừa nổi, mới lại đoạn tuyệt không cho
sứ đi lại nữa. Bấy giờ vua chấn chỉnh binh tượng, tiến quân bao vây thành Nghệ
An. Quân sắp đi, vừa lúc có tin báo quân Minh đã sắp đặt voi ngựa, thuyền bè,
tiến quân cả hai đường thủy và bộ, định ngày mai sẽ tới. Vua chia hơn 1.000
quân, cho bọn Lê Liệt đi đường tắt đóng giữ huyện Đỗ Gia (16). Vua đích thân chỉ huy đại quân
giữ chổ hiểm yếu để chúng. Được ba bốn hôm, quân Minh quả nhiên đến quán Lậu và
cửa Khả Lưu (17) ,
bày doanh trại ở hạ lưu. Vua ở thượng lưu, ban ngày dựng cờ đánh trống, ban đêm
thì đốt lửa sáng trưng. Nhưng ngầm sai binh tượng vượt sông, phục sẵn ở chổ
hiểm yếu. Trời gần sáng, giặc liền đem quân đến đánh dinh vua. Vua giả vờ rút
lui, dẫn giặc tới chổ có quân mai phục. Giặc không để ý, đem quân tiến vào sâu,
quân mai phục bốn mặt nổi dậy, xông ra đánh phá. Quân giặc bị chém đầu và chết
đuối tới hàng vạn tên. Hôm sau, giặc liền dựa vào thế núi, đắp hào lũy để ở,
không ra đánh nữa. Bấy giờ lương thực của giặc có rất nhiều mà quân của vua thì
không đủ lương ăn cho 10 ngày. Vua nói với tướng sĩ:
‘Giặc cậy có nhiều lương,
cố thủ để làm kế lâu dài, ta lương ít không thể cầm cự dài ngày với giặc’.
Rồi đốt cháy doanh
trại, ngược dòng sông giả cách trốn đi, nhưng lại ngầm đi đường tắt trở về, đợi
giặc đến thì đánh. Quân Minh cho là vua đã chạy, mừng lắm, bèn tiến quân vào đóng
ở doanh trại cũ của vua, lên núi đắp lũy. Ngày hôm sau, vua cho quân tinh nhuệ
ra khiêu chiến. Giặc đem quân ra ngoài lũy để đánh. Vua phục sẵn ở Bồ Ải [huyện
Anh Sơn, tỉnh Nghệ An] (18),
giữa nơi hiểm yếu. Giặc lại không ngờ tới, đem hết quân ra đánh. Vua bèn
tung phục binh xông vào trận giặc. Bọn Lê Sát, Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê
Ngân, Lê Chiến, Lê Tông Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê Văn An tranh nhau nên trước
phá quân giặc, chém đầu giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn ngang,
xác chết đuối nghẹn tắc khúc sông, khí giới vứt đầy cả rừng núi. Ta bắt sống Đô
ty Chu Kiệt, chém tướng tiền phong là Đô ty Hoành Thành, bắt sống hàng nghìn
tên giặc. Trần Trí, Sơn Thọ thu nhặt tàn quân chạy về thành Nghệ An. Vua thừa
thắng đuồi dài suốt 3 ngày, đến tận dưới chân thành. Bọn Trí vào thành cố thủ.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13b.
Thua trận tại Nghệ An triều
đình nhà Minh qui tội cho Trần Trí, Phương Chính, Sư Hựu, Trương Hùng;
nhưng xét Chính là một dõng tướng, nên vẫn lưu giữ chức. Sử Việt
chép về việc này như sau:
Nhà Minh sai Cẩm y
vệ xá nhân sang bắt bọn Phương Chính và Sư Hựu về kinh, vì bị thua trận ở châu
Trà Lân. Hựu đi đến giữa đường uống thuốc độc chết, Phương Chính vẫn được làm
Đô đốc đồng tri, gia chức Tham tướng.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 13b.
Riêng quân Minh tại thành Nghệ
An, sau khi thất trận tại Bồ Ải thuộc huyện Anh Sơn; hoàn toàn bị
cắt đứt với châu Trà Lân thuộc huyện Tương Dương phía bắc, nên không
rõ việc châu Trà Lân đã mất. Nên trong chỉ dụ giáng trách, chỉ đàn
hặc Trần Trí, Phương Chính tội đánh chậm nuôi dưỡng giặc mà thôi:
“Ngày 19 tháng giêng năm Hồng Hy thứ
nhất [7/2/1425]
Giáng sắc khiển trách nặng
nề Tham tướng Giao Chỉ Vinh xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính tội đánh
chậm dưỡng giặc; lệnh sửa đổi sai lầm, tự phấn đấu. Lại mệnh cùm giải Đô chỉ
huy Sư Hữu, Trương Hùng về kinh đô giam cấm; thể theo lời Giám sát Ngự sử, hặc
tội bọn này tham bạo làm sai luật rất nhiều.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 108)
Sau khi thua trận Bồ Ải tại
huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; bọn Phương Chính chần chừ không dám ngược
dòng sông Lam tiến công, Vua bèn gửi thư khiêu khích:
“Thư trả lời Phương Chính.
Bảo cho mày ngược tặc
Phương Chính: Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của. Nay
bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không
xót thương, việc ấy trời đất không dung, người mà đều giận, cho nên liền năm
chinh phạt, hằng đánh hằng thua. Thế mà không biết trước tự cải quá, lại còn
bới bẩn cho thêm thối, hối sao cho kịp được! Huống chi bây giờ nước mùa xuân
mới sinh, lam chướng bốc độc, thế không thể chịu lâu được. Nay mày chỉ nắm đại
binh mà nấn ná không tiến, khiến quân lính nhiễm lam chướng dịch lệ mà chết, đó
là tội ai? Binh pháp có nói; “Kẻ nhân giả lấy yếu chế mạnh, kẻ nghĩa giả lấy ít
địch nhiều”. Nay mày muốn đánh, thì nên tiến quân giao chiến, để quyết sống
mái, đừng làm khổ cho quân sĩ hai nước làm gì.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a5)
Phương Chính nhận được thư,
đòi Vua Lê mang quân về miền xuôi, chọn chỗ đánh nhau tại vùng đồng
bằng đất phẳng; nên có thư trả lời sau đây:
“Lại thư trả lời Phương Chính
. Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính:
Kể người dùng binh giỏi thì không có đâu là hiểm, đâu là không hiểm, không có
đâu là dễ, đâu là không dễ. Thắng hay phụ ở tướng, chứ không ở đất hiểm hay dễ.
Vào chỗ hiểm mà đánh nhau không khác gì hai con hổ đánh nhau ở trong thung
lũng, giỏi thì được, vụng thì thua. Bởi vậy, đất không có bình thường nhất
định, trận không có thế thường nhất định. Mày nếu không lui, thì phải đem binh
ra mà quyết chiến thôi.” (Quân Trung
Từ Mệnh Tập, a6)
Bấy giờ Hoạn quan Mã Kỳ tung
tin rằng y lại được đưa sang An Nam lấy vàng, bạc, châu báu. Sử Trung
Quốc chép thêm rằng ý Vua Nhân Tông không muốn cho y sang, nhưng lại
không nói thẳng ra:
“Nhà Minh ra lệnh cho bọn Mã Kỳ lại sang lấy vàng bạc,
châu báu và hương liệu.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 15b.
“Ngày 9 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [
29/11/1424 ]
Thiên tử dụ Hàn lâm viện
về việc Nội quan Mã Kỳ tung tin lại được sang Giao Chỉ quản lý vàng, bạc, trân
châu, hương liệu. Lúc bấy giờ Kỳ mới bị triệu về chưa được bao lâu, Hàn lâm
viện lại tâu về việc Mã Kỳ được chấp thuận sang lần nữa; Thiên tử nghiêm mặt
nói:
“Trẫm làm sao có thể nói
chấp thuận cho y sang! Y trước đây tại Giao Chỉ làm hại quân dân, từ đó dân
theo về một phía để mong cởi bỏ sự khốn khổ; vậy làm sao còn sai đi! Nếu Trẫm
sai đi thì không những chiếu thư không còn được tin tưởng nữa, mà lại làm hỏng
cả việc lớn. Y gần đây ở trong cung, cầu xin trăm cách; bọn tả hữu đều tâu cho
y sang lần nữa sẽ có lợi cho nước; Trẫm không đáp. Các khanh phải hiểu Trẫm ý.”
Do đó lệnh được hủy bỏ.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 106)
Lúc Vua Nhân Tông lên ngôi,
thấy Hoàng Phúc tuổi cao, lâu năm khó nhọc nơi cõi ngoài; bèn ban
chiếu chỉ gọi về nước:
“Ngày 3
tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [
25/9/1424]
Thượng thư bộ Công Hoàng
Phúc, cầm đầu ty Bố chánh và Án sát Giao Chỉ, được triệu về. Sắc rằng:
“ Khanh là bậc lão thành của đất nước,
khó nhọc nơi cõi ngoài, Trẫm nghĩ đến không quên, muốn được gặp khanh ngay.
Khanh hãy về kinh đô mau, để đáp ứng sự chờ đợi. Sắc Tham tán quân vụ Thượng
thư bộ Binh Trần Hiệp thay Hoàng Phúc cầm đầu hai ty Bố chánh, Án sát; vẫn kiêm
Tham tán quân vụ. (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 101)
Sử Việt cũng chép tương tự:
“Nhà Minh cho gọi Công bộ thượng thư nắm việc hai ty Bố
chính và Án sát ở Giao Chỉ là Hoàng Phúc về nước. Tờ sắc viết: "Khanh là
bậc lão thành của nước, khó nhọc lâu ở ngoài, trẫm mong nhớ khôn khuây, muốn
được trông thấy mặt ngay. Thấy sắc tới thì khanh đi trạm mau về kinh để thỏa
lòng trẫm mong đợi. Còn vợ con thì sai phu trạm đưa về sau". Nhà Minh lấy
Binh bộ thượng thư Trần Hiệp sang trấn giữ, kiêm coi việc hai ty Bố chính, Án
sát và giúp đỡ việc quân chính cho tổng nhung.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 12a.
Ngoài cuộc khởi nghĩa của
Vua Lê Lợi; trong năm Bình Định Vương thứ 7 [1424], tại huyện Lục Ngạn,
Bắc Giang Đinh Sĩ Nguyên nỗi lên đánh phá; Vinh dương bá Trần Trí sai
tướng đánh bắt:
“Ngày 1
tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 1/3/1424 ]
Giặc Giao Chỉ Ðinh Sĩ
Nghiêm tụ tập đám đông cướp phá huyện Lục Na huyện Lục Ngạn, Bắc
Giang. Tham tướng Vinh Dương bá Trần Trí sai hữu vệ Giao Châu Chỉ huy Thiêm sự
Trần Lân mang binh đánh, bắt được.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 101)
Năm này các quan lại Trung
Quốc và cả người Việt cống các sản vật quí sang nhà Minh, chiếu
theo thời gian xin liệt kê các văn bản như sau:
“Ngày 23
tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 22/4/1424 ]
Bọn Nguyễn Tông Dương, Tri
huyện An Ninh, Giao Chỉ cống vật dụng bằng bạc, lụa quyên của dân bản xứ. Ban
cho áo lụa, cùng tiền giấy, lụa nõn trong ngoài có sai biệt.”
(Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2,
trang 96)
“Ngày 17 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 9/9/1424 ]
Bọn Phán quan Triệu Phúc
Năng thuộc châu Thất Nguyên, Giao Chỉ cống ngựa. Ban cho tiền và lụa có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 98)
“Ngày 3
tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [ 25/9/1424 ]
Tham tướng Giao Chỉ Vinh
dương bá Trần Trí cống hươu đen.” (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 100)
“Ngày 17 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [ 7/11/1424 ]
Bọn Thổ quan Hoàng đình
Mãn tại các huyện như Thanh Oai thuộc Giao Chỉ, cống sản vật địa phương. Ban cho
tiền giấy có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 105)
Chú thích
1.Quyên: Lụa mộc, lụa sống.
2.Tô mộc: Cây dùng làm thuốc Bắc.
3.Quân Trung
Từ Mệnh Tập là tác phẩm tập hợp những văn thư do danh thần
Nguyễn Trãi soạn thay Vua Lê Lợi. Nội dung phần lớn là những thư từ
giao dịch với tướng lãnh nhà Minh. Tư liệu lấy từ trang mạng Dựng
Nước, Giữ Nước. Trang mạng này sưu tầm từ 2 nguồn,
gồm:
-46 bài trong Nguyễn
Trãi Toàn Tập; khi trích dẫn chúng tôi đánh số từ a1 đến a46.
-23 bài do học giả Trần Văn
Giáp mới phát hiện, lúc sử dụng đánh số từ b1 đến b23.
4.Đỗ Phú người Hào Lương ở gần
Lam Sơn, là một tay sai đắc lực của quân Minh. Hắn giữ chức Tri huyện, đã dẫn
đường đưa quân Minh theo lối tắt đánh lên đánh úp nghĩa quân, lùng bắt gia
thuộc của Lê Lợi và của nhiều nghĩa quân, quật mồ mả tổ tiên của Lê Lợi.
5.Tinh vệ là một loài chim ở bờ
biển. Tương truyền rằng: con vua Viêm Đế ngày xưa bị chết đuổi ở bờ biển hóa
thành chim tinh vệ hay còn gọi là “chim oan” (oan cầm). Chim ấy cứ cắp gỗ đá ở
núi Tây về lấp biển. Vì vậy, “chim tinh vệ lấp biển” có ý nghĩa ví với người bị
oan ức, quyết tâm trả thù.
6.Đặng Vũ: Thời Hậu hán, quân
nỗi dậy Xích Mi vào cửa quan, định đánh phá Trường An, bọn Vương Khuông chống
cự không nổi. Vua Quang Vũ lấy Đặng Vũ làm tiền tướng quân đi đánh Xích Mi.
Đặng Vũ hết sức dụ dỗ, chiêu hàng được một số quân Xích Mi.
7.Hoàng Bá giữ chức Thái thú đời
Hán được coi là người khoan hòa, nhân chính.
8. Kê Khang (có lẽ là Kê
Thiêu con Kê Khang). Tấn Vũ đế với Kê Thiệu cho làm Bí thư lang. Sau Triệu
Vương Luân cướp ngôi Vua, cho Thiệu làm Thị trung. Đến lúc Huệ đế lại về làm
Vua, Thiệu vẫn giữ chức ấy. Khoảng niên hiệu Vĩnh Hưng, bọn Hà gian vương khởi
binh, Thiệu theo Vua đi đánh ở Đãng Âm, thị vệ tan chạy, duy Thiệu lấy thân che
đỡ cho Vua, không may bị hại ở cạnh Vua, máu bắn vào áo Vua. Khi việc đã yên,
tả hữu muốn giặt áo Vua, Vua bảo rằng: “Đây là máu trung của Kê Thị trung, đừng
giặt”.
9.Quan Vũ: Thời Tam quốc, Quan Vũ
theo Lưu Bị,, khi giữ Hạ Bì, bị Tào Tháo bắt được, Tháo đối đãi rất hậu cho làm
Thiên tướng quân. Sau Viên Thiệu đánh Tháo, Vũ chém dũng tướng của Thiệu là
Nhan Lương để báo ơn Tháo, rồi chạy về với Lưu Bị. Sau Tháo bị thua trận Xích
Bích chạy đến Hoa Dung, gặp Vũ chặn đón ở đấy, Tháo bảo Vũ rằng việc Vũ qua năm
cửa quan chém sáu tướng của Tào để đi thoát thì chưa thấy báo. Vũ bèn quay ngựa
về, nhờ vậy Tháo chạy được thoát.
10.Quân hai nước ở đây là quân
Minh người Trung quốc và ngụy binh người nước ta do nhà Minh tổ chức để đàn áp
nghĩa binh.
11.Thiếu úy: Một chức
quan võ cao cấp hồi đầu Lê.
12.Đồn Đa Căng: có lẽ là Bất
Căng, thuộc xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Đồn này nằm
trên hữu ngạn sông Chu.
13.Bồ Lạp: là tên núi, cũng gọi
là Bồ Cứ, Bồ Đằng, là một ngọn núi ở xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ
An. Nhân dân địa phương thường gọi là Bù Đờn và phía đông bắc có một bản nhỏ
gọi là Bản Liệp. Vùng này nay thuộc xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
14.Trang Trịnh Sơn: là Kẻ
Trịnh, nay thuộc xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông, cách thành Trà Lân (hay Trà
Long) hơn 10 km.
15.Châu Trà Lân: hay Trà Long, là
đất huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh Nghệ An ngày nay, đời Trần là đất Mật
Châu, đời Nguyễn gọi là phủ Tương Dương.
16. Đỗ Gia: nay là đất huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; tại nơi này có làng Đỗ Xá, có lẽ là nơi đóng quân của
Lê Liệt.
17. Khả Lưu: là tên một cửa ải
xưa, ở phía bắc sông Lam, thuộc xã Vĩnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
18. Bồ Ải: Là một địa điểm ở về
phía trên ải Khả Lưu, cách Khả Lưu không xa. Hiện nay, ở xã Đức Sơn, huyện Anh
Sơn, tỉnh Nghệ An có khe Ải đổ ra sông Lam và ngọn núi thấp ở đây cũng có người
gọi là Bù Ải; có lẽ đó là Bồ Ải xưa kia.
Sau
chiến thắng Bồ Ải tại huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; vào tháng giêng
năm Bình Định vương thứ 8 [1425], Vua Lê Lợi điều quân xuôi dòng sông
Lam, đến các huyện Thanh Chương, Nam Đàn; được dân chúng đón tiếp,
nhiệt tình ủng hộ. Lại nhân Cầm Quí Tri Phủ Ngọc Ma (1) qui thuận,
nhân dân tình nguyện góp sức đánh thành; nhà Vua mang quân vây
thành Nghệ An (2):
“Vương kéo
quân đến Đa Lôi thuộc huyện Thổ Du [Thanh Chương, Nghệ An]. Trẻ
già đua nhau đem rượu và trâu bò đến đón tiếp khao quân. Họ nói: "Không ngờ
ngày nay lại được trông thấy oai nghi cố quốc". Cầm Quý, tri phủ Ngọc Ma,
đem quân và voi đến quy thuận, được Vương phong làm Thái úy. Vương ra lệnh rằng:
‘Bấy lâu dân bị đau khổ vì chính
sự bạo ngược. Bây giờ hễ trẩy đến đâu, quân sĩ không được động chạm tơ hào của
dân chúng. Trâu bò thóc lúa nếu không phải là của tàng trữ của người Minh thì
không được lấy’.
Bấy giờ Vương mới chia
quân đi lấy các đất đai. Quân trẩy đến đâu, có nhiều châu, nhiều huyện đầu
hàng, người ta đều tình nguyện xin góp sức đánh thành Nghệ An. Vương lựa lấy số
quân tinh nhuệ thẳng kéo đến chân thành này. Ngưòi Minh đóng chặt cửa thành cố
giữ, không dám thò ra. Vương dạy bảo các tướng sĩ sửa sang khí giới, chuẩn bị để
đánh thành.” Cương
Mục, Chính Biên, quyển 13.
Thừa dịp Lý An mang quân từ
thành Đông Đô vào cứu, Vinh Dương bá Trần Trí bèn hợp quân ra đánh,
bị phục kích tại Tam Soa thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Sau đó Trần
Trí trở về Đông Đô, Lý An ở lại giữ thành:
“Vừa đầy hai
tuần [20 ngày] , chiến cụ xong xuôi đầy
đủ. Bấy giờ tham tướng Minh, Lý An, từ Đông Quan vượt biển vào cứu; bọn Trần
Trí hợp quân lại, xông ra chiến đấu. Vương đặt quân phục ở cửa sông Đỗ Gia [Ngã
ba Tam Soa, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh], cả phá được địch: Trần
Trí chạy về Đông Quan; bọn Lý An rút vào thành, liều chết cố giữ.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 13.
Tháng 5, Tư không Đinh Lễ đi
tuần Diễn Châu, Nghệ An; Trương Hùng, mang thuyền lương đến tiếp tế, bị
đánh bại. Hùng thua chạy về Tây Đô, Thanh Hóa; Vua cho thêm quân đi đánh:
“Vương sai
Đinh Lễ đi tuần Diễn Châu. Khi kéo quân đến gần thành, Lễ đặt quân mai phục. Bấy
giờ đô ti Minh, Trương Hùng đem ba trăm thuyền lương thực từ Đông Quan đến.
Trong thành Diễn Châu kéo ra đón lương thực: gặp phục binh nổi dậy, chúng đều
thua chạy. Đinh Lễ cướp được thuyền lương, rồi đuổi Hùng đến tận Tây Đô. Vương
được tin thắng trận, liền tuyển quân và voi, sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú kế
theo, đi tiếp ứng cho Đinh Lễ. Cánh nghĩa quân này đi đến đâu cũng không có sức
gì ngăn cản được cả. Họ tiến sát đến Tây Đô. Người Minh đóng chặt cửa thành, liều
chết cố giữ. Đối với cư dân ở ngoài thành, các tướng Đinh Lễ đến chiêu an vỗ về.
Bấy giờ những người Thanh Hóa tranh nhau đến cửa trại quân, xin đầu hàng. Bọn Lễ
bèn bao vây lấy thành.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.
Tháng 7, Vua sai Tư đồ Trần
Nguyên Hãn và Thượng tướng Lê Nỗ đi tuần các xứ Tân Bình [Quảng Bình] và
Thuận Hóa [Quảng Trị, Thừa Thiên]; đều đánh hạ được cả mấy xứ này:
“Vương liệu
trước rằng Tân Bình, Thuận Hóa bị đứt liên lạc với Nghệ An và Đông Đô đã từ
lâu, bèn dụ bảo các tướng:
‘Người giỏi chiến trận thường
bỏ chỗ kiên cố, đánh chỗ sơ hở, tránh chỗ vững chắc, đánh vào chỗ trống rỗng;
như thế thì chỉ dùng sức một phần mà thành công gấp bội’.
Vương bèn sai tư đồ Trần
Hãn và thượng tướng Lê Nỗ đem hơn nghìn quân đi đánh giặc và vỗ về nhân dân.
Khi đến Bố Chính, gặp tướng Minh, Nhậm Năng, bọn Hãn giữ chỗ hiểm yếu, đặt quân
phục, rồi tìm kế nhử địch. Tên Năng lùa hết quân tiến lên. Phục binh nổi dậy,
đánh khép lại: quân Minh thua vỡ tan tành, bị chém và bị bắt rất nhiều.
Trước đó, Vương sai bọn Lê
Ngân đem bảy mươi chiếc chiến thuyền từ Nghệ An vượt biển vào hội quân với các
tướng Trần Hãn để tiễu giặc. Đến đây, các đạo quân ấy tề tựu đông đủ, quân thủy
và quân bộ cùng tiếp ứng nhau, tấn công hai thành Tân Bình và Thuận Hóa, đều hạ
được cả. Quân ta trẩy đến đâu, quân và dân ở đó đều ra hàng. Trần Hãn lựa lấy
vài vạn người tinh nhuệ để bổ sung quân đội, rồi đặt quan trấn thủ, còn mình
thì kéo quân về. Các tướng tôn Bình Định vương lên làm "Đại Thiên hành hóa" (3) . Từ
đó về sau, phàm có bảng văn niêm yết những lời cáo dụ đều nêu trên đầu là
"Đại Thiên hành hóa.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 13.
Về phía nhà Minh, sau khi
giáng sắc khiển trách nặng nề Tham tướng Vinh xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương
Chính đánh chậm, tỏ ra bất lực trong việc bình định; 2 tháng sau,
Vua Nhân Tông bèn cử Tham tướng Lý An sang An Nam phụ tá cho Trần Trí:
“Ngày 21
tháng 3 năm Hồng Hy thứ nhất [ 9/4/1425 ]
Mệnh An bình bá Lý An làm
Tham tướng đến Giao Chỉ cùng với Vinh dương bá Trần Trí coi việc quân. Ban sắc
khuyến khích rằng:
“ Cha ngươi đạt rõ đạo lý, cẩn
thận hành động, tận trung với quốc gia, Trẫm chưa từng quên. Ngươi biết tự lập,
nối chí của cha, mọi việc trong quân lữ đều thông hiểu cơ sự, Trẫm từng khen.
Nay đặc cách giao ngươi một phương; hãy thận trọng, tận tâm, bày mưu công hiệu,
thành đạt công nghiệp; ngõ hầu làm rạng danh cha ngươi, và không phụ sự ủy nhiệm
của Trẫm. Khâm tai!” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
110)
Vào tháng 5 Vua Nhân Tông ốm
nặng, ngày hôm sau [29/5/1425] thì mất, truyền ngôi cho con Tuyên Tông,
chọn năm sau [1426] là Tuyên Đức năm thứ nhất:
“Tháng 5
ngày Canh Thìn [28/5/1425] Vua không khỏe; bèn
sai sứ triệu Hoàng thái tử tại Nam Kinh. Ngày Tân Tỵ [29/5/1425], bệnh
nguy, di chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử; ngày hôm đó mất tại
điện Khâm An, hưởng thọ 48 tuổi.” Minh Sử, quyển 8.
五月。庚辰,帝不豫,遣使召皇太子於南京。辛巳,大漸,遺詔傳位皇太子。是日,崩於欽安殿,年四十有八。
Tổng binh Vinh Dương bá Trần
Trí, viên tướng vốn bị triều đình nhà Minh khiển trách là nhút
nhát; sau khi thất trận tại Bồ Ải, nằm trốn trong thành Nghệ An,
thừa dịp Lý An mang quân vào cứu, bèn rút về thành Đông Đô. Y không
biết sự kiện Cầm Bành đã đầu hàng, lại tâu xin quân cứu viện.
Bấy giờ Vua Tuyên Tông mới lên ngôi, trong hoàn cảnh tang gia bối rối,
chỉ biết ra lệnh nếu như thấy Lê Lợi không có bụng quy thuận thì tìm cánh
đánh bắt, và phát binh tiếp viện Cầm Bành:
“Ngày 16
tháng 7 nhuần năm Hồng Hy thứ nhất [ 29/8/1425 ]
Tuần án, Giám sát, Ngự sử
Giao Chỉ tâu đầu đảng giặc Lê Lợi tại phủ Thanh Hóa tụ dân làm loạn vây châu
Trà Lung [Long]. Viên Thổ quan coi châu Tri phủ Cầm Bành chống giữ trong vòng
7 tháng, lương gần hết, quân gặp nguy khốn, xin mang binh cứu viện.
Thiên tử xem tờ tâu bùi ngùi
sắc dụ Vinh xương bá Trần Trí cùng ba ty (4) tại Giao Chỉ rằng:
‘ Triều đình mệnh các
ngươi trấn thủ Giao Chỉ là để yên ổn một phương; nay được biết bọn đầu đảng Lê
Lợi cướp phá châu huyện, ngăn cắt đường sá. Các ngươi mới đây tâu rằng đã chiêu
dụ Lê Lợi xin đợi mùa thu mát đến Thanh Hóa nhậm chức. Nay đã mùa thu rồi, thực
sự Lợi đã đến nhậm chức chưa? Trẫm ước tính tên giặc này ngụy trá, không có
lòng qui thuận; chỉ dùng lời lẽ hoãn binh để bọn chúng được thung dung tụ tập,
tương lai tất gây hậu hoạn, các ngươi không suy nghĩ đến hay sao? Về việc Thổ
quan Tri phủ Cầm Bành tại châu Trà Lung [Long] bị Lợi
đánh vây 7 tháng nay rồi, lương thảo sắp hết, quân chết đến một phần ba, Bành vẫn
kiên thủ cự địch, Giao Chỉ có được người như vậy cũng không dễ kiếm! Các ngươi
từng chứng kiến lòng trung thành của con người này, sao không điều binh cứu viện?
Khi sắc dụ đên nơi, như thấy
Lê Lợi không có bụng quy thuận hãy tìm cánh đánh bắt. Gấp phát binh tiếp viện Cầm
Bành, vỗ về hậu hỷ, để bồi dưỡng lòng kiên cường trung thuận. Các ngươi đều là
đại thần của triều đình, cần đồng tâm hiệp lực làm tròn ủy nhiệm, đừng lo việc
ban thưởng phong tước không được công bằng!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 108)
Mấy tháng sau Thượng thư Trần
Hiệp tâu lên được một phần sự thực rằng: Thành Trà Long đã thất thủ,
Cầm Quí tại châu Ngọc Ma đầu hàng, Lê Lợi không chịu về Thanh Hóa
nhậm chức, lại sai người đánh Diễn Châu. Vua Tuyên Tông tức giận bắt
Trần Trí, Phương Chính cố đánh; nếu mùa xuân tới không có tin chiến thắng
báo về, sẽ bị qui tội:
“Ngày 26
tháng 11 năm Hồng hy thứ nhất [ 5/1/
1426]
Tổng cai quản ty Bố chánh, Án
sát Giao Chỉ Thượng thư Trần Hiệp tâu rằng cầm đầu giặc Lê Lợi tuy xin hàng;
nhưng thực chất hai lòng, chiêu dụ tụ tập đảng nghich kháng cự quan binh, đánh
vây châu Trà Lung [Long], giết Tri châu Cầm Bành, ngầm liên kết với viên Thổ
quan châu Ngọc Ma Cầm Quí, cùng Tù trưởng Lão Qua để gây ác. Thái giám Sơn Thọ
ban sắc, xá tội cho Lợi, ban chức Tri phủ Thanh Hóa, Lợi xin đến mùa thu mát đến
nhậm chức; nay lại tâu vốn kết oán với Tham chính Lương Nhữ Hốt, nên xin bỏ chức
Tri phủ để coi châu Trà Lung.Gần đây người Diễn Châu phần đông theo Lợi làm loạn;
Lợi lại sai bọn tay chân là Phan Liêu, Lộ Văn Luật đến châu Gia Hưng, Quảng Oai
chiêu tập đồ đảng. Giặc một ngày một lan tràn, xin cho viện binh sớm diệt giặc
này để yên nơi biên thùy.
Thiên tử xem tờ tâu sắc dụ
Vinh xương bá Trần Trí, An bình bá Lý An, Đô đốc Phương Chính, cùng 3 ty Giao
Chỉ rằng:
“ Phản tặc Lê Lợi manh tâm
gây họa không phải chỉ mới một sớm, nếu lúc khởi đầu bắt nó dễ như nhặt một gọng
cỏ. Nhưng nghe lời người ngu, chỉ lo việc chiêu phủ kéo dài đến nay đã 8
năm trời. Cuối cùng chúng không tuân mệnh, dưỡng thành cái thế độc dữ; khiến
trung thần và dân lương thiện bị hại, mối họa triền miên. Khi sắc tới bọn Trần
Trí, Phương Chính chuyên trách tiến binh, vụ tại hòa hợp để thành công, không hứa
trì hoãn để lỡ việc. Nếu mùa xuân tới không có tin chiến thắng báo về, sẽ bị
qui tội. (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 108
)
Tuyên Tông trong lòng cũng
giống như Vua cha Nhân Tông; muốn hoà hoãn tại An Nam. Sau khi ra sắc dụ
cho Trần Trí thúc dục đánh, lại muốn thay đổi ý định, hỏi sắc đã
gửi đi chưa. Rồi gọi 2 cận thần Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh đến bàn riêng
rằng nếu đem con cháu nhà Trần cho lên ngôi, cũng hợp với bụng của các vị
Vua tiền nhiệm, mà một phương lại được yên tĩnh:
“Ngày 27
tháng 11 năm Hồng Hy thứ nhất [ 5/1/1426 ]
Thiên tử ngự tại điện Văn
Hoa, triệu Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh đến hỏi rằng:
- Hôm qua ra sắc dụ cho bọn
Vinh Xương bá Trần Trí, sắc đã gửi đi chưa?
Tâu đáp
- Đã gửi rồi.
Thiên tử nói:
- Trẫm có một điều để trong
lòng đã lâu, nay nói riêng với 2 khanh, chưa nên khinh suất tiết lộ ra ngoài.
Trước kia tại Nam Kinh, nhân giải bọn giặc Giao Chỉ đến, Hoàng Khảo [
vua Nhân Tông ] nói với ta rằng:
‘Khi Thái Tổ Hoàng đế mới
bình định thiên hạ, An Nam là nước đầu tiên trong các nước bốn phương đến qui
thuận. Sau này họ Lê cướp ngôi họ Trần, mang quân đánh dẹp xong, tìm con cháu
nhà Trần nhưng không gặp, nên đặt quận huyện cai trị. Nay nếu còn con cháu nhà
Trần, tuyển chọn đưa lên ngôi, cũng hợp với bụng của Thái Tổ, mà một phương lại
được yên tĩnh.’
Trẫm thưa rằng:
‘ Triều đình làm được
như vậy, thật là thịnh nghiệp cho Đế Vương.’
Hoàng khảo cười và nói:
‘Chuyện này chưa nên khinh suất
tiết lộ.’
Trẫm giữ trong lòng, không
quên. Thường suy nghĩ rằng nếu quả họ Trần còn con cháu, tuyển lấy một người lập
lên làm phiên thần, giữ chức cống 3 năm một lần, như qui chế thời Hồng Vũ, thì
dân được yên ổn mà Trung Quốc cũng không mệt về binh nhung; tuy nhiên có kẻ cho
rằng Trẫm bỏ cơ nghiệp của tổ tông, nhưng thực ra phục hưng nước bị diệt nối
dòng bị đứt là ý của Hoàng tổ.’
Kỳ và Vinh tâu đáp:
- Vào đầu năm Vĩnh Lạc thứ 3,
khi mệnh tướng đánh giặc họ Lê, phàm chiếu sắc văn từ đều do bọn thần trực tiếp
nhận mệnh viết, lúc bấy giờ Thái Tông Hoàng đế chí tại “hưng diệt kế tuyệt”; lời
châu ngọc đó trong triều ngoài cõi đều nghe biết.”
Thiên tử nói:
-Lúc bấy giờ ta còn ở tuổi
búi tóc trái đào (5) , nhưng cũng được nghe ít nhiều như lời các khanh nói. Hai
khanh hiểu ý Trẫm nhưng đừng tiết lộ, đợi hai ba năm nữa Trẫm sẽ thi hành.
Rồi ban rượu, trước khi hai
người rút lui.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
128)
Vào năm Bình Định vương thứ
8, ngoài cuộc khởi nghĩa của Vua Lê Lợi đã trình bày ở trên, vào
tháng 8 quân Minh bắt được bộ hạ của Lộ Văn Luật là Nguyễn Khả
Lượng; bèn áp giải về kinh đô:
“Ngày 10
tháng 8 năm Hồng Hy thứ nhất [ 21/9/1425 ]
Giặc Giao Chỉ Nguyễn Khả Lượng
bị hành quyết. Khả Lượng trước kia theo đầu đảng giặc Lộ văn Luật làm phản, rồi
chạy trốn sang Lão Qua, sau đó mấy lần vào cướp phá châu huyện. Đến nay quan quân
bắt được gồm 16 người, đều bị cùm giải về kinh đô tru lục.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 121 )
Về mặt trận tư tưởng, nhà
Minh đã cho lập 91 ty Nho học xuống tận các phủ, châu, huyện, nhắm mau
đồng hóa; nhưng đã thất bại; vì các sinh viên tuy có chăm về việc học,
nhưng không chịu tập theo phong hóa Trung Quốc:
“Ngày 12
tháng 7 năm Hồng Hy thứ 1 [26/7/1425]
Ty Bố chánh Giao Chỉ tâu rằng:
‘ Từ năm Vĩnh Lạc thứ 13
[1415-1416] lập các trường Nho học tại các phủ huyện, từ đó đến nay triều đình
chưa bổ giáo quan đến dạy, thành phần giảng huấn phần nhiều là dân địa
phương; ít người thông kinh điển. Các học sinh biết đọc sách, nhưng dùng ngôn
ngữ khác, lễ pháp cũng không chặt chẽ; tuy có chăm về việc học, nhưng chưa tập
phong hóa Trung Quốc. Nên bổ thầy giáo đến dạy theo con đường chính học để hướng
dẫn người dân địa phương vào con đường mô phạm đúng đắn. Vậy lấy việc giáo dục,
ngày tháng hấp thụ biến thói tục man di đổi sang phong tục Hoa Hạ thì đó là điều
tốt đẹp ‘
Thiên tử phán:
‘ Người xưa dạy đào tạo
hiền tài không có cách nào khác hơn là giáo dục và giáo huấn không phân biệt.
Huống hồ thầy giáo là bậc mô phạm; lấy mỹ tục của Hoa Hạ để biến đổi tục Di,
không có cách nào hay hơn. Nay lệnh bộ Lại tuyển người để bổ nhiệm.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 112)
Việc giáo dục tại bản xứ
không được vừa ý, bèn đem sinh viên sang Trung Quốc huấn luyện; Vua Minh
mong muốn giáo dục đúng cách, tức đúng theo đường lối của họ:
“Ngày 19 tháng 7 năm Hồng Hy
thứ nhất [ 2/8/1425 ]
Các phủ, châu, huyện Nho học
tại Giao Chỉ tuyển cống bọn Sinh viên Vương Hiến gồm 82 người đến kinh sư.
Thiên tử dụ hành tại bộ Lễ Thượng thư Lữ Chấn rằng:
‘ Giao Chỉ cách kinh sư
hàng vạn dặm, phải xa lìa thân thích đến đây. Cần phải giáo dục đúng cách, nếu
chúng ham học, có kỳ vọng thành tài; ngươi và các học quan phải biết ý muốn của
Trẫm về vấn đề này. Về y phục hàng năm cấp phát như lệ tại Vân Nam.”( Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 116)
Cuối năm Bình Định vương thứ
8 [1/1526] có các Thổ quan Lương Nhữ Hốt, Nguyễn Nộn. Lê Ba Lan, mang
sản vật đến tiến cống triều đình nhà Minh:
“Ngày 17
tháng 12 năm Hồng Hy thứ nhất [ 25/1/1526 ]
Giao Chỉ Bố chánh ty Thổ quan
Tả Tham chính Lương Nhữ Hốt đến triều đình tiến cống khí mãnh vàng bạc, cùng sản
phẩm địa phương. Thiên tử bảo Thượng thư Lữ Chấn rằng:
‘Nhữ Hốt tuy là Thổ quan
nhưng rất trung thành chiêu dụ dân, đánh giặc; đã lập được nhiều công. Nay đến
triều đình, đáng ban thưởng để tưởng lệ, phàm đồ tiến cống thì theo giá trị mà
cho lại.’
Vì thế ban cho Nhữ Hốt tiền
giấy 200 đỉnh, 4 tấm gấm vóc, đám tùy tùng ban cho tiền giấy có sai biệt. Bồi
thường đồ tiến cống gồm 7.480 đỉnh bạc.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 130)
“Ngày 22
tháng 12 năm Hồng Hy thứ nhất [ 30/1/1426 ]
Thổ quan Hà Tuyên Tri châu Trấn
Viễn, Quý Châu; Chỉ huy Thiêm sự Nguyễn Nộn thuộc vệ Tam Giang Giao Chỉ; Chỉ
huy Thiêm sự Lê Ba Lan thuộc vệ Thanh Hóa; cống ngựa và phương vật.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 130 )
Bấy giờ quân Minh tại An Nam
tỏ ra yếu kém, nhà Minh cần dựa vào các Thổ quan, nên Vua Tuyên Tông
tỏ ra đặc biệt ưu đãi. Đối với Lương Nhữ Hốt ngoài việc đưa cho 7.480
đỉnh bạc còn phong tặng ông bà cha mẹ, cùng cha mẹ vợ; với Chỉ huy Thiêm
sự Nguyễn Nộn , Chỉ huy Thiêm sự Lê Ba Lan thì ban cho tiền, y phục, luạ
nõn:
“Ngày 20 tháng giêng năm Tuyên
Đức thứ nhất [ 27/2/1426 ]
Ban tiền giấy, lụa nõn trong
ngoài, y phục tơ trử dệt kim, dày dép có sai biệt cho Thổ quan Hà Tuyên,
Tri châu Trấn Viễn, Quí Châu; Chỉ huy Thiêm sự Mộc Hiệp Tả vệ Kiến Châu; Chỉ
huy Thiêm sự Nguyễn Nộn vệ Tam Giang, Giao Chỉ; Chỉ huy Thiêm sự Lê Ba Lan thuộc
vệ Thanh Hóa Giao Chỉ.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
131)
“Ngày 26
tháng giêng năm Tuyên Đức thứ nhất [5/3/1426]
Ban sắc mệnh cho viên thổ
quan Tham chính Lương Nhữ Hốt thuộc ty Bố chánh Giao chỉ, phong tặng ông
bà cha mẹ, cùng cha mẹ vợ. Nhữ Hốt người đất Thanh Hóa, kính cẩn phụng
sự triều đình, có công giết giặc, chiêu phủ; mấy lần được thăng đến chức Tham
chính; nay đến triều đình, đặc cách ban cho để khen thưởng. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 131
Chú thích:
1. Ngọc Ma: thuộc phủ Trấn
Định trấn Nghệ An; nay là đất Cam Môn, Cam Cớt, thuộc Ai Lao.
2. Thành Nghệ An: Nằm trên đồi
tại góc đông bắc ngã ba sông Lam và sông La Giang.
3. Đại thiên hành hóa: Thay
trời ban hành giáo hóa.
4. Ba ty: tức tam ty gồm Đô ty,
Bố chánh ty, Án sát ty.
5. Tuổi búi tóc trái đào: ý nói tuổi thiếu niên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét