Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023

"Núi Hồng ai đắp..." của Trần Đắc Túc

"Núi Hồng ai đắp..."
của Trần Đắc Túc

Nhân dịp Thị xã Hồng Lĩnh kỷ niệm 20 năm ngày thành lập (2/3/1992-2/3/2012), BBT xin trân trọng giới thiệu bút ký của tác giả Trần Đắc Túc.
Năm bác Quang tôi làm lều trên dăm Mũi Súng nhìn lên chính hướng Hồng lĩnh là quãng thời gian thử thách cực kỳ nghiệt ngã của ông. Ông đang phải chịu tất cả những gì là khổ ải của đời người do oan sai đưa lại. Rồi sai sẽ được sửa nhưng hãy còn lâu. Trước mắt, ngày ngày  ông gò mình cuốc xới trên bãi dăm đầy cỏ bón. Một loài cỏ trâu bò không ăn được, sợi lá tròn nhỏ li ti, cứng như râu bàn chải nhựa, trơn tuột. Mặt dăm phẳng lì, độc chỉ cỏ bón. Không có một thứ cỏ nào có thể ăn tranh với nó. Đất cỏ bón màu gan trâu đen xỉn, cuốc không vụn bởi rễ cỏ chằng chịt. Bẩy tảng đất lên nghe roác roác khô khốc giống hệt người bóp bánh đa. Xưa nay không ai phở hoang dăm cỏ bón. Người làng chê, nay bác tôi làm. Ông dựng lều trên dăm, trụ với nắng gió mà cuốc. Không giường chiếu, bàn ghế. Mà muốn có cũng chẳng đào đâu ra. Nằm ngồi trên nền cỏ. Cửa lều ngó thẳng núi Hồng, chính Bắc.
Cha tôi ra lều bác, hỏi: Anh không sợ nóng sợ rét mà làm hướng này? Bác cười, nói phải nhà nghỉ mát đâu mà lo? Hướng này nhìn cho có bạn... Cha tôi ngạc nhiên nhìn quanh, ra ý hỏi. Bác tôi  không cười nữa mà lập nghiêm, chỉ tay về dãy núi đang dựng thành trước mặt. Núi Hồng lĩnh! Phải một thoáng ngỡ ngàng rồi cha tôi mới hiểu ra. Hai ông đứng im phắc như tượng. Trước mặt, dãy Hồng lĩnh lặng lẽ mà uy nghi, xanh thẫm một sắc nhìn.
Vừa cuốc đất, vừa ngẫm ngợi, để khuây khỏa bác Quang tôi hay làm thơ vịnh cảnh. Vốn là con của một nho sinh Tam trường, thời thế đổi thay không theo đòi nghiên bút, ở nhà cày ruộng nhưng vẫn là ông đi cày có chữ. Trong những ngày khốn khó đào đất lật cỏ bón, bác làm thơ vịnh núi Hồng. Bài thơ bắt đầu bằng hai câu mở: Trận gió khuơ mây xuống biển vời. Ba ngàn Hồng lĩnh đứng thêm tươi. Cha tôi góp ý, thay chữ khuơ bằng chữ xua. Bác không chịu. Khuơ là dùng cái dụng cụ có cán dài, Tiên Bụt dùng phất trần, người thì lấy chổi. Tiên Bụt cũng lao động như người. Luật viễn cận thơ Đường nữa. Với lại mây núi Hồng như thế, phía đông ngày nào chả phải quét. Bán lĩnh vân phong bán lĩnh khai, thơ Vua Thiệu trị viết về mây núi Hồng đó. Một nửa núi mây bọc, phải khuơ ra chứ. Chữ của anh trai cày đừng giống chữ ông Vua...
Chịu bác rồi. Ông hoàng Miên Thẩm đế hiệu là Thiệu Trị, năm 1842 Ngự giá Bắc tuần có làm bài thơ vịnh núi Hồng với hai câu kết: Sầm khâm liệt chướng liên thiên bích, bán lĩnh vân phong bán lĩnh khai, mà ông Võ Hồng Huy dịch là Non cao trời thẳm xanh liền dải, nửa núi thanh quang nửa núi mây. Không chỉ lưu danh trong văn thơ kim cổ, mà núi Hồng còn được tạc khắc vào bia đá đỉnh đồng. Một trong chín chiếc đỉnh đồng (Cửu đỉnh) được Vua Minh Mạng đặt nơi Thế Miếu thờ tổ tiên có tên là Anh đỉnh. Trên mặt Anh đỉnh là hình núi Hồng lĩnh-danh sơn nước Đại Nam. Quanh năm hương khói của cháu con Triều Nguyễn phụng thờ. Một chốn cực kỳ linh thiêng trong tâm thức một dòng Vua. Được làm một Hồng Lĩnh để tạc khắc vào Đỉnh đồng thờ phụng, đến Vua chúa cũng phải cúi đầu vái lạy thì hỏi rằng thường dân sớm hôm bạn cùng mây núi, làm sao không hởi dạ, hởi lòng. Không nhìn sang núi mà gắng gỏi ?!
Đến khi nghe bác hạ hai câu kết: Hỏi ông Hồng lĩnh bao nhiêu tuổi/ Mà vẫn non xanh đội cả trời?, thì cha tôi đã lặng người không còn nói thêm được câu nào nữa. Hình ảnh người anh họ đồng tuế, mình mang áo tơi, đứng chống cuốc như người tuẫn nạn, bỗng lồng lộng trước cửa lều. Dưới chân là những lát đất cỏ bón đang lật mình phơi nắng đều tăm tắp. Nắng đang xối lửa, thiêu cháy đen những chùm chùm rễ cỏ. Trước mặt là Hồng Lĩnh cứng cỏi nhô lên trên cao vút xanh rờn!
Được làm cư dân núi Hồng, bầu bạn tri kỷ cùng núi Hồng rồi được núi Hồng đứng chắn gió, che mưa, chính là đặc ân của một vùng quê. Dẫu rằng trên đất nước ta nơi nào mà chẳng có sông, có núi. Nhưng với núi Hồng thì sự khác biệt đã rõ ràng lắm. Và, sự khác biệt này đã làm nên một vùng quê không thể lẫn với bất cứ địa phương nào. Đó chính là những con người lớn lên dưới chân núi Hồng. Uống nước từ núi Hồng chảy ra như uống dòng sữa mẹ mà lớn lên. Mỗi người một thân phận, một nhân cách, một tài năng. Tất cả chung nhau trong niềm vinh hạnh : Những người con của núi Hồng. Tất cả chung nhau một niềm khát vọng : từ nghèo khổ mà vươn lên.
Nghèo khổ thì như Bùi Cầm Hổ, tuổi nhỏ phải đi ở chăn trâu cho nhà giàu. Rồi áo tơi mây, ngai tréo đá ra kinh kỳ thi. Bùi nho sinh được triều đình trọng dụng, làm đến chức Ngự sử Trung thừa, đứng đầu Ngự sử đài, lấy đạo lý công minh, chính trực để xử lý việc triều đình, bàn bạc mọi việc thẳng thắn, dứt khoát, giữ đúng phong tiết của người làm chức trách Ngự sử (Bùi Huy Bích). Đạo lý ấy, phong tiết ấy của Bùi Cầm Hổ cùng những danh thần, lương tướng: Trạng nguyên Sử Hy Nhan (? - 1241) làm quan đến chức Hành khiển tri kinh diên, Sử Đức Huy( 1360 -1430), làm đến chức Thượng thư Bộ Hộ, Thẩm hình Viện Thái sử gían nghị đại phu, Hình bộ Hữu thị lang, Tả thị lang, Tiến sĩ Thái Kính (1478-?), Thái bộc tự khanh, Đốc thị, tước Hầu, Tiến sĩ Phan Hưng Tạo (1606-?), Tham chính, Giám sát ngự sử, Hiến sát xứ Sơn Nam, Tiến sĩ Bùi Đăng Đạt (1663-1716)… đã dựng cao thêm danh tiếng  Núi Hồng, nơi các Ông đã được sinh ra. 
Cũng lại có những cuộc đời và hành trạng sát sạt trong cõi nhân gian làm rạng vẻ non Hồng. Là cuộc bể dâu nuôi dưỡng thể chất và tâm hồn để Nguyễn Du với bút lực thiên tài, nhìn thấu trăm năm trong cõi người mà viết lên lời ai điếu cho những kiếp nhân sinh. Thổi bùng lên khát khao nhân ái, bênh che kẻ yếu, với giấc mơ phá cũi sổ lồng và cuộc đoàn viên có hậu. Ấy là Truyện Kiều cẩm nang cho người đời bói tìm những điều muốn biết. Lần giở trang nào cũng rưng rưng. Khi cư dân núi Hồng lâm râm cầu nguyện: Lạy Vua Từ Hải, lạy Vãi Giác duyên, lạy Tiên Thúy Kiều thì từng câu, từng câu, đã như kinh sách bùa chú, như phép nhiệm màu. Tên tuổi của Nguyễn Du, người con núi Hồng lúc ấy là một quyền lực trong tâm trí người cầu nguyện.
Tuy quyền năng trong tâm tưởng lớn như vậy, nhưng với cư dân Hồng lĩnh, Nguyễn Du lại gần gũi xiết bao: Viễn lai tri thủ tương tầm lộ/  Gia tại Hồng sơn đệ nhất thôn. (Gửi Huyền Hư: Anh ở xa đến thì nhớ mà tìm, nhà tôi ở thôn đầu tiên của dãy Hồng lĩnh). Người ở nhà đầu tiên dãy Hồng lĩnh ấy, người đã viết nên Truyện Kiều bất hủ, rồi sau này sẽ vượt thời gian không gian mà thành Danh nhân văn hóa Thế giới, cũng bởi từng được chung đúc: Bách lý Hồng sơn chính khí đồng (núi Hồng trăm dặm cùng chung một chính khí).
Khác với Nguyễn Du, 12 tuổi Nguyễn Công Trứ mới cùng cha từ trấn Sơn Nam Hạ về quê Uy viễn Nghi xuân, dưới chân Hồng lĩnh. Gặp buổi nhiễu nhương, lại thêm gia cảnh sa sút, Nguyễn Công Trứ phải vật lộn để mưu sinh. Và phải trải 30 năm khó nhọc, với bao khổ lụy trần ai dưới chân Hồng lĩnh, tận 42 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới đỗ, mà là đỗ đầu (Giải nguyên) của khoa thi Kỷ Mão (1819). Như mệnh số, như tài tử đa cùng, như là con dân của núi Hồng thời phải vậy. Một năm sau ngày thi đỗ, (1820), Nguyễn Công Trứ vào kinh làm người chép sử ((Hành tẩu Quốc Sử quán). Bắt đầu từ đó là một biên niên riêng trải dài suốt 80 năm tuổi đời cùng bao nổi chìm, thăng giáng. Sau những ngày hiển đạt là một chuỗi sóng gió chốn quan trường.  Bao nhiêu chiến công lại bị bấy nhiêu lời ganh ghét xiểm nịnh. Khi cầm quân cờ đại tướng, lúc bị cách tuột xuống lính trơn, mỗi nạn mỗi vẻ oan khiên mà Uy viễn Tướng công vẫn khảng khái. 
Trong thẳm sâu tâm thức, bậc  đệ nhất lưu hào kiệt anh hùng (chữ của Trương Quốc Dụng) đã dành cho sông núi quê hương đánh giá công trạng bản thân. Năm lên lão Bảy mươi, trong bài thơ Tự thọ, Nguyễn Công Trứ đã nói rõ ý này:
Tự tàm tiễn liệt hào vô trạng
Quái sát Hồng sơn hữu thị phi.
(Nghĩa là: Tự lấy làm thẹn, chẳng có chút công trạng gì. Thôi hãy phó mặc cho núi Hồng hạ lời khen chê - Lê Thước dịch nghĩa).
Không cần đến ai và thời nào định giá, chỉ cậy đến núi Hồng phân xử, khen chê. Chỉ đặt lòng tin vào núi núi Hồng mà thôi. Ngoài ra mặc kệ! Vinh danh núi Hồng đến thế thì thôi. Nguyễn Công Trứ thật đã xứng là đấng bậc có công đắp cao thêm núi Hồng huyền thoại. Một Hồng lĩnh với những tán bách tùng trên từng vỉa đá, mà khi đắc ý cũng như khi phẫn chí, Nguyễn Công Trứ đã muốn:  Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo..
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Vách đá cheo leo nơi núi Hồng và tiếng thông reo trên thị xã Hồng lĩnh hôm nay, đã xui tôi nhớ về một người sinh sau ngày mất của Nguyễn Công Trứ 55 năm (1913). Truyền hình Hà tĩnh đã từng làm phim chân dung về ông, nên cũng có thể gọi ông là người đương thời, theo cách của VTV. Đó là ông Lê Như Quyến, một người trồng thông, đúng hơn là một người đến với nghề trồng thông ở núi Hồng.
Ông Quyến sinh quán ở Trung lễ. Năm 2 tuổi thì cha mất. Ông nội cũng mất sớm. Cố nội vốn là một quan Án sát tỉnh Quảng trị cũng mất sớm khi còn tại chức. Ông Quyến được người bà con cho vào Quy nhơn học hành. Hoạt động trong Hội Aí hữu và là cán bộ Tiền khởi nghĩa Quảng bình. Từng làm Trưởng ty Thương binh Quảng bình,  Ty Thương binh Hà Tĩnh.  Năm 1970, chuyển sang làm trưởng Ty Lâm nghiệp Hà tĩnh. Việc đầu tiên của ông Quyến khi nhận nhiệm vụ Trưởng ty Lâm nghiệp là khẩn trương kiện toàn tổ chức. Tháng giêng nhận công tác thì tới tháng 3 ông đã tinh giảm bộ máy văn phòng Ty, từ 169 người xuống còn 79 người. Một việc làm cực khó, người cầm đầu phải quyết đoán lắm. Tiếp đến, ông còn làm một việc cũng rất ấn tượng; đó là đưa Văn phòng Ty ra đóng tại ngã ba Bãi Vọt, tức trung tâm thị xã Hồng Lĩnh bây giờ để tiện bề trồng rừng. Muốn trồng được thông thì phải ra Hồng lĩnh!
Tôi đã từng qua Bãi Vọt những năm 70 của thế kỷ trước, cái thời ông Quyến mang quân bản bộ đến cắm chốt, và hiểu được thế nào là bản lĩnh, thế nào là quyết tâm của những con người muốn thể hiện ý chí của mình.
           Một vùng mênh mông bên chân núi Hồng, bãi Vọt trải ra như một khoảng lặng rợn người, rộng rênh. Một vùng cây vọt, thứ lá nòi dương xỉ cứng quèo, thân cao chưa đầy vài ba gang, gọi cỏ không đúng mà cây càng sai. Thân tròn, to hơn tăm xe đạp chút xíu, trong ruột rỗng lại có lõi mềm như lõi cỏ lùng, bẻ ngang vỏ cây gãy chéo sắc nhọn, không cẩn thận, đâm vào tay chảy máu. Loại  không phải cỏ mà chẳng phải cây này là chủ nhân thứ thiệt của ngã ba hoang sơ trên những lối mòn ngang dọc. Hàng quán hãy còn thưa thớt lắm. Khát quá, mệt nữa, ghé vào mua bát nước, thấy người đàn bà chủ quán ra chiều mỏi mệt không vồn vã, phía sau quán có bóng đàn ông thấp thoáng bí hiểm, cứ rờn rợn nổi gai ốc đầy người. Tiếng kì cạch mài dao, tiếng búa gõ, có lẽ đang chêm cuốc chêm cào phía sau quán của người đàn ông với thi thoảng vọng âm be be ma quái của con dê cỏn bên sườn núi văng vẳng, làm tắc cổ, hết cả cơn khát. Vội vã trả tiền nhanh, đã ra khỏi quán được một quãng xa, vẫn mấy lần ngoái cổ : trai ở trại,gái hàng cơm.. Gan thế. Nhìn quanh, phía đông vẫn dàn dàn những sim mua và vọt, và đá. Không biết bao nhiêu những tảng đá trọc lóc, đen trũi nhấp nhô trốn tìm sau những bụi sim, bụi mua, như bầy lục lâm chực chạy xuống vồ người.  Cao ngất Hồng lĩnh. Đá lại đá, vô hồi vô trận. Mãi mới xuống được bên kia chân dốc Độ Liêu. Mới qua được Bãi Vọt. Đi xuống, thấy rủn chân.! Lâu lâu có chiếc ô tô vọt qua, khói phun đen trời. Rồi lặng như tờ. Tiếng bước chân mình mà như có ai đang lẹt xẹt theo phía sau. Chỉ thiếu tiếng vỗ tay rồi kêu : ngã này, ngã này… là tưởng mình đang vã mồ hôi lạnh mà gập những trang Liêu trai với Lương sơn bạc cuối cùng.
Hôm sau, sang kể với bác Quang tôi. Bác cứ nắc nỏm, rằng, gía còn sức thì bác sẽ ra Bãi Vọt cuốc đất trồng khoai. Ở đó đất rừng rộng rãi. Ước gì trời cho trẻ lại.
Ông Quyến ra Bãi Vọt lúc không còn trẻ nữa. Ông chỉ làm đến năm sáp nhập Nghệ Tĩnh (1976) thì về hưu. Trong khoảng thời gian gần 7 năm làm Trưởng ty Lâm nghiệp, ông đã phải mất nhiều thời gian cho việc học nghề trồng thông, chứ không trồng khoai như bác tôi ao ước. Mà trồng thông trên núi đá Granit Hồng lĩnh, khó vô cùng. Công việc hàng ngày là lao động tay chân thực thụ. Vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từ làm bầu, làm áo cho cây, đến tìm chủng phân hợp với cây thông. Nội một việc cỏn con như nhổ cỏ bầu cũng phải có quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt.
Thế mà thành công có dễ đến đâu. Trong cuốn Hồi ký của mình, ông có lưu lại những bài nói, các công văn gửi các đơn vị trong tỉnh. Xin trích phần đầu phát biểu ở tổ chỉ đạo trồng cây thông tại Bãi Vọt (trong Hồi ký ông đánh dấu: văn bản số 3, tháng 11 năm 1972):
“Cũng do dốt nát của mình, và về mặt chỉ đạo thì thiếu quyết tâm, nên gần 2 năm tôi qua Lâm nghiệp với các đồng chí, tôi chưa gỡ ra manh mối về trồng cây thông nhựa! Trong khi đó tỉnh chúng ta có trên dưới 7 vạn ha đồi núi trọc, trơ sỏi đá từ 25 độ dốc trở lên. Nếu không trồng cây thông nhựa thì cũng chẳng biết trồng cây gì cho có kết quả... (…). Trước tình hình nầy, tôi và các đồng chí không chịu khoanh tay!...”
Nhận mình là dốt nát và chỉ đạo thiếu quyết tâm là cách nói nhún. Thực ra, ông và các cộng sự đã quyết liệt, đã một thời  gắn bó với Hồng lĩnh, với cây thông. Chả thế mà chỉ sau 4 năm lăn lộn với bao thất vọng rồi hy vọng, 10 ha thông thí điểm ở Suối Tiên, Thiên tượng đã rũ bóng mặt hồ. Sau trồng thí điểm là trồng đại trà. Sau Hồng lĩnh thông xanh là nhân rộng ra các Lâm trường trong tỉnh.
Từ những buổi chập chững ban đầu của ông (tháng 7/1971), đến ngày chúng tôi khởi quay những thước phim Người một thời với cây thông (năm 2000),Tổng cục Lâm nghiệp Việt nam đã công nhận Hà Tĩnh có diện tích thông phủ xanh chỉ đứng sau Đà Lạt ! Khi xem, ông Quyến thích cảnh mình đang đứng cạnh một cây thông bên Suối Tiên hơn là cảnh ông đang ngồi viết Hồi ký, trên đầu là tấm Huân chương Độc Lập. Cũng như ông rất thú vị với trường đoạn, mấy anh em bác cháu trong ngày buốt giá, ra thắp hương tại nhà thờ của Uy viễn Tướng công. Trong phim, ông thành kính thưa với tiền nhân, rằng lớp hậu sinh đã trồng được trên Hồng Lĩnh một loài cây mà sinh thời Tướng công hằng ngưỡng mộ.
Có một chi tiết, bây giờ nhớ lại, không hiểu sao tôi còn thấy băn khoăn. Đó là khi chúng tôi đóng máy cảnh cuối cùng, lên xe đưa ông Quyến về Tùng ảnh.Tới vành xuyến Trung tâm thị xã Hồng lĩnh, ông kêu dừng xe. Hỏi, ông bảo anh em cứ ngồi uống nước, chờ ông chút. Rồi ông xuống ngã ba, đứng ngơ ngác như trẻ thơ. Dịp đó là tháng cuối năm, Hồng lĩnh đang chăng đầy cờ hoa, chuẩn bị sang Xuân là kỷ niệm 10 năm ngày thành lập. Dòng người dòng xe cứ nườm nượp giăng mắc lại qua.Ông Quyến chợt lẩn vào đâu đó. Anh em xong việc nên chẳng vội về. Tôi với ly cà phê trong tay, hết nhẩn nha nhìn vời vợi non Hồng thông xanh ngút mắt lại quay sang đường 8 đẹp nhất Việt nam. Hết mắt xanh môi đỏ ngực trần lại chạnh nhớ khuôn mặt đàn bà héo rũ trong quán vắng năm nào. Mãi ông Quyến mới lên xe. Hỏi, ông bảo đi thăm mấy người trồng thông, bạn cũ. Thị xã giờ to quá, đẹp quá. Nó lớn nhanh lạ thường. Mình cũng qua luôn mà vẫn lạc đường.
Rồi một năm sau, khi làm phim truyền thống của ngành, tôi lại thêm lần nợ, khi đã không thể mời được ông Trần Quang Đạt, nguyên Chủ tịch tỉnh Nghệ Tĩnh trèo lên Thiên tượng để đến đỉnh Vi ba, một nhỏn của núi Hồng mà truyền hình Nghệ tĩnh đặt trạm tiếp phát. Căn bệnh thống phong đã không cho phép ông leo lên, dù chỉ dăm bậc đá con đường do ông trực tiếp chỉ đạo, khảo sát ngày nào. Cũng như ông là người đầu tiên đã lên kế hoạch cho Công ty vận tải quá cảnh C7 về đóng tại Bãi Vọt những ngày còn hoang vu. Ông Đạt cũng là người duyệt dự án cho xây Rạp Chiếu phim Hồng lĩnh, khi nơi đây dân cư còn thưa thớt, trước ngày thị trấn Hồng lĩnh ra đời. Nghĩa là trước ngày Hồng lĩnh được chuyển lên Thị xã còn rất lâu, dễ đến hàng chục năm.
Người dân Trung lương trong trận lũ lịch sử năm 1978 đã không thể quên hình ảnh ông Đạt, đương kim Phó Chủ tịch UBND Tỉnh Nghệ Tĩnh, tự tay vơ cỏ để tìm ra giòng chảy rò giữa thân đê La giang, sát chân cống. Khi 2 tiểu đội trực chống lụt thay phiên nhau đào hố thăm dò xong, thì đích thân ông Phó Chủ tịch tỉnh nhảy xuống, tự mình khảo sát lưu lượng giòng chảy cũng như hướng chảy để xác định phương án đắp chặn ở đâu. Không phải ông không có người giúp việc, mà cái chính, ông là người thạo việc. Chưa có ai hơn ông trong việc tự mình tận tay tận mắt, từ buổi đầu khảo sát cho đến lúc thi công những công trình, những  hồ đập, kênh mương trên đất Hà tĩnh, rồi Nghệ Tĩnh. Và do vậy, ông sẽ là người nhảy xuống. Ông tin ông. Rồi dân tin ông. Trận lũ ấy cống Trung lương không vỡ. Cả một vùng rộng lớn quanh Bãi Vọt thở phào.
Người dân Thuận lộc hẳn chưa quên hình ảnh ông Đạt bao lần xắn quần lội bộ khảo sát để xây trạm bơm Lam Hồng. Người dân nơi đây đã quá quen với hình ảnh ông Đạt lội đồng ở  Hồng Thuận, nơi bây giờ Thị xã đang chuẩn bị xây công viên. Người ở đây đã gọi con đê này là Đê ông Đạt.
Bao nhiêu lần lại qua giữa vùng Bãi Vọt để ông Đạt và các đồng sự nhìn ra hướng mở đầy chất công nghiệp cho vùng đất này để năm 1981 Thị trấn Hồng lĩnh ra đời? Chắc là nhiều người Thị xã Hồng lĩnh hôm nay biết.
Biết ông Đạt ở những công việc cụ thể, chi tiết, lại biết ông ở những công tác chỉ đạọ từ xa của một nhà hoạch định chính sách. Biết để thấy ông là người có tầm nhìn. Nội chỉ nói về Thị xã Hồng lĩnh thôi, chưa cần gọi tên những đê đập, những con đường trong tỉnh, thời ông đảm trách. Cả thời chiến cũng như trong thời bình. Riêng Hà tĩnh hay chung Nghệ Tĩnh.
Với Thị xã Hồng lĩnh, ông Đạt cũng đã có được dấu ấn của riêng mình. Ông như là công dân số một của Thị trấn Hồng lĩnh năm xưa, và sẽ là Cử tri danh dự cầm lá phiếu đầu tiên không số bầu cho Hồng lĩnh Đô thị loại 3 nay mai. Tôi hằng tin như vậy với tâm thế người mang nợ.
Cả ông Quyến và ông Đạt nay đã đi xa. Và hai ông chỉ là hai chớp sáng xẹt qua trên lấp lánh sa bàn trùng điệp của đô thị Hồng Lĩnh hôm nay.
Còn bao nhiêu người nữa, người trực tiếp, người gián tiếp trong 6 đơn vị hành chính đã đưa hết sức mình để xây nên một thị xã Hồng lĩnh trong những năm gian khó đã qua. Sau 10 năm, 20 năm, rồi 30 năm, ai trong số những người đầu tiên của xí nghiệp Gạch, xí nghiệp Vận tải, Sửa chữa Ô tô, Cửa hàng ăn uống, Sành sứ gốm Cẩm Trang... còn ở với đất này? Và ai, trong lớp cán bộ chủ chốt của thị trấn rồi tiến lên thị xã đã làm vinh danh thêm ngọn núi Hồng mà sau vài năm nữa là đô thị loại 3 vẫn được mang tên núi?
- Này! Hồi chưa có thị trấn, ông chủ nhiệm còn chia đất ở đây cho cơ quan bằng cây sào nứa. Muốn dài có dài...! Bây giờ a...!? Vàng đấy! Vàng tấn đấy. Cao như này này...
Ai đó đã vừa cười vừa chỉ tay vào dẫy nhà cao tầng đang lèn nhau trên trục đường trước mặt. Tôi ngơ ngẩn nhìn, chợt nghĩ không biết thực hư mà bác Quang tôi dẫu sắp mất vẫn còn ao ước được ra làm nhà ở Bãi Vọt?
- Mới đó mà đã 20 năm. Chóng thế! - Ông Nguyễn Đình Trạch, một trong những cán bộ chủ chốt của thị trấn Hồng lĩnh ngày nào, là cựu công dân của cái thị xã non trẻ này mà còn thốt lên như vậy. Huống hồ lũ chúng tôi. 
Bao nhiêu là ngỡ ngàng...!.
2/8/2012
Trần Đắc Túc
Theo http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...