Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

Các bến đỗ của sự sống con người

Các bến đỗ của sự sống con người

1. Sau những phân tích về các hình ảnh cổ, thật là sai lầm không thể tha thứ nếu vẫn tiếp tục nhầm lẫn những giáo huấn về con người cổ trong truyền thống, với thuyết nhân học.
Truyền thống, trước tiên và trên hết nhìn thấy trong con người hình ảnh cổ của nó, trí tuệ thượng đế của nó. Còn trong từng cá nhân, truyền thống chỉ ra bản chất đã đánh dấu của con người bằng dấu ấn của thượng đế, của các sức mạnh, các Quyền lực của trí tuệ thượng đế, con người đứng ở vị trí giới hạn của sự sống.
Như vậy con người bị gim chặt từ ba góc độ: trước tiên trong bản chất vĩnh cửu của nó là linh hồn bất tử, thứ hai con người như một thể loại, và thứ ba, con người như một tính cách.
Viễn tưởng ấu trĩ về tư duy truyền thống của con người lịch sử, nhất là người châu Âu  đều thể hiện rất rõ ở điều này. Những hình ảnh khác nhau về con người cổ không phải (cái gọi là) những ẩn dụ thi ca, những motip cổ tích hay các kết luận cần phải hiện thực hóa. Tại sao? đơn giản vì: con người ở mức độ cổ xưa có khả năng gọi tên các sự vật một cách chính xác, nhưng khả năng này đã bị vật chất hóa, và từ đó đến nay ngôn ngữ chỉ gọi tên sự vật một cách tượng trưng hoặc chỉ theo nghĩa bóng mà thôi.
Chính vì con người đã đánh mất khả năng đặt tên một cách chính xác và trực tiếp  sự vật sự việc  nên nó đánh mất luôn cả khả năng sáng tạo ngôn ngữ, và đánh mất cả khả năng vâng theo ngôn ngữ của các sức mạnh và các Quyền lực thế giới. Và như vậy  ngôn ngữ người chỉ trở thành sự tượng trưng.
Lấy một ví dụ: quan niệm của người hiện đại về từ tái sinh. Đây là một hiểu lầm lớn nhất của con người hiện đại với thời cổ. Hình ảnh tái sinh của linh hồn không có nghĩa là linh hồn cá nhân- mà Veda gọi là dzsivatma-được sinh ra, chết đi, rồi sống lại, từ đời sống ở trái đất bay vào đời sống của thế giới bên kia, rồi từ thế giới bên kia quay lại với đời sống trái đất, quay tròn, luân hồi và vật vờ.
Chỉ  lối tư duy chứa đựng rất nhiều thuật ngữ máy móc và vì thế mù lòa mới có thể phát biểu như vậy.Tái sinh không phải là một hình ảnh cổ liên quan đến cái cá nhân của con người mà liên quan đến con người vĩnh cửu. Ý nghĩa của nó không phải là dzsivatma -cái TÔI bé nhỏ của con người hôm nay chết đi, ngày mai sẽ được sinh ra lần nữa ở một miền đất nào đấy trên quả đất và trong hình hài khác, mà ý nghĩa của nó là con người cổ rơi từ tạo hóa tinh thần xuống thế gian vật chất, và từ vật chất này thức tỉnh như một nhân loại, và từ sự đông đảo chia thành các cá nhân,  từ sự đông đảo này từng cái TÔI là một bến đỗ của con người cổ, từng”sự tái sinh”-luân hồi của con người cổ. Không có sự mất đi và tái sinh một cách tự động.
Sự tái sinh của từng cá nhân chưa bao giờ, chưa có bất kỳ cái gì nhắc đến, từ thời cổ, hay ở phương Đông, hay kinh Veda, đạo Phật, siêu hình học Ai cập, Pitago, Platon cũng chưa bao giờ nói đến. Luân hồi, sự tái sinh là hình ảnh cổ sâu đậm vĩ đại nhất của số phận con người vĩnh cửu,  hình ảnh luân hồi số phận của cái TÔI cá nhân  lồng bóng số phận con người vĩnh cửu, và được hiểu như một sinh linh tái sinh trong mối quan hệ của nhân loại siêu việt.
Linh hồn tái sinh cùng dấu ấn của thượng đế như một hình hài tiêu biểu, linh hồn tái sinh với tính cách như một trường hợp giới hạn cực đoan ra đời, như một khuôn mặt, như một sinh linh cá nhân hóa.
Nếu hình ảnh con người trong truyền thống  có ý nghĩa lớn như vậy, thì sự tái sinh, chỉ có thể hiểu đã tồn tại, và giải thích được trong tinh thần siêu hình của thời cổ. Sự diễn giải này nhất thiết phải dựa trên nền tảng của trạng thái cổ.
Trong trạng thái cổ con người là Adam Kadmon: con người Rực Rỡ.  Adam có nghĩa là kẻ thống trị. Con người cổ trước hết là chúa tể thiên nhiên, nhận được sức mạnh của lời từ Tạo Hóa, bằng ngọn lửa, bằng logo: là kẻ thống trị toàn bộ các sinh linh và các thế gian bằng tình thương yêu của trời. Các nguyên tử, loài động vật, các Quyền lực đều cúi đầu ngoan ngoãn trước con người.
Các luân hồi của hình ảnh cổ Adam Kadmon là các vị vua lớn, các nhà lập pháp các nhà thông thái của nhân loại. Đấy là „loại người bí ẩn” mà truyền thống hay nhắc đến: Manu, Menes, Minos, hay  như tri thức Hindu, Ai cập, Hy lạp, Eheatl, Mexico, Kecalkoatl, Toltek Manko  Kapa, Peru nhắc đến.
Đây là con người” không khí”, đúng hơn là thực thể tinh thần thuần túy, là nhà vua rạng rỡ, kẻ phân chia các quốc gia, như truyền thống Toltek đã viết, kẻ trao cho các dân tộc ngôn ngữ, dân ca, quần áo, thức ăn thức uống và phân chia họ, như ngày nay người ta nói: đánh thức ý thức của họ.
Đấy là kẻ cai trị theo trật tự của Melkizedek, là nhà vua của sự chính trực, của hòa bình, của tình thương. Đấy là con người cổ mà Đạo Đức Kinh nhắc đến, là Quân Tử của Khổng tử; là kẻ duy trì sự thật (aletheia) như Platon đã dạy, và bởi vậy đấy là cái đầu của dân chúng, của Politheia.
Đặc tính của con người này vượt trên cả giống loài, quốc gia, tôn giáo, thời đại: đấy là tinh thần vũ trụ. Tinh thần vũ trụ chỉ có nghĩa như sau: không phải là ý thức của cái TÔI vật chất, mà là ý thức thượng đế-ý thức tinh thần cổ. Con người sống, tư duy, hành động, giao tiếp, cai trị trong đặc tính này không phải là một khuôn mặt cái TÔI, một loài, một tính cách, một dấu ấn, mà là linh hồn thượng đế siêu việt, là tri thức thượng đế.
Đây là „Những đứa con của Thượng đế”- những đứa con của đấng Brahma-những đứa con của Toth- đây là” Bảy nhà thông thái”, là „Bảy risi”, là những kẻ truyền nguồn sống  Thượng đế-thiên nhiên cổ xuống sự sống thế gian vật chất mặt đất.
Có những truyền thống khác gọi những người này là Thần Hộ Mệnh, Thần Canh Gác hoặc Kẻ Thức: egregoroi, phülakesz, pneumaton. Ở Mexico người ta gọi: tlapian-giống như phülax, Thần Hộ Mệnh.
Tác động của những con người này là vô bờ bến, như truyền thống đã nói. Tại sao? Bởi vì đây là con người tồn tại trực tiếp từ tinh thần tỉnh táo của thượng đế, và như sách thánh Iran từng viết: „Thượng đế trao quyền lực vô biên cho tình thương yêu”. Trật tự Melkizedek mang quyền lực vô biên vì đó là vua của tình thương yêu và hòa bình.  Đấy là sự hiện hữu của sinh linh được Thượng đế tạo ra trong ngày thứ sáu, Adam Kadmon, kẻ cai trị.
Con người hiện đại chỉ có thể trải nghiệm bất ngờ ngắn ngủi trạng thái cổ lóe lên trong chốc lát, khi sự nhận thức và tình yêu thương  hòa tan vào làm một. Trong trạng thái cổ này  giáo huấn của Pitago là sự nhập định; từ một vài câu nói của Empedokles hiện thực được sắp xếp đâu vào đấy; Thiên thần triết học của Platon chỉ là một hình hài nhợt nhạt hơn; nhưng Platon là một kẻ nhập định hoàn hảo.
Muộn hơn, trong thời Alexandria người ta biểu trưng sự thống nhất của nhận thức và tình yêu thương bằng logo - trái tim lửa cháy. Trong thời kỳ gần đây nhất, kẻ nhập định vào trạng thái cổ là Ramakrisna. Đây là trạng thái khi sự ấm áp của tình yêu thương làm lóe sáng nhận thức, và khi ánh sáng của tư tưởng soi rọi tình yêu thương.
Sự hợp nhất của trái tim bốc lửa, nhận thức và tình yêu thương không thiên vị rạng rỡ trong ánh sáng tri thức của tinh thần: đây là sự hợp nhất của tri thức và xúc cảm, khối óc và trái tim, tư tưởng và tình cảm. Con người cổ không nhầm lẫn bằng trái tim, nhưng bằng tri thức cũng không. Con người cổ duy trì thế gian làm một bằng tình yêu thương và tri thức. Điều này có nghĩa là, con người đầu tiên chính là trí tuệ thượng đế.
2.
Bến đỗ thứ hai: Sự phạm tội.
Sự phạm tội xảy ra khi con người rơi xuống vương quốc của cái chết. Nó đánh mất sự tỉnh táo của nó; nó đui mù, câm lặng, ánh sáng của nó tắt, mối quan hệ với đặc tính tinh thần bị đứt đoạn. Nó chìm vào vật chất và ở đó trong sự vô thức hoàn toàn về bản thân và về thế gian, nó hóa đá, hóa băng trong tối tăm.
Trạng thái này không  mang tính tượng trưng  của sự mê muội, mê mẩn. Theo truyền thống  hình ảnh cổ của sự phạm tội là cấp độ trước khi bị tiêu hủy hoàn toàn, là cấp độ trước cấp độ cuối cùng. Nếu rơi thấp xuống sâu thêm một độ nữa: sẽ tan ra, và biến thành cát bụi. Con người phạm tội, khi biến thành vật chất, nó lao xuống ngưỡng cửa của sự tiêu hủy hoàn toàn, và đứng chết cứng ở đây.
Không có gì để nói về bến đỗ này. Đây là một bóng râm nhỏ bé duy nhất cách sự hủy diệt hoàn toàn; đây là bực thang trước bực thang cuối cùng. Đây là bến đỗ trước ngưỡng giới hạn của phi-sự sống: vô thức, tối tăm, vô nghĩa, không tình thương yêu, bất nhẫn, không hình hài, phi trí tuệ, không bản chất, phi tư tưởng.
Cái tội mà con người cổ đã phạm, ngày nay ta không hiểu nổi. Baader cho rằng ta không hiểu nổi vì ta không thể phạm được nữa. Truyền thống Ai cập và Do thái gìn giữ kỷ niệm về sự phạm tội này bằng nghi thức cắt bao quy đầu. Như thế nghĩa là gì, không ai giải thích được.
Một phần của Tử thư Ai cập dường như nhắc đến điều này từ xa: nhìn tội lỗi cổ của linh hồn, là nhìn bản thân mình từ bên ngoài, và bằng cử chỉ này lật nhận thức-tình yêu thương tạo hóa ra bên ngoài:  quay ra bên ngoài là quay ra ngoại vi thay cho việc quay về trung tâm- thay việc quay về với Thượng đế là quay lại bản thân mình.
3.
Bến đỗ thứ ba: Sự tỉnh táo
Sự tỉnh táo là cấp bậc mà ( cái gọi là) thời kỳ lịch sử duy trì sự xuất hiện của con người. Khi con người rơi xuống biên giới của không-sự sống, trước khi bị tiêu hủy nó đứng lại, và con người đứng trân trân này bỗng ngoan ngoãn nghe theo lời kêu gọi từ sự quên lãng của đất, từ vương quốc của sự tăm tối và của thần chết và tỉnh giấc.
Kẻ tỉnh dậy đầu tiên là Adam sau đó đến Êva, và từ đó đến nay lần lượt tất cả chúng ta thức dậy. Chúng ta đã từng đóng vai chủ tạo hóa, giờ đây chúng ta được mời đến như khách trong cuộc sống trần tục.
Khi rơi xuống con người đã đánh mất sự nhận thức cổ và lòng yêu thương,  giờ đây  sinh ra từ đất, con người cần lấy lại cả hai thứ này, được bao nhiêu tùy sự có thể của nó. Trong hình hài này con người mang dấu đã ấn định của các Quyền lực (tüposz), mang tính cách cá nhân hóa (cái TÔI). Nó bị xác định trong không –thời gian, và sống một đời sống có hạn.
Loại, tính cách, không gian và thời gian không chỉ là sự hạn chế: đó còn là những khả năng và những điều kiện dành cho con người để nó quay trở lại. Trong loài ẩn giấu những sức mạnh mà con người có thể sử dụng; cái TÔI là thứ công cụ để linh hồn diễn đạt các sức mạnh; không gian là vị trí để nó sống và dành cho các hoạt động của nó; còn thời gian là thứ ân huệ lớn nhất : nếu con người ngay lập tức một lần quyết định và không bao giờ rút lại, nó sẽ rơi xuống vật chất một cách yếu ớt; thời gian là sự kéo dài khả năng tiến tới thức tỉnh- bởi linh hồn thức tỉnh cần thời gian.
Trong sự sống trần thế con người sống giữa các điều kiện bị phá hỏng bởi các Quyền lực. Nhưng như truyền thống Hermetikus hoặc thuật giả kim đã nói: không phải các sinh linh mà là bản chất của sự sống, hay dùng từ khác: các ý tưởng ban đầu của sự sống đã bị phá vỡ.
Quá trình cá nhân hóa, sự hư hỏng của cái TÔI cá nhân là hình ảnh của sự sống bị phá hỏng. Linh hồn sống trong thế gian vật chất, rất hãn hữu hoặc có nhớ lại cũng khá mơ hồ trạng thái trong sạch cổ. Cái ngự trị linh hồn là sự đờ đẫn vì vật chất. Nếu linh hồn nhớ lại, dù rất ít, trạng thái sáng sủa của nó nó sẽ nhận ra rằng sự thức tỉnh từ cái chết không hề tự nhiên, mà theo đúng nghĩa của từ ngữ,  đấy là khoảnh khắc trái tự nhiên, siêu nhiên. Và khi linh hồn ngày càng thức tỉnh hơn nó sẽ dần dần nhận rõ hơn, sự tái sinh từ thế gian vật chất thực ra là sự sống lại, sự phục sinh.
Huyền thoại ghi nhận biến cố này khi cho rằng NGÀI đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ở Palestin đấy là Jahve, ở Peru là Virakocsa tạo ra ánh sáng, trong thứ ánh sáng này con người hóa đá, tê liệt, biến thành đất một lần nữa có thể thức tỉnh. Thượng đế từ cát bụi sinh ra và hà hơi thở cho nó lần nữa.
Trong thời Alexandria người ta gọi sự ra đời tất nhiên là geneszis còn sự thức tỉnh có tên là ta geneszia. Bởi bản thân sự ra đời tất nhiên không mang ý nghĩa gì, nếu không cùng lúc là sự thức tỉnh của linh hồn.
Trong trạng thái thức tỉnh sau chấn động dữ dội, linh hồn một lần nữa mở ra. Nơi nó tìm thấy nó, giờ đây không phải là sự sống nữa mà chỉ là đời sống. Truyền thống không diễn đạt được trạng thái đời sống bằng một từ duy nhất vì cả trạng thái cổ cũng không biết. Khả năng đặt tên chính xác dành cho con người đã bị mất; cái còn lại chỉ là sự đặt tên mang ý nghĩa tượng trưng; nhưng những hình ảnh tượng trưng của thời cổ cũng bị mất, bởi vậy con người thời kỳ lịch sử gần như sống với những khái niệm câm và mù lòa.
Có thể đánh dấu trạng thái cổ của sự sống bằng các khái niệm như: sự thống nhất của kiến thức và tình yêu thương: là hình ảnh trái tim bốc lửa. Nhưng thời điểm thức tỉnh là lúc đã không còn sự sống, chỉ còn đời sống.
Và trạng thái đời sống này một lần nữa chỉ có thể diễn đạt một cách thiết thực, hai chiều bằng hai từ: sự sợ hãi và sự đau khổ. Thống nhất hai từ này là một sự bất lực. Tại sao? Bởi vì nơi hai từ này gặp gỡ nhau nằm xa khung diễn giải của ngôn ngữ ngày nay, bởi vì sự diễn giải muốn đời sống dính mắc trong cội rễ của nó, nhưng trong trạng thái của đời sống, ngôn ngữ đã không bao giờ có thể gắn bó trong cội rễ của nó được nữa.
Giáo huấn Sankhja bắt đầu bằng câu: đời sống là đau khổ. Đạo Phật cũng nói đúng như thế. Nhưng bằng sự đau khổ cả Sankhja lẫn đạo Phật đều muốn nói lên sự hợp nhất của sợ hãi và đau khổ, và từ đau khổ thường xuyên được sử dụng.
Một đối thoại của Hermes Trismegistos, khi nói về trạng thái cổ và thời kỳ sa ngã của con người có nói: sự run sợ -phobosz đã tóm lấy Tạo Hóa. Sự sợ hãi này là một trạng thái ban đầu cổ xưa đến mức từ đây theo nhiều nghi chép Ấn cổ Atman sở dĩ tạo ra thế giới bởi vì” sợ một mình”.
Böhme, người mà trực giác huyền bí khó có thể lầm trong lời giải thích viết cho Genezis đã viết về hai bản năng của Tạo Hóa. hai bản năng đó là:” Y chí cứng như đá” và „Niềm vui tự do”. Hai bản năng này, Böhme nói thổi bùng lên đam mê hướng về nhau, và trong khoảnh khắc, khi cả hai chạm vào nhau” Sự run rẩy nổ toang”(Schrack) như khi chớp giật.
” Trong sự khủng khiếp này ngọn lửa đầu tiên nhóm lên. Bởi ý chí cứng như đá không là gì khác ngoàibóng tối và sự đông cứng, giờ đây từ ánh sáng và từ sự mềm mại bao bọc của niềm vui tự do, nó run lên. Trong ý chí cứng như đá, khi trong chính bản thân nó tự bóp ngạt tính ích kỷ lạnh lùng đóng băng và khóa trái bản thân nó lại,  ghê sợ của cái chết nhen nhúm. Bởi bản chất của bóng tối là sự ghê sợ; Như vậy nó tự kìm hãm nó vào bản thân nó, như nỗi losợ ánh sáng, như kẻ thù của ánh sáng. Và đây là trạng thái cổ của thế giới tối tăm, đây là bản thân thế giới tối tăm.”
Nỗi sợ hãi, phobosz,Schreck mà szmti của Ấn độ, hay Hermes và Böhme nhắc đến là nỗi sợ hãi từ sự đau khổ; Sự đau khổ mà Phật và Sankhja nói đến là sự đau khổ bởi sợ hãi. Cả hai là một, sợ hãi là đau khổ và đau khổ là sợ hãi.Mọi sự sống trần thế đều đau khổ; nhưng mọi sự sống trần thế đều là sự sợ hãi.
Đây là trạng thái của đời sống.  Con người run rẩy và đau đớn, rùng mình, lo âu trong trạng thái thức tỉnh từ bóng tối đi ra, trong những tia nắng đầu tiên của sự sáng sủa.
” Sự sợ hãi- Böhme nói -là một dạng của sự nhậy cảm, là kẻ đánh thức tâm trạng, là một cái gì đó thôi thúc cảm giác hoạt động.”
Sự sợ hãi và sự đau khổ thực ra là một dấu hiệu mơ hồ đầu tiên của sự tỉnh táo. Đau khổ và sợ hãi xuất hiện để con người đừng rơi vào sự tăm tối,cái chết và sự quên lãng một lần nữa: tất cả mọi người cần phải đau khổ và sợ, để thức tỉnh.
Đây là trạng thái thức tỉnh. Linh hồn đóng băng, tăm tối, biến thành màn đêm, biến thành đá trong sự sợ hãi và trong đau khổ trưởng thành và vỡ tan, để sự sống một lần nữa mở ra.
Sợ hãi và đau khổ mang hai ý nghĩa và có hai mặt; bởi vậy nó cũng có thể khóa lại cũng như có thể mở ra: nó có thể mang lại tự do cũng như mang đến một ngục tù tăm tối. Trong sự thức tỉnh linh hồn có thể thành vật thí nghiệm cho hai hướng: ánh sáng- sự quay lại trạng thái cổ, hoặc bóng tối-sự rơi xuống vật chất.
Nhưng trong thế giới nó đang sống, hoàn cảnh của nó dễ hơn: ánh sáng và bóng tối đứng riêng, âm và dương, như người Trung quốc hay nói đêm và ngày, mùa đông và mùa hè, sự tỉnh táo và sự đờ đẫn.
Sự sợ hãi và đau khổ khiến linh hồn con người từ những nhậy cảm cơ bản biết quyết định và tham dự. Con người không hiểu nỗi sợ hãi và sự đau khổ. Người ta tránh nó, mà không nhận ra rằng khi lẩn tránh thực ra họ tự khóa họ vào nỗi sợ hãi và sự tối tăm. Người nào sợ hãi và đau khổ, người đó cùng lúc gọi luôn cả sự minh bạch của trạng thái cổ và vương quốc tối tăm của sự quên lãng. Người nào bảo tồn sự nhậy cảm về nỗi sợ hãi và sự đau khổ trong bản thân, người đó đang đi về phía ánh sáng; người nào khóa nó lại trong bản thân, người đó cho phép lời mời chào của vật chất và bị khóa vào tăm tối. Cần phải sợ hãi và đau khổ: bằng sợ hãi và đau khổ con người gánh vác số phận của linh hồn và nhận lời mời gọi tiến lên phía trước.
Những hậu quả tâm lý của nỗi sợ hãi và sự đau khổ là vô tận: sự sợ hãi và sự đau khổ quyết định toàn bộ đời sống của con người sống trong thiên nhiên vật chất. Mọi biểu hiện của sự trốn tránh, cởi mở, chân thành, dối trá, sự đảm bảo, sự quyết định, sự dũng cảm hay hèn nhát đều từ sự sợ hãi và sự đau khổ mà ra, và không bao thắng được nó hoàn toàn.
4
Bến đỗ thứ tư: Sự lặp lại
Có thể nhận biết ra sự lặp lại ở những biểu hiện bên ngoài của con người hiện đại. Người ta đều biết thực thể người trong tử cung của người mẹ phải trải qua những biến thái bí ẩn,và họ hiểu được ý nghĩa của những điều bí ẩn này: con người cá nhân lặp lại con đường giống nòi của nhân loại.
Người ta gọi sự lặp lại này là sự phát triển, như thể con người đang đi trên con đường hoàn thiện, và ngày càng  hoàn thiện.
Tất nhiên không có sự phát triển nào ở đây cả.
Con người trải qua từng mức độ của sự thức tỉnh, và khi được sinh ra, nó không trở nên độc lập và chỉ tiếp tục sự lặp lại. Khi nó lặp lại không có nghĩa là đời sống của lượng đông đảo vĩ đại của nhân loại thêm một mức độ, một cấp bậc mới, thực ra sự lặp lại không là gì khác ngoài sự nhắc lại của những cấp độ trước của con người một lần nữa.
Nhưng sự lặp lại này không chỉ ở bên ngoài. Từ nền tảng một vài nhận thức mới của tâm lý học hiện đại, con người ngày nay bắt đầu hiểu, sự lặp lại các mức độ đời sống trước nó không chỉ trong hình dạng sinh học, mà sự bí ẩn của quá trình biến thái là một quá trình bên trong.
Con người trong tử cung trải qua những bến đỗ mơ hồ của đời sống như trong giấc mộng- qua những cơ cấu động vật học của sự sống, như hình ảnh tượng trưng của sự luân hồi. Khi con người sinh ra, đấy là khoảnh khắc của sự thức tỉnh: khi linh hồn con người ngoan ngoãn nghe theo tiếng gọi bước ra ánh sáng mặt trời.
Đấy là sự tạo dựng Adam. Khi con người được sinh ra,  sự sáng sủa tách ra khỏi bóng tối. Và con người tiếp tục lặp lại. Trong thời thơ ấu nó nhắc lại những cử động, thói quen, ngành nghề của các thế hệ cổ xưa; bé trai chơi trò đánh trận, làm ông bố trong gia đình, đóng vai tướng cướp, thủ lĩnh; bé gái giả nấu ăn, chơi búp bê, khâu vá, đẩy xe nôi.
Trò chơi không phải sự chuẩn bị cho những vai trò xã hội quan trọng như người ta nghĩ; linh hồn lặp đi lặp lại một cách vô thức những hoạt động đã hằn sâu trong linh hồn. Thực thể người cá nhân sao chép lại những hoạt động của con người vĩnh cửu trên  đường đi của con người vĩnh cửu.
Và loài người, rất hãn hữu, có thể nói trừ một vài ngoại lệ, không bao giờ biến thành chủ thể, không bao giờ bước ra khỏi sự lặp lại, không bao giờ làm gì khác ngoài việc lặp lại một lần nữa những lý tưởng, tư tưởng, cảm xúc, hành vi, quan điểm của những thế hệ đã sống trước nó.
Những quá trình thức tỉnh có hiệu quả trong thời cổ luôn được diễn ra để đánh thức con người và nâng họ lên sự sống chủ động. Đấy là những quá trình nhập định. Với nhân loại loài người chưa xảy ra quá trình này.
Nhân loại từ sau khi thời cổ biến mất đứng dẫm chân tại một chỗ: không làm gì hết ngoài việc nhắc lại, lặp lại. Nhắc lại, lặp lại những bến đỗ dân tộc, loài giống, giới tính, quốc gia, ngôn ngữ, tư tưởng: chưa bao giờ nghĩ ra điều gì khác, xúc cảm khác, phát ngôn khác ngoài những điều cả trăm nghìn thế hệ trước đã phát ngôn, cảm xúc, suy nghĩ.
Chưa bao giờ linh hồn cá thể tuyên ngôn một lần duy nhất, đạt đến một lần duy nhất một nhiệm vụ, một quá trình cá nhân hóa, một sự sao chép bản sao Thượng đế vượt quá sự lặp lại, trước khi một lần nữa bước qua ngưỡng của của cái chết. Nhiều người không đạt tới hết các mức độ của nhân loại vũ trụ- không lặp lại nổi toàn bộ con đường, không sống hết toàn bộ các biến thái của con người.
Kinh Thánh đã nói rất rõ về điều này: về con người được giao cho nhiệm vụ cất giữ  và bảo vệ tiền – đấy là con người cả cuộc đời không làm gì khác ngoài việc lặp lại những gì loài người đã nhận được.; đấy là con người đã biết nhân đôi số tiền được trao giữ- là con người bằng sự sống đặc thù của nhân loại đã làm giàu có, mở rộng, soi sáng và nâng cao cái chủ thể vĩnh cửu trong hành động hoặc trong tác phẩm.
„ Con người- Baader nói- cần trở thành hình ảnh đích thực của Thượng đế, như hình ảnh tượng trưng của Thượng đế tự nhiên. Trong mọi sự vật, sự việc, cá nhân, thực thể cần phải lặp lại, nhắc lại cho đến khi điều này con người vĩnh cữu thực hiện được trong bản thân mình.”
Con người không thức tỉnh để trở thành sự lặp lại của sự sống vũ trụ, mà để hiện thực hóa Con Người Trời cổ trong một dáng hình nào đó.
Sau khi thức tỉnh có hai con đường mở ra trước mặt con người: lang thang vật vờ và thức tỉnh. Lang thang vật vờ vô hướng; sự đờ đẫn mê muội từ mơ hồ quên lãng chứa bên trong nó một sức mạnh không biết gì hơn ngoài việc lặp đi lặp lại như một thực hành những âm điệu đã xảy ra trước sự sống.
Trạng thái lang thang vật vờ là trạng thái vô luật. Là sự nhầm lẫn vật vờ. Kinh Veda gọi là luân hồi (szamszara). Con người sống trong sự đờ đẫn vật vờ: nó lang thang trong sự rối loạn vô nghĩa, nửa tỉnh nửa mê, bám víu,yếu ớt, mù quáng, không biết gì hơn chỉ lặp lại những mức độ đã sống qua hàng trăm nghìn lần của sự sống-
Còn thức tỉnh là con đường thứ hai, con đường tỉnh giấc. Đây là con đường của ánh sáng, là trạng thái đúng luật. Đây là vidja.
Con người tỉnh táo biết rằng, nó cần phải trải qua toàn bộ quá trình biến thái, tự nó. Cần tự trải qua nỗi sợ hãi và sự đau khổ, để tự giải phóng nó và sau rốt tự nó cất lời. Khi nó hoàn thành hàng hàng loạt sự lặp lại, nó bước ra khỏi luân hồi. Nó vẫn còn trên quả đất, vẫn là con người, nhưng không phải là kẻ vật vờ nữa, mà là một người hành hương, người đang bước trên con đường đi về phía Người Trời.
5
Bến đỗ thứ năm: Bóng tối bên ngoài.
Saint-Martin nói:” Nói đúng ra thế giới bên kia không bao giờ rời khỏi”.
Mối quan hệ với Người Trời ở mỗi người chưa bao giờ đứt đoạn hoàn toàn. Tất cả các bến đỗ của con người đều trên con đường của Con người Vĩnh cửu, nhiệm vụ không thể nói bằng lời, hay trong hình ảnh. Số phận của tất cả mọi người đều đi đến sự lặp lại và đều đồng nhất: không ngoại lệ, tất cả mọi người đều trải qua trạng thái cổ, đều sống qua sự lao xuống và đều thức tỉnh, đều cần phải nhắc lại con đường của Con người Vĩnh cửu.
Nhưng giờ đây con đường chia đôi. Trong trường học của Pitago truyền thuyết Heracles được biểu tượng bằng chữ Y. Phần dưới của chữ Y là con đường chung, dành cho tất cả mọi người đều giống nhau. Nhưng điểm giữa nơi chữ Y chia làm hai ngả, Heracles là con đường đã lựa chọn.
Cần lựa chọn giữa sự vật vờ lang thang và sự thức tỉnh. Giữa con đường” hẹp” và con đường”rộng”. Con đường”hẹp” tự gỡ từ nó những lớp chăn phủ maja, tính sổ với các giác quan, với manas, với cái TÔI, với buddhi, và quay về với Atman.
Con đường”rộng” đi về phía khác: chìm vào các giác quan, vào cái TÔI, các đam mê, các hình ảnh giấc mộng, các ảo ảnh. Đấy là sự chìm đắm vào bóng tối bên ngoài: sự lầm lẫn sau cùng, sự đờ đẫn sau cùng, dưới bản án không thể chuộc lại của bản thân họ. Bởi vậy sách thiêng đã nói, kẻ nào bị dẫn dắt đến sự tăm tối bên ngoài, sẽ hối cải tại đáy địa ngục: không bao giờ quay lại nơi sinh ra của linh hồn, quay lại ánh sáng.
Ở đây cần lưu ý đến một sự nhầm lẫn cơ bản của con người hiện đại. Sự nhầm lẫn này là bên trong của viparjaja; Viparjaja có nghĩa là sự lộn ngược ý nghĩa gốc gác của quan điểm.
Con người lịch sử lộn ngược ý nghĩa gốc rễ của quan điểm khi cho rằng thị giác đầu tiên và tất nhiên có hướng”quay ra ngoài”, chỉ dưới tác động của các hạn chế bên ngoài con người mới bắt đầu quay vào trong. 
Đánh tan sự nhầm lẫn này không đơn giản.
Thực ra điểm bắt đầu là sự tách rời thế giới bên ngoài và bên trong không là gì khác ngoài kết cấu gương thô thiển nhất. Cái giới hạn cực đoan của sự mù lòa nhận thức của con người xảy ra khi kiến thức về thế giới”bên trong” hoàn toàn bị đánh mất, và chỉ có khả năng coi nó là đối kháng „bên ngoài” Trong thực tế bên trong và bên ngoài ở ý nghĩa đó không tồn tại.
Con người lịch sử từ phương pháp thực hành muốn đặt tên cái thế giới giác quan và vô hình với niềm tin rằng cái thế giới tinh thần- linh hồn vô hình này nằm bên trong con người, như một bộ phận hoặc một tế bào, và là đối kháng của thế giới hữu hình.
Truyền thống khi gợi lên sự phân biệt này, trong mọi trường hợp là hình ảnh tượng trưng, cần phải hiểu trong thế giới” bên trong” là cảnh giới của người trời, của sự hướng về cái TÔI thượng đế( Atman), là thế giới siêu nhiên vượt trên cả giác quan và thiên nhiên- còn thế giới „bên ngoài” là thế giới vật chất nặng nề thô thiển nằm trái ngược với Atman.
Từ sự phân biệt này của truyền thống tất nhiên điều tiếp theo là thế giới linh hồn-tinh thần không chỉ là đầu tiên, trước nhất, cơ bản mà còn là thế giới của ánh sáng, của thượng đế, của cái TÔI thượng đế của tạo hóa cổ.
Và từ đó tất nhiên điều tiếp theo là quan điểm và thấu giác cơ bản đầu tiên của con người hướng „vào trong” và ở”bên trong”. Việc quay ra bên ngoài trùng với sự”phạm tội”, với quá trình vật chất hóa, quá trình rớt từ thế giới tinh thần.
Quay ra ngoài, con người rất muộn mằn mới bắt đầu nhận ra, và nhận thức này bắt đầu xuất hiện trong sự tiếp nối của ức chế tai hại ngăn cản nhận thức quay „vào trong”. Khi linh hồn con người bắt đầu nhìn ra ngoài, thực ra lúc đó nó nhìn ngược với hướng của tinh thần: nó quay về phía tự nhiên vật chất, về thế giới thô thiển và nặng nề- về phía tối tăm.
Đến đây cần nhắc lại, không chỉ là vấn đề nhận thức.
Cần hiểu từ nhận thức đầu tiên, nhận thức cổ truyền thống muốn nói đến trạng thái cổ, sự yên bình êm ả, đến thiên đường, đến sự thống nhất giữa tình thương và sự hiểu biết, đến Adam Kadmon, chúa tể chói lòa của thế giới.
Khi con người quay ra ngoài, bản chất này của nó là kết quả của sự tăm tối hóa; Sự lu mờ, mơ hồ bên trong xuất hiện trong quá trình quay ra ngoài: linh hồn đánh mất ánh sáng của chính nó, trở nên tăm tối, và sự sờ soạng trong bóng tối này được đặt tên là nhận thức” bên ngoài”.
Quay ra ngoài không là gì khác ngoài việc mất ánh sáng bên trong; mất ánh sáng bên trong không là gì khác ngoài việc tách xa Người Trời.
”Nhận thức của con người thiếu ánh sáng thượng đế không thấy gì khác ngoài những sự vật của thế giới bên ngoài, và nó càng tách biệt với sự cao cả bao nhiêu nhận thức và thấu giác của nó quay về bản thân càng bị khóa lại bấy nhiêu.”
Bởi vậy”cái bên ngoài” không phải là linh hồn, là thiên nhiên, là vật chất, là hiện thực, mà cái bên ngoài chính là: bóng tối.
Ở Tây Tạng người ta gọi biên giới giữa ánh sáng bên ngoài và bên trong là csösznjid-maba. Ánh sáng bên ngoài không là gì khác ngoài là hình ảnh tượng trưng bên trong. Nếu mối quan hệ của con người đứt đoạn với thế giới bên trong, thế giới bên ngoài của nó rơi vào tăm tối. Mối quan hệ này mất đi nếu con người cắt đứt với ánh sáng thượng đế và dẫn dắt con đường của mình đi ra bên ngoài.
Dấu hiệu của điều này là kỷ niệm cội rễ của thượng đế trong nó đã tắt. Cái TÔI chiếm lĩnh sự thống trị nó. Đây là sự lặp lại của tội tổ tông. Đây là sự kiêu ngạo. „ Kẻ nào kiêu ngạo kẻ đó để Quyền lực cắt đứt con người khỏi gốc rễ của nó”. Và khi con người cắt đứt chính nó, nó yếu ớt rơi rụng.
Cái tên Aton ở Ai cập nghĩa là: Mặt trời Bên Trong. Cái tên Szét nghĩa là: bóng tối bên ngoài. Ý nghĩa của truyền thuyết Oziris: kẻ nào quay ra phía ngoài kẻ đó bị bóng tối giết chết.
Những người theo trường phái Hermetikus hiểu biết về những đêm nhỏ và lớn. Đêm nhỏ là nơi từ đó con người sinh ra, nhỏ bởi nó mang khả năng bước ra: được sinh ra. Còn đêm lớn là nơi đời sống của nó sẽ rơi vào sau cái chết của một linh hồn sống vô nghĩa.
Đây là bóng tối bên ngoài, khi đứt đoạn với cái bên trong, nghĩa là đứt đoạn với thế giới bên kia, với trạng thái cổ. Linh hồn cũng biến thành cái bên ngoài: thành đồ vật, sự vật và trở thành kẻ như những người theo phái Scientifista nói: thành phản xạ, thành bộ máy. Thành bóng ma.
”Một dạng của nhận thức, không bước qua khỏi những giác quan động vật, một sự sống người bị cách mạng hóa: tuột dốc…Loại người này là sự tha hóa trầm trọng nhất của tri thức.” Con người hoàn toàn sống trong „những hình ảnh của sự tối tăm riêng biệt của nó”. Không bao giờ còn mang tính thượng đế nữa, chỉ là cái TÔI hung tợn.
Ở Iran Ahriman là vương quốc của sự tối tăm tạo dựng thế giới Mâu thuẫn tối tăm đối nghịch với thế giới ánh sáng. Cư dân ở thế giới này là Drug- drug có nghĩa là” người khác” một kẻ” không phải kẻ đó”.
Sự tối tăm không là gì khác ngoài” Sự vô công rồi nghề vũ lực”- luôn luôn nỗ lực để những hoạt động của con người chết cứng lại giữa những hạn chế không được giải tỏa.
Sự tăm tối bên ngoài là vị trí cuối cùng của con đường của con người. Khi” nhận thức tăm tối cho rằng thế giới bên ngoài là hiện thực duy nhất.” và nó sống trong sự tăm tối bên ngoài.
Vị trí của con người lịch sử đang ở tận cùng, bởi nó khiến sự tăm tối bên ngoài này trở thành phổ biến.” Bởi con người bên ngoài đang bị tiêu diệt, trong khi con người bên trong đổi mới và phục sinh”
Kẻ nào đặt bản chất của mình vào thế giới bên ngoài, là đặt mình vào sự tăm tối của cái chết và sự quên lãng. Cái bên ngoài tăm tối nghĩa là như vậy.
6. Bến đỗ thứ sáu: Sự giải phóng.
Sự giải phóng dành cho tất cả mọi người, những ai thức tỉnh từ sự quên lãng vật chất, đây là một bí ẩn mở.
Bởi vì con đường quay lại Người Trời này không đồng nhất với con đường của sự đứt đoạn với con người vũ trụ; và linh hồn, khi quay lại một cách đã được giải phóng, không quay lại vị trí cũ.
Con đường của sự giải phóng cũng tương tự như con đường của sự đứt đoạn, nhưng lại không đồng nhất; linh hồn, khi quay lại đúng vị trí gốc rễ của nó, đúng vị trí đó nhưng đồng thời không phải vị trí đó.
Đây là sự huyền diệu mà ý nghĩa của nó là: linh hồn là vị vương trẻ tuổi được vua cha già nua gửi vào trần thế để học hỏi, và khi vương tử trẻ tuổi này học xong trường học trần thế, quay trở lại đảm nhận ngai vàng của mình (kinh Veda). Tất nhiên đây là hình ảnh tượng trưng.
Sự giải phóng, sau khi đã thức tỉnh là sự cập bến đến đích; nhưng cùng lúc dường như không có gì xảy ra, chỉ vì những ảo ảnh riêng tư đã làm đui mù linh hồn, và mang lại những giấc mộng: thế gian, cái TÔI, nhân loại,đời sống, lịch sử, sự ra đời, tình yêu, bệnh tật, cái chết- nhưng khi những hình ảnh mộng này tan biến, linh hồn được giải phóng khỏi sự quyến rũ của những hình ảnh in dấu ấn và ngây ngất này.
Sự giải phóng là một bí ẩn huyền diệu trong đó ẩn dấu và tồn tại bí mật này:con người từ đâu và cái gì được giải phóng, và kết quả của sự giải phóng này là gì.
Cần phải gọi là sự giải phóng bởi vì: giải phóng khỏi thân xác, nhà tù của linh hồn phải sống một đời sống sợ hãi và đau khổ trong thế gian vật chất; giải phóng khỏi những ảo ảnh mà sự đờ đẫn cứ tưởng đấy là hiện thực.
Sự giải phóng là bến đỗ cuối cùng của các biến thái linh hồn con người: nếu con người biết sử dụng đúng đắn sự thức tỉnh của mình, sẽ không bị chìm đắm vào bóng tối bên ngoài - sẽ được giải phóng.
Mục đích: Trở lại thành con người Thượng đế, Người Trời - là Atman - là linh hồn cổ. Con đường: Sự nhập định.
6/6/2012
Hamvas Béla
Nguyễn Hồng Nhung dịch
Nguồn: Trích tiểu luận triết học: Scientia sacra
Theo http://quyetnguyenblog.blogspot.com/
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...