Vua Lê Thái Tổ
Sau khi đánh đuổi quân
Minh ra khỏi bờ cõi, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi Vua, đặt niên hiệu
là Thuận Thiên:
“Mậu Thân, Thuận Thiên
năm thứ 1 (Minh Tuyên Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng [17/1-14/2/1428],
quân Minh đã về nước, vua bèn thâu tóm cả nước, lấy năm này làm năm đại định.”Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 54b.
Nhà Vua ra lệnh các quan
tại trung ương bàn định pháp lệnh cai trị quân dân; các tướng hiệu
trị quân theo pháp luật; các lộ tại địa phương tra xét dân tình không
để cho tàn dư quân Minh lọt lưới:
“Hạ lệnh cho các quan Tư
không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân dân,
để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để
răn dạy quân dân biết là có pháp luật. Mọi công việc đều có các cơ quan
phụ trách riêng, dâng lên vua xem.
Hạ lệnh cho các tướng
hiệu và các quan rằng: Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có
pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các
tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác,
điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp. Hạ
lệnh cho các đại thần, thiếu úy, chấp lệnh, truyền lệnh cho các lộ, nếu thấy
ngụy quan, thổ quân và dân chúng từ các thành trốn ra mà che dấu, không giải
trình thì chém.
Lại hạ lệnh cho các lộ tra
xét những người lạ mặt qua lại, ai dám dung túng cho giặc Minh và ngụy quan
trốn lọt mà không biết, thì lộ quan cùng người thủ đội đều bị chém. Hạ lệnh cho
con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu đều nên trở về nhận ruộng đất ở quê
cha đất tổ, để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất.
Nhà Minh có chiếu nói
rằng: Tất cả bọn quan lại, quân nhân của triều đình sai sang còn bị giam giữ
đều phải trả về hết, các vũ khí còn giữ lại cũng phải đưa nộp. Vua bèn cho yết
bảng nghiêm cấm, nếu người nào chứa giấu quan quân của nhà Minh từ 1 người trở
lên thì giết không tha. Người ra thú lục tục cho đưa về Yên Kinh [Bắc
Kinh].” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 55b.
Vào ngày 10 tháng giêng
[26/1/1428], Trần Cảo trốn vào Nghệ An, bị bắt đem về, rồi phải uống
thuốc độc chết:
“Bấy giờ các quan đều
dâng sớ nói Trần Cảo không có công gì với dân, sao lại ở trên mọi người, nên
sớm trừ đi. Vua cũng biết là như vậy, nhưng trong lòng không nỡ, đối xử càng
hậu. Cảo biết người trong nước không phục mình, bèn ngầm đi thuyền vượt biển
trốn vào châu Ngọc Ma [Phủ Trấn Định, Nghệ An]. Đến Ma
Cảng đất Nghệ An quan quân đuổi bắt được, đem về Đông Quan, bắt uống thuốc độc
chết.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 55a.
Tháng 2 [15/2-15/3/1428],
ghi chép công trạng công thần đầu tiên theo khởi nghĩa từ đất Lũng Nhai, Lam
Sơn. Cho họ được phong tước có thứ bậc hơn kém khác nhau và được theo quốc
tính họ Lê:
“Tháng 2, định các mức
khen thưởng cho những Hỏa thủ [đội trưởng] và quân
nhân của quân Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai gồm 121 (1) người.
Công hạng nhất, được ban quốc tính là bọn Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, Lê Ê 52
người làm Vinh lộc đại phu, tả Kim ngô vệ đại tướng quân, tước Thượng trí tự.
Công hạng hai, được
ban quốc tính là bọn Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo 72 người, làm Trung lượng đại phu,
tả Phụng thần vệ tướng quân, tước Đại trí tự.
Công hạng ba, được
ban quốc tính là bọn Lê Lễ, 94 người, làm Trung vũ đại phu Câu kiềm vệ tướng
quân, tước Trí tự. Hành khiển Lê Cảnh phụng mệnh làm biểu ngạch.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 56b.
Qua các nguồn tư liệu,
chúng tôi tìm được 13 người được ban quốc tính Lê, nhưng nguyên thuộc
họ khác. Tuy nhiên đến đời Lê Thánh Tông, cho phép bản thân người được
ban giữ nguyên quốc tính; còn con cháu cho trở về họ cũ để khỏi mất
gốc:
Họ tên gốc |
Họ tên sau khi đổi sang quốc tính |
Nguồn tư liệu chứng minh |
|
||
|
|
|
1. Nguyễn Trãi |
Lê Trãi |
Họ gốc:Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 8, trang 9a. Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ
quyển 10, trang 67 a.Từng giữ chức Thượng thư bộ Lại, Nhập nội hành
khiển. |
2. Trần Ngân |
Lê Ngân |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội
Thề.Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển
9. Từng giữ chức Nhập nội đại tư mã. |
3. Đinh Lễ |
Lê Lễ |
Họ gốc: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10
, trang 32a. Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ
quyển 10, trang 32 a. Từng được ban biển ngạch công thần Đình thượng
hầu. |
4. Lý Triện |
Lê Triện |
Họ gốc:Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
Vhính Biên quyển 13. Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
Bản Kỷ quyển 10, trang 28 a. Chức vụ Thiếu úy. |
5. Nguyễn Chích |
Lê Chích |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội Thề.Quốc
tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10, trang 66 b. Từng
được ban biển ngạch công thần Đình thượng hầu. |
6. Nguyễn Xí |
Lê Xí |
Họ gốc: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 12
, trang 5a. Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ
quyển 10, trang 67 a. Tước phong Qùy Quận công. |
7. Phạm Bôi |
Lê Bôi |
Họ gốc:Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội Thề.
Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10, trang 36a;
giữ chức Thượng tướng làm Thiếu úy. |
8. Trần Bị |
Lê Bị |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội
Thề.Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển
10, trang 66 b. Từng được ban biển ngạch công thần Huyện hầu. |
9. Trần Lý |
Lê Lý |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội
Thề.Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển
10, trang 66 b. Từng được ban biển ngạch công thần Hương thượng hầu. |
10. Trần Văn An |
Lê Văn An |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội Thề.Quốc
tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 10, trang 66 b. Từng
được ban biển ngạch công thần Đình thượng hầu. |
11. Trần Văn Xảo |
Lê Văn Xảo |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội
Thề.Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển
10, trang 66 b. Từng được ban biển ngạch công thần Huyện thượng hầu. |
12. Trịnh Khả |
Lê Khả |
Họ gốc: Quân Trung Từ Mệnh Tập, Bài Văn Hội
Thề. Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển
10, trang 66 b. Từng được ban biển ngạch công thần Huyện hầu. |
13. Xa Khả Tham |
Lê Khả Tham |
Họ gốc: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ quyển
10 , trang 36a. Quốc tính: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản
Kỷ quyển 10, trang 36a. Ban cho Khả Tham chức Nhập nội tư không đồng bình
chương sự tri Đà Giang trấn thượng ban. |
Lúc này sứ bộ nhà Minh
được Vua Tuyên Tông sai đến nước Đại Việt đã đến Long Châu, Quảng Tây;
đang chờ để được đón vào nước:
Ngày 10 tháng 2 năm Tuyên
Đức thứ 3 [24/2/1428]. Thị lang
bộ Lễ Lý Kỳ, Thị lang bộ Công La Nhữ Kính tâu rằng:
‘Thành sơn
hầu Vương Thông không đợi mệnh triều đình, tự tiện bỏ thành mang quân trở về.
Bọn thần gặp tại Nam Ninh, Thông can bọn thần đừng đi, đợi để tâu về triều.
Thần không dám nghe lời, bèn đến Long Châu để đợi người Giao Chỉ nghênh tiếp.”
(Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 187.)
Ngày mồng 8 tháng 3
[23/3/1428] sứ bộ nhà Minh đến nước ta, đến ngày 18 tháng 3 [2/4/1428]
trở về nước. Dịp này có 2 phái đoàn Đại Việt tháp tùng: Một phái
đoàn do cháu Vua là Hộ bộ lang trung Lê Quốc Khí cầm đầu, sang tạ ơn;
phái đoàn thứ hai do bọn Khu mật thiêm sự Hà Phủ báo tang Trần Cảo mất:
“Tháng 3, ngày mồng
8 [23/3/1428], chánh sứ nhà Minh là Lễ bộ tả thị lang Lý Kỳ và Công
bộ hữu thị lang La Nhữ kính, phó sứ là Thông chính sứ ty hữu thông chính Hoàng
Ký và Hồng lô tự khanh Từ Vĩnh Đạt đến kinh sư. Trước đây, tháng 8, năm Đinh
Mùi [22/8-20/9/1427], vua sai bọn Lê Thiếu Dĩnh sang nhà Minh
dâng biểu cầu phong, xin lập con cháu nhà Trần. Tháng 11 [19/11-17/12/1427],
nhà Minh sai bọn Lý Kỳ, Nhữ Kính mang chiếu dụ và lệnh ân xá sang, đến nay tới
kinh sư.
Ngày 18 [2/4/1428], sai
sứ sang nhà Minh. Bấy giờ bọn Lý Kỳ, La Nhữ Kính về nước, vua sai
bọn Hộ bộ lang trung Lê Quốc Khí (cháu ruột Thái Tổ), Phạm Thành sang tạ ơn,
bọn Khu mật thiêm sự Hà Phủ, Hà Liễn sang báo tang của Trần Cảo, cùng đi với
bọn Kỳ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 57a.
Phái đoàn Trung Quốc và
Đại Việt lặn lội trên 2 tháng trời, đến ngày 13/6/1428 mới đến Bắc
Kinh, kinh đô nhà Minh:
“Ngày 1 tháng 5 năm
Tuyên Đức thứ 3 [ 13/6/1428 ]. Bọn Hành
tại bộ Lễ Hữu Thị lang Lý Kỳ, Công bộ Hữu Thị lang La Nhữ Kính đi sứ Giao Chỉ
trở về. Lê Lợi sai bọn Đầu mục Lê Khí, Hà Phủ đi theo bọn Kỳ đến triều đình
dâng biểu tạ ơn và tâu rằng cháu họ Trần là Cảo mất vào ngày mồng 10 tháng
giêng năm nay. Con cháu họ Trần đều tuyệt, nên người trong nước suy cử Lợi cẩn
thận giử nước, để đợi mệnh của triều đình.” (Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 196)
Ngoài ra trong tháng 3,
phong cho con thứ Nguyên Long tước Quận công; định công ban thưởng các
quan văn võ, Thừa chỉ Nguyễn Trãi được ban tước Quan phục hầu:
“Phong con thứ là Nguyên
Long làm Lương quận công. [57b]
Đại hội các tướng và
các quan văn võ để định công, ban thưởng, xét công cao thấp mà định thứ bậc.
Lấy thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu; tư đồ Trần Hãn làm Tả tướng quốc;
Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái Bảo; đều được ban quốc tính.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 57a.
Chia cả nước làm 5 đạo,
gồm: Tây, Đông, Nam, Bắc, và Hải Tây. Thiết lập các vệ quân, đặt Tổng quản
và Hành khiển chia giữ sổ sách về quân và dân. Địa Dư Chí trong Lịch Triều Hiến Chương của
Phan Huy Chú chép:
“Các trấn Tam
Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa và Gia Hưng đều thuộc Tây Đạo.
Các lộ Thượng Hồng, Hạ
Hồng, Nam Sách thượng, Nam Sách hạ và trấn An Bang đều thuộc Đông Đạo.
Các trấn và các lộ
Bắc Giang, Lạng Giang và Thái Nguyên đều thuộc Bắc Đạo.
Các lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương và Thiên
Trường đều thuộc Nam Đạo. Các lộ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa
đều thuộc Hải Tây Đạo.”
Sai các quan đi cúng tế
các thần núi, sông, cùng lăng tẩm các triều trước; tôn thụy hiệu tổ
tiên nhà Vua:
“Sai các quan chia
nhau đi tế thần kỳ núi, sông, đền, miếu các xứ và lăng tẩm của triều trước.
Truy tôn thuỵ hiệu từ
khảo tỷ (2) trở lên. Tổ khảo Đinh làm Chiêu Đức Hoàng Đế, bà là
Nguyễn Thị Quách làm Gia Thục hoàng hậu, cha là Khoáng làm Tuyên Tổ Hoàng Đế,
mẹ là Trịnh Thị Thương làm Ý Văn hoàng hậu.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 57b.
Vào tháng 4, Vua từ dinh
Bồ Đề dời về thành Thăng Long; chính thức lên ngôi, đặt quốc hiệu là
Đại Việt. Nhà Vua xuống chiếu miễn thuế, miễn sai dịch cho người
già; qui định văn thư phải dùng đúng quốc hiệu, niên hiệu, và qui
định chữ húy cần phải kiêng:
“Mùa hạ, tháng 4, vua từ
điện tranh ở Bồ Đề về đóng ở thành Đông Kinh.
Ngày 15 [29/4/1428],
vua lên ngôi ở Đông Kinh, đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu
là Đại Việt, đóng đô ở Đông Kinh (tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây
Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh). Xuống chiếu rằng, các thứ thuế
như tô ruộng, vàng bạc, đầm phá, bãi dâu trong cả nước, đều tha cho 2 năm không
thu, những người già ở các lộ từ 70 tuổi trở lên được miễn sai dịch, những
người con hiếu thảo, đàn bà góa giữ tiết thì cho các quan ở lộ tâu lên để biểu
dương khen thưởng. Các gia đình quân, dân, nếu trong 1 hộ có 3 người sung quân
thì cho miễn 1 người. Những lăng miếu của đế vương và công thần các đời thì cho
huyện sở tại làm bản tâu lên để xét cấp cho người quét dọn.
Ngày 17 [1/5/1428], ra
lệnh chỉ rằng, từ sau ngày chiếu thư ban ra, nếu quân hay dân có dâng thư nói
việc gì thì phải theo đúng niên hiệu, quốc hiệu, đô hiệu như trong chiếu thư,
ai trái thế thì phải xử phạt trượng hay biếm chức; những giấy tờ, văn khế,
khoán ước về mua bán, đổi chác, vay mượn mà không theo đúng như trong chiếu thư
thì sẽ không có giá trị.
Ngày 20 [4/5/1428], dùng
ban các chữ húy tông miếu và chữ húy tên vua. Tất cả các chữ húy chính khi viết
đều không được dùng, nếu đồng âm mà khác chữ thì không phải húy. Húy Tông
miếu có 5 chữ: Hiển Tổ Chiêu Đức Hoàng Đế húy là Đinh, Hiển Tổ Tỷ Gia Thục
Hoàng Thái Hậu húy là Quách, Tuyên Tổ Hiến Văn Hoàng Đế húy là Khoáng, Trinh Từ
Ý Văn Hoàng Thái Hậu húy là Thương, huý của vua là Lợi, của hoàng hậu là Trần,
của anh vua là Học. Khi có chiếu lệnh đại xá đều xưng là Thuận Thiên Thừa Vận
Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam Sơn động chủ.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 58a.
Nhân lên ngôi, vàng được
tìm ra từ sông Nhị Hà, nên các quan dâng biểu chúc mừng. Cũng dịp
này Vua truy tặng Lê Thạch chức Trung vũ đại vương và ban chức quan cho
2 người cháu; Thạch là con người anh Vua, trước đây lập nhiều chiến
công, hy sinh trong trận đánh quân Ai Lao vào năm 1421. Vua cũng ra lệnh
miễn giảm thuế cho những nơi gặp chiến họa, và trị tội bọn ngụy quan:
“Sông Nhị nảy vàng ròng,
các quan dâng biểu chúc mừng.
Truy tặng Lê Thạch
làm Trung Vũ Đại Vương, đưa vào thờ ở tẩm miếu. Lấy Lê Tri Vận làm tri Tả hữu
ban, phong liệt hầu; Nguyễn Lỗ là Xa kỵ vệ tổng tri (Tả hữu ban nắm kho tàng
của nhà nước, tổng tri thì coi quân). Hai người đều là họ ngoại. Tri Vận vì có
công làm con tin trong thành, sau được tặng phong Nguyên cữu Quan nội hầu.
Ra lệnh chỉ cho các
lộ là nơi nào bị quân giặc cướp phá thì được miễn giảm thuế.
Trị tội các ngụy quan.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 58b.
Trước đó, vào tháng 11 năm
Đinh Mùi [19/11-17/12/1427], Vua sai bọn Lê Thiếu Dĩnh sang nhà Minh dâng biểu
cầu phong và xin lập con cháu nhà Trần.; nay phái đoàn Lê Thiếu
Dĩnh trở về nước, phúc trình nội dung như sau:
“Tháng 3 [16/3-14/4/1428] năm
nay, Lê Thiếu Dĩnh đến Yên Kinh dâng biểu. Đến đây trở về, vua Minh ban
cho Thiếu Dĩnh áo vóc hoa, tiền giấy và có sắc dụ cho nước ta, đại ý nói: Lập
con cháu nhà Trần là việc rất quan trọng, phải hợp với lòng người trong nước,
không được tự tiện chuyên quyền, phải cùng với các bô lão, trình bày sự thực về
người cháu đích tôn của họ Trần, tâu lên để làm bằng cứ mà ban chiếu sắc phong.
Số người và chiến khí còn bị giữ lại, cũng đưa trả về hết.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 59a.
Sử Trung Quốc chép, khi
đến Yên Kinh Lê Thiếu Dĩnh dâng biểu của Trần Cảo lên Vua Tuyên Tông,
xin cho An Nam được tự trị:
“Ngày 15
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 3 [30/3/1428]. Thành sơn hầu Vương
Thông đưa bọn đầu mục Lê Thiếu Dĩnh đến kinh đô dâng biểu, biểu văn như sau:
“Cháu 3 đời của tiền Quốc
vương Hiệt nước An Nam là Trần Cảo; cùng thần Đầu mục Lê Lợi tâu:
Trộm nghĩ ở dưới vòm trời
này chẳng có đất nào không phải là đất của Thiên tử; trong cõi đất này chẳng có
dân nào không phải là dân của Thiên tử. Xưa lúc đức Thái tổ Cao Hoàng mới lên
ngôi báu, tổ tiên thần là Trần Nhật Khuê đầu tiên triều cống, được khen và ân
sủng ban cho tước Vương; từ đó đời đời được phong và triều cống không khuyết.
Rồi nhân họ Lê soán nghịch, Thái tông Văn Hoàng đế hưng binh hỏi tội; bình định
xong ban chiếu tìm con cháu nhà Trần để nối dõi. Vì lẽ con cháu nhà Trần bị
giặc họ Lê giết gần hết, kẻ sót lại thì chạy trốn nơi xa xôi, nên lúc bấy giờ
chiếu thư tìm hỏi không được, bèn đặt quận huyện để cai trị nhân dân. Thần Cảo,
lúc này trốn tránh tại Lão Qua, chỉ mong qua hết ngày tàn. Nhưng người trong
nước vẫn nghĩ đến tổ tiên xưa của Thần, ép Thần trở về nước. Thần bất đắc dĩ
phải nghe lời, vào năm Tuyên Đức thứ nhất trở về nước cũ, người trong nước nghĩ
đến tổ tiên Thần, nên số đông thuận theo. Thần mới đây sai người dâng biểu,
cùng thư trần tình của Lê Lợi, đến chổ quan Tổng binh An viễn hầu Liễu Thăng
nhờ chuyển đạt lên Thiên tử; lại sai cha con Lê Lợi đem Đầu mục lớn nhỏ đến cửa
quân của Thành sơn hầu Vương Thông trình bày xin rút quân để sinh linh nước nhỏ
được bảo toàn. Lời yêu cầu được chấp thuận, định ngày mồng 1 tháng 12 ban sư.
Thần tự biết mang tội nặng
nề tiến thoái lưỡng nan, nhưng nghĩ rằng trời đất đối với vạn vật tuy có sấm
sét giận dữ nhưng cái ý nuôi sống vẫn nằm ở trong đó; cha mẹ với các con cái,
tuy dùng roi vọt dạy dỗ nhưng ơn nuôi dưỡng thể hiện trong lòng. Bởi vậy con
người ta bị đau, không ai không kêu trời, kêu cha mẹ. Vì vậy thần không thể
không khẩn khoản dâng lời để kêu van về sự đau khổ. Kính mong Hoàng thượng y
theo theo chiếu thư của Thái Tông Văn Hoàng đế, cho tìm kiếm con cháu họ Trần;
nghĩ đến lòng thành của tổ tiên thần đầu tiên đến triều cống, xá cho Thần tội
lớn như gò đống đáng cam chịu tội búa rìu, cho Thần được nối dõi cõi Nam hoang
dã, làm tròn chức cống Thiên triều, thì không riêng một thân , một nhà của Thần
được may mắn, mà sinh linh cả nước cũng được may mắn; không riêng sinh linh một
nước được may mắn mà tổ tông Thần dưới đất cũng được thấm nhuần ơn Thiên tử.
Thần xin ghi lòng khắc cốt, dốc lòng cung thuận, làm tròn chức cống, vĩnh viễn
trung thành không ngớt. Nay đem người vàng, người bạc thay thân, dâng biểu văn
tạ tội cùng phương vật, sai bọn Đầu mục Lê Thiếu Dĩnh phụng dâng. Thần ngu muội
đáng tội chết, tâu lời biểu này.” (Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 190)
Vua Minh tỏ ra chưa tin,
nên ra sắc dụ cho Vua Lê Lợi phải cùng với kỳ lão trong nước trình bày đầy
đủ sự thực về cháu đích tôn họ Trần, và đòi hỏi phải trả hết người và
vũ khí còn giữ lại:
“Ngày 1 tháng 4 năm
Tuyên Đức thứ 3 [15/4/1428]. Giao Chỉ
sai Đầu mục Lê Thiếu Dĩnh từ giã trước bệ rồng; ban cho áo văn ỷ, sa, cùng sắc
dụ Đầu mục Lê Lợi rằng:
“Tháng 10 năm ngoái trong
quân gửi đến thư trần tình cùng biểu văn của các ngươi xin lập con cháu họ
Trần. Trẫm thể theo lòng hiếu sinh của trời đất, cùng ý muốn lúc khởi đầu của
Thái Tông Văn Hoàng đế, thuận theo lời thỉnh. Đặc cách sai bọn Thị lang bộ Lễ
Lý Kỳ mang chiếu thư đại xá Giao Chỉ; lệnh cho ngươi, cùng các Đầu mục, kỳ lão
trong nước trình bày đầy đủ sự thực về cháu đích tôn họ Trần.
Đáng ra các ngươi phải kính
cẩn đợi mệnh của triều đinh, nhưng lại ôm lòng xảo trá nghị hòa riêng với bọn
Vương Thông, dụ rút quan quân để vào chiếm thành trì, tiếm quyền vô lễ không
phải chỉ một chuyện. Tuy hiện nay ngươi dâng lời xin tạ tội, nhưng các quan văn
võ quần thần hợp tấu rằng tội ngươi không thể tha được. Trẫm đã ban ân mệnh cho
ngươi, nay vẫn giữ sự khoan hồng, nhưng việc làm sau này phải hợp lòng dân,
ngươi không thể tự chuyên được. Khi sắc tới phải cùng với kỳ lão Giao Chỉ trình
bày đầy đủ sự thực về cháu đích tôn họ Trần, đợi tâu lên, để căn cứ vào đó mà
ban chiếu sách phong. Ngươi phải đem những người còn bị câu lưu cùng binh khí
về kinh, để một phương được an định. Tấu chương của quần thần cũng được giao
cho Lê Thiếu Dĩnh đưa cho ngươi, để ngươi hiểu rõ.”
(Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
192)
Tháng 4 nhuần
[14/5-12/6/1428], lệnh các đại thần chọn các quan tài giỏi liêm khiết
giữ các nơi quan trọng, như cửa biển, đầu nguồn; cho đúc [th1] tiền
Thuận Thiên:
“Ra lệnh chỉ cho
bọn đại thần định lại các quan lộ, huyện, quan trấn thủ, cùng các quan giữ đầu
nguồn, cửa biển và những nơi xung yếu, đều phải dùng những người tài giỏi, liêm
khiết, chính trực, cho các đại thần đều được tiến cử.
Đúc tiền Thuận Thiên.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 59b.
Mốc tháng 4 nhuần này
rất quan trọng trong việc khảo cứu lịch, vì trong năm này lịch Đại
Thống nhà Minh cũng có tháng 4 nhuần; chứng tỏ Âm lịch của
ta cũng gỉống Trung Quốc, do đó có thể theo lịch Trung Quốc đổi ra
Dương lịch được. Sử nước ta vào tháng 4 nhuần cũng chép sự kiện
Thành Sơn hầu Vương Thông nhà Minh về đến Yên Kinh, bị các quan hặc tội:
Bọn Thành Sơn hầu Vương
Thông nhà Minh về đến Yên Kinh, bị các quan hặc tội, đều phải giam vào ngục Cẩm
y vệ, có chiếu tha tội chết, biếm quan tước. Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 59b.
Tương tự Minh
Thực Lục chép sự kiện này vào ngày 29 tháng 4 nhuần năm Tuyên
Đức thứ 3 [11/6/1428].
Ngoài ra trong tháng này
có 160 người nước ta từng làm việc với nhà Minh, xin trở về nước:
“Ngày 10 tháng 4 nhuần
năm Tuyên Đức thứ 3 [23/5/1428]
Sai các Giám sinh, Thổ
quan, Thổ lại Giao Chỉ gồm bọn Nguyễn Trí, Vũ Hy Dật 160 người trở về nước.
Mệnh Đô đốc Sơn Vân sai người hộ tống đến biên giới Giao Chỉ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
195)
Ngày 12 tháng 5 Vua
họp các đại thần quyết định bổ nhiệm các quan lộ, trấn; định luật,
đặt quy chế về chức tước:
“Mùa hạ, tháng 5, ngày
12 [24/6/1428], vua và các đại thần cùng nghị bàn việc nước; quyết
định các quan viên, các quan trấn thủ tại các lộ, trấn và những nơi xung yếu,
định luật lệnh kiện tụng, quy chế về chức tước.” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 59b.
Cũng trong tháng này,
có 95 người Việt từng làm việc việc với nhà Minh cùng thân nhân, xin
ở lại Trung Quốc:
“Ngày 20 tháng 5 năm
Tuyên Đức thứ 3 [2/7/1428]. Nha môn
quan quân địa phương Giao Chỉ thuộc vệ Trấn Di, bọn Chỉ huy Đồng tri Vũ Hiếu
Tiên 95 người tâu xin ở tại kinh đô cư trú. Thiên tử mệnh hành tại bộ Lễ tuân
theo lệ người phương Bắc đến hàng, ban cho các vật như y phục dệt kim, lụa,
tiền giấy, lụa quyên, gấm, vải bố, yên ngựa. Lại mệnh ty sở quan cấp phòng ốc,
khí mãnh như lệ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 199)
Tháng 6, ra lệnh khảo
xét các quan trong triều và ngoài địa phương, chia cao thấp thành 3
hạng; lệnh các quan tiến cử người có tài đức; nhà Vua còn hỏi về
phép trị nước:
“Tháng 6, ra lệnh cho
các đại thần khảo xét các quan trong ngoài; hạng nhất là những người có tài văn
võ, tháo vát, tinh nhanh; hạng nhì là những người biết chữ tháo vát tinh nhanh;
hạng ba là những người viết tinh, viết thảo, làm tính; ngoài ra những
người không được xếp hạng nào thì kê riêng thành một hạng.
Ra lệnh cho các đại thần và
các quan văn võ đều tiến cử người hiền lương phương chính; nếu tiến cử
được người giỏi thì được thăng thưởng theo lệ tiến cử hiền thần, nếu vì tiền
tài, vì thân quen, tiến cử người không tốt thì bị trị tội theo lệ tiến cử kẻ
gian.
Ngày 26 [7/8/1428], ra
lệnh chỉ cho các đại thần và các quan văn võ rằng: "Trẫm là người thế nào
mà được trao mệnh trời? Nhờ đâu mà thành nghiệp lớn? Hiện nay công việc của
triều đình rất bề bộn, việc gì nên làm trước, việc gì nên làm sau? Các tướng
trong triều ai có thể cáng đáng được việclớn, có thể trao cho sứ mệnh ở ngoài
ngàn dặm? Ai là người có thể dạy dỗ thái tử?". Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 59b.
Vào tháng 7, Quốc vương
Chiêm Thành sai sứ thần sang cống nhà Minh:
Ngày 24 tháng 7 năm
Tuyên Đức thứ 3 [3/9/1428]. Quốc
vương Chiêm Thành Chiêm Bà Đích Lại sai bọn Sứ thần Bô Sa Phạ Tế Gia đến kinh
đô dâng biểu bằng vàng lá cùng cống sản phẩm địa phương. (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 204)
Vua Tuyên Tông tỏ lòng ưu
ái, ân cần ban thưởng cho sứ thần, cùng Quốc vương và Vương phi:
Ngày 3 tháng 8 năm Tuyên
Đức thứ 3 [11/9/1428]. Ban cho bọn Sứ thần Chiêm
Thành Bồ Sa Phạ Tế Gia bạc giấy, lụa nõn trong ngoài; y phục lụa là, trữ (3) ,
quyên (4) dệt kim có sai biệt. Mệnh mang sắc; cùng tơ, lụa là,
nhung, gấm ban cho Vương và Vương phi. (Minh Thực Lục Quan
hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 204)
Tháng 8, lấy ngày sinh
nhật mồng 6 của Vua Lê làm ngày Vạn thọ thánh tiết; ngày 10 qui định
cờ xí, nghi trượng, vũ khí cho các quân; ngày 20 nhà Minh gửi sắc thư
yêu cầu những quan lại Trung Quốc đã được cấp ruộng đất sinh sống
tại nước Đại Việt, phải trở về nước:
“Mùa thu, tháng 8, lấy
ngày sinh làm Vạn Thọ thánh tiết (tức ngày mồng 6) [14/9/1428].
Ngày mồng 10 [18/9/1428],
quy định cờ xí, nghi trượng, chiến khí, thuyền bè của các quân: trung đội cờ
vàng, thượng đội cờ đỏ, hạ đội cờ trắng. Mỗi vệ có 1 lá cờ lớn của chủ tướng.
Mỗi quân có 1 lá cờ hạng trung, 10 lá cờ đội, 40 lá cờ nhỏ, 10 chiếc thuyền hỏa
chiến, 2 chiếc thuyền nhỏ trinh sát, 1 chiếc ống phun lửa "Đại tướng
quân", 10 ống phun lửa cỡ lớn, 10 chiếc cỡ trung, 80 chiếc cỡ nhỏ, nỏ cứng
50 chiếc, câu liêm 50 cái, giáo dài 50 cái, phi liêm 40 cái, mộc mỗi người 1
chiếc, phiêu thì mỗi người dùng 4 thủ tiễn (5) hạng nhất, hạng
nhì thì mỗi 1 người dùng 3 chiếc, đại đao thì mỗi người dùng 1
thanh. Mỗi quân dùng 1 người làm sao quân, mỗi đội dùng một người làm sao
đội (6) .
Ra lệnh chỉ đổi chức
hỏa đầu thành chánh phó ngũ trưởng.
Ngày 20 [28/9/1428],
nhà Minh có sắc thư yêu cầu trả bọn lại nhân mà Giao Chỉ đã cấp ruộng đất cho ở
để họ trở về nước.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 60a.
Lần trước vào ngày
mồng 8 tháng 3 [23/3/1428] phái đoàn La Nhữ Kính đến nước Đại Việt,
Vua Lê cho biết Trần Cảo đã mất. Sau khi trở về nước, nhận sắc dụ
của Vua nhà Minh đưa cho Vua Lê; đến ngày 21 tháng 9 này [29/10/1428]
lại đến nước ta. Nội dung sắc dụ đòi hỏi phải hết lòng tìm tòi con cháu
họ Trần, và trả cho hết người, vũ khí của nhà Minh còn giữ lại:
“Tháng 9, ngày 21 [29/10/1428],
nhà Minh sai bọn La Nhữ Kính, Từ Vĩnh Đạt lại mang sắc thư sang dụ vua rằng họ
Trần nhiều đời vẫn được lòng người, bảo vua phải dò tìm cho được con cháu họ
Trần mà tâu lên để ban cho mệnh lệnh nối dòng đã tuyệt. Lại bảo rằng đó hẳn là
do các đầu mục bô lão chưa hỏi khắp, có thể vẫn còn người, nhưng họ chưa dám
nói ra.
Lại dụ rằng những quan lại
và quân nhân còn giữ lại hãy đưa trả cho hết, các đồ quân khí còn lưu lại cũng
nộp trả cho hết.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 61a.
Nguyên văn sắc dụ Minh
Thực Lục chép như sau:
“Ngày 18 tháng 5 năm
Tuyên Đức thứ 3 [30/6/1428]. Mệnh hành
tại Công bộ Hữu Thị lang La Nhữ Kính, Hồng lô tự khanh Từ Vĩnh Đạt lại mang sắc
đến Giao Chỉ dụ Lê Lợi, cùng Kỳ lão quân dân. Sắc rằng:
“Trẫm thể theo đạo trời để
cai trị nước, thuận lòng dân phục hưng đạo lý, bốn biển trong ngoài đều đối xử
chung một lòng nhân. Được biết rằng dân Giao Chỉ không quên họ Trần, xin lập
con cháu để coi sóc một phương; ý Trẫm muốn khoan tuất cho dân, nên cúi xuống
chấp nhận lời xin; bỏ qua lỗi cũ, triệu quân chinh thảo trở về, ban đặc chiếu
cho Đầu mục, Kỳ lão trình bày đầy đủ sự thực về con cháu họ Trần, để làm bằng
mà kiến lập. Nay bọn Lê Lợi tâu rằng cháu họ Trần tên Cảo đã mất vào tháng
giêng, lại không còn con cháu; chỉ trong vòng mấy tháng, lời lẽ vội thay đổi.
Phàm họ Trần có nước đã lâu, tất con cháu còn đông. Trước đây Vương sư mới bình
Giao Chỉ, ban chiếu tìm con cháu họ Trần để lập, người trong nước đều bảo rằng
đã bị Lê Quí Lý giết hết, nên mới đặt quận huyện đất này. Nhưng hơn 20 năm sau
vẫn còn người như Cảo, cớ sao Cảo mới mất lại bảo không còn ai? Chắc Đầu mục,
Kỳ lão tìm hỏi chưa hết khắp, kẻ sống còn không dám tự nói ra; làm phận bề tôi
cần thành tâm, nếu còn một chút chưa tận lòng thành cũng không nói là trung
được. Khi sắc đến, các ngươi Ðầu mục, Kỳ lão quân dân hãy hết lòng tìm hỏi con
cháu họ Trần rồi tâu lên, để ban sắc mệnh nối dòng bị đứt; nhắm yên một phương,
đáp ứng tấm lòng thể theo đạo trời thương người, phô bày đức rộng, người xa kẻ
gần đều được hưởng phúc.
Quan lại quân lính của
triều đình, cùng người nhà bị Giao Chỉ giữ lại; hãy đưa về để đáp ứng sự trông
mong của cha mẹ vợ con họ; những quân khí bị lưu giữ hãy tống nạp, ngõ hầu có
đường cầu phúc. Trẫm lấy đạo chí thành đãi người, chớ nghi hoặc, tự chuốc lấy lo
buồn. Ban cho bọn Nhữ Kính tiền giấy làm phí tổn đi đường; lại ban cho Đầu mục
đưa đến là bọn Lê Khí tiền giấy cùng y phục lụa ỷ có hoa văn. Mệnh cùng
đi về với Nhữ kính.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 198)
Cũng vào cuối tháng 9,
sứ bộ La Nhữ Kính chuẩn bị về nước, nhà Vua ban tiền và chi phí
dọc đường, lại sai Lê Quốc Khí cùng đi sứ sang Minh. Ngoài ra Vua qui
định phẩm tước cho các quan, ban quốc tính họ Lê cho các công thần,
và cho sa thải quân lính già yếu:
“Ban tiền giấy và chi
phí dọc đường cho bọn Nhữ Kính, đồng thời ban tiền giấy và áo lót vóc hoa cho
sứ nước ta là bọn Lê Quốc Khí, sai họ cùng đi với bọn Nhữ Kính.
Quy định phẩm tước
của quan chức văn võ. Ban quốc tính cho các công thần.
Thải quân già yếu, quy định
biên chế quân ngũ.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 61b.
Vào tháng 10, phái đoàn
La Nhữ Kính lên đường về nước; Vua sai bọn Hà Lật sang tạ ơn, nạp
cống; tâu bày đã tìm tòi con cháu nhà Trần nhưng không thấy, quan quân
cũng đã đưa về hết:
“Ngày 19 [25/11/1428], sứ
nhà Minh là bọn Nhữ Kính về nước. Vua sai bọn Hà Lật sang tạ ơn nhà Minh và nộp
lễ cống, tượng người vàng thế thân, và tâu rằng đã tìm hỏi con cháu họ Trần
nhưng không còn người nào, các quan quân ra thú cũng đã lục tục đưa về rồi.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 61b.
Bấy giờ bọn Hà Lật
dâng tờ tâu về việc đã tìm tòi con cháu họ Trần nhưng không thấy, như
sau:
“Tờ tâu về việc
tìm hỏi con cháu họ Trần.
Thân tộc họ Trần, trước bị
Hồ Quí Ly giết hết, không thấy một ai. Năm Tuyên Đức thứ
1 (1426) mới tìm được ở đất Lão Qua Trần Cảo xưng là con cháu họ Trần. Năm
Tuyên Đức thứ 2 (1427), Trần Cảo về nước, thì người cả nước đều qui phụ,
đã sai thần Lê Lợi cùng các đầu mục gửi thư cho quan Tổng binh xin rút quân;
năm Tuyên Đức thứ 2 đã sai Lê Thiếu Dĩnh dâng biểu trần tình tạ tội, không
ngờ thấm thoát mấy ngày, Trần Cảo ốm chết. Con cháu họ Trần hiện nay thực không
còn ai. Nếu quả có còn ai, bọn thần tuy chưa phụng sắc, cũng đã phải gõ cửa
quan mà xin mệnh, lẽ nào ân chiếu như thế mà thần lại mang lòng khác, việc đó
tất nhiên không có. Lại trong sắc có truyền phải trả về hết những quan lại quân
nhân còn giữ lại. Thần lấy làm lo sợ, không dám yên lòng. Đó là khi trước quan
quân sang chinh thảo, người nước thần sợ bị giết chóc, liền đem nhau ra giữ gìn
phòng bị, làm kế tự vệ, không khác gì chim cùng thì mổ, thú cùng thì vồ. Trừ
những người đã tử thương ở trước lưỡi gươm mũi giáo ra, những quân nhân hiện
còn, thần đã sai Thiếu Dĩnh dâng danh sách. Thần lại hết sức tìm tòi, nay theo
lời những người đầu mục kỳ lão trong nước thì những hạng người nói trên thực
không còn ai cả.” Quân Trung Từ Mệnh Tập. a 46.
Tháng 11, Vua lại sai sứ
bộ Đỗ Như Hùng sang nhà Minh khẳng định việc con cháu nhà Trần quả
không còn ai, quan quân và khí giới cũng đã đưa về hết. Lại tâu thêm
việc con gái Vua trước đây bị hoạn quan Mã Kỳ bắt đưa về kinh đô; nay
xin hoàn lại:
“Tháng 11, ngày mồng 1 [7/12/1428], vua
sai bọn Đỗ Như Hùng sanh nhà Minh tâu bày rằng con cháu họ Trần quả thực không
còn ai, các quan lại, quân nhân cùngkhí giới bắt được của nhà Minh đã đưa trả
hết rồi, không còn giam giữ, chúa giấu gì cả. Lại xin trả lại người con gái của
vua bị lạc.
Trước kia, trong buổi loạn
ly, vua bị lạc mất người con gái nhỏ mới lên 9 tuổi. Viên nội quan nhà Minh là
Mã Kỳ đem về nuôi, rồi đưa về Yên Kinh tiến làm cung tỳ (7).
Đến đây, vua sai sứ sang xin về.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 62a.
Sau khi nhận được lời
tâu, Vua Tuyên Tông đích thân trả lời rằng con gái nhà Vua đưa sang Trung
Quốc, vì không hợp thủy thổ, nên đã mất từ lâu:
Ngày 28 tháng 3 năm
Tuyên Đức thứ 4 [1/5/1429]
…. Riêng
dụ ngươi về việc ngươi tâu rằng có con 9 tuổi bị Mã Kỳ thu dưỡng đem về kinh
sư, muốn được đoàn tụ. Nghe việc này động lòng trắc ẩn, Trẫm là cha mẹ của
thiên hạ lai nỡ để cho một trẻ nhỏ không được gần người thân ư! Nên đã ra lệnh
tìm hỏi ngay việc này. Nhưng con gái ngươi vì không hợp thủy thổ, nên bị bênh
mất đã lâu. Tình thương yêu cha con người người giống nhau, nhưng phần số mỗi
người thì đã định; bảo riêng để ngươi biết. Nay ban cho Kỳ, Vĩnh Đạt, Thông
tiền phí tổn đi đường; Sứ giả Hà Lật được ban y phục, tiền giấy, cho đi theo
cùng Kỳ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 2, trang 210)
Ngoài ra trong tháng 11
còn có các việc khác, như giết bọn ngụy quan Trần Phong âm mưu làm
loạn; làm sổ hộ tịch, sổ ruộng đất; đặt xã quan; chuẩn bị việc
sát hạch các quan văn, võ vào tháng 5 năm sau:
“Ngày 24 [30/12/1428],
giết bọn giặc phản nghịch tên là Phong, tên Nhữ Hốt, tên An Vinh, tên Trung,
tên Tồn, tên Sĩ Văn, tên Sùng Lễ, tên Xác.
Trước kia, bọn Phong đón
hàng giặc Minh, giúp giặc làm điều bạo ngược, chống lại quan quân. Đến khi giặc
Minh bị dẹp mới ra đầu hàng, được vua tha tội cho. Nhưng bọn Phong vẫn gây
nhiều tội ác không chịu chừa, lại âm mưu làm loạn, ngấm ngầm kết bè đảng, viết
thư mật, ngầm sai người đi đường tắt tới xui quân Minh gây sự, bọn
chúng sẽ làm nội ứng. Người mang thư bị Thượng tướng Thái Nguyên là Hoàng
Nguyên Ý bắt được. Vua giết tên đưa thư rồi giấu chuyện ấy đi. Tháng 8 [9/9-8/10/1428],
lại có một tên trong bọn đến cáo giác, việc cũng giống thế. Đến đây, vua mới hạ
chiếu giết cả bọn.
Ngày 25 [31/12/1428], làm
sổ ruộng đất, sổ hộ tịch. Ra chỉ thị cho các phủ, huyện trấn, lộ khám xét các
chằm bãi, ruộng đất, mỏ vàng bạc, những sản vật núi rừng trong hạt, các loại
thuế ngạch cũ, cùng ruộng đất đã sung công của các nhà thế gia và những người
tuyệt tự, và ruộng đất của những bọn đào ngũ, hạn đến trung tuần tháng 2 năm Kỷ
Dậu trình lên. Sổ hộ tịch năm Mậu Thân và sổ ruộng đất năm Kỷ Dậu
thì đến tháng 4 năm Quý Sửu sẽ nộp. Khi làm sổ ruộng đất và hộ tịch thì
khai cả từng hạng ngụy quan.
Ngày 27 [2/1/1429],
ra lệnh chỉ đặt xã quan. Xã lớn từ 100 người trở lên thì đặt 3 viên, xã vừa từ
50 người trở lên đặt 2 viên, xã nhỏ 10 người trở lên đặt 1 viên.
Ngày 28 [3/1/1429], ra
lệnh chỉ cho các quan viên và quân dân cả nước, hạn đến tháng 5 sang năm tới
Đông Kinh để các quan văn hỏi thi kinh sử, ai tinh thông được bổ làm quan văn;
các quan võ hỏi thi về võ kinh, pháp lệnh, kỳ thư...” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 10, trang 62a.
Tháng chạp, Vua ban
cho những người tham gia khởi nghĩa trong giai đoạn đầu, nếu chưa ra
làm quan, thì con cháu được miễn sai dịch; lệnh đối chiếu khám xét
ruộng đất tài nguyên; xây các điện tại kinh đô; chế tạo vũ khí, thuyền
bè, và đúc tiền:
“Tháng 12, ngày mồng 7 [11/1/1429], ra
lệnh chỉ cho các quan văn quan võ: Người nào đã đưa vợ con lên lẫn tránh ở núi
rừng cùng trẫm mưu lo việc nước, từ ở Mường Thôi đến Bồ Đằng, Chí Linh, Khả Lam
thì cho con hoặc cháu được miễn các việc quân dịch và dân dịch. Nếu đã làm quan
thì không thuộc lệ này. Con cháu, anh em của tên nào đã bỏ đạo nghĩa, cầu an
hàng giặc thì không được nhận. Ai làm trái thì xử tội biếm hay bãi chức.
Ngày 22 [26/1/1429],
ra lệnh chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã, sách đối chiếu, khám xét
ruộng đất, đầm bãi công tư trong các huyện, xã của lộ mình, cùng cá mú, hoa
quả, mắm muối và các rạch cá tư ngoài cửa biển, các loại vàng, bạc, chì, thiết,
tiền.
Vua làm điện Vạn Thọ,
lại làm Tả, Hữu điện, điện Kính Thiên, điện Cần Chính.
Chế tạo chiến khí, thuyền bè. Đúc tiền Thuận Thiên thông bảo, cứ 50 đồng là 1 tiền. Trước kia, thời Trần Thái Tông Kiến Trung năm thứ 2 [1226] có chiếu quy định trong dân gian tiêu tiền thì mỗi tiền là 69 đồng, dùng chính thức là 70 đồng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 63a.
Chú thích:
1. Con số này Toàn
thư ghi là 121, Cương Mục ghi 221, cả hai đều không
ăn khớp với những con số đã nêu ở dưới: 52+72+94=218, e có sự kể sót hay chém
lầm chăng.
2. Khảo tỷ: Cha đã chết gọi là "khảo", mẹ đã chết gọi là
"tỷ".
3. Trữ: hàng tơ gai, mặc mùa
hè.
4. Quyên: Lụa mộc, lụa sống.
5. Thủ tiễn: tên ném bằng tay, cũng gọi là phiêu.
6. Sao quân, sao đội: là người giữ việc biên chép trong 1 quân, 1
đội.
7. Cung tỳ: Tôi tớ trong cung.
Tháng
giêng, Vua ra lệnh nghiêm trị tệ trạng uống rượu, cờ bạc; qui định bảo
vệ, và sử dụng ấn:
“Kỷ Dậu, Thuận Thiên năm thứ 2, (Minh Tuyên Đức năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 4 [7/2/1429], ra lệnh chỉ cho các quan, cho kinh đô và các lộ, huyện, xã rằng: Kẻ nào du thủ thực, đánh cờ đánh bạc thì quan ty và quân dân bắt nộp để trị tội. Đánh bạc thì chặt 5 ngón tay, đánh cờ thì chặt 1 ngón tay, những kẻ không phải là việc quan mà vô cớ tụ họp uống rượu thì xử phạt 100 trượng, người chứa chấp bị tội kém một bậc.
Ra lệnh chỉ cho các quan lộ, huyện, xã rằng: Hễ là ấn công thì do viên chánh giữ. Ở các lộ thì Tri phủ giữ ấn, không có Tri phủ thì Trấn phủ giữ ấn. Ở các huyện thì Tuần sát giữ ấn. Nếu không có Trấn phủ, Tri phủ thì dùng Chiêu thảo hoặc Phòng ngự giữ ấn. Có việc thì cùng bàn với nhau đáng đóng dấu thì mới dùng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 63b.
Nhà Vua chuẩn bị lập Hoàng
tử Nguyên Long lên làm Vua, nên phong con trưởng là Tư Tề làm Quốc vương,
con thứ Nguyên Long làm Hoàng thái tử. Hạ chiếu lựa con các quan văn võ vào
hầu Thái tử học tập và đến nhà Quốc học để theo học:
“Ngày mồng 7 [10/2/1429], sai Nhập nội kiểm hiệu bình chương
sự Lê Vấn, Nhập nội đại tư mã Lê Ngân, Nhập nội thiếu phó Lê Văn Linh mang kim
sách lập Hữu tướng quốc Khai quân công Tư Tề làm Quốc vương, giúp coi việc
nước. Sai Nhập nội tư khấu Lê Sát, Tư không Lê Nhân Chú, Nhập nội tư mã Lê Lý,
Nhập nội thiếu úy Lê Quốc Hưng mang kim sách lập Lương quận công Nguyên Long
làm Hoàng thái tử.
Ngày mồng 8 [11/2/1429], ra lệnh chỉ cho đại thần và các
quan văn võ cùng các lộ, phủ, huyện, châu, trấn rằng: Nếu ai có việc đến Quốc
vương và Hoàng thái tử thì dùng chữ "khải", chứ không được dùng chữ
"tấu" và xưng là "Quốc vương điện hạ", "Thái tử điện
hạ". Nếu Quốc vương có tuyên cáo hiệu lệnh gì thì dùng chữ "Quốc
vương chỉ huy", không được dùng chữ "sắc".
Ngày mồng 9 [12/2/1429], ra lệnh chỉ rằng:
Quan võ từ chức Quản
lĩnh, quan văn từ chức Hành khiển trở lên, ai có con trai từ 5 tuổi trở xuống,
9 tuổi trở lên, cho được vào hầu Hoàng thái tử. Ngày 15 tháng này [18/21429, tới học đường đề kiểm mục, quan Nội
mật viện lấy danh sách. Quan võ từ Đồng tri trở xuống đến Đại đội trưởng, Đội
trưởng trở lên, quan văn từ Thượng thư trở xuống đến thất phẩm, ai có con trai
17 tuổi trở xuống, 9 tuổi trở lên tới nhà Quốc học điểm mục để học quan lấy
danh sách dạy học.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 64a.
Nhà Vua ra lệnh các đại thần
bàn bạc phép chia ruộng đất, để được công bằng hơn:
”Ngày 22 [25/2/1429], ra lệnh chỉ cho quan văn võ đại thần
nghị bàn việc lớn của nhà nước. Như người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi
thì giàu. Người đi chiến đấu thì không có một thước, một tấc đất mà
ở; những kẻ du thủ du thực, không có ích gì cho nước lại có quá thừa ruộng
đất, hoặc đi làm nghề trộm cướp. Thành ra không có ai chịu hết lòng với nước,
chỉ ham nghĩa phú quý mà thôi. Nay ra lệnh chỉ cho các đại thần bàn định số
ruộng cấp cho quan lại, quân nhân và dân chúng, trong từ đại thần trở xuống,
dưới đến người già yếu, mồ côi, góa chồng, đàn ông, đàn bà trở lên, loại nào
được cấp bao nhiêu thì tâu lên.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang
65a.
Tháng 2, ra lệnh thao diễn quân
đội một cách quy mô; rồi chia phiên cho về làm ruộng:
“Tháng 2, ngày 21 [25/3/1429], ra lệnh chỉ cho tướng hiệu và quân
nhân các vệ quân năm đạo rằng: Đến ngày 27 [31/3/1429] sẽ diễn tập chiến trận thủy, bộ, ai
vắng mặt sẽ bị trị tội. Diễn tập xong, sẽ chia mỗi vệ thành 5 phiên, 1 phiên ở
lại, còn 4 phiên cho về làm ruộng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 65b.
Sắc cho Đại thần, Hành khiển, và
các quan đặc trách về can gián; hễ thấy điều lệnh có gì bất tiện, hoặc
chính lệnh hà khắc, thuế má nặng nề, cần phải tâu ngay:
“Ngày 26 [30/3/1429], ra lệnh chỉ cho đại thần và các
quan Hành khiển:
Nếu thấy các điều lệnh của
trẫm có điều gì bất tiện cho việc quân, việc nước, hoặc các việc sai dịch không
hợp lý, hoặc thuế khóa nặng nề, hoặc có việc tà dâm bạo ngược, thì tâu xin sửa
lại.
Lại ra lệnh chỉ cho
các ngôn quan (1) rằng:
‘Nếu thấy trẫm có chính lệnh hà khắc, thuế má nặng nề, ngược hại lương dân, thưởng công phạt tội không đúng, không theo đúng phép xưa, hay các đại thần, quan lại, tướng hiệu, quan chức trong ngoài không giữ phép, nhận hối lộ, nhiễu hại lương dân, thiên hư phi pháp, thì phải lập tức dâng sớ đàn hặc ngay. Kẻ nào cứ ngồi nhìn mà dung túng, chỉ giỏi trò vặt, cùng là nói hão không đâu, thì phải chiếu luật trị tội. Lại như các quan vào sân điện, nếu để áo, mũ, cân đai không đúng phép, đi lại ngang dọc không theo đúng lễ phép, thì ngôn quan không được coi là phận sự của mình mà đàn hặc, vì việc ở điện đình đã có Tổng quan và Chỉ huy sứ năm quân Thiết đột, Ngự tiền Thiết đột, Nội mật viện xét hặc.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 65b.
Vua ban tờ chiếu bắt giam Thái úy
Hữu Tướng quốc là Trần Nguyên Hãn, Hãn liền tự sát. Hãn thuộc dòng dõi quan
Tư đồ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi cũng là cháu ngoại Trần Nguyên
Đán. Nguyễn Trãi lập công lớn giúp Vua Lê, nhưng trong dịp phong hầu
vào ngày 3 tháng 5 [4/6/1429] sau đó, ông chỉ được phong tước Á Hầu,
đứng dưới 35 người khác. Vậy có thể suy luận rằng tiền đồ của Nguyễn
Trãi bị suy giảm, bởi vụ án Trần Nguyên Đán. Nội dung sự việc như
sau :
“Là dòng dõi tư đồ Trần Nguyên Đán, Hãn có học thức, giỏi
binh pháp, giúp Lê Thái Tổ khởi nghĩa, ngày càng được yêu thương hậu đãi,
thường được dự bàn những việc bí mật; theo đi trận mạc, đến đâu cũng lập được
chiến công đấy. Năm Mậu Thân, Thuận Thiên thứ 1 [1428], tưởng lục công thần, Hãn được gia
phong Hữu tướng quốc, cho lấy theo họ Lê. Công lao và danh vọng của Hãn thật
cao tột. Hãn có nói riêng với người thân tín rằng:
‘Nhà vua có tướng như Việt vương Câu Tiễn; không thể
cùng hưởng yên vui sung sướng được!’.
Hãn xin về hưu, được
nhà vua ưng thuận; nhưng vì là dòng dõi nhà Trần nên bị nghi kỵ. Khi đã về ấp
Sơn Đông, sống trong cảnh quê hương, Hãn xây dựng phủ đệ, đóng thuyền không giữ
gìn hình tích. Những kẻ tâng công gièm pha với nhà vua rằng Hãn mưu toan làm
phản. Nhà vua tin lời, ra lệnh cho lực sĩ đến bắt. Khi thuyền đi đến bến Sơn
Đông, Hãn tự trầm chết.” Cương Mục, Chính Biên, quyển 15, trang
20a.
Tháng 3, định lệ cấp đất
vườn tại kinh thành cho quan quân, cấm không được để hoang:
“Tháng 3, ngày 20 [23/4/1429], ra lệnh chỉ cho Đô tổng quản và Quản
lĩnh các đạo cùng quan viên các phường trong kinh thành rằng: Hiện nay, phần
đất của các quan và phủ đệ của công hầu trăm quan đều có phần nhất định, nên
trồng cây trồng hoa và các loại rau đậu, không được để đất hoang, ai không theo
thế thì mất phần đất của mình. Các công hầu đã được ban cho đất ở, nếu trong
phần đất của quân Thiết đột thì không cho quá nhiều, chỉ từ 5 sào trở xuống;
nếu không phải trong phần đất của quân Thiết đột thì cho 2 mẫu trở xuống đến 1
mẫu. Nếu đã được chia ruộng đất vườn nhà nhất định rồi, lại còn chiếm đất trong
thành Đại La làm nhà cửa khác nữa thì không được.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 66a.
Vào cuối tháng 3 [1/5/1429],
Vua Minh sai sứ bộ Lý Kỳ đến nước ta ban chỉ dụ. Sự kiện liên quan
đến việc năm ngoái ngày 25/11/1428 phái bộ Hà Lật nước ta đi sứ; đến
ngày 15/3/1429 đến triều Minh. Sứ thần Hà Lật thay Vua Lê tâu rằng đã
tìm kỹ con cháu nhà Trần, nhưng không còn sót ai; về quan quân nhà
Minh, đã đem về tất cả; riêng có con gái 9 tuổi bị Mã Kỳ đưa về kinh
đô, xin được hoàn lại. Nay Vua Minh sai sứ bộ Lý Kỳ đến nước ta ban
chỉ dụ bảo phải tìm kỹ thêm rồi tâu lên; riêng về con Vua, thì Vua
Tuyên Tông cho biết đã mất. Sự việc được ghi lại trước sau, qua 2 văn
bản dưới đây:
Ngày 11
tháng 2 năm Tuyên Đức thứ 4 [15/3/1429]. Bọn Hành
tại Công bộ hữu Thị lang La Nhữ Kính đi sứ Giao Chỉ trở về. Lê Lợi cùng Kỳ lão
sai bọn Đầu mục Hà Lật cống sản vật địa phương cùng người vàng thay người thật.
Tâu rằng:
“Khâm tuân Thánh dụ tìm hỏi con cháu họ Trần, nhưng không
còn ai sót lại.”
Lại tâu:
“Được ơn trên đòi hỏi về
việc lưu giữ quan lại quân nhân, cùng gia thuộc quân khí. Trước đây khi quan
Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông ban sư, đã đưa về tất cả. Bề tôi, Lợi, từng
treo bảng cấm ước, nếu có kẻ nào dấu một quan quân trở lên đều bị chém đầu,
những người ra trình diện đều được lục tục đưa về. Nay nhận được chiếu sắc lại
cẩn thận giới sức trong nước và sai người đi tìm tòi bốn phương, nếu còn sót
lại thì đưa về hết, không dám cô phụ Thánh Thiên tử yêu thương con dân; cúi
mong ánh sáng mặt trời soi xét sự tình kẻ dưới.”
Lại tâu:
“Vào ngày 20 tháng 8 năm
Tuyên Đức thứ 3, Thần được xem sắc xá tội cho Giao Chỉ, lệnh cấp ruộng
đất cho những thư lại trở về nước; Thần ngưỡng vọng Thiên tử từ nơi vạn dặm
thấy được mọi việc, đoái nghĩ đến những người nhớ đến quê hương đất cũ. Nhân
thần có chút tình riêng: thần trước đây bị quan quân xua đuổi, trong lúc thảng
thốt để mất con gái nhỏ mới 9 tuổi. Dò la được biết Nội quan Mã Kỳ mang về,
tiến dâng làm quan nô tỳ. Thần tội to như gò núi đã được tha, nghĩ đến gia đình
chỉ mong được đoàn tụ, xin sắc chỉ tha cho về để được vẹn tình cha con, Thần
đáng ghi khắc vào tâm cốt, cảm ơn không bao giờ quên.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 208 )
“Ngày 28
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 4 [1/5/1429]. Sai Thị
lang bộ Lễ Lý Kỳ, Hồng Lô Tự khanh Từ Vĩnh Đạt, Hành nhân Trương Thông mang sắc
dụ Đầu mục Lê Lợi cùng các kỳ lão rằng:
“Đã xem xong tờ tấu của
các ngươi; Trẫm lãnh mệnh trời coi dân vạn nước trong bốn biển như con, lo cho
yên ổn và no đủ. Nước An Nam ngươi cách kinh khuyết không xa, họ Trần là nước
đầu tiên đến qui thuận, há lại để riêng nước này không toại nguyện lòng mong
muốn. Trước đây họ Trần có cháu còn sống, bọn ngươi xin lập để làm chủ tông
miếu; Trẫm cũng vui lòng, liền ra lệnh bãi binh, mệnh các quan thú mục trấn thủ
trở về. Lại ra lệnh đầu mục kỳ lão các ngươi trình bày sự thực, vì vui thích
thuận lòng dân để mong bảo toàn một phương vậy. Chẳng bao lâu bọn ngươi tâu
cháu họ Trần bị bệnh mất, ngươi cẩn thận giữ nước để đợi mệnh của triều đình.
Trẫm cho rằng con cháu họ Trần sống còn chẳng phải một người, nên bảo hãy tìm
tòi tiếp. Nay các ngươi xưng là hậu duệ thực không còn ai nữa, xin được đổi sắc
mệnh. Phàm kiếm được một người cai quản được nước là hợp với ý của Trẫm; nhưng
kiến lập là việc hệ trọng, đáng cẩn thận và thành khẩn; bởi lẽ họ Trần trước
kia đức dày, con cháu chắc còn có người sống ẩn dật nơi cùng tịch. Trước kia
vào thời Vĩnh Lạc, đại quân vừa bắt cha con Lê Quí Ly, lập tức tìm con cháu nhà
Trần để lập, lúc đó người trong nước đều bảo không còn ai, nhưng hơn 20 năm sau
vẫn còn; suy việc trước đem so sánh với việc ngày hôm nay, không thể chắc rằng
không còn có ai nữa. Nay các kỳ lão đi tìm hỏi khắp nơi, như còn con cháu nhà
Trần thì cho biết tên, nếu thực không có, triều đình sẽ có cách xử trí.
Ngươi Lợi hãy dụ các Thổ
quan và gia đình quân dân khắp nơi xem có ai tàng trử quan lại quân nhân của
triều đình, cùng gia thuộc; thì hãy tống hoàn hết. Vũ khí vứt bỏ nơi núi
đầm thì đã hư hoại, nếu con lưu trử tại thành quách cũng mang nạp. Kẻ trên ngự
trị kẻ dưới với lòng bao dung, người dưới thờ người trên với tấm lòng thành
kính; ngõ hầu trừ nguy để yên, ngươi phải nên kính cẩn.
Riêng dụ ngươi về việc
ngươi tâu rằng có con 9 tuổi bị Mã Kỳ thu dưỡng đem về kinh sư, muốn được đoàn
tụ. Nghe việc này động lòng trắc ẩn, Trẫm là cha mẹ của thiên hạ lại nỡ để cho
một trẻ nhỏ không được gần người thân ư! Nên đã ra lệnh tìm hỏi ngay việc này.
Nhưng con gái ngươi vì không hợp thủy thổ, nên bị bênh mất đã lâu. Tình thương
yêu cha con người người giống nhau, nhưng phần số mỗi người thì đã định; bảo
riêng để ngươi biết. Nay ban cho Kỳ, Vĩnh Đạt, Thông tiền phí tổn đi đường; Sứ
giả Hà Lật được ban y phục, tiền giấy, cho đi theo cùng Kỳ.”
(Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang 210)
Tháng 4, ra lệnh các quan lấy
được vàng tại bến Đông, tùy theo thứ bực cao thấp phải đem nạp ít
nhiều; các ngụy quan được tha tội, ruộng đất được miễn sung công:
“Mùa hạ, tháng 4, ngày 27 [29/5/1429], ra lệnh chỉ cho đại thần và trăm quan
phải nộp số vàng lấy được ở bến Đông (2) cho nhà nước tùy theo thứ bậc:
chánh nhất phẩm nộp 2 lạng, tòng nhất phẩm 1 lạng rưỡi, chánh nhị phẩm 1 lạng,
tòng nhị phẩm 5 đồng cân, chánh tam phẩm đồng cân, tòng tam phẩm 2 đồng cân,
chánh tứ phẩm đến chánh ngũ đều 1 đồng cân, còn từ tòng ngũ trở xuống không phải nộp.
Ngày 30 [1/5/1429], ra lệnh chỉ rằng những nguỵ quan trước đã có lệnh cho
tha tôi chuộc mệnh, thì cho miễn cả ruộng đất không phải sung công.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 66b.
Tháng 5, phong tước hầu, cao
thấp gồm 9 cấp cho các công thần; qui định các cấp được dùng y phục
áo đỏ. Ra lệnh các nhân tài bị bỏ sót, đến văn phòng Thiếu phó Lê Văn
Linh tự tiến cử, để tùy tài sử dụng:
“Tháng 5, ngày mồng 3 [4/6/1429], ban biển ngạch công thần cho 93
viên:
Huyện thượng hầu 3
người là Lê Vấn, Lê Sát, Lê Văn Xảo.
Á thượng hầu 1 người
là Lê Ngân.
Hương thượng hầu 3
người là Lê Lý, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng,
Đình thượng hầu 14
người là Lê Chích, Lê Văn An, Lê Liệt, Lê Thố, Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê
Đính, Lê Chuyết, Lê Lỗi, Lê Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Lật.
Huyện hầu 14 người
là: Lê Bị, Lê Bì,
Lê Bĩ, Lê Náo, Lê Thụ, Lê Lôi, Lê Khả, Lê Bồi, Lê Khả Lang, Lê Xí, Lê Khuyển,
Lê Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật.
Á hầu 26 người là
bọn Lê Lạn, Lê Trãi.
Quan nội hầu 16
người là bọn Lê Thiệt, Lê Chương.
Quan phục hầu 16
người là bọn Lê Cuống, Lê Dao.
Thượng trí tự Trước
phục hầu 4 người là bọn Lê Khắc Phục, Lê Hài.
Ra lệnh chỉ rằng những văn
võ hào kiệt nào còn bị bỏ sót, hoặc bị chìm đắm chưa có chức tước gì, không
được ai tiến cử; hoặc vì thù hằn mà bị đè nén, vùi dập, thì đến ngay
chỗ Thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến, nếu xét thực có tài đức thì tâu
trình để cất nhắc sử dụng, không cứ là ngụy quan hay sĩ thứ, cốt lấy tài đức là
hơn.
Ra lệnh chỉ rằng: Các quan
chức văn võ, quan võ từ Thượng tướng tước Trí tự Trước phục hầu trở lên đều cho
mặc áo đỏ tía; quan văn từ Nhập nội đại hành khiển Quan phục hầu trở lên cũng
cho mặc áo đỏ tía.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 66b.
Ngoài ra trong tháng 5, lệnh
ban các nơi đề cử những người thông kinh sử, chuẩn bị đến kinh đô thi
hội:
“Ngày 26 [27/6/1429], ra lệnh chỉ rằng: Quân nhân các
lộ phủ và những người ẩn dật ở núi rừng, nếu ai quả thực thông kinh sử, giỏi
văn nghệ thì đến ngày 28 tháng này tới sảnh đường trình diện, chờ đến ngày cho
vào trường thi hội , người nào đỗ sẽ được tuyển dụng.
Ngày 28 [29/6/1429] ra lệnh chỉ cho các quan văn võ
trong ngoài, người nào tinh thông kinh sử, từ tứ phẩm trở xuống, hạn đến ngày
20 tháng này đều tới sảnh đường để vào trường thi hội.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 67b.
Tháng 6, mở cuộc thi các
thầy tăng, những người không đậu phải hoàn tục. Cho lập sổ dân đinh:
“ Mùa hạ, tháng 6,
ngày mồng 10 [11/7/1429], ra lệnh chỉ cho các tăng đạo, người nào
thông kinh điển, trong sạch, giữ tiết hạnh, hẹn đến ngày 20 [21/7/1429] tháng này tới sảnh đường trình
diện, để xét duyệt cho thi, ai đỗ thì cho làm tăng đạo, ai không đỗ thì bắt
hoàn tục.
Làm sổ đinh.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 68a.
Tháng 7, ra lệnh các quan họp
bàn về qui chế tiền tệ; nhà Vua gợi ý chọn giải pháp thuận lòng
dân:
“Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 5 [4/8/1429], ra lệnh cho các đại thần và các
quan văn võ trong ngoài họp bàn về quy chế đồng tiền . Tờ chiếu viết:
‘Tiền là mạch máu của sinh
dân, không thể không có. Nước ta vốn có mỏ đồng, nhưng tiền đồng cũ đã bị nhà
Hồ hủy bỏ, trăm phần chỉ còn được một. Đến nay, việc quân, việc nước thường hay
bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu thông sử dụng, để thuận lòng dân, há chẳng khó
sao? Mới rồi có người dâng thư trình bày, xin lấy tiền giấy thay cho tiền thực (3). Trẫm sớm khuya nghĩ ngợi, chưa
nghĩ ra các gì. Vì rằng tiền giấy là thứ vô dụng, lại được lưu hành như vật hữu
dụng trong dân, thực không phải là ý nghĩa yên dân, dùng của. Nhưng đời xưa đã
có người cho rằng vàng, bạc, da, lụa, tiền thực, tiền giấy đều không thể cân
ngang nhau được, thế thì thứ gì là hơn? Truyền cho các đại thần trăm quan và
những người hiểu việc đời ở trong, ở ngoài, đều nghị bàn quy chế đồng tiền cho
thuận lòng dân, để không vì ưa thích riêng của một người mà bắt ép muôn nghìn
người không muốn phải theo, để làm phép hay của một đời. Nên phải bàn định sớm
rồi tâu lên, trẫm sẽ tự chọn lấy mà cho thi hành". Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 68a.
Tháng 8, ra lệnh giải
quyết dễ dãi cho gia đình ngụy quan, cùng những gia đình liên quan đến
giặc Minh, được vào sổ hộ tịch:
“Mùa thu, tháng 8, ngày 19 [17/9/1429], ra lệnh chỉ cho quân dân cả nước
rằng: Những ngụy quan, văn từ Tri châu, võ từ Thiên hộ trở xuống, đã chết từ
trước và thổ quan cùng dân thường vào thành giặc, khi thành bị hạ thì ra
hàng, cho đến quan lại cũ nhà Hồ bị giặc bắt đưa về phương Bắc, nay có vợ con ở
các xã lộ, huyện, nếu họ chưa được vào sổ hộ tịch, thì có thể miễn tiền
chuộc mệnh. Người nào đã sung làm nô tỳ công hoặc đã ban cho các quan rồi, cùng
những kẻ có tiếng xấu thì không thuộc lệ này.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 68b.
Tháng 9, ra lệnh quần thần
cần phải chí công vô tư, chăm lo việc nước. Cùng ra lệnh chỉ khuyến
khích việc canh nông, trồng dâu nuôi tằm; chỉnh đốn quân ngũ:
“Tháng 9, ngày 16 [13/10/1429], ra lệnh chỉ cho các đại thần
trăm quan rằng:
‘Từ nay về sau, nếu viên
quan nào bàn một việc gì, đều phải lấy việc quân, việc dân làm điều cần kíp,
không được đem tình lý riêng tư làm đầu. Bởi vì, trẫm từng nghiệm thấy, trong
các việc tiến cử, hoặc xử án, hay như việc công tư khác, rất nhiều khi người ta
dung túng, che chở cho nhau, để biến hóa đổi thay, qua đó biết được người làm
quan trong sạch thì ít mà nhơ bẩn thì nhiều. Nay trẫm xét ra việc của bọn phạm
nhân Mộng Vân, Lương Châm, mới biết rõ tình trạng thực, giả của các quan, cho
nên ra mệnh lệnh này. Những kẻ làm tôi con phải hết lòng thờ vua, không được
lấy tư hại công, khi chuyện xảy ra, hối sao kịp nữa? Nay ban chiếu cho mọi
người đều biết.’
Ngày 27 [24/10/1429], ra lệnh chỉ rằng: "Đại thần
văn võ trăm quan các ngươi hãy chăm việc nông tang, chỉnh đốn quân ngũ, sửa
sang chiến khí, thuyền bè". Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 69a.
Tháng 10, xuống chiếu cho các
quan từ tam phẩm trở lên phải tiến cử người hiền tài; nếu tiến cử người
tài đức thì được trọng thưởng:
“Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1 [28/10/1429], hạ lệnh cho các đại thần văn võ,
công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên phải tiến cử hiền tài. Tờ chiếu viết:
"Trẫm nghĩ, muốn
thịnh trị phải được người hiền tài, muốn được người hiền tài phải do tiến cử.
Cho nên người đứng đầu thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên. Thời đại thịnh trị
xưa kia, người hiền ở triều rất đông đúc, người nọ nhường người kia. Cho nên ở
dưới không sót tài, ở trên không bỏ việc, làm nên thịnh trị yên vui. Đến như bề
tôi đời Hán, Đường, không ai là không tiến người hiền, nhường người giỏi, lôi
kéo dẫn dắt lẫn nhau, như Tiêu Hà tiến cử Tào Tham, Ngụy Vô Tri tiến cử Trần
Bình, Địch Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu. Dẫu
tài năng phẩm hạnh của họ có hơn kém khác nhau, nhưng không ai không cử được
người giỏi, xứng đáng với chức
trách được trao.
Nay trẫm gánh vác trách
nhiệm nặng nề, sớm khuya kính cẩn lo sợ, như đứng bờ vực thẳm, chỉ vì chưa tìm
kiếm được người hiền tài giúp đỡ trị nước. Vậy ra lệnh cho đại thần văn võ,
công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi viên tiến cử lấy một người, ở trong
triều hay ngoài thôn dã, đã làm quan hoặc chưa làm quan. Nếu người nào có tài
năng, tri thức văn võ, có thể cai trị dân chúng, thì trẫm sẽ tùy tài bổ dụng.
Vả lại, tiến cử được người hiền sẽ được thưởng mức cao nhất, lẽ xưa vẫn thế.
Nếu tiến cử được người có tài bậc trung, thì được tăng tước hai bậc. Nếu tiến
cử được người tài đức đều ưu tú, vượt hẳn mọi người, thì nhất định được trọng
thưởng.
Tuy vậy, nhân tài ở đời cố
nhiên là không ít, nên đường lối tìm người cũng không phải chỉ có một phương.
Nếu có ai ôm ấp tài lược kinh bang tế thế nhưng vẫn phải chịu khuất ở hàng quan
thấp, không có người tiến cử cho, cùng là những người hào kiệt còn bị vùi dập ở
bụi bờ, hay lẫn lộn trong quân ngũ, nếu không tự đề bạt thì trẫm làm sao
biết được? Từ nay về sau, các bậc quân tử, có ai muốn theo ta, đều cho tự tiến
cử. Ngày xưa, Mao Toại tự tỏ tài mà theo Bình Nguyên Quân (4), Nịnh Thích gõ sừng trâu mà cảm
ngộ Hoàn Công (5),
có bao giờ câu nệ tiểu tiết đâu? Khi chiếu này ban ra, các quan hãy đem hết
lòng thành, lo việc tiến cử. Còn như kẻ sĩ hàn vi ở chốn hương thôn, cũng
chớ cho thế là phải đem ngọc bán rao mà hổ thẹn, để trẫm phải thở than vì
thiếu nhân tài". Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 69b.
Ngày 28 tháng 3 năm nay
[1/5/1429 ], Vua Minh sai sứ bộ Lý Kỳ đến nước ta ban chỉ dụ; đến
ngày 13 tháng 10 [9/11/1429] đến nước ta. Ngày 29 [25/11/1429], Sứ nhà Minh
về nước; Vua sai bọn Đầu mục Đào Công Soạn mang vàng bạc và sản vật địa
phương sang nhà Minh cầu phong; đồng thời giải đáp về việc đòi trả người và khí
giới, cùng việc tìm con cháu họ Trần. Nhưng Vua Tuyên Tông vẫn chủ trương
tiếp tục gây khó khăn; nằng nặc đòi phải tìm hỏi con cháu họ Trần lần
nữa:
“Ngày 13 tháng 10 [9/11/1429], nhà Minh sai bọn Lễ bộ thị lang
Lý Kỳ, Hồng lô tự khanh Từ Vĩnh Đạt, Hành nhân ty hành nhân Trương Thông sang
dụ bảo tìm kiếm con cháu họ Trần và trả lại số người và chiến khí của nhà Minh
còn bị giữ lại. Lại cho bọn Hà Lật y phục, tiền nong, cho cùng đi với bọn Kỳ.
Ngày 29 [25/11/1429], sứ nhà Minh là bọn Lý Kỳ về nước.
Vua sai bọn đầu mục là Đào Công Soạn, Lê Đức Huy, Phạm Khắc Phục mang vàng bạc
và sản vật địa phương sang nhà Minh cầu phong, đồng thời giải đáp về việc đòi
trả người và khí giới, cùng việc tìm con cháu họ Trần.
Lời cầu phong đại ý
là: Người nước chúng tôi đã tìm khắp nơi, nhưng con cháu họ Trần đều không
thấy còn ai. Bọn thần nghĩ rằng người đại đầu mục nước chúng tôi là Lê Lợi, là
người khiêm tốn, cung kính, cẩn thận, trung hậu, biết cách trị dân, rất được
lòng người, có thể trông coi được đất nước. Vua Minh xem xong bảo các thị thần:
"Những lời này
chưa thể vội tin được, phải cho đòi nữa đã".
Rồi xuống chiếu cho
Lễ bộ ban áo vóc hoa cho bọn Công Soạn, rồi sai họ mang sắc về dụ vua và các
đầu mục, bô lão tìm hỏi con cháu họ Trần lần nữa, nếu quả thực không còn ai
thì làm biểu liên danh tâu sang để xử trí. Lại ban tiền giấy cho bọn Công
Soạn theo thứ bậc khác nhau.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10,
trang 69b.
Ngoài ra trong tháng này, Vua
ra lệnh chỉ trách các quan chức trễ biếng; nếu không sửa đổi sẽ
trừng phạt theo pháp luật:
“Ngày 18 tháng
10 [14/11/1429], ra
lệnh chỉ cho các đại thần, Tổng quản, Hành khiển trở xuống rằng:
"Người xưa có
câu: Vua không chọn tướng thì khác gì dâng nước mình cho giặc. Trẫm luôn suy
nghĩ điều đó, ngày đêm không quên, nên đem việc quân, việc nước quan trọng trao
cho các ông. Thế mà các ông cứ điềm nhiên ngồi nhìn, không để ý tới, nên phụ
lòng tin dùng của triều đình, dưới chẳng đoái thương tới quân dân, sao lại trễ
biếng chức sự quá thế? Nay ra chiếu này để răn bảo, nếu không biết sửa lỗi đổi
mới, vẫn lại như thế nữa, thì nhà nước còn luật pháp đó, chớ bảo là trẫm phụ bề
tôi cũ có công đấy!". Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 71a.
Tháng 11, nhà Vua về Tây đô Thanh Hóa, bái yết lăng miếu; nhân dịp này ban tước thưởng cho quan quân:
“Tháng 11, vua ngự về Tây Đô bái yết
sơn lăng, thưởng cho các tướng hiệu và quân nhân theo hầu, mỗi người được thăng
1 tước bậc. Nếu là Thượng trí tự và Đại trí tự thì được thăng tước 1 tư. Người
nào có con cháu được phong hầu thay mình và những người không có công lao thì
không thuộc lệ này.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 71b.
Tháng chạp, chủ trương tận
dụng ruộng đất; ruộng để hoang giao cho người nghèo cày cấy. Qui định
nơi lưu đày tội đồ; mở khoa thi cho thầy tăng, kẻ đậu được cấp giấy
chứng nhận:
“Tháng 12, ngày 19 [13/1/1430], ra lệnh chỉ cho các quan phủ,
lộ, châu, huyện, xã rằng: Xã nào có nhiều ruộng đất nhưng ít người, để bỏ hoang
thì cho phép các quan nơi đó cho những người không có ruộng ở các xã khác đến
cày cấy, người chủ ruộng xã đó không được chiếm giữ rồi bỏ hoang. Ai vi phạm sẽ
bị xử theo tội cưỡng bức chiếm đoạt.
Ngày 27 [21/1/1930], ra lệnh chỉ cho hình quan rằng:
Những người phạm tội
phải xử tội đồ lưu, thì hạng phải thích từ 30 đến 20 chữ đầy vào châu Bố Chính,
hạng phải thích từ 10 đến 6 chữ đày vào Diễn Châu, hạng phải thích 4 chữ đến đồ
làm khao đinh phải vào phường voi, tất cả đều giải đến cho quan Hành khiển ở
đạo đó nhận lấy để giao tới chỗ bị lưu hoặc đồ.
Mở khoa thi tăng
đạo để cấp giấy.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 72a.
Trước đây, lúc mới khởi
nghĩa Lê Lai lập công liều mình cứu Vua, nay truy phong chức Thái úy:
“Trước kia, nhà vua bị quân Minh bao vây bức bách, phải
long đong lao đao ở nơi hang núi. Nhà vua hội họp các tướng, bàn việc
thay đổi áo bào như chuyện Kỷ Tín ngày xưa. Riêng có Lê Lai hăng hái nói:
‘Nay bị quân địch bức bách nguy khốn như thế này, ta cứ
ngồi yên ở chỗ hiểm nghèo, e chẳng ích gì; nếu làm chước này may ra có thể hòa
hoãn tình thế được đôi chút thì, vì lòng yêu vua, người trung thần còn có tiếc
gì!’.
Nhà vua ngước lên
trời, nguyền rằng:
‘Lê Lai đổi áo bào, chịu
chết thay để lo tròn báo đáp. Mai sau nếu ta không nhớ nghĩ đến công ấy thì
nguyền nơi hành điện sẽ hóa rừng núi, quả ấn báu sẽ hóa thành cục đồng, thanh
thần kiếm sẽ hóa đao binh’.
Lê Lai liền quản
lãnh quân và voi, xông pha hướng về phía địch, bị giặc bắt và bị giết. Kịp khi trong nước đã yên, nhà vua
tặng phong Lê Lai là Thiếu úy Lũng Nhai công thần. Đến đây, lại tặng phong thêm
chức Thái úy, sai Lê Trãi (6) chép lời thề nguyền của nhà vua cất vào trong hòm
bằng vàng để tỏ ý ghi nhớ không quên.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 15.
Chú thích:
1. Ngôn quan: Chỉ các quan giữ
trách nhiệm khuyên can vua và đàn hặc các quan.
2. Năm Thuận Thiên thứ 1, mùa hạ,
tháng 4, có ghi sự kiện: "Sông Nhị nảy vàng ròng". Có lẽ ở đây nói
tới số vàng đó.
3. Tiền thực: Chỉ tiền đồng,
bạc, vàng v.v… khác với tiền giấy.
4. Mao Toại: người đời Chiến
Quốc, gia khách của Bình Nguyên Quân, ngày thường cũng như mọi người, không lộ
chút tài năng gì. Khi nước Triệu bị nước Tần đánh, Mao Toại tự tiến cử mình,
xin cùng đi với Bình Nguyên Quân sang cầu cứu nước Sở. Kết quả là nhờ có Mao
Toại thuyết phục được vua Sở, nên lời giao ước "hợp tụng" để chống
quân Tần được thực hiện.
5. Nịnh Thích: Người nước Vệ, nhà
nghèo phải đi đẩy xe thuê. Một hôm, thấy Tề Hoàn Công đi qua, Nịnh Thích gõ vào
sừng trâu mà hát, Hoàn Công cho là lạ, đưa về cho làm thượng khách, sau có
nhiều công lao, được phong tới Tướng quốc.
6. Lê Trãi: Tức Nguyễn Trãi,
lúc này được ban quốc tính họ Lê.
Năm
ngoái vào ngày 25/11/1429, nhân sứ nhà Minh là bọn Lý Kỳ về nước; Vua Lê
Thái Tổ sai bọn đầu mục là Đào Công Soạn mang vàng bạc và sản vật địa phương
sang triều cống. Đến ngày 3/4/1430 đến kinh đô nhà Minh, đưa lời tâu
của Vua, cùng các kỳ lão, một lần nữa khẳng định rằng người và khí
giới đã trả về hết; con cháu họ Trần đã tìm khắp nơi nhưng không còn
ai; xin cầu phong. Sự việc trình bày qua văn bản sau đây:
“Ngày 11
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 5 [3/4/1430]. Bọn Thị lang Lý Kỳ đi sứ Giao Chỉ trở về. Lê Lợi sai bọn Đầu mục
Đào Công Soạn triều cống khí mãnh bằng vàng, bạc; cùng sản vật địa phương. Lại
dâng lời tấu như sau:
“Đội ơn Thiên tử ban chỉ
dụ nhắc nhở về việc quan quân tại địa phương cùng gia đình dân chúng nếu có ẩn
tàng lưu giữ quan lại quân nhân, cùng gia thuộc, khí giới của triều đình thì
phải tống hoàn đầy đủ. Thần cúi đầu tâu rằng trước đây quan quân chinh thảo,
trừ số tử thương, số còn lại gồm quan quân 280 viên, quan dân sự hoặc lại 157
viên, quân dưới cờ 15.170 người, ngựa 1200 con. Thần cẩn thận cho chép tên
tuổi, cấp lương thực, chuẩn bị thuyền bè, cùng tài vật khí dụng của các quan và
những người trong nhà; tất cả đều được vận tải trở về, dù một vật nhỏ cũng
không dám xâm phạm. Số khí giới quan quân mới đưa đến, hoặc bị bỏ sót trong
rừng, hoặc tự ý đốt hủy đều không còn nữa.
Ngày mồng 8 tháng 3
năm Tuyên đức thứ 3 [15/4/1428] được
đọc chiếu thư đòi thần thông sức cho người trong nước, cùng sai người đi bốn
phương tìm hỏi, chỉ có được số người như trên đều đã được đưa trở về; còn những
người bệnh tật không thể đi được thì giao cho thầy thuốc trị liệu, cung cấp y
phục lương thực, chờ lúc thuyên giảm, hộ tống xuất cảnh, để tự về quê. Nay nhận
được chiếu sắc, chỉ dụ những điều giống như lần trước, thần lại sai
người đi khắp các nơi rừng núi, chốn hoang tịch xa xôi, hết sức tìm tòi; người
trong nước Ðầu mục thuộc các phủ châu huyện cùng Kỳ Lão đều xưng thực không còn
ai.
“Thần tự nghĩ rằng tội
thần lớn như gò núi được Thiên tử khoan hồng. Những Thổ quan người Giao Chỉ dự
khảo mãn cùng các sinh viên mong nhớ quê hương, được Hoàng thượng nghĩ đến tấm
lòng hoài hương quyến luyến đất cũ, đều mệnh cho trở về. Bọn thần tuy tan xương
nát thịt cũng không đủ để báo đáp. Nếu trong muôn một còn dám giữ lại người của
triều đình, không tuân theo chiếu mệnh, thì thần không những lừa Thiên tử, lừa
trời, mà lại còn không biết yêu người trong nước; vì muốn làm điều nghiệt
chướng để gây họa về sau, người trong một nước đều kết oán vào thần; tuy thần
là kẻ ngu, nhưng cũng không ngu quá như vậy! Kính mong ánh mặt trời sáng suốt
chiếu xuống soi thấu cho.”
Lại xin gửi tấu
chương của Đầu mục Kỳ lão, như sau:
“Vào ngày 13 tháng 10 năm
Tuyên Đức thứ 4 [9/11/1429] được
xem sắc thư tái dụ rằng nếu con cháu họ Trần còn thì tìm cho được; nếu không
còn ai thì triều đình sẽ có cách xử trí; lại bảo rằng có được người để coi một
nước thì hợp với ý nguyện của Trẫm.
“Bọn Thần cả nước không ai
là không vui mừng nhảy múa, trông lên Thánh Thiên tử có lòng đoái tưởng ban ân
lớn cho kẻ phương xa. Bọn Thần tự nghĩ rằng dân một nước và xã tắc không thể
không có người coi sóc, nhưng mấy lần khẩn cầu mà vẫn không có cơ duyên. Trước
đây bọn Thần mấy lần phụng nhận sắc chỉ tìm hỏi con cháu họ Trần, tâu lên để
được ban mệnh nối dòng bị đứt. Hoàng thượng đối với họ Trần, thương ông cha
trung cần, nghĩ đến con cháu không được nối nghiệp nên có lòng ái tuất khôn
xiết; huống bọn Thần là là bề tôi, hưởng lộc hậu của họ Trần, há lại không thể theo
thịnh ý của triều đình, đem hết sức ra tìm hỏi. Bởi vậy mọi người tìm kiếm khắp
nơi ở trong nước và nơi biên giới xa xôi; hỏi thăm từng nhà từng hộ, nhưng đều
không thấy.
“Bọn Thần nghĩ rằng Đại
Đầu mục Lê Lợi của bản quốc là người cẩn hậu; biết cách yên ủi vỗ về, được lòng
dân rất nhiều, có thể kham được việc quản trị. Trước đây đã trình tâu, kính
mong Hoàng thượng nghĩ đến sự thỉnh cầu của dân chúng chấp nhận lời xin, để Lê
Lợi được tuyên bố Thánh đức yên lòng người xa xôi; tuyên dương Hoàng thượng uy
danh làm vững phong cương, vĩnh viễn làm phiên thần, thường phụng chức cống, đó
là phúc lớn được Thánh Thiên tử đối xử tốt với người phương xa, mà cũng là đại
hạnh cho cả nước của bọn thần vậy.”
Thiên tử xem xong, nói với
đám bề tôi hầu cận rằng:
“Bọn Man Di ngụy trá, chưa có thể tin
được; cần phải tra hỏi thêm.”
Mệnh hành tại bộ Lễ ban cho bọn Công Soạn áo lụa ỷ có hoa
văn.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
216)
Tháng sau vào ngày 7/5/1430, Vua Tuyên Tuyên Tông sai Đào Công Soạn trở về nước, đưa chỉ dụ cho Vua Lê. Tuy vẫn còn đòi hỏi phải tìm kiếm thêm, nhưng chỉ dụ có ý mở đường với câu “nếu không còn ai, thì liên danh dâng biểu tâu, Trẫm sẽ có cách xử trí”:
Ngày 15 tháng 4 năm Tuyên
Đức thứ 5 [7/5/1430]. Sai bọn
Đầu mục An Nam Đào Công Soạn, mang sắc trở về nước dụ Lê Lợi rằng:
“Sử sách chép: khi Thái
Tổ Cao Hoàng đế thống nhất thiên hạ, An Nam là nước đầu tiên trước các dân tộc
bốn phương đến qui thuận; họ Trần lại ban ân trạch cho nước này đã lâu, nhân
tâm chưa quên. Trước đây ban mệnh tìm kiếm con cháu họ Trần để làm chủ nước, vì
muốn thể theo lòng dân để được yên ỗn một phương. Nay các Đầu mục, kỳ lão An
Nam đều nói, giống như đã tâu lần trước, không còn chỗ nào để tìm tòi
thêm, hậu duệ của họ Trần thực không còn ai; lại bảo ngươi, Lợi, là người cẩn
hậu biết cách cai trị rất được lòng dân, có thể quản lý mọi việc, Trẫm rất vui
lòng. Vì lòng Trẫm muốn theo ý nguyện của dân, nên hãy tập trung rộng rãi các
Đầu mục, kỳ lão tìm hỏi thêm về con cháu họ Trần, nếu không còn ai, thì liên
danh dâng biểu tâu, Trẫm sẽ có cách xử trí.
Binh khí nhắm mục đích bảo
vệ dân, dân chúng An Nam đều là con đỏ; nay để tại đó hoặc mang về đây Trẫm
cũng không hỏi thêm. Duy quan lại quân nhân của triều đình cùng gia thuộc chưa
trở về; họ đều có cha mẹ, vợ, con, trông ngóng, khiến ân ái cách tuyệt lòng sao
nỡ! Vì ý riêng, khiến cho kẻ có cha mẹ không người bảo dưỡng, con trở nên mồ
côi, vợ thành quả phụ; nhân giả quyết không làm. Trời đất quỉ thần ở trên chứng
giám; kẻ bất nhân sẽ không được phù hộ; vậy làm rạng đạo nhân hãy đưa trở về,
ngõ hầu nhận phước. Nay ban cho bọn Công Soạn tiền giấy có sai biệt.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 219)
Bình Ngô
Đại Cáo ca tụng chiến thắng Lê Hoa, với lời văn đầy hứng
khởi:
Binh Vân Nam nghẽn ở Lê
Hoa, sợ mà mất mật;
Dịch giả Toàn Thư chú
thích (1) ải Lê Hoa là một địa điểm ở ven sông Lô, chảy qua vùng biên
giới tỉnh Hà Tuyên và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bấy giờ.
Văn bản Minh Thực Lục dưới
đây phủ nhận vị trí Lê Hoa tại ven sông Lô; và cho biết ải này thuộc
phủ Lâm An, thượng nguồn sông Hồng, giáp với tỉnh Lào Cai nước ta:
“Ngày 26
tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 5 [16/6/1430]. Thăng cấp
trại sách chợ cũ Lê Hoa thành Trung Hữu Thiên hộ sở thuộc vệ Lâm An. Trước đó
Kiềm quốc công Mộc Thạnh cho rằng Lâm An đất giáp Giao Chỉ, bấy giờ có nhiều
trộm cướp, xin tuyển dân 1000, tuyển bách phu trưởng 10 người chia ra trông
coi, tại chợ cũ Lê Hoa lập đồn cùng với quan quân tại Lâm An hiệp đồng thủ bị,
đến nay đã 10 năm. Bọn Bách phu trưởng xin khăn, dây đai, ấn, tuyển một Thiên
phu trưởng thống lãnh. Thạnh đều tâu lên, được Thiên tử chấp thuận” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 219)
Tháng 6, năm Thuận Thiên thứ 3
[6/1430],, qui
định các ngạch thuế; ra lệnh đổi Đông Đô thành Đông Kinh, Tây Đô thành
Tây Kinh:
“Mùa hạ, tháng 6, ngày mồng 10 [30/6/1430], quy định các ngạch thuế.
Lại ban luật lệ. Đổi Đông
Đô thành Đông Kinh, Tây Đô thành Tây Kinh.” Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 72b.
Tháng 11, Vua mang quân đi đánh
thổ tù Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái, dẹp xong, tháng 3 năm sau trở
về:
“Mùa đông, tháng 11 [12/1930], vua đi đánh bọn nghịch tặc ở châu Thạch Lâm [huyện Thạch An, Cao Bằng] (2), trấn Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái. Bấy giờ, Khắc Thiệu và Đắc Thái tranh nhau tự lập, nên phải đi đánh. Vua đến châu Thạch Lâm, có đề thơ trước cửa động rằng:
Bất từ vạn lý chỉnh sư đồ,
Duy lục biên manh xích tử tô.
Thiên địa bất dung gian đảng tại,
Cổ kim thùy xá bạn thần chu.
(Chẳng từ muôn dặm cất quân đi,
Mong cứu dân đen cõi biên thùy.
Trời đất không dung phường gian ác,
Xưa nay tội phản phải tru di).
Tháng 2 năm Thuận
Thiên thứ 4 [3/1931], vua
bắt được Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái đem về. Tháng 3 [4/1931]về đến Kinh sư.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 72b.
Ngoài ra trong tháng 11, có
việc tuyển quân tại dinh Bồ Đề tại Gia Lâm; và cho làm sổ hộ tịch:
“Tuyển chọn quân bộ ở Bồ Đề. Người nào tình nguyện trước
được thưởng 1 tư [1 cấp].
Làm sổ hộ tịch.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 72b.
Ngày mồng 1 tháng giêng năm
Thuận Thiên thứ 4 [12/2/1931], sứ bộ Lê Nhữ Lãm, Hà Lật, sang nhà
Minh cầu phong:
“Tân Hợi, Thuận Thiên năm thứ 4, (Minh Tuyên Đức năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, vua sai bọn chánh sứ Lê Nhữ Lãm, phó sứ Lại bộ thượng thư Hà Lật và Lê Bính sang nhà Minh cầu phong, đồng thời trần tình và giải đáp về việc có dụ đòi trả chiến khí và tìm con cháu họ Trần.
Lời biểu đại ý là: "Đã huy động rất nhiều người trong nước, tìm kiếm con cháu họ Trần ở khắp nơi, đích thực không còn một ai. Trộm nghĩ đất nước chúng tôi không thể không có người trông coi, nhưng vẫn chưa được lệnh của triều đình, vì thế cứ phải tỏ bày mãi mãi". Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 72b.
Ngày 3 tháng 5 [12/6/1431], sứ
bộ Lê Nhữ Lãm, Hà Lật, đến kinh đô nhà Minh, nhân danh Vua
Lê Lợi và các kỳ lão, dâng biểu văn dài. Tâu rằng người và vũ khí
đã đem về nước hết; về việc con cháu nhà Trần đã cho tìm hỏi khắp
nơi nhưng không còn ai, khẩn khoản xin cầu phong; cuối cùng Vua Tuyên
Tông chấp thuận:
“Ngày 3
tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 6; Lê Lợi nước An Nam sai bọn
Đầu mục Hà Lật tạ tội, cống sản phẩm địa phương cùng dâng lời trần tình như sau:
“Vào tháng tám năm Tuyên
Đức thứ 5 [1430 ] người
của thần sai đi là Đầu mục Đào Công Soạn từ kinh đô trở về, mang một đạo
sắc dụ thần rằng:
- Binh khí dùng để
bảo vệ dân, dân An Nam đều là con đỏ của Trẫm; nay để tại đó hoặc mang về đây
cũng được cũng không cần hỏi thêm.
Bọn thần và dân cả
nước không ai là không hoan hỷ đội ơn. Riêng dụ về “quan lại quân nhân gia
thuộc, cùng việc họ Trần”; thần tự biết mang tội nặng nề, không có chỗ để
tránh. Thần chỉ biết dựa vào lượng trời đất che chở không chỗ nào là không bao
dung, ánh sáng mặt trời mặt trăng không nơi nào mà không chiếu tới; nhưng thần
trước sau bị thánh Thiên tử ra chỉ dụ, lại mấy lần cho người đến trần tấu nhưng
chưa được chấp nhận; thần lấy làm đau khổ trong lòng, không dừng được phải kêu
gào trời đất, cha mẹ và lại xin cầu khẩn Bệ hạ xét cho:
Năm Tuyên Đức thứ
2 [1427] đã
lập danh sách quan quân còn lại dâng triều đình, riêng quan quân trấn thủ tại
các vệ, cùng quân dân quan lại tại các phủ đều được quan Tổng binh Thành sơn
hầu Vương Thông cùng Nội quan Sơn Thọ dẫn về. Sau đó nhận được sắc dụ đòi thêm,
thần đã ra lệnh trong nước rằng còn có ai như tình trạng trên đều phải tống
xuất; những người bệnh tật thì cho Y sĩ điều trị thuyên giảm rồi đưa đến biên
giới Quảng Tây để tự trở về. Đầu mục kỳ lão các nơi đều xưng không thấy ai còn
lưu lại, nay nhận được lời dụ của Thiên tử về việc trước đây, thần rất sợ hãi
không được an lòng; phải chăng lòng thành phận nhỏ sâu kiến không đạt được lên
trên, hoặc như vật mọn nằm dưới chậu lật úp nên ánh mặt trời không dọi
tới. Vả lại thân thuộc của thần cùng người trong nước bị quan quân bắt, ngày
ban sư đều bị mang về, thần và người trong nước chỉ biết nhìn mà nhỏ nước mắt,
tuy rằng cha con anh em cũng không dám nhìn; huống đâu dám giữ người của Trung
Quốc, trái với mệnh triều đình để mang lấy tội! Hoặc là ngày đưa quân nhân gia
thuộc trở về, có nhiều chướng lệ ba đào nơi núi biển xẩy ra, nhiễm thành tật
bệnh rồi mất, người ở nhà không biết lý do xẩy ra, nhân đó kêu ca đến Thánh
Thiên tử, khiến người thương hại ban lời dụ về cảnh con không cha, vợ không
chồng. Thần tuy là kẻ ngu dốt, há lại không có tấm lòng trắc ẩn, để đáp ứng tấm
lòng nhân của đấng Thiên tử. Khốn nỗi số người nêu ra, thực không còn, nên
không thể nào đáp ứng chiếu mệnh, khiến thần chỉ biết quì xuống đất gục đầu vái
trời, tăng phần lo sợ mà thôi!
Về việc con cháu họ Trần,
lúc Lê Quí Ly soán đọat, bắt giết đến hết, còn lại những người tầm thường như
Giản Định, Quí Khoách; dưới thời Vĩnh Lạc [1403-1424] tiếp tục gây hao tổn, bị đại
quân tiễu trừ đến không còn ai. Nay phụng theo sắc dụ của Thánh thiên tử bọn
thần lại tập trung nhiều người trong nước làm tiếp một cuộc tìm hỏi, nhưng cũng
không thấy thêm. Cúi xin Thánh minh nhân từ rũ lòng thương xót tha cho thần tội
như gò đống, ban ơn mưa móc thì chẳng riêng gì thần được may mắn, mà sinh linh
trong nước cũng gặp may vậy.
Bọn Hà Lật cũng dâng lời tâu của bọn Đầu mục và kỳ lão
tấu xin cầu phong, như sau:
‘Phụng sắc thư chuẩn
lời tâu của bọn thần rằng Lê Lợi là kẻ cẩn thận, cai trị có phương cách, rất
được lòng dân chúng, có thể cai quản gánh vác được. Thiên tử tuyên bố: “Trẫm
cũng vui vẻ về điều này.’
Lại bảo:
‘ Tập trung nhiều người
trong nước hỏi tìm về con cháu họ Trần, nếu như tìm không được thì liên danh
lại tâu lên, Trẫm sẽ có cách xử trí.’
Bọn thần dân cả nước không
ai là không hân hoan hăng hái tuân theo Thánh chỉ tập trung nhiều người dò tìm
khắp nơi nhưng thực không còn! Bọn thần kính nghĩ địa phương bản quốc không thể
không có người cai quản, Lê Lợi chưa nhận được triều mệnh, việc này bọn thần
chỉ biết khẩn khoản dâng lời, chớ không có cách nào khác. Cúi mong Hoàng thượng
cúi xuống thương xót lòng mong muốn của con dân chấp nhận lời thỉnh cầu ban ơn
mưa móc để Lê Lợi được trông coi đất Nam hoang, phụng cống cửa khuyết, trên thì
hoằng dương Thánh Thiên tử đối xử chung một lòng nhân; dưới có thể làm sống lại
sinh linh một phương.’
Thiên tử chấp thuận.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 221)
Toàn Thư chép
vào ngày 5 tháng giêng [16/2/1431] Vua Tuyên Tông cử phái bộ Chương
Xưởng sang nước ta sách phong. Xét về thời gian thấy không hợp lý;
bởi ngày mồng 1 tháng giêng năm Thuận Thiên thứ 4 [12/2/1931],sứ bộ Lê
Nhữ Lãm, Hà Lật, sang nhà Minh cầu phong; đến ngày 3 tháng 5
[12/6/1431], sứ bộ này đến kinh đô dâng biểu văn. Sau khi xem biểu văn
Vua Tuyên Tông mới sai phải bộ Chương Xưởng sang phong; vậy thời gian
bọn Chương Xưởng khởi hành, phải xãy ra sau ngày 3 tháng 5.
Nhưng Toàn Thư lại
chép vào ngày 5 tháng giêng, như sau:
“Vua Minh bằng lòng. Ngày mồng 5 [6/2/1431], sai bọn chánh sứ là Hữu thị lang
Chương Xưởng và Thông chính ty hữu thông chính Từ Kỳ mang ấn sắc sang phong vua
làm Quyền thự An Nam Quốc Sự . Ban tiền giấy cho bọn Hà Lật và cho đi theo bọn
Xưởng về nước.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 73a.
Riêng sử Trung Quốc chép sứ
bộ Chương Xưởng khởi hành vào ngày 7 tháng 6 [15/7/1431] là điều hợp
lý; nguyên văn chiếu thư bọn Chương Xưởng chuyển giao Vua Lê Thái Tổ như
sau:
“Ngày 7
tháng 6 năm Tuyên Đức thứ 6 [15/7/1431]. Sai Hữu
Thị lang bộ Lễ Chương Xưởng, Hữu Thông chính Từ Kỳ mang chiếu chỉ mệnh Đầu mục
nước An Nam Lê Lợi quyền trông coi công việc nước An Nam. Chiếu rằng:
“Trẫm cung kính giữ ngôi
lớn, thống ngự thiên hạ; thể theo lòng trời để thương dân, thuận theo lòng
người mà trị nước; hải nội, hải ngoại đều cư xử chung một lòng nhân. An Nam các
ngươi cương vực sát liền Trung Quốc; khi tổ tiên ta mới chịu mệnh trời, nước
ngươi đầu tiên đến qui phụ. Vốn chăm lo săn sóc cho dân, nhưng rồi bị bọn bề
tôi Lê Quý Ly soán ngôi giết chúa, làm độc hại một cõi.Thái Tông Hoàng đế bèn
mang quân điếu phạt, muốn khôi phục họ Trần nhưng tìm con cháu khắp nơi không
gặp, bèn thuận theo ý đám đông lập quận huyện đặt quan cai trị. Vào tháng mười
năm Tuyên Đức thứ hai có Trần Cảo tự xưng là cháu nội của Vương An Nam xưa từ
Lão Qua trở về, cùng Đầu mục Lê Lợi xin lập Cảo kế tục tước vị nhà Trần, lời lẽ
thành khẩn.
Trẫm ngưỡng lên trên noi
theo chí của tiên đế, ngó phía dưới thương xót dân tình, bèn xuống chiếu rút
các quan lại cai trị cùng quân lính trấn thủ trở về; xem lại sự kiến lập, mọi
việc phải hợp với lòng dân trong nước, nên truyền chiếu để hỏi ý kiến dân
chúng. Sứ giả chưa quay gót, thì Lê Lợi tâu Cảo đã mất; đây là ý trời ư, hay
chỉ do mưu người! Từ đó suốt năm này qua năm khác, các đầu mục và kỳ lão tại An
Nam đều tâu con cháu nhà Trần không còn nữa, xin cho Lê Lợi quản nhiếp việc
nước; mọi người đều tâu với lòng thành, biểu chương trình lên không ngớt; quả
có được người xứng để cai trị, trong lòng Trẫm cũng vui mừng. Nay chấp nhận lời
xin, đặc cách sai sứ đưa ấn chương, mệnh Lợi quyền trông coi quốc sự nước An
Nam để trị dân. Hãy thể theo lòng dân, hoằng dương đức nhân của trời đất, thờ
nước lớn với lòng thành để giữ phước cho sinh linh, nay ban chiếu thư này để
mọi người đều được nghe và hiểu rõ.
Riêng sắc dụ Lợi rằng:
‘Nay mệnh ngươi
quyền trông coi quốc sự nước An Nam, hãy tuân Trẫm mệnh, không kiêu mạn, chỉ có
lòng thành mới cảm cách được với trời, duy kính cẩn để thờ nước lớn, duy lòng
nhân có thể vổ về dân, duy tín nghĩa có thể giữ nước. Hãy đem hết tâm lực ra
để đón nhận phước lành. Khâm tai!’
Ban cho bọn Hà Lật
tiền, vải để theo Sưởng về nước. Lại ban cho Sưởng tiền làm phí tổn đi đường.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 221)
Ngày 1 tháng 11 sứ bộ Chương
Xưởng đến nước ta mang sắc phong Vua Lê Thái Tổ; ngày 20 tháng 11 sứ
bộ trở về nước. Vua cho bọn sứ thần Nguyễn Văn Huyến tháp tùng, sang
nhà Minh tạ ơn nạp 5 vạn lạng vàng tiến cống. Sau đó xin theo lệ
thời Minh Thái Tông, 3 năm cống một lần; đồ cống gồm các đồ dùng
bằng vàng, bạc; sừng tê, ngà voi, lục bạch, hương xông, giáng hương,
trầm hương, tốc hương, mộc hương, hương vòng đen và quạt giấy:
“Mùa đông, tháng 11, ngày mồng 1 [5/12/1431], sứ Minh là Chương Xưởng và Tử Kỳ tới
kinh, mang ấn phong vua làm Quyền thự An Nam Quốc Sự.
Ngày 20 [24/12/1431], bọn Xưởng, Kỳ về nước. Vua sai Thẩm
hình viện phó sứ Nguyễn Văn Huyến và Ngự sử trung thừa Nguyễn Tông Chí đi theo
bọn Xưởng sang nhà Minh tạ ơn và nộp 5 vạn lạng vàng tuế cống, xin
theo lệ cống 3 năm 1 lần đời Hồng Vũ (3). Từ đó về sau tiến cống thường
xuyên không dứt. Vua Minh ban tiền giấy cho bọn Văn Huyến và cho trở về.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 73b.
Sứ bộ Nguyễn Văn Huyến nước
ta, theo bọn Chương Xưởng, làm cuộc hành trình gần 3 tháng trời, mới
đến kinh đô nhà Minh dâng biểu, nạp cống:
“Ngày 7
tháng 2 năm Tuyên Đức thứ 7 [ 8/3/1432]. Bọn Thị
lang bộ Lễ Chương Xưởng đi sứ An Nam trở về. Quyền trông coi quốc sự An Nam Lê
Lợi bèn sai Sứ giả là bọn Nguyễn Văn Huyến theo Xưởng dâng biểu tạ ơn và cống
vàng, bạc, khí mảnh cùng sản vật địa phương (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 226)
Tháng chạp, sai soạn Lam Sơn Thực Lục,
đích thân Vua làm bài tựa ghi là Lam Sơn động chủ:
“Tháng 12, ngày mồng 6 [9/1/1432], vua sai làm sách Lam Sơn thực lục, vua tự làm bài tựa, ký là Lam Sơn
động chủ.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 73b.
Cũng trong tháng chạp
[1/1432], thổ tù Đèo Cát Hãn tại châu Ninh Viễn làm phản; Vua sai con
là Quốc vương Tư Tề đi đánh:
“Đèo Cát Hãn, thổ tù châu Ninh Viễn [Sơn
La, Lai Châu], làm
phản. Nhà vua sai Quốc vương Tư Tề và Tư khấu (4) Lê Sát đi đánh. Liên kết với Kha
Lại, bầy tôi phản nghịch của Ai Lao; Đèo Cát Hãn lấn lướt khuấy nhiễu nhân dân
ở nơi biên giới. Việc này lên đến triều đình, nhà vua sai tướng đi đánh; kế đó
lại định chính mình cầm quân đi dẹp.”Cương Mục, Chính
Biên, quyển 15.
Vào tháng giêng năm sau,
tức năm Thuận Thiên thứ 5, Vua mang đại quân tăng cường, đánh thắng bọn
Đèo Cát Hãn, đổi châu Ninh Viễn thành châu Phục Lễ:
“Tháng giêng [2/1432], mùa xuân. Nhà vua chính mình cầm
quân đi đánh châu Ninh Viễn, thắng trận: Kha Lại chạy rồi chết, Đèo Cát Hãn lẩn
trốn. Nhà vua đặt đất Ninh Viễn là châu Phục Lễ.
Tháng 3 [4/1432], trở về cung, dâng tù binh ở nhà
Thái miếu. Quan quân chia hai đường thủy bộ cùng tiến, thẳng tới châu Ninh
Viễn: cả phá được địch. Kha Lại phải chạy về Lự Động thuộc Ai Lao. Nhà vua ra
lệnh cho Lê Sát tiến quân đến đầu địa giới Ai Lao. Người Lào sợ, bèn giết Kha
Lại, rồi đến xin hàng tại cửa trại quân ta. Cát Hãn trốn xa. Nhà vua sai bắt
hết làm tù binh các bè đảng của hắn. Đặt đất Ninh Viễn làm châu Phục Lễ; rồi hạ
chiếu rút quân về, dâng tù binh ở nhà Thái miếu.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 15.
Đèo Cát Hãn vốn theo nhà
Minh từ lâu; trước kia từng tố cáo với Minh Thái Tông, bị cha con Hồ
Quý Ly ức hiếp. Nên trong ngày khởi đầu xâm lăng An Nam [19/11/1406];
Trương Phụ truyền hịch 20 điều kể tội nhà Hồ, trong đó có 2 điều
hài tội ức hiếp Đèo Cát Hãn:
“9. Châu Ninh Viễn đời đời
triều cống Trung Quốc. Giặc họ Lê cậy mạnh chiếm 7 trại; rồi cai trị dân chúng,
giết cả nam lẫn nữ; tội thứ chín.
10. Giết rể của Thổ quan
Đèo Cát Hãn là Đèo Mãnh Mạn; bắt con gái y để dễ bề sai khiến, đòi nạp tiền,
phục dịch trăm thứ; tội thứ mười.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 1, trang 235)
Lúc này bị Vua Lê mang quân
đánh, Đèo Cát Hãn vội cầu cứu nhà Minh, nhưng Minh Tuyên Tông từng bị
sa lầy tại nước Đại Việt, mới rút được chân ra; không dám mạo hiểm
thêm một lần nữa:
“Ngày 22
tháng 2 năm Tuyên đức thứ 7 [23/3/1432]. Đô ty Vân
Nam tâu rằng:
‘Thổ quan châu Ninh Viễn
Tri châu Đèo Cát Hãn mới đây bị giặc Giao Chỉ đánh, xin viện binh. Tam ty bàn
định điều quan quân 6000 người, do Đô đốc Mộc Ngang đốc suất, đến giúp.’
Thiên tử sai người mang
sắc dụ Ngang rằng:
‘Bọn Man Di ngụy
trá, chưa thể khinh suất tin được. Trước đây nam chinh từng điều quân Ninh Viễn
7000, nhưng quân Ninh Viễn nhưng không chịu đến, bọn chúng ngầm trợ giúp Lê Lợi
phản nghịch. Nay theo lời chúng xin, chắc có sự thù giết, cũng không biết được.
Làm sao lại khinh động quan quân, vì bọn man di lao dịch nơi xa xôi. Phải quan
sát sự thực mới nên tiến hay dừng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 227)
Đèo Cát Hãn, ở thế cùng;
hai cha con bèn xin hàng:
“Tháng 11 [12/1432], mùa đông. Đèo Cát Hãn và con là
Mạnh Vượng xin hàng. Nhà vua tha tội cho Cát Hãn và phong làm Tư mã.” Cương Mục, Chính
Biên, quyển 15.
Vào tháng giêng năm Thuận
Thiên thứ 6, tuyển chọn con trai các quan và sĩ tử thuộc các lộ Quốc
Oai, Bắc Giang cho vào học Quốc tử giám:
“Năm Thuận Thiên thứ 6 mùa
xuân, tháng giêng [2/1433], tuyển chọn con trai các quan và học trò ba lộ Quốc Oai [Sơn
Tây], hai lộ Bắc Giang sung
vào Quốc tử giám.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 74a.
Tháng 4, Vua sai sứ bộ Trần
Thuấn Du sang nhà Minh tiến cống và giải thích việc cống vàng theo
lệ thời Hồng Vũ [1368-1388]:
“Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8 [18/8/1433], sai bồi thần là Trần Thuấn Du,
Nguyễn Khả Chi, Bùi Cầm Hổ sang nhà Minh tiến cống: Vua Minh 3 phần, hoàng thái
hậu và hoàng thái tử đều 1 phần, đồng thời giải thích việc cống vàng hàng năm.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 74a.
Tháng 8, đến Yên kinh, Trần
Thuấn Du dâng biểu; cống vàng bạc, sản vật địa phương:
“Ngày 11
tháng 8 năm Tuyên Đức 8 [25/8/1433]. Quyền
trông coi quốc sự nước An Nam, Lê Lợi, sai Sứ giả Trần Thuấn Du dâng biểu; cống
vàng, bạc, khí mãnh cùng sản phẩm địa phương. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 232)
Đến tháng 8 nhuần, sứ bộ
Trần Thuấn Du khởi hành trở về nước; Vua Tuyên Tông sai bọn Thị lang
bộ binh Từ Kỳ cùng đi, mang sắc dụ Vua Lê:
“Ngày 20 tháng 8
nhuần năm Tuyên Đức thứ 8 [3/10/1433]. Ban cho
bọn Sứ giả An Nam Trần Thuấn Du y phục bằng lụa ỷ, cùng tiền giấy, rồi sai
trở về. Mệnh Thị lang bộ Binh Từ Kỳ, Hành nhân Quách Tế cùng đi với Thuấn Du
mang sắc dụ Lê Lợi trên phải thuận lòng trời, dưới tạo phúc cho dân, để kết quả
được tốt đẹp.” (Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 2, trang
232)
Vào tháng chạp, bọn Chánh
sứ Từ Kỳ đến nước ta lại đòi cống thêm vàng. Đòi hỏi này trái với
ý nguyện Vua yêu cầu theo lệ cống thời Minh Thái Tông Hồng Vũ
[1368-1388], nên có sự tranh luận:
“Ngày 19 [29/1/1434], nhà Minh sai chánh sứ là Binh bộ thị
lang Từ Kỳ, phó sứ là Hành nhân ty hành nhân Quách Tế sang đòi số vàng cống
hàng năm. Trước đó, nhà Minh mấy lần sai sứ sang đòi nhiều số vàng cống
hàng năm. Cao Hoàng Đế xin theo như lệ cống ba năm một lần đời Hồng Vũ. Vua
Minh khăng khăng không chịu. Đến đây lại sai bọn Kỳ, Tế sang.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 76a.
Về nội bộ triều đình, vào
tháng 8, nhà Vua giáng con trưởng Tư Tề, cho con thứ Nguyên Long kế
thừa; Vua trở về thăm Lam Kinh, Thanh Hóa:
“Mùa thu, tháng 8, giáng con trưởng Tư Tề làm Quận vương,
lấy con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống.
Vua về Lam Kinh.” Toàn Thư, Bản
Kỷ, quyển 10, trang 74a.
Tháng 8 nhuần, Vua mất. Nhân
ôn lại sự nghiệp buổi khởi đầu quân yếu tướng ít; nhưng kinh dinh bốn
phương, đánh đâu thắng đấy. Quần thần thì cho rằng Vua lấy nhân nghĩa
thay bạo tàn, đổi loạn thành trị. Riêng nhà Vua thì khiêm tốn, cho
bởi giặc tàn ác quá quắt, dân không sống nỗi, nên việc dấy nghĩa,
chỉ là điều bất đắc dĩ mà thôi:
“Tháng 8 nhuận, sao Chổi mọc ở phương tây.
Ngày 22 [5/10/1433], vua
băng ở chính tẩm.
Buổi đầu vua kinh
dinh bốn phương, phía Bắc đánh giặc Minh, phía tây đuổi Ai Lao, tránh chỗ thực,
đánh chỗ hư, đến đâu được đấy, chỉ có võ thần là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát,
Lê Vấn, Lê Ngân, Lê Lý 30 người; văn thần là bọn Lê Linh, Lê Quốc Hưng;
quân cha con thì có 200 quân Thiết đột, 200 nghĩa sĩ, 300 dũng sĩ, 4 thớt voi;
còn quân khinh dũng và quân già yếu hộ vệ chỉ có 1 nghìn người mà thôi .
Vua có lần sau muôn việc
được thư thả, cùng bầy tôi bàn về lẽ còn mất, được thua xưa nay, nhân bàn
đến việc giặc Minh sở dĩ thua, ta sở dĩ được, là vì sao, các bề tôi đều nói:
"Vì giặc Minh hình phạt bừa bãi, chính lệnh bạo ngược, mất lòng dân đã
lâu, còn vua thì trái lại, lấy nhân nghĩa thay bạo tàn, đổi họa loạn
thành yên trị, nên mới thành công chóng thế". Vua nói:
‘Lời các khanh nói cố nhiên
là như vậy, nhưng cũng chưa hết. Trẫm xưa kia gặp buổi loạn lạc, nương mình ở
Lam Sơn, vốn chỉ mong giữ được mạng mình thôi, chứ không có ý muốn lấy thiên
hạ. Đến khi giặc tàn ngược quá quắt, dân không sống nổi, những ai có tri thức
đều bị chúng giết hại, trẫm tuy đem hết của cải để thờ phụng chúng, mong khỏi
tai họa, nhưng tim đen chúng muốn hại trẫm vẫn không bớt chút nào. Việc dấy
nghĩa binh thực là bắt đắt dĩ thôi". Toàn Thư, Bản Kỷ,
quyển 10, trang 74b.
Tin nhà Vua mất truyền sang
Trung Quốc, viên Đô đốc Quảng Tây tâu về triều rằng Vua An Nam mất, vì
bỏ con trưởng lập thứ nên nội bộ chia rẽ; có một số thổ quan tại
vùng biên giới xin sang Thái Bình, Long Châu tỵ nạn. Vua Tuyên Tông ra
lệnh phòng bị biên giới, trợ cấp cho người tỵ nạn:
“Ngày 9
tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 9 [17/4/1434].Quan Tổng binh Quảng Tây Đô đốc Thiêm sự Sơn Vân tâu:
‘Lê Lợi tại Giao Chỉ
chết, con đầu ngông cuồng, con thứ còn thơ ấu; bọn gian thần Lê Vấn, Lê Sát
chuyên quyền lập đảng giết lẫn nhau, dân chúng sợ hãi. Thổ quan huyện
Thoát [huyện Văn Lãng, Lạng Sơn] là
Nguyễn Thế Ninh, Thổ quan châu Thất Nguyên [huyện Tràng
Định, Lạng Sơn] là
Nguyễn Công Đình, mỗi người mang gia thuộc cùng bộ hạ hơn 300 người đến tỵ nạn,
xin cư trú tại phủ Thái Bình (5) , cùng Thượng Hạ Đống Châu thuộc phủ Long
Châu (6), Quảng
Tây.’
Thiên tử dụ Vân rằng:
“Lê Lợi xuất thân từ đám
thấp hèn, nhân Trần Cảo được dân ngưỡng mộ, bèn dâng biểu xin lập. Trẫm muốn
dân yên, bèn ra lệnh bãi binh, nên ra lệnh xét để lập. Nhưng y lại tâu Cảo
chết, Cảo chết thì Lợi có thể được nắm quyền. Lúc bấy giờ triều đình muốn thêm
binh trách phạt, nhưng không nỡ làm độc hại sinh linh, nên thể theo đức hiếu
sinh của trời, ban ân rộng rãi, cho y quyền coi quốc sự. Con người làm việc bất
nghĩa như vậy đáng bị trời phạt!
“ Ngươi nên răn bảo lính
biên phòng, nghiêm cẩn phòng thủ, không được lơ là. Bọn Nguyễn Thế Ninh đến tỵ
nan, nên chú ý trợ cấp và chấp nhận cư trú; sắp đặt việc ăn uống cần dùng để
được yên chổ; đừng để người xa đến phải thất vọng.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 2, trang 233)
Ngày mồng 8 tháng 9, Thái tử
Nguyên Long lên ngôi, tức Vua Lê Thái
Tông:
“Mùa thu, tháng 9, ngày mồng 8 [20/10/1433], thái tử Nguyên Long lên ngôi Hoàng đế.
Đại xá, đổi niên hiệu, lấy năm sau làm năm Thiệu Bình thứ 1. Bấy giờ vua mới 11
tuổi.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 76a.
Tháng 11, Nguyễn Trãi vâng
lệnh soạn văn bia, gọi là Bia
Vĩnh Lăng. Quần thần rước Vua về an táng tại Vĩnh Lăng,
Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ:
“Mùa đông, tháng 11 [12/1433], Nguyễn Trãi vâng lệnh soạn văn bia,
Hàn lâm viện đãi chế Vũ Văn Phỉ vâng lệnh viết chữ.
Ngày 22 [2/1/1434], rước vua về táng ở Vĩnh Lăng tại
Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ, dâng tôn hiệu là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức
Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao
Hoàng Đế.” Toàn
Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 76a.
Tháng chạp, sai các bồi thần
sang nhà Minh báo tang; dựng điện Lam Sơn thờ Vua:
“Tháng 12, ngày mồng 2 [12/1/1434], sai bọn bồi thần Lê Vỹ, Trình
Chân sang nhà Minh báo tang.
Các quan theo hầu về Tây Kinh, dựng điện Lam Sơn (7).” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 10, trang 76a.
Chú thích:
1. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, NXB Khoa
Học Xã Hội: Hà Nội, 1998, tập 2, trang 268.
2. Châu Thạch Lâm thời Lê tương
đương với huyện Thạch An, Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng ngày nay.
3. Theo Cương Mục, Chính
Biên, quyển 15, trang 29a; dẫn từ Hội Điển nhà Minh.
4. Tư khấu: Chức quan trông coi
về việc đánh bắt giặc.
5. Phủ Thái bình đời Minh vị trí
tại sông Tả Giang, gần biên giới Việt Nam; Bằng Tường, Long Châu nằm trong phủ
này.
6. Long Châu: Vị trí gần biên giới
Việt Nam, nay thuộc huyện Long Châu, Sùng Tả thị, tỉnh Quảng Tây.
7. Điện Lam Sơn: Cương mục, Chính Biên, quyển 15, trang 33a; dẫn Hoàng Việt dư địa chí, nói rằng điện này ở xã Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét